HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Friday 15 June 2012

60* MƯỜNG GIANG * BÁN PHAN BỘI CHÂU


 MƯỜNG GIANG *TỐ CÁO

HỒ CHÍ MINH : CON NGƯỜI TRĂM MẶT

Telegram from Hồ Chí Minh to U.S. President Ha...
Image via Wikipedia

                HỒ CHÍ MINH : CON NGƯỜI TRĂM MẶT
                                                     MƯỜNG GIANG

            Trong bốn người liên quan tới việc xuất dương, chỉ có Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh ra đi năm 1911, là tự nhận mình tìm đường cứu nước. Trước đó, qua bộ máy tuyên truyền của đảng và chính Hồ viết sách để ca tụng và huyền thoại cuộc đời mình, làm cho nhiều người nhẹ dạ không muốn tin cũng phải gật đầu chấp nhận, vì biết đâu mà mò. Nhưng vào tháng 2-1983, hai sử gia VN, tiến sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đã công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng, tìm thấy tại văn khố Pháp duy nhất nói tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tất Thành.

Ðó là hai lá thư xin nhập học Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale) viết ngày 15-9-1911 và một lá viết tại New York ngày 15-12-1912 gởi Khâm sứ Trung Kỳ. Ðiều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên từng viết sách ca tụng.
Ngoài ra những bí mật đã được bật mí, theo đó mới biết được gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như sống bằng nghề tình báo KGB, phục vụ cho quyền lợi của đệ tam quốc tế mà thôi. Nên người ngoài cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng Cọng Sản Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, địa vị của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944 trong đảng rất mù mịt, không chiếm được một ưu thế nào, vì Hồ thật sự đâu có làm gì. Cũng theo sử liệu, lãnh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Ðặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Ðức Thọ, Văn Tiến Dũng cho nên mãi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi ký Ðầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941-1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26-1-1941 nhưng đã bế tắc vì Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22-12-1944, Võ Nguyên Giáp mới lập được Ðội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Ðạo, Huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, chỉ được 34 người, hầu hết la dânợ Nùng, Thổ bản địa.

Nhưng Hồ là người may mắn, từ thuở nhỏ đã được các quí nhân tại Phan Thiết như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang làm vang danh tại trường Dục Thanh. Sau đó qua Pháp, được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền góp chữ và uy tín, đưa Bồi Ba, tức Nguyễn Tất Thành bước vào con đường chính trị, báo chí thế giới qua danh xưng của nhóm là Nguyễn Ái Quốc mà Hồ nhận riêng là của mình.

Rồi từ hang Pắc Pó trở lại Tàu, may mắn bị quân Trung Hoa Quốc Gia bắt. Từ đó qua bảo đãm của Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân Ðảng, với chủ tướng Trương Phát Khuê, họ Hồ chính thức sắm thêm vai gián điệp tình báo cho quân đội Ðồng Minh tại Ðệ Tứ Chiến Khu Hoa Nam, sau khi được trả tự do ngày 16-3-1945, theo như tài liệu của Michael Maclear viết trong ‘The Ten Thousand Day War Việt Nam (1945-1975), xuất bản tại New York năm 1981.

Cũng từ đó, qua vai trò điệp viên tình báo quốc tế thuộc các cơ quan KGB, Trung Cộng, Trung Hoa Dân Quốc, rồi do Charles Fenn giới thiệu, lại trở thành điệp viên chính thức của OSS tức là Office of Strategic Services, tiền thân của cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ ( CIA), làm việc dưới quyền Thiếu Tá Mỹ Archimedes Patti, đặc trách chiến trường Ðông Dương. Nhờ đó, Hồ bước qua hết các xác chết cản đường trong đảng, để mùa thu tháng chín 1945, nghênh ngang võng lọng về Hà Nội nhận chức và đọc diễn văn. Ðó là tất cả quá trình xuất dương cứu nước của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, một huyền thoại (?)mà bao chục năm qua, thiên hạ vẫn không ngớt viết, nói về cuộc đời của một tên quốc tặc ‘ trước sau, nhỏ lớn ‘ đã và đang cùng với đồng bọn ‘ rước voi Nga-Tàu ‘ về dầy xéo cướp chiếm công khai non nước Việt, mà hiện nay cả thế giới, ai cũng đều thấy rõ.
Từ câu chuyện nhục nhã trên, nhiều người đã thở dài khi nghĩ rằng, phải chi Nguyễn Tất Thành lúc đó, được thực dân Pháp nhận vào trường Thuộc Ðịa, thì với bản chất bất lương như vậy, cùng lắm Hồ chỉ là một tham quan Việt gian làm tay sai cho Pháp mà thôi. Nhờ đó đất nước và dân tộc Việt Nam ngày nay có thể đã thoát được nổi trường hận cùng khốn tận tuyệt dưới bàn tay tàn độc cũa một Hồ Chí Minh làm tay sai cho các thế lực quốc tế, từ Liên Xô, Trung Cộng, Pháp, Tàu Trắng và Hoa Kỳ. Năm 1932 danh xưng Nguyễn Ái Quốc được khai tử trong nhà tù Hồng Kông, để thay thế vào cái tên Hồ Chí Minh (với công luận : đó là một người Tàu được nhập vai HCN thật đã chết) . Chuyện thật giả, đúng sai cho tới giờ này chỉ có trời mới biết, chứ mặt thật thì ai cũng chỉ dựa vào sách báo để ghi lại mà thôi.

1- NGUYỄN TẤT THÀNH, CON NGƯỜI TRĂM MẶT ::

Nhiều năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của ‘bác’ bị phát giác.

Trong số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lãnh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đã vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp ‘ đào mồ cuốc mã tên đại phản quốc ‘ để rửa hận cho quốc dân VN, nhất là trong giai đoạn ‘ quốc phá gia vong ‘ hiện tại, ngụy quyền cộng sản Hà Nội qua Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng .. đã công khai bán dân tộc và đất nước Việt cho Tàu đỏ.

+ Nguyễn Ái Quốc và nhóm Trinh-Trường-Truyền :

Trước khi Nguyễn Tất Thành xuất dương, thì Phan Chu Trinh và con là Phan Chu Dật mới 8 tuổi, đã tới Pháp ngày 1-4-1911 với trợ cấp của Chính Phủ Ðông Dương. Từ năm 1912, Phan Chu Trinh kết thân với Phan văn Trường đang theo học Tiến Sĩ Luật tại Paris, nên dọn về ngôi biệt thự của Trường tại số 6 đường Villa des Gobellins. Từ năm 1912, Hồ đã bắt được liên lạc với Phan Chu Trinh tại Pháp qua thư từ, vì hai người đã quen biết nhau từ ngày còn ở Việt Nam, nên Thành vẫn gọi Trinh là ‘Hy Mã Nghị Bá Ðại Nhân’.

Trong lúc đó tại Việt Nam từ năm 1911-1919, có nhiều biến cố thật quan trọng đã xảy ra. Trước hết là Ðề Thám, lãnh tụ cuối cùng trong phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi xướng xuất năm 1885, đã bị Lương Tam Kỳ giết chết ngày 10-2-1913. Cũng năm này, vào ngày 17-1 tại Huế, tên Khâm Sứ Trung Kỳ là Georger Mahé đã khai quật lăng vua Tự Ðức để cướp vàng bạc châu báu. Sự việc được báo chí như tờ Le Courrier d’ Haiphong và dư luận cả nước chống đối và nguyền rủa dữ dội bọn thực dân và đám quan lại Việt Nam bất lương vô liêm sĩ. Ngày 12-4, tại Thái Bình, các đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, đã ám sát tên Tuần Phủ chó săn Nguyễn Duy Hàn.

Những biến cố bi thảm trên, đã khiến cho Phan Chu Trinh bên Pháp cũng lên tiếng chỉ trích thực dân, kể luôn Toàn Quyền Ðông Dương là Sarraut , người đang cưu mang giúp đở cha con ông. Tại Trung Hoa, vì nhận tiền của Pháp nên Tổng Ðốc Lưỡng Quảng là Long Tế Quang đã bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng từ năm 1914 tới năm 1917 mới thả. Vì những biến cố đã xảy ra, ngay khi Ðức tuyên chiến với Pháp ngày 3-8-1914, nhà cầm quyền Ba Lê vin vào đó để bắt giữ và phân tán những yếu nhân trong Hội Ái Quốc Ðông Dương, do Trinh và Trường thành lập. Ngày 15-9-1914, Pháp bắt giam Phan Chu Trinh và Phan văn Trường tại ngục Santé mãi tới tháng 2-1916 mới phóng thích. Từ đó người Pháp cũng cắt đứt trợ cấp cho cha con ông, khiến lâm vào cảnh nghèo đói, nên cả hai mắc phải bệnh lao phổi nặng. Tháng 3-1921, Dật chết tại Bắc Kỳ.

Từ đầu năm 1919, đại chiến lần thứ 1 đã kết thúc trong sự bại trận của phe trục Ðức, Áo, Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Kinh đô Paris của Pháp trở thành nơi tụ hội của các thế lực quốc tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là Woodrow Wilson đưa ra chủ thuyết ‘Tự Tri’ và đề xuất việc thành lập Hội Quốc Liên, rất được các nước nhược tiểu ủng hộ.

Tại Nga, do Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917), đứng về phe Ðồng Minh chống Ðức, nên nước này đã tích cực yểm trợ Nikolai V.I. Lenin (1870-1924) lật đổ vương triều. Ngày 7-11-1917, Lenin và Leon Trotsky đứng chung thành lập chế độ Bolshevik, hay còn gọi là cuộc Cách Mạng tháng mười, mở màn cho cảnh núi sông xương máu trong dòng lịch sử nhân loại, có cả Việt Nam, từ đó cho tới nay vẫn chưa chấm dứt. Tháng 3-1919 Lenin lập Ðệ Tam Quốc Tế Cọng Sản để xuất cảng chủ nghĩa vô thần, vô sản khắp năm châu.

Ðây là miếng mồi béo bở mà Lenin, trùm đỏ vừa mới nổi lên, dẫn dụ các dân tộc bị trị khắp Á Châu từ Trung Ðông, Ấn Ðộ, Trung Á, tới Trung Hoa và Ðông Dương, lũ lượt kéo về thánh địa Viện Thợ Thuyền Ðông Dương tại Mạc Tư Khoa, để học tập con đường cách mạng vô sản chuyên chính, đánh gục tư bản, tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đàng xã hội chủ nghĩa. Trong nước, nhiều cuộc bạo động chống Pháp kháp nước, quan trọng nhất là vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân cùng các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân tại Huế ngày 3/5/1916. Sau đó là cuộc biểu tình của Phan Xích Long tại Sài Gòn tháng 11-1916 và đặc biệt nhất là sự chiếm đóng tỉnh Thái Nguyên của Ðội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần Trung Lập vào năm 1917 dù thất bại, nhưng vẫn mang nhiều khích lệ tới tuyệt đại dân chúng Việt Nam đang sống lầm than khổ ải dưới ách nô lệ của giặc Pháp.

Trong giai đoạn trăm hoa đua nở, Nguyễn Tất Thành bỗng nổi lên như cồn trong giới cách mạng vô sản Pháp, qua bản ‘thỉnh nguyện thư đòi nhân quyền’ năm 1919, ký tên Nguyễn Ái Quốc, mà công án tới nay đã quy cho Hồ là cướp công của ba nhân vật đã sáng tạo: Phan Chu Trinh, Phan văn Trường và Nguyễn Thế Truyền. Nội dung bản thỉnh nguyện gồm 8 điểm, do một nhóm người An Nam yêu nước chung viết, được tờ báo L’Humanité của đảng Xã Hội Pháp, đăng ngày 18-6-1919 với dụng ý chính trị, dù thực chất chẳng có gì đặc biệt, nếu đem so sánh với sự đòi hỏi người Pháp phải trao trả độc lập hay ít nhất để Việt Nam tự trị của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể sống lưu vong và Vua Duy Tân đang bị cầm giam ngoài hải đảo.

Dù gì chăng nữa thì đây cũng là một cơ hội vàng ròng với Hồ, vì ít nhiều tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc, đại diện cho nhóm người An Nam yêu nước trên đất Pháp, cũng được nhóm người Việt qua Tây đánh Ðức, hồi hương mang về phổ biến trong dư luận lúc đó. Mặt khác, qua chiến thắng của đảng Bolchevik Nga, khiến đảng xã hội Pháp hầu như nghiêng về Ðệ Tam Quốc Tế, vô tình giúp anh thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc đó, đang thất nghiệp phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Chu Trinh, bỗng được các chính khách tả phái Pháp chú ý vì tính chất vô sản chuyên chính, nên đã giúp Hồ thoát cảnh chết đói, bằng cách cử ‘bác’ tới học ở Viện Thợ Thuyền Ðông Phương năm 1923. Từ đó Hồ qua bí danh Nguyễn Ái Quốc chính thức là một đảng viên của đệ tam quốc tế cộng sản.

+ Vụ Án Nguyễn Ái Quốc :

Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Ðọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo.

Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lý. Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc.

Riềng bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn.

Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành, đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng mang tên Dục Thanh tói nổi nhiều người sinh đẽ tại chỗ cũng không biết đó là cái quỹ quái gì, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn kiêm thêm họa sĩ và nhà văn… cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đình bản.

Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành. Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lý báo’.

Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu. TRong thời gian đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đã kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. Những sự thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập.

+ Nguyễn Ái Quốc, điệp viên ngoại hạng của cọng sản quốc tế :

Ngày 15-10-1923, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho đảng CS Pháp, tham dự Ðại Hội Nông Dân Quốc Tế, tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Cũng kể từ đó, Hồ thoát xác thành một con người cọng sản quốc tế, chỉ biết phục vụ cho nền vô sản chuyên chính mà thôi. Ðể thưởng công, ngoài sự cho báo đảng đánh bóng tên tuổi, chính phủ Liên Xô còn cho Quốc ở lại phục vụ trong thánh địa Ðông Phương, một tổ chức mặt nổi là của Quốc tế Cọng Sản nhưng bên trong được Cơ Quan Tình Báo Nga (Intercenter Mainburo) bảo trợ. Theo tổ chức, Ban Phương Ðông lúc đó gồm ba khu vực: Miền Tây Trung Hoa, trụ sở tại Chita thuộc Mông Cổ. Miền Viễn Ðông có trụ sở tại Hải Sâm Uy, phụ trách các nước Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Khu Ðông Nam trụ sở tại Thượng Hải, gồm miền Hoa Nam và các nước Ðông Nam Á đang là thuộc địa. Ngày 22-1-1924, Lénin chết, Nguyễn Ái Quốc đã làm thơ đăng trên tờ Pravda, khóc thương nức nở và thề trước linh cửu cha già quốc tế, là sẽ biến đau thương thành hành động. Hãy đọc bài thơ của Tố Hửu khóc cha non Staline, để biết được nổi bi thương cùng tận của ‘ bác ‘ lúc đó đối với cha già LêNin :

‘Stalin ! Stalin,
Yêu biết mấy, nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng, con gọi Stalin
ông Stalin ôi. ông Stalin ôi,
Hởi ôi ông mất, đất trời có không?
thương cha, thương mẹ, thương chồng
thương mình thương một, thương ông thương mười.’
(Ðời đời nhớ ông ,Tố Hửu).
Mặc dù tài liệu Ðảng dấu chuyện Hồ xuất thân từ trường Stalin nhưng mới đây thư khố Nga giải mật, bật mí cho ta biết là gần hết cán bộ cao cấp của đảng VC , trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất phát từ lò ‘Viện Thợ Thuyền Ðông Phương’. Trường này được Lenin thành lập ngày 21-4-1921, để huấn luyện các cán bộ cọng sản vùng Châu Á, nên gọi là Viện Phương Ðông. Sau khi tốt nghiệp, những học viên sẽ trở thành cán bộ cách mạng vô sản chuyên chính về mặt lý thuyét cũng như hoạt động móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Tháng 8-1924 Hồ được Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, phong chức ‘Uỷ Viên Ban Phương Ðông’, phụ trách Cục Phương Nam coi toàn vùng Ðông Nam Á. Ðể che mắt mật thám Tây Phương, Hồ trở thành ‘Lou’, đặc phái viên của hãng Thông Tấn Nga Rosta, kiêm thư ký, thông ngôn cho phái đoàn Borodin của Liên Xô, tại Quảng Châu, qua bí danh Lý Thụy.

Trước khi Hồ tới, Borodin đã móc nối được cả hai phe Trung Hoa Quốc Dân Ðảng của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS. Trung Hoa ngồi lại với nhau, dưới ảnh hưởng của Liên Xô. Do trên, có một số cán bộ cao cấp của Ðảng CS. Trung Hoa như Mao Trạch Ðông đã được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Ðảng. Trường Võ Bị Hòang Phố, do Nga bảo trợ khai giảng ngày 15-6-1924 do Tưởng Giới Thạch làm Giám Ðốc, còn Chu Ân Lai phụ trách chính tri. Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng đã xảy ra tại Quảng Châu, trong buổi lể kỷ niệm lần thứ 13 cách mạng Tân Hợi (10-10-1911), làm nhiều người cả hai phe thương vong, đồng thời đã khiến Tôn Dật Tiên tỉnh mộng, nên ông bỏ lên Bắc Kinh để hợp bàn chuyện thống nhất đất nước và kêu gọi tình hữu nghị Hoa-Nhật, khiến Liên Xô thất vọng vì kế hoạch bị đổ vỡ nửa chừng.

Khi Lý Thụy, một tên mới của Nguyễn Tất Thành tới Quảng Châu, thì ở đây đã có nhiều người Việt sinh sống, phần lớn làm viêc trong Sa Ðiện tô giới Pháp, hai khu vực được ngăn cách bằng con sông Châu Giang. Nhờ các quan địa phương như Hồ Hán Dân rất có cảm tình với người Việt, nên đã giúp đỡ những chính khách lưu vong bị Pháp săn đuổi phải chạy sang Tàu trốn lánh như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật cho tới Phan Bội Châu. Theo Niên Biểu, thì Sào Nam và Cường Ðể đã lập Việt Nam Quang Phục Hội tại đây, trong đó có nhóm Tâm Tâm Xã của một số thanh niên Việt Nam yêu nước. Tâm Tâm Xã gồm 9 đảng viên, đa số là người Nghệ An, có học thức, chủ trương bạo động gồm Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Sơn. Mùa thu 1924, Phan Bội Châu và Nguyễn Hải Thần đã yêu cầu Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Ðốc trường Võ bị Hoàng Phố, thu nhận các sinh viên Việt Nam vào thụ huấn và được ông chấp thuận.

Do cảm tình và cũng nhận thấy giữa hai đảng cách mạng Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc lúc đó, đều có chung mục đích, đánh đuổi giặc xâm lăng ra khỏi đất nước mình, nên Phan Bội Châu đã đổi danh xưng Việt Nam Quang Phục Hội, thành Việt Nam Quốc Dân Ðảng và uỷ cho Hồ Tùng Mậu phổ biến trong nước. Ðây cũng là giai đoạn mà các sử gia dày công tìm kiếm về mối liên hệ giữa cụ Phan Bội Châu và Lý Thụy, dẫn tới nghi án Hồ Chí Minh cùng Lâm Ðức Thụ bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp bắt tại tô giới Thương Hải năm 1925, mà sử liệu đã nhắc tới.

Theo niên biểu Phan Bội Châu, cho thấy Sào Nam có gặp Nguyễn Ái Quốc đôi ba lần và trùm cọng sản Lý Thụy đã nhắc cụ thay đổi đảng cương Việt Nam Quốc Dân Ðảng, thời gian khi Hồ ở Tàu cuối năm 1924. Cũng năm này, Phạm Hồng Thái, một đảng viên của Việt Nam Quang Phục Hội, nhân Toàn Quyền Ðông Dương là Martial Merlin (1923-1925), ghé Sa Diện, sau khi từ Nhật Bổn về Hà Nội. Phạm Hồng Thái đã giả làm một phóng viên nhà báo, mang bom vào tận phòng ăn cũa tên giặc Pháp, quyết giết kẻ xâm lăng nhưng bom nổ chỉ làm Merlin bị thương nhẹ, trong lúc có 4 tuỳ tùng chết và 4 người khác bị thương. Xong nhiệm vụ, người chiến sĩ thoát thân nhưng vì con sông Châu Giang trước mặt. Cuối cùng ông cũng đền xong nợ nước và sau đó được chính người Trung Hoa, trân trọng cho ông được nghìn thu bên cạnh 72 liệt sĩ trong cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, trên Hoàng Thạch Cương, khói hương miên viễn. Tên thực dân thoát chết nhưng cũng vỡ mật lại càng căm hận người Việt Nam yêu nước, còn thế giới thì chấn động và kính phục cháu con Hồng Lạc, bất khuất anh hùng.

2 – HUYỀN THOẠI NGUYỄN ÁI QUỐC CHẾT TRONG NHÀ TÙ HỒNG KÔNG (1932) :

Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, vì nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cọng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi ‘bác’ chết, đã nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp.

Cuối cùng, theo các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc ‘giả chết’ đều theo ý Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đã bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cọng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành là HỒ CHÍ MINH , đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Ðông sắp tới. Tất cả đều nằm trong vòng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ tình báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đã chết thật từ lâu rồi.

Nhưng mới đây báo chí Trung Cộng lại tung tin ‘ Việc Hồ Chí Minh ‘ chết trong nhà tù Hồng Kông là thật. Vì kể từ đó TC mới đem một người Tàu chánh hiệu vào ‘ thế vai ‘ của HCM, đồng thời còn cài thêm vài trăm người cùng bọn vào đảng , qua tên VN.. mà hậu quả ngày nay từ Trung Ương Ðảng xuống tới các Tỉnh Ủy, hầu hết đều là Tàu .. nên đâu có gì lạ trước việc CSVN đã chính thức bán nước cho giặc, hiện đã trở thành ‘ một tỉnh hay khu tự trị ‘ thuộc lảnh thổ Trung Hoa như Mãn Châu, Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương..

Nay qua dòng thế sự, góp nhặt những chuyện đời, để rồi tọc mạch kể lại cho thế gian vui. Nguyễn Du đã ôm bộ ngực gầy xương giữa trời lộng gió, trên đỉnh Hồng Lĩnh nhưng muôn đời sau, người ta vẫn tìm đến với thi nhân, để cùng cảm thông chung manh áo lạnh. Ðường vào lịch sử Hồng Lạc cũng vậy vì sự hưng thịnh, tồn vong, thảo khấu hay là chính thống, đều không qua khỏi những dòng chữ đá trên bia sử.

Cho nên ngày nay, ta đọc câu chuyện sử về người trăm mặt Nguyễn Tất Thành, cũng chẳng qua chỉ đọc lại những câu chuyện kể về vận nước, mệnh ngươi, khen chê, xưng tụng. Xuôi nam hay ngược bắc, trong gió ngàn bay, nhìn ra biển lộng, đâu đâu cũng thấy chiến thuyền của chúa Nguyễn căng buồm lướt sóng hay vó ngựa chân voi dồn dập của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ danh trấn non sông. Nhưng rồi ngao ngán biết bao, khi lạc đường vào lịch sử, để phải đọc những huyền thoại gian dối của ‘bác’, làm cho hồn vừa giận vừa cười.

Quả thật, trong dòng lịch sử VN, lôi hết những tên đại gian hùng giết vua phế chúa như Trần Thủ Ðộ, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung, Trịnh Kiểm, Trương Phúc Loan, Phan Khắc Hoè.. đem so sánh, thì chỉ bằng một cọng râu lơ thơ của Hồ mà thôi. Cũng nhờ những câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc giả chết hay sự bặt tin của Lý Thụy, mãi cho tới khi sắp mở màn thế chiến thứ hai, Nguyễn Tất Thành mới được tái sinh qua cái tên Hồ Chí Minh từ năm 1939 cho tới bây giờ, chung cuộc chỉ là một màn kịch, diễn về một con người tầm thường nhưng được nổi nhờ cơ duyên và sự phô trương vô tiền khoáng hậu.
Hiện nay các sử gia đều đặt nghi vấn, về câu hỏi là tại sao đồng loạt các cán bộ cao cấp của Ðông Dương Cong sản đảng từ Mạc Tu Khoa về, trong đó có Lê Hồng Phong tự dưng bị lộ, và kẻ chỉ điểm theo mật thám Pháp là một liên lạc người Hoa? Một điều khác cũng rất quan trọng, đó là tài chính dùng nuôi quân, nhưng Hồ đã ôm trọn khiến cho Hoàng văn Hoan, Vũ Anh và nhiều kẻ khác, đói đến độ phải nhờ vào người Quốc Gia mà sống.

Ðây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại ‘xuất dương’ tìm đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi hình dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác gì loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ. Ðó mới chính là ‘ sự thật về cuộc đời Hồ Chí Minh ‘, một chuyện dài không bao giờ kết thúc dù chế độ CSVN có bị giực xập..


Viết từ Xóm Cồn Hạ uy Di
Tháng 7-2009
MƯỜNG GIANG


 

HCM Bán Đứng Phan Bội Châu Cho Thực Dân Pháp
Trên Đất Trung Hoa Năm 1925

 Mường Giang
 

(Bài đã được lưu trử tại thư Viện Toàn Cầu.Com và Hướng Về Bình Thuận.Org)
 
Về huyền thoại xuất dương cứu nước, cận sử VN trong thế kỷ XX có nhắc tới bốn nhân vật: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Tất Thành và Ngô Ðình Diệm. Ngày nay qua sử liệu chúng ta đã biết rõ chân thực chính ai mới là người thực sự ra nước ngoài cứu nước. Trong bốn người, cả Phan Chu Trinh và Ngô Ðình Diệm mất thình lình nên chưa biện bạch hành động cùng chuyến đi của mình. Phan Bội Châu trong tự phán đã viết lời thành thật xin lỗi quốc dân, sự thất bại trên con đường cứu nước. Duy nhất chỉ có Hồ Chí Minh thì tự viết sách huyền thoại hoá với mình, để bóp méo sự thật: Ra đi đề tìm phương tiện hợp tác với giặc Pháp, để mưu sinh và giải quyết kinh tế gia đình mà thôi.

1- HUYỀN THOẠI PHAN BỘI CHÂU, XUẤT DƯƠNG CỨU NƯỚC:

Là một nhà nho tiêu biểu cho giới sĩ phu yêu nước, Phan Bội Châu đã ném danh lợi phù phiếm vào trời đất mông mênh, để chọn cho mình một cuộc sống phi thường, dấn thân đấu tranh cho dân, cho nước, theo đúng truyền thống ngàn đời của thanh niên kẽ sĩ thời đại:
‘Nhân sinh tự cổ thùy vô tử?
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.’
Những sử gia chân chính xưa nay khi luận anh hùng, thường không chú trọng đến sự thành công vật chất, mà chỉ quan tâm đến các giá trị tinh thần. Bởi vậy trong dòng sông lịch sử Hồng Lạc, từ buổi bình minh dựng nước thời tổ Hùng Vương cho tới hôm nay, ta thấy ngoài những minh quân, hiền tướng như Lý thánh tông, Trần nhân Tông, Lê thánh Tông, Lý thường Kiệt, TrầnHưng Ðạo, Lê Lợi, Quang Trung đã tạo nên những chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ. Bên cạnh đó, còn có không biết bao nhiêu anh hùng liệt nữ, cũng đã hy sinh cho Tổ quốc dân tộc. Họ là Hai Bà Trưng, Bà Triệu, là Nguyễn Biểu, Ðặng Dung, Trương Ðịnh, Thủ khoa Huân, Phạm hồng Thái, Cô Giang, Nguyễn thái Học... là Phan Chu Trinh, PhanBội Châu và mới nhất có Trần văn Bá,Võ Ðại Tôn, Hoàng Cơ Minh, Trần Thiện Khải, Lý Tống... tất cả không thành công, nhưng thành nhân, danh thơm muôn thuở, khí phách hiên ngang, đáng được đời ngưỡng mộ. Trong hàng ngũ anh hùng liệt nữ trên, PhanBội Châu qua tâm khảm của nhiều người Việt Nam, là một chiến sĩ yêu nước tha thiết, nồng nàn, một nhân vật lịch sử kiệt xuất, gạch nối giữa hai phong trào Văn thân và Duy tân, cùng có chung một mục đích trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc,vào đầu thế kỷ 20.
+ NGHỆ AN QUÊ HƯƠNG CỦA PHAN BỘI CHÂU VÀ HỒ CHÍ MINH:
Cùng sánh vai với Thăng Long, kinh đô cũng là chốn ngàn năm văn vật, hai tỉnh Quảng Nam và Nghệ An, bao đời đã sản sinh ra nhiều danh nhân của dân tộc. Nghệ An xưa nay vẫn là một tỉnh lớn và quan trọng nhất nhì của VN, nằm về phía bắc Trung phần, giáp giới với Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Lào và Ðông Hải, hiện tại có diện tích là 16.487 km2 với dân số 2.858.265 người, nhiều núi, ít bình nguyên nhưng lại có một hệ thống sông rạch chằng chịt. Vì là miền đất cổ của Văn Lang, nên Nghệ An có rất nhiều di tích lịch sử như đền An Dương Vương, Mai Hắc Ðế, thành Lục Niên, Phượng Hoàng Trung Ðô. Ngoài ra, Nghệ An còn nổi tiếng khắp nước vì đã sản sinh ra nhiều anh hùng, liệt nữ và những tài danh văn học như Phan Bội Châu (Nam Ðàn), Ðặng nguyên Cẩn, Ðặng thái Thân (Hải Côn), Phạm hồng Thái (Hưng Nguyên), Hồ tông Thốc, Dương doản Am (Quỳnh Lưu), Hồ sĩ Dương (Hoàn Hậu),Nguyễn trường Tộ (Hưng Nguyên), Nguyễn xuân Oạn, Hồ xuân Hương... sông núi anh linh đã hun đúc nên nhiều anh hùng liệt nữ, những tài hoa nghệ sĩ hiển hách muôn đời.
Theo Nguyễn Thiện Chí, viết qua lời kể của Ðại Tá Phan Thiện Cơ thuộc Quân đội Bắc Việt, cũng là cháu đích tôn cụ Phan bội Châu, đăng trong Kiến thức ngày nay số 50, xuất bản tại Sài Gòn ngày 15-12-1990, thì trong thời kỳ cải cách ruộng đất ở miền bắc năm 1955, đội cải cách địa phương đã qui tội Cụ Phan thuộc thành phần giai cấp địa chủ theo lối tam đoạn luận, nghĩa là cụ Phan đỗ đạt cao, mà học cao thì phải giàu và giàu là địa chủ. Cũng may Cụ đã chết từ lâu nên thay vì lôi ra đấu tố, nhà nước chỉ đem bức ảnh của Cụ treo trên bàn thờ xuống để ở chuồng trâu. Cuối năm 1955, Ðảng sửa sai chính sách cải cách ruộng đất, nhờ vậy Cụ Phan được xóa tội địa chủ, cường hào nên bức ảnh được phép treo trở lại trên bàn thờ cũ. Oại đau đớn cho những người yêu nước.
+ THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA PHAN BỘI CHÂU:
Từ sau những cái chết oanh liệt của các lãnh tụ chống Pháp như Cao Thắng, Phan Ðình Phùng, Ðinh công Tráng, Mai xuân Thưởng và nhất là việc Vua Hàm Nghi bị tên Trương quang Ngọc bắt giao cho Pháp và bị đày ải sang tận Phi Châu, thì phong trào Cần vương coi như đã thất bại, dù trên rừng núi Yên Thế, Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân vẫn tiếp tục chống giặc thù, trong tình thế tuyệt vọng. Nhưng dân tộc Việt Nam muôn đời luôn có truyền thống bất khuất trước kẻ thù xâm lăng, nên lớp này vữa ngã xuống, lập tức đã có ngay thế hệ khác đứng dậy thay thế, để tiếp tục con đường tranh đấu dành độc lập cho nước nhà. Từ đầu thế kỷ 20, khắp nước nở rộ lên một phong trào đấu tranh mới, cầm đầu bởi một tầng lớp sĩ phu nho giáo đầy nhiệt huyết và thức tỉnh trước chiến công hiển hách của Nhật Bổn đã đánh bại Thanh triều và Nga Sô. Trong bối cảnh đó, dù cùng chung lý tưởng là đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi Ðại Việt, nhưng trong phương cách hành động vẫn có nhiều khác biệt, như có người thì chuẩn bị võ trang tiếp tục đánh Pháp, trái lại có kẽ chủ trương tranh đấu công khai với kẻ thù bằng cách mở mang dân trí, chấn hưng công thương nghiệp, lập hội đòi dân chủ. Tóm lại, đó là chủ trương của hai nhóm kháng Pháp: cải cách và bạo động.
Trên thực tế, Phan Bội Châu là lãnh tụ cũa phong trào chống Pháp bằng phương cách bạo động nhưng đồng thời cũng ý thức được tác dụng hữu ích của phong trào cải cách, vì vậy Ông đã sử dụng cả hai phương thức đấu tranh trên và được cả hai phái cũng như toàn dân quí trọng, tin tưởng. Trong hàng ngũ các sĩ phu dấn thân vào con đường cứu nước lúc đó, đều là những nhà nho trẻ và khoa bảng nổi tiếng văn hay, chữ tốt, bởi vậy họ đã dùng văn chương để làm phương tiện tranh đấu. Trong số này, Phan Bội Châu viết nhiều nhất và tác phẩm của Ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quốc dân lúc bấy giờ.
Tóm lại trong suốt một phần tư thế kỷ 20, Phan Bội Châu được xem như là một nhà ái quốc lớn nhất, một ngôi sao bắc đẩu dẫn lối cho dân tộc trên đường tháo gỡ ách nô lệ của ngoại bang. Trên văn đàn, thơ văn Phan Bội Châu tiêu biểu cho khuynh hướng yêu nước, phản ảnh trung thực cảnh quốc phá gia vong của một dân tộc, ý tưởng chẳng những mới mẻ mà văn phong càng hàm xúc, làm lôi cuốn mọi người, nhất là giới học sinh, thanh niên nam nữ. Sau này, nhiều người đã ví Ông với Văn Thiên Tường (1236-1282) đời mạt Tống, tể tướng cũng là một nhà thơ lỗi lạc của Trung Hoa, khi tìm hiểu tác giả qua bài chính khí ca:
thâm tâm nhất phiến từ châm thạch
bất chỉ nam phương, bất khẳng hưu
(lòng ta như mãnh nam châm, nếu không hướng về quê hương miền nam, về Tổ quốc thì ta vẫn chưa yên dạ)
tòng kim biệt khúc Giang Nam lộ
hóa tác đề quyên, đái huyết qui
(từ nay vĩnh biệt Giang Nam nhưng ta sẽ hóa thành Ðổ quyên, kêu đến nhỏ máu để tự bay về chốn cũ)
sơn hà phá toại phong phiêu nhứ
thân thế phù trầm vũ đá bình.
(đất nước đang lúc nguy khốn, xơ xác như cánh hoa tơi tã, thân thế người dân trôi nổi dập dồn)
Cùng một cảnh ngộ chim lồng cá chậu như Văn Thiên Tường, từ năm 1926 Phan bội Châu bị Pháp giam lỏng tại Huế cho đến chết. Trước khi từ trần ngày 29-10-1940, Ông đã viết mấy lời vĩnh quyết để tạ tội với quốc dân, trong có đoạn: “Bội Châu từ xưa tới nay, đối với đồng bào đã không chút gì là công, mà lại tội ác quá nặng. Bây giờ tôi chết, thật là một tên dân trốn nợ.. đồng bào có thứ lượng cho tôi thì tôi mới yên bụng” Hởi ơi, hai thế hệ cách nhau mấy trăm năm, nhưng họ đã hội ngộ trên con đường xả thân vì nước.
Theo các nguồn sử liệu, Phan bội Châu thuở nhỏ có tên là Phan văn San, hiệu là Hải Thụ. Khi đi thi mới đổi tên là Phan Bội Châu. Trong thời gian hoạt động chống Pháp, thường ký tên Sào Nam Tử hay Thị Hán. Sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867 tại Ðan Nhiễm, Ðông Liệt, Nam Ðàn, Nghệ An, trong một gia đình hàn nho. Thuở nhỏ nhờ phụ mẫu vốn là nhà nho, nên Ông được dạy dỗ chu đáo và đã thông thuộc một số bài trong kinh thi từ khi mới lên sáu. Ông nổi tiếng thần đồng, 13 tuổi trở thành đầu huyện, 16 tuổi là đầu xứ.
Trước cảnh quốc phá gia vong, ngày ngày chứng kiến quân Pháp lần lượt chiếm hết đất đai của VN từ nam ra bắc, đã nẩy nở trong ông tinh thần và tư tưởng yêu nước rất sớm, mà điển hình là bài hịch ‘bình tây thu bắc’ khi Pháp chiếm thành Hà Nội và các tỉnh khác ở Bắc Kỳ. Năm 1897, Ông vào Huế và nhờ bài phú ‘bái thạch vi huynh’ nên Phan bội Châu đã kết giao được với các vị khoa bảng nơi đất thần kinh như Nguyễn thượng Hiền, Phan chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Trần quý Cáp, Ngô đức Kế, Ðặng nguyên Cẩn và sau đó trở thành đồng chí trong suốt đoạn đường đấu tranh chống Pháp đầy hiểm nguy, gian khổ. Tại đây, ngoài việc được Tế tửu Quốc tử giám là Khiếu năng Tĩnh can thiệp để Ông được phép trở lại trường thi và đậu giải nguyên tại trường thi xứ Nghệ, ông còn được đọc nhiều tân thư của các nhà cách mạng Trung Hoa, Nhật Bản, làm nẩy nở con đường cứu nước mới.
Sau khi thân phụ qua đời, Phan bội Châu quyết lòng vứt bỏ lợi danh phù phiếm, dấn thân vào con đường cứu nước mà khởi đầu là sự liên kết với Ngư Hải Ðặng thái Thân, sắp đặt ba kế hoạch lớn như liên kết với những sĩ phu trong phong trào Văn thân, Cần vương để tiếp tục mưu chuyện khởi nghĩa, tìm kiếm một minh chủ trong Hoàng tộc để liên kết các giới và chương trình đưa người xuất dương để học hỏi và xin ngoại viện. Tiến hành chủ đích trên, đầu tháng tư năm Giáp Thìn (1904), Phan bội Châu, Tiểu la Nguyễn Thành và một số lãnh tụ trong Duy Tân Hội tại Quãng Nam, đã đồng tâm, tôn xưng Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể làm minh chủ. Phan bội Châu được giao phó trọng trách sang Nhật cầu viện, xin giúp đỡ phương tiện để chống Pháp.
Ðầu năm Ất Tỵ (1905), lần đầu tiên Phan Bội Châu đã cùng với Tăng Bạt Hổ, bí mật đáp tàu từ Hải Phòng đi Thượng Hải, sau đó tới Thần Hộ (Kobé) và Yokohama (Hoành Tân). Tại đây nhờ gặp được nhà cách mạng Trung Hoa Lương Khải Siêu đang lưu vong vì chống lại triều đình Mãn Thanh, mà Phan Bội Châu được quen biết với các lãnh tụ chính trị nổi tiếng thời đó của Nhật như Tử tước Khuyển dưỡng Nghị (Inukaiki) và bá tước Ðại Oại Trọng Tín.Tất cả đều khuyên Phan Bội Châu nên đưa Kỳ ngọại Hầu và các thanh niên có nhiệt huyết ra ngoại quốc du học, để mưu tìm con đường cứu nước hữu hiệu. Từ đây, Phan bội Châu bắt đầu sử dụng ngòi bút để làm phương tiện đấu tranh với kẽ thù.
Những tác phẩm như VN vong quốcsử (1905), VN quốc sử khảo (1908), hải ngoại huyết thư, kính cáo toàn quốc phụ lão văn, thư gởi Phan chu Trinh vừa giới thiệu cách mạng VN với các chính khách Trung Hoa, Nhật Bản, vừa có tác dụng kêu gọi đồng bào trong nước nhất tề hưởng ứÔng công cuộc cứu nước và quan trọng hơn hết là cổ võ thanh niên xuất dương du học. Tất cả những công việc trên được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt, phong trào Ðông Du nở rộ, nhiều thanh niên VN được theo học tại Châu võ học hiệu. Ðể giúp đỡ số du học sinh đông đảo trên, Phan bội Châu, Cường Ðể và các đồng chí lập Cống Hiến Hội, đặc trách việc du học của 200 thanh niên VN tại Nhật.
Trước sự lớn mạnh của phong trào Ðông Du, thực dân Pháp lo sợ nên dùng thủ đoạn nhượng một số quyền lợi kinh tế tại Ðông Dương cho Nhật, đổi lại nước này ra lệnh trục xuất hết người VN đang sống trên nước Nhật bắt đầu có hiệu lực ngày 10-7-1907. Trong nước tình hình chính trị biến động không ngừng, đầu năm 1908 nổi lên cuộc TrungKỳ dân biến, với các cuộc biểu tình của dân chúng Miền Trung, chống sưu cao thuế nặng, đồng thời là vụ các lính khố đỏ qua tiếp tay của Hoàng Hoa Thám, đầu độc các trại binh Pháp tại Hà Nội.
Cũng trong giai đoạn này, qua áp lực của Pháp, đầu tháng 8/1908 Nhật ra lệnh trục xuất hết du học sinh VN, làm một số trở về cố quốc nhưng phần lớn trốn sang Trung Hoa, cả Cường Ðể và Phan bội Châu cũng bị rời khỏi Nhật vào tháng 3/1909. Song song với bất hạnh trên, phong trào Duy Tân ở trong nước cũng bị đàn áp khốc liệt từ năm 1908-1910 nên gần như bị tan rã. Năm 1911, cách mạng Trung Hoa thành công, lật đổ được nhà Mãn Thanh, nhân cơ hội đó Phan bội Châu và các nhà cách mạng VN được Quốc dân Ðảng Trung Hoa giúp đỡ nên đầu năm 1912, Việt Nam Quang Phục được thành hình. Trong nước, Pháp giải tán các Hội kín ở Quảng Nam, trường Ðông Kinh nghĩa thục Hà Nội, bắt giam các lãnh tụ như Phan Chu Trinh, Huỳnh thúc Kháng, Nguyễn Thành, Ngô đức Kế, Lê văn Huân rồi đày ra Côn Ðảo. Riêng Ðặng thái Thân tự tử ngày 11-3-1910 trước khi bắn hạ một tên mật thám Pháp.
Ðể tạo tiếng vang trong và ngoài nước, năm 1913 VN Quang Phục Hội, quyết định lên án tử hình toàn quyền Ðông Dương Albert Sarraut cùng với hai tên Việt gian là Tổng đốc Hoàng trọng Phu (con Hoàng cao Khải) và Tổng đốc Thái Bình Nguyễn Duy Hàn. Kết quả, chỉ có Nguyễn duy Hàn và hai sĩ quan Pháp bị chết. Ðể trả thù, Pháp xử bắn và tù đầy hàng trăm người, đồng thời lên án tử hình khiếm diện Cường Ðể, Phan Bội Châu, Nguyễn Hải Thần. Riêng toàn quyền Sarraut dùng tiền bạc và yêu cầu tổng đốc Lưỡng Quãng là Long tế Quang bắt giam Phan Bội Châu ngày 19-1-1914 tới tháng 2-1917 mới được thả khi Quang bị bãi quyền.
Cũng kể từ đó Ông bôn ba kháp nơi để mưu tìm con đường cứu nước kể cả việc liên lạc với Ðại sứ Liên Bang Sô Viết tại Bắc Kinh năm 1920. Trưa ngày 1-7-1925 nhằm ngày 11-5 năm Aãt Sửu, Phan Bội Châu vừa từ Hàng Châu đến Thượng Hải, thì bị mật thám Pháp bắt cóc và giải về Hà Nội. Trong Tự Phán, Phan Bội Châu cho rằng chính thư ký riêng của Ông là Nguyễn thượng Huyền (cháu Nguyễn thượng Hiền) bán tin cho Pháp, nhưng sau này có nhiều tài liệu lịch sử chứng nhận, kẽ bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu để lấy tiền thưởng là Lâm đức Thụ và Lý Thụy (bí danh của Hồ chí Minh lúc đó). Trong nước, Pháp muốn thủ tiêu Ông nhưng mưu toan bị bại lộ nên đành phải đưa Phan bội Châu ra hội đồng đề hình Hà Nội xét xử với bản án khổ sai chung thân, lưu đày biệt xứ. Tuy nhiên vì sự phản đối quá quyết liệt của quốc dân VN cũng như áp lực từ nước Pháp, nên toàn quyền Ðông Dương dành giảm án nhưng bắt ông giam lỏng tại bến Ngự, Huế từ năm 1926 cho tới lúc mãn phần năm 1940.
+ SỰ DỊ BIỆT GIỮA PHAN BỘI CHÂU VÀ PHAN CHÂU TRINH TRÊN CON ÐƯỜNG CHỐNG PHÁP CỨU NƯỚC .
Xưa nay các tao nhân mặc khách cũng giống như những tơ lòng muôn điệu, thường gặp nhau nơi thơ nhạc, cung đàn. Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là hai nhà ái quốc hào hoa phong nhã trong dòng người yêu nước đầu thế kỷ 20, bởi vậy trên suốt đoạn đường đấu tranh cam go gian khổ, hai Ông luôn dùng văn chương, thi phú để làm phương tiên chuyên chở hoài bão của mình. Thơ của họ Phan đều thuộc loại ngôn chí, trong đó hai Ông đã gói ghém tất cả sĩ khí của những bậc vĩ nhân khi thực hiện các hành động đội đá vá trời. Tuy cùng là đồng chí, cùng quyết tâm đánh đuổi giặc Pháp xâm lăng ra khỏi bờ cõi Ðại Việt nhưng quan niệm đấu tranh của hai chí sĩ đất Nam Ðàn và Tây Lộc vẫn có nhiều dị biệt, chẳng những trên hành động mà còn bàng bạc suốt thơ văn.
- Quan niệm đấu tranh của Phan Sào Nam:
Là thủ lãnh của phong trào Ðông Du, nhóm chủ trương dùng bạo động để xoay chuyển lại thời cơ, chống giặc cứu nước. Phan Bội Châu từ thời niên thiếu, đã chứng kiến được cảnh quốc phá gia vong, nỗi đau thương cùng cực của người Việt Nam mang ách nô lệ bạo tàn, vì vậy trong tâm khảm của nhà ái quốc đã nẩy nở những hoài bão lớn lao của kẻ làm trai, tung hoành ngang dọc, không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh và số mệnh:
‘Khác thường bay nhảy mới là trai,
Chẳng chịu vần xoay mặc ý trời.’
Ðể hoàn thành chí lớn trên, kẻ nam nhi phải hành động sao cho xứng đáng là anh hùng, trượng phu, quân tử. Ðây cũng là sự khác biệt so với phần đông những người lớp trước, thường quan niệm ‘thời thế tạo anh hùng, thời thế thế thời, thời phải thế’, Phan Bội Châu trái lại cho rằng ‘chính anh hùng tạo nên thời thế’: ‘nắm dân quyền lỗi lạc giữa phương đông tạo thời mới gọi anh hùng.’
Ðây cũng là mộy ý tưởng mới lạ, thanh thoát và tích cực. Thật vậy, ngày xưa kẻ sĩ luôn tin ở thiên mệnh, nên họ luôn tùy thời mà hành động, Phan tiên Sinh trái lại cực lực phản đối hành động tiêu cực ấy, khi cho rằng kẻ làm trai phải biết gánh vác trách nhiệm, tại sao lại phải dựa vào sự định đoạt của hóa công? Theo Ông, ví dù thời chưa đến nhưng người anh hùng cũng có thể tự xoay chuyển thời thế, ấy là nhân lực trước thiên mệnh. Trên con đường đấu tranh, xưa nay từ đông sang tây, có ai mà không gặp phải một đôi lần thất bại trước khi mã đáo thành công, bước lên đỉnh đài vinh quang tuyệt diệu hay nhắm mắt xuôi tay ôm hận muôn đời? Bởi vậy không nên đem thành bại để luận anh hùng, mà chỉ cần xét tới ý chí và hành động của họ mà thôi.’
‘nếu không thất bại, sao có thành công
xưa nay anh hùng từng thua mới được’
Tri hành hợp nhất, đó là kim chỉ nam của người anh hùng và Phan bội Châu, trong suốt cuộc đời đã luôn luôn giữ đúng, nước mất thì phải đòi lại nước, tự do bị hủy diệt thì phải làm sao lấy lại tự do, dân chúng lầm than khổ cực thì phải làm sao cải thiện đời sống của họ. Tóm lại, quan niệm đấu tranh của Phan Bội Châu là tận dụng tất cả phương tiện từ bạo lực tới ôn hòa, từ quân sự cho tới tuyên truyền bằng văn thơ thi phú, phải tạo thời cơ, vượt qua những chướng ngại hiểm nguy, để phụng sự cho quốc gia, dân tộc:
‘đường đường đội đá vá trời,
anh hùng há nhượng cho người thế gian’
- Ðường Ðấu Tranh của Phan Tây Hồ (1872-1926)
Như Phan Bội Châu, Tây Hồ Phan Châu Trinh là một sĩ phu ái quốc, chẳng những thể hiện tinh thần đấu tranh của mình bằng hành động, mà còn biểu lộ ý tưởng đó qua thi văn, một cách hàm súc chân tình. Năm 1906, tiên sinh xuất ngoại lần đầu tiên và gặp Phan Sào Nam tại Quảng Châu. Cũng trong cuộc gặp gỡ này, Phan Chu Trinh đã cho mọi người thấy là mình đi theo chủ trương khác hẳn với Phan bội Châu, sau khi xem ‘Duy Tân hội chương trình’ và tuyên bố chỉ muốn sang Nhật Bổn một chuyến cho biết, rồi về nước mà thôi.
Ông là một nhà cách mạng với đường lối bài phong kiến, đã thực dân nhưng với một thái độ ôn hòa. Nhỡ hấp thụ được tư tưởng mới của Khang hữu Vi, Lương khải Siêu, Montesquieu, JJ Rouseau nên ngay từ buổi đầu dấn vào con đường tranh đấu, ông đã hô hào tân học, đề xướng nhân quyền, chống lại các cuộc bạo động vì cho rằng đây là nguyên cớ để Pháp đàn áp, ngoài ra Ông chống lại việc cầu viện nước ngoài, đồng thời tạm thỏa hiệp với Pháp. Tóm lại những chủ trương của Phan Chu Trinh gần như ngược lại đường lối tranh đấu của Phan bội Châu. Tuy nhiên hai bên vẫn rất kính trọng và giúp đỡ lẫn nhau vì cả hai cùng mang chung một hoài bão của đấng trượng phu, đang còng lưng gánh vác trách nhiệm đối với sự tồn vong của đất nước.
‘làm trai trót gánh, gánh gian nan
dám nại xa xôi, bỏ giữa đàng.’
Trong thi văn, Phan Tây Hồ tuy không đưa ra một quan nệm rõ rệt về hai chữ anh hùng như Sào Nam, nhưng lại gián tiếp chấp nhận quan niệm anh hùng phải tạo thời thế, phải làm những việc phi thường khác đời và trên hết là chấp nhận hiểm nguy, coi thường sinh tử nên thế sự thăng trầm chỉ là diều cỏn con không đáng kể. Như vậy tuy hai người khác nhau về phương cách cứu nước và lập trường chính trị nhưng lại đồng tâm ở lòng ái quốc, cũng như rất cảm thông và hòa hợp trong quan niệm ‘anh hùng’. Hai Ông là những người tiền phong giựt sập cái thần tượng cá nhân, rồi thay vào đó là thần tượng anh hùng dân tộc. Chính điều này đã làm cho các thanh niên nam nữ qua bao thế hệ, khi dấn thân vào con đường lập chí, rất ngưỡng mộ và tôn sùng hai cụ Sào Nam và Tây Hồ.

2 - PHAN BỘI CHÂU, NẠN NHÂN GIỮA HAI THẾ LỰC:

Trong tác phẩm tự phán (PBCNB), cụ Phan cho rằng mình đã bị Nguyễn thượng Huyền bán đứng cho Pháp vào ngày 1-7-1925, vì chỉ có y mới biết rõ lộ trình của Ông mà thôi. Nhưng sự thật thì không phải vậy, năm 1928 lần đầu tiên Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân, trong tài liệu ‘ai bán đứng cụ Phan bội Châu?’ đã chỉ đích danh Lý Thụy (Hồ Chí Minh) đã bán Cu Phan cho Pháp. Năm 1948 Ðào trinh Nhất, trong loạt bài đăng trên báo Cải Tạo, cũng viết rằng, chính Lý Thụy là thủ phạm bán đứng cu Phan. Ngoài ra Bùi Ðình trong vụ án PBC và Bùi văn Hội (ba nhà chí sĩ ho Phan) đã chứng minh chính Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ đã bán Cụ Phan cho Pháp.
Mới đây vào năm 1972, Sử gia kiêm học giả Ðài Loan là Tưởng Vĩnh Kính, qua tác phẩm ‘Hồ chí Minh tại Trung quốc’ cũng xác nhận chính Lâm đức Thụ (đại diện của Phan bội Châu tại Hương Cảng) và Nguyễn AÔi Quốc (Lý Thụy-Hồ chí Minh), đã bán cụ Phan cho Pháp, rồi cả hai chia đôi số tiền thưởng là 100.000 quan bây giờ. Sau đó, Thụ và Quốc còn hợp tác nhiều năm nữa để bán những đồng chí của cụ Phan cho Pháp.
 Theo các học giả trong cũng như ngoài nước, thì việc Phan bội Châu bị bán đứng, một phần do số tiền thưởng cao, nhưng trọng điểm chính là chính trị, nên Lý Thụy, một cán bộ đệ tam cọng sản quốc tế từ Liên Xô mới tới Trung Hoa, đã ra tay nhanh chóng loại trừ Cụ Phan, một lãnh tụ Quốc Gia uy tín nhất lúc bấy giờ trong cuộc chống Pháp tại hải ngoại, hầu đoạt vị trí lãnh đạo cũng như tổ chức, bổ sung cho lực lượng cọng sản mới phôi thai tại VN. Còn một sự kiện quan trọng khác, do chính Cụ Phan viết trong tự phán, đó là việc Ông đã tiếp xúc với hai nhân viên cao cấp của Liên Xô tại Tòa đại sứ nước này ở Bắc Kinh là Grigorij và Voitinsky, nhờ giúp đỡ đưa du học sinh VN sang du học tại LX. Cuối cùng mọi sự không thành vì Phan Bội Châu không chấp nhận điều kiện theo cọng sản. Và cũng do việc này mà Ông đã phải gánh lấy hậu quả với Liên Xô, là xài không được thì phải gạt bỏ không để cho kẻ khác xài, và Lý Thụy được giao trọng trách thi hành bản án trên. Ở đây, thực dân Pháp và cộng sản quốc tế đã gặp nhau trong cùng mục đích triệt hạ Phan Bội Châu. Sau năm 1954, Nguyễn thượng Huyền trở lại VN và di cư vào nam, đã viết bài minh oan cho mình trên tờ Bách khoa số 73, xuất bản tại Sài Gòn năm 1960.

3 - PHAN BỘI CHÂU BỊ GIAM LỎNG TẠI HUẾ (1926-1940)

Ngày 23/11/1925, Hôi đồng đề hình của Pháp tại Hà Nội xử Phan Bội Châu khổ sai chung thân tại Côn Ðảo, nhưng vì phản ứng quyết liệt của quốc dân, nên ngày 25/12/1925 toàn quyền Varenne phải ký lệnh ân xá và giam lỏng Ông tại Bến Ngự, Huế. Nhờ số tiền 2000 đồng của đồng bào cả nước quyên góp, Huỳnh thúc Kháng và Võ liêm Sơn, đã mua hai khoảnh đất tại dốc Bến Ngự ( cách Huế 3 km về phía nam) và gần đàn Nam Giao để cất nhà và làm nghĩa trang sau này cho Phan Bội Châu.
Theo tài liệu của nhà báo Quang Ðạm, học trò cũng là thư ký của cụ Phan từ 1926-1927, đã viết về nơi ăn chốn ở của thầy mình. Ðó là một gian nhà tranh đơn sơ giản dị, nơi Phan Bội Châu sống suốt quãng đời chim lồng cá chậu từ 1926-1940. Nhà lợp bằng lá gồm ba gian, nhờ cất cao nên thoáng khí và mát mẻ. Trừ 4 buồng nhỏ ở 4 góc nhà, không có gian nào có tường vách mặt ngoài. Trong ba gian, thì gian giữa hẹp nhưng dài, còn 2 gian đầu và cuối thì rộng mà ngắn, theo lời Sào Nam thì đó là hình tượng nước Việt Nam.
Theo hồi ký ‘Ông già bến Ngự’ do Thuận Hóa xuất bản năm 1982, thì cách thức trang trí trong nhà rất mới mẻ so với thời đó. Phòng ngủ của Cụ Phan ở gian bên trái, có treo ba bức tranh màu rất lớn, bức vẽ Hai bà Trưng cỡi voi chỉ huy đánh giặc Hán, bức thứ hai là hình Quang Trung Ðại Ðế cỡi ngựa đánh quân Thanh nhưng ý nghĩa hơn hết là một bức tranh hý họa vẽ một con mèo to lớn, dù đang nhe răng múa vuốt, vẫn không dấu vẽ khốn đốn sợ hãi trước hằng ngàn con chuột tí hon đang nhất tề tấn công từ mọi phía. Sau khi cụ Phan mất năm 1940, con cháu đến cư ngụ nên có sự thay đổi. Năm 1941, Huỳnh thúc Kháng cho xây thêm về phía đông bắc ngôi nhà thờ chính để thờ Phan bội Châu cùng ông bà Phan nghi Ðệ (con trai) và Phan Thiện Cẩn, Phan Thiện Tường (cháu nội).
Khu di tích Phan bội Châu hiện nay, ngoài các gian nhà trên còn có nhà thờ bà Aãu Triệu Lê Thị Ðàn, một đồng chí của Duy Tân Hội, đã tự tử chết trong ngục ngày 16-3-1908. Trong nhà thờ này, cụ Phan đã dựng một tấm bia lớn bằng đá trắng, hai mặt có khắc chữ Hán và Quốc ngữ về tiểu sử của Bà Aãu Triệu. Năm 1974, tỉnh Thừa Thiên đã đúc tượng Phan Bội Châu bằng đồng, cao 3m, nặng 4 tấn. Tượng này được đặt trong khu di tích, cách nhà thờ Aãu Triêu 5m. Về sau, vào năm 1988 lại xây thêm một bệ hình khối chữ nhật bằng đá hộc, cao 2m để đặt tượng trên.
 Ngày 29-10-1940, Cụ Phan qua đời. Nhờ số tiền 900 đồng do quốc dân quyên góp, Huỳnh thúc Kháng đã làm nhà thờ và xây mộ cho cụ Phan tại địa điểm mà sinh thời, Sào Nam đã chọn cho mình vào năm 1934. Mộ có chiều dài 7m, ngang 5m, trên bia là bài tự do chính tiên sinh viết bằng chữ Hán vào năm 1934. Phía dưới chân mộ là hàng bia 2 con nghĩa khuyển Vá và Ky, đã theo Ông nhều năm. Ngoài ra còn có mộ của vợ chồng thứ nam Ông là Phan Nghi Ðệ và mộ nhà cách mạng Tăng Bạt Hổ trong phong trào Ðông Du, mất năm 1907, được Chính quyền VNCH cải táng từ Hương Trà về đây năm 1969. Một đặc điểm khác là trong khu di tích trên, còn có một nghĩa trang nằm bên dưới đàn Nam Giao. Nơi này Phan Bội Châu dành cho các đồng chí và những chiến sĩ quốc gia an giấc nghìn thu. Dù vậy ngày 12-9-1939, Nguyễn chí Diễu, ủy viên trung ương đảng cọng sản Ðông Dương chết tại Huế đã được Cụ cho phép mai táng tại đây, bất chấp sự phản đối của chánh thanh tra mật thám Pháp tại Trung Kỳ là Sogny. Sau đó còn cho chôn thêm nhiều cán bộ CS khác như Trần Hoành, Bùi thị Nữ, Lê tự Nhiên, Thanh Hải, Ðạm Phương, Hải Triều. Chính nghĩa cử đầy nhân đạo này, cũng để các sử gia cọng sản như Trần huy Liệu, Chương Thâu.. vin vào đó mà biện bạch về vụ án Lý Thụy và Lâm Ðức Thụ bán đứng Phan Bội Châu.
Tóm lại, những ngày đầu của thế kỷ 20, Việt Nam coi như đã mất hẳn chủ quyền về tay thực dân Pháp. Triều đình nhà Nguyễn tại Huế chỉ còn là hư vị, trong khi đó phong trào Cần vương cũng sắp tàn lụn, báo hiệu sự bế tắc trên con đường cứu quốc. Phan bội Châu hiện ra như một ngôi sao bắc đẩu, qua ảnh hình tiêu biểu của một lãnh tụ của phong trào cách mạng mới, ngoảnh mặt phá bỏ tất cả những ràng buộc của thời phong kiến lỗi thời. Ông hiên ngang đi trên chông gai, tắm trong bảo tố, bôn ba khắp chốn để mưu tìm con đường giải phóng dân tộc. Như hàng bao thế hệ trước, Phan Bội Châu hào hoa phong nhã, gươm đàn nữa gánh, giang sơn lẫy lừng.
‘non sông đã chết, sống thêm nhục
hiền thánh còn đâu, học cũng hoài ‘
Chúng ta ngày nay, may mắn trên con đường lập chí, đã được nép mình suốt bao năm dưới mái trường trung học mang tên Phan Bội Châu tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Nhờ khí thiêng của Ông, nên trải qua năm chục năm thành lập, đã có không biết bao nhiêu anh hùng nam nữ theo gót tiền nhân, làm rạng danh con Hồng Cháu Lạc. Thời kỳ cải cách ruộng đất trên đất Bắc, cũng may ông đã chết, nên chỉ bị VC bắt phạt bằng cách đem hình trên bàn thờ, treo xuống chuồng trâu, trong lúc đó người cháu nội đích tôn của nhà ái quốc là Phan Thiện Cơ, đang mang cấp bậc Ðại Tá trong Bộ Ðội Hà Nội.
Ngược lại tại VNCH, những người trong gia đình Phan Chu Trinh đều tham gia hàng ngũ Cọng Sản và là những cán bộ cao cấp như Phan Thị Minh, cháu ngoại Phan Chu Trinh, nguyên Ðại Sứ Cọng Sản Bắc Việt tại Ý Ðại Lợi và Nguyễn Thị Bình cũng là cháu ngoại Phan, tiếng tăm xấu xa lừng lẫy một đời. Thị từng là ngoại trưởng bù nhìn của Ma mặt trận, có chữ ký trên tờ giấy lộn của cái gọi là ‘ hiệp định hòa bình Ba Lê ngày 27-1-1973’ văn bản bán đứng miền nam VN của cặp Nixon-Kissinger, cho đế quốc cọng sản quốc tế, để mang lại cho nước Mỹ, cuộc tháo chạy nhục nhã, đêm 29 và sáng 30-4-1975, trên nóc nhà tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Ấy thế mà chính phủ và người dân miền Nam vẫn một lòng thương trong cá nhân người yêu nước Phan Chu Trinh, trong tâm khảm cũng như trên lãnh vực sử học và giáo dục. Ðó là sự khác biệt giữa con người và cầm thú, giữa những trái tim nhân ái VN và hạng súc sanh, không còn biết phân biện liêm sĩ làm nhục nhã thanh danh của tổ tiên mình.
Cộng Sản VN hiện nay đang điên cuồng đàn áp Phật Giáo, Tin Lành, Thiên Chúa Giáo và chà đạp nhân quyền, bất chấp công pháp quốc tế, dư luận trong và ngoài nước. Ðể vừa ăn cướp lại la làng, Hà Nội tổ chức rùm beng lể kỷ niêm 100 năm(1905-2005), đánh dấu ngày cụ Phan Bôi Châu, phát động phong trào Ðông Du cứu nước. Hành đông này tuy mới nhìn vào, làm ai cũng tưởng là Bắc Bộ Phủ đã ăn năn hối hận về sự lừa dối, phản bội các Ðảng phái Quốc Gia, khi chúng Hòa Hợp, Hòa Giải. Nhưng thấy vậy mà không phải vậy, vì mục đích chính ngày kỷ niệm trên, để VC có lý do chính đáng, làm sống lại huyền thoại Anh Thành xuất dương cứu nước, mà đồng bào VN, kể cả các đảng viên, gần như đã quên lãng, khi tất cả sự thật về Hồ Chí Minh và Ðãng VC Ðệ Tam Quốc Tế, đã bị lột trần muôn mặt trước bia miệng và lịch sử, khi công khai bán nước cho Trung Cộng, tham nhũng tàn bạo, đưa quốc dân vào vũng bùn ô nhục, nghèo đói hiện nay, không biết bao giờ mới thoát được cảnh địa ngục xã nghĩa thiên đàng .
Thành phố PhanThiết của tỉnh Bình Thuận có một ngôi trường yêu dấu mang tên nhà cách mạng Phan Bội Châu ra đời từ năm 1952 tới nay vẫn còn tồn tại. Trước tháng 4-1975, qua sự dẫn đắt của các vị Hiệu Trưởng và nam nữ giáo sư, trường Trung Học Công Lập Phan Bội Châu đã trở thành một lò luyện thép, đào tạo được nhiều anh hùng liệt nữ tỉnh nhà, hy sinh vì chính nghĩa Quốc Gia và Dân Tộc Việt. Những tên tuổi Trần Thiện Thanh, Lê Văn Quế, Huỳng Ngọc Ghênh, Trần Thiện Khải, Nguyễn Văn Biên và không biết bao nhiêu người khác nay đã đi vào những trang sử vàng của quê hương miền biển mặn.
Tiếc thay bia miệng thì truyền nhưng tên tuổi của họ cho tới bao giờ mới được đồng môn một lần nhắc tới dù chỉ một vài giây ngắn ngũi trong các lần hội ngộ, hội hè và ăn mừng tân niên tân xuân. Nhưng cũng không sao, vì cuộc đời biển dâu thời nay biết đâu mà mò ?
Xóm Cồn
Tháng 11-2007
Mường Giang
Nguồn: Anh Duong Online
http://www.nguoiviet4phuong.com/anhduong/index.php?option=com_content&task=view&id=1618
 http://xoathantuong.tripod.com/mg_hcmbd.htm

No comments:

Post a Comment