Kể chuyện đạo đức Bác Hồ - Văn Thanh Mai
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
trong toàn Đảng và trong toàn xã hội đang được triển khai. Tấm gương
đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nêu là: trung với nước, hiếu
với dân; yêu thương con người, sống có nghĩa có tình; cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng. Quyển sách Kể chuyện đạo đức Bác Hồ
của tác giả Văn Thanh Mai là những lời dạy của Người với hai thế hệ mầm
non của đất nước - đó là các cháu Thiếu niên nhi đồng và các cháu Thanh
niên - những mầm non, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hãy cùng
tìm đọc tác phẩm như một cách tự rèn luyện đạo đức của cá nhân theo lời
dạy của Bác, để góp một phần sức lực của mình, hoàn thành tâm nguyện của
Vị Cha Già kính yêu của Dân tộc.
Quyển sách Kể chuyện đạo đức Bác Hồ có cấu trúc gồm: Phần những lời dạy của Bác, tiếp là những câu chuyện cảm động viết về Người xoay quanh tình yêu thương vô bờ của Bác đối với các cháu Thiếu niên Nhi đồng và Thanh niên: - Phần A: Lời Bác dạy Thiếu niên, Nhi đồng - Phần B: Chuyện kể Bác Hồ với các cháu Thiếu niên, Nhi đồng - Phần C: Lời Bác Hồ dạy Thanh niên - Phần Đ: Chuyện kể Bác Hồ với Thanh niên Qua cuốn sách các em Thiếu niên, Nhi đồng và các bạn Thanh niên được học tập và hướng tới những điều tốt đẹp mà Bác Hồ đã từng mong muốn: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” hay “Thanh niên sẽ làm chủ nước nhà; Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh niên”
Quyển sách Kể chuyện đạo đức Bác Hồ nêu lên: đạo đức lấy con người làm gốc. Giáo dục, học tập về đạo đức phải đi đến thức tỉnh được lương tâm con người, làm cho mỗi người tự mình hình thành được trong mình một tòa án lương tâm đủ sức phán xét thật nghiêm khắc về đạo đức làm người của chính mình, có làm được như vậy, cuộc vận động học tập và làm theo gương đạo đức Bác Hồ mới có thể đạt được kết quả mong muốn. Suy nghĩ về các cấp độ đạo đức thì Bác Hồ chúng ta là tấm gương sáng tuyệt đẹp về cả bốn cấp độ:
Một là đạo đức làm người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Hai là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân về ý thức tổ chức và kỷ luật, ý thức tập thể, đặt cái “tôi” trong “chúng ta”.
Ba là đạo đức người chiến sĩ cộng sản, sống phấn đấu cho lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, triệt để giải phóng con người, có ý thức trách nhiệm trong vai trò tiên phong, gương mẫu lôi cuốn quần chúng theo Đảng, bền chí tự học, đóng góp cho Đảng “cái đầu lạnh” với “trái tim nóng”.
Bốn là luôn giữ đức khiêm tốn, sống giản dị, chống mọi đặc quyền đặc lợi, không thích được tâng bốc, sùng bái cá nhân.
Quyển sách tập hợp những mẩu chuyện ngắn, súc tích, cô đọng nhưng lồng vào đó là những lời khuyên hết sức cụ thể cho các bạn Thanh thiếu niên học tập và làm theo. Tạo tiền đề giúp các bạn phấn đấu trở thành Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh.
Thông tin tác giả
Đang cập nhật.
Thông tin thêm
Đang cập nhật.
http://www.lazada.vn/Ke-chuyen-dao-duc-Bac-Ho-Van-Thanh-Mai-40105.html
GIỚI THIỆU SẢN PHẨM
Tóm tắt nội dungQuyển sách Kể chuyện đạo đức Bác Hồ có cấu trúc gồm: Phần những lời dạy của Bác, tiếp là những câu chuyện cảm động viết về Người xoay quanh tình yêu thương vô bờ của Bác đối với các cháu Thiếu niên Nhi đồng và Thanh niên: - Phần A: Lời Bác dạy Thiếu niên, Nhi đồng - Phần B: Chuyện kể Bác Hồ với các cháu Thiếu niên, Nhi đồng - Phần C: Lời Bác Hồ dạy Thanh niên - Phần Đ: Chuyện kể Bác Hồ với Thanh niên Qua cuốn sách các em Thiếu niên, Nhi đồng và các bạn Thanh niên được học tập và hướng tới những điều tốt đẹp mà Bác Hồ đã từng mong muốn: “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” hay “Thanh niên sẽ làm chủ nước nhà; Phải học tập mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh niên”
Quyển sách Kể chuyện đạo đức Bác Hồ nêu lên: đạo đức lấy con người làm gốc. Giáo dục, học tập về đạo đức phải đi đến thức tỉnh được lương tâm con người, làm cho mỗi người tự mình hình thành được trong mình một tòa án lương tâm đủ sức phán xét thật nghiêm khắc về đạo đức làm người của chính mình, có làm được như vậy, cuộc vận động học tập và làm theo gương đạo đức Bác Hồ mới có thể đạt được kết quả mong muốn. Suy nghĩ về các cấp độ đạo đức thì Bác Hồ chúng ta là tấm gương sáng tuyệt đẹp về cả bốn cấp độ:
Một là đạo đức làm người về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Hai là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân về ý thức tổ chức và kỷ luật, ý thức tập thể, đặt cái “tôi” trong “chúng ta”.
Ba là đạo đức người chiến sĩ cộng sản, sống phấn đấu cho lý tưởng chủ nghĩa cộng sản, triệt để giải phóng con người, có ý thức trách nhiệm trong vai trò tiên phong, gương mẫu lôi cuốn quần chúng theo Đảng, bền chí tự học, đóng góp cho Đảng “cái đầu lạnh” với “trái tim nóng”.
Bốn là luôn giữ đức khiêm tốn, sống giản dị, chống mọi đặc quyền đặc lợi, không thích được tâng bốc, sùng bái cá nhân.
Quyển sách tập hợp những mẩu chuyện ngắn, súc tích, cô đọng nhưng lồng vào đó là những lời khuyên hết sức cụ thể cho các bạn Thanh thiếu niên học tập và làm theo. Tạo tiền đề giúp các bạn phấn đấu trở thành Thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh.
Thông tin tác giả
Đang cập nhật.
Thông tin thêm
Đang cập nhật.
http://www.lazada.vn/Ke-chuyen-dao-duc-Bac-Ho-Van-Thanh-Mai-40105.html
Tạp chí Tuyên giáo số 11 Về tác phẩm :
“Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh ( 5/12/2009)
Hồ
Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng, Người còn là một
Nhà văn hóa kiệt xuất được UNESCO vinh danh. Điểm đặc biệt là, dù không
chủ tâm làm văn chương, toàn bộ tâm trí Người dành cho sự nghiệp đấu
tranh giành độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam và nhân loại cần lao,
song cũng như nhiều anh hùng dân tộc trong lịch sử, Hồ Chí Minh “trong
khi đuổi giặc vẫn làm thơ”. Những tác phẩm văn chương của Người dù được
viết bằng tiếng Việt, tiếng Pháp, hay bằng chữ Hán, cũng đều “là những
thể hiện khác của con người Hồ Chí Minh qua cái nhìn của một nhà thơ”.
Khác
với tiếng nói lạc điệu của những kẻ phản động, những người cố chối bỏ
sự thật lịch sử, phủ nhận Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) của Hồ
Chí Minh, Nhật ký trong tù vẫn gắn với tên tuổi của Người. Là một tác
phẩm thơ đặc biệt (ra đời trong hoàn cảnh Hồ Chí Minh bị tù đày), có
giá trị lịch sử đặc biệt (ghi lại những tháng ngày đầy gian truân từ
29-8-1942 đến 10-9-1943, khi Hồ Chí Minh bị giải qua 13 huyện với 18
nhà lao(1) của tỉnh Quảng Tây), có một địa vị đặc biệt (bởi sau những
năm tháng lưu lạc, khi được dịch và công bố), những dòng nhật ký của
người tù Hồ Chí Minh năm nào đã làm “xáo trộn cả tâm hồn nhân loại” bởi
những giá trị nhân văn cao quý của một bậc đại nhân, đại trí, đại
dũng.
1.
Tháng 8 năm 1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, với danh nghĩa là người đại
diện của Việt Nam độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế chống xâm lược
của Việt Nam, Người lên đường sang Trung Quốc, tiếp kiến Tưởng Giới
Thạch, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Trung Quốc đối với tổ
chức cách mạng và cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật của nhân dân Việt
Nam. Song vừa đến phố Túc Vinh, huyện Đức Bảo (nay là Thiên Bảo), Người
bị lính của Trung tướng Trần Bảo Thương, chủ nhiệm Cục tình báo Trung
ương đóng ở Tĩnh Tây, bắt giam, vì tình nghi Người là gián điệp.
Việc
Trần Bảo Thương bắt người không được chính quyền Quảng Tây chấp nhận,
và đó là lý do chính của việc Người bị giải tới giải lui qua 18 nhà lao
của 13 huyện tỉnh Quảng Tây: từ Thiên Bảo đến Tĩnh Tây, từ Tĩnh Tây
lại trở về Thiên Bảo, rồi đi Đồng Chính, tới Nam Ninh, tiếp đến Vũ
Minh, Thiên Giang, (Lai Tân) Liễu Châu (là nơi đặt bản doanh của Đệ tứ
chiến khu do Trương Phát Khuê làm tư lệnh. Nhưng Bộ Tư lệnh quân khu
không phải là tòa án, nên sau khi giam mà không xử), Người lại bị giải
đi tiếp Quế Lâm, và cuối cùng Hồ Chí Minh lại bị đưa về Liễu Châu.
Khi
Hồ Chí Minh bị trả về Liễu Châu, cũng là lúc Hội Việt Nam Cách mạng
Đồng minh đang chuẩn bị họp Đại hội toàn quốc. Lúc này, Trung Quốc cũng
đang bắt tay chuẩn bị thực hiện kế hoạch “Hoa quân nhập Việt”, nhằm
đưa một tổ chức chính trị của người Việt Nam lưu vong từ Trung Quốc về
khi quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương. Từ nhiều kênh thông tin, dưới
nhiều áp lực và nhận thức được rằng, với uy tín của mình, Hồ Chí Minh
là người có thể giúp tham gia cải tổ tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng
Đồng minh, nên khác với những ngày tháng bị giam cầm, bị ăn đói, mặc
rét, “ghẻ lở mọc đầy thân”, và “không ngủ được”, phải “ngồi trên hố xí
đợi ban mai”, ở Liễu Châu lần này, Hồ Chí Minh được thăm hỏi, được ưu
đãi, từng bước nới lỏng, rồi được trả tự do. Tiếp đó, Người được mời
tham gia Ban trù bị Đại hội, rồi được bầu vào Ban Chấp hành.
Nhật
ký trong tù có 133 bài. Không kể bài Đề từ ở ngoài bìa không đánh số,
từ bài mở đầu Khai quyển (bài 1), đến bài thứ 100 chỉ có tên bài Liễu
Châu ngục (nhà ngục Liễu Châu, nhưng không có thơ), và bài Kết luận
(bài 133) cùng những dòng chữ cuối cùng của bài ghi rõ “hoàn”,
(29/8/1842-10/9/1943), Nhật ký trong tù là một cuốn sổ nhật ký, ghi lại
những sự việc, những cảm nhận, nỗi bất bình, tâm tư bị oan ức, ý chí
rèn luyện, tinh thần vượt qua mọi khó khăn, niềm hy vọng vào tương
lai,v.v.. của Hồ Chí Minh những lúc nhàn rỗi, cho khuây khoả, chứ đó
không phải là chủ đích sáng tác của Người, đúng như Người viết:
“Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do”(2).
Là
những bài thơ giản dị, phản ánh một hiện thực khắc nghiệt, nhưng Nhật
ký trong tù chứa đựng bao nhiêu cái phong phú, cái lớn lao như chính
cuộc đời Người. Nó góp phần làm nên “nhà thơ lỗi lạc Hồ Chí Minh” như
tác giả Chiến Kỳ đã viết trong bài đăng trên báo Quân đội nhân dân, số
733, từ 10/5-11/5/1960. Tâm tư và nỗi “đã bực lại buồn thay” của Người
khi bị oan ức “cùng là đại biểu cả, khinh trọng sao khác xa” (bài 35),
khi bị giải tới, giải lui thể hiện rõ trong bài 107: “Quảng Tây đi
khắp, lòng oan ức, Giải đến bao giờ, giải tới đâu?”(3) v.v... đã lắng
lại để làm nổi lên chân dung một người chiến sĩ cách mạng, tâm hồn, trí
tuệ của một nhà văn hoá. Hình ảnh Hồ Chí Minh toả sáng từ vẻ đẹp của
những bài thơ, bởi một tâm hồn thơ, bởi sự kiên trung trong ý chí, tinh
thần lạc quan cách mạng, tinh thần nhân đạo, lòng yêu nước, yêu thương
con người vô bờ bến của người cộng sản Hồ Chí Minh thấm đậm ở Nhật ký
trong tù.
Ra
đời trong bối cảnh từ cuối 1942 đến cuối năm 1943, trước hết 133 bài
thơ này không chỉ ghi lại cuộc hành trình gian khổ “Quảng Tây đi khắp
mười ba huyện, Mười tám nhà lao đã trải qua” của người tù Hồ Chí Minh,
mà còn “phản ảnh nhiều sự kiện chính trị thế giới, Trung Quốc và Việt
Nam diễn ra trong thời kỳ đó, gắn liền với các địa danh của tỉnh Quảng
Tây, với các nhân vật có họ tên cụ thể trong Bộ Tư lệnh Đệ tứ chiến khu
Quảng Tây,... Nhật ký trong tù còn phản ánh tâm hồn đại trí, đại nhân,
đại dũng của một nhà cách mạng đã vượt lên mọi sự đày ải của kẻ thù,
vượt qua mọi thử thách, giữ vững khí phách kiên cường, tinh thần lạc
quan và lòng nhân ái vô song của một nhà cách mạng đối với nhân loại
đau thương, bất kể họ là ai, nguồn gốc thế nào”(4).
Bản
thảo Nhật ký trong tù theo ông Hồ Đức Thành (người đã gặp Hồ Chí Minh
9/1943 ở Liễu Châu với tư cách là Biện sự xứ ở Long Châu và được Người
cho xem) vốn được Hồ Chí Minh viết nháp bằng bút chì, trên mép những tờ
giấy báo (Liễu Châu nhật báo) cắt ra khâu lại, bên ngoài đề “Ngục
trung sinh hoạt”. Sau khi được trả tự do, về sống ở trụ sở của Hội Việt
Nam Cách mệnh Đồng minh (đường Ngư Phong, Liễu Châu), Hồ Chí Minh đã
sửa chữa, hoàn thiện bản thảo, rồi chép lại bằng bút lông vào một cuốn
sổ tay khổ 9,5cm x 12,5cm và đặt lại tên là Ngục trung nhật ký (Nhật ký
trong tù). Trong quá trình chép lại có sửa chữa vào cuốn sổ, có bài đã
được Hồ Chí Minh đặt tên mà chưa kịp chép thơ (bài 100) và ngược lại
có hai bài đã chép thơ mà chưa kịp đặt tên (không kể bài Đề từ ở ngoài
bìa) là bài 106, 107.
Vì Nhật ký
trong tù ghi lại những cảnh sinh hoạt trong tù, sự khắc nghiệt vô nhân
đạo của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch, nên rất cẩn thận, Hồ Chí Minh
viết ở ngoài bìa lùi lại 10 năm: 29/8/1932 - 10/9/1933. Tuy nhiên, ở
cuối sách, bài Kết luận (bài 133) ở trang 53 (bản gốc), trên chữ “hoàn”
(hết), Hồ Chí Minh vẫn đề rõ: 29/8/1942 - 10/9/1943. Cũng theo ông Hồ
Đức Thành và Lê Tùng Sơn, những người đã từng được nghe Hồ Chí Minh đọc
thơ hoặc cho xem bản thảo tập Ngục trung sinh hoạt, thì sau khi Nhật
ký trong tù ra công khai, “có một số câu, một số chữ ban đầu có khác
với chính bản đã được tác giả sửa chữa và công bố sau này”.
2.
Tháng 8-1944, Hồ Chí Minh trở về nước, bắt đầu hành trình lưu lạc và
quá trình dịch, công bố tác phẩm này. Theo sách Hồ Chí Minh - Biên niên
tiểu sử, tập 2 (1930-1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006,
tr.220, trên đường về nước, Hồ Chí Minh “đã gửi lại một tấm chăn quân
dụng và một số sách vở giấy tờ, nhờ gia đình Nông Kỳ Chấn giữ hộ”. Sau
đó, trong bối cảnh bộn bề công việc, luôn phải di chuyển địa điểm, đồng
thời bị kẻ địch tăng cường lùng sục, một số đồ đạc, giấy tờ, trong đó
có cuốn Nhật ký trong tù của Người đã bị thất lạc.
Giữa
năm 1955, Phủ Chủ tịch nhận được một phong bì không đề tên người gửi,
chỉ ghi: Gửi Văn phòng Chủ tịch phủ để trình lên Bác Hồ. Sau khi nhận
chiếc phong bì đó, ông Tạ Quang Chiến đã mở phong bì, và thấy có một
cuốn sổ nhỏ viết bằng chữ Hán rất sạch sẽ, không có chỗ nào gạch xóa.
Ông đem trình lên Bác Hồ. Nhận và xem cuốn sổ ông Chiến trình, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nắm chặt tay ông nói: “Bác cảm ơn chú!” và dặn phải có thư
cảm ơn và tặng thưởng cho người có công giữ gìn và chuyển lại tài liệu
này(5).
Tháng 9-1955, một cuộc
triển lãm lớn về cải cách ruộng đất đã được tổ chức tại phố Bích Câu,
Hà Nội. Ngày 6-9-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm triển lãm. Nói
chuyện với cán bộ, nhân viên triển lãm, Người khen triển lãm công phu,
gây được ảnh hưởng tốt trong nhân dân, và hứa sẽ có quà thưởng cho Ban
tổ chức. Ông Hà Văn Kỉnh - Trưởng phòng Tuyên truyền và Sưu tầm tài
liệu của phòng Triển lãm cải cách ruộng đất Trung uơng được cử lên Phủ
Chủ tịch nhận quà. Đó là một cuốn sổ tay gáy bọc vải đen, bìa màu xanh
đã nhạt, và một tấm thẻ đại biểu (phù hiệu dự Đại hội các đoàn thể cách
mạng ở hải ngoại, họp tại Liễu Châu tháng 3-1944) cũng màu xanh lam,
trên có ghi tên Hồ Chí Minh bằng chữ Hán) cùng với lời dặn: “Các chú có
thể dùng để trưng bày, giới thiệu cho mọi người biết, trừ hai hàng chữ
nhỏ viết dọc bìa sau và hai phần ghi chép phía sau cuốn sổ”(6).
Cuốn
sổ và tấm phù hiệu đã kịp thời được Ban tổ chức đem ra trưng bày ngay
trong Triển lãm cải cách ruộng đất. Ngày 13-9-1955, Báo Nhân Dân đăng
bài viết của Phan Quang, trong đó kể lại: “Chúng tôi có được xem cuốn
sổ tay Nhật ký trong tù của Hồ Chủ tịch ghi từ ngày 29-8-1942 đến
10-9-1943 trong khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở ra nước ngoài hoạt
động và bị đế quốc giam giữ hơn một năm... Cuốn Nhật ký khổ nhỏ, giấy
bản màu vàng. Trang đầu có hình vẽ hai nắm tay rắn rỏi giơ lên phá tan
xiềng xích”.
Như vậy, sau một số
người được nghe, được nhìn thấy Nhật ký trong tù hồi ở Liễu Châu, lần
đầu tiên trong triển lãm này, nhân dân ta đã tận mắt nhìn thấy bản thảo
gốc Nhật ký trong tù. Năm 1957, báo Nhân Dân lại có bài viết về Quyển
Ngục trung nhật ký của Bác Hồ: “Tại phòng triển lãm những tài liệu cách
mạng, có một quyển vở nhỏ bằng giấy bồi, ngoài bìa có bốn chữ Ngục
trung nhật ký. Quyển nhật ký có hơn trăm bài thơ bằng chữ nho, ghi lại
tình trạng Bác ở tù” và “Quyển nhật ký ấy là một đoạn trong lịch sử hơn
40 năm đấu tranh gian khổ của Bác Hồ”.
Chỉ có điều, cho đến thời điểm đó, Nhật ký trong tù vẫn chưa được dịch và giới thiệu với đông đảo người đọc.
Sau
này, ông Trần Đắc Thọ cho biết: mãi đến năm 1959, ông Phạm Văn Bình,
lúc đó làm Trưởng ban Giáo vụ Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, có lần đến
kho lưu trữ của Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (phố Phan Bội Châu, để đọc
tài liệu về lịch sử Đảng), đã tình cờ tìm thấy một cuốn sổ nhỏ, đọc
thấy bốn chữ Hán Ngục trung nhật ký. Xem qua và biết là của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, ông đề nghị cho mượn về để dịch. Ông Văn Phụng - cán bộ
phiên dịch của Trường (đã dịch nghĩa và khiêm tốn ghi là lược dịch), và
dựa vào đó ông Phạm Văn Bình (bút danh Văn Trực) đã dịch ra thơ và gửi
đăng một số bài trên Văn nghệ (số 84, tháng 5-1959). Ông Bình đã đem
kết quả này báo cáo lên ông Trường Chinh và ông Tố Hữu, và ngay sau đó
một hội đồng dịch thuật tác phẩm Nhật ký trong tù được thành lập do ông
Nam Trân, nhà thơ đồng thời là nhà Hán học uyên thâm phụ trách với sự
tham gia của ông Văn Trực và nhiều người khác nữa.
Tháng
5-1960, bản dịch đầu tiên của Nhật ký trong tù đã kịp ra mắt bạn đọc
rộng rãi nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
với số lượng hơn 10 vạn bản. Bản dịch đầu tiên này mới chỉ chọn dịch,
đưa in có 114 bài trong tổng số 133 bài của Ngục trung nhật ký, không
kể bài Mới ra tù tập leo núi vốn ở ngoài 133 bài của tập Nhật ký trong
tù.
Trong các lần xuất bản sau,
bản dịch đã có sự chỉnh lý và bổ sung thêm. Đến cuốn Suy nghĩ mới về
Nhật ký trong tù (Nxb. Giáo dục, 1993) thì toàn bộ 133 bài của tập Nhật
ký đều đã được dịch, từ bài Đề từ không đánh số,bài Khai quyển - bài 1
đến bài Kết luận - bài 133 (tính cả bài Mới ra tù tập leo núi mới là
134 bài, vì bài Liễu Châu ngục - bài 100 trong nguyên cảo tuy có đầu
đề, nhưng không có bài thơ).
Vượt
không gian và thời gian, ngay từ khi mới được dịch và công bố năm
1960, Nhật ký trong tù đã được dịch và xuất bản bằng nhiều thứ tiếng.
Đầu tiên là Trung Quốc đã chọn in 100 bài trong nguyên cảo, xuất bản để
chào mừng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 70 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau
đó, Nhật ký trong tù đã lần lượt được dịch và xuất bản ở Nga (1960),
Mông Cổ (1962), Ba Lan (1962), Pháp (1963), Hunggari (1969), Đan Mạch
(1970), Mỹ (1971), Tiệp Khắc (1973), Nam Tư (1975), CHDC Đức (1976),
Anh (1962 và 1972), Hàn Quốc (2007), và còn được dịch ra tiếng Nhật,
tiếng Ảrập, quốc tế ngữ, v.v.. Hiện tại, trong kho cơ sở của Bảo tàng
Hồ Chí Minh đã có 20 bản sách Nhật ký trong tù dịch và xuất bản ở nước
ngoài.
Nhật ký trong tù là một
tác phẩm văn học vô giá của Hồ Chí Minh, khi công bố đã gây tiếng vang
lớn trên văn đàn quốc tế, đã chinh phục người đọc bởi những cảm xúc
chân thật, chất phác, điềm đạm của một người chiến sĩ cộng sản, một nhà
văn hoá lớn. Dịch giả Phan Nhuận cho rằng, ánh sáng đã phát ra từ sự
đau khổ, đã tạo nên lý trí và tình cảm, đã tạo nên con người hoạt động
và nhà thơ Hồ Chí Minh. Còn nhà thơ Xuân Diệu, thì khẳng định rằng:
“Nhật ký trong tù đứng vô song trong văn học nước ta, vì nó là những
tiếng tâm hồn của Hồ Chủ tịch”(7). Vì đó “là một ngọn đèn pha từ ngục
tối của ngày xưa đã chiếu sáng cái vĩ đại của Bác Hồ ngày nay là Chủ
tịch nước”, nên Nhật ký trong tù là những bài thơ đẹp nhất của một bản
hùng ca, một bài thơ sống, bài thơ vĩ đại con người hành động, “đã viết
bài thơ hành động, tạo nên bản hùng ca giải phóng nhân dân”(8).
Không
chỉ có thế, Jean Lacouture nhận định: “Nhân cách, học vấn và số phận
kỳ lạ của Cụ Hồ được thể hiện một cách khác thường trong các bài thơ
ấy”(9) và Echae Secnơ (Cộng hoà dân chủ Đức) trong bài viết cho bản
dịch thơ Nhật ký trong tù bằng tiếng Đức cũng nhấn mạnh: “Nhật ký trong
tù là sự bộc lộ bằng văn học của một nhân vật cách mạng sống, có vốn
học thức phi thường”.
Lelio
Basso, Giáo sư xã hội học trường Đại học Rôma- Italia viết rằng: Viết
trong lúc chờ đợi tự do, “những bài thơ trong tập Nhật ký trong tù do
Người viết bằng chữ Hán trong thời kỳ này và cũng là một trong các hoạt
động cách mạng hàng ngày”, và nhà thơ lớn Trung Quốc Quách Mạt Nhược
khẳng định: “Một trăm bài thơ hầu hết bài nào cũng đều toát ra hết sức
sinh động hình ảnh một nhà cách mạng lão thành, thanh thoát, tài trí,
ung dung, giản dị, kiên cường - ấy là đồng chí Hồ Chí Minh. Thật là,
“thi ư kỳ nhân” - thơ như người vậy... Có một số bài rất hay, nếu như
đặt lẫn vào một tập thơ của các thi nhân Đường - Tống thì cũng khó phân
biệt”.
Nhật ký trong tù gắn với
hành động, tên tuổi của nhà hoạt động cách mạng và người chiến sĩ cộng
sản quốc tế Hồ Chí Minh. Nhật ký trong tù là sự thể hiện một tư tưởng
nhất quán trong con người Hồ Chí Minh “không tách rời thơ ca với thực
tiễn cách mạng, kết hợp người chiến sĩ và nhà thơ cách mạng ở một con
người” như tiến sĩ văn học Nga N.I.Niculin từng viết. Nhưng để chống
lại việc UNESCO tôn vinh Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phóng dân tộc và
Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, các thế lực chống đối Hồ Chí Minh
ở nước ngoài đã thuê ông Lê Hữu Mục phá rối, viết bài phủ nhận Hồ Chí
Minh là tác giả Ngục trung nhật ký. Tháng 8-1989, các bài viết ấy được
đăng nhiều kỳ trên tạp chí Làng văn (Canada), đến tháng 11-1990, được
Văn bút hải ngoại xuất bản thành sách và giờ đây nó lại xuất hiện trong
đĩa DVD: Sự thật về Hồ Chí Minh.
3.
Sự thật Nhật ký trong tù là những bài thơ trong ngục của Hồ Chí Minh
trong thời gian Người bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, và
sự thật ấy Lê Hữu Mục đã biết. Song vì phải xuyên tạc, đổi trắng thay
đen, cho nên Lê Hữu Mục đã tập hợp những điều ngụy tạo, với những lập
luận vụng về, sơ đẳng khi nêu bìa sách Ngục trung nhật ký đề niên đại
rõ ràng 29/8/1932 – 10/9/1933, nhưng lại gán cho Hồ Chí Minh sáng tác
vào 1942-1943!
Không đọc những
công trình nghiên cứu về Nhật ký trong tù, Lê Hữu Mục cho rằng vào thời
gian (1932-1933), Hồ Chí Minh chưa đủ thành thạo chữ Hán để làm thơ,
mà đó là của Già Lý, người từng bị giam chung với Tống Văn Sơ (tên gọi
Hồ Chí Minh) trong nhà ngục Victoria ở Hồng Kông thời kỳ 1931-1933. Đặc
biệt, Lê Hữu Mục và những kẻ làm phim Sự thật về Hồ Chí Minh còn cố
tình căn cứ vào những tình tiết của nội dung, cách sử dụng từ ngữ,
phong cách nhật ký, văn bản học... để so sánh, đối chiếu và nhấn mạnh:
Ngục trung nhật ký có nhiều bài thơ đề cao sức mạnh tinh thần, tâm
linh, định mệnh, v.v... trong khi đó, Hồ Chí Minh là người duy vật nên
đó không phải là thơ của một người cộng sản; và trong tập thơ có một số
bài thể hiện tình thương cây cỏ, loài vật... nên đó càng không phải là
ngôn ngữ của người cộng sản, của nhà cách mạng lão thành.
Lê
Hữu Mục bịa câu chuyện “bút đàm”, “xướng họa” trong tù giữa Hồ Chí
Minh và Già Lý, từ đó thừa nhận Ngục trung nhật ký có hai tác giả: một
Hoa, một Việt! Trong Ngục trung nhật ký có hai loại thơ, những bài
Đường thi trữ tình, sâu sắc, đẹp, có giá trị là thơ của Già Lý, còn
những bài thơ tự sự là thơ của Hồ Chí Minh. Bằng những lý giải thô
thiển, đối lập máy móc tự sự với trữ tình, coi đó là hai phong cách
tách rời, Lê Hữu Mục nâng Nhật ký trong tù lên thành một nghi án văn
chương. Trơ trẽn hơn, ông ta còn thủ đoạn trích dẫn cắt xén, giải thích
xuyên tạc bài viết của các nhà nghiên cứu có tên tuổi như Giáo sư Đặng
Thai Mai, Hoài Thanh, Lê Trí Viễn... để chỉ ra rằng các vị đó cũng
hoài nghi, thắc mắc về Nhật ký trong tù như tâm địa u tối của ông ta.
Lê
Hữu Mục đã bằng lập luận thiếu logic, dùng phương pháp văn bản học một
cách nửa vời, và phương pháp nghiên cứu thiểu năng để khẳng định Ngục
trung nhật ký không phải là của Hồ Chí Minh. Đó là không đối chiếu văn
bản, bút tích, không so sánh về tư tưởng, ngôn ngữ, phong cách nghệ
thuật, không so sánh về dấu ấn không gian, thời gian, nhân vật, sự
kiện... được đề cập trong tác phẩm, mà chỉ dựa vào đôi dòng trong cuốn
Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, trong đó kể rằng ở
nhà ngục Victoria, nơi ông Nguyễn bị giam tại Hồng Kông, “có một tướng
cướp già họ Lý giỏi chữ Trung Quốc, làm được thơ, có một cô con gái
nuôi là Bành Hương” để khẳng định thơ đó là thơ của Già Lý và kêu gọi
“Bành Hương hãy làm chứng cho cha!”.
Chỉ
nêu ra một số sự kiện lịch sử, địa danh, khoảng thời gian và tư tưởng
của Người thể hiện qua 133 bài thơ của Nhật ký trong tù cũng có thể
khẳng định rằng: Nhật ký trong tù là do Hồ Chí Minh viết trong khoảng
13 tháng bị giam cầm (1942- 1943) trong nhà giam của tỉnh Quảng Tây.
Còn những lập luận nguỵ tạo chỉ là sự lố bịch.
Nhật
ký trong tù ghi lại hơn 13 tháng Hồ Chí Minh bị giam cầm ở Quảng Tây,
phù hợp với khoảng thời gian ghi ở bài thơ cuối cùng của tập thơ:
29/8/1942- 10/9/1943. Còn ở bìa đầu sách, nhằm tránh sự phiền hà, Người
đã ghi lùi lại 10 năm, 8/1932 - 9/1933, và khoảng thời gian ghi lùi
lại để nghi binh này cũng là 13 tháng. Trong khi đó, ở Hồng Kông, Người
bị giam gần 20 tháng (6/1931 - 1/1933), và khi Hồ Chí Minh bị giam vào
ngục Victoria, Lý đã giam gần 7 năm, sau vụ giết tên cai ngục người
Anh, Lý bị đưa ra toà án và chịu thêm án tù 7 năm nữa.
Nhật
ký trong tù đề cập những địa danh thuộc tỉnh Quảng Tây, không phải ở
Hồng Kông: Túc Vinh, Tĩnh Tây, Long Tuyền, Điền Đông, Thiên Bảo, Quả
Đức, Đồng Chính, Long An, Nam Ninh, Liễu Châu, Quế Lâm v.v…“Quảng Tây
đi khắp mười ba huyện”, còn ở Hồng Kông, Người chỉ bị giam ở nhà ngục
Victoria.
Nhật ký trong tù đề cập
những sự kiện xảy ra trong thời gian 1942-1943: (W. Willkie, đại biểu
Mỹ đến Trùng Khánh; hai bài thơ gửi Nêru; câu thơ Hoàn cầu bốc lửa rực
trời xanh (ý nói Đại chiến thế giới II đang diễn ra ác liệt); Trung Hoa
kháng chiến 6 năm chầy (tính từ vụ Lư Cầu Kiều 9-1937 đến 1943 là 6
năm); Bọn quỷ Na-zi tội đứng đầu (nói về tội ác Đức quốc xã trong chiến
tranh thế giới thứ hai)...
Nhật
ký trong tù, nêu tên những nhân vật: Nêru, Dương Đào, ông Mạc, ông
Quách, Hoàng Khoa Viên, Trần Khoa Viên, Trung tướng Lương Hoa Thịnh,
Thiếu tướng Hầu Chí Minh,... không phải là Già Lý, không có Bành Hương,
không có luật sư Lôdơby như khi ở nhà ngục Hương Cảng.
Nhật
ký trong tù thể hiện khát vọng độc lập, tự do, và được thể hiện nhất
quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Thà chết không cam nô lệ mãi (Nhật ký
trong tù); “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ!” (19-12-1946); “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do” (1967), v.v..
Nhật
ký trong tù thể hiện nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh: dùng văn chương
làm vũ khí để chiến đấu chống kẻ thù, đó là “Nay ở trong thơ nên có
thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong”, và sau đó là: “Văn học nghệ
thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận
ấy”v.v...
Nói về Nhật ký trong
tù, Giáo sư Đặng Thai Mai trong bài trả lời phỏng vấn đã nhấn mạnh, Hồ
Chí Minh là người thi sĩ đầu tiên “đã đưa vào thơ chữ Hán của Việt Nam
một nội dung mới... Qua tập thơ, người đọc rất dễ dàng nhận rõ tư tưởng
và tình cảm của một chiến sĩ cộng sản đối với Tổ quốc và nhân dân
Trung Quốc, dưới những ngày đất nước Trung Hoa còn quằn quại dưới sự
thống trị của bè lũ Tưởng Giới Thạch”(12).
Và
Giáo sư Hoàng Tranh - Trung Quốc, trong cuốn sách Hồ Chí Minh với
Trung Quốc, Nxb. Sao mới, xuất bản 8/1990, tr.148-149 đã viết: “Các bài
thơ trong ngục của Hồ Chí Minh có thể nói là tập sử thi, nó kể lại
quãng đời trong ngục của Hồ Chí Minh ở các nhà giam, nhà tù chính quyền
Quốc dân đảng ở Quảng Tây, phản ánh chân thực một phần bộ mặt xã hội
Trung Quốc trong khoảng thời gian từ năm 1942-1943”.
Tìm
hiểu lại sự ra đời, quá trình lưu lạc, dịch và công bố Nhật ký trong
tù- tác phẩm thơ quý giá của Hồ Chí Minh gắn liền với 13 tháng bị giam
cầm (1942-1943) ở Quảng Tây, Trung Quốc, chúng ta hiểu sâu sắc hơn
những giá trị mà Hồ Chí Minh chiến đấu và hướng tới. 40 năm sau khi Hồ
Chí Minh đi xa, ánh sáng trí tuệ và những phẩm cách cao quý của Hồ Chí
Minh toả sáng từ Nhật ký trong tù, những nhìn nhận, đánh giá của các
nhà khoa học, những người nghiên cứu, phê bình văn học trong nước và
quốc tế về Nhật ký trong tù v.v... càng làm cho các thế hệ người Việt
Nam cảm thấy xúc động và tự hào về người anh hùng giải phóng dân tộc và
Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam như UNESCO đã vinh danh. Hồ Chí
Minh là Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng con người. Đó cũng chính là sự nghiệp văn
hoá, nhân văn cao cả nhất, nó đồng điệu với ánh sáng toả ra từ những
hoạt động sáng tạo văn hoá, từ những bài thơ của Nhật ký trong tù ra
đời cách đây gần 70 năm (1942-1943).
Chỉ
ra những nghi ngờ vô căn cứ, những thủ đoạn bôi nhọ gượng ép của Tiến
sĩ Lê Hữu Mục, của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, của nhóm làm phim Sự thật về
Hồ Chí Minh cũng chỉ muốn khẳng định rằng, sự thật sẽ trường tồn. Sức
sống bền vững của tác phẩm Nhật ký trong tù, nhân cách của Hồ Chí Minh
toả ra từ tác phẩm sẽ còn đọng lại mãi trong trái tim và khối óc của
những người yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý, và đó là sự tự khẳng
định hùng hồn nhất trước mọi sự xuyên tạc, trước những lời ngụy tạo,
những âm mưu, toan tính, dù họ mang danh là ai và có chủ đích gì./.
---------------
(1)
Theo Nhật ký trong tù bản gốc và bản dịch các lần đã xuất bản 1960,
1993, 2003, trong Bài 108- Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết: “Quảng Tây giải khắp mười ba huyện, Mười tám nhà lao
đã ở qua”. Còn trong Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất bản 1995, tập 3, trang
628, phần chú thích số 29 ghi: “Trong hơn một năm trời, Người lần lượt
bị giam trong khoảng 30 nhà tù của 13 huyện ở tỉnh Quảng Tây”. Ở bài
viết này, tác giả sử dụng thông tin của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết chính
trong tác phẩm Nhật ký trong tù.
(2), (3) Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Nxb. CTQG, H, 2003, tr.85, 215
(4) ................
(5)
Tuy nhiên, theo ông Trần Đắc Thọ (băng ghi âm gửi cho Bảo tàng Hồ Chí
Minh): người nhận cuốn sổ tay là ông Hồ Viết Thắng, lúc đó là Phó ban
Cải cách ruộng đất Trung ương, từ gia đình một đồng bào người dân tộc
(chưa rõ ở Cao Bằng hay Long Châu?) chuyển đến. Chính tay ông Hồ Viết
Thắng đã trực tiếp chuyển lên cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(6) Theo lời kể của ông Hà Văn Kỉnh, người nhận cuốn sổ, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(7) Xuân Diệu, Yêu thơ Bác, Tạp chí Văn học, số 5/1996, 1-11
(8) Axtơrôginđô Pêrêira, Đọc Nhật ký trong tù, báo Nhân dân chủ nhật, 21-1-1962
(9) J. Lacouture, Hồ Chí Minh, Seuil, Paris, 1967, tr.62-63.
(10) Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, Nxb. KHXH, H, 1979, tr.539-542
(11) Quách Mạt Nhược, Cảm tưởng sau khi đọc tập thơ Nhật ký trong tù, báo Nhân Dân, ra ngày 13-11-1960.
(12) Hồ Chí Minh, Nhật ký trong tù, Sđd, tr.342
TS. Văn Thị Thanh MaiBảo tàng Hồ Chí Minh http://tuyengiao.vn/Home/MagazineStory.aspx?mid=46&mzid=335&ID=951 VỤ ÁN NGUYỄN ÁI QUỐC Ở HỒNG KÔNG VÀ TÌNH BẠN THỦY CHUNG HỒ CHÍ MINH - LOSEBY
Mùa xuân năm 1930, sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị hợp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ tiếp tục ở lại Hồng Kông, hoạt động cách mạng. Người ở tại ngôi nhà 186 phố Tam Kung, Cửu Long - Hương Cảng, và nơi đó trở thành trụ sở liên lạc bí mật giữa Nguyễn Ái Quốc và một số đồng chí khác.
1. Nguyễn Ái Quốc những năm 1931-1933
Kể từ khi thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ký tên vào bản Yêu sách của nhân dân An Nam
gửi hội nghị Vecxay - Pháp, cho đến khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một nhân vật quan trọng trong kế hoạch
lùng bắt của thực dân Pháp. Vì vậy, hoạt động giữa vòng vây của nhiều
kẻ thù, kèm theo một án tử hình vắng mặt của toà Đại hình Vinh theo
phán quyết số 115 (10-10-1929), cùng lệnh truy nã ráo riết của thực dân
Pháp luôn là những khó khăn, là những hiểm nguy cận kề đối với Nguyễn
Ái Quốc. Trong khi những bản tin hàng ngày của cảnh sát hình sự Bắc Kỳ
luôn cập nhật những thông tin hoạt động và ảnh của Nguyễn Ái Quốc: “Tin
tình báo: Đã ở lâu năm tại Mỹ, Anh, Pháp và Nga, hiện nay có lẽ đang ở
Viễn Đông, có thể là Đông Dương”([1]),
thì dù đã rất cẩn trọng nhưng thật không may, địa chỉ Nguyễn Ái Quốc ở
Hồng Kông đã vô tình rơi vào tay mật thám Anh (khi cảnh sát Xingapo
bắt dược Sécgiơ Lơphơrăng - Serge Lefranc). Cuộc mặc cả giữa mật thám
Pháp ở Đông Dương và mật thám Anh ở Hồng Kông, kèm theo những điều kiện
có lợi cho cả hai bên đã dẫn đến cuộc vây ráp, bắt lén Nguyễn Ái Quốc -
Tống Văn Sơ ở số nhà 186 Tam Kung - Hương Cảng (6-6-1931).
Thực
dân Pháp rất mừng trước việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt. Toàn quyền Rôbanh
(Robin) đã điện từ Hà Nội vào báo tin cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp,
Bộ Ngoại giao Pháp và Tổng Lãnh sự Pháp tại Hồng Kông về “niềm vui bất
ngờ này” và đồng thời mở cuộc vận động chính quyền Hồng Kông giao
Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền Pháp bằng cách dẫn độ về Đông Dương hoặc
giam giữ ở một nơi xa xôi nào đó của Anh trên nguyên tắc “có đi có
lại”, chứ tuyệt nhiên không được “trả tự do” cho Người, vì “trả tự do
cho con người vô cùng năng động và nguy hiểm này là khả năng cần phải
tránh bằng mọi giá”([2]).
Không chỉ có vậy, nhấn mạnh việc “trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc chỉ có
thể làm trầm trọng thêm những hoạt động có hại của phong trào Đông
Dương”, chính quyền Pháp còn vận động chính quyền Anh ở Luân Đôn giao
Nguyễn Ái Quốc cho chúng, v.v..
Trong
khi đó, biết tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt, Hồ Tùng Mậu, qua Liên đoàn
Quốc tế cứu tế đỏ đã đến gặp luật sư Lôdơbi (Francis Henry Loseby) -
một luật sư tiến bộ người Anh ở Hồng Kông nhờ giúp đỡ. Việc bắt lén
người trái pháp luật đã bị bại lộ khi báo chí đồng loạt đưa tin sự kiện
Nguyễn Ái Quốc bị bắt. Và để hợp pháp hóa việc bắt giữ, Thống đốc Hồng
Kông đã phải ra lệnh bắt giam Người nhiều lần và Sở cảnh sát Hồng Kông
buộc phải đồng ý để luật sư vào gặp Tống Văn Sơ (24-6-1931).
Luật
sư đã tìm cách bào chữa và ngăn cản âm mưu của chính quyền Hồng Kông
giao nộp Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương. Gặp
gỡ và hỏi chuyện Tống Văn Sơ ở nhà lao, sau khi tiếp xúc và trả lời
những câu hỏi liên quan đến vụ án mà luật sư nêu ra, người tù Tống Văn
Sơ cảm ơn sự quan tâm của luật sư đối với mình, và tỏ ý băn khoăn vì
không có tiền để trả công cho ông. Trước một người thanh niên Việt Nam
gầy, xanh, song vẻ cương nghị, sự thông minh trong từng câu nói bằng
tiếng Anh và đôi mắt sáng đã làm luật sư xúc động. Luật sư chân tình
nói: Tôi nhận giúp vì danh dự chứ không phải vì tiền. Luật sư nói sẽ ra
sức cứu giúp, mong người tù hãy tin tưởng và hãy cung cấp cho luật sư
những điều gì có thể giúp trong việc bênh vực…Và rằng, biết được mỗi
người cách mạng đều có bí mật riêng của họ, nên ông đã không muốn hỏi
thêm nhiều nữa…
Thời
gian Tống Văn Sơ bị giam giữ cũng đồng thời là khoảng thời gian nước
rút của cuộc đua giữa một bên là gia đình luật sư và những người bảo vệ
Tống Văn Sơ, một bên khác là sự cấu kết, có điều kiện của mật thám Anh
và mật thám Pháp muốn hãm hại Tống Văn Sơ. Dưới sức ép của dư luận và
những phương tiện thông tin báo chí như: Báo Nhân Đạo của Đảng
Cộng sản Pháp ngày 19-6-1931 đăng bài “Bọn đế quốc câu kết với nhau.
Người Anh đã bắt nhà cách mạng An Nam ở Thượng Hải” - thực chất Người bị
bắt ở Hồng Kông và khẳng định: “Vụ bắt Nguyễn Ái Quốc không dập tắt
được làn sóng cách mạng của nhân dân Đông Dương”. Báo Điện tín Hồng Kông
ngày 22-6-1931 thì đưa tin “Một vụ bắt giữ quan trọng ở Hồng Kông.
Thành công của Chính phủ Pháp. Nhà lãnh đạo An Nam bị bắt”, còn báo Bưu điện Hoa Nam
buổi sáng ngày 20-7-1931 khi đang bài “Vụ án Nguyễn- Người yêu nước” đã
đưa ra câu hỏi đặt ra trong Phủ Toàn quyền Đông Dương là” hiện Nguyễn
Ái Quốc có bị trục xuất hay không”, v.v.. luật sư Lodơbi đã đưa vụ án
Tống Văn Sơ ra xử trước Tòa tối cao.
Lần
đầu tiên trong lịch sử thuộc địa, Toà án tối cao phải xét xử một bản
án chính trị. Tính chất đặc biệt của vụ án, sự giúp đỡ cùng tài trí của
luật sư và người cộng sự, sự thông minh và nhất quán trong từng câu
trả lời của Tống Văn Sơ đã buộc toà án phải xét xử một cách công khai.
Tống Văn Sơ phải trải qua ba cuộc thẩm vấn của Thư ký Trung Hoa vụ Hồng
Kông và 9 phiên toà xét xử tại Hồng Kông (ngày 31-7-1931 là phiên thứ
nhất, diễn ra trong không khí căng thẳng, quyết liệt và phiên cuối cùng
kết thúc vào ngày 12-9-1931).
Luật
sư Gien Kin (F.C. JenKin), người cộng sự thay mặt luật sư Lôdơbi bào
chữa trước toà cho Tống Văn Sơ suốt chín phiên đã vạch ra những điểm sai
trái, vi phạm luật của chính quyền Hồng Kông. Ngay phiên thứ nhất
(31-7-1931), luật sư đã cho rằng: “Những bị can đã bị cảnh sát bắt ngày
6 tháng 6 mà không có lệnh bắt giữ là một việc làm bất hợp pháp”([3]). Ở phiên thứ hai
(14-8-1931) thì ông nhấn mạnh: “Chỉ có chính quyền mới là người có
quyền trục xuất ngay tức khắc và ban hành bất cứ một lệnh nào. Yêu cầu
Tòa đề nghị công tố bảo đảm không thực hiện lệnh trục xuất chừng nào
tính pháp lý của lệnh đó chưa được khẳng định”([4]).
Cũng tại phiên thứ hai, luật sư cho rằng: lời khai có tuyên thệ của
Tống Văn Sơ tố cáo nội dung thẩm vấn của ban Thư ký Trung Hoa vụ do Công
tố Alabaxtơ đọc không đúng luật, trong đó nêu rõ ý kiến của nguyên đơn
là nếu bị “trục xuất đến Đông Dương, tôi (Tống Văn Sơ) sẽ bị giết, dù
có xét xử hay không xét xử”. Phiên tòa thứ ba (15-8-1931) là một
cuộc tranh cãi về trục xuất, và phản đối việc giao nộp Tống Văn Sơ cho
người Pháp…trong đó Tống Văn Sơ nói rằng” Tôi không muốn bị trục xuất.
Tôi muốn được tự do… tôi muốn được sang Anh quốc”([5]). Tiếp theo, trong phiên thứ tư
(20-8-1931), Tòa tuyên bố lệnh trục xuất thứ nhất là sai do nội dung
thẩm vấn sai, và Công tố tuyên bố lệnh trục xuất thứ hai vừa được ban
hành vào chiều ngày thứ 7 (15-8). Luật sư cho rằng việc ban hành một
lệnh mới giữa hai phiên tòa là sai trái…Tại phiên tòa thứ năm
(24-8-1931), luật sư đề nghị Tòa áp dụng Luật Bảo thân (Habeas Corpus)
cho Tống Văn Sơ. Điểm đặc biệt của phiên này là những lời chỉ trích mạnh
mẽ Hội đồng hành pháp về “sự lừa dối và bịp bợm”. Theo luật sư cả hai
lệnh trục xuất (lệnh trục xuất và lệnh buộc phải lên một tàu biển) cũng
đều bất hợp pháp… Ông cho rằng “lệnh trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Đông
Dương thực chất là sự dẫn độ trá hình nhằm đưa Nguyễn Ái Quốc vào chỗ
chết”. Và lệnh trục xuất có điều kiện này chính là nhằm pháp hóa nội
dung bức thư ngày 31-7-1931 của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp gửi Bộ
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp nói Bộ Thuộc địa Anh hứa sẽ làm mọi cách để
ngăn chặn Nguyễn Ái Quốc trên tinh thần “sẽ yêu cầu Bộ Thuộc địa làm mọi
cách để kẻ phiến loạn Đông Dương này không thể tiếp tục hoạt động được
nữa”.
Trong phiên thứ sáu
(25-8-1931), luật sư yêu cầu Công tố tuyên bố tài liệu đánh máy câu hỏi
và câu trả lời của Tống Văn Sơ do Trung Hoa Thư ký vụ đưa ra, trong đó
nêu Tống Văn Sơ cung khai bí danh thứ ba Nguyễn Ái Quốc “là tài liệu
giả” để ép cung. Trước tòa, công tố viên đã đọc lời khai của Tống Văn Sơ
trong các phiên thẩm vấn, nhưng Người đã không công nhận những điều
xuyên tạc trong biên bản, đồng thời, sự thông minh, nhất quán và thận
trọng trong từng câu trả lời, đã khiến Tòa không thể khép Người vào bất
cứ tội danh nào để đưa về Đông Dương. Đến phiên thứ bảy
(2-9-1931), những tình tiết cụ thể cho thấy: sự thừa nhận Tống Văn Sơ bị
bắt, bị giam giữ bất hợp pháp cho thấy chính quyền Hoàng gia có hai
đuối lý theo điều khoản trong sắc lệnh của Hồng Kông, vì vậy: trục xuất
Tống Văn Sơ nghĩa là “không thể làm cho việc giam giữ bất hợp pháp trở
thành hợp pháp bằng việc ban hành một lệnh hợp lệ”([6]).
Vấn đề đòi trả tự do cho Tống Văn Sơ không được giải quyết dứt điểm
tại Tòa Hồng Kông, bởi rằng: dù biết Nguyễn Ái Quốc vô tội, biết chính
quyền thực dân Pháp muốn đưa Người về Đông Dương để in án tử hình, song
để “không làm mất lòng nhau”, chính quyền Luân Đôn vẫn chỉ thị Thống
đốc Hồng Kông ra lệnh trục xuất Nguyễn Ái Quốc về Đông Dương. Trong phiên thứ tám
(11-9-1931), mặc dù đã thừa nhận những điều sai trái trong quá trình
bắt Người, song Tòa vẫn quyết định thực hiện lệnh trục xuất Nguyễn Ái
Quốc. Luật sư GienKin đã kịch liệt phản đối về tính hợp pháp lệnh trục
xuất của Thống đốc, và thông báo sẽ kháng án lên Hội đồng Cơ mật. Và
phiên cuối cùng - phiên thứ chín (12-9-1931), Tòa đã cho phép
kháng án lên Hội đồng Cơ mật và chỉ thị rằng: hồ sơ phải được chuẩn bị
và gửi đi trong vòng ba tháng.
Tiền
án phí và những thủ tục bắt buộc đã được luật sư lo liệu đầy đủ và hai
người bạn của luật sư là luật sư Đơnít Nôen Pơrít (Denis Noel Pritt)
và Risớt Xtaphớt Cơríp (Stafford Cripps) đã nhận lời giúp đỡ Tống Văn
Sơ. Theo luật sư Risớt Xtaphớt Cơríp, vụ án này là một biểu hiện rất
xấu cho chính quyền Hồng Kông và Bộ Thuộc địa, và nếu xét xử, thì chắc
chắn Nguyễn Ái Quốc thắng lợi, vì lệnh trục xuất của Thống đốc Hồng
Kông đã vượt quá giới hạn. Trên cơ sở đó, để không làm mất uy tín của
chính quyền Hồng Kông, luật sư đại diện Bộ Thuộc địa Anh đã tìm cách
thoả thuận với luật sư của Tống Văn Sơ. Kết quả của cuộc thoả thuận
(vẫn thực hiện lệnh trục xuất của Thống đốc Hồng Kông, nhưng hủy bỏ
lệnh phải đi trên một con tàu của Pháp, đến một địa điểm thuộc lãnh thổ
của Pháp, mà được tự do lựa chọn nơi mình đến) đã được trình lên nhà
Vua, được nhà Vua đồng ý. Toà án Viện Cơ mật Hoàng Gia Anh đã đồng ý
trả tự do cho Tống Văn Sơ, và ngày 28-12-1932, Tống Văn Sơ định đi đến
nước Anh, song khi đi đến Xinhgapo, Tống Văn Sơ lại bị chính quyền sở
tại buộc quay trở lại Hồng Kông và ngày 19-1-1933, Người lại bị bắt
giam.
Ngay
khi ấy, Người đã kịp thời viết thư báo tin cho luật sư Lôdơbi và nhờ
ông giúp đỡ. Luật sư đã đề nghị Thống đốc Hồng Kông can thiệp, và Thống
đốc đã buộc phải ra lệnh thả Tống Văn Sơ và hạn trong ba ngày Tống Văn
Sơ phải rời khỏi Hồng Kông. Một lần nữa gia đình luật sư Lodơbi lại
bênh vực và cứu Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù. Kế hoạch di chuyển và bí
mật tổ chức cho Tống Văn Sơ trốn đã được vạch ra. Khi ở tạm thời trong
Ký túc xá Hội Thanh niên Thiên chúa giáo Trung Hoa (YMCA), khi thì ở
ngay trong nhà của luật sư Lodơbi, cuối cùng ngày 22-1-1933, Nguyễn Ái
Quốc - Tống Văn Sơ đã cải trang thành một thương gia Trung Quốc giàu
có, và với một viên thư ký tháp tùng (thư ký của luật sư, tên Lung Ting
Chang), Người đi xuồng ra khơi, rồi lên tàu Anhui đi Hạ Môn (Amoy). Bí
mật rời Hồng Kông, tàu cập bến Hạ Môn vào ngày 25-1-1933, vừa đúng 30
Tết âm lịch.
Ở
Hạ Môn một thời gian, Người lên Thượng Hải, và sau khi nhờ bà Tống
Khánh Linh giúp đỡ, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc được với Quốc tế Cộng
sản và trở về Liên Xô an toàn sau đó.
2. Tình bạn thủy chung Hồ Chí Minh - Lôdơbi
Sau
khi rời khỏi Hồng Kông, Nguyễn Ái Quốc đã hai lần viết thư cho luật sư
Lôdơbi, nhưng vì sợ nhà cầm quyền tìm ra địa chỉ của Người nên luật sư
đã không trả lời. Trong thời gian đó, Tống Văn Sơ tiếp tục hành trình
tìm đường giải phóng dân tộc. Mùa xuân năm 1941, Người trở về Tổ quốc,
trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước. Và giương cao ngọn cờ
độc lập, tự do, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Hồ Chí Minh đứng
đầu, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa thu năm 1945 đã thành công.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, và người Thanh niên Việt Nam
-Tống Văn Sơ được gia đình luật sư cứu giúp năm nào ở Hồng Kông, giờ đây
trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Vẫn tiếp tục đấu
tranh cho hoà bình, độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã giành được thắng lợi
sau 9 năm kháng chiến gian khổ. Tuy nhiên, để có một nền hoà bình trọn
vẹn ở cả hai miền Nam, Bắc, nhân dân Việt Nam vẫn phải tiếp tục vừa xây
dựng CNXH ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng ở miền
Nam.
Là
lãnh tụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bộn bề công việc, song dù bận,
Người vẫn không quên gửi thư, thiếp và quà đến gia đình luật sư Lodơbi
mỗi dịp Nôen, khi Xuân về, Tết đến. Năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư và ảnh của Người đến gia đình luật sư và gia đình luật sư cũng đã
gửi thư và ảnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mùa xuân năm 1960, nhận lời
mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hai vợ chồng luật sư cùng người con gái
đã sang ăn Tết cổ truyền với nhân dân Việt Nam (26-1 đến 3-2-1960),
thăm đất nước mà họ đã từng được nghe qua lời kể của người tù từ năm
1931. Trong chuyến đi thăm Vịnh Hạ Long, mỏ than Cẩm phả, thăm Bảo tàng cách mạng Việt Nam, nhà máy Cơ khí Hà Nội, Trại nhi đồng miền Nam tại Hà Nội,..
câu chuyện kể về “cành đào Lôdơbi”, tấm thịnh tình của người dân Việt
Nam tri ân gia đình luật sư Lôdơbi - những người đã có công cứu thoát
người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hiểm nghèo, đã
không chỉ làm đẹp thêm những phẩm cách thủy chung, cao quý của người
dân đất Việt, mà còn làm ấm lòng những vị khách quý của Bác Hồ.
Trở
về Hồng Kông, luật sư đã viết thư cho Chủ tịch Hồ Chí Minh
(19-2-1960), bày tỏ lòng cảm ơn Người và sự hiếu khách của nhân dân
Việt Nam đối với gia đình ông trong những ngày thăm Việt Nam. Không chỉ
có vậy, ông viết: “Chúng tôi không thể quên đất nước Việt Nam tươi
đẹp, những khuôn mặt rạng rỡ nụ cười của con người Việt Nam, và con
đường mà tất cả các bạn đã trải qua để dẹp bỏ mọi dấu vết đau thương
của quá khứ… và Ngài nói rằng tôi “đã cứu sống ngài”, điều đó có thể
đúng, nếu vậy thì đó chính là việc làm tốt nhất mà tôi đã từng làm, và
đó mãi mãi là một việc làm sáng suốt; về phần tôi thì tôi thấy mình đã
được đền đáp hơn nhiều với những ký ức về những ngày ở Việt Nam, và
những món quà mà tôi được tặng sẽ luôn là vật kỷ niệm về những ngày
tuyệt vời đó”[7].
7 năm sau đó, luật sư Lôdơbi qua đời. Báo Hoa Nam buổi sáng ở Hồng Kông (1967) đưa tin luật sư mất, cùng những dòng chữ thân yêu của gia đình với nội dung: Xin đừng mang hoa đến viếng, hãy dùng số tiền phúng viếng đó để giúp đỡ người nghèo.
Nhận được tin vị ân nhân đã cứu sống mình qua đời, không với tư cách
Chủ tịch nước, không ở cương vị Quốc gia, giữa nồng hậu thân tình gia
đình, vòng hoa gửi Kính viếng Luật sư của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa giản dị với dòng chữ: "Hồ Chí Minh kính viếng".
Hai năm sau đó, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta qua đời,
Điện chia buồn của gia đình luật sư gửi Lãnh sự quán Việt Nam tại Quảng
Châu - Trung Quốc in đậm dòng chữ: "Được tin Chủ tịch qua đời, xin bày tỏ tình cảm sâu sắc nhất", có kèm chữ ký của Bà luật sư cùng người con gái.
Cùng
với thời gian, tình nghĩa trọn vẹn thuỷ chung của Hồ Chí Minh với luật
sư Lôdơbi, tấm lòng trước sau như một của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và
Nhân dân Việt Nam đối với gia đình luật sư Lôdơbi, cũng như gia đình
luật sư Lôdơbi đối với Việt Nam sẽ vẫn còn lưu truyền mãi. Đâu đó trong
bức tranh thêu Chùa Một Cột Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng luật sư, trong bộ
quần áo, mũ, giày, kính gia đình luật sư tặng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã dùng năm nào, trong những bức ảnh của gia đình Luật sư Lôdơbi, trong
những kỷ vật, những sưu tập tài liệu liên quan đến vụ án Hồng Kông
những năm 1931-1933.., đang lưu giữ tại bảo tàng Hồ Chí Minh, bảo tàng
cách mạng Việt Nam, Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
và ở những nơi khác nữa trên mảng đất Việt Nam, tại gia đình luật sư,
vẫn thấy hiển hiện một tình bạn cao cả, một ân tình sâu nặng Hồ Chí
Minh - Lôdơbi mà muôn đời các thế hệ con cháu mai sau ngưỡng mộ và
chiêm nghiệm.
Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004, tr.50
Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004, tr.50
[2] Robin, Điện khẩn mật mã, Hà Nội ngày 8/6/1931 trong cuốn Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004, tr.72
[6] Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004, tr.151
[7] Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004, tr.250
Các nội dung khác: CHUYỆN KỂ BÁC HỒ VỚI THIẾU NIÊN, NHI ĐỒNG (02/11/2011)
BỘ SƯU TẬP BÁO CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐÃ ĐỌC HIỆN ĐANG TRƯNG BÀY TẠI DI TÍCH PHỦ CHỦ TỊCH (02/11/2011)
NGUYỄN ÁI QUỐC TRÊN ĐẤT NƯỚC CỦA LÊNIN (1923-1924) (01/11/2011)
TÌM HIỂU NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH TỪ NĂM 1911 ĐẾN NĂM 1920 (01/11/2011)
Công đoàn Khu Di tích tham gia giải thể thao Công đoàn Bộ VHTTDL lần thứ II (30/08/2011)
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bìa tạp chí TIME
No comments:
Post a Comment