HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Tuesday 15 May 2012

SƠN TRUNG * SÂN TRƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ

  SƠN TRUNG

SÂN TRƯỜNG PHƯỢNG ĐỎ




Hình ảnh

 GIA HỘI 2008

 

 

Lời nói đầu


Đất nước tôi lần nữa lại phân ly. Một số người đào thoát ra đi và một số được nhà nước cho ra đi trong trật tự. Người ta bán nhà, bán đồ đạc để ra đi. Sách báo xưa nay được cất giữ trong tủ nay cũng được mang ra nằm vỉa hè. Tôi vốn yêu sách, ngày ngày dạo chơi chợ sách. Ngồi xuống vệ đường, lật từng quyển sách, dở từng trang và đọc sơ qua, trở thành một thú vui của tôi. Một hôm, tôi lật chồng sách cũ của một ông già, thấy có một quyển sách chữ Hán, nhan đề Tang Điền Thương Hải Ký của Lâm Tuyền lão nhân, bèn mua về.

Lâm Tuyền lão nhân là ai, sử sách không hề nhắc tới, chắc là hiệu của một tác giả tầm thường nào đó. Sách do nhiều tác giả viết thêm vào, như các truyện quốc ngữ ở phần sau. Đọc kỹ thì thấy sách chép việc đời xưa, một số vào thời Nam Bắc phân tranh. Mở đầu sách, Lâm Tuyền lão nhân viết:

"Lão phu vốn là kẻ hèn mọn, gặp thời loạn không tài cứu nưóc, chỉ biết trốn tránh nơi rừng sâu để giữ mình. Thỉnh thoảng trở về quê cũ thăm mồ mả tổ tiên và thăm họ hàng, làng xóm, được nghe anh em, bạn bè kể chuyện nọ việc kia, sau trở về rừng núi, lúc rảnh rang bèn ghi chép lại. Đây là truyện cổ thuộc thời xa xăm, trong đó có một số thuộc thời vua Lê chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Mong độc giả xem đây chỉ là dã sử, là truyện truyền tụng trong dân gian, không có cơ sở chính xác như Truyện Liêu Trai đã nói:

‘’Nói láo mà chơi, nghe láo chơi’’!

Lão phu thích truyện ký dân gian nên ghi chép lại truyện cũ, nếu có trùng danh tánh, địa phương, và sự việc thì đó chỉ là ngẫu nhiên. Lão phu không hề chỉ trích hay ca tụng ai vì cuộc đời khó phân biệt thiện ác, giả chân. khôn dại. Một số trung thần của chúa Nguyễn phải phản lại chúa biết đâu họ có nỗi khổ tâm, vì danh lợi, hay vì hoàn cảnh bắt buộc như Ngô Thời Nhậm đã nói:

Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!

Còn những người theo Tây Sơn có thể là do danh lợi, hoặc chạy theo ảo ảnh thiên đường! Mấy ai thoát khỏi vòng danh lợi? Mấy ai thoát khỏi ảo ảnh phù hoa? Và trong cuộc thế, đâu là mộng, đâu là thực? Thi sĩ họ Cao đã nói:

Ôi nhân sinh là thế ấy!/Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao!

Trang sinh là bướm, hay bướm là Trang sinh? Phật dạy thế giới vô thường, vạn vật vô thường, nhân sinh vô thường . Vua Lê chúa Trịnh hùng mạnh là thế mà bị Tây Sơn dẹp tan, và Tây Sơn oai phong là thế mà cuối cùng bị Nguyễn vương tiêu diệt! Người thắng là chánh nghĩa hay người bại là chánh nghĩa? Một số người đời có cái nhìn vượt trên thiện ác. Đó là chủ thuyết bất nhị. Họ cho rằng chính tà , trung nịnh, thiện ác không khác nhau, tất cả chỉ là ảo ảnh. và vô nghĩa. Ca dao Việt Nam đã nói:

Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ!
Lẳng lơ thì cũng ra ma,
Chính chuyên thì cũng đưa ra ngoài đồng.
Trái lại, một số người lấy đạo đức mà phán rằng:
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Họ cho rằng không phải chết là hết. Không phải chết thì mọi người thành tro bụi, thành xương khô, thành đất sét như nhau. Một số người theo Khổng, Phật tin có nhân quả, và người theo Thiên chúa giáo tin có ngày phán xét cuối cùng. Lão phu, cũng tin có nhân quả, có ngày phán xét cuối cùng, nhưng lão phu chỉ trình bày sự việc mà không dám khen chê vì một triết gia Tây phương đã nói: ‘’Con người nửa tiên, nửa thú’’ ( L' homme n'est ni ange ni bête ). Nhân vô thập toàn. Không ai hoàn hảo vì vậy lão phu chỉ viết truyện mà không dám bình phẩm. Còn việc, phán xét tội phước, việc khen chê tốt xấu là việc của Trời Phật và của người đời, lão phu thật tâm không dám múa bút. "

Vì nội dung đa số viết về các tiến sĩ, cử nhân, đại học, trung học, các giáo sư , sinh viên, và học sinh nên Sơn Trung tôi xin phép đặt tên mới là Sân Trường Phượng Đỏ.

Canada tháng 8 năm 2008.
Sơn Trung




 MỤC LỤC


I. TÔN THẤT TIÊN SINH 

II. CẬU NĂM CHÓ  

III. SỐNG KHÔN THÁC THIÊNG

 IV. MỘT CUỘC BỂ DÂU

 V. CHÂU TỬ LONG TIÊN SINH 

VI. ĐÔI BẠN ĐỒNG SONG

VII. CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN

 VIII. VƯƠNG LÃO SƯ

 IX. BẠCH TUYẾT VÀ CHÍN CHÚ LÙN 

X. TRUNG CAN NGHĨA ĐẢM

XI. SAU CƠN BÃO LỤT 

 XII. HỘI HOA ANH ĐÀO

XIII. BÁO CÁO KHOA HỌC

 XIV. HOÀNG ĐẾ TUẦN DU

XV. CUỘC LUẬN KIẾM TRÊN NON TẢN

XVI. CHIẾC ÁO GẤM THƯỢNG HẢI

XVII. CƠN ĐẠI HỒNG THỦY





I. TÔN THẤT TIÊN SINH

Tôn thất tiên sinh vốn thuộc giòng chúa Nguyễn, nhưng tiên sinh không thỉ đỗ cử nhân, tú tài. chỉ cậy nhờ các bảng hiệu tôn sinh[1] mà tồn tại. Nhưng ngày xưa, dù con quan, cháu vua cũng phải có chút học thức mới đuợc tuyển dụng chứ không phải vào thẳng. Các ấm sinh, tôn sinh phải qua một kỳ khảo hạch do trưởng quan tổ chức. Như họ là ấm sinh, tôn sinh ở Thuận Hóa , khi triều đình ra lệnh tổ chức thi khảo thì họ phải nộp đơn ở bộ Lễ, sau đó bộ Lễ sẽ tổ chức một cuộc thi, chương trình thi tương đương thi Hương. Nếu họ ở Gia Định thì nộp đơn tạị quan trấn thủ Gia Định rồi quan trấn thủ tại đây sẽ tổ chức cuộc thi khảo. Ai đỗ mới được làm việc ở các cơ quan nhà nước. 

Tiên sinh không vượt qua kỳ thi khảo song nhờ thế lực cha ông mà cuối cùng cũng vào làm việc ở Lệnh sử ty với chức vụ là một lại viên tức là một thư ký. Sau nhờ quen biết các quan đại thần trong triều, tiên sinh được vào dạy ở một trường Trung tập, sau này gọi là trường trung học. Sau tiên sinh cậy cục rồi cũng vào dạy ở Hoa văn cục, là một trường Đại Học ở kinh đô, mặc dầu tiên sinh không phải là cử nhân, tiến sĩ. Kể ra, tiên sinh cũng là một tay biết Hán nôm, và cũng đã có một vài tác phẩm. Lúc bấy giờ, chúa Nguyễn thơ ấu, Trương Phúc Loan nắm quyền. 

Ngoài Bắc, quân lực hùng hậu, không biết khi nào thì Hoàng Ngũ Phúc cử đại binh vượt sông Gianh mà chiếm Thuận Hóa. Vùng Quy Nhơn, quân Tây Sơn nổi lên chiếm một giang sơn xưng hùng xưng bá. Tiên sinh nhận thấy cơ nghiệp chúa Nguyễn mong manh mà quân Tây Sơn thì ngày càng hùng mạnh cho nên tiên sinh chơi trò bắt cá hai tay. Tiên sinh thường tiếp xúc mật với những người thân Tây Sơn, và thường tỏ ra là người bình dân, xuất thân vô sản, yêu nhân dân lao động, có cảm tình với quân ‘’cách mạng’’. 

Tiên sinh hoan hô chủ trương chống phong kiến và lấy của người giàu chia cho người nghèo của đảng Tây Sơn. Tiên sinh nói rằng tổ tiên bên ngoại của tiên sinh là nông dân nghèo ở trong sơn cốc. Một hôm, một vị hoàng thân thuộc dòng chúa Nguyễn vào rừng săn bắn, gặp bà tổ xinh đẹp bèn cưỡng hiếp rồi đem về kinh, sau sinh ra bố tiên sinh. Bà nội tổ của tiên sinh là nạn nhân của chế độ quân chủ, bà căm giận bọn vua quan chứ không yêu gì ông hoàng thân dâm dục, tàn ác. Trái lại, khi tiếp xúc với các quan lại triều đình hay sinh viên bảo hoàng thì tiên sinh lại đề cao giòng dõi hoàng tộc của ông, đề cao trung quân ái quốc, đạo đức nhân nghĩa lễ trí tín của nho gia. Cái tài biện luận của tiên sinh hơn hẳn Tô Tần cho nên tiên sinh luôn thoải mái, không phải như ai lội suối băng rừng vào chiến khu chịu đựng gian khổ, hoặc đứng mũi chịu sào để bị quân Tây Sơn dùng mã tấu phanh thây.

Lúc bấy giờ lực lượng Tây Sơn hùng mạnh, tuy mới lập chiến khu trong rừng núi, lực lượng tuyên truyền địch vận của họ đã ra đến Thuận Hóa và vào đến Đồng Nai. Họ thường tổ chức biểu tình, dùng lực lượng sinh viên học sinh để đánh phá chúa Nguyễn. Quân ‘’cách mạng’’ đã cài người vào trường Hoa Văn cục, họ kêu gọi các sinh viên và các quan tư nghiệp (giáo sư đại học ) đình công bãi thị. Khi được sinh viên phe Tây Sơn yêu cầu đình công bãi thị, tiên sinh đã nhiệt liệt nhận lời , nhưng ngay sau đó, tiên sinh lén vào cửa sau, xin quan Trưởng giáo (khoa trưởng) Hoa văn cục xin nghỉ bệnh vài ngày! Thế là tiên sinh được lòng cả hai phe! Khi Hoàng Ngũ Phúc vào đánh Thuận Hóa, gia đình chúa Nguyễn lớp bị giết, lớp chạy vào Gia Định. Riêng tiên sinh vẫn khôn ngoan, tinh tế nên được quân Bắc Hà để yên. 
 
Người phe Tây Sơn thường đến nhà tiên sinh, vỗ về tiên sinh, hứa hẹn sẽ đưa tiên sinh lên làm Tế tửu Quốc tử giám, tức sau này gọi là Viện trưởng đại học, hoặc làm Trưởng giáo Hoa Văn cục. Còn các quan văn võ chúa Trịnh cũng thường đến nhà tiên sinh, ca ngợi tiên sinh văn tài xuất chúng, đức hạnh thanh cao, có thể sánh với Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích ngoài Bắc Hà. Họ hứa hẹn sẽ tâu chúa Trịnh vời tiên sinh làm tham tụng hay thượng thư trong triều vua Lê chúa Trịnh . 

Nhưng bao năm tháng trôi qua, tiên sinh chờ đợi mà chẳng thấy tin tức. Quân Bắc Hà rất khôn khéo. Ban đầu quân Trịnh ngọt ngào với anh em Tây Sơn vì Hoàng Ngũ Phúc muốn dùng sức anh em Tây Sơn đánh chiếm Gia Định cho họ, nên họ hứa hẹn trao đất Nam Hà cho anh em Tây Sơn, và ban cho Nguyễn Nhạc chức tiên phong tướng quân, Tây sơn hiệu trưởng Lúc bấy giờ tình hình coi như tạm yên. Hoàng Ngũ Phúc đóng quân ở Thuận Hóa, anh em Tây Sơn ở Quy Nhơn, còn chúa Nguyễn ở Gia Định. Ai yên phận nấy, tạm ngưng chiến chinh. Ngoài mặt anh em Tây Sơn phục tòng họ Trịnh, nhưng sự thật họ muốn đuổi quân Băc Hà về Bắc, nắm trọn quyền đất Nam Hà. 

Ai cũng khôn ngoan quỷ quyệt, không biết mèo nào cắn mĩu nào. Đùng một cái, quân Bắc Hà một đêm giải giáp quân Tây Sơn với chiêu bài thống nhất đất nước. Từ đó, chúa Trịnh đem người vào quản lý các cơ quan, hãng xưởng và trường học. Từ quan trấn thủ cho đến phu quét rác đều là người Bắc Hà, người Nam Hà bao gồm người Bình Định cũng bị thất nghiệp. Ai có liên hệ với chúa Nguyễn hoặc Tây Sơn đều bị chém giết hoặc bị bỏ tù khiến cho bọn họ ai nhanh chân thì chạy thoát sang Xiêm La, Miến Điện. Con trai tiên sinh làm việc ở kinh đô Phú Xuân phục vụ chúa Nguyễn, đã vượt biên mà sang Đông Dương (Nhật Bản). 

Tôn thất tiên sinh, vị trưởng giáo tương lai cũng ở vào trong số giáo sư bị quân Bắc Hà cho về hưu hoặc sa thải. Còn bà vợ của tiên sinh buôn bán ngoài chợ bị tịch thu hàng hóa và cấm buôn bán vì lệnh trên ban xuống chỉ những gia đình có công với vua Lê, chúa Trịnh mới được giấy phép kinh doanh. Kinh tế gia đình tiên sinh xuống dốc. Xưa nay Tôn thất phu nhân cũng giống như bao bà vợ Việt Nam ‘’thân cò quảng vắng’’ đã một mình cáng đáng kinh tế gia đình, một tay nuôi chồng, nuôi con. Nay chúa Trịnh cấm việc buôn bán thì coi như cắt cổ gia đình bà. Túng thế, Tôn thất tiên sinh phải tìm đến các quan lớn đã thân quen, thường lui tới vận động tiên sinh chống chúa Nguyễn thì nay họ lánh mặt, quay lưng. Cực chẳng đã, tiên sinh phải đến bản doanh Trịnh quân, xin được cấp giấy phép buôn bán. Viên tướng họ Trịnh lạnh lùng tiếp ông. Y bảo:

Ông là dư đảng của họ Nguyễn, lại làm tay sai cho Tây Sơn, ông là quân bất trung, bất nghĩa, tội đáng chém đầu. Song ta nghĩ ông chỉ làm một lão giáo quèn, nên tha tội chết cho ông.. Ông không biết điều , ông còn dám vác mặt đến đây xin ban ân huệ ư?. Ông không thấy là quá đáng hay sao?

Tiên sinh xấu hổ và sợ hãi rập đầu tạ tội rồi lui ra.

Mấy năm sau, Nguyễn Ánh tái chiếm Thuận Hóa, rồi đem quân ra Bắc, thống nhất đất nước. Tiên sinh xin yết kiến vua Gia Long, kể khổ và kể công, nhưng vua Gia Long không tiếp ông. Triều đình lập hồ sơ định công luận tội, tiên sinh bị đuổi ra khỏi hoàng tộc, bắt theo họ Phạm của mẹ vì tội gian nịnh, phản quốc và phản gia tộc. Không hiểu những năm cuối cùng, tiên sinh suy nghĩ gì về việc đời. Dẫu sao, người đời có kẻ khen tiên sinh là người khôn ngoan, biết gió chiều nào che chiều ấy, chỉ vì cuộc đời quá phức tạp, lại gặp vận xui cho nên tiên sinh khôn mà vẫn không khá!

II. CẬU NĂM CHÓ

Khi quân Tây Sơn đánh thắng quân Xiêm và đuổi chúa Nguyễn ra khỏi thành Gia Định, những quan quân chúa Nguyễn đều bị bắt giam. Liêu sinh là một sinh viên giỏi của Trường Tú Lâm cục, thuộc Viện Quốc học ở kinh đô. Chàng chưa đến ba mươi mà đã có ba bằng cử nhân và sau khi đỗ Thạc sĩ, sinh được nhận vào dạy ở Tú Lâm cục. Lúc bấy giờ các thanh niên, sinh viên Nam hà và Bắc hà đều phải đi lính theo luật tổng động viên, nên Liêu sinh là một thầy giáo và cũng là một sĩ quan trong quân chúa Nguyễn. Vì vậy mà Liêu sinh cũng phải ngồi tù một thời gian.

Tại trại giam, Liêu sinh gặp Lâm tiên sinh, cũng bị giam tại đây, vốn là thầy cũ của sinh tại Tú Lâm cục, là người bảo trợ sinh khi sinh làm luận án Thạc sĩ và tiến sĩ. Liêu sinh thông minh, tải ba, mà lại hết lòng đối xử trung hậu với thầy, cho nên Lâm tiên sinh yêu mến là phải. Trước kia, nước ta tổ chức thi Hương tại các địa phương để lấy cử nhân và tú tài, sau này giáo dục canh tân, khoa học phát triển, thi hương chỉ lấy tú tàI, còn tiến sĩ , cử nhân là do các viện đạI học đào tạo.

TạI Nam Hà , người Pháp Lan Tây đã giúp chúa Nguyễn đúc súng đại bác, chế tàu thủy. Viện Đại Học Quốc Gia lúc bấy giờ gồm nhiều trường như Khoa học Cục, Y học cục, Dược học cục, Pháp luật cục, Hành chánh cục, và Tú lâm cục. Tú lâm cục sinh sau đẻ muộn và yếu thế nhất. Trong khi các trường khác đã lập ban tiến sĩ từ hơn hai mươi năm trước, Tú lâm cục chỉ có cử nhân và thạc sĩ. Lâm tiên sinh lúc này làm Tổng thư ký viện Đại học quốc gia. Do nhiệt tình xây dựng nền giáo dục quốc gia, tiên sinh đã hăng hái lập đề án tiến sĩ cho Tú lâm cục. Dự án của tiên sinh được hội đồng viện đại học Quốc Gia chấp thuận. Lâm tiên sinh tích cực xúc tiến việc thi tiến sĩ cho các sinh viện Tú Lâm cục. Do lòng ưu ái của Lâm tiên sinh, Liêu sinh là người được Lâm tiên sinh chọn làm người trình luận án tiến sĩ đầu tiên và sau đó thêm một hai người nữa thì chấm dứt vì mấy tháng sau, Nam Hà sụp đổ, giang sơn đổi chủ, Liêu sinh và Lâm tiên sinh đều bị bắt giam vì tội theo chúa Nguyễn.

Thầy trò gặp nhau trong trại giam, buổi đầu không biết thế nào, nhưng về sau, thấm nhuần ‘’tư tưởng cách mạng’’, và ‘’tác phong vô sản’’, trong các cuộc sinh hoạt của đội sản xuất, sinh đã tỏ ra tiến bộ vượt bực, thẳng thắn phê bình Lâm tiên sinh. Nguyên Lâm tiên sinh vốn thích hút ống vố, nhưng trong tù không có thuốc, Lâm tiên sinh đành ngậm cái ống vố không theo thói quen. Liêu sinh đứng lên phê bình Lâm tiên sinh là còn luyến tiếc cái cũ, chưa dứt khoát theo cách mạng, ôm ấp tư tưởng phản động, chống đối triều đình.

Vì tỏ ra tiến bộ, Liêu sinh được về nhà sớm. Và vì có chuyên môn về điền thổ, và cũng vì có anh chị đã theo quân Tây Sơn từ trước cho nên Liêu sinh được nhận vào ban Doanh điền Thủ Đức. Làm việc được ít lâu thì Liêu sinh bị tù vì tham nhũng sao đó. It lâu, Liêu sinh ra tù, làm nghề coi bói và tử vi cũng đắt khách. Trong lúc này, kinh tế toàn quốc sụp đổ, miền Nam Hà là vựa lúa mà dân chúng phải ăn khoai sắn thay cơm. Toàn miền thất nghiệp, kinh tế vào tay tư bản Bắc Hà, bao nhiêu của cải bị vơ vét đem hết ra Bắc. Cơm không có đủ ăn mà cá thịt lại càng khan hiếm. Trong khi đó, kinh tế gia đình của sinh rất khá. vì sinh là người thông minh, tài giỏi và lanh lợi. Sinh rất yêu chó, nuôi hai ba con, ngày tắm hai ba lần, mua từng ký thịt bò cho chó ăn, trong khi đó, cậu không quan tâm đến bố mẹ cậu, mặc cho họ cơm rau qua ngày tháng, sống chết mặc thây! Vì vậy mà dân Thủ Đức gọi sinh là ‘’Cậu năm chó’’. Ai muốn xem bói, hay tìm thăm Liêu sinh, cứ hỏi nhà cậu Năm chó là trẻ già trai gái ai ai cũng biết!

III. SỐNG KHÔN THÁC THIÊNG

Khi Tần Thủy hoàng sai đại tướng Đồ Thư đem đại binh xâm lăng Bách Việt, nhiều dân chúng và quan lại bỏ chạy lên rừng lánh nạn. Tiêu Diêu tiên sinh vốn quê ở Lưỡng Quảng, cũng theo dân chạy loạn vào chiến khu. Đến khi Hán vương lên ngôi, ông về thành, ở dưới trướng của Cẩn thân vương. Lúc ở chiến khu về, ông mang theo bản thảo quyển Chu Triều Văn học của một người bạn, rồi cho khắc in thành sách mang tên ông. Quyển sách này là một tác phẩm khá tốt cho nên danh tiếng của Tiêu tiên sinh vang dậy như sấm. Sau này, thân nhân của ông kia nghe nói phát đơn kiện tụng ở dinh tổng đốc Lưỡng Quảng, nhưng rồi vụ này cũng được chìm xuồng vì Tiêu tiên sinh quen biết nhiều văn quan và võ quan triều đình. Trước đây, ông theo quan quân nhà Hán lấy được một số sách quý trong thư viện triều vua trước.

Ông khôn ngoan lợi dụng uy thế tân triều, mặt khác một số văn quan triều yêu quý sách cổ, muốn cùng ông giao dịch, nên họ đã đồng ý đưa ông vào Hoa văn cục, thuộc Quốc Học viện. Ông dạy Hoa văn nhưng không bao giờ ông viết lên bảng, ông bảo học sinh là ông bị đau tay, không viết chữ Hoa được. Trong nhà, ông nuôi một ông tú tài, chuyên soạn thảo tài liệu cho ông để ông dạy học và đăng nhật trình. Ông khoe với mọi người, ông thông thạo kim văn và cổ văn. Kim văn là lối chữ, lối văn được phổ biến đời Chu, đời Hán, còn cổ văn là lối chữ xưa được khắc trên mai rùa, có từ xưa, từ đời tam hoàng, ngũ đế mà lúc này người ta gọi là giáp cốt văn, một lối chữ như hình con nòng nọc.

Lúc này, it người biết giáp cốt văn, mà trong Hoa văn cục cũng chỉ có vài người quan tâm đến cổ học, trong số đó có Nhâm Mục tiên sinh. Nhâm Mục tiên sinh vốn thích đùa. Một hôm Tiêu tiên sinh dạy học, Nhâm Mục tiên sinh ung dung bước vào lớp dạy, chào hỏi Tiêu tiên sinh một cách vui vẻ thân mật, rồi viết một câu cổ văn lên bảng để nhờ Tiêu tiên sinh giảng nghĩa. Tiêu tiên sinh nhìn hàng chữ trên bảng mà sắc mặt không đổi, và chẳng nói năng gì cả. Học sinh chẳng biết hai câu đó có nghĩa gì. Một học sinh tinh nghịch, chép câu đó vào giấy, rồi đi hỏi các vị thông thạo cổ văn, họ bảo câu đó là:

Thầy Tiêu dốt như con bò,
Giáp cốt văn chẳng biết, chữ nho chẳng tường!

Câu chuyện đến tai Tiêu tiên sinh, từ đó Tiêu tiên sinh thù hận Nhâm Mục tiên sinh tận xương tủy. Trong mỗi buổi học, sinh viên đều nghe hai thầy châm chích, và tố cáo nhau đủ điều!

It lâu sau, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Một số quan lại, trí thức và nhà giàu bỏ trốn qua Đông Dương (Nhật Bản) và Nam Dương, hoặc chạy sang Triều Tiên, nhưng đa số thì đi qua Giao Châu là đất hòa bình thịnh vượng trong vùng này.Trong số trí thức và quan lại Trung Hoa sang Giao châu lúc này có Mâu Bác, và tổ tiên Sĩ Nhiếp.

Vương Mãng khôn ngoan, không lấy thế làm thù hận vì bọn đó ra đi thì không còn ai chống đối. Hơn nữa , bọn chúng ra đi thì ông có khối đất đai, nhà cửa và tài sản do chúng để lại. Đã thế, Vương Mãng còn mở ra dịch vụ di dân bán chính thức và dịch vụ ra đi trong trật tự. Chương trình ra đi bán chính thức đã đem lại cho Vương Mãng hàng vạn, hàng triệu cân vàng. Tiêu tiên sinh có chú bác làm lớn trong triều Vương Mãng thế mà ông cũng xin phép đi di dân sang Giao Châu . Vì ông nộp tiền đầy đủ và chi tiêu rộng rãi nên việc xin giấy tờ cũng dễ dàng. Cuối cùng ông và gia đình được phép di dân.

 Công cuộc ra đi đã chuẩn bị xong xuôi, chỉ tuần sau là gia đình Tiêu tiên sinh lên đường sang Giao Châu hưởng phước. Nguyên lúc bấy giờ Vương Mãng theo chính sách Tần Thủy hoàng, ra lệnh đốt sách, bỏ tù văn nghệ sĩ và quan lại tiền triều. Một số thế gia sợ hãi, đã âm thầm mang sách gửi nhà Tiêu tiên sinh vì họ biết tiên sinh là cháu của vị Thái sư đương triều Vương Mãng, có dù che vững vàng. Tiêu tiên sinh liền đem tất cả sách quý đóng gói chờ ngày lên tàu đem sang Giao Châu. Trước ngày lên đường vài bữa, đêm hôm đó, Tiêu tiên sinh lấy giấy viết thư, nhưng thay vài cây bút mà vẫn không ra mực.

Tiên sinh kêu con lại hỏi thì mới hay bút vẫn ra mực mà mắt không còn thị giác. Tiên sinh ngã xuống rồi chết ngay, miệng trào máu. Nguyên tiên sinh đã bị bệnh cao huyết áp nhiều năm, mặt lúc nào cũng đỏ bừng, thường thường là huyết áp cao khoảng 180- 200. Tiên sinh chết là do huyết áp lên cao, nhưng cũng có nguồn tin cho rằng tiên sinh có người em ruột làm đội trưởng thị vệ trong cung, tích cực tôn thờ Vương Mãng. Ông này cho rằng việc cháu của quan thái sư bỏ nước ra đi là làm mất thanh danh của gia tộc và của triều đình. Do đó mà người ta ngăn chận chuyến ra đi của Tiên sinh.

Trong những tháng ngày lên xuống Di dân quán thuộc Lễ bộ làm hồ sơ xuất cảnh, Tiên sinh quen biết hai vợ chồng nhà kia và kết thân. Đêm hôm Tiên sinh chết, hai vợ chồng người bạn bỗng thấy Tiên sinh đến báo tin: Hai bác đi đi, tôi phải ở lại!

Hai người vợ chồng người bạn đều chung giấc mộng. Họ bán tin, bán nghi, không hiểu sao lại có chuyện như vậy. vì xưa nay Tiên sinh là người quyết tâm bỏ nước ra đi! Nay không hiểu vì lý do gì mà Tiên sinh bỏ cuộc. Hai vợ chồng ông bạn chờ trời sáng, thuê kiệu đến nhà Tiên sinh thì thấy quan tài của tìên sinh đã nằm bên hè ( tại sao quan tài nằm bên hè mà không nằm trong nhà ? ) mà trong nhà vang lên những tiếng than khóc! Ngày hôm đó, gia đình lo việc khâm liệm tìên sinh nhưng quan tài quá ngắn mà người tìên sinh lại khá to cao. Người ta phải cực khổ lắm mới nhét tìên sinh vào lọt quan tài. Đêm hôm đó, ông chủ nhà hòm thấy Tiêu tiên sinh đến giận dữ trách mắng: Tại sao ông đóng cho tôi một cái hòm nhỏ như vậy? Chủ nhà hòm phải khấn vái và làm lễ tạ mới được yên..


--------------------------------------------------------------------------------

[1] Tôn sinh là người thuộcgiòng vua chúa, ấm sinh là con quan lại.

IV. MỘT CUỘC BỂ DÂU

Quân Tây Sơn chiếm kinh đô Phú Xuân rồi bắt các quan văn võ của chúa Nguyễn đem vào rừng giam giữ. Việc giam giữ này rất bí mật, thân nhân của họ và bản thân của họ cũng không biết họ ở đâu, địa phương nào, và rừng nào. Còn các giáo quan các học hiệu phủ huyện trong nước, và viện Quốc tử giám ở kinh đô cũng như các sinh viên, học sinh đều phải học tập ''kinh điển Dao Mác''. Người ta dùng từ ngữ này để nói lên tính chiến đấu của ''cách mạng Tây Sơn'', khác với thứ kinh điển ủy mị và lạc hậu của Nho, Lão, Phật. Ngoài ra từ ngữ này cũng mang tính phổ biến và bình dân, vì ai ai cũng biết, ai ai cũng dùng đến, không phải là một thứ triết lý xa quần chúng, xa nhân dân như là từ bi hỉ xả, nhân nghĩa lễ trí tín, giải thoát, Niết Bàn, Phật tánh, Thanh tĩnh vô vi. ..

Việc học tập này cũng được gọi là cải tạo tư tưởng. Các học viên được nghe các ông Nghệ Tĩnh và Bình Định, Quảng Nam thuyết giáo về Đạo đức cách mạng của Nguyễn Nhạc hoàng đế, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, và trí tuệ đỉnh cao của Nguyễn Lữ. Ngoài ra, các học viên phải nghe giảng về cuộc cách mạng chống phong kiến, bước tiến lịch sử tất yếu của giai cấp vô sản và chính sách xã hội công bằng ''cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo'' của đảng Tây Sơn.

Sau khi nghe các quan lại Tây Sơn giảng huấn, các học viên phải tự kê khai tội lỗi của mình, tố cáo tội ác của chúa Nguyễn và tội các của các bạn đồng liêu. Ai tố cáo nhiều thì được khen là tiến bộ, là đã lột xác, thấm nhuần tư tưởng cách mạng và có hy vọng được tân triều trọng dụng vì tân triều rất khoan dung độ lượng hứa sẽ dùng hết tất cả mọi người, ngoại trừ những kẻ có tội ác với nhân dân. Dù là kẻ có nợ máu với nhân dân, chính phủ sẽ giáo dục, cải tạo họ thành người tốt, cho họ đứng vào hàng ngũ nhân dân, tất cả theo đảng chung sức lao động , đưa cả nước tiến lên thiên đường chủ nghĩa. Trong mộng tưởng của đám hàng thần lạc quan này, một tương lai rất rực rỡ đang dần đến:

Đường mây rộng thênh thang cử bộ,
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo!
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu!

Lúc bấy giờ một số giáo quan cũ tỏ ra rất nhiệt tình với cách mạng. Họ xun xoe chào đón, tung hô vạn tuế, hàng này đến quét dọn nhà cửa, nhặt rác xung quanh dinh thự, mua bàn ghế, biếu sâm nhung, dâng nem công chả phượng để bồi dưỡng cho các quan ''cách mạng'' đã từng gian khổ trong rừng sâu. Họ ca tụng các chiến sĩ đảng Tây Sơn là anh hùng , trái lại họ chửi họ là hèn nhát vì bao năm đã theo phong kiến, sống sung sướng trong cảnh phồn vinh giả tạo của kinh đô Phú Xuân.

 Trong đám này lưng dẻo hơn cả vũ công, miệng thanh tao ngọt ngào hơn cả những cô đào thương, lại là đa số các giáo quan dạy về Đạo đức học, Triết học Đông Phương và Tứ thư Ngũ kinh. Trong khi đó đa số các giáo quan dạy Sử Địa, Ngoại văn là những môn mà xưa nay bị coi là vong bản, ngoại lai thì tỏ ra là có nhân phẩm hơn cả! Không ngờ thời đại này đã vô tình chứng minh cho quan điểm của ông thầy tuồng ''Tàu Titanic'' là đúng.

Ông này dựng tuồng ''Tàu Titanic'' để kể lại một truyện bi thương đã chìm trong lòng biển cả mà phần quan trọng nhất là đoạn cuối tàu chìm, các sĩ quan Tây dương bình tĩnh lấy phao cho phụ nữ, các nhạc sĩ vẫn chơi đàn dù nước lên đến đầu gối, đến bụng trong khi con cháu Khổng tử và anh em dòng Samurai mặc váy, choàng khăn giả phụ nữ cúi đầu leo lên xuồng thoát nạn! Đấy, ông thầy tuồng này muốn nói: Tụi Tây phương tao rất có đạo đức, rất hiệp nghĩa, rất can đảm, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Còn bọn Đông Phương chúng bay nổ rầm rầm, nào nhân nghĩa, lễ trí tín, nào quân tử, trượng phu, và nào là tinh thần võ sĩ đạo, đến lúc cháy nhà mới ra mặt chuột!

Không những ông thầy tuồng này mà Kim Dung tiên sinh cũng chế nhạo đồng bào ông một số là đạo đức giả mà tiêu biểu là Nhạc Bất Quần. Tất cả tác phẩm của Kim Dung nổi bật lên luận đề: Trong những kẻ vỗ ngực xưng chánh phái có rất nhiều thằng đểu giả, gian ác, ngay cả những hòa thượng, những đạo sĩ được mọi người sùng bái, coi như Bắc đẩu,Thái sơn !

Thật vậy, trong ngày Phú Xuân thất thủ, một số văn võ quan nhất nhị phẩm triều đình cũng đã mặc y phục phụ nữ đào thoát ra khỏi xứ! Một số tu sĩ vứt cả từ bi, bác ái, dẫm đạp đàn bà, trẻ con mà chạy thoát cơn lửa thiêu thành Phú Xuân. Và một số sĩ phu ở lại đóng vai hiền nhân quân tử khôn ngoan, khéo léo hoặc làm trí thức yêu nước giác ngộ quỳ lạy các đô đốc Tây Sơn..

Chiêu văn quán là một trường thuộc viện đại học Quốc tử giám. Một vài giáo quan của trường khoảng 70 tuổi, đã viện cớ già yếu xin hưu thoái như Hạo Nhiên tiên sinh, Duy Cần tiên sinh. Duy Cần tiên sinh nghe đâu có người em theo Tây Sơn từ thành Quy Nhơn trở về, nói riêng với anh:

Ở với tụi nó khổ lắm, có ngày mang họa vào thân. Anh liệu mà cao chạy xa bay, đừng dính với hủi!
Duy Cần tiên sinh lúc này già rồi chẳng muốn phiêu lãng chân trời góc biển, vả lại tiên sinh chẳng có con cái gì, không còn vướng mắc, nên nghe lời em hát bài Tạ từ, treo ấn từ quan. Sau tiên sinh giả bệnh tật, khùng điên, ngớ ngẩn, thọ trên 90. Quanh năm tiên sinh ở nhà chẳng đi đâu, ai đến hỏi thăm, tiên sinh nằm rên hừ hừ. Ai mời tiên sinh đi ăn giỗ, nể tình phải đi, nhưng suốt buổi ngồi yên nhắm mắt. Ăn xong gục đầu như chết đến nơi khiến gia chủ lo lắng phải cho người đưa về nhà.

Nghe người ta nói lại, khi về nhà, tiên sinh tỉnh như sáo! Trái lại Giản Dị tiên sinh, tuổi trên 70 , dạy môn Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín, đã có sách in nhan đề là Đạo học Đông Phương, viết chung với Nguyễn Hèn Lê tiên sinh, được tân triều cho về nghỉ, khỏi phải đến học tập cải tạo cho khổ thân già , song tiên sinh vẫn van nài, xin được ở lại học tập tiến bộ. Có kẻ nói rằng ông già Ba Tri này đeo theo đám ''tam thập'' nôm na là tụi ''ba mươi '' do Lý Bất Trung tiên sinh cầm đầu ở chốn kinh thành và trong Quốc Tử Giám, là vì hy vọng có địa vị trong những ngày tới (Sau này Lý tiên sinh được đảng cho vào Đại biểu viện làm nghị gật ). Việc Giản Dị tiên sinh hy sinh trường kỳ gian khổ như vậy khiến dư luận có nhiều ý kiến. 

Có người cho rằng tiên sinh thấm nhuần Khổng giáo, nay đem đem thực hành triết lý nhẫn nhục của Phật giáo, và đạo lý thực dụng khôn ngoan của Hàn Tín ''giỏi lạy thì còn, giỏi lòn thì sướng'' . Cũng có kẻ nói tiên sinh có người con bị Tăy Sơn bắt giam, tiên sinh phải thi hành khổ nhục kế, phải tỏ ra tích cực, tiến bộ, đỏ hơn đỏ để cứu con.

 Không biết con trai tiên sinh được tha năm nào, sự hy sinh của tiên sinh có đáng đồng xu cắc bạc nào không, hay ngài chỉ là một ''ngụy quân tử''. Sống cực khổ như vậy mà tiên sinh thọ trên trăm tuổi, kể ra trái tim và các giây thần kinh của tiên sinh có lẽ được đúc bằng thép! Đáng phục! Đáng phục! Trong khi đó, bao người trẻ hơn tiên sinh, sống trong địa ngục, không bị điên cuồng, cao huyết áp, thì cũng đau dạ dày mà chết sớm!

Lúc bấy giờ tại Chiêu Văn quán có cử nhân Đinh Văn Chương là người Thuận Hóa vốn là một trong những giáo quan trẻ tích cực tung hô Nguyễn Nhạc vạn tuế. Quan cử Văn Chương nhà cũng thanh bạch nhưng khéo chạy chọt và luồn cúi từ triều cũ cho đến triều mới. Ông hầu hạ các quan trong trường chưa đủ, ông tranh thủ phục vụ bên ngoài. Ông bán hết tư trang cho đến y phục của vợ để chiêu đãi các tân quan cách mạng, vì vậy mà ông được lưu dụng, và nổi danh chốn kinh đô với biệt danh '' quan cử Quần'' ám chỉ việc ông đã bán quần của vợ để phục vụ cách mạng. Ngoài ra, ông suốt ngày bám theo các quan tân triều báo cáo điều nọ chuyện kia.

Trước đây, thời chúa Nguyễn, sau khi thành Quy Nhơn thất thủ, Võ Tánh tuẩn tiết, Binh bộ thượng thư ra lệnh tổng động viên. Đặc biệt vùng kinh đô Phú Xuân, chúa ra lệnh lập hàng rào phòng thủ. Không muốn đóng cửa trường học và bắt thầy trò ra trận, chúa Nguyễn theo lời tâu của Binh bộ thượng thư, bắt các thầy ở Quốc tử giám ban ngày dạy học, ban đêm thay nhau túc trực, hễ có giặc là sẵn sàng ứng chiến; còn các sinh viên ba tháng hè là vào quân trường tập ắc ê.

 Trong Quốc tử giám lúc bấy giờ có một số võ quan, vốn là thạc sĩ, tiến sĩ vì lệnh động viên mà theo nghiệp binh đao, sau được về Quốc tử giám dạy học. Bộ binh cử vệ úy Văn Khuê người Thuận Hóa cũng là giáo quan của Chiêu Văn quán làm đoàn trưởng đội binh giáo chức, gồm những giáo quan trẻ của trường này, tất cả khoảng mười người, là tân binh cấp bậc binh nhì.
 
Vệ úy Văn Khuê vốn người ngay thẳng, khuôn thước, ở trong nhà binh bao năm nên đã quen nề nếp quân trường. Ông bực mình vì các tân binh dưới quyền ông quan chẳng ra quan, quân chẳng ra quân, rất là lèng phèng, vô kỷ luật, luôn luôn đến trễ hoặc vắng mặt vô lý do, lúc nào cũng khăn đóng áo dài của nho gia, không chịu mặc quân phục của triều đình.

Đã thế, lúc bàn bạc nói năng cứ mày tao chi tớ theo kiểu dân gian, không biết chào kính, thưa gửi theo quân giai, quân cách và quân kỷ. Không lẽ ông bắt các tiến sĩ, thạc sĩ bạn hít đất, nhảy xổm hoặc bỏ vào quân lao! Ngay cả phê bình họ ông cũng không dám. Nếu ông làm vậy, bọn họ sẽ làm thơ, ca dao, hò, vè châm chọc ông thì tai hại không thể lường được. Không phạt được ai, không đánh chửi được ai, ông đành phạt ông vậy.

 Ông phạt ông bằng cách làm đơn xin thôi làm đoàn trưởng. Ngoài ra còn lý do khác, chính Vệ úy Văn Khuê nói ra. Mỗi lần lên Binh bộ hội họp với các Thượng thư, Thái úy, và các đại soái, đô đốc, tổng binh, ông cảm thấy buồn phiền lắm. Buồn phiền vì tụi vệ binh chỉ chào kính các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên, còn chức vệ úy đoàn trưởng, đội trưởng của ông chỉ là thất phẩm, không đáng giá là bao, chúng chỉ chào hỏi lấy lệ! Ngoài ra, các quan trên mặc áo đỏ, áo tía, đi kiệu mười, hoặc mười hai, hai mươi người khiêng, xung quanh có kẻ hầu chạy theo bưng tráp, cầm điếu đóm rất xôm tụ, oai phong, còn ông chỉ mang võ phục đơn giản, đi ngựa, không có lấy một quân hầu.

Tủi thân, tủi phận, ông xin thôi làm đoàn trưởng và được bộ Binh chấp thuận. Bộ binh cử Vệ úy Hồng Sơn Đông cũng là giáo quan trong trường lên làm đoàn trưởng. Vệ úy Hồng Sơn Đông người Đồng Nai nên chịu chơi lắm. Ông cũng mày tao chi tớ với anh em, cũng nhậu nhẹt với anh em, không phân biệt cấp trên, cấp dưới gì cả, ai đi sớm về trưa hoặc bỏ trực, bỏ họp ông chẳng quan tâm. Trường để cho đội Phòng vệ kinh đô một ‘’tổng hành dinh’’, là một phòng giảng dạy, nay lấy tre nứa và cót che lại một góc, chỉ có một cái bàn và vài cái ghế, không có nhân viên, chỉ có một cuốn sổ trên bàn, cứ theo ngày định trước, các tân binh giáo quan đến ngày trực, ngày họp, ký tên vào sổ rồi về.

Thời Văn Khuê làm đoàn trưởng, mỗi năm cũng có vài lần họp, mỗi lần vài phút rồi giải tán. Còn lúc Hồng Sơn Đông làm đoàn trưởng, cả năm không có một cuộc họp, hoặc canh gác gì cả, thậm chí các tân binh giáo quan cũng không thấy khẩu súng tròn hay méo. Ông làm được khoảng một năm thì cái ‘’tổng hành dinh’’ biến mất lúc nào không hay, và ông đem về cho đám giáo quan tân binh một mớ giấy khen thưởng của Binh bộ, nào là có tinh thần chiến đấu, hoàn thành tốt các công tác.. .

 Các giấy khen này được bỏ trên bàn trong phòng giáo quan nhưng không ai lấy đem về, nhân viên văn phòng phải bỏ vào các hộp thư của mỗi người, thế mà cũng chẳng ai nhận lãnh. Sau ngày quân Tây Sơn tiếp quản Quốc Tử giám, các giấy tờ này mất sạch. Nhưng mà cũng chẳng ai chú ý đến vấn đề nhỏ nhặt này vì trong đầu óc mọi người lúc này ai cũng cộm lên kế hoạch ‘’tẩu vi thượng sách ‘’! Sau quân Tây Sơn vào, hỏi trong trường ai là đảng viên ngụy, ai là chiến sĩ thi đua, ai là giáo sư nhân dân, ai là giáo sư ưu tú, ai là biệt phái, ai là mật vụ, ai được khen thưởng của ngụy quyền, thì Văn Chương khai ra, và trình lên các giấy khen thưởng này, thành thử cả đám bị kết tội là tình báo và bị đuổi ra khỏi trường.



Tại kinh đô Phú Xuân lúc này có nhiều trường đại học. Triều đình có Quốc Học viện tức Quốc tử giám, dưới Quốc tử giám có Chiêu Văn quán, Tú Lâm cục, Hoa Văn cục, Tập hiền viện, . .Bên Phật giáo có Vạn Pháp học viện, bên đạo Lão có Tam Thanh học quán, nhưng nhìn chung toàn quốc, từ Bắc chí Nam, Nho, Lão Thích đều suy đồi, đâu cũng thấy yêu ma quỷ quái xuất hiện giữa ban ngày.

Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là nho sĩ, văn võ toàn tài nhưng có tiếng tham nhũng, theo Hoàng Ngũ Phúc đến khi Hoàng Ngũ Phúc mất, mà sau Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh giết, ông bỏ đất Bắc Hà vào Quy Nhơn theo Tây Sơn. Sau đó là Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ich cũng là những kẻ ‘’trốn chúa lộn chồng’’, bất trung bất nghĩa, hết theo Trịnh lại theo Tây Sơn. Nhất là Ngô Thời Nhậm, bị sĩ phu Bắc Hà khinh miệt. Nguyên trước đấy, chúa Trịnh Sâm đã lập Trịnh Khãi làm thế tử, trước khi chết, lại để di chiếu lập Trịnh Cán, con trai Đặng Thị Huệ, tức bà chúa Chè làm thế tử và giao cho Hoàng Đình Bảo phụ chánh.

Thực ra không ai biết là do quyết định của Trịnh Sâm hay xảo kế của Đặng thị Huệ. Trịnh Cán còn nhỏ mà lại lắm bệnh, nên phe họ Trịnh chia làm hai, phe theo Trịnh Khãi, phe theo bà chúa Chè.. Không biết Trịnh Khãi có ý chống cự hay bà bị bà chúa Chè vu oan giá họa, khiến Trịnh Khãi bị giam, các chân tay của Trịnh Khãi bị giết vì tội âm mưu khởi loạn. Bà chúa Chè rất thủ đoạn, dùng Huy quận công Hoàng Đình Bảo làm nơi nương tựa cho mẹ con bà. Hoàng Đình Bảo nắm quyền trong phủ chúa, có quyền vào ra ngày đêm cho nên trong dân gian truyền tụng câu ca:

Ba quân có mắt như mờ,
Để cho Huy quận vào sờ chánh cung.

Bà chúa Chè chơi rất có bài bản. Bà cho quân bắt người rồi lập tòa án xử tội Trịnh Khãi, giao cho Ngô Thời Nhậm thụ lý vụ này. Ngô Thời Nhậm theo phe bà chúa Chè, nhận lệnh Hoàng Đình Bảo kết tội phe Trịnh Khãi khiến các thầy dạy của Trịnh Khải là Nguyễn Khắc Tuân, Chu Xuân Hán tự tử, Nguyễn Khản bị giam. Một số văn võ quan và dân chúng bị họa lây, số nạn nhân lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Ngô Thì Nhiệm được thăng thị lang. Trong khi thân phụ Ngô Thì Nhậm là Ngô Thì Sĩ và các quan ủng hộ Trịnh Khãi thì Ngô Thời Nhậm bỏ nhân nghĩa theo cường quyền, khiến cho Ngô Thời Sĩ đau đớn và tủi hổ nên tự tử.

Dân chúng và sĩ phu kết tội Ngô Thời Nhậm ‘’sát tứ phụ’’, nghĩa là giết bốn cha ( cha và ba bạn của cha, là thúc phụ, bá phụ của Ngô Thời Nhậm). Ngô Thời Nhậm huênh hoang được một thời, đến khi quân Tam Phủ nổi loạn giết Hoàng Đình Bảo, cứu Trịnh Khãi lập ngôi chúa, thì Ngô Thời Nhâm trốn chui, trốn nhủi, sau rủ em rể là Phan Huy Ich bỏ nhà Lê theo Tây Sơn. Về phía Thích giáo, tình hình cũng đen tối. Một số lợi dụng chùa chiền làm cơ sở ẩn náu như Phạm Thái, Trần Quang Ngọc ở chùa Tiêu Sơn để chống Tây Sơn, còn thiền sư Châu Bất Minh, Vô Nhất Hạnh thì đội lốt thầy tu hoạt động cho phe Tây Sơn ở kinh đô.

Ngoài ra, một số đội lốt sư ở chùa để kiếm cơm và trốn lính cho nên trước và sau khi quân Tây Sơn vào Phú Xuân, họ bỏ chùa ra ngoài lấy vợ, nhất là những ông sư tiến sĩ, cử nhân hoặc tú tài như thiền sư Phạm Công Thiến, Phạm Thiên Lôi, thiền sư Nguyên Hồng Đào, . .Phật dạy nhân nào quả nấy thật là đúng. Ai đời trong học viện, các ngài tuyển rất nhiều nữ thư ký đẹp hơn hoa khôi, làm sao mà lòng trần chẳng động?

Bên Đạo giáo, một số đạo sĩ cũng có hành vi đổi trắng thay đen. Trước đây một số trong bọn họ theo Trương Phúc Loan, nay thấy Tây Sơn mạnh, họ bèn quay 180 độ, lên tiếng ủng hộ Tây Sơn, chống Trương Phúc Loan tham nhũng, và kêu gọi hòa bình. Trong số đạo sĩ này có đạo trưởng Thanh Long, chân nhân Văn Thanh, đạo nhân Vô Chân Vô Tín, đạo sĩ Nguyễn Ngọc Lươn, và một số tín đồ như Lý Bất Trung tiên sinh ờ trường Quốc Tử Giám, và nữ kiệt Thanh Thanh ở kinh đô. Lý Bất Trung tiên sinh nghe nói đỗ cử nhân, đuợc làm Đổng Lý văn phòng bộ Lễ đời Trương Phúc Loan, và cũng nhờ thế lực Trương Phúc Loan mà vào Quốc Tử giám.

 Ngoài ra, một số đạo sĩ theo đời lấy vợ. Một số rất thẳng thắn, công khai cởi áo nhà tu như đạo sĩ Lý Tôn Nghiêm ở Quốc tử giám, nhưng cũng có đạo sĩ sau ngày quân Tây Sơn nhập thành mới dẫn vợ và một đàn con ra khoe thành tích đi theo cách mạng, triệt để chống tôn giáo như đạo sĩ Trần Thái Sơn, một danh sư cũng ở Quốc tử giám. Đạo trưởng Thanh Long trước đây quỳ mòn sân tướng phủ Trương Phúc Loan, sau thấy Tây Sơn hùng hậu ngài lên tiếng chống Trương Phúc Loan bóc lột dân chúng. Ngài đã cùng một số bộ hạ mang áo rách, đội nón mê, chống gậy đi ăn mày khắp phố phường để bêu xấu chế độ. Khi quân Tây Sơn vào Phú Xuân, ngài vội vã dâng đạo quán của ngài cho quân Tây Sơn và ra ngoài theo tiếng gọi thiêng liêng.


Tuần đầu học tập kinh điển, các giáo quan cũ mang tâm trạng chán chường bởi vì họ là những kẻ thất trận, mang tâm trạng của một nhà thơ đời trước:

Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!

Họ cũng mang nỗi u hoài vì các bạn cũ vắng bóng. Vệ úy Hồng Sơn Đông nghe nói đã bị bắt vì tội làm vệ úy trong Đại Nội. Trưởng giáo Xuân Bảo, người Thuận Hóa, vốn là một đại thần trong triều, bao lần giữ chức Tả thị lang bộ Lễ (tức thứ trưởng sau này) không biết đã đào thoát hay bị giam. Một số vắng mặt có lẽ đã chết, ngồi tù hoặc đã bỏ trốn. Chiêu Văn quán bây giờ thuộc ban quân quản của chế độ mới cai trị. Một số bộ mặt khắc nghiệt, lạnh lùng xuất hiện.

Cũng có một vài giáo quan cũ như Lý Bất Trung, Phạm Trọng Vằn, Lê Thất Thành, Lưu Tất Khôn đứng hầu bên cạnh các đại quan Tây Sơn. Những người này trở thành đội trưởng, đội phó cai quản các học quan và sinh viên Chiêu văn quán. Một hôm các giáo quan đang ngồi trong hội trường bỗng thấy đạo trưởng Thanh Long xuất hiện. Ngài không mang y phục đạo trưởng mà bận quân phục Tây Sơn, chỉ thiếu cái mũ tai bèo trên đầu, nhưng nổi bật với băng đỏ rực rỡ của ban Quân quản trên cánh tay, chen vai thích cánh với các tân quan cách mạng, đi hiên ngang ngoài hành lang.

Thái độ và cử chỉ của ngài, chứng tỏ ngài đã bám dính được với ‘’cách mạng’’. Ngài đã được trọng dụng là phải vì trước đây, ngài đã chống chế độ bằng cách đi ăn mày và trước ngày quân Tây Sơn nhập thành. ngài đã viết văn bản ký tên truyền tay các giáo quan kêu gọi mọi người đừng di tản, hãy ở lại phục vụ ‘’cách mạng’’ xây dựng thiên đường chủ nghĩa. Thời gian học tập này, một đôi khi, các đại quan Tây Sơn triệu tập các học hiệu thuộc viện Quốc Tử giám họp chung, nhưng thường thì các giáo quan các học hiệu được chia thành từng nhóm để học tập và hội thảo chính trị. Một đôi lần, toàn Chiêu Văn quán được họp chung.

Một bữa, toàn trường ngồi nghe thông báo tin tức, không phải là buổi tố khổ, thế mà đạo trưởng Thanh Long lên tiếng tố cáo nguyên Trưởng giáo Xuân Bảo là tay sai thực dân, phong kiến. Ngôn ngữ và thái độ hung hãn của đạo trưởng Thanh Long cho thấy ngài đã nhập vai vô sản tranh đấu. Xưa nay, đạo trưởng Thanh Long rất khôn ngoan và tích cực. Trong triều, ngài có thái sư Trương Phúc Loan đỡ đầu, trong trường có Trưởng giáo Xuân Bảo giúp đỡ nên ngài và phe phái ngài mặc sức tung hoành trong ngoài. Nay đột nhiên, và không cần thiết, ngài lên tiếng tố cáo vắng mặt Trưởng giáo Xuân Bảo làm cho mọi người ngạc nhiên. Lão sư Văn Diêm, là người Thuận Hóa, cũng là nguyên trưởng giáo ở các trường đại học, là em hay anh vợ của Trưởng giáo Xuân Bảo, đứng lên phản đối. Ông nói:

Ông Xuân Bảo đã ra trình diện tân triều và đang học tập cải tạo. Ông có tội hay không có tội, triều đình sẽ quyết định, không việc gì đến ông! Hãy im miệng ông lại đ ồ nịnh thần vô liêm sỉ !

Trước đây, dưới mắt nhiều người, Văn Diêm lão sư chỉ là một ông già hiền lành, ít nói, thuộc loại ‘’gọi dạ bảo vâng’’, nay mới thấy lão sư Văn Diêm cũng có chút khí phách chứ không phải là hèn, chỉ biết im miệng cúi đầu nghe người ta nhục mạ cha anh! Một số tín đồ Đạo giáo, thấy cảnh tượng như thế rất đau lòng. Thời chúa Nguyễn, già Riêm là một ông lão hiền lành và nghiêm nghị, trông coi phòng giáo quan đã mấy đời trưởng giáo, chuyên việc trà nước, và đóng mở các phòng ốc. Sau lão về hưu thì ông Tam vào thế.

Ông Tam vui tính, để vợ con ở Đồng Nai, một mình ở một phòng rộng rãi trong khuôn viên Chiêu Văn quán. Ông Tam thích hút thuốc thuốc lào cho nên một số giáo quan trẻ thường tới đây hút thuốc lào và nói hươu nói vượn, có thể nằm dài sau cơn say. Không khí ở đây tự do hơn là ở phòng khách giáo quan, là nơi để các giáo quan nghỉ ngơi trước và sau giờ dạy. Thấy đạo trưởng Thanh Long tung hoành ngang dọc, ông Tam cũng là một tín đồ đạo tiên, đã lắc đầu, than thở :

Xưa nay tôi cứ tưởng Thanh Long đạo trưởng đạo cao đức trọng, không ngờ nay ngài làm tay sai cho quỷ sa tăng. Mai mốt tôi sẽ xin về quê làm ruộng, không còn muốn ở lại đây nữa. Chúc các thầy ở lại mạnh khoẻ. . . .

Nói xong ông rơm rớm nước mắt.


It lâu sau, chính sách của Tây Sơn đã rõ rệt. Trong chế độ mới không có tư hữu, và không có chỗ cho tôn giáo. Vì vậy các trường Đại, trung, tiểu học vào tay nhà nước, các vị tu hành không được múa may bay nhảy như trước ngoại trừ các bảng hiệu quốc doanh. Thanh Long đạo trưởng và các sư sãi đều ra khỏi đại học. Tài sản nhà chùa, nhà thờ thì triều đình lấy, song người của nhà chùa, nhà thờ thì trả lại cho nhà chùa, nhà thờ! Còn đại học và việc nước là đo tân triều quản lý. Nghe nói người ta tính dẹp hết các trường dạy văn chương trong đó có Chiêu Văn quán. Một thời gian sau, phần lớn giáo quan được lệnh nghỉ việc, riêng một số vì nhu cầu đưọc ở lại. để lập thành đại học Bách hợp . Lại một đoạn sử được sang trang.

V. CHÂU TỬ LONG TIÊN SINH

Lúc bấy giờ Tây Sơn nổi lên, một số đại học sĩ, học sĩ, và nho sĩ trong triều đã theo Tây Sơn. Một số bỏ cha mẹ, vợ con theo Tây Sơn lên rừng chiến đấu, nhưng đa số ăn bổng lộc chúa Nguyễn lại lảm nội ứng cho Tây Sơn.

Tiên sinh Châu Tử Long là người Đồng Nai, giữ chức dại học sĩ tại Chiêu Văn quán của chúa Nguyễn. Tiên sinh là người hiền hậu, thật thà, ai ai cũng quý mến. Thân thể to cao, mặt mũi tròn trịa, là tướng phúc hậu nhưng lưỡi luôn thò ra liếm mép, là tướng ưa hưởng thụ , hay chơi bời, và cũng là kẻ bội nghĩa vong ân. Tiên sinh xuất thân con nhà đại điền chủ ở Rạch Giá, đi du học, đỗ tiến sĩ Sử học, sau về dạy Chiêu Văn quán. Có kẻ nói xấu tiên sinh rằng tiên sinh học dốt, đi du học để chơi bời, luận án tiến sĩ của tiên sinh là do mướn người làm. 

Tin đồn này làm cho nhiều người tin vì suốt đời tiên sinh không hề viết lách, lúc dạy học thì không soạn giáo án gì hết, tiên sinh cứ đọc từng trang sách của sĩ phu Bắc Hà và Tây Sơn như Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Trần Văn Kỷ , Nguyễn Thiếp cho sinh viên chép. Dẫu sao, điều đáng khen là Tiên sinh rất bình dân, giản dị, cho nên sinh viên cũng như một số giáo quan trẻ trong Chiêu Văn quán rất thich tiên sinh. Thỉnh thoảng, Châu tiên sinh mở cuộc ăn uống, mời một số giáo quan trẻ tới vui chơi. Trong Chiêu Văn quán hay tại những buổi ăn uống này, Châu tiên sinh luôn luôn tươi cười, nửa thật nửa đùa, bảo rằng ông là bạn thân của Trần Văn Kỷ tiên sinh là một quân sư của Nguyễn Nhạc.

Sau ngày quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, các giáo quan cũ phải đến Chiêu Văn quán trình diện, nhưng tiên sinh thì vắng bóng. Hình như tiên sinh đã được bổ nhiệm một chức vụ nào trong cơ quan trung ương của tân triều, bên cạnh Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Trần Văn Kỷ. Lúc này, đám giáo quan trẻ mới biết tiên sinh thât sự theo Tây Sơn. Trước đây, tiên sinh thường tổ chức những cuộc họp mật của thành bộ Tây Sơn, mà cuộc ăn uống với các giáo quan triều đình chỉ để che mắt cơ quan an ninh nhà Nguyễn. Rất lâu, đám giáo quan cũ cũng gặp tiên sinh và đến dinh thự mới nhưng không nghe tiên sinh nói tiên sinh giữ chức vụ gì ở cơ quan nào. Tiên sinh ở dinh thự của một vị đại thần của chúa Nguyễn bỏ lại. Nhưng điểm đáng nói là tân triều không cấp hẳn cho tiên sinh một biệt thự , mà lại cấp chung với một võ quan Tây Sơn. Tiên sinh ở lầu trên, võ quan Tây Sơn ở lầu dưới. Không hiểu vì đâu hai ông xung khắc nhau thường xuyên. Ông võ quan Tây Sơn đã có lần đấm vào mặt ông và chỉ mặt ông mà mắng:

‘’Mày là thằng ngụy, chui vào hàng ngũ cách mạng để quấy phá. Mày ăn bơ sữa của đế quốc, mày là bọn tư sản phản động. không xứng đáng hưởng ân huệ triều đình. Cả cái dinh thự này là của tao vì tao đã dày công xông pha mặt trận, còn mày là đồ chó ghẻ. Mày cút đi!

Ôi! Hai cọp không thể ở chung một rừng! Ông võ quan Tây Sơn tất nhiên là muốn nắm độc quyền, độc chiếm. Người xưa đã nói:

Sống mỗi người một nết;
Chết mỗi người một mồ’’

Dù Châu Tử Long là một chiến sĩ thực thụ của Tây Sơn thì cũng bị đánh đuổi huống hồ tiên sinh chỉ là một giống ‘’ngụy Nguyễn’’, chỉ biết ăn chơi, không phải là một chiến sĩ anh hùng như các đô đốc Tây Sơn từng xông pha tên đạn, đánh đông dẹp bắc. Dưới mắt các đô đốc Tây Sơn, Trần Văn Kỷ, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ich cũng chỉ là một thứ con ghẻ của chế độ, người ta lợi dụng họ, đánh bóng họ để tuyên truyền. Trần Văn Kỷ tiên sinh còn bị khinh miệt huống hồ Châu tiên sinh! Họ coi tiên sinh chỉ là một kẻ ăn theo, vô giá trị, không xứng đáng đứng chung hàng ngũ với họ.Thực ra triều đình có chút không phải với Châu Tử Long tiên sinh. Nguyên chúa Nguyễn truớc đây xây dựng khu làng Quốc tử giám cho các giáo sư đại học ở.

 Lúc quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, họ chiếm khu làng Quốc Tử Giám làm một Cấm thành, cho các quan lớn Tây Sơn ở, mặc dầu các quan lớn đã chiếm nhiều dinh thự ở Gia Định thành. Họ đuổi các giáo sư ra ngoài, và cấp các giáo sư các căn nhà khác. Châu tiên sinh có biệt thự rộng rãi, mát mẻ trong làng Quốc Tử Giám, là nơi mà các thầy trẻ ở Quốc tử giám , sống ở bên ngoài, thường được Châu tiên sinh mời đến để uống rượu, ngâm thơ hoặc chơi cờ tướng như đã kể ở trên. Dù có công trạng nuôi dưỡng chiến sĩ Tây Sơn hay cộng tác với Tây Sơn, Châu tiên sinh cũng bị đẩy ra ngoài. Tại sao người ta không cấp riêng cho gia đình Châu tiên sinh một căn nhà mả lại cấp chung với một võ quan Tây Sơn cho ra nông nỗi này?

Nghe nói ông võ quan Tây Sơn sau đó đóng cầu thang lại không cho tiên sinh và gia đình tiên sinh xuống nhà. Ngày xưa, cơ cấu kiến trúc dinh thự còn cổ lỗ, Những bếp núc, phòng tắm, phòng vệ sinh đều ở dưới đất. Như vậy thì làm sao tiên sinh đi làm? Con tiên sinh đi học, và Châu phu nhân đi chợ? Nhất là làm sao tắm rửa, giải quyết vấn đề vệ sinh? Không hiểu sau này Ban quân quản Kinh Đô giải quyết ra sao, nhất là Trần Văn Kỷ tiên sinh có giúp gì cho tiên sinh không, và sau này Châu tiên sinh đi về đâu? Trong bức màn sắt, con người xa lạ, khép kín, không ai biết ai nữa.


Trời đất từ nay khép chặt cửa,
Mưa gió, hoa mai rụng suốt đêm!

Trong trận đấu này ai thắng ai có lẽ khá rõ rệt. Viên võ quan Tây Sơn là chiến sĩ Tây Sơn thật sự, còn Châu Tử Long tiên sinh dẫu sao cũng chỉ là kẻ ngoại đạo tân tòng. Con nuôi sao bằng con đẻ! Hình như người con gái duy nhất của Châu tiên sinh sau này cũng đã tìm đường vưọt biên.

VI. ĐÔI BẠN ĐỒNG SONG

Lữ Vô Phong và Quách Anh Tài cùng học một thầy tại Gia Định. Lữ sinh ngưòi Bình Dương, dáng gầy ốm gió thổi bay, mặt xanh xạm, lộ gân xương không có oai phong như cái tên định mạng. Còn Quách sinh người Gia Định, thì rất có tài. Tài thứ nhất là giỏi chữ Hán, bất cứ văn thơ ai, sinh đọc qua một lần thì thuộc nằm lòng, viết chữ Hán rất đẹp, và thông thạo các lối chữ chân, thảo, triện, lệ. Tài thứ hai là đánh cờ tướng. Sinh đã nhiều lần đoạt giải quán quân bộ môn này. Khắp Nam kỳ lục tỉnh không ai là không nghe danh Quách Anh Tài. Lữ sinh và Quách sinh thi đỗ cử nhân, năm giáp tí tại trường thi Gia Định, sau hai ông đều ra làm giáo quan, một ông về Bến Tre, một ông ở Định tường. 

Lữ Vô Phong là người ngay thẳng nhưng nóng nảy, trong các cuộc tranh luận thường tỏ ra hung hăng, mà trong văn chương cũng vậy. Ông hết sức bài xích người này, người kia, với giọng điệu cực đoan và cực tả. Ông còn dám chỉ trích chúa Nguyễn thơ ấu, ngu muội, còn Trương Phúc Loan thì tham nhũng, tàn ác, và các văn võ bá quan chỉ là một lũ ăn hại đái nát. Văn chương và danh tiếng của ông được nhà Tây Sơn chú ý. Họ bèn vận động ông vào phe với họ.

 Ông hăng hái nhận lời, bỏ nhiệm sở lên chiến khu. Lúc này nhà Tây Sơn ra sức chiêu dụ các nhân tài ở Phú Xuân và Gia Định cho nên một số đã lên chiến khu chiến đấu, một số ở lại nằm vùng. Lữ Vô Phong và Quách Anh Tài đều cùng một lúc vào chiến khu. Lữ Vô Phong văn chương có thép và người sục sôi máu nóng đuợc đảng Tây Sơn ưu đãi, đưa làm Tả Thị Lang bộ Lễ trong triều Tây Sơn. Còn Quách Anh Tài hiền lành hơn thì giữ một chức vụ gì đó không mấy quan trọng trong bộ Lễ hay bộ Công. Có người kể rằng khi Lữ Vô Phong vào chiến khu thì các bạn cũ ngày nào cũng xúm lại thăm, ác cái là thăm viếng đúng bữa cơm, cho nên quan Tả thị lang phải mời bạn ngồi chung mâm. Thấy ăn chực hoài cũng ngượng, ông bạn nói thật với Lữ Vô Phong rằng:

Tụi tai ở đây khổ lắm. Cơm rau dưa, bữa đói, bữa no, riêng mày và các quan cao là được có tiêu chuẩn gà vịt, nên tụi tao tới ăn ké vài bữa thôi!

Thuyết khác thì cho rằng việc này xảy ra ngoài Bắc Hà. Quân Trịnh chiếm Thuận Hóa, phong cho anh em Nguyễn Nhạc chức Tiên phong tướng quân Tây Sơn hiệu trưởng, hai bên giao hảo rất đẹp. Nguyễn Nhạc muốn dò la tình hình Bắc Hà liền cử một phái đoàn ra Bắc mượn cớ triều cống vua Lê chúa Trịnh. Trong phái đoàn này có quan Tả Thị Lang Lữ Vô Phong. Trong khi một số dân Thanh Nghệ theo chúa Nguyễn vào Nam thì cũng có một số dân Nam Hà ra làm quan hay sinh sống ở Bắc Hà. Nghe tin phái đoàn trong Nam Hà ra tiến cống, các bạn đồng hương Nam Hà ngày nào cũng đến thăm viếng khiến phái đoàn miền Nam rất phấn khởi. 

Nhưng qua cuộc tiếp xúc này, Lữ Vô Phong biết được nhiều bí mật. Bắc Hà chính sự thối nát hơn cả Nam Hà, vua Lê ngồi vì, chúa Trịnh thao túng quyền hành, sống trên xương máu nhân dân. Dân chúng thì thầm bàn tán việc chúa Trịnh tham dâm vô độ mà mắc bệnh kín, sợ ánh sáng, suốt ngày đêm ở trong phòng tối. Kinh đô ban đêm cấm thắp đèn. 

Đến đời Trịnh Sâm chúa cũng vì tham dâm mà mắc bệnh. Bà chúa Chè thông dâm với Huy Quận công Hoàng Đình Bảo, đầu độc Trịnh Sâm khiến Sâm mới ngoài bốn mươi đã quy tiên, rồi bà giả chiếu chỉ truất phế thế tử Trịnh Khải , lập con trai bà là Trịnh Cán mới bốn, năm tuổi lên làm chúa. Khi Trịnh Cán lên ngôi, em bà chúa Chè là quận mã Đặng Lân coi thường vương pháp, ngang nhiên cướp nhà dân chúng, bắt hiếp con gái dân lành . Quân Trịnh hùng mạnh nhưng dân Bắc Hà nghèo đói quanh năm, các bạn của ông đã than thở rằng từ khi ra Bắc, suốt đời chỉ rau cháo, nay nhờ ông ra mà được trông thấy miếng thịt gà, thịt heo. 

Bọn quan lại ngoài đó coi người Nam Hà như nô lệ, hay đúng hơn, một thứ dân ngụ cư chỉ biết chống đối và ăn nhậu! Lúc rảnh rổi, một mình đi chơi ngoại ô, ông thấy cây cối bị chặt trụi, không còn vườn cây bóng mát vì chúa ra lệnh tăng diện tích trồng lúa, khoai, ai trồng hoa hay trồng cây ăn trái phải đốn bỏ. Ao chuôm không còn cá, bầu trời không cánh chim vì dân nghèo đói, con chim sẻ, con cá rô nhỏ trở thành mồi ngon bồi dưỡng cho trẻ con và người lớn. Ngoài đường, dân chúng đều mặc đồ nâu hay đồ đen vá chằng vá đụp. 

Ai nấy cúi đầu cắm cổ mà đi, không thấy một nụ cười . Đặc biệt là họ tránh xa khách lạ. Ông nhớ lại khi ra Bình Thuận, sống trong cái nôi cách mạng Tây Sơn, ông cũng nghe nhiều chuyện, trong đó có việc Nguyễn Nhạc hiếp vợ Nguyễn Huệ. Còn ruộng đất nơi đây cằn khô sỏi đá, đa số làm ruộng, một số buôn lậu hay cướp núi như lãnh tụ đảng Nguyễn Nhạc. Chính sách lấy của người giàu chia cho người nghèo của đảng Tây Sơn thực chất chỉ là phỉnh gạt dân đen. Dân nghèo có hàng vạn, hàng triệu, trong khi nhà giàu chỉ có vài chục hay vài trăm. 

Lấy vài chục nóc nhà ngói thì chia được cho bao nhà nghèo? Lấy được chục ký vàng thì bao người được một chỉ vàng? Cướp lúa gạo mỗi huyện thì dân nghèo mỗi người được mấy cân gạo, và sống được bao lâu? Thực tế, phần lớn vàng bạc, của cải rốt cuộc vào bọn cướp Lý Tài, Tập Đình và bọn thân tín của Nguyễn Nhạc. Ông nghĩ đến ruộng đồng miền Nam xanh tươi, cò bay thẳng cánh, những vườn cây đầy hoa, nặng trái, và dân chúng nơi đây quanh năm quần lãnh áo hoa, thảnh thơi với câu hò, điệu hát và tiếng cười. Hai bên khác nhau xa. 

Hạnh phúc là đâu? Độc lập, tự do là đâu? Chỉ có một thoáng mây bay mà ông đã ngửi thấy mùi chuyên chính bốc lên nồng nặc khắp không gian. Quan Tả thị lang mới tỉnh ngộ, hết tin vào thiên đường miền Bắc và sự sáng suốt cùng đạo đức cách mạng của Nguyễn Nhạc. Vì vậy, sau này, Tây Sơn đại thắng mà ông thì trở thành bất mãn, chống đối triều đình. 

Thực ra, ông là người miền Nam ngay thẳng, bộc trực, thấy sao nói vậy chứ không lắt léo như bọn quan lại Bắc Hà tinh ranh, xảo quyệt. Ông thấy chúng nó tham nhũng, tàn ác thì ông chỉ trích chúng cho nên chúng tuyệt thông với ông. Sau khi chiếm Gia Định, họ lập nội các mới, bọn tân tòng tư sản và tiểu tư sản trong đó có ông liền bị chuyển công tác, sa thải hoặc bị bắt giam. Lê Hảo Ngọt, Trương Như Ngưu, Châu Tâm Luồn , Trần Lưu Linh lần lượt bỏ xứ mà đi sau khi đã biết mình mắc điếm!

 Riêng vợ chồng Nguyễn Thái Giám, chồng là kiến trức sư hay kỹ sư gì đó, hồi trước là tay xách động sinh viên biểu tình, còn vợ vốn là sinh viên Văn, sau ngày Tây Sơn nhập thành, trở thành một nữ kiệt đứng sau Lý Bất Trung ở hội Trí Thức Yêu Nước Đường. Nghe hai vợ chồng ông cũng bỏ ra nước ngoài it lâu rồi trở về. Phải chăng ông bà chán cảnh lưu đầy, hoặc được triều đình chuyển công tác, được điều về quốc nội lãnh nhiệm vụ mới? Lữ Vô Phong không bỏ nước mà đi, ông ở lại, ngày ngày đến bộ Lễ làm việc, mặc dầu đã mất chức Tả thị lang, song không ai nói năng gì với ông. Hết ngồi lại đứng, hết giờ thì về. Đó là kết quả của bao năm theo Nguyễn Nhạc. Cũng may là ông chưa bị tù, chưa bị què chân cụt tay như bao chiến sĩ vô danh khác đã hy sinh một đời cho mộng cách mạng hảo huyền.

Còn về Quách Anh Tài sau ngày đại thắng, được triều đình giao cho việc tiếp quản cơ sở giáo dục Định Tường. Do đó ông trở thành quan Đốc học Định Tường, tác oai tác quái, báo ân báo oán, đã cách chức và bỏ tù một số bạn cũ trước đây dạy học tại Định Tường học hiệu. Trong thời gian này, Quách đốc học gặp một giai nhân, sống một mình trong một biệt thự ở Gia Định thành. Người đẹp này có cha mẹ là tư sản, bỏ nhà chạy theo chúa Nguyễn. Quan Đốc học làm đơn xin triều đình cưới vợ song triều đình không thuận vì hai lẽ:

- Thứ nhất, đảng ta là đảng vô sản, một đồng chí đảng viên không thể kết hôn với kẻ thù giai cấp.

- Thứ nhì, người phụ nữ kia có cha mẹ phản quốc, bỏ nước chạy theo quân thù. Một đồng chí cách mạng, không thể kết hôn với kẻ thù dân tộc.


Quách Anh Tài không nghe lời đảng, quyết bỏ đảng theo người yêu. Kết cuộc, ông được ở nhà vẽ lông mày cho giai nhân, thỉnh thoảng tham gia đấu cờ quốc tế. Đời người như thế cũng hạnh phúc và vui vẻ chán.

VII. CHIÊM TINH GIA ĐINH SƠN

Đinh Sơn quê ở ngoại thành Qui Nhơn. Thân phụ ông làm lý trưởng, có một cái nhà ngói và vài mẫu ruộng. Khi Nguyễn Nhạc khởi binh, bọn Lý Tài, Tập Đình cướp phá xóm làng, thân phụ của Đinh Sơn không chịu cung ứng vàng bạc, lúa gạo cho bọn họ nên bị Lý Tài kết tội là địa chủ, phong kiến, cường hào, ác bá rồi bắt giết. Đinh Sơn sợ hãi, bỏ vợ con trốn vào Gia Định sinh sống qua ngày. Đinh Sơn không được học hành nhiều cho nên vốn liếng chữ nghĩa cũng không là bao. Ông theo một ông thầy bói ở Gia Định học nghề bói toán. Ít lâu sau, ông thầy bói chết, Đinh Sơn nối nghiệp thầy mở một cửa hàng tướng số tại hương lộ 18, sau trở thành tỉnh lộ, là con đường nối liền Gia Định và Tây Ninh, và sau này thành khu Bà Quẹo, gần khu Bình Hưng Hòa.

Đinh Sơn làm ăn cũng khấm khá, mua được một căn nhà ngói ở mặt tiền, và cũng đã lập một gia đình mới, gồm một vợ và ba con. Khu nhà Đinh Sơn vốn xưa là một khu rừng. Sau khi chúa Nguyễn mở mang miền Nam, lập Gia Định trấn, khu này trở thành khu tân lập, gồm những người Bắc, người Thanh Nghệ theo Nguyễn Hoàng vào từ trước, và một số bà con người Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phan Rang vào sau. Những người này sinh sống bằng nghề canh nông, một số đốn cây rừng từ Tây Ninh về cưa xẻ làm bàn ghế đem về Gia Định , Đồng Nai bán. Một số chuyên buôn hàng từ biên giới Miên Lào về Gia Định và chuyển hàng từ Gia Định đi Miên, Lào.

Khi quân Tây Sơn đánh thành Gia Định quân chúa Nguyễn thua đậm. Chúa Nguyễn phải bỏ chạy ra ngoài. Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu tài sản của những quan lại theo chúa Nguyễn, và những thương gia giàu có tại miền Nam. Những tướng tá và binh lính chúa Nguyễn đều bị bắt giam trong rừng sâu. Những thầy tu, thầy bói cũng bị giam giữ. Thậm chí có người bị giết. Đinh Sơn cũng bị bắt giam một thời gian.

Bỉ nhân cư ngụ tại Gia Định . Hôm hôm cưỡi ngựa đi thăm một người bạn ở vùng này, nhân đi qua nhà nọ, thấy bảng hiệu “Đinh Sơn, chiêm tinh gia” bèn xuống ngựa vào chơi. Vốn từ lâu, nghe danh Đinh Sơn nhưng chưa có dịp gặp mặt. Nay qua đây, tôi muốn vào thăm. Đinh Sơn có nhà, ông vui vẻ tiếp tôi. Trong khi ông xin phép vào nhà thay y phục, tôi nhìn xung quanh thì thấy căn nhà cũng khá đầy đủ tiện nghi như bao gia đình bực trung tại Gia Định lúc này, mặc dầu nền nhà có những vết cạy phá, chưa kịp sửa sang. Đinh Sơn chuyên coi tử vi. Tại phòng khách , ông vẽ lên tường một bản tử vi to bằng cái chiếu. Khi ông ra tiếp tôi, ông bưng ra một khay trà mời khách. Chúng tôi cùng uống trà đàm đạo như hai người bạn quen thân. Ông bảo tôi viết tên tôi vào tay rồi nắm lại. Tôi che kín tay và viết tên tôi, thế mà ông nói rõ tên tôi. Tôi hỏi ông lá số của ai trên tường. 

Ông bảo đó là lá số của ông, rất giống lá số Nguyễn Nhạc, là lá số làm giặc, làm vua. Nhưng ông không làm vua được, mà làm giặc, làm kẻ chống đối bạo quyền, vì cung mệnh của ông có Sát, Phá tọa thủ. Ông cho biết, ông làm nhiều nghề. Khách muốn trừ tà, xin bùa ngãi, ông đều có. Ông bảo nhà ông có phủ thờ thần linh. Ông dẫn tôi lên xem. Trên gác, ông có cả một phủ thờ gồm khoảng một trăm bát nhang. Ngày rằm , mồng một và mỗi đêm , ông đều cúng kiếng thờ phụng nghiêm chỉnh. Ông là một thầy bói và cũng là một thầy pháp. Ông kể chuyện khi quân Tây Sơn vào, ông bị giam một năm. Nằm trong tù rất khổ sở, thân hình gầy ốm như quỷ đói. Khi ông ra tù về nhà thì nhà cửa bị cướp phá. Bọn quan quân Tây Sơn và bọn lưu manh lấy các cửa ngõ, dở gạch ngói nhà ông để xây nhà chúng, hoặc bán chợ trời. Ông nói:

-Thưa ông, vài tháng nữa, tôi và các thầy bói được lênh phải tập trung lên huyện học tập chính sách của triều đình. Tôi thà chết chứ không đi tù lần nữa. Bọn nó đến nhà tôi, thì tôi sẽ liều chết chống lại. Tôi đã chuẩn bị cả rồi.

Ông bưng chén trà uống một hơi rồi nói tiếp:

-Chúng nói chống mê tín, dị đoan, nhưng sự thực là chúng muốn độc quyền buôn thần bán thánh. chúng sợ các thầy bói cạnh tranh với chúng, cướp nghề của chúng. Nguyễn Nhạc vốn làm nghề buôn lậu, ăn cướp. Nguyễn Nhạc cho bộ hạ đốt lửa trên núi, giả làm thần linh, kêu Nguyễn Nhạc lên nhận kiếm thần. Nguyễn Nhạc ghét thầy bói vì sợ dân nghe lời thầy bói mà chống lại chúng. Ngày nay, có hai loại thầy bói. Một loại không theo chúng thì bị chúng khủng bố và bắt giam. Một số theo chúng thì trong nhà đã có người của Tây Sơn phục sẵn. Ai có ý chống triều đình, hớ hênh đến xem việc thành bại, hay chọn ngày hưng binh, hoặc tỏ ý bất mãn, phê phán triều đình thì chết với chúng. Nếu thường dân đến xem xuất hành cát hung thì thầy bói hỏi đi xa hay đi gần. Nếu đi xa thì bất lợi, mà đi sông biển tất chết.

Ông kể chuyện nhà của ông. Ông có hai đứa con trai với bà vợ trước ở ngoài Quy Nhơn. Chúng hăng hái theo Nguyễn Nhạc. Sau khi quân Tây Sơn nhập thành Gia Định, chúng tìm vào thăm ông. Chúng ở lại khoảng hai tháng thì về. Ngày chúng về quê, ông mua vải vóc, sâm nhung , và cho chúng mỗi đứa vài lượng vàng. Mấy ngày trước, chúng rất mềm mỏng, hiếu thảo, nhưng sau khi nhận vàng, chúng trở mặt. Chúng chỉ mặt ông chửi mắng.

Thằng cả nói::

-Ông không phải là bố tôi. Ông là một thằng giặc. Ông bỏ quê hương Quy Nhơn và Đại đế Nguyễn Nhạc, mà chạy vào Nam theo ngụy quyền Nguyễn Ánh. Ông bỏ chính nghĩa theo giặc bán nước. Ông là đồ phản bội dân tộc, phản bội tổ quốc.

Thằng hai tiếp theo:

Vi ông mả chúng tôi khổ. Chúng tôi không ngửng đầu lên nổi. Chúng tôi bị lý lịch xấu, bị triều đình nghi kị, hành hạ vì có thân phụ bỏ vào Nam. Chúng tôi xấu hổ vì ông. Ông vào Nam theo giặc, ông còn làm nghề bói toán là nghề mê tín dị đoan, lừa dối và bóc lột nhân dân. Người như ông phải ngồi tù suốt đời mới cải tạo được tư tưởng đồi trụy và lạc hậu!



Cuộc gặp gỡ đó cho tôi một cảm giác buồn. It lâu sau, tôi có việc phải qua vùng này. Khi đi qua nhà Đinh Sơn thì thấy quanh cảnh quạnh hiu. Ngôi nhà có vết đạn và vết cháy xém. Tôi ghé một nhà cách nhà Đinh Sơn vài căn , vào xin bát nước lã. Tôi hỏi bà cụ chủ nhà:

-Thưa bà , tại sao ngôi nhà bên cạnh trông tiêu điều lại có vết đạn và vết cháy như thế? Chủ nhân ngôi nhà là ai?

Bà chủ nhà cho biết câu chuyện như sau:

Đó là nhà của ông thầy bói Đinh Sơn. Ông có lệnh tập trung cải tạo nhưng ông không chịu đi.. Ông cho vợ con đi ở chỗ khác. Huyện phái hai tên lính Tây Sơn đến nhà bắt ông lên huyện trình diện. Ông cầm dao đâm chết một tên. Tên thứ hai sợ hãi chạy ra ngoài. Giờ sau, lính Tây Sơn kéo đến nhà ông vây chặt. Ông đóng cửa, đứng trên gác bắn súng và cung tên sát hại vài tên. Hết tên, ông ném tạc đạn, và phóng lao. Quân Tây Sơn bắn súng, bắn tên và phóng gươm giáo vào nhà ông. Hai bên giao chiến một ngày. Thiên hạ kéo đến xem đông như ngày hội. Cuối cùng ông mở tạc đạn tự sát.

Nghe tin ông mất trong một hoàn cảnh bi hùng như vậy, tôi rất buồn. Trong khi bao nhà khoa bảng và bao nhà tu hành bỏ nhân nghĩa, cúi đầu, khom lưng trước bạo quyền, Đinh Sơn là một kẻ thất phu, dám đem tính mạng tranh đấu cho tự do và chống lại kẻ ác. Riêng đối với tôi, tôi cũng vô cùng cảm kích vì tấm thịnh tình của ông. Thời buổi loạn ly, cha con không dám tin nhau, vợ chồng tố cáo nhau, bè bạn phản trắc, xóm giềng rình rập vu khống để tâng công, thế mà gặp tôi lần đầu, ông đã thật dạ tin tôi, coi như tri kỷ, kể hết chuyện lòng. Nghe đâu sau vụ Đinh Sơn tuẫn tiết, triều đình bỏ lệnh tập trung và cải tạo các thầy bói.

VIII. VƯƠNG LÃO SƯ

Tại kinh đô Thăng Long có Vương lão sư, tên thật là Vương Hồng Phát, tổ tiên vốn người Hoa, sang phố Hiến nước Việt lập nghiệp. Cha mẹ tiên sinh giàu có, cho tiên sinh du học kinh đô Thăng Long. Mặc dầu tiên sinh không thi đỗ tiến sĩ, cử nhân hay tú tài, tiên sinh cũng có tài văn chương, nên đã trúng tuyển cuộc thi lại viên của triều Mạc, được bổ làm lại viên (thư ký) cho một cơ quan nhỏ ở kinh đô. Sau vì tiên sinh có tài chọn kim cương, ngọc thạch cho các bà chúa họ Mạc, tiên sinh được vua Mạc phong làm Phó Chưởng Quản thư viện của viện Bảo Tàng. 

Vì gia đình có tiền của cho nên tiên sinh không bận sinh kế . Cái lương bổng của tiên sinh cũng chỉ dùng vào việc vui chơi chốn tửu điếm, trà đình cùng bạn trang lứa. Tiên sinh là người có máu văn nghệ, đa tài và nhiều đam mê. Cái tài hoa thứ nhất là tài văn chương. Tiên sinh có giọng văn quyến rủ, duyên dáng đặc biệt. Tiên sinh viết truyện cổ, truyện kim, truyện mình, truyện người đều tuyệt, nay còn lưu các sách: Tôi Mê Đào Nương, Một Đời Hư Hỏng, Thăng Long Năm Xưa,, Nghệ Thuật Chơi Cổ Ngoạn. . .

Tiên sinh có ba cái đam mê và cũng là ba cái tài hoa của tiên sinh. Cái đam mê thứ nhất là thích sưu tầm sách. Sách xưa đã quý mà sách mới xuất bản cũng được tiên sinh yêu thích. Bất cứ sách nào mới xuất bản tiên sinh đều mua ba quyển, một quyển để xem, một quyển để vào thư viện gia đình, và một quyển để cho bạn bè mượn. Đam mê thứ hai là mê ca vũ nhạc. Và đam mê thứ ba là sưu tập đổ cổ.

Nước ta vốn nghèo, việc ấn loát sách khó khăn, và đắt đỏ, nên ít người mua. Lại nữa, thời buổi chiến tranh, sách mất mát, thư viện hoàng gia cũng chẳng thu thập được bao nhiêu. Vì tiên sinh có nhiều sách cổ và quý nên một số văn quan trong trường Quốc tử giám đã mời tiên sinh vào dạy tại đây để việc giao du và trao đổi giữa hai bên thêm bền chặt. Tiên sinh được giao dạy môn Văn Học Ngoại Biên và tiên sinh chọn đề tài “Thú tiêu khiển ” để giảng dạy các sinh viên. Tiên sinh không có tác phong nghiêm trang, đạo mạo của một giáo sư. 

Phong thái độc đáo của tiên sinh là phong thái của một nghệ sĩ, một tay chơi thượng hạng, và của một nghệ nhân kể truyện trong các trà đình tửu điếm ngày xưa bên Trung Quốc. Những buổi giảng dạy của tiên sinh không giống như những buổi giảng dạy của các giáo sư khác. Tiên sinh kể truyện cho sinh viên nghe. Tiên sinh không bao giờ cầm sách hay soạn giáo án gì cả. Buổi giảng dạy của tiên sinh chỉ là những buổi kể chuyện rất thích thú. Tiên sinh cười nói vui vẻ coi các sinh viên là những thính giả hay những bạn đồng trang lứa, và các sinh viên cũng rất thích thú vì những điều tiên sinh nói ra đối với đa số sinh viên là rất xa lạ.

Tiên sinh kể về thú đá dế, chọi gà, chọi cá lia thia . . Tiên sinh cũng nói về thú mê hát của tiên sinh thuở trẻ. Tiên sinh kể rằng lúc bấy giờ tiên sinh mê cô đào Phùng Hoa. Cô này nổi tiếng về tuồng hát bội, cô thường thủ vai Quan Công, Triệu tử Long rất xuất sắc. Cô đào này to lớn, vạm vỡ, giọng hát thanh tao cho nên khi cô thủ vai Quan Công, Triệu Tử Long hay Lữ Bố thì rất oai phong lẫm liệt. Khi cô xuất hiện trong những vai này thì các vương tôn, công tử Hà thành hoa lệ thảy đều đắm say. Cô này có một điểm đặc biệt là trước khi diễn tuồng phải có cái mục “đệ tam khoái” để kích thích và gây cảm xúc thì mới diễn xuất hay. 

Việc này thì cũng thông thường và cũng khá đặc biệt trong hàng văn nghệ sĩ . Trong đời sống riêng tư, con người có những sắc thái đặc biệt. Nhiều văn nghệ sĩ đã tìm nguồn trợ hứng trong rượu, nha phiến hay cà phê, trà. Có cô họa sĩ khi vẽ phải khỏa thân hoàn toàn thì mới vẽ được. Lẽ tất nhiên đoàn hát phải lo đầy đủ phương tiện cho bậc danh nghệ này để đạt nghệ thuật cao, vì cô là đệ nhất danh ca, là con gà đẻ trứng vàng của gánh hát, nhờ tài nghệ cô mà gánh hát thu bộn tiền.

Tiên sinh cũng đã gặp cô đào này. Tiên sinh không nói rõ tiên sinh là kép của cô đào này hay chỉ là một khách hàng xa lạ. Đêm chung chăn với người đẹp thì biến cố xảy ra. Mấy cắc bạc trong túi tiên sinh rớt ra ngoài và đi xuống gậm giường. Tiên sinh phải tìm hộp quẹt đánh diêm soi khắp nơi, làm cho giai nhân tỉnh giấc nồng. Người đẹp bực mình hỏi:
-Anh làm gì mà cứ lục đục hoài vậy?
Tiên sinh phải thú thực:
-Anh tìm mấy cắc bạc rớt xuống gậm giường.

Người đẹp liền lấy hai ba tờ giấy bạc, không rõ là tờ một đồng hay tờ năm, mười đồng đốt lên để tìm mấy cắc bạc cho tiên sinh! (Nên nhớ rằng lúc này một đồng bạc có giá trị lắm, quyển sách ba xu hay năm xu, lương quan huyện khoảng một trăm đồng ).

Tiên sinh dạy được một hai khóa rồi nghỉ dạy nghe đâu trong trường có người phê bình sao đó.

Tiên sinh là một người say mê cổ ngoạn. Tiên sinh có một kho tàng bảo vật trong nhà do công phu một đời sưu tập. Những nhà chơi cổ ngoạn hay những danh gia vọng tộc muốn mua hay bán đồ cổ thường đến hỏi ý kiến tiên sinh, nhờ tiên sinh thẩm định giá trị và giá cả. Vì vậy, trong nhà tiên sinh lúc nào cũng đầy khách khứa vào ra.

Lúc bấy giờ quân nhà Lê đã tấn công kinh đô Thăng Long nhiều lần và nhà Lê đã chiếm thượng phong. Những kẻ giàu sang đã mang của cải chạy sang Trung Quốc, Nhật Bản hay Cao Ly. Cũng có người tính chạy theo họ Mạc lên Cao Bằng, Lạng Sơn. Một số tướng quân nhà Lê cho người vào kinh đô Thăng Long vận động các nhà giàu ở lại . Họ nói đi ra xứ lạ quê người khổ lắm. Làm người vô tổ quốc là làm thân lưu đày. Hơn nữa, đi ra nước ngoài, không biết tiếng tàu, tiếng tây, tiếng u, không có nghề nghiệp, không có thân thích giúp đỡ chỉ làm nô lệ cho người. Họ hát khúc Không nơi nào đẹp bằng quê hương ta, hoặc Ta về ta tắm ao ta!

Vương lão sư cũng được các tay dân vận và trí vận của nhà Lê chiêu dụ. Họ bảo họ rất quý trọng tiên sinh. Khi nào nhà Lê chiếm được Thăng Long, đánh tan nhà Mạc thì họ sẽ mời Vương tiên sinh làm thượng thư hoặc tể tướng đứng đầu triều. Cũng có điệp viên họ Lê giả làm phú thương đến mua đồ cổ ngoạn để dóm ngó, kiểm kê kho tàng của tiên sinh. Hết người này đến người kia bao vây tiên sinh, không cho tiên sinh được gặp quan lại họ Mạc. 

Thực ra, từ khi được quan lại nhà Lê hứa hẹn nhiều điều, nhất là thấy quân nhà Lê hùng mạnh, lòng tiên sinh đã chán cha con họ Mạc, vì vậy tiên sinh đã quyết định ở lại Thăng Long. Tiên sinh cũng đã tính tới tính lui. Tiên sinh chỉ là một nho gia, một viên thư lại, không giữ chức vụ quan trong trong triều Mạc, cũng không gây thù oán với ai. Người hiền lương như tiên sinh thì sống triều đại nào cũng được an an bình bình. Lại nữa, đi ra nước ngoài thì làm sao chở hết kho tàng của tiên sinh? Còn ngôi nhà tiên sinh là ngôi nhà đẹp nhất, cổ nhất ở Bắc Ninh, tiên sinh đã tốn ngàn lượng vàng để mua về dựng lại tại khu vườn nhà ỡ Thăng Long. Bây giờ bỏ đi sao đành! Yêu Thăng Long diễm lệ, yêu kho tàng quý báu, và yêu ngôi nhà cổ kính , tiên sinh ở lại, không bao giờ tiên sinh có ý nghĩ rời xa những kỷ vật thân yêu đó.


Cuối cùng, quân vua Lê đã vào Thăng Long và quân nhà Mạc đã tháo chạy lên Cao Bằng. Vua Lê lên ngôi nhưng binh quyền nằm trong tay cha con họ Trịnh. Trịnh Tùng ngày càng kiêu hãnh, coi thuờng vua Lê và luật pháp quốc gia. Trịnh Tùng phong em là Trịnh Thọ làm Ngũ môn Đô Thống, quản lĩnh quân đội trong kinh thành. Các quan văn võ dưới quyền Trịnh Thọ cho người liên tiếp đến nhà Vương tiên sinh thăm viếng và hỏi han về cổ ngoạn. Vì sợ oai hùm và cũng do đầu óc ưa khoe khoang của con người, tiên sinh phải dẫn họ đi xem kho báu của tiên sinh. Hết phái đoàn Bảo tàng viện, đến phái đoàn Sử học, phái đoàn Khảo cổ, đến viện Văn hóa, Nghệ thuật, ngày nào cũng tấp nập đến nhà tiên sinh. Nếu có khách đến thăm, thấy nhà tiên sinh khách khứa ồn ào, xe cộ tấp nập thì tự động ra về. Cũng có kẻ hiếu sự, cố ngồi chờ hoặc hỏi han kia nọ, thì có người trả lời:

-Tiên sinh bận tiếp khách, xin mời hôm khác trở lại!

Họ Trịnh cũng đã tỏ lòng quý mến tiên sinh thật sự. Anh em họ Trịnh cũng đã có kẻ tới thăm tiên sinh. Họ khen ngợi tiên sinh. Sở Văn hóa mời tiên sinh đăng đàn diễn thuyết. Hội Nghệ thuật xin in mấy quyển sách của tiên sinh và trả tác quyền khá hậu hỉ.

Sau mấy tháng giao lưu, Viện Khào cổ, rồi sở Văn hóa ngỏ ý mượn đồ quý của tiên sinh đi triển lãm thì tiên sinh thẳng cánh từ chối theo nguyên tắc “ vật bất ly thân”. Nhưng anh em họ Trịnh không lùi bước!

Lúc bấy giờ tiên sinh tuổi gần bát tuần, có một vợ và một trai. Đời tình ái của tiên sinh khá trắc trở cho nên sau vài lần đứt gánh giữa đường, tiên sinh chắp nối với nữ danh ca Hồng Ngọc, và hai người đang sống yên vui trong cảnh già nua tuổi tác. Tiên sinh hiếm muộn chỉ được một cậu trai tên là Hồng Bảo. It lâu sau người ta bắt giam Hồng Bảo về tội mắc nợ. Không hiểu cậu mắc nợ ai, nợ bao nhiêu và vì sao mà mắc nợ đến nỗi phải bị tù tội? Gia tài tiên sinh thiếu gì vàng bạc. 

Nếu tiên sinh bán đi một vài cái lọ Khang Hy thì cũng bộn tiền, cần gì mà phải mắc nợ. Chắc là quan quân họ Trịnh tìm cớ gây áp lực với tiên sinh, bắt Hồng Bảo để đe dọa tiên sinh. Nhưng tiên sinh vẫn không lùi bước. Tiên sinh thà chết chứ không đầu hàng bạo quyền. Rồi thì cuối cùng tiên sinh cũng phải chết, không vì lý do này thì cũng lý do khác. Họ Trịnh cho quân tiến vào chiếm nhà tiên sinh và họ bảo tiên sinh đã hiến nhà cho chúa Trịnh. Họ Trịnh đưa ra một chứng từ do ông thầy thuốc Nam tên lả Nguyễn Văn Nhiều ở cạnh nhà tiên sinh viết như sau:

Tôi là Nguyễn Văn Nhiều, đông y sĩ. Bạn tôi là Vương Hồng Phát để di ngôn cho tôi là cống hiến toàn bộ gia sản cho chúa Trịnh v. v. . .
Những người mê tín, dị đoan cho rằng các bảo vật thường là đồ bất tường, ai mang bảo vật là mang tai họa vào thân. Người ta nói rằng các cổ vật quý báu thường có những lịch sử đầy máu và nước mắt. Những bảo vật này đã có những chủ nhân giàu sang quyền quý một thời. Họ đã có những ngày tháng vui vẻ hả hê khi được báu vật. Họ khoe với mọi người hoặc cất giấu kín đáo, thỉnh thoảng lấy ra chiêm ngưỡng, sờ mó và hôn hít, ôm ấp. Rồi ngày tháng trôi qua, họ làm ăn thất bại, phải bán vàng ngọc và đồ cổ ngoạn để mua gạo thóc hoặc để trả nợ nần.

Cũng có kẻ mang bảo vật thì mang họa, bị cướp hay quan quân vào nhà, giết con cái và đoạt tài vật. Những kẻ này tiếc của thương khóc hay uất hận mà chết, vong hồn không đi đầu thai mà cứ lẩn quẩn bên những báu vật đó, ngày càng đông và oán khí ngày càng dầy. Một cái dĩa đời Đường, một bức tranh đời Tống, một cái đôn sứ của vua Lý Thái Tổ qua bao nhiêu chủ là tập trung mấy vong linh u uất và đau khổ như hồn những con ma trành bên con hổ ăn thịt người. Nếu điều này là đúng thi vong hồn tiên sinh đã nhập vào đám vong linh uất hận ngàn đời không tan vì bạo quyền coi khinh pháp luật, ngang nhiên cướp đoạt tài sản của tiên sinh. 

IX. BẠCH TUYẾT VÀ CHÍN CHÚ LÙN

Đức vua là một người có tài chính trị, lại có tài quân sự. Quân phương Bắc thường đem quân xâm lấn biên cương, nhiều khi chúng còn đánh thẳng vào kinh đô khiến triều đình và dân chúng phảỉ bỏ chạy vào trong núi sâu. Vì vậy, Ngài đã đem quân chinh chiến liên miên, bảo vệ dân chúng, chống quân xâm lược.

Vua rất yêu Hoàng hậu vì hoàng hậu là một người rất đẹp và lại phúc hậu. Nhưng hạnh phúc trần gian quá ngắn ngủi, sau khi sinh được một công chúa thì hoàng hậu lâm bệnh mà từ trần. Vua đặt tên cho công chúa là Bạch Tuyết vì da của nàng rất trắng và khuôn mặt của nàng rất xinh đẹp.

Trong nội cung lúc bấy giờ đã có mười vị quý phi, ai cũng mong muốn đuợc vua tấn phong hoàng hậu. Trong mười vị quý phi, có Lê quý phi là người được vua sủng ái nhất. Bà vốn con gái của thượng thư họ Lê trong triều. Trước đây, khi nghe vua ra lệnh nạp phi, ông đem con gái dâng hiến vua để được vua ban tước lộc hơn ngừơi. Ông đã cho con gái học múa, hát, đàn địch và thi phú, và theo học các phép thuật của một pháp sư nổi danh trong vùng. Ông đem trân châu, bảo ngọc dâng hiến cho thái hậu và các quan trong triều để mua chuộc họ.

Ông còn đem vàng bạc hối lộ các cung nữ trong cung để họ đứng vào phe ông. Về phía Lê quý quý thì bà cũng thi hành nhiều kế hoạch để thu phục nhân tâm. Hàng tháng bà đi lễ chùa cầu cho đức vua chiến thắng quân địch và cầu cho quốc thái dân an. Bà lại đem vàng bạc mua gạo cứu tế dân nghèo. Đối với Bạch Tuyết, bà tỏ vẻ yêu thương như con đẻ, săn sóc từng món ăn, thức uống, và chiều chuộng hết lòng. Trong triều ngoài nội, ai cũng ca tụng bà là Quan Âm tái thế. Nghe tin hoàng hậu thất lộc, vua đem quân về triều và sắp đặt mọi sự. Vua đã đưa Lê quý phi lên làm Hoàng hậu. Rồi vua lại lên đường chinh chiến.

Khi Lê quý phi lên làm hoàng hậu thì Lê Thượng thư được thăng làm Tể tướng.Từ đấy, mọi quan lại trong triều đều phải xu phụ ông, ai muốn thăng quan tiến chức hoặc cầu lợi lộc thì phải đến cậy nhờ ông. Tài sản ông gia tăng gấp năm, gấp mười và uy thế của ông lên tận trời cao. Ai chống đối ông thì cả gia đình sẽ bị giết hoặc bị bỏ tù.

It lâu sau, tin tiền tuyến đưa về báo tin hoàng thượng thất trận, vua tôi xiêu lạc mỗi người một phương, không rõ sống chết như thế nào. Tể tướng vận động các quan trong triều tôn hoàng hậu lên tạm nắm triều chính cho ổn định lòng dân. Khi lên nắm quyền bính, hoàng hậu tuyên bố làm một cuộc cách mạng để cải cách triều cương và đem lại cơm no, áo ấm cho nhân dân.

 Đối với nhân dân, bà đưa ra chính sách hai không. Không thứ nhất là không nhà giàu. Bà cho rằng người giàu là bọn bóc lột đã làm cho nhân dân nghèo khổ. Trong khi nhân dân ở nhà tranh, ai ở nhà ngói là kẻ thù của nhân dân. Trong khi nhân dân không có cơm áo gạo tiền thì người nào có ruộng đất, vàng bạc là kẻ thù của nhân dân, phải tịch thu gia sản và giết sạch hoặc bỏ tù tùy theo gia sản lớn nhỏ. Không thứ hai là không tư hữu, không tư doanh. Bà bãi bỏ tư doanh, cấm buôn thúng bán mẹt; bắt mọi người phải lao động trong các công trường và nông trường quốc doanh , vì lao động là vinh quang.

Từ đó khắp nước vang tiếng khóc than. Mọi người trở thành nô lệ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, suốt ngày làm việc quần quật dưới roi vọt của công an. Tất cả lợi tức quốc gia vào tay hoàng hậu, tể tướng vả các huyện, tỉnh ủy viên. Các quan ngự sử đúng lên phản đối thì bà ra lệnh bỏ tù các gián quan, ghép họ tội phản động, chống đối triều đình và ra lệnh từ nay triều đình không còn chức ngự sử. Sinh viên đại học biểu tình chống đối thì bà ra lệnh đóng cửa đại học, cấm học hành, thi cử. Trong cung cấm, bà đuổi các cung phi về quê, chỉ để một số nữ tỳ làm việc vặt trong cung.

Bà lập đảng Dân chủ Nhân Dân mà mục tiêu là bình đẳng và Tự do. Bà tuyên bố bà theo chủ thuyết ‘’Dân vi quý’’ của Mạnh tử. Bà kêu gọi nhân dân theo đảng của bà, và ủng hộ các chính sách của bà vì đảng của bà là tinh hoa, là trí tuệ đỉnh cao của loài người. Và chỉ có đường lối của đảng Dân chủ Nhân dân là thực sự đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Các văn bút trong đảng của bà ca tụng bà là một nhà đại cách mạng, một triết gia vĩ đại đã thiết lập tân chính quyền cách mạng với chính sách tam vô :

-nội cung vô phi tần,
-triều đình vô ngự sử
-khoa cử vô tiến sĩ .

Bà là con một thượng thư, nhưng ông nội của bà xuất thân là kẻ cướp núi, sau bị triều đình đánh dẹp, trốn đến một nơi xa, đổi danh tánh, đem tiền của mua một chức quan. Nhờ khéo léo luồn cúi nên ông làm quan đến ngũ phẩm. Đến con ông, hưởng tài sản và địa vị của ông, được cử làm tri huyện rồi lên đến thượng thư. Vì vậy, bà rất khinh thường những kẻ học thức ‘’dài lưng tốn vải’’. Bà cho rằng đất nước cần công nhân vì công nhân là lực lượng sản xuất ra của cải cho nhân dân. và công nhân chính là giai cấp lãnh đạo. Người dân chỉ học đến tú tài là đủ, không cần đào tạo cử nhân, tiến sĩ cho hao tốn công khố. Bà lập đảng Dân chủ nhân dân, lấy công nhân làm nòng cốt, nhưng sự thật nòng cốt của bà là du đãng, trộm cướp và gian nịnh. Bà đưa các đảng viên của bà nắm quyền hành trong triều đình và các địa phương.

Từ khi lên làm hoàng hậu, tính tình bà hoàn toàn đổi khác. Bà không còn tươi cười và vui vẻ như trước đây. Bà tuyên bố từ nay bà sẽ lập lại kỷ cương triều đình, nghĩa là mọi người phải tuân theo kỷ luật sắt. Các quan lại ai có lỗi thì bị cách chức hoặc bị tống giam tuỳ theo tội nặng nhẹ. Dân chúng ai chỉ trích bà thị bị xử tử hoặc đày đi biên ải xa xăm. Chính sách này được gọi là chuyên chính vương quyền, nhằm biến cả nước thành trại lính hoặc trong trại giam.

Từ khi lên làm hoàng hậu, bà tự cho mình là đệ nhất anh thư, và đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ. Bà có một chiếc gương thần, và hằng ngày bà ngắm bóng bà trong gương thần và nói chuyện với gương thần.

“Gương thần ơi hỡi gương thần,
Ai là đệ nhất giai nhân ở đời?

Gương thần trả lời:

Khắp nơi trong cõi hồng trần,,
Bà là đệ nhất giai nhân ở đời!

Nghe gương thần khen ngợi như vậy, hoàng hậu rất vui mừng. Buổi sáng nào, hoàng hậu cũng hỏi gương thần như trên và được gương thần trả lời như vậy.

Khi công chúa Bạch Tuyết đến tuổi mười hai thì trổ mã. Tóc nàng mượt như mây trời, da trắng như trứng gà bóc, môi đỏ như son, nụ cười như hoa nở. Thân thể nàng bắt đầu có những đường nét sắc sảo của một giai nhân. Một hôm, hoàng hậu hỏi gương thần:

“Gương thần ơi hỡi gương thần,
Ai là đệ nhất giai nhân ở đời?

Gương thần bèn trả lời:

Ngày xưa, bà đẹp nhất đời,
Ngày nay Bạch Tuyết xinh tươi vạn lần.

Hoàng hậu nghe gương thần nói như vậy liền nổi cơn thịnh nộ. Bà sai một cung nữ đi tìm một lão tiều phu . Khi lão tiều phu đến, bà ra lệnh ông đem Bạch Tuyết lên rừng giết. Người tiều phu có lòng nhân hậu, không nỡ giết chết Bạch Tuyết. Ông bèn đem Bạch Tuyết thả vào rừng, và bảo nàng trốn đi thật xa, đừng trở về kinh đô nữa, vì hoàng hậu sẽ giết chết không tha. Nói xong, ông lấy tim gan loài vật đem về trình bà Hoàng hậu và bảo đó là tim, gan Bạch Tuyết.

Hoàng hậu rất sung sướng vì nay không còn ai có thể đẹp hơn bà nữa.


Sau bao ngày đêm băng rừng, cuối cùng nàng đã đến một khu rừng trúc, bên trong có một ngôi nhà tranh xinh xắn. Nàng bước vào thì thấy bốn bề im lặng. Nàng đẩy cửa vào, thì thấy có chín chiếc giường nhỏ sắp cạnh nhau, và các đồ dùng trong nhà cái gì cũng nhỏ nhắn xinh xắn. Cái bếp, bát ăn cơm, các đôi đũa, và các áo quần, chăn màn đều nhỏ nhắn, xinh xắn như đồ dùng cho trẻ con. Nàng nghĩ rằng ngôi nhà này có nhiều trẻ con. Nàng vội vo gạo thổi cơm, luộc rau. Nấu xong, nàng ăn một bữa no nê, rồi kê các giường lại gần nhau rồi đánh một giấc cho bỏ bao ngày băng rừng đói khát, mệt nhọc.

Ngôi nhà mà Bạch Tuyết bước vào là nhà của chín chú lùn. Ban ngày, họ vào rừng đốn củi, săn bắn và làm rẫy. Lai lịch của họ rất kỳ lạ. Nguyên tại khu rừng này có hai vợ chồng làm nghề săn bắn, rẫy bái qua ngày. It năm sau, họ sinh được một trai rất xinh xắn. Nhưng bao năm tháng trôi qua, đứa bé vẫn không lớn lên được, và nó trở thành một đứa bé lùn. Cứ mỗi tháng, ông lấy ghe chở củi về phiên chợ để bán. Mỗi lần như vậy ông đều đem con trai đi theo để cho nó biết đó biết đây. Một hôm, hai cha con ông bán xong củi sớm, liền đi loanh quanh trong chợ mua vải và it đồ gia dụng thì gặp một gánh xiếc nhỏ. Gánh xiếc chỉ có một ông già, một con chó và một con khỉ.

Cậu bé lùn trông thấy những trò xiếc thì rất thích thú. Ông lão làm xiếc, thấy một thằng bé lùn say mê xem những trò xiếc của ông biểu diễn, và ông nhận thấy thằng bé này như có duyên tiền kiếp với ông. Ông ngỏ lời với lão tiều phu muốn truyền thụ nghề làm xiếc cho cậu bé. Ông lão tiều phu nghĩ rằng thằng bé lùn khó sinh sống với nghề rẫy bái, biết đâu nghề làm xiếc chẳng giúp nó thành công. Nghĩ vậy cho nên ông bằng lòng cho thằng bé theo gánh xiếc học nghề. Cứ mỗi phiên chợ, cha con ông lại gặp nhau.

Vài năm sau, gánh xiếc lại thêm một thằng bé lùn giúp việc. Sau một thời gian nữa, gánh xiếc tập trung chín chú lùn. It lâu sau, ông chủ gánh xiếc lâm bệnh từ trần, thằng con ông tiều phu trở thành chủ gánh xiếc. Nhưng kinh tế khó khăn, bọn cường hào địa phương tàn ác và tham nhũng, chúng bắt gánh xiếc phải nộp tiền hàng ngày cho chúng. Không chịu nổi sự bóc lột của bọn cường hào, thằng con ông tiều phải dắt cả lũ về núi cũ. Ông lão tiều phu gọi con ông là thằng Cả, còn những thằng kia thì gọi theo thứ tự là thằng Hai, thằng Ba, cho đến thằng Chín.

Cạnh khu rừng trúc có một con suối lớn. Cả bọn làm thêm nhà, đóng thêm một chiếc thuyền. Cả bọn chia nhau làm việc. Chúng đi hái củi, săn bắn, làm rẫy, và câu cá. Cứ hàng tuần, chúng chia thành hai hoặc ba nhóm. Một nhóm đI chợ Dừa, hoặc chợ Gạo, một nhóm đi chợ Đệm, hoặc về Lập Thạch hay Tào Khê, và một nhóm ở nhà lo việc hái củi, và làm rẫy. Đến phiên chợ, chúng lấy ghe chở củi, lông thú, thịt rừng về chợ phiên bán, và làm xiếc. Cuộc sống tạm ổn định. Sau khi vợ chồng lão tiều phu từ trần, cả bọn vẫn sống vui vẻ trong căn nhà ở khu rừng trúc.


Hôm Bạch Tuyết đến rừng trúc thì chín chú lùn đang đi làm rẫy. Khi về đến ngoài ngõ, chín chú lùn đều ngừng lại. Cả chín chú linh cảm có điều gì xảy ra trong căn nhà tranh của các chú. Kìa khói lam nhẹ bay từ mái nhà tranh. Các cánh cửa đều mở rộng. Cả bọn sợ hãi không dám bước vào nhà. Cả bọn đùn cho chú Cả vào trước. Với tư cách là anh trưởng, chú Cả không thể lùi bước. Chú Cả bước vào trước, còn các chú kia theo sau.

Chú Ba kêu lên: Có người xâm nhập!
Chú Năm kêu lên: Có mùi hương lạ trong nhà!
Chú Sáu kêu lên: Ai lấy hết quần áo của chúng ta?
Cả bọn tiến vào trong thì thấy trên bàn cơm canh đã dọn sẵn. Và trên giường một thiếu nữ xinh đẹp đang nằm ngủ và nàng bắt đầu tỉnh dậy khi nghe tiếng kêu la của các chú lùn.


Sau vài phút bỡ ngỡ ban đầu, Bạch Tuyết và chín chú lùn trở thành bạn thân, cùng chung sống vui vẻ. Các chú lùn tiếp tục công cuộc đi săn, hái củi, còn Bạch Tuyết ở nhà lo bếp núc, vườn tược và giặt rủ quần áo.


Sau khi đã sai một lão tiều phu giết chết Bạch Tuyết, hoàng hậu vui sướng vô cùng vì từ nay không còn ai tranh danh hiệu đệ nhất hoa khôi của bà nữa. Một hôm, bà hỏi gương thần:

Gương thần, ơi hỡi gương thần,
Ai là đệ nhất giai nhân ở đời?

Gương thần đáp:

Hoàng hậu đẹp nhất trên đời,
Nhưng mà Bạch Tuyết xinh tươi vạn lần!

Bà tức giận la ó lên:

Bạch Tuyết chưa chết ư? Nó ở đâu?

Gương thần đáp:

Bạch Tuyết ở tại non đoài,
Tháng năm vui vẻ giữa loài cỏ hoa.

Nghe gương thần nói vậy, bà liền nổi điên lên. Bà làm phép hóa thành một bà già đi bán cam, tìm đến khu rừng trúc. Bà đứng trước cổng kêu to lên:

-Ai mua cam sành không? Ai mua cam sành không?

Bạch Tuyết nghe tiếng rao nhưng không dám ra mở cửa vì chín chú lùn đã dặn nàng không nên mở cửa cho người lạ vào. Bà già bán cam hiểu được sự lo sợ của nàng, bèn nói:

Không cần phải mở cửa. Tôi xin biếu một trái cam.

Bạch Tuyết thấy bà già run rẩy, yếu đuối, đem lòng thương hại. Nể lời, nàng đứng bên trong, thò tay lấy quả cam , và nếm thử. Sau khi ăn một miếng cam, Bạch Tuyết lăn ra chết giấc vì trúng độc dược của hoàng hậu. Bà hoàng hậu thấy Bạch Tuyết đã ăn cam độc, mừng ré lên, và chạy băng qua rừng trở về kinh đô. Gặp một con sông rộng, bà niệm chú làm phép ‘’ độ giang’’. Phép này đòi hỏi pháp gia phải niệm chú liên tục cho đến khi qua bờ bên kia. Không ngờ khi qua nửa giòng sông thì một đàn chim hải âu bay qua, chúng đại tiểu tiện vào mặt mũi của bà, khiến hai mắt của bà như hóa thành mù. Bà buột miệng kêu: Ối trời ơi, thì bà liền bị rơi xuống sông, trúng ngay mõm một con cá sấu. Cá sấu liền đớp gọn bà ta rồi lặn xuống sông biến mất.

Từ khi hoàng hậu lên nắm quyền, cướp tài sản dân chúng, và bắt toàn dân làm nô lệ, cùng bãi bỏ hàng gián quan, và đóng cửa đại học thì các tầng lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân, thương gia cho đến các sĩ phu ai cũng căm hận bà.

Trần công tử là sinh viên Quốc tử giám, là con quan Ngự sử Trần đại nhân. Từ khi đóng cửa đại học, công tử chuyên đọc binh thư và tập võ nghệ. Công tử thường mượn cớ đi du sơn, du thủy để tìm bạn đồng chí. Chàng lập Quốc Gia Phục hưng hội nhắm lật đổ chính quyền gian ác và độc tài của tân hoàng hậu. Tổ chức của chàng đề cử chàng sang Bắc quốc tìm hoàng đế để báo cáo tình hình trong nước, và thỉnh cầu hoàng thượng đem binh trở về cứu nước. Phái đoàn của chàng gồm mười hai tráng sĩ, trong đó có hai thần y và năm hiệp sĩ tinh thông võ nghệ. Một hôm nọ, phái đoàn Phục hưng đi vào khu rừng trúc của chín chàng lùn. Gặp lúc Bạch Tuyết trúng độc dược, nằm bất động trên giường, Trần công tử và hai thần y tiến vào xem bệnh. Nhìn Bạch Tuyết, Trần công tử nhận ra công chúa.

Nguyên trước đây, khi chàng còn nhỏ, lúc trong triều có lễ hội, vua thường triệu các đại thần và gia đình vào cung để ăn yến và xem ca vũ nhạc. Vì vậy, Trần công tử được thấy dung nhan công chúa Bạch Tuyết. Chàng khẩn cầu hai thần y đem hết tài năng ra cứu công chúa. Sau mấy ngày trị bệnh, công chúa đã tỉnh lại và dần dần bình phục. Khi nghe Trần công tử cho biết mục đích cần vương của phái đoàn, công chúa xin tháp tùng phái đoàn để tìm vua cha. Thế là hôm sau, công chúa và phái đoàn giã biệt chín chú lùn để lên đường ra biên cương.


Sau mấy ngày băng rừng vượt suối, phái đoàn Phục hưng đã gặp hoàng đế. Vua rất mừng rỡ khi gặp lại công chúa Bạch Tuyết và nghe phái đoàn báo cáo tình hình đất nước, vua mới biết Thừa tướng đã cắt đứt liên lạc giữa vua và triều đình, không tiếp vận quân lương, đồng thời phao tin nhảm để đưa hoàng hậu lên nắm quyền. Vua liền phong Trần công tử làm đại tướng tiên phong dẫn binh đoàn hồi loan. Đại quân chiến thắng dễ dàng vì dân chúng ủng hộ quốc vương.

Nhà vua đã trở lại ngai vàng, chém đầu tể tướng gian ác, giải tán đảng Dân chủ nhân dân của hoàng hậu, bãi bỏ quốc doanh, trả ruộng đất, tài sản cho nhân dân và mở lại đại học. It lâu sau, Trần tướng quân kết hôn cùng công chúa Bạch Tuyết, cả nhà sống hạnh phúc. Công chúa Bạch Tuyết nhớ ơn xưa của chín chú lùn, bèn cùng Trần phò mã trở lại Trúc lâm, thăm viếng họ và ban vàng bạc, lụa là cho họ. Khi vua già yếu, vì không có con trai, vua truyền ngôi cho Trần phò mã. Từ đây đất nước thực sự hòa bình, dân chúng ấm no, tự do và hạnh phúc.


Tân vương cho chín chú lùn làm chủ ngọn Trúc Sơn , và giúp chín chú lùn xây những tịnh xá, những vườn hoa, cây cảnh, ao sen, đình tạ, và các ngọn giả sơn rất u nhã. Trúc Sơn từ đó trở thành thắng cảnh quốc gia. Nghe nói về sau, chín chú lùn tu hành đắc đạo rồi cùng nắm tay nhau mà bay lên trời. 

X. TRUNG CAN NGHĨA ĐẢM

Lúc bấy giờ quân Trịnh chiếm bắc sông Gianh, còn miền nam sông Gianh thuộc chúa Nguyễn. Tại Thuận Hóa, chúa Nguyễn ấu thơ, quyền vào tay thái sư Trương Phúc Loan tàn ác, gian tham khiến cho muôn dân thống khổ. Hoàng Ngũ Phúc tuyên bố sẽ vào Nam Hà trừ khử Trương Phúc Loan để giải phóng cho dân lành, chứ không có tham vọng nào khác. Các quan trong triều một số sợ hãi, bèn bắt Trương Phúc Loan giao cho Hoàng Ngũ Phúc để Hoàng Ngũ Phúc khỏi vào Thuận Hóa. Sau khi giết Trương Phúc Loan, quân Trịnh lại tuyên bố rằng Trịnh quân sẽ đánh vào Quy Nhơn để hủy diệt bọn Tây Sơn tham tàn cứu dân lành khỏi nạn cướp bóc chứ họ không hề muốn xâm chiếm Nam Hà. Hoàng Ngũ Phúc đem đại binh chiếm đánh Phú Xuân, chúa Nguyễn bỏ chạy vào Gia Định. Quân Trịnh muốn dùng Tây Sơn để chiếm Gia Định bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn vào phong cho anh em Nguyễn Nhạc chức Tiên phong tướng quân Tây Sơn hiệu trưởng. Được ít lâu, quân Tây Sơn chiếm Gia Định, chúa Nguyễn thất trận phải bỏ chạy ra ngoài.

Quân Trịnh tiến vào Thuận Hóa và Quảng Nam. Lúc này tại đây có ba hạng dân chúng: và ba hạng quan quân: Hạng uy quyền nhất là quân chúa Trịnh, hạng thứ hai là quân Tây Sơn, và hạng thứ ba là dân chúng và quan quân chúa Nguyễn đã bại trận.Trong Quảng Nam học hiệu, các giáo thụ cũng chia thành ba phe: một phe theo chúa Trịnh, một phe theo chúa Nguyễn, và một phe theo Tây Sơn. Ông cử Dương, cử Lâm và cử Hiền thấy quân Trịnh hùng mạnh nên chạy theo quân Trịnh. Mấy ông này nhân dịp Tết bèn góp tiền bạc mua lụa là gấm vóc, và đặt một tấm liễn sơn son thếp vàng có ba chữ “ Như Đông Hải” dâng Hoàng Ngũ Phúc. Ba chữ “Như Đông Hải “ xuất xứ từ thành ngữ “ Phúc như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn” thường được dùng để chúc thọ. Nay không phải lúc khánh thọ của Hoàng Ngũ Phúc mà các ông này dâng ba chữ “Như Đông Hải” là có y ca tụng Hoàng Ngũ Phúc uy quyền to lớn, phúc lộc dồi dào như biển đông!


Quân Tây Sơn chỉ là lực lượng phụ thuộc, ở đưới quyền Hoàng Ngũ Phúc. Quân Trịnh mới là lực lượng chính quy, là chủ nhân ông của đất nước. Quân Trịnh lợi dụng quân Tây Sơn mà Tây Sơn cũng muốn lợi dụng quân Trịnh để tránh giao tranh với cường địch và phát triển lực lượng. Quân Tây Sơn rất ghét quân Trịnh. Họ chờ cơ hội thuận tiện giết sạch quân Bắc Hà để làm chủ đất Nam Hà. Lúc này dân Nam Hà cũng rất ghét quân Trịnh. Nếu dân Thăng Long ghét bọn Kiêu binh bảy, tám phần thì dân Nam Hà ghét quân họ Trịnh chín, mười phần vì bọn Trịnh quân cậy thế là người chiến thắng, anh hùng vô địch, coi khinh thiên hạ.

Hơn nữa chúng lại hống hách và cướp bóc dân chúng. Khi quân Trịnh đánh Quảng Bình, Quảng Trị. chiếm kinh đô Phú Xuân, và Quảng Nam, Quảng Ngãi, dân chúng bỏ chạy vào Gia Định hay chạy ra nước ngoài thì quân Trịnh xông vào chiếm nhà cửa, vàng bạc, ruộng đất của dân chúng. Nhà có người ở, chúng cũng xông vào cướp vàng bạc, quần áo, vải vóc, và đuổi dân chúng ra khỏi nơi cư ngụ bắt dân phải về thôn quê hay lên rừng canh tác. Hễ nghe giọng Bắc chua như dấm và giọng Thanh Nghệ trọ trẹ là dân Nam ngảnh mặt quay lưng. Nhà nhà thấy bóng quan quân xe ngựa họ Trịnh ngoài phố là vội đóng của. Lúc này, quân Trịnh hoàn toàn chiếm Thuận Hóa, còn quân Tây Sơn và quân Trịnh chia nhau nắm giữ quyền lợi tại Quảng Nam và Quảng Ngãi.


Hoàng Thanh Tâm là người Biên Hòa thi đỗ cứ nhân rồi được chúa Nguyễn bổ nhiệm làm giáo thụ (giáo sư) tại Quảng Nam học hiệu. Cử Hoàng là người hiền hậu, thật thà và chăm đọc sách. Tiên sinh it nói, không thích chưng diện, ít bạn bè nhưng tính tình thẳng thắn và trung hậu. Cử Hoàng có mấy bạn theo quân Tây Sơn cho nên tiên sinh trở thành nhân vật khá quan trọng trong trường. Trong trường này cũng như đa số trường học tại Nam Hà, các giáo thụ phần nhiều là người cũ của chúa Nguyễn còn lại. Ban điều hành gồm các quan Bắc Hà , còn các quan lại Tây Sơn chỉ giữ chức tổ trưởng hay thư lại làm việc văn phòng là những chức không mấy quan trọng mặc dầu họ cớ ưu thế hơn các giáo viên thuộc loại ‘’ngụy Nguyễn’’.

Cử Hoàng được các quan Tây Sơn cho biết nay mai quân Trịnh sẽ lui về Bắc, giao lại Nam Hà cho anh em nhà Tây Sơn như lời Hoàng Ngũ Phúc đã tuyên bố trước đây. Nghe tin trên, cử Hoàng rất phấn khởi. Cử Hoàng là người bộc trực thường chê bai các bậc danh thần Bắc Hà như Lê Quý Đôn, Nguyễn Khản, Bùi Huy Bích, Ngô Thời Sĩ là một lũ bất trung, bất nghĩa, phò Trịnh mà chẳng phò Lê, theo cường quyền mà bỏ quên chính nghĩa. Ông cũng chỉ trích đường lối giáo dục của xứ Đàng Ngoài là thối nát, và quan lại Đàng Ngoài ngu dốt và tham ô.

Lời của ông không phải là không căn cứ. Lúc bấy giờ ngoài Bắc giặc giã nổi lên liên tiếp, quân sĩ phải đi chinh chiến liên miên, mà triều đình thì cạn kiệt tài chánh. Niên hiệu Cänh Hưng thứ 11 (1750), triều đình bắt mỗi thí sinh đóng năm tiền, gọi là tiền thông kinh để chi tiêu cho trường thi. Ngày xưa, học trò thi hương phải qua một kỳ khảo hạch trước, ai đỗ mới được địa phương cấp giấy dự thi Hương. Sau Đỗ Thế Giai cầm quyền trong phủ chúa, y bèn có sáng kiến bắt thí sinh đóng ba quan tiền thì được vào thi khỏi phải khảo hạch.

Vì vậy hạng sĩ tử ngu dốt, con quan quyền hay nhà giàu, hạng thợ thuyền, hạng đi buôn cũng nạp tiền mà đi thi rất đông, dẫm đạp nhau mà chết ở cổng trường thi. Và trong trường thi, thí sinh quá đông, các giám thí không thể kiểm soát được, cho nên sĩ tử mặc tình mở sách chép bài hoặc mượn người làm bài. Trường thi trở thành cái chợ hỗn loạn. Dân chúng mĩa mai những ông cử, ông tú thời này là “cử nhân ba quan”’, “’tú tài ba quan “. Cử Hoàng cực lực phản đối quan hiệu trưởng cho con cháu quân Trịnh ngu dốt mà vẫn vào thẳng các học hiệu, không cần tuyển lựa như trước đây. Ông lại lên tiếng chất vấn ông hiệu trưởng vốn là một võ quan Bắc Hà:

-Thưa quan hiệu trưởng, chúng tôi nghe tin đồn rằng một vài giáo quan bản trường đã có vợ ngoài Bắc nay lại ve vản gái nhà lành. Chúng tôi cũng nghe tin đồn vài võ quan nhà Trịnh đã cướp vàng bạc, ngựa xe của nhân dân thành Quảng Nam . Xin hỏi đại nhân, đại nhân có nghe những tin đồn đó hay không?

Viên hiệu trưởng phủ nhận mọi việc , bảo rằng đó là những tin thất thiệt.

Nghe lời chất vấn của cử Hoàng, các bạn đồng nghiệp Nam Hà và Tây Sơn rất thích thú nhưng họ đều im lặng không dám bày tỏ thái độ. Họ thầm khen ông là người trung can nghĩa đảm, dám nói sự thật và tố cáo bạo quyền.

Rồi ngày tháng cũng trôi qua. Ít lâu sau, quân Trịnh bất chợt tấn công quân Tây Sơn, tất cả người Tây Sơn đều bị giáng chức, bị giết hoặc bị bắt giam. Trong một cuộc họp, viên hiệu trưởng lên tiếng cho rằng hiện nay có nhiều bọn phản động có ý đồ phá hoại thanh danh quân đội và quan lại triều đình. Đó là bọn phản quốc, cần phải nghiêm trị. Ông tuyên bố một số giáo quan là tay sai của “ngụy Nguyễn” và “ngụy Tây Sơn” cần phải đuổi ra khỏi học hiệu. Trong số đó có cử nhân Hoàng Thanh Tâm. Cử Hoàng sau ngày bị sa thải liền thu xếp hành lý về quê nhà Biên Hòa, song gia đình nhà vợ khuyên ông không nên về Biên Hòa vì đường xa, con nhỏ, vợ yếu, và thời loạn không an toàn. Vì vậy, ông ở lại quê vợ ở Hương Trà, Thừa Thiên cày ruộng.


It lâu sau, nhân ngày giỗ thân phụ, cử Dương mời các bạn đồng nghiệp đến nhà ăn giỗ. Các giáo quan cũ gặp nhau. Họ rất mừng vì sau cơn bão tố, họ và gia đình vẫn được an bình.

Ông cử Hiền nói:

-Nhờ ơn trên phù hộ, chúng ta được tai qua nạn khỏi.

Ông cử Lâm nói:

-Ơn trên là một chuyện, ở đời cần phải khôn khéo thì mới tồn tại. Lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì gãy, thánh hiền đã dạy. Ngu thì chết , chẳng có ai thương xót!

Ông tú Mỹ vui vẻ góp ý kiến:

-Việc chúng ta dâng tấm liễn chúc mừng Hoàng tướng quân là một hành động trí tuệ và đầy ý nghĩa!

Ông tú Chiêu cười mà bảo rằng:

-Cử Hoàng kiêu ngạo, coi mình là anh hùng, là trung trực. Chúa thượng khai ân, rộng lượng khoan hồng, không giết , không bỏ tù là may cho y. Nay bị đuổi ra khỏi trường thật là đáng kiếp!

XI. SAU CƠN BÃO LỤT

Lúc bấy giờ thế giới lâm cảnh đại chiến, toàn cầu chia làm ba phe: phe xanh, phe đỏ và phe vàng. Phe xanh và phe đỏ kết hợp cùng nhau đánh phe vàng nên phe vàng đại bại. Nước ta chia hai phe, một bên theo phe đỏ, một bên theo phe xanh. Anh em Lưu Cáo là một trong những anh hùng của thời này đã theo phe đỏ. Lưu Cáo là người tinh thông thập bát ban võ nghệ, mà trí tuệ cũng hơn người. Ông tuyên bố thực hiện đường lối vương đạo, lấy nhân nghĩa làm đầu và thực thi công bằng xã hội. Ông cho ông là người kết hợp lý thuyết với thực hành, đưa triết lý từ trên trời xuống cõi nhân thế, còn Phật, Lão, Khổng Mạnh chỉ là lý thuyết suông, không đem lại cơm no áo ấm một cách thực tế cho dân nghèo. Ông ra lệnh triệt hạ chùa chiền, đình miếu, bắt các sư sãi phải nhập ngũ tòng chinh vì theo ông tôn giáo là thuốc phiện. Ông quan niệm rằng lao động là vinh quang, những ai không lao động tức là ăn hại xã hội, hoặc bóc lột nhân dân phải bị tiêu trừ. Vì vậy ông ra lệnh quân lính tịch thu gia sản các nhà giàu. Ai tỏ ý kháng cự hay than van là ông cho binh sĩ toàn quyền giết sạch hoặc bỏ tù họ.

Ông nhận định chỉ có công nhân và nông dân là đich thực tầng lớp lãnh đạo vì họ là thành phần lao động sản xuất, còn bọn khoa bảng thì không có giá trị bằng cục phân. Vì vậy, ông ra lệnh giết, bỏ tù hoặc thải hồi các vị tú tài, cử nhân và tiến sĩ. Một số cử nhân, tú tài vì sự sống, đã khai mình là công nhân, nông dân để được kết nạp vào hàng ngũ tân chính. Hạng thương nhân cũng bị gán tội là thành phần bóc lột, là gian thương, là kẻ thù của dân lao động. Ông hứa hẹn sẽ cho mỗi dân nghèo có một mẫu ruộng, mội cái nhà và một mảnh vườn trồng rau, cây ăn trái và trồng hoa bốn mùa.

Lưu Cáo vừa dùng lý luận, vừa hứa hẹn, vừa khủng bố cho nên dân chúng đa số đi theo ông. Quân lính càng ngày càng đông, lại được Mẫu quốc Đỏ ủng hộ nhiệt tình nên phe xanh thua trận, ông đem binh tiến về kinh đô rồi xưng hoàng đế, lập chế độ “quân chủ chuyên chế nhân dân”.


Sau khi Lưu Cáo lên ngôi hoàng đế, mưa gió tầm tã, bão tố triền miên gây ra những cơn lụt khủng khiếp tại miền Bắc. Làm vua được vài năm, Lưu Cáo bệnh chết vì không con nên em là Lưu Hồ lên ngôi. Khi Lưu Hồ lên ngôi lại một trận lụt khác nổi lên, mà nặng nhất là ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên. Trước tình cảnh khốn khổ của dân chúng, đức vua triệu tập một cuộc họp khẩn cấp trong đó có tổng đốc Sơn Hưng Tuyên tham dự. Quan thượng thư bộ Lễ đề nghị kêu gọi quốc tế viện trợ và đồng bào trong và ngoài nước góp tiền bạc, áo quần và lương thực về cứu trợ nạn nhân bão lụt.

 Quan thượng thư bộ Binh tâu xin bắt hết những ai có thể chống chế độ và có thể gây nổi loạn trong nước. Quan thượng thư bộ Hình xin ra pháp lệnh việc cứu trợ là độc quyền của triều đình, tư nhân không được tham gia, ai tự tiện đem gạo vải trực tiếp cho nạn nhân thì sẽ bị trị tội. Tiền bạc, áo quần , thuốc men của tư nhân và quốc tế phải gừi về triều đình để triều đình định đoạt. Vua chỉ thị quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên chấp hành các nghị quyết của hội nghị triều đình.

Khi trở về nhiệm sở, tổng đốc Sơn Hưng Tuyên triệu tập cuộc họp khẩn cấp. Ông thông báo các nghị quyết mới nhất của triều đình về việc cứu trợ, và yêu cầu các quan dưới quyền đóng góp ý kiến. Quan đầu tỉnh Sơn Tây trình bày:

-Bẩm quan lớn, Sơn Hưng Tuyên có mười phủ, thực tế chỉ có sáu phủ là gặp thiên tai. Vậy ta chỉ tập trung nỗ lực cứu trợ sáu phủ. Còn bốn phủ kia phải cứu giúp tiền bạc, thuốc men, thóc gạo và y phục.

Quan đầu tỉnh Hưng Hóa phát biểu ý kiến:

-Thưa ngài tổng đốc, bỉ chức có ý kiến là chúng ta cho lính thu mua thóc gạo các nhà giàu để bán rẻ cho dân đói.

Quan án sát Tuyên Quang nói:

Bẩm quan lớn, hạ quan xin có ý kiến dâng lên để ngài định đoạt. Để tránh việc một gia đình nhận gạo nhiều lần, và tránh việc chen lấn mất trật tự, chúng ta nên thiết lập danh sách các gia đình và các nhân khẩu bị thiên tai. Gia đình nhiều người thì phát nhiều, ít người thì phát ít.

Ngay sau buổi họp, quan tổng đốc ra lệnh hai mươi huyện thuộc bốn phủ không bị thiên tai phải đóng góp để giúp đỡ nạn nhân thiên tai theo tinh thần “lá lành đùm lá rách “. Những quan viên và lại viên trong ba tỉnh Sơn Hưng Tuyên phải góp một phần tư số lương bổng. Quan tổng đốc ra chỉ tiêu cho mỗi huyện phải thu mua 20 tấn thóc, nhà nào không bán thóc thì sẽ bị bắt giam hoặc bị phạt vạ. Quan huyện Lập Thạch (Sơn Tây) đặt câu hỏi:

-Bẩm quan lớn, nếu thu mua thóc gạo của dân chúng, thì mỗi cân trả bao nhiêu và lấy tiền ở đâu mà trả?

Quan tổng đốc nổi giận, chỉ mặt quan huyện Lập Thạch mà mắng:

-Ông làm quan bao lâu mà lại đặt câu hỏi ngu xuẩn như thế?

Quan huyện Lập Thạch liền bị lôi xuống nhà giam. Nghe đâu ông bị giam vài năm vì tội bất tuân thượng lệnh, có tư tưởng chống đối triều đình, và không hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Sau vài năm ngồi trong nhà lao, ông chắc hiểu rõ bí quyết làm quan. Nhưng khi ông hiểu rõ thuật này thì đã trễ vì triều đình đã thải hồi ông về quê cày ruộng.


Công việc thu mua kéo dài đến vụ mùa sau, còn việc phát chẩn thì thực hiện gấp rút. Sau khi chờ đợi ba tháng lập sổ hộ khẩu, quan tổng đốc ra lệnh mở kho phát chẩn. Mỗi hộ được khoảng hai, ba cân gạo. Một số tiền bạc, hàng hóa gửi về triều đình thì bỏ vào kho lương thực nhà nước, còn tiền bạc thì chuyển vào ngân hàng hoàng gia. Kết thúc vụ thiên tai, quan thượng thư bộ Tài chánh báo cáo mật với đức vua là thâu được hai mươi ngàn lượng vàng. Đức vua vui cười mà bảo rằng:

-Các khanh làm việc rất tốt. Chúng ta sản xuất mười năm cũng không thắng lợi bằng một cơn bão lụt mất mùa. Cầu cho năm nào nước ta cũng bị hạn hán và bão lụt!


Công cuộc phát chẩn chưa kết thúc, sứ giả triều đình đã đến hối thúc quan tổng đốc báo cáo tình hình về triều đình, nhất là tình hình tài chánh thu được bao nhiêu, và phát ra bao nhiêu. Quan tổng đốc vội sai ban tài chánh đúc kết việc xuất nhập. Sau mấy ngày tính toán, viên thư lại già trình quan tổng đốc là thu được tám ngàn lượng vàng do quốc tế viện trợ và hải ngoại gửi về cho thừa tuyên Sơn Hưng Tuyên. Còn việc cắt lương viên chức và thu mua lúa dân cũng được ba ngàn lượng trong vòng ba tháng. Tất cả đã gửi vào ngân hàng Vạn Lợi rất bảo đảm.

Quan tổng đốc tính sẽ giữ lại năm ngàn lượng cho mình, còn sáu ngàn lượng sẽ dâng lên cho đức vua. Quan nghĩ rằng với món lễ vật này sẽ lảm cho hoàng thượng vui lòng, và ông sẽ được thăng quan tiến chức, và gia đình ông sẽ được hạnh phúc. Ông lên tiếng bảo viên lại già làm sớ tâu vua thành quả việc cứu trợ và hứa hẹn sẽ dâng vua sáu ngàn lượng vàng. Viên lại già tuân lời, và hôm sau quan tổng đốc đã ký tên vào tấu chương và cho người gửi đi.

Ông đã phục vụ hai triều vua, đã theo tiên hoàng chinh chiến khắp nơi, tay ông đã giết hàng ngàn mạng người kể cả binh lính và dân chúng nên ông mới được hoàng thượng tín nhiệm cất nhắc từ tri huyện lên tuần phủ rồi tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, mặc dầu ông là một võ tướng, không biết chữ nhất là một. Ông đã xây dựng cho tương lai ông và gia đình ông. Ông chợt nghĩ đến thằng con ông. Mấy hôm nay nó đi đâu mất biệt. Cũng như ông lúc nhỏ, con ông không thích học, chỉ thích chơi bời. Nó học rất dốt nhưng ông đã vận động cho nó vào Quốc Tử Giám. Dẫu sao, nó cũng mang danh là giám sinh cũng đủ xênh xang với người đời.


Buổi trưa, dùng cơm xong, quan tổng đốc định nghỉ trưa một giấc như thường lệ. Vừa định lui gót vào hậu đường thì viên lại già phụ trách Tài vụ đã chạy đến cấp báo:

- Bẩm quan lớn, vàng bạc hết sạch rồi!

- Sao? Ngươi nói sao?

- Bẩm quan lớn, hôm qua ai đó đã rút hai mươi ngàn lượng vàng. Trưa nay ngân hàng Vạn Lợi đã cho người báo tin này, và đổ trường Đại Thắng đã đến nhận hai mươi ngàn lượng vàng tại ngân hàng. Bẩm quan lớn, Tiền cứu trợ mất hết rồi, làm sao trả lời với triều đình?

Quan lớn nổi trận lôi đình, sai bọn tuần bộ đi điều tra. Họ đi một buổi, trở về trình quan tổng đốc là suốt tháng vừa qua, đại công tử đã thua hai chục ngàn lượng vàng, đã ký giấy nợ, và giao nạp sổ ngân hàng của ngài cho đổ trường. Đỗ trường bèn giao giấy nợ cho ngân hàng Vạn Lợi, và ngân hàng này đã lấy số vàng của quan lớn mà xiết nợ công tử.

Nghe tin dữ, quan tổng đốc xây xẩm mặt mày. Ngân hàng Vạn Lợi và đổ trường Đại Thắng đều là cơ sở kinh tài của Mẫu Quốc. Mắc nợ của họ thì chỉ có chết, không thể dùng tình cảm hay pháp luật nói chuyện với họ. Nếu là ngân hàng và công ty Việt Nam, ngài có thể dùng quyền uy mà từ chối hoặc bỏ tủ họ về tội sái luật, hoặc dùng tình cảm mà khất nợ. Nhưng đây là ngân hàng và công ty của Mẫu quốc. Họ có luật của họ. Cha mắc nợ thì họ bắt con trả.

Con mắc nợ thì họ buộc cha phải đền. Đó là pháp luật, là phong tục Mẫu quốc. Khi ký giấy vay nợ , các nạn nhân phải cam kết công nhận điều kiện này. Chính hoàng đế khi khởi binh cũng đã vay nợ ngân hàng Vạn Lợi để mua lương thực và vũ khí, và họ ngon ngọt bảo là họ viện trợ vì tình anh em quốc tế, “ núi liền núi, sông liền sông”. Nợ cha đẻ nợ con, cứ chồng chất lên cao, vua phải dâng một phần đất nước cho họ.

Sau khi lên ngôi, Lưu Cáo và Lưu Hồ cũng đã phải ký bán đất cho mẫu quốc. Tể tướng đầu tiên, tể tướng thứ hai, thứ ba cũng ký tên bán nước. Nay con ông lại vay nợ Mẫu Quốc, làm sao ông trả vàng cho triều đình? Nếu thủ phạm cướp tài sản của ông là người ngoài, ông có thể kiện để bỏ tù nó nhưng thủ phạm lại là con ông! Dù bỏ tù nó, số vàng của ông cũng đã bị ngân hàng mẫu quốc xiết nợ, không thể đòi lại. Số vàng ông thu được của tứ phương là tài sản của triều đình, ông không thể nuốt trọn, mà phải dâng nạp. Ông không thể giấu diếm vì bên cạnh ông, có nhiều tai mắt của triều đình. Mất tiền của triều đình thì phải bị ngồi tù hoặc bị chém đầu. Đằng nào ông và con ông cũng bị tội, không phương cứu vãn. Ông không biết làm sao giải quyết vấn đề!

Thấy quan tổng đốc buồn rầu, một viên Đô lại già xin vào hiến kế. Y nói:

-Bẩm quan lớn, xin quan lớn giao toàn qưyền cho con, con sẽ giải quyết mọi vấn đề cho ngài.

Quan lớn được lời như cởi tấm lòng, bèn chấp thuận đề nghị của viên lại già. Vài tháng sau, khắp nơi người ta thấy cáo thị của công ty Hoàn Mỹ tuyển chọn nhân viên. Lúc này, khắp nơi bão lụt, đói kém, lại nữa từ khi anh em họ Lưu cai trị, đời sống nhân dân ngày càng xuống thấp. Nay được thông báo tuyển lựa nhân viên thì nam nữ, trẻ gìà ai cũng phấn khởi.Mỗi người trúng tuyển phải nộp mười lạng vàng cho công ty. Sau mấy tháng thì dịch vụ đưa nam nữ ra lao động nước ngoài được thực hiện. Tiếp theo là chương trình giới thiệu hôn nhân ngoại quốc.

Cuộc làm ăn thành tựu vì người các nước đến Việt Nam chọn lựa người đẹp để đem về nước họ. Song song với các dịch vụ trên, còn có việc quan tổng đốc chiếm đất đai của nhân dân đem bán cho ngoại quốc. Viên Đô lại già lại hiến kế bắt các nhà buôn bán trong tỉnh nộp thêm thuế 5% , và các tiệm rượu, tiệm ăn phải bán bánh kẹo, đậu phụng cho khách, dù khách không ăn cũng phải tính tiền, tất cả đều bỏ vào quỷ “ xóa đói giảm nghèo”. Viên đô lại cũng vạch kế họach phá rừng, lấp sông để lấy ruộng đất bán cho ngoại bang. Chỉ trong mấy tháng mà quan tổng đốc đã thâu mấy vạn lượng vàng. Quan bèn trích ra một số tặng các kẻ thân tín và một số dâng hoàng thượng. Ông được vua ban cho danh hiệu “ nhà tỷ phú nhân dân”, là “ nhà kinh doanh tài giỏi nhất quốc gia” được ghi tên vào quyển “ Guinness quốc gia và thế giới” .

Vài tháng sau, quan tổng đốc được thăng Lại bộ thượng thư, rồi làm tể tướng. Từ đây, ông sống trong giàu sang và quang vinh nhất nước. Kể từ khai quốc đến nay, nước ta chưa có ai giàu lớn và giàu mau như thế. Đó là một niềm tự hào của tổ quốc và nhân dân ta, nhất là niềm tự hào của triều đình ta đã tiến nhanh tiến mạnh vượt qua tư bản và quân chủ! Vì vậy, khắp nước, phong trào buôn dân, bán nước trở thành mạnh mẽ trong triều đình và các địa phương. Người ta tranh nhau làm giàu bất kể thủ đoạn.


Về công tử con quan tổng đốc sau khi thân phụ cậu lên làm tể tướng thì càng ngày cậu càng thêm thanh thế. Công cuộc kinh doanh của cậu và gia đình cậu từ địa bàn Sơn Hưng Tuyên mở rộng qua toàn quốc và toàn cầu. Buổi sáng cậu du hí ở Bắc kinh thì buổi chiếu cậu có mặt tại Tokyo. Hôm nay cậu ở sòng bạc Thái Lan thì vài hôm sau cậu có mặt ở Las Vegas Mỹ quốc.

Bọn thanh niên con các quan trong triều ngày càng bâu xung quanh cậu đông đảo. Cậu say mê cở bạc mà cũng say mê ca vũ nhạc. Cậu say mê cô đào Nguyệt Minh, một hoa khôi tại trà lầu Bồng Đảo, mà cậu con trai con cựu thừa tướng cũng yêu Nguyệt Minh. Vì tranh gái đẹp, hai bên đi đến ấu đả nhiều lần. Một hôm con trai tân thừa tướng đến trà lầu thì gặp lúc con trai cựu thừa tướng đang ôm ấp Nguyệt Minh. Cậu tức giận xông vào đấm đá cặp ”gian phu gian phụ” .

Con trai cựu thừa tướng một mặt tức giận về cha cậu bị thất sủng, công việc kinh doanh bị tân thừa tướng lấn át, còn người yêu của cậu cũng bị thằng nhãi chiếm đoạt, y tức giận rút súng bắn con trai tân thừa tướng ba phát vào đầu, hai phát vào tim. Khi đưa cậu vào y viện thì cậu đã trút hơi thở cuối cùng! 

 


XV. CUỘC LUẬN KIẾM TRÊN NON TẢN

Cứ ba năm một lần, vào ngày rằm tháng hai âm lịch, các bộ tộc ở miền núi xứ Bắc thường tập trung tại núi Tản viên để luận kiếm. Tại miền Bắc có khoảng 50 bộ tộc sinh sống như Thái , Thổ, Mán, Mường, Mèo, Nùng, Hmong, Tày, Dao, Lô Lô, PuPéo, Rơ-măm, Brâu, Pà Thẻn, La Hủ, Vân Kiều, Sán Dìu, Khơ Mú... . .Sự phân loại rất khó khăn và phức tạp. Ngay cả trong bộ lạc Thái còn có Thái Trắng, Thái Đỏ, Thái đen; giống Mán có Mán đồng tiền, Mán Hòa Bình; giống Tày Có, Tày Hay, Tày Men, Tày Mười, Tày Xang; giống Mường có Mường Thanh Hóa, Mường Hòa Bình. Trong các bộ lạc trên, Thái , Thổ, Mán, Mường, Mèo, Nùng, Hmong, Tày là tám bộ lạc nổi tiếng hơn cả, đuợc gọi là bát đại sắc tộc.Tất cả dân tộc miền núi này sống hoà hợp trong quốc gia Văn Lang, dưới sự lãnh đạo của vua Hùng. Chính các dân tộc miền núi đứng ra tổ chức cuộc luận kiếm và họ mời vua Hùng làm chủ tọa và làm trọng tài.

Võ nghệ thì có nhiều môn phái khác nhau nhưng trong thập bát ban võ nghệ, kiếm được coi là đứng đầu cho nên cuộc tranh tài của các đại cao thủ tại núi Tản đã lấy kiếm mà luận tài thử sức. Các bộ lạc đều được tham dự nhưng mỗi phái đoàn thường mang theo năm, mười người kể cả ngưởi tùy tùng.

Ngày luận kiếm đã đến. Trên một khoảnh đất rộng rãi trước đền thờ đức thánh Tản, người ta đã dựng một khán đài bằng gỗ lợp tranh để vua Hùng và các tộc trưởng các bộ lạc ngồi xem. Trước mặt khán đài là một đấu trường, là khoảnh sân cỏ rộng bằng một gian nhà, được vẽ một vòng tròn bằng vôi. Ở trước đấu trường, người ta làm một cái cổng tam quan kết bằng hoa và lá, xung quang cờ đuôi nheo bay phất phới. Trống điểm thùng thùng lúc khoan, lúc nhặt. Khi vua ngự đến, ban bát âm cử nhạc thánh thót. Các công chúa, các tiểu thư ngồi trên khán đài; còn các thiếu nữ người Mán, Mường, Mèo, Thái. . . mặc áo quần sặc sở tạo thành một bức tranh sống động ở xung quanh đấu trường. Các vệ binh phải cầm roi xua liên tiếp và nạt nộ ầm ĩ vì bọn thanh niên nam nữ xô đẩy nhau và đùa giỡn ở trước võ đài . Tiếng kêu gọi nhau ơi ới, tiếng khóc, tiếng cười, tiếng chửi rủa nghe lanh lảnh là đặc thù của ngày lễ hội.


Theo lệ cũ, bát đại tù trưởng thay nhau chủ trì cuộc luận kiếm. Người đứng ra phụ trách việc tổ chức kỳ này là Nông Vạn Phúc, tù trưởng người Nùng. Trước khi tham dự cuộc luận kiếm, mỗi bộ lạc phải chọn một kiếm khách tài giỏi nhất, và một kiếm khách dự khuyết. Các kiếm khách các bộ lạc từng đôi thi tài, cuối cùng lấy ra tám đại cao thủ. Trước hết bốn cặp đấu với nhau, sau đó thành hai cặp đấu với nhau, và cuối cùng là một cặp đấu với nhau. Ai thắng sẽ trở thành đệ nhất cao thủ của Văn lang quốc.


Khởi đầu, có 30 đấu thủ bắt thăm đấu từng đôi một. Đợt hai còn bảy cặp đấu với nhau. Đợt ba còn bốn cặp đấu với nhau.
Khởi đầu đợt ba, Đèo Vân Long đấu với Uông Thanh Lâm. Sau khi bái tổ và cúi đầu chào nhau, cả hai liền trổ tài. Cả hai là tù trưởng, là thanh niên trai tráng khoẻ mạnh. Đèo Vân Long người Tày sử dụng song kiếm, tiến thoái nhịp nhàng và múa như vũ bão. Uông Thanh Lâm, người Thái trắng dùng trường kiếm, thủ nhiều hơn công. Cả hai đều đóng khố, ở trần trùng trục như hai con bò mộng. Đấu hơn nửa buổi không phân thắng bại. Ban tổ chức phải ra lệnh đình hoãn để hai bên nghỉ ngơi và dùng bữa trưa. Giờ mùi, hai bên tiếp tục lên võ đài. Uông Thanh Lâm thay đổi chiến thuật. Chàng tấn công như vũ bão khiến Đèo Thanh Long phải lùi bước. Vì bất cẩn, Đèo Thanh Long trợt chân té xuống. Trong nháy mắt, Uông Thanh Lâm kề kiếm vào cổ khiến Đèo Thanh Long phải đầu hàng.

Hiệp tiếp theo, Nông Xin Phát, người Nùng đấu với La Hiêu Xình người Thổ. Cả hai đều đóng khố, để đầu trần, đI chân đất. Cả hai dùng song kiếm. La Hiêu Xinh thuộc phái hầu kiếm, y nhảy tả sang hữu, rồi lăn lộn dưới đất chém vào hạ bộ của Nông Xìn Phát những nhát kiếm ác liệt khiến Nông Xìn Phát nhiều phen luống cuống. Cuối cùng La Hiêu Xinh nhảy từ trên cao xuống chém đứt tai Nông Xìn Phát và kết thúc trận đấu.

Trận tiếp theo nữa là Ra Com Xay người Mán đấu với Giàng A Sáo người Mường. Cả hai là tù trưởng già nua tóc bạc nhưng còn vẻ tiên phong đạo cốt. Ra Com Xay mặc áo cộc đỏ, quần cộc xanh, đầu trùm khăn lam. Giàng A Sáo thì đóng khố, đi chân đất. Sau khi chào hỏi nhau xong, cả hai rút kiếm và thủ thế. Sau vài khắc, cả hai vẫn ghìm kiếm và im lặng gườm nhau. Bỗng Ra Com Xay hét lên một tiếng và xông vào Giàng A Sáo . Cả đấu trường, người ta nghe một tiếng thét rùng rợn. Đồng thời người ta thấy cả hai người rời nhau ra và ngã xuống đất. Cả hai đã bị chém vào đầu. Cuộc đấu kết thúc bằng cái chết của hai tù trưởng kiêu hùng.

Trận cuối do Cầm Thanh Khao lão nhân người Hmong đấu với Lò Xây Xây đạo nhân người Mèo. Cầm Thanh Khao lão nhân mặc trường bào trắng , thắt lưng đỏ, đi chân đất còn Lò Xây Xây mặc áo ngắn màu xanh, quần đen, thắt lưng đen, đi hài tía. Sau khi bái tổ và chào hỏi nhau, cả hai tiến đánh như vũ bão. Sau một ngày trời bất phân thắng bại, cả hai được ban tổ chức cho nghỉ ngơi để hôm sau tái đấu. Khoảng giờ thìn hôm sau, cuộc đấu tiếp diễn. Cầm Thanh Khao vừa ôm bầu rượu vừa tấn công đối thủ trong khi Lò Xây Xây ung dung cầm quạt phe phẩy như đang dạo chơi trên bờ sông. Đến giờ ngọ, cả hai vẫn đồng cân sức. Mặt trời lên cao, không khí oi bức.

Cầm Thanh Khao nâng bầu rượu lên uống một hớp như đang làm thơ trong một vườn hoa. Bỗng một thoáng, Cầm Thanh Khao nhảy chồm tới, miệng phun rượu vào mắt Lò Xây Xây đạo nhân, tay múa kiếm quyết chém ngang lưng đôi thủ . Cùng lúc này, Lò Xây Xây đạo nhân chỉ quạt về phía Cầm Thanh Khao lão nhân, người ta thấy năm sáu mũi kim từ quạt bay ra. Trong khi Cầm Thanh Khao lão nhân co rúm người và run bần bật thì Lò Xây Xây đạo nhân nhảy lùi ra sau ôm mặt nhăn nhó. Một bên trúng kim độc, một bên trúng rượu độc, ban tổ chức phải đem cả hai vào hậu trường cấp cứu. Sau đó ban tổ chức tuyên bố bãi bõ tư cách kiếm khách cả hai vì đã dùng hành vi ám toán đối thủ.


Chung kết là Uông Thanh Lâm đấu với La Hiêu Xình. Cuộc long tranh hổ đấu xảy ra hai ngày vẫn bất phân thắng bại. Ban tổ chức phải đưa ra ý kiến là tổ chức thi văn bổ túc.

Cuộc thi võ đã kết thúc, ngay chiều hôm đó, võ đài đã biến thành một quang cảnh mới. Ngay trước ngự tọa, người ta trải bốn năm chiếc chiếu cạp điều. Ở chiếu giữa là chỗ ngồi của hai đấu thủ, còn xung quanh là chiếu của các giám khảo. Trên các chiếu người ta bày hương trầm, hoa, rượu, trà, bánh trái và thuốc lào. La Hiểu Xinh bốc thăm ưu tiên nên có quyền ra câu hỏi trước:

-Trên thế gian, cái gì mạnh nhất?

Uông Thanh Lâm đáp:

-Thanh kiếm là mạnh nhất.

La Hiêu Xinh nói:

-Thanh kiếm không mạnh nhất. Nếu thanh kiếm trở nên oai hùng là do sức lực toàn thân, nhất là sức mạnh cánh tay, và trí óc con người. Thanh kiếm chỉ là một công cụ vô tri, vô năng, vô lực.

Uông Thanh Lâm chất vấn La Hiêu Xình:

-Tôi trả lời, ông bảo là sai. Vậy theo ông cái gí có sức mạnh nhất trên đời?

La Hiểu Xinh đáp:

-Theo tôi, tình yêu mạnh nhất trên đời.

Uông Thanh Lâm nói:

-Tình yêu là sức mạnh nhưng không phải là nhất. Tình yêu chưa chắc tạo được hạnh phúc vì bao nhiêu người yêu nhau mà vẫn bỏ nhau. Vả lại, tình yêu chỉ có sức mạnh trong trong khoảng 18-50 mà thôi. Hơn nữa một số không cần tình yêu đò là hạng chân tu và người bất lực hoặc bệnh hoạn.

Theo tôi, tiền bạc mạnh nhất vì ai cũng cần tiền. Đứa trẻ mới sanh cho chí người già sắp chết, người tu hành cho đến nhà từ thiện, ai cũng cần tiền. Mãnh lực đồng tiền rất lớn, nó làm cho con người bán danh dự, bỏ đạo đức, bán đất đai tổ tiên đã ngàn năm xây dựng. Kẻ lưu manh tham tiền đã đành mà nhà tu hành hoặc bậc trí thức cũng bất chấp liêm sỉ, chạy theo đồng tiền mà đổi trắng thay đen. Nhân dân ta có câu tục ngữ: “ Có tiền mua tiên cũng được”. Và ngày nay khắp nơi có bài ca chiến thắng:

Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già
Là cái đà tiến thân,
Là cái cân công lý.
Tiền! Hết ý!


Ban tổ chức nhận định rằng về nan đề thứ nhất, cả hai ngang nhau. Đến lượt Uông Thanh Lâm ra đề:

-Ông có phải là người oai phong nhất không?

La Hiêu Xình đáp:

-Dưới vua, tôi là người oai phong nhất vì tôi là tù trưởng, có 500 mẫu ruộng, hai ngàn con bò, năm trăm con trâu, và ba trăm cô vợ trẻ đẹp.

Uông Thanh Lâm cười đáp:

-Vậy thì ông còn thua tôi. Tôi đây có 600 mẫu ruộng, năm ngàn con bò, năm ngàn con trâu và năm trăm cô vợ trẻ đẹp. Ngoài ra tôi có 80 đứa con, gồm 50 trai và 30 gái. Nhưng những cái đó chưa ăn thua gì, vì có tiền thì mua bao nhiêu vợ cũng được. Mà nhiều vợ thì lắm con Cổ nhân nói : “Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con”. cũng chỉ là chuyện thường thế gian Ông xem đây, những người hầu cận của tôi đây. Rất đặc sắc, rất đặc sắc, trong thế gian, ngoài vua ra, không ai bằng tôi! Trong khi bao nhiêu người khoái sưu tầm vàng ngọc, gấm vóc, tranh cổ, bình xưa, tôi đây chỉ thích sưu tập nhân tài trong thiên hạ.

La Hiêu Xình nói:

-Những điều ông nói là không thể kiểm soát được. Ông muốn nói bao nhiêu mà chả được. Làm sao biết ông có 600 mẫu ruộng, năm ngàn con bò, năm ngàn con trâu và năm trăm cô vợ trẻ đẹp? Còn mấy tên hầu cận của ông thì cũng giống mấy tên hầu cận của tôi, có khác gì đâu?

Uông Thanh Lâm nói:

-Ông lầm rồi! Mấy thằng đầy tớ của tôi rất chiến! Rất cừ! Tôi hiện nay có hàng ngàn đầy tớ, thuộc đủ hạng người, mà người nào cũng xuất chúng, Không một tên nô lệ nào trên thế gian lại có một lịch sử, một quá khứ oai hùng như chúng nó. Tất cả chúng nó có ba đặc tính chung:

-Thứ nhất, chúng nó trước đây tích cực chống tôi và dân tộc tôi. Nay chúng quay ra ca tụng tôi, cam tâm làm nô lệ cho tôi.

-Thứ hai, chúng nó là những người có danh vọng.

- Thứ ba, những nô bộc của tôi mang tính quốc tế và đa dạng. Trong nước, ngoài nước đều có người của tôi. Nước nào cũng có người của tôi. Chúng ở ngoại quốc nay về hẳn với tôi chầu chực hôm mai bên cạnh tôi. Cũng có kẻ sáu tháng ở với tôi, sáu tháng về thăm nhà bên đó. Cũng có kẻ nằm vùng ở nước ngoài. Đầy tớ của tôi rất đa dạng, nào là y sĩ, thầy kiện, học giả, văn sĩ, thi sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ, giáo sĩ, hoà thượng, đạo sĩ, sinh viên, học sinh, giáo sư, tiến sĩ. . .

Trong đám đầy tớ của tôi, hai thằng A Tam và A Tứ đây vốn là người dân Miêu. Thằng A Tam, lúc nhỏ là lưu manh đệ nhất ở xứ Đoài, gặp thời loạn nhảy lên làm đại tướng, còn thằng A Tứ là đệ nhất đàng điếm và cũng là đệ nhất nhạc công của Miêu tộc, sáng tác cả trăm bản nhạc, được dân Miêu ca tụng là thánh tổ nhạc..

La Hiêu Xình nói:

-Ông đánh thắng rồi bắt chúng làm nô lệ, đó là chuyện thường xưa nay, chứ có gì lạ đâu mà ông khoe!

Uông Thanh Lâm cười mà rằng;

-Ông nói sai. Bậc đại nhân, đại nghĩa không bao giờ dùng bạo lực. Dùng vũ lực thì làm cho người miễn cưỡng tuân phục nhưng tâm bất phục. Phải làm sao mà chúng tâm phục, khẩu phục, phải bò đến trước mặt mình năn nỉ, van xin thì mới tỏ là bậc đại trượng phu, oai phong đệ nhất. Trường hợp của tôi rất đặc biệt cơ! Hai thằng này có quyền thế nên đã nhanh chân chạy sang xứ Cỏ Hoa trước khi Miêu tộc bị tôi xâm chiếm. Dân Miêu khốn khổ phải vượt biển, kẻ bị cướp biển, người bị cá ăn thịt , một số rất ít đến Cỏ Hoa và các nước ngoại quốc, còn hai tên này đi tàu bè rất ung dung và sống vênh vang ở xứ Cỏ Hoa. Tôi phải dùng mấy trăm lượng vàng và mất công thuê người dụ dỗ mấy năm trời chứ đâu có dễ. Hai thằng này thời trước cao ngạo lắm, nay thì rất ngoan, bảo chúng nó quỳ xuống làm chó sủa gâu gâu, chúng cũng nghe theo. 

Dù tốn mấy trăm lạng vàng, khi đi đó đi đây, có thằng mang giày cởi dép, có đứa đấm lưng, bóp chân, có đầy tớ hầu điếu đóm, có nô lệ bưng trà, rót rượu thì tôi rất là sung sướng, rất là oai phong! Các bậc vua chúa đi ra ngoài thường mang theo bọn vai u thịt bắp làm kẻ tả hữu, còn tôi, tôi là người trí tuệ đỉnh cao cho nên tôi dùng nô lệ cũng dùng thứ thượng hạng. 

Có như vậy mới quý hiếm và tăng giá trị mình. Tôi nay cho chúng sướng gấp mười ngày trước khi chúng làm quan ở Miêu tộc. Chúng nay đuợc ở nhà cao cửa rộng, rượu nồng dê béo, tiền xài hàng vạn, gái đẹp hằng trăm, dù tôi vác gậy đuổi chúng, chúng cũng không đi. Tôi cho chúng mọi thứ, tôi chẳng bắt chúng làm một công việc gì cả. Khi tôi đi đó đi đây,nhất là lúc tiếp các đại thần hay tiếp khách ngoại quốc, tôi chỉ cần chúng đứng khoanh tay hầu bên cạnh tôi là đủ.

Tôi rất yêu chúng nó vì chúng nó đem lại vinh dự và oai phong cho tôi. Mai sau khi tôi chết, tôi sẽ chôn hài cốt hai đứa bên cạnh để kiếp sau và sau nữa, chúng sẽ hầu hạ tôi. Và ở cổng lăng tôi, thay vì phải làm hai con chó đá. như cổ tục, tôi sẽ cho thợ đắp hình chúng nó theo dạng đầu người mình thú như con Sphinx bên Hy Lạp.. Ông có thấy dưới hoàng đế, tôi là người oai phong nhất không?

Nói xong, ông quay sang A Tam, A Tứ cười:

-Tao nói vậy có đúng không, chúng bay?

Cả hai tên nô bộc tuổi 70-80 cúi đầu khom lưng rất lễ phép và thưa :

-Dạ đúng, bẩm đại nhân!

Kết cuộc, ban tổ chức đồng ý chọn Uông Thanh Lâm làm đệ nhất kiếm khách nước Văn Lang. Vua Hùng thưởng cho Uông Thanh Lâm 500 lượng vàng, ban áo mão cân đai, và giữ lại kinh đô làm Cửu môn Đề đốc quản lĩnh quân đội trong kinh thành

XVI. CHIẾC ÁO GẤM THƯỢNG HẢI

Vương Như Minh vốn người Thanh Hóa, bỏ vợ con và quê hương vào Nam theo chúa Nguyễn. Ông cho các bạn biết ở ngoài Bắc ông là một võ sĩ, đã làm đội trưởng Vệ Thần sách, nhưng ông ghét chúa Trịnh tham tàn bạo ngược, và ghét quan lại Tàu nghênh ngang trên đất Bắc. Nhiều lần ông đã xung khắc và chống đối họ và bị họ đuổi giết cho nên ông tìm đường vào xứ Đàng Trong. Không hiểu ông làm thế mà được vào làm việc trong phủ Chưởng quản Sự Vụ,là phủ Tể tướng, và yêu con gái quan Chưởng quản Cả hai say đắm nhau, cùng làm thơ qua lại và sắp đi đến hôn nhân. Nhưng sắp đến ngày cưới thì biến cố xảy ra. Nguyên khi Nguyễn Phúc Khoát tức Vũ vương mất, người con trưởng thất lộc nên Vũ vương để di chiếu lập người con thứ hai song Trương Phúc Loan đổi di chiếu lập con thứ 16 của Vũ vương mới 12 tuổi lên ngôi tức Định vương. 

Định vương chỉ ngồi vì, quyền hành vào tay Trương Phúc Loan. Lúc này, họ Trương đã lên thay họ Nguyễn, mọi người anh em, dâu, rể họ Trương đều làm lớn trong các bộ viện và nắm mọi ngành kinh tế trong xứ. và lập nên một chế độ gia đình trị. Trương Phúc Loan giết hại, bắt giam và sa thải các quan lại đời trước khiến cho một số quan lại triều trước trong đó có quan Chưởng quản và gia đình cũng phải chạy ra ngoại quốc. Vì vậy cuộc tình duyên giữa Vương Như Minh và cô con gáì quan Chưởng quản phải đứt đoạn.

Kể ra lúc đầu, Trương Phúc Loan được một số người tín nhiệm vì ông khôn ngoan giương cao chủ nghĩa “dân vi quý” của Mạnh tử. Vì vậy, một số quan lại và tướng lãnh chúa Nguyễn đã bỏ chúa mà theo họ Trương trong đó có Vương Như Minh. Đến khi họ Trương lộ bộ mặt gian ác, ra tay vét thuế, cướp của công, dùng bọn thủ túc ngu dốt, nhất là sát hại và bỏ tù những ai bất đồng chính kiến thi Vương Như Minh bỏ con đường chính trị mà xoay sang con đường giáo dục. Mặc cho Trương Phúc Loan thao túng, mặc cho Nhạc Huệ tung hoành, ông chỉ lo học và đã đỗ cử nhân, rồi tiến sĩ, sau được vào dạy ở trường Quốc tử viện là một trường đại học ở kinh đô. Lúc này ông đã cò gia đình một vợ và ba con, gia cảnh cũng thanh bạch.

Ngày tháng trôi qua, chẳng mấy chốc mà quân Hoàng Ngũ Phúc đem đại binh vào bắt giết Trương Phúc Loan và chiếm Thuận Hóa. Tất cả quan lại và tướng lãnh xứ Đàng Trong đều bị bỏ tù. Một số lớn giáo sư bị ngồi tù hoặc bị sa thải trong đó có Vương Như Minh. Gia cảnh bầb bạch, bà vợ của Vương phải may thuê vá mướn lần hồi.

Quân Trịnh áp dụng chính sách thực dân, đem số lớn dân Đàng Ngoài vào cai trị xứ Đàng Trong. Từ quan trấn thủ cho đến phu xe, phu hốt rác cũng là người Bắc Hà còn người Nam Hà rất ít kẻ có công ăn việc ăn, mà tuyệt đại đa số đều thất nghiệp, lâm cảnh đói khổ, phải bán quần áo, bàn ghế mà sống qua ngày. Trong bao năm trời, dân chúng ngoài Bắc vào Nam mua vải vóc, máy móc, dụng cụ và lương thực và chở về Bắc không ngớt.

 Họ còn kéo nhau hàng triệu người vào Cao nguyên và Đồng Nai lập trại, lập đồn điền. Hàng trăm ngàn dân Đàng Ngoài được đưa vào Nam làm an ninh chìm. Người Đàng Ngoài vào tận thôn xóm xa xăm, làm tổ trưởng liên gia bảo, làm xã trưởng, quận trưởng. Người Đàng Ngoài giả dạng đi bán bánh, bán chè đi khắp hang cùng ngỏ hẽm nghe ngóng tin tức. 

Một số dân Nam Hà cam tâm làm tay sai cho họ Trịnh. Một số công khai khoe khoang họ là người chúa Trịnh biệt phái vào Nam nằm vùng. Họ tố cáo người nọ, người kia. Quân Trịnh cũng đưa tiền bạc dụ dỗ hoặc dùng quyền lực ép buộc dân chúng Nam Hà tố cáo, vu khống nhau khiến cho bè bạn, anh em nghi ngờ nhau. Một số nhà khoa bảng cũng như một số nhà tu hành đã cúi đầu làm tay sai cho bạo quyền.


Quân Trịnh cho một số công an chìm người Nam Hà đóng vai trò dẫn rắn bò ra khỏi hang. Những người này đến nhà này, nhà nọ, ban đầu lên tiếng chống đối, phê phán quân Trịnh, ai nhẹ lòng tin theo và lên tiếng chỉ trích họ Trịnh, thì bước sau, họ đưa ra ý kiến lập nhóm này, nhòm kia tranh đấu. Ai tin theo thì lập tức bị giam và đưa ra tòa lãnh án.

Trong thời gian Trịnh quân xâm chiếm Thuận Hóa, tôi cũng được một người bạn đưa đến giới thiệu với Vương Như Minh và chúng tôi trở thành bạn thân.

Vương Như Minh có ba tính đặc biệt. Thứ nhất là ông giao du rất rộng. Ngày nào cũng có hàng tá người đến trò chuyện. Thứ hai, tính tình bộc trực, dễ tin người. Và thứ ba là vị trí nhà của ông. Nhà của Vương Như Minh ở cạnh là nhà một tên an ninh của họ Trịnh. Tên này ở ngoài Bắc mới điều vào, và được phân phối căn nhà này là căn nhà do một gia đình người Nam Hà chạy theo chúa Nguyễn để lại. Bên cạnh và đàng trước nhà là đường thông trong xóm nghèo, luôn luôn có kẻ qua người lại nhìn vào trong nhà và thấy rõ mồn một. Đã thế, giọng nói của ông rất lớn, thành thử ông nói trong nhà mà ngoài đường cũng nghe rõ. Đó là những điều rất nguy hiểm trong loạn thế.

Một hôm, tôi đến thăm ông, thì một khách lạ cũng đến. Vương tiên sinh quen biết khách và giới thiệu tôi. Ngồi chưa nóng chỗ thì ông khách đã nói hăng hái:

-Chúng ta phải đi qua ngõ Vinh Sơn.

Lúc bây giờ giáo phái Vinh Sơn đã dùng khí giới chống lại quân Trịnh và hai bên giao chiến mấy ngày dài. Kết cuộc, đền thờ bị niêm phong, các tu sĩ bị bắt giam. Nghe khách nói vậy, tôi bèn viện cớ bận việc bỏ ra về. Lần sau nữa, tôi đến thăm Vương Như Minh thì có khách đang nói chuyrện với ông. Chủ nhân giới thiệu tôi với khách. Ông này cũng như ông trước, sau khi nghe giới thiệu tôi là thầy giáo , bèn nói với tôi và Vương Như Minh:

-Hai ông là giáo sư, có nhiều môn hạ. Nếu hai ông lên tiếng thì sẽ tập hợp được một lực lượng lớn.

Nghe khách nói như vậy, tôi bèn viện cớ bận việc, xin phép ra về.Tri nhân, tri diện, bất tri tâm. Thời buổi khó khăn, công an đầy đường, đầy ngõ, Thời loạn, tính mạng treo chỉ mành. sống bên nhau lâu năm mà cũng chưa hiểu nhau, thế mà mới gặp mặt, chưa biết ất giáp gì cả mà dám bàn chuyện lớn một cách công khai. Những người như thế nếu không là công an thì cũng là những kẻ không làm được việc lớn. Dính với họ chỉ thiệt thân.

Thời bấy giờ tại kinh đô xảy ra một vụ lớn, nghe nói các luật gia và nhà khoa bảng lập kiến nghị dâng chúa Trịnh, yêu cần tôn trọng quyền lợi dân chúng và đất nước. Cả đám bị bắt. Khi bị lấy khẩu cung trong nhà giam, các luật gia và tay khoa bảng mới biết mình bị lừa vì người xướng xuất tranh đấu cho nhân quyền chính là một luật gia của Trịnh quân nằm vùng tại xứ Đàng Trong, bây giờ ông ta đứng ra làm quan tòa lấy khẩu cung và kết án mọi người. Những chuyện như thế rất nhiều.

Một hôm, Vương Như Minh bảo tôi:

-Ông có quen ai giòng dõi hoàng tộc không? Tôi muốn găp họ hỏi vài lời.

Tôi nể lòng, cũng đưa đi giới thiệu một ông bạn thân dòng Nguyễn quý tộc. Không biết câu chuyện sau này ra sao mà sau này ông bạn hoàng gia lạnh nhạt và xa lánh tôi. Một hôm, Vương Như Minh nói riêng với tôi:
-Chúa Nguyễn sắp trở về Thuận Hóa. Tôi được mấy bạn thân thông thạo tin tức cho biết như thế.

Tôi bảo ông:
-Trong tình thế hiện nay, chúa Nguyễn bị đánh tận và đuổi tuyệt, quân lính tan tác, tướng sĩ xiêu bạt, thân thế chưa biết về đâu, làm sao có thể khôi phục Thuận Hóa trong lúc này. Ông đừng tin những điều này.

Vì việc này, ông giận tôi. It lâu sau, ông bi quân Trịnh bắt giam, hình như về tội tôn phù chúa Nguyễn. Ông ở tù vài năm rồi được thả. Ngày ông về, tôi đến thăm ông, và chúng tôi nối lại mối tình bạn . Tôi rất thích Vương Như Minh vì ông rất giỏi Hán nôm, gặp những câu văn, bài thơ không hiểu rõ, tôi thường hỏi ông và được ông giải thích tường tận. Ngoài ra, tôi cũng thích ông vì tính ông bình dân, giản dị. Ông cho biết ông đã học được chữ nho lúc nhỏ do thân phụ ông dậy. Sau hai cụ bị chính sách cướp của giết người mà chết thảm trong các chiến dịch tàn ác của bạo quyền xứ Đàng Ngoài.


Chúa Nguyễn đã đào vong, song chúa Trịnh vẫn lo sợ. Họ ra sức bắt bớ các lực lượng bảo hoàng. Họ tung tin này, tin nọ, nhưng sự thực thì dân Nam Hà đa số yêu chúa Nguyễn. Một số nhân sĩ đã âm thầm lập tổ chức bảo hoàng phục quốc. Trong các tổ chức này, có người thực, kẻ giả. Do Vương Như Minh, tôi quen biết Phạm Bảo lão nhân là một nhân sĩ đã nổi tiếng một thời ở chốn kinh đô, gia tư cũng bậc khá giả.

 Lão nhân đã trên tám mươi nhưng vẫn mạnh khoẻ, hàng ngày thường luyện tập đi bộ. Phạm lão nhân tới thăm tôi vài lần và tôi đã tới đáp lễ. Phạm tiên sinh đã rủ tôi xem tướng một lần tại nhà một danh sư. Phải chăng Phạm lão nhân muốn dùng tướng pháp để chọn ngườI cộng tác? Ông thầy tướng này nổi tiếng từ lâu và quả thật là giỏi. Giữa tôi và Phạm lão nhân tình cảm ngày càng sâu đậm thì Phạm lão nhân lâm bệnh rồi chết. Lão nhân có bạn thân là Thanh Nhàn lão nhân, tuổi khoảng 70. Thanh Nhàn lão nhân có dáng điệu tiên phong đạo cốt, có lẽ lúc trẻ rất đẹp trai. Vương Như Minh đưa tôi đến thăm lão nhân nhiều lần, và nói với tôi rằng lão nhân thường vào chiến khu liên lạc với chúa Nguyễn.


Bên cạnh Vương Như Minh có hai chàng trẻ thường lui tới. Một chàng được Vương Như Minh giới thiệu là học trò của Vương Như Minh, còn chàng kia là đệ tử của Phạm Bảo lão nhân. Một hôm, Vương Như Minh bảo tôi rằng cuối tháng này, Thanh Nhàn lão nhân sẽ vào chiến khu gặp chúa Nguyễn và kêu gọi chúng tôi góp ít tiền làm lộ phí cho Thanh Nhàn lão nhân. Thường thường, nghe những chuyện như vậy, tôi không nói gì, chỉ im lặng. Sau đó, tôi được chàng đệ tử Phạm lão nhân nói riêng cho biết cuối tháng, chàng thấy Thanh Nhàn lão nhân đi ngoài phố chứ không phải đi họp trong chiến khu. It lâu sau, Thanh Nhàn lão nhân cũng lâm bệnh vài bữa rồi chết đi. Từ đó, tôi không còn nghe nói đến chúa Nguyễn nữa.

Ngày tháng trôi qua cũng đã vài năm sau khi quân Hoàng Ngũ Phúc chiếm Phú xuân. Bỗng nhiên quân Trịnh từ Thăng Long kéo vào rất đông. Họ tuyên bố vào dẹp tệ nạn xã hội tại Đàng Trong. Bao sòng bài, nhà chứa bị bắt. Một số thương gia bị bắt giam và tịch thâu gia sản vì tội trốn thuế hoặc chống triều đình. Bề ngoài quân Trịnh nói là dẹp tệ nạn xã hội, nhưng thực tế là họ tấn công nhân dân Nam Hà. Hàng ngàn, hàng vạn người bị bắt vì âm mưu khởi loạn.

Nghe đâu, tổ chức này rất to lớn được ngoại bang ủng hộ đàng sau và một số quan lại họ Trịnh cũng có liên quan. Kết quả, một số bị đem ra xử tử hình, trong đó có một số quan lại họ Trịnh. Hầu hết bạn bè tôi bị bắt giam trong đó có Vương Như Minh. Ba bốn năm sau, Vương Như Minh và các bạn tôi được thả ra.

Khi các bạn tôi được trả tự do, tôi liền đến thăm họ và chúng tôi lại tiếp tục họp mặt, uống rựơu giải sầu, mặc cho nhà Trịnh có theo dõi hay không. Các bạn tôi cho biết trong tù, quân Trịnh bắt cung khai các việc, và hỏi rất nhiều về tôi nhưng các bạn tôi khai thật rằng tôi không có hoạt động chính trị nào. Việc tôi không bị mắc vòng lao lý có lẽ là do tôi may mắn. Sau khi quân Trịnh chiếm Thuận Hóa, tôi về ẩn cư. Tôi biết những ngườI cũ ở xứ Đàng Trong luôn bị Trịnh quân theo dõi. Hễ ai ra khỏi nhà là có người đi theo rồi về báo cáo với xã trưởng hay cơ quan an ninh không sót một chi tiết.

Trong phố phường và xã thôn, quân Trịnh lập ngũ gia bảo, nghĩa là năm nhà thành một tổ, nhà này theo dõi nhà kia. Những kẻ bán hàng rong, những ngườI bán kẹo bánh, bán thuốc lào, sửa xe, sửa giày dép ở đầu ngõ có thể là công an chìm. Họ có nhiệm vụ theo dõi các khách lạ vào ra. Đền, chùa, miếu mạo cũng đầy rẫy an ninh, không biết ai sư thật hay sư giả, đạo sĩ thật hay đạo sĩ giả. Dẫu sao, tôi tự biết mình bất tài nên thủ phận, và cũng biết cái thế mạnh đang lên của họ Trịnh, không dám lấy trứng chọi đá. Phải chăng vì vậy mà tôi được yên? Một hôm, tôi đến thăm Vương Như Minh, chuyện gần, chuyện xa, ông nói:
-Người ngu si cho nên được hưởng thái bình.
Tôi cười mà bảo:
-Phúc họa tại trời, ông cũng nghiên cứu lý số, sao ông nói vậy?

Tôi nghĩ rằng ông tuổi già lại gặp tai họa liên tiếp cho nên lòng bực tức, cáu kỉnh. Vì vậy mà tôi không giận ông. Tôi vẫn lui tới và coi như không có chuyện gì.

Ông kể cho tôi nghe nhiều chuyện trong tù. Ông và các bạn tôi là tù chính trị, cùng bị giam trong kinh đô Phú Xuân, chứ không phải bị đày lên rừng sâu hay ra ngoài Bắc. Tuy cùng ở một nhà tù, nhưng mỗi người ở một khu khác nhau, it khi được thấy mặt nhau. Trong thời gian đầu, họ bị tra vấn và hành hạ đủ thứ. Nào khai lý lịch cha ông và bản thân.

Mỗi lần bắt cung khai như vậy là phải viết đi viết lại nhiều lần. Nhưng khi đã kết thúc điều tra, có thể họ bị kết án hay không kết án, dù không ra tòa, hay có ra tòa, cuộc đời tù nhân đã bước qua giai đoạn hai. Họ có thể bị giam trong tù hay chuyển lên nông trường canh tác, danh từ là “đi lao động”. Đi lao động thì thoải mái hơn là bị nhốt trong nhà giam. Trong giai đoạn đi cung, tù nhân bị hành hạ, chửi mắng và hăm dọa đủ điều. Có khi nửa đêm bị thức dậy đi cung. Có tên điều tra viên lễ độ, lịch sự, có tên hung hãn. Nhưng qua giai đoạn điều tra thì tinh thần tù nhân dễ thở hơn. Thỉnh thoảng, tù nhân phải đi điều tra bổ túc.

Cuộc sống trong nhà tù cũng giống như ngoài xã hội là có sự phân chia giai cấp. Những quan lại họ Trịnh tham nhũng mà không chùi mép sạch, hay là những con dê bị tế thần cho nên mới bị tù. Có vị chỉ ngồi tù vài bữa, thỉnh thoảng mới vào nhà giam, còn thường là về sống với gia đình. Có vị được ở phòng đặc biệt, không thiếu nem công chả phượng. Đám quan lại chúa Nguyễn tất nhiên kém vế hơn vì mang thân phận bại binh. Nhưng người giàu có thì vẫn sướng hơn kẻ nghèo hèn. Sau một thời cấm đoán, Trịnh quân mới mở lượng hải hà cho thân nhân tiếp tế tù nhân.

Kể từ khi tù nhân được tiếp tế, không khí trại giam biến đổi. Những tù nhân giàu có thì được tiếp tế ê hề. Kẻ ích kỷ thì giữ lấy mà ăn một mình. Kẻ hảo tâm thì chia xẻ cho bạn bè, hoặc tặng rượu, bánh cho cai tù, cho ngục tốt. Vì vậy mà mối tương quan giữa tù nhân và ngục tốt được cải thiện. Ngoài ra, tù nhân còn được gia đình tiếp tế tiền bạc, cho nên tù nhân có thể nhờ ngục tốt mua thức này thức nọ. Vì việc mua bán mà cả hai bên đều có lợi. Nghe đâu trong các trại cai thuốc phiện cũng có người vào bán đồ quốc cấm cho người nghiện nếu họ có tiền. Cuộc sống tù nhân và cai ngục cùng ngục tốt được cải thiện. Một số ngục tốt than thở cùng tù nhân:

-Trước đây, ngoài Bắc người ta nói rằng ở Xứ Đàng Trong nhân dân khổ lắm, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Thậm chí không có bát sành mà ăn phải ăn bốc hoặc bằng gáo dừa. Vì vậy, mà thân nhân ngoài Bắc vào thăm trong Nam đã mang bát sành, chiếu lác vào tặng bà con.

 Nhưng khi vào đến nơi, thấy trong Nam không ai ăn bát sành, đắp chiếu lác, nằm chõng tre mà nằm giường Hồng Kông, hoặc giường gỗ, đắp mệm êm, chăn ấm, ăn bát Tàu, đĩa Nhật, hoặc hàng sứ, hàng men Biên Hòa. Tôi thấy xứ Đàng Trong sung sướng quá. Còn xứ Đàng Ngoài vừa nghèo, vừa không tình cảm. Tôi đi lính năm năm chưa được về phép, mà vợ con chẳng ai vào thăm. Nếu muốn vào thăm thì cũng chẳng đào đâu ra tiền mà mua bánh trái, cá thịt cho chồng!

Được ít lâu, nhân lễ lục tuần khánh thọ của chúa Trịnh, một số tù nhân được thả ra, trong số đó có Vương Như Minh. Ông cho tôi biết những ngày cuối cùng trong tù, các tù nhân được các ngục tốt bày tỏ tình cảm tốt đẹp. Những ngục tốt này cho biết số phận họ hẩm hiu cho nên phải coi ngục, trong khi các bạn có vây cánh thì đã làm lớn, có cơ ngơi đình huỳnh. Họ than rằng họ cũng như các tù nhân phải sống trong ngục. Vì bổn phận bắt buộc mà họ phải nghiêm khắc và tàn ác đối với các tù nhân. Sự thực, trong thâm tâm, họ không muốn thế.

Họ cho biết rằng bây giờ họ khá hơn trước, được đổi về kinh đô, còn trước kia phải lảm cai tù trên miền rừng thiêng nước độc, quanh năm ốm đau bệnh tật, thật khốn khổ vô cùng. Bây giờ về kinh đô thì khá hơn nhưng sinh hoạt đắt đỏ, gạo châu củi quế, lương bổng thấp kém, không đủ nuôi vợ con. Họ chúc mừng các tù nhân được về sum họp gia đình. Và họ ngỏ ý xin chiếc áo, cái quần, đôi giày và những thực phẩm và đồ dùng cá nhân còn lại.

Các tù nhân nghe họ nói, thương tình cho mọi thứ, trừ bộ áo quần mặc trong người để mang về nhà. Vương Như Minh có chiếc áo ngự hàn, là kỷ vật của thời ông làm đội trưởng Thần Sách vệ ở Thăng Long. Tấm áo ấm này trong độn bông, ngoài bao gấm Thượng Hải màu xanh đậm, sau hai tay bị rách, vợ của Vương lấy vải xanh vá lại. Tên ngục tốt thường ngày trông nom phòng Vương, kể lể thân thế nghèo hèn, ngoài Bắc có cha già bảy mươi bênh tật và đói rét, ngỏ ý xin chiếc áo ngự hàn này để mang về tặng cha già. Vương thấy anh ta tử tế và có lòng hiếu thảo, bèn trao tặng chiếc áo ngự hàn này.


Tại kinh đô Thuận Hóa, khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân thì nảy sinh ra những hiện tượng kỳ lạ, khác trước. Dân chúng mặc áo vá, quần đụp. Những người đi bán xôi, bán cháo, bán bún bò, bán chè, bánh khoái , bánh bèo đông hơn nhiều. Các tiệm cơm, tiệm trà mọc như nấm. Đường phố biến thành chợ trời bán đủ mọi thứ như bàn ghế, mùng màn, áo quần, vải vóc, sách vở. . . Người Trung Hoa có óc kinh doanh đã thu mua các đồ cũ, mở thành một khu chợ cũ, bán mọi thứ trên đời như giày dép, quần áo,cày bừa, kìm búa, dao, mác, bàn ghế, bút, mực, giấy, sách học, truyện. . . Một hôm Vương Như Minh ra chợ cũ mua một ít vật dụng. Ông đi suốt buổi, qua một của hàng bán đồ ngự hàn, ông thấy chiếc áo gấm Thượng Hải của ông, một chiếc áo có vá ở hai tay, rất đặc biệt, không thể lầm lẫn, được treo trên cao cùng một số áo lạnh khác.


Khi trở về nhà, Vương Như Minh đã mang chứng bệnh ung thư. Phúc bất trùng lai. Ông có đứa con trai tuổi 18 bị bắt sung quân. Thằng con trai của ông tính tình ương ngạnh, thích kết bạn kết bè rong chơi phố phường. Cu cậu thường lấy trộm sách của bố đem bán chợ Trời. Tính tình như vậy mà bị bó buộc trong khuôn khổ trại lính, cu cậu không chịu được đã trốn trại nhiều lần, và sau cùng bị tụi chúng nó đánh chết mà bảo là thằng bé mang bệnh sốt cấp tính. Vương Như Minh phải lội suối băng đèo ra biên cương lãnh xác con. Phần thì bệnh ngày càng nặng, phần thương con, Vương mất lúc gần 70.


Vương có bạn thân là người đồng hương, xưa nay thường lui tới thân mật. Vương đã tính giao cho người bạn đồng hương này đứng lo tang lễ sau này. Nhưng giữa chừng Vương đổi ý. Vương giao du rất thân mật với các nhà báo là Trăng Thanh và Mưa Bão, là hai nhà báo đã cùng Vương bị tù về tội ủng hộ chúa Nguyễn. Hai ông này đã vận động một nhà từ thiện lo việc tống táng cho Vương, trong đó có việc mua cho Vương một áo quan. Vương giao tất cả tác phẩm của ông cho nhà báo Trăng Thanh để sau ông này lo việc tái bản, xuất bản.

Nhà báo Trăng Thanh vì quen nhiều nên đã tái xuất bản hai quyển truyện của Vương, thu tiền nhưng không chia cho vợ con của Vương đồng nào. Bà vợ của Vương gặp nhà báo Trăng Thanh xin lại các tác phẩm của Vương nhưng nhà báo Trăng Thanh từ chối. Bà Vương nhờ tôi đứng ra lấy lại, nhưng tôi không tiện nhận lời vì phải đi xa. Tôi bàn với một ông bạn già nhờ ông đứng ra đòi lại nhưng ông cũng từ chối vì biết rằng họ không bao giờ trả lại. Họ không trả mà họ nói đã trả hết, thế là mình chỉ làm bung xung cho họ, gánh tội cho kẻ gian. Tôi đem việc này bàn với gia đình Vương, và nói rằng e họ không trả hết, chỉ trả vài quyển lấy lệ. Gia đình Vương bảo tôi cứ đòi, được quyển nào hay quyển nấy.


Tôi biết người Việt Nam rất quý sách. Họ không thích mua mà thích mượn. Sách cho mượn hoặc là không trả lại, hoặc là bị xé mất những bài hay, đoạn hay. Tôi đã có kinh nghiệm này. Gia đình tôi ở đất Bắc trong thời Kiêu binh, dân chúng cũng hùa vào cướp phá. Những sách cổ như Tứ thư ngũ kinh hoặc Bách gia chư tử mất đi chẳng tiếc, chỉ tiếc là các văn thơ gia tiên bị mất. Tôi đã hỏi thăm nhiều nguồn tin và cũng đã van nài mà chẳng ai trả lại dù họ là anh em trong họ hàng của tôi. Tất cả đều nói là không biết gì cả.

Nay những tác phẩm của Vương do Vương ký tên giao quyền cho họ, đây là mối lợi, họ không nhả ra. Tôi biết làm việc này bất lợi cho mình, và mình có thể bị mang tiếng, nhưng tôi nghĩ thiện tâm là đủ, không cần tính toán. Cuối cùng, tôi phải gặp nhà báo Trăng Thanh đề nghị trả sách cho gia đình Vương. Gặp ông hai ba lần, ông chỉ giao lại một vài quyển, tôi bèn giao lại cho con gái Vương mang về. Sau khi nhà báo Trăng Thanh mất, mà tôi thì đã dấn bước sông hồ, chưa trở về chốn cũ, không hiểu các tác phẩm của Vương còn hay mất, hay đi về đâu.

   XVII. CƠN ĐẠI HỒNG THỦY

Buổi chiều, trên bờ sông, hoa xoan đã nở. Những đám mây hiện rõ và trôi lững lờ trên dòng sông. Đã mấy hôm nay, hình bóng của Mai hiện rõ trong tâm trí Long. Mai đã về quê ngoại mấy hôm rồi, khiến Long nhớ nhung mãi hoài. Cúc, cô hàng xóm , và cũng là cô bạn cùng trường của Long, bỗng đến ngồi cạnh Long:
-Sao trông anh buồn quá vậy? Anh nhớ Mai à? Anh có muốn đi chơi với em không?
Long bèn theo Cúc lên đồi sim vắng, rồi cả hai cùng ngồi xuống đám cỏ xanh. Cúc cần tay Long rồi ôm Long. Cả hai cùng nằm bên nhau suốt buổi chiều. Đến tối cả hai mới trở về. Nhưng từ ngày hôm đó trở đi, Long it khi gặp Cúc. Long mang tâm trạng chán chường vì người Cúc không thơm., không êm ái, và hai thân thể không có sự hòa hợp chặt chẽ như những lần bên Mai..

Mãy hôm sau, Long bỗng nhiên gặp lại Cúc tại chợ phiên. Cúc vui vẻ đi bên Long, và Cúc rủ Long đi chơi Suối Tiên. Khi cả hai đi ngang cửa hàng của một ông thầy bói, Cúc rủ Long vào xem bói. Long để cho Cúc vào xem một mình, còn chàng thì ngồi ở bên ngoài cửa. Xem xong, Cúc không trả tiền, nàng bảo thầy bói nói sai. Thái độ của Cúc làm Long vô cùng chán nản vì nàng quá bủn xỉn và cay nghiệt. Một cảm giác buồn nôn xâm chiếm Long khiến Long không còn muốn tiếp tục đi chơi với Cúc nữa. Chàng bảo nàng chàng cảm thấy đau đầu, muốn trở về, không đi chơi Suối Tíên nữa. Cúc có vẻ giận. Và từ đó, Long chấm dứt liên hệ tình cảm với Cúc. It lâu sau, Long kết hôn với Mai, và hai vợ chồng sinh được một trai, một gái. Tất cả sống trong một gia đình hạnh phúc cùng với cha mẹ ruột của Long.


Năm nay, nhân dịp năm ngưởi già thế giới, triều đình có chương trình y tế săn sóc người già. Tại thủ đô và vài nơi trong nước, bộ Y Dược đã xây dựng những cơ sở to lớn cho người già vốn là quan lại trong triều cho đến quan lại các quận huyện cùng thân nhân của họ. Triều đình cũng hứa hẹn sẽ xây dựng các cơ sở y tế cho người già thuộc diện nhân dân toàn quốc.

Chương trình tiếp theo là khám bệnh tổng quát cho người già từ 60 tuổi trở lên. Việc khám tổng quát này chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là các cựu quan lại trung ương cho đến quận huyện cùng gia đình của họ. Các lão nhân này đã tập trung tại các bệnh viện đặc biệt, và chỉ một vài ngày hoặc một tuần thì họ trở về với giấy chứng nhận sức khoẻ tối hảo. Giai đoạn thứ hai là cựu cán bộ xã thôn và dân chúng. Họ nhận được giấy gọi tập trung tại một số trường học và nhà thương. Các cụ ông tập trung một nơi, các cụ bà tập trung một nơi khác.

Tại trường tiểu học tỉnh lỵ, các ông già tập trung đông đảo. Có khoảng hai ba trăm người. Ai cũng tay xách, nách mang. Nào y phục, nào thực phẩm, thuốc men. Lệnh trên ban xuống mỗi người phải chuẩn bị lượng thực trong một tuần. Ông Năm gặp lại các bạn gìà nên ông rất vui vẻ. Gặp ông Bảo, cựu giáo viên, ông tiến đến chào hỏi thân mật:

-Bác gái đâu mà tôi không thấy?
-Bà nhà tôi được lệnh tập trung tại bệnh viện Đa khoa.
-Còn bà nhà ông thị tập trung ở đâu?
-Bà nhà tôi tập trung tại trường trung học gần nhà.
Ông Bảo cười nói vui vẻ:

-Tụi mình già cả hết rồi, không bệnh kia thì bệnh nọ. Triều đình ta nay chú trọng việc chăn sóc sức khoẻ cho người già, thật là đáng hoan nghênh hết sức. Từ xưa đến nay, từ đông sang tây, chưa có chính phủ nào lo mặt y tế cho người già chu đáo như triều đình ta nay.
Hai ông đang nói chuyện thì ông Lưu, bạn hàng xóm ông Bảo tiến đến, ba ông vui vẻ chào hỏi nhau.
Ông Lưu hỏi:
-Các ông có biết tụi mình phải tập trung bao lâu không?
-Khám sức khỏe thì chỉ vài ngày là cùng.
- Triều đình ra lệnh những người già từ 60 tuổi trở lên phải tập trung để kiểm tra sức khoẻ, và chỉ mang lương thực một tuần. Như vậy là chúng mình chỉ xa nhà một tuần thôi.


Ba ông chào hỏi nhau xong thì phân tán mỗi ông mỗi nơi vì ai cũng muốn tìm kiếm người quen để chào hỏi và hỏi tin tức. Các ông gặp khá nhiều người quen nhưng cũng không hỏi được tin tức gì mới lạ. Nhìn ra cổng trường thì họ thấy nhiều người trẻ dáng chừng là con cái những thân nhân đã đến tập trung tại trường. Họ không nỡ rời xa cha mẹ nên còn lẩn quẩn không bỏ về nhà. Họ tập trung khá đông đảo nên quan trên sai lính lệ đuổi họ về kẻo họ làm trở ngại lưu thông. Sau khi các bô lão đến đầy đủ , cửa trường đóng lại, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Trước cổng trườ ng, lính canh phòng nghiêm nhặt.


Khi các ông già đến địa điểm tập trung thì họ liền trình giấy gọi tập trung để các thư lại ghi tên vào sổ. Sau đó họ liền được gọi điểm danh, rồi nghe quan trên giảng dạy. Các quan cho biết triều đình chăm lo sức khỏe của người già nên từ nay những người già từ 60 trở lên được tập trung để khám sức khỏe. Những ai không có bệnh thì được chích ngừa, rồi về với gia đình. Còn ai có bệnh thì sẽ được ở lại chữa bệnh cho đến khi lành sẽ về . Ai không có gia đình thì ở lại trung tâm người già, và được triều đình chăm lo mọi mặt. Nghe quan lại giải thích, các bô lão đều tỏ ra hân hoan. Có người cảm động khóc sụt sịt như trẻ con.


Buổi trưa và chiều, ai nấy đều đem lương thực ra ăn. Đến tám, chín giờ tối, một số các cụ đã lăn ra nền gạch nằm ngủ. Bỗng mười một giờ đêm, mọi người được lệnh ra sân tập họp để đến địa điểm mới. Có khoảng mười xe, xe nào cũng kín mít như xe chở hàng hóa xuyên liên bang, hay như xe chở tù nhân. Mỗi xe ba chục người, ai lên sau phải đứng. Xe chạy ra ngoài thành phố. Càng đi xa, con đường càng trắc trở khó đi. Đi được gần một ngày thì biến cố xảy đến. Mọi người muốn đi tiêu, đi tiểu nhưng cảnh vệ không cho phép, tài xế phải chạy suốt, không được ngưng lại giữa đường. Vì vậy mà đa số ông già đã tiêu tiểu ngay trong xe. Xe đóng kín mít, không làn gió mát, không ánh sáng. Mùi mồ hôi, nay lại thêm mùu xú uế của tiểu và phân người.

Đâu đó có tiếng kêu:
-Có người té xỉu!
-Cấp cứu! Cấp cứu! Có người chết ngạt.
-Tài xế! Dừng xe! Có người đau tim!
Nhưng tài xế và lính lệ im lặng vì họ đã được chỉ thị trước là phải im lặng trong mọi tình huống. Cho đến sáng hôm sau, cả đoàn xe, và một số đoàn xe khác được phép tiến vào một thung lũng có khu trại rộng lớn, ở ngoài cổng có bảng đề năm chữ lớn “ Trại An Dưỡng Bồng Lai” . Đó là trại tù “Đại Gian ” nay đổi tên. Các tù nhân cũ đã được lệnh dờI đến một địa điểm khác nhường chỗ này cho các bô lão.


Khi bước xuống xe, một số lão nhân đã té xuống mà không đứng dậy được vì mấy ngày phải dứng trong xe, không có chỗ nhúc nhích. Họ không được ăn uống lại phải chịu cảnh hôi thối tồi tệ hơn trong một chuồng bò, chuồng ngựa. Một số bại liệt, các lính lệ phải khiêng xuống và đưa vào phòng y tế. Một số đã chết. Trong khoảng năm trăm trại viên mới đến đã có một trăm bại liệt và lâm bệnh trầm trọng, còn 50 trại viên chết trong xe khi di chuyển.

Người chết thì trại lập biên bản riêng rồi đem chôn trên đồi. Người bệnh nặng thì cho vào bệnh xá, còn những ai khoẻ thì vào trại. Trại có 8 dãy nhà, trước đây do tù nhân lợp để cho tù nhân ở. Mái lợp tranh. Mỗi dãy nhà cách nhau khoảng 10 thước, ở giữa có hàng rào tre che kín. Tám dãy nhà này là khu tù nhân. Trong mỗi nhà có giường gỗ hoặc giường tre, làm bằng các cây tre để nguyên ống. Các chân giường là những cây gỗ to bằng bắp chân. Ngoài ra cũng có những khu khác như khu nhà ban quản đốc, khi cảnh vệ, khu bệnh xá, khu lao động, khu ẩm thực, khu vật liệu và khu văn hóa gồm thư viện và hội trường.. Giữa khu này qua khu kia có cổng đóng kín và có lính lệ mang súng canh gác.


Sau khi vào trại, các lão nhân được tập trung ở hội trường để nghe chúa trại giảng giải chính sách của triều đình và nội quy của trại. Nội quy của trại gồm những điều sau:
1. Tất cả tiền bạc, đồng hồ, đồ kim khí, đồ vật quý phải trình nạp cho trung tâm cất giữ.
2. Sau khi ăn chiều xong, mọi người có quyền tắm rửa giải trí, hoặc tập thể thao..
3. Chín giờ tối, lên giường ngủ. Không được nói chuyện, hay đi lang thang..
4. Sáu giờ sáng các trại viên phải thức dậy, đánh răng, rửa mặt và ra sân tập thể dục tập thể.
5. Trong đêm muốn đi tiêu, đi tiểu phải xin phép tổ trưởng.
6. Cấm ngặt ăn cắp của trại, của quan lại và các người khác.
7.Nghiêm cấm mọi sự tranh cãi, ấu đả .
8. Cấm dâm dục
9.. Cấm hối lộ.
10. Mỗi phòng, mỗi khu đều có lính trông coi. Trại viên phải tuân lệnh tuyệt đối, không được cãi cọ hay hành hung người triều đình.
11. Ai làm trái nội quy, nhẹ thì bị nhốt từ một ngày đến một tháng, nặng hơn nữa thì bị biệt giam từ vài ngày đến vài tháng.. Nếu ai phao tin đồn nhảm hoậc có ý chống triều đình sẽ bị đưa lên tòa án xử phạt theo luật định, hoặc chúa trại cũng có thể chấp hành pháp luật trừng trị thẳng tay.


Viên chúa trại cho biết triều đình rất quan tâm đến sức khỏe của nhân dân, mà chú ý đặc biệt về sức khoẻ của người già. Người già thì suy yếu, nhiều bệnh tật nên triều đình phải tập trung để kiểm tra toàn diện. Ai không bệnh sẽ trở về, ai bệnh nhẹ thì ở lại một thời gian ngắn, ai bệnh nặng thì cần thời gian dài hơn. Sau khi lành bệnh, những ai không có gia đình hoặc muốn ở lại thì triều đình sẽ chấp thuận, vì triều đình luôn chăm lo đời sống của nhân dân, nhất là những nhân dân già cả. Viên chúa trại thuyết trình xong, hỏi ai có thắc mắc thì cứ hỏi.


Vì đường xa, quá mệt mỏi, it ai đưa ra thắc mắc hoặc tham dự cuộc tranh luận. Cuối cùng, các cụ chia thành tổ , rồi bầu tổ trưởng, tổ phó và được lính lệ dẫn vào các phòng. Lính lệ vào hướng dẫn cách sắp xếp đồ vật cá nhân, chỗ xếp quần áo, chân màn và chỗ nằm từng tổ. Sau khi các cụ vào trại, lính lệ kiểm soát lần nữa, rồi ra ngoài khóa cửa lại. Trong đêm, những ai muốn đi tiêu, đi tiểu thì phải kêu to, xưng tên, và nói rõ là xin đi tiêu hay đi tiểu. Khi tổ trưởng chấp thuận thì các trại viên mới được ngồi dậy đi vào một cái thùng đặt ở góc phòng.


Sáng ra, mọi người thức dậy từ sáu giờ sáng, đi tiêu, đi tiểu, đánh răng, súc miệng, rửa mặt và tập thể dục trong phòng. Tổ trưởng cử ngưởi đổ thùng phân và nước tiểu và quét dọn phòng. Khoảng 7 giờ, mọi ngưới ăn sáng rồi đi lao động. Nhóm mộc thì cưa đẽo, đục, lo đóng bàn ghế. Nhóm canh nông thì xúc phân, đổ nước tiểu và trồng lúa, khoai, sắn.

Nhóm lâm sản đi săn bắn và hái củi. Mỗi trại viên ngày ăn ba bữa, mỗi bữa không đầy một bát cơm. Bữa ăn thường là cơm độn khoai sắn hay bắp. Thức ăn là một món canh và một món kho hay xào. Canh thường là rau muống.

Mỗi nồi canh nấu cho trăm người, gồm rau muống để nguyên, không cắt, không chẻ, không loại bỏ rau già, chỉ rửa sơ sài, nấu với một con gà hay hai ba ký xương bò, xương heo. Món xào thường là rau muống xào thịt bò hay thịt heo, món mặn thường là cá hay thịt kho với bầu bí, cà chua, cà dái dê. Rau muống, bầu bí hoặc cà chua đều là trại viên trồng trong trại. Mỗi trại viên nói chung là được vài muỗng canh, một lát thịt hay một miếng cá kho nhỏ. Phần lớn các cụ không ăn nổi, Mỗi tuần, các trại viên mỗi phòng thực hiện việc kiểm điểm hàng tuần.

 Cụ Lâm là một thương gia ở kinh đô thắc mắc:
-Tại sao triều đình lại đối xử với chúng tôi như tù nhân?
Viên phó chúa trại tuổi khoảng ba mươi giải thích:
-Đây không phải là trại tù mà là trường học. Các anh xưa nay sống cá thể, nay các anh phải làm cuộc cách mạng, phải sống một đời mới của tập thể nghĩa là mọi người cùng làm, cùng ăn và cùng ngủ. Có sống cuộc sống tập thể thì mới tiến lên đại đồng, không còn phân chia giai cấp, không còn biên cương quốc gia, mọi người trên toàn cầu là anh em một nhà.

Viên trưởng ban chính trị, tuổi khoảng bốn mươi, lên tiếng giảng dạy:
- Các anh đã già không nên ăn nhiều mà phải ăn theo quy định y tế để đảm bảo sức khỏe. Các anh lại phải lao động vì lao động là vinh quang, lao động là luyện tập cơ thể. Tất cả các anh hiện nay đang được triều định giáo dục và bồi dưỡng. Các anh phải cố gắng học tập tốt, cố gắng lao động tốt để khỏi phụ tấm lòng đại nhân, đại nghĩa của hoàng thượng và triều đình!
Cụ Nhân, một cai đội hưu lên tiếng:
-Tại sao không kiểm tra trong thành phố mà phải vào nơi rừng núi hoang vu?
Viên chúa trại trả lời:
-Ngày nay, quả địa cẩu nóng lên và sinh ra nhiều bệnh dịch. Triều đình ta biết trước việc này nên phải đưa các anh lên chốn núi rừng để tâm hồn các anh được thanh tĩnh, đồng thời tránh sự lây lan trong dân chúng.
Y sĩ Nho hỏi:
-Tại sao chuyên chở chúng tôi như chuyên chở súc vật, không cho chúng tôi ăn uống, nghỉ ngơi, và đi tiêu, đi tiểu?
Viên phó chúa trại trả lời:
- Triều đình ta có nhiệt tình săn sóc sức khoẻ cho nhân dân nhưng vì thiếu phương tiện nên bọn các anh phải ngồi chật. Việc xe chạy liên tục là để tránh chậm trễ, triều đình săn sóc các anh nên muốn đưa các anh mau đến nơi an dưỡng.Tất cả là do lòng yêu nước và yêu nhân dân của hoàng thượng và triều đình..
Cụ Văn là một giáo viên xin hỏi:
-Triều đình ra lệnh tập trung một tuần sao đã mấy tháng qua, chúng tôi chưa được về mà còn phải lao động như tù nhân, như nô lệ? Triều đình nói kiểm tra sức khoẻ mà đến nay chúng tôi vẫn không thấy bóng y sĩ hay y tá đâu cả. Xin các quan lớn giải thích rõ ràng, đừng lừa dối nhân dân.

Viên chúa trại trả lời:
-Triều đình ra lệnh các anh mang lương thực một tuần chứ không nói các anh chỉ đi một tuần. Hiện nay, trung tâm chưa thực hiện được việc khám tổng quát là vì thiếu y sĩ. Các anh phải chờ đợi một thời gian nữa!
Tuy các quan đã bào chữa và cố gắng thuyết phục nhưng một số các cụ vẫn phản đối. Cụ Vân là một đại thương gia, luôn sống trong cảnh phú túc, không chịu nỗi cư cực. Và cụ Minh, một luật sư không chấp nhận hành động phi pháp của triều đình, quyết tâm tuyệt thực. Hai cụ còn vận động một số bạn già tuyệt thực tập thể. Chúa trại cho gọi mấy ngườI này lên văn phòng, và khuyến dụ họ, song họ không chịu. Cụ Vân nói:
-Chúng tôi không phạm tộI, tại sao đối xử như tù nhân? Dù chúng tôi phạm tộI gì, chúng tôi phải được pháp luật triều đình xét xử công minh.

Cụ Minh phát biểu:
Không thể đưa chúng tôi vào rừng sâu bỏ cho chết đói như thế này. Yêu cầu triều đình phải đối xử công bằng và nhân đạo với nhân dân.
Viên chúa trại tức giận, đập bàn quát lớn:
-Chúng bay là những thằng già vô ích, không sản xuất, không làm gì có ich lợi cho nhân dân, cho đất nước. Giết sạch chúng bay hàng triệu đứa thì triều đình thu lợI hàng triệu, hàng ức lạng vàng hàng năm. Chúng bay cũng gần kề miệng lỗ, chết sớm vài năm thì cũng tốt thôi. Nuôi chúng bay chỉ tổn hại cơm gạo. Đáng lẽ chúng tao cho chúng bay chết đói từ ngày đầu tiên vào đây, nhưng chúng tao còn chờ lệnh trên. Chúng bây là những tử tộI sắp lên đoạn đầu đài mà không biết thân còn biểu tình, tranh đấu với tuyệt thực!


Sau khi la mắng xong, viên chúa trại ra lệnh đem các cụ giam tại khu biệt giam (khu này còn gọi là khu kiên giam). Khu biệt giam là một hòn đảo giữa một cái hồ rộng nuôi cá sấu. Có một cái cầu bắc từ trong bờ ra khu kiên giam. Khu kiên giam là một gò đất, là một cái nhà hay cái chuồng làm bằng gỗ, trên lợp tôn, xung quanh có lứới sắt bao bọc. Có hai tầng, cách biệt nhau bằng những thân cây đóng khít nhau.Mỗi tầng co hai hay ba phòng, mỗi phòng có thể nhốt một hai người. Các trại viên bị kỷ luật thì bị xiềng xích chân tay, mỗi ngày chỉ được ăn một bữa.. Những ai đã vào đây khoảng hai tuần cho đến một tháng đều chết hết. Nhưng ở tầng trên thì thoải mái hơn.


Đến tháng bảy âm lịch, tại miền Bắc là mùa mua lũ. Cơn mưa càng ngày càng dâng nước lên cao khiến các trại viên phải ở nhà không đi lao động được. Đêm đến như thường lệ, các thầy đội ra lệnh nhốt các trại viên vào phòng và khóa trái cửa bên ngoài. Khoảng nửa đêm, chúa trại ra lệnh tập họp các thầy cai, thầy đội và lính lệ mang hành lý ra bên ngoài trại. Tại đây có xe lớn, xe con đợi sẵn. Họ lặng lẽ lên xe đến một nơi khác, bỏ mặc sau lưng đám người già sắp bị chết đuối.
Nước dâng mỗi lúc một cao, nước đã vào phòng ngủ của trại. Các cụ hoảng hốt kêu gọi nhau:
-Nước lụt các bác ơi! Nước lụt ngập trại!
-Dậy mau! Dậy mau!
- Các thầy cai, thầy đội ơi ! Mở cửa! Mở cửa! Cứu chúng tôi!
-Người ta giết chúng tôi! Xin TrờI Phật phù hộ chúng tôi!
-Lạy Quan Thế âm bồ tát! Xin bồ tát cứu khổ, cứu nạn chúng con!.
-Lạy chúa! Xin cứu vớt chúng con!


Trong trại toàn là tiếng kêu than, nguyền rủa. Một vài cụ khoẻ mạnh đã leo được lên mái nhà hoặc chạy ra ngoài. Những ai chạy ra ngoài liền bị nước cuốn trôi đi ra sông, ra biển.


Trận lụt năm này đã làm cho núi rừng ngập lụt. Nước từ núi cao chảy về. Nước từ biển cả dâng lên. Hàng vạn dân chúng miền núi và miền xuôi bị trôi ra biển. Triều đình thông báo trận lụt đã cuốn trôi một số đông quan lại bộ Y, quan quân, và giết hàng vạn các lão nhân tại các trung tâm an dưỡng toàn quốc. Việc này đã gây ra một phản ứng dữ dội trong toàn quốc. Những ai có cha mẹ thiệt mạng trong trận bão lụt đã lên tiếng chỉ trích chính sách vô trách nhiệm của triều đình. Có kẻ gửi thư lên vua, có kẻ viết thư cho Đô ngự sử hoặc phủ huyện kêu oan, có người viết cáo thị dán khắp nơi kêu gọi dân chúng lên tiếng phản kháng.. Vua quan tức giận, cho họ là phản động nên ra lệnh bắt giam họ hoặc sa thải họ.

Thân phụ của Long nhờ bám vào một thân cây cho nên trôi vào một bờ sông. Cụ được một ngườI chài lướI vớt được đưa vào nhà cấp cứu và nuôi dưỡng. Sau vài bữa, cụ tỉnh lại, cụ thuật mọI việc cho ngườI thuyền chài nghe. Sau vài ngày, ngườI chài này dùng thuyền âm thầm đưa cụ về làng cũ. Chờ nửa đêm khuya vắng, ông dắt cụ về nhà. Nửa đêm, nghe tiếng gõ cửa, mọi người trong nhà Long lo lắng vì sợ lính lệ hay tuần phu đến xét nhà. Khi thấy một ngườI lạ dẫn bố mình về, Long vô cùng ngạc nhiên và vui sướng. Long mờI khách vào nhà ngỏ lờI cảm tạ. Long đem tiền bạc biếu người thuyền chài nhưng ông ta từ chối. Ông xin phép về ngay vì ở lại lâu bất tiện.

Sau khi khách ra về, Long hỏi bố mọi việc, Long mới biết bố mình đã thoát hai đại nạn. Long dặn mọi người trong nhà không được tiết lộ bí mật. Mẹ Long cũng đã đi trình diện thế là đã chết trong cơn đại hồng thủy. Long thương xót mẹ già. Long giấu bố trong chuồng heo. Chuồng heo nhà Long khá lớn, có hai phần. Một phần nuôi heo, còn phần bên cạnh để chứa dụng cụ và đồ cũ. Long đào một hầm bí mật tại đây, xây gạch đá vững chắc. Một tấm gỗ làm cửa, trên phủ rơm. Khi làm xong hầm, Long đưa bố vào ẩn lánh trong này. Hàng đêm, đích thân Long đưa cơm nước cho bố.


Mỗi buổi chiều, các cô gái thường ra sông giặt quần áo. Cúc thường gặp Lan, Hạnh, Hường và Hoa. Giặt quần áo xong, Cúc thường ngồi trên tảng đá trên bến chuyện trò với các bạn gái.
Hạnh nói:
-Con Mai xấu thế mà được anh Long yêu và cưới làm vợ! Số phận chúng mình thật thua kém!
Hoa nói:
- Vợ chồng là do duyên phận, so sánh làm chi cho mệt!
Cúc mang những thư trong túi ra khoe cùng bè bạn:
-Nhiều chàng trai làng và ngoài tỉnh gửi thư cho tao mà tao không chưa yêu ai cả! Trước khi cưới Mai, Long đã cầu hôn tao mà tao không chịu. Nay Long đã cưới Mai mà Long vẫn chạy theo van nài ban phát chút tình yêu! Anh chàng thật trơ trẽn!


Ban đêm, Cúc thường nhìn sang nhà Long, thấy cảnh Long âu yếm Mai mà lòng nàng tức giận vô cùng. Nhà Long và nhà Cúc cách nhau một hàng rào dâm bụt. Nhiều đêm, Cúc bò qua hàng rào sang nhà Long nhìn vào phòng vợ chồng Long. Trong khi vợ chồng Long ngủ say, Cúc đứng thẩn thờ lòng đầy uất hận. Bỗng một đêm, Cúc thấy Long mở cửa ra sau vườn, tay mang một thúng nặng. Cúc đi theo và thấy Long vào chuồng heo. Cúc tính liều xông ra ôm đại Long. Nhưng Cúc thấy Long nâng tấm ván và chui vào một hầm bí mật. Cúc biết Long có sự bí mật. Long giấu một kho tàng ư? Hay Long giấu một tên cướp? Hay Long nấu rượu lậu?

Theo dõi một thờI gian, Cúc thấy đêm nào Long cũng vào chuồng heo và bưng theo một cái thúng vào. Cúc bèn bỏ thư rơi cho viên lý trưởng, báo cho biết có tên cướp ẩn náu trong chuồng heo nhà Long. Đêm đến, viên lý trưởng bèn đem tuần phu vây nhà Long và bắt được thân phụ Long và giải lên huyện. Quan huyện kết tội bố Long trốn trại, và Long chấp chứa phản động. Bố Long bị đày ra đảo, ít lâu sau rồi chết. Còn gia đình Long bị đuổi ra khỏi làng, phải lên tập trung sản xuất tại rừng núi xa xăm, mà sau cũng không ai biết tông tích.


Trong thời gian nước Đại Lạc bị cơn hồng thủy, mấy chiếc tàu quốc tế nghiên cứu môi trường đại dương có mặt ngoài biển. Họ đã vớt được một số nạn nhân của cơn hồng thủy. Những người trẻ thì sau vài ngày chữa trị , họ đưa vào bờ . Còn những lão nhân thuộc các trung tâm An Dưỡng, thì được đưa về trung tâm y tế thế giới. Sau một thời gian trị bệnh, các cụ tỉnh lại và tường thuật lại những sự thực tại các trung tâm an dưỡng. Sau đó, hội Bảo vệ nhân quyền, hội bảo vệ người già cùng nhau nghiên cứu và đi đến những khám phá mới về các chính sách của triều đình Đại Lạc quốc. Họ kết luận:


Trung tâm an dưỡng sự thực là những lò sát sanh. Họ theo đường lối cách mạng đỏ là đường lối duy vật vô nhân đạo nhằm đối phó nạn nghèo đói. Chính sách này có những điểm sau:
-Không nuôi nấng, không chữa bệnh cho người già từ 60 tuổi trở lên, mà phải giết họ đem bón cây để khỏi hao tốn tài nguyên quốc gia.

-Không cho thanh niên nam nữ kém sức khỏe được kết hôn và sinh đẻ. Nếu không giết thì phải thiến hoặc hoạn những người này.
-Trẻ con đẻ non, yếu đuối bệnh tật thì giết đi đem bón phân hay làm thực phẩm gia súc
-Mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh được một đứa con.
-Những người tự tử thì không được cứu chữa, để cho họ chết theo ý nguyện. .
-Tất cả thuốc men và phương tiện ưu tiên phục vụ quan lại triều đình vì triều đình là người tổ chức mọi thắng lợi cho tổ quốc..
-Không cứu chữa những người không có tiền trả viện phí.


-Những người chết không được chôn xuống đất, đất để sản xuất chứ không dùng để chôn người chết. Những người chết phải đem thiêu, lấy tro bón cây.
-Những nhà dưỡng lão, viện tế bần, nhà thương của chế độ cũ là tàn tích phong kiến và thực dân, phải triệt tiêu hoàn toàn bằng cách giao cho các nước bạn xử lý thích đáng..


Sau khi nghe tin tức của hội Nhân quyền, dân chúng khắp nơi phẫn nộ, kết tội vua quan vô nhân đạo, là một lũ quỷ sống, phạm tội diệt chủng. Triều đình ra thông báo phủ nhận tin tức trên, cho rằng tin trên là hoàn toàn thất thiệt, do bọn địch có dụng tâm đánh phá triều đình ta.