27 April, 2011 15:59
Đầu
xuân năm 1998, ông Vũ Kỳ, người hầu cận
của Hồ chí Minh, tung ra bài viết “ Bác Hồ với tết
Mậu Thân năm ấy “ trên một số tờ báo như
báo Văn Nghệ, Tiền Phong, Nghệ An, trong đó Vũ
Kỳ hé mở có chuyện bất thường trong chuyến
bay ban đêm ngày 23 tháng 12 năm
1967.
Bài báo có đoạn viết,” Bây giờ tối thứ bảy
, ngày 23 tháng 12 ,máy bay đưa Bác đến vùng trời Hà
nội . Lượn hai vòng vẫn chưa hạ cánh được
vì đèn chỉ huy trên sân bay chệch 15 độ. Đồng
chí lái giàu kinh nghiệm quyết tâm hạ cánh không theo đèn.
Rất may là an toàn. Các đồng chí Lê Duẩn, Phạm văn
Đồng, Lê đức Thọ ra đón Bác tại sân bay,
đưa Bác về nhà và báo cáo công việc với Bác “
Thật ra đọc đoạn
văn trên cũng không ai hình dung ra được một âm
mưu giết Hồ chí Minh bằng tai nạn phi cơ đã
xảy ra nhưng không thành công.
Sau này có bài nói chuyện của nhà
văn Sơn Tùng ngày 27 tháng 4 năm 2001 tại trường
Cán bộ quản lý giáo dục đào tạo, trong đó ông
Sơn Tùng kể lại chi tiết bí ẩn của chuyến
bay trên và người ta có thể đưa đến kết
luận là có âm mưu của bọn đàn em muốn dùng
tai nạn phi cơ để giết Hồ chí Minh
Nên nhớ chuyến bay chỉ có 3
người: viên phi công, ông Vũ Kỳ và Hồ chí Minh. Sơn
Tùng kể rõ mẫu đối thoại giưã ông Vũ Kỳ
và người phi công hốt hoảng khi đèn hiệu trên
sân bay chệch hướng 15 độ nên không thể đáp
bằng cách nhìn đèn hiệu. Và không thể liên lạc với
bên dưới sân bay bằng vô tuyến vì bị cắt đứt.
Có lẽ ông Sơn Tùng có dịp nói chuyện với ông Vũ
Kỳ và được ông Vũ Kỳ kể lại chi tiết
chuyến bay. Vì ông Sơn Tùng chắc cũng không biết người
phi công ấy sau này ở đâu và chắc chắn Sơn Tùng
cũng không có cơ hội nói chuyện với Hồ chí
Minh về chuyến bay khó hiểu này. Xin đọc kỹ
bài bên dưới để thấy Sơn Tùng khéo léo tố
cáo âm mưu bọn đàn em dùng tai nạn phi cơ để
giết Hồ chí Minh.
Vũ Kỳ cũng như Sơn
Tùng đều muốn tố cáo ra âm mưu giết Hồ
chí Minh bằng tai nạn phi cơ , nhưng vì còn sống
trong chế độ Cộng sản , hai ông không thể nói
toạc móng heo ra mà chỉ cung cấp chi tiết trục trặc
khó hiểu của chuyến bay và dành sự kết luận
cho người đọc. Đó là một cách viết khôn
ngoan nhằm chuyển tải bí mật động trời
trên báo chí công khai của chế độ Cộng sản
Việt Nam.
Sơn Tùng được đánh
giá là “ nhà Hồ chí Minh học “ chuyên nghiên cứu về Hồ
chí Minh và đã có nhiều mặt sách viết về Hồ
chí Minh. Nói là nghiên cứu chứ thật ra Sơn Tùng là một
người đi tìm những mẫu chuyện thuộc loại
huyền thoại để “ thần thánh hoá “ Hồ chí
Minh.
Chuyện Sơn Tùng phỏng vấn
cựu Đại tá Cao Nham nói đến chuyện Lê Duẩn
xin Hồ đánh trận Mậu Thân, nếu không thành công
thì xin từ chức xem ra không đáng tin lắm. Vì đến
thời kỳ Mậu Thân thì Lê Duẩn coi như tước
hết quyền lực của Hồ chí Minh rồi, bởi
vậy mới có chuyện Lê Duẩn và Lê đức Thọ tống cổ Võ nguyên Giáp sang
Hunggary từ năm 1967 ( với lối giải thích ngoại
giao là cho Giáp đi chữa bệnh !) và đưa Hồ qua
Bắc Kinh ngồi chầu rìa trong tết Mậu Thân. Duẩn
coi như nắm hết quyền lực rồi cho nên chuyện
xin xỏ Hồ để đánh trận Mậu Thân là chuyện
khó có thể xảy ra.
Không giết được Hồ
bằng tai nạn phi cơ năm 1967, bọn Lê Duẩn , Lê
đức Thọ quyết định dùng thuốc độc
giết Hồ năm
1969 bằng
một kịch bản khéo léo nhằm che mắt thế
gian. Đó là sự tiết lộ của các bác sĩ Hà Nội
trong một bài viết nhan đề “ Một nghiên cứu
khoa học về Hồ chí Minh” gửi đi từ Hà Nội
ra hải ngoại vài tháng trước đây, ( Xin mời vào
www.nsvietnam..com bấm
vào tên Trần viết Đại Hưng, rồi bấm vào
bài số 120) Nhửng bạo chúa bị đàn em giết vào
lúc cuối đời ) để đọc bài nghiên cứu
giá trị này). Các bác sĩ căn cứ trên những kiến
thức y khoa dể đi đến kết luận là Hồ
chí Minh bị đầu độc chết chứ không chết
vì bệnh hoạn tuổi già.
Phải nói hai nhân vật bị
tình nghi tạo dựng kịch bản tai nạn phi cơ cũng
như y khoa trị bệnh để giết Hồ chí Minh
là Lê Duẩn và Lê đức Thọ vì đã có nhiều chuyện
kể lại ghi nhận hai nhân vật này tỏ ra coi thường
và khinh bỉ Hồ. Trong khi ba nhân vật Trường
Chinh, Phạm văn Đồng và Võ nguyên Giáp không bị coi
là nghi can trong chuyện giết Hồ.
Đơì đúng là một vở
kịch và những người trên sân khấu là những diễn
viên . Hãy nhìn Lê Duẩn khóc lóc thảm thiết như cha chết
trong đám tang của Hồ chí Minh thì có ai ngờ rằng
chính Lê Duẩn là chính phạm trong chuyện giết Hồ
chí Minh và Lê đức Thọ là tòng phạm.
Ngày chết của Hồ chí Minh(
2/9 / 1969) trùng với ngày quốc
khánh có thể không phải là sự ngẫu nhiên. Khi biết
bọn đàn em gian ác quyết tâm giết mình bằng thuốc
độc nên Hồ chí Minh, bằng một cách nào đó,
quyết tâm chết đúng ngày 2 tháng 9 để gây sự
bẽ bàng khó xử cho bọn giết ông. Đây là cú chơi
khăm cuối đời nhắm vào những kẻ ám hại
ông. Ông đã tiên liệu đúng vì bọn đàn em công bố sai ngày ông qua đời là 3 tháng 9
thay vì 2 tháng 9 bởi chúng lúng túng
về việc tổ chức tang lễ cho chủ tịch
nước như ông ( quốc tang) vào ngày quốc khánh! Sau
này vì có sự lên tiếng của nhiều nhân chứng, chế
độ Cộng sản mới “ cho “ Hồ chí Minh chết
đúng ngày 2 tháng 9 là ngày chết đích thực của ông.
Sơn Tùng nói đến 10 nỗi
đau của Hồ chí Minh do Hoàng Tùng công bố trong cuốn
sách của ông nhưng chỉ công bố được có 8
nỗi đau , dấu đi 2 nỗi đau của Hồ.
Cũng xin nói thêm là cuốn sách của Hoàng Tùng viết về
Hồ chí Minh này mới xuất bản là bị tịch thu
ngay. Thật ra muốn biết nỗi đau sâu kín của
Hồ thì phải đọc chúc thư thống thiết của
Hồ viết ngày 14 tháng 8 năm 1969 và sau đó được
báo Con Ong ở Pháp và Thức Tỉnh ở Mỹ công bố
vào thập niên 1980. ( Xin vào www.nsvietnam.com
, bấm vào tên Trần viết
Đại Hưng rồi bấm vào bài số 114) Một cách
lý giải về chuyện Hồ chí Minh bị mất quyền
lực lúc cuối đời). Nên nhớ đây là di chúc viết
tay chứ một bản văn đánh máy cũng khó thuyết
phục thiêh hạ rằng đó là di chúc của Hổ chí
Minh. Những ai còn nghi ngờ xin lấy chữ viết của
di chúc này đem tới một văn phòng kiểm tự
chuyên nghiệp để so sánh với nét chữ của di chúc
Hồ chí Minh để lại cho chế độ Hà nội
để tìm ra sự thật.
Lịch sử nghề gián điệp
cũng như văn học đã cho thấy chưa có trường
hợp nào giả chữ viết thành công. Chuyện giả
chữ viết chỉ qua mặt đuợc người
thường chứ không qua mặt được nhân viên
kiểm tự chuyên nghiệp. Chữ viết cũng như
dấu tay, không bao giờ có thể lẫn lộn người
này với người khác được. Điều đó
cho thấy di chúc Hồ chí Minh viết ngày 14/8/ 1969 là di chúc
thật. Có đọc bản di chúc này thì mới thấy nỗi
đau sâu kín, tức tưởi cuả Hồ. Ai cũng nghĩ
rằng ông có quyền lực ghê gớm lắm nhưng ông
bị bọn đàn em tước hết quyền hành và
cho Bác sĩ Tôn thất Tùng chích thuốc độc từ từ
cho chết dần chết mòn một cách thê thảm. Ông cũng
nói rõ Lê Duẩn và Trần quốc Hoàn đến gặp ông
và yêu cầu ông viết di chúc theo ý của chúng. Sở dĩ
ông bị hạ bệ như vậy vì ông phạm tội
toan bắt tay với Tổng thống Ngô đình Diệm ở
miền Nam năm 1963. Ngô đình Diệm cũng bị giết
vì âm mưu bắt tay này với Hồ chí Minh.
Sơn Tùng ca tụng thái độ
cầu hiền của Hồ
chí Minh khi Hồ chí Minh ôm hôn thắm
thiết cụ Huỳnh thúc Kháng
từ Trung ra Hà nội hợp tác trong chính phủ Liên Hiệp
mà Hồ là chủ tịch và nói, “ Cụ ra đây là an dân lạc
quốc” . Đó là thái độ niềm nở lúc ban đầu
gặp gỡ thế thôi chứ sau này Hồ chí Minh để
cụ Huỳnh thúc Kháng chầu
rià, ngồi chơi xơi nước và không giao công việc gì cụ thâể
cả. Cái ưu điểm cầu
hiền mà Sơn Tùng nêu ra để ca tụng Hồ chí
Minh chỉ là cái giả dối trong trường chính trị
của Hồ mà thôi chứ Hồ chí Minh không có tốt lòng,
tốt bụng chi cả.
Năm 1952 bạo chúa Mao trạch Đông
của Trung Cộng và đồ tể Stalin của Liên xô gọi
người học trò nhỏ Hồ chí Minh sang, chỉ thị
bắt buộc là phải tiến hành cuộc cải cách ruộng
đất. Hồ chí Minh thi hành lệnh của hai quan thầy
kính yếu và cuộc cải cách ruộng đất long trời
lở đất được tiến hành, giết hại
cả trăm ngàn người dân Việt vô tội từ
tháng 12/1953 đến tháng 7/1956. Vào giai đoạn cuối
của cuộc cải cách thì có sự cố nhân dân nổi
loạn ở Quỳnh Lưu , Nghệ Tĩnh để chống
lại. Sau dó mới có trò hề khóc lóc xin lỗi của Hồ
chí Minh, Đại tướng Võ nguyên Giáp ra sân vận động
Hàng Đẫy đọc bài xin lổi nhân dân, Hồ chí
Minh đưa Giáp ra đọc lời xin lỗi với dụng
ý là lấy cái hào quang chiến thắng Điện Biên Phủ
để vuốt ve sự phẫn nộ đang dâng trào của
toàn dân vì sự giết chóc kinh hoàng . Nước Việt
Nam từ thời lập quốc chưa có thời kỳ nào
tàn bạo, độc ác như thời kỳ này. Với cương
vị chủ tịch nước, chắc chắn bàn tay Hồ
chí Minh có nhuốm máu nạn nhân cải cách ruộng đất.
Sau này người ta còn tìm được trong thư khố
Nga lá thư bằng tiếng Nga Hồ chí Minh gửi cho
Stalin báo cáo về tình hình cải cách ruộng đất. Trường
Chinh là tổng bí thư trong thời kỳ cải cách ruộng
đất và cũng có bàn tay nhuốm máu nạn nhân cải
cách. Trường Chinh bị hạ bệ sau cải cách ruộng
đất nhưng sau đó được bổ làm chủ
tịch quốc hội một thời gian dài. Sau khi Tổng
bí thư Lê Duẩn qua đời, Trường Chinh lên làm Tổng
bí thư dự khuyết một thời gian và sau đó bị
Lê đức Thọ cho người đến nhà giết
chết vì ghen tức và tranh giành quyền lực. ( theo sự
ghi nhận của nhà văn Vũ thư Hiên trong hồi ký
“ Đêm giữa ban ngày” ). Trường Chinh cũng đã chết
một cái chết đau đớn, thảm khốc y như
những nạn nhân cải cách ruộng đất do ông lãnh
nhiệm vụ thi hành. Âu đó là định luật nhân quả,
vay trả của trời đất !
Chuyện Hồ chí Minh khóc lóc xin lỗi
có thể vì hối hận đã giết nhiều người
vô tội mà cũng có thể là một biện pháp vuốt
ve của một nhà chính trị gian hùng bá đạo để
làm lắng dịu sự phẫn nộ đang trào dâng của đồng bào có thể đưa
đến sự bất ổn chính trị không hay cho chế
độ cầm quyền.
Chuyện Sơn Tùng trình bày trong bài
viếr mô tả Hồ chí Minh
miễn cuỡng không muốn làm cải cách là chuyện bênh
vực cho Hồ chí Minh một cách không bằng chứng. Nếu
có lòng thương dân sâu xa thì không bao giờ Hồ chí Minh
nghe lời hai tên đồ tể ngoại bang Mao và Stalin để
tiến hành cuộc cải cách ruộng đất đẫm
máu có một không hai trong lịch sử giết hại hàng
trăm ngàn đồng bào ruột thịt của mình. Con người
Hồ chí Minh thực sự không thánh thiện , nhân ái như
Sơn Tùng cảm nhận. Sơn Tùng rõ ràng không thành công
trong chuyện bênh vực tội ác của Hồ chí Minh
trong vụ cải cách ruộng đất. Sơn Tùng thuộc
loại viết lách “ phong thánh “ cho Hồ chí Minh. Chuyện
gì tốt đẹp của Hồ chí Minh thì ca tụng tối
đa, chuyện gì độc ác, xấu xa không hay thì tìm đủ lý do bào chữa
bao biện cho khuyết điểm cuả “ ông thánh “ Hồ
chí Minh, Sơn Tùng không có được phong cách viết sử
của những sử gia ở những nuớc tự do”
, họ phê phán ưu khuyết điểm của nhân vật
lịch sử một cách công minh và công bằng, không thiên vị.
Chuyện hai bài thơ Hồ chí
Minh làm lúc 5 tuổi mà Sơn Tùng lấy được từ
anh của Hồ chí Minh cũng là một cách ‘ thần thánh
hoá’ con người siêu đẳng Hồ chí Minh mà thôi.
Giết người
rồi vuốt ve, xin lỗi vốn là ngón nghề sở trường
của người Cộng sản mà Hồ chí Minh là bậc
tổ sư về ngón nghề tàn nhẫn, độc ác này.
Sơn Tùng nói đến cái đau của Hồ
chí Minh khi cố vấn Tàu đem bắn bà địa chủ
Nguyễn thị Năm, vốn là một ân nhân của kháng
chiến. Với cương vị là chủ tịch Đảng
và chủ tịch nước nhưng hầu như Hồ
chí Minh không có quyền gì cả. Ông không đồng ý bắn
bà Nguyễn thị Năm nhưng ông không có biện pháp nào
ngăn chận cả cho đến khi bà Nguyễn thị
Năm bị hành hình. Thế thì bao nhiêu xuơng máu dân đổ
ra để giành độc lập nhưng chẳng thấy
độc lập ở đâu dù đã đánh thắng Pháp
ở Điện Biên Phủ. . Chủ tịch nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà Hồ chí Minh đành ngồi nhìn cố
vấn Tàu đem người ân nhân kháng chiến , con dân nước
Việt Nguyễn thị Năm ra bắn mà không can thiệp
được gì sao ?Hồ chí minh thực sự không có quyền
hay không muốn can thiệp ? Hồ
chí Minh đúng là không phải
loại người thần thánh siêu việt,quyền lực
tuyệt đối như nhà văn Sơn Tùng vẫn thêu dệt
, tưởng tượng . Ngay cả chuyện Hồ chí
Minh khóc lóc ân hận sau cải cách ruộng đất cũng
chỉ là một huyền thoại vì không ai chứng minh Hồ
khóc ở đâu và khóc lúc nào. Có lẽ guồng máy tuyên truyền
phổ biến huyền thoại khóc này để xoa dịu
sự thù hận đau khổ của các nạn nhân cải
cách ruộng đất.
Trí trá, gian ngoan đã trở thành
bản chất của con người gian hùng Hồ chí
Minh. Những nỗi đau của Hồ chí Minh mà Hoàng Tùng
và Sơn Tùng kể ra không biết có thật hay không nữa
hay đó chỉ là những thủ đoạn chính trị
của tay ma đầu chính trị quỷ quyệt Hồ
chí Minh. Thật không thể nào biết rõ đâu là nỗi đau
thật , đâu là nỗi đau giả của con người
muôn mặt Hồ chí Minh. Ông là một kịch sĩ đại
tài nên khó ai biết rõ con người thật của ông. Cần có thêm thời gian và nhân chứng
và hy vọng chế độ Cộng sản sẽ sớm
sụp đổ ở Việt Nam để có nhiều sự
thật về Hồ chí Minh được phơi bày ra trước
ánh sáng của thế gian.
Nhà văn Sơn Tùng hình như còn
sống ở Việt Nam. Hy vọng Sơn Tùng sẽ còn sống
và nhìn thấy thêm những sự thật phũ phàng khác về
Hồ chí Minh chứ Hồ chí Minh không thánh thiện , siêu việt
như ông đã viết và nói nhiều trong những năm vừa
qua.
Los Angeles tháng 4 năm 2010
TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
BUỔI NÓI
CHUYỆN CỦA NHÀ VĂN SƠN TÙNG NGÀY 27/4/ 2001 TẠI TRƯỜNG
QUẢN LÝ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
...( đoạn này nghe không rõ
).. Ban chấp hành Trung ương
tán thành đều bị bác bỏ. Đó là tháng 10-
1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo
luận cương chính trị của đồng chí Trần
Phú làm đường lối
( Hội nghị này chưa thông qua được luận
cương). Bác Hồ bị đẩy lùi vào bên trong. Năm
1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp
tại Ma- Cao, một lần nữa Hà huy Tập là Tổng
bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối
của Nguyễn ái Quốc. Mãi đến năm 1941, Bác Hồ
về nước cho đến năm 1951 , Đại hội
2 lại bị cái “ thiểu số phục tùng đa số
“ , lấy “ tư tưởng Mao “ vào điều lệ nên
đến năm 1951, cụ Hồ lại bị “ khoá “ . Bởi
vì Hồ chủ tịch chỉ còn là Chủ tịch ban chấp
hành chứ không còn là Chủ tịch Đảng. Bác quyết
định điều gì cũng còn phải được
Ban chấp hành thông qua.
Quan điểm tư tưởng
Hồ chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ
về Pắc Bó, thành lập mặt trận Việt Minh, làm
được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Đảng
ngày 11- 10 – 1945, giải tán Đảng Cộng sản Đông
Dương, sau này thành lập Đảng Lao Động
thì Lào trả về Lào, Miên trả
về Miên, không còn liên bang gì ở chỗ này. Mỗi dân tộc
có quá trình hình thành riêng của nó, còn viện trợ quốc
tế với nhau thì bình đẳng, chứ để nước
lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó cụ
Hồ đã nhìn thấy vấn đề như thế, bây
giờ nhìn vào tình hình nào là sắc tộc, nào là tôn giáo. Cụ
Hồ không có đặt vấn đề liên bang. Miên là Miên,
Lào là Lào , ta là ta. Đến năm 1951, cụ Hồ chỉ
còn là Chủ tịch ban chấp hành. Ví dụ trong việc Bác
ký Hiệp Định sơ bộ 6- 3- 1946 không cần triệu
tập ban chấp hành, Bác quyết định ký. Lúc đó
Bác chỉ sửa đổi hai chữ . Một bên , Bác là “
Việt Nam độc lập “ , một bên Sainteny ( là đại diện Cộng Hòa Pháp ) là “ Việt Nam tự
trị “ . Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác đánh
thứ bí thư là ông Vũ đình Huỳnh dậy, bảo
là đã tìm được lối thoát, đi báo ông Hoàng minh
Giám chuẩn bị để ký. Bác chọn được
một chữ mà hai bên đều chấp nhận được,
đó là “ nước Việt Nam tự do “ . Pháp rất sợ
chữ “ độc lập “ vì cả Châu Phi họ sẽ đòi
độc lập, cho nên nó chỉ muốn “ Việt Nam tự
trị “ thôi. Bác bảo tự trị là không được
, độc lập thì Pháp không chịu nên chọn “ nước
Việt Nam tự do “ ( có chính phủ riêng, có quân đội
riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng tên nước
là “ Việt Nam tư do “. Thế là Sainteny ký ngay ngày 6 tháng 3
năm 1946. Trước tình hình ấy mà chờ triệu tập
Ban chấp hành để quyết định thì chết,
bao giờ mới triệu tập kịp, mỗi người
một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa
“ tư tuởng Mao “ vào điều lệ, ghi là “ Học
thuyết Mác – Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng
Mao trạch Đông, tác phong Hồ chí Minh” thì Bác Hồ nói,:
“ Thôi, các ông ấy là đủ rồi,
Mác, Lênin, Stalin, Mao trạch Đông là đủ rồi, còn cái
tác phong “ Hồ chí Minh” thì miễn cho.”
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói,
“ Tôi không có tư tưởng à” . Lúc đó cũng chưa có
nói đạo đức, mà chỉ nói Bác là “ tác phong cần
kiệm liêm chính”, giản dị thế thôi, chứ Bác không
có lý luận.
Điều lệ ghi , “ Thiểu
số phục tùng đa số “ . Bác Hồ ra họp ban chấp
hành thì suốt đời bao giờ cũng là “ thiểu số
“ , mà thiểu số phải phục tùng đa số. Đó
là ‘” cái khoá “ . Vậy là Bác Hồ chỉ được làm
những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác
không có chủ trương nữa. Về cải cách ruộng
đất thì Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách
ruộng đất kiểu này, mà Bác đã cho ra Sắc lệnh
giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả
các đồng chí lúc đó lòng
dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ, nhưng lại tôn trọng
ông Mao là “ nhà lý luận Trung Quốc “ , là cái mẫu của
châu Á đem bê vào Đảng như thế, và phải làm “
thổ cải “ . Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng
đất, Bác chỉ “ trưng thu, trưng mua, hiến điền
“ chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó
mấy đồng chí trong bộ chính trị, đặc biệt
là đồng chí Trường Chinh( tấm lòng đồng
chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế
) nhưng quan điểm của đồng chí Trường
Chinh là “ Không phát động nhân dân thì nông dân chịu ơn địa
chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên” , Khi ra biểu
quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là
‘ thiểu số “ . Cụ Vũ đình Huỳnh kiên quyết
bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền,
trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân.
Xin nói về một bài của một
đồng chí ký tên là “ HT “ ( Hoàng Tùng ) viết về những
nỗi đau của Hồ Chủ Tịch “ , hiện nay lưu
hanh ở Hà nội cách đây mấy tháng. Đầu bài ông
đề là “ 10 nỗi đau của Hồ Chủ Tịch
“ nhưng trong bài đó ông Hoàng Tùng dấu đi 2 cái đau,
chỉ viết 8 cái thôi. Ông Hoàng Tùng là trong Ban bí thư trung ương
Đảng, là nhà lý luận , là trưởng ban tuyên huấn,
là Tổng biên tập báo Nhân Dân lâu nhất, chủ tịch
hội nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng
anh Ba Duẩn mới là nhà lý luận, còn Bác Hồ chỉ là
yêu nước thôi. Cho đến bây giờ ông mới tỉnh
ra. Trước đây ông viết cuốn “ Từ tư duy
văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ
chí Minh”. In xong thì bị tịch thu, bị đốt hết
dù không có tuyên bố giải thích gì cả. Anh Hoàng Tùng có đem
đến cho tôi một cuốn. Anh nói, “ Sách của tôi bị
đốt, sách của anh tái bản lần thứ 8 là may đó.
Khi tôi ra cuốn này thì bị thu mất rồi, còn giữ được
một cuốn đem cho ông .” Ông là người hiểu biết
như thế, lý luận như thế và một thời ông
cũng là ghê gớm lắm, vậy mà có lúc ông nói,:
“ Thôi, cắt cái mũ “ phớt “
đi được rồi( tức ông Giáp đứng trước
hàng quân đội cái mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo
không được đăng ảnh Đại tướng
Võ nguyên Giáp, vì “ trên “ chỉ thị như thế , cho nên ông
nói “ cắt cái mũ phớt đi “. Có lúc ông cũng lầm,
nhưng lúc tỉnh ngộ ra, thấy được sự
thật thì ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ,
nhưng chỉ viết có 8 cái, còn 2 cái không thấy đưa
ra. Dân ta thì không biết, nay ông kể ra thì ông cũng ngoài 80
tuổi rồi. Ông nào cũng viết để lại, không
in được thì cũng để lại cho các nhà nghiên
cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về
những sự thật được nói ra từ trong tim
người ta.
Trong bài viết của ông Vũ
Kỳ mà ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo
để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, Báo
Nghệ An số tết 1998. Hồi
đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó.
Nội dung bài báo là : Năm 1967, Bộ chính trị mới Bác
Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để
thông qua cuộc tổng tiến công 1968. Khi họp lần
thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương
tổng tiến công nổi dậy. Bác chỉ đồng ý
tập kích chiến lược rồi rút ra ngay. Đại
tướng Võ nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy,
nhưng vì thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở
Hungary. Nhưng sắp đến tết Mậu Thân rồi
nên phải thông qua chủ trương đó để đi
vào cái tết nên phải mới Bác về.
Ông Vũ Kỳ viết bài báo như
sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ
và người lái chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc
về . Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ
giờ này... đến giờ này .. trên bầu trời ta từ
hướng này..phương vị này ... tuyệt đối
là không nổ súng. Thời đó là đang chiến tranh, vào
giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về
tới vùng trời Hà nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân
bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái
báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, Bác ngồi
sau hút thuốc.
-
Thưa
anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ,
bây giờ làm sao đây ạ?
-
Quan sát
lại đi –Ông Vũ Kỳ nói
-
Em là
người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được-
Người lái nói.
Máy bay lượn hai vòng không dám xuống, xăng hết
rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi,
phòng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu
thì không an toàn..
Cuối cùng xuống theo
trí nhớ của người lái, chứ không xuống theo
tín hiệu của đèn hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại
nhưng dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn
“ tín hiệu chệch “ dưới vẫn cứ để
thế, không sửa. Vòng một vòng và máy bay chạm đất
an toàn, thở đánh phào một cái. Bác vẫn ngồi tĩnh
tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
-
An toàn
rồi , anh ơi , mừng quá- Nói to lắm nhưng Bác làm
như không nghe thấy.
Ra khỏi máy bay ( ông Vũ Kỳ tả)
thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê đức Thọ
ra đón, một lúc sau có Thủ tướng Phạm văn
Đồng. Chỉ có thế thôi, không còn ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi,
việc đầu tiên Bác gọi điện thoại sang Bộ
quốc phòng hỏi:
-
Tục
lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà,
thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà chúc tết
cho đồng chí Võ nguyên Giáp đang chữa bệnh ở
Hungary chưa ?
Anh em mình thường trao đổi
tin này xem đã đưa ra được chưa ? Tôi cho rằng
đưa được, đến năm 98 rồi, nên đưa
ra tin này vì sắp hết thế kỷ 20 rồi, ai hiểu
thế nào thì hiểu, còn chuyện đưa ra thì đừng
bình gì cả. Đừng đưa đăng một tờ
báo mà phải đưa tin trên ba tờ báo, vì một tờ
sẽ bị “ đánh chết “ ngay. Đúng thế ! Khi cả
ba tờ báo đăng bài đó, thì các ông trong Bộ chính trị
mời ông Vũ Kỳ lên hỏi.
Anh Kỳ nói, “ Tôi chỉ kể
chuyện đi của Bác trong hồi ký của tôi viết
về Bác.
Thế rồi “ họ “ cũng thôi.
Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là
thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn,
đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang
viết cuốn “ Bác Hồ là người cô đơn nhưng
không cô độc” Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ
yếu là nói quan điểm của Bác bị “ cô đơn
“ từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời,
quan điểm của Bác luôn ở phe thiểu số. Diễn
ra trong tình hình hiện nay là vấn đề dân tộc , vấn
đề tôn giáo. Quan điểm của Hồ chí Minh từ
đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ
không phải là đấu tranh giai cấp , chuyên chính vô sản.
Cái “ thiểu số “ ấy đi suốt cuộc đời
Bác . Đến được ngày hôm nay quan điểm đó
của Bác càng ngày càng rõ ra là rất mừng. Điều đó
nói rằng mọi khoa học nó ra đời không bao giờ
dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội..(
Đoạn này nghe không rõ). Nói ra như thế để thấy
Bác Hồ ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá
trình Bác cô đơn. Nhưng lúc nào “ người ta “ thấy
“ lợi “ thì “ người ta “ nói là của Bác Hồ chứ
“ người ta “ không làm theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến
thăm khu di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ
trách đưa lên một chồng sách Mác- Lênin đặt trên
giường của Bác, nói trước khi qua đời Bác
đọc những sách này. Người ta tưởng làm
như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn
Nga này quý Bác Hồ. Không phải đâu, dòng di sản Bác Hồ
chất Mác- Lênin có mức độ thôi. Người thường
nói những câu của dân gian, của dân tộc, cho nên có người
bảo Bác Hồ không có lý luận. Bác toàn nói ca dao, tục
ngữ, trích Kiều, trích Chinh phụ ngâm, trích những câu
của Mạnh tử, Khổng tử, Lão tử mà còn giá trị
với thời đại. Trích câu của Phật, của
Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông
Putin đến thăm nơi Bác ở sinh thời thì người
ta đem một chồng sách để đầu giường
Bác như thế , nhưng ông Putin ghi sổ lưu niệm
lại không nói gì về chuyện này mà nói:
_ Hồ chí Minh là người thầy
của dân tộc Việt Nam ( mà không nói là chủ tịch nước).
Người đã để lại trong trí nhớ nhân loại
nên rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen với
cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói “ làm
quen “ với cuộc sống của người ? Vì trên vị
trí tổng thống này nhìn tấm gương của Hồ
chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa cách
dân, sống giản dị. Mà chính ông nói là khôi phục lại
một nước Nga, một nước Nga yêu nước,
truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên xô ngày
xưa những người ấy không phải không có tấm
lòng, nhưng đem xoá sạch đi thì đó là người
không có đầu óc. Đáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa
cách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi lâm
chung, đây lại làm một chồng sách “ toàn Lênin” . Cụ
nằm trên giường bệnh ốm thì làm sao đọc
được các sách đó. Nếu để một cuốn
Kiều thì không ai cãi được, hoặc để một
tập thơ của Puskin, sách của L. Tônxtoi, của
Victor Hugo, Séch- pia, vì Bác thuộc thơ Puskin, và thuộc thơ
tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ còn thuộc Victor Hugo, tôi
là học trò nhỏ của Lep Tôn.. Bác Hồ của chúng ta
ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế , muốn
nhận ra Bác thì phải nghiên cứu lại các sự thực
của lịch sử. Trước đây tôi đã nói cái nôi
sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn,
một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến
Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng không có
nhiều.
Ta đọc sách, đọc lịch
sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng
Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cưú tôi thấy thế
này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thuở thiếu
thời thì con người ấy cũng bị hạn chế
, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và
thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của
cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế
cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của
cả nước. Ở Nam bộ cụ Phan thanh Giản đi
thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình
Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi Hương là
phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường
thi Hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng
Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội.
Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sĩ ( xin nói thực
có một thời kỳ cực đoan, đã nói “ quan “ là
phong kiến, quan là xấu. Ở Chí linh tôi nói thế mà suýt
bị bắt).
Nói các quan “ xấu “ như thế
sao lại truyền thống nối dõi văn hoá Việt
Nam mấy nghìn năm được! ? Cố nông thì làm sao
giữ được văn hoá vật chất của dân
tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ
nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói
đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình
nhà quan truyền từ đời này qua đời khác . Các
ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng
thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc
Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế
kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vậy.
Ở nhà cái ông giàu nhất nước , mà xưa nay chưa
có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng
như nhà Nguyễn Du ( thân sinh Nguyễn Du là Xuân quận công
Nguyễn Nghiễm , làm tể tướng thời Lê mạt.
Anh Nguyễn Du là Toản quận công Nguyễn Khản, làm
tới Tham tụng, Thái bảo trong triều ). . Bác Hồ của
chúng ta chính là con người nối tiếp những cái văn
hoá cội nguồn này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh
ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiên cưú từ gốc. Bây
giờ nói Bác sinh 1890, nhưng tôi nghiên cứu tử vi của
Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai năm
sinh là 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi
hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi
như thế. Bác sinh năm 1891, năm 1895 Bác vào Huế, tuổi
ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi
mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi
lên 5 đến lên mười. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ
vào Huế. ông Nguyễn sinh Khiêm có đưa cho tôi cuốn
“ Tất Đạt tự ngôn “ là vào tháng 6 năm 1950. Sau đó
ít tháng thì cụ qua đời. Trong “ Tất Đạt tự
ngôn “ thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu
của em trai mình, tức Bác Hồ.
Bài
thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một
anh thanh niên học sinh mới đi hoạt động Đoàn
thanh niên cứu quốc ( chưa phải là Đoàn thanh niên
Hồ chí Minh ). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ
hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin thì cụ nói thế
này:
_ Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi
nấy. Bọn Tây nó “ thuốc” bác bằng rượu khi bác
đi tù. Bác vào nhà tù năm 1914, sau bác chống lại thì nó đày
vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người
nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là
bác không chịu được và trí nhớ của bác mất
dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm
1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào như Tuyên, con
trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi
nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được
như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có
hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm
hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi
chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không dùng nữa thì đốt,
đừng giao...cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện
nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào..về họ
Nguyễn là thế nào..vì ngày chú Thành mở nước độc
lập thì là Hồ chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn
là vì sao ? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên
đèo Ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “ Ba ông phỗng
“ năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại, “ Hôm đó
cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với
bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì
ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà
vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà
đi xin mo cau cả làng ( xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với
chú Thành lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả
ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các
cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó
chưa có nhiều giày dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại
đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 anh em bác.
( Bây giờ mới thấy các cụ
ta ngày ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế,
đi trên những phương tiện như vậy, không
dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã
quý rồi )
Bác hỏi : “ Mẹ, tại sao đêm
bà khóc ?”
Về sau mới biết tâm sự
bà thế này, lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc
vì bán ruộng cho con vào kinh đô học, bán mất 5 sào. Bà
ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc
vì bán 5 sào ruộng cho con rễ vào kinh đô học , vì chữ
nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ
ra chữ . Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới
mất, nên không có gì mà khóc cả . Khóc là vì bà không có con trai. Ông
tú thì mất rồi, con rễ coi như con trai, con gái là chỗ
dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà
cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi.
Vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào Huế,
còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để
sớm hôm có bà có cháu.
Như vậy cha mẹ bác quyết
định vào Huế không phải là để làm ăn
sinh sống để trở thành người Huế đâu,
mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào
đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở
kinh đô. Các ông qua thời đó đều là tiến sĩ,
là hoàng giáp , là đình nguyên, ít ra là cử nhân. Đúng là cha bác
vào trong Huế đã tạo ra được một cái “
chiếu văn “, các ông quan trong triều thường đến
đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở
kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp, “ Khi đi
dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được
cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện
này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà
ngoại hay ví “ trèo truông mới biết truông cao “ là nghĩa
nó ra làm sao? Có đuợc bao nhiêu nước để gọi
là biển? Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân
nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại
động viên, “ Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện
khác. Con là anh mà chẳng vui chi cả “ Chú Thành đuợc
cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng,
hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói
em thông minh hơn anh.
Rồi cụ
Khiêm nói, “ Mà chú ấy thông minh hơn bác thật “
Lúc đến chân đèo Ngang, đường
lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường
ô tô bây giờ. Đến chân đèo Ngang, có bãi cỏ rất
bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp
ô lại bảo : chỗ này phẳng phiu, nghĩ lại đây
ăn cơm nắm, để rồi leo đèo. Bác ngồi
xuống ôm chân rộp . Còn chú Thành thì nhảy chơi, mới
hỏi cha :
_ Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ,
lại ngoằn ngoèo như rưá?
Cha bác nói , “ Đó là con đường
mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó,
lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng
khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn
sách “ Tất Đạt tự ngôn “ này.
“ Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng
núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười
hơn con “
Nói về văn thơ, tôi là anh
thanh niên nam 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn
“ Tất Đạt tự ngôn “ của người anh ruột
Bác Hồ viết lúc 5 tuổi
thì tôi hơi sững sờ.
Ông Khiêm nói tiếp, “ Lúc đó cha bác
mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của
con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các
con. Cha bác nói với mẹ, “ Với thiên tư này, thằng
bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại
đã nói như thế không nhầm.”
Rồi bác
Khiêm lại nói, , “ Lúc đó bác chẳng có bụng dạ gì,
vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước
đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo
núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Anh em bác
ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ,
biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến
đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi
ôm chân. Chú Thành lại chạy nhảy rồi nói:
_ Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn
thế?
Cha bác nói:
_ Không phải ao đâu con, đó là
biển đấy chứ
Lúc đó, đứng
trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống
là đến Ròn , tức Cảnh Dương của Quảng
Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi
là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại nói:
_ Cha ơi, tại sao bò nó lại lội
trên biển?
Cha bác cười bảo:
-
Không
phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó
chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc
bài thơ:
“ Biển là ao lớn
Thuyển là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự,
mà cũng là tâm trạng, ‘ Cháu ạ, con ngươì ta có số
mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường
, cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng
đây lại nói là, “ Em nhìn thấy trước anh, anh trông
thấy sau”. Cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh.
Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung
quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu
được cái đó, “ Ta lớn mau mau, vượt qua
ao lớn “ . Cái khẩu khí ấy là cái “ ứng mệnh “ nên
suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi
này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy
gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!
..
Cụ Khiêm nói với tôi điều
đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên
báo Văn Nghệ số tết năm 1980, lúc đó là chuẩn
bị đại hội 5. Sách “ Búp sen xanh “ chưa ra, tôi nói
đưa hai bài này và viết
lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn sinh Khiêm. Khi đó
nhà văn Nguyễn văn Bổng là Tổng biên tập báo
Văn Nghệ trước khi đăng mới đến
hỏi tôi:
_ Có
chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm 2 bài thơ, trẻ
con thì trẻ con thật nhưng rất trí tuệ
Tôi nói, : “ Anh cứ đăng đi,
có chi tôi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra thì người
đến gặp tôi là bác Khương hữu Dụng, nhà
thơ giỏi và nổi tiếng
về thơ Đường. Bác năm nay 95 tuổi, đang
sống.( Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương
hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà báo, bác dạy
học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng tháng
8, bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng
Dân của cụ Huỳnh thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
_ Tôi mới được đọc
hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà
mình cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào không đây ?
_ Chết , ai lại làm việc này,
thưa bác – Tôi nói
( Ta phạm
sai lầm là khi viết cái điển hình chăn nuôi để
phong anh hùng, chiến sĩ thi đua thì thường mượn
lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến,
toàn “ tạo “ thêm thành tích ba lăng nhăng. Còn đây là viết
về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình thêm
là mình có tội. Còn nếu của tôi thì tôi thành tác giả,
việc gì là nói của cụ Hồ)
Cụ Dụng lại cười
tươi nói, “ Đọc xong mình sợ quá . Trần đăng
Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí
tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì không
có mấy, thời đó làm gì có báo chí như vậy. Thông
minh như Trần đăng Khoa tưởng tượng
“ cành lá dưà như lược cài trên trời”, “ quả
na chín là quả na mở mắt “ , “ gà gọi mặt trời
lên “..Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng
lớn quá .”
Sau này đưa vào cuốn, “ Búp
sen xanh “ thì Thủ tướng Phạm văn Đồng có
mời tôi lên làm việc. Thủ tướng có hỏi về
hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10- 4- 1982. Lúc
đó đã kết thúc Đại hội 5. Bác Phạm văn
Đồng nói như thế này:
“ Tôi có mấy điều để
nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ
kể với tôi, vì tôi sống có một mình. Thỉnh thoảng
ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường
ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác.
Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết
khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng
chí lại biết những chuyện như thế này? Đồng
chí cũng không phải là thư ký của Bác. Đồng
chí là nhà báo , thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng
chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có
trường hợp cô Út Huệ là người tiễn Bác
xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không
nói, còn bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại
tìm được?
Bác Đồng mời tôi lên thì
bao giờ cũng có cái “ thú thân”.
Được khen thì tốt nhưng khi bị hỏi thì sẵn
sàng có cái “ thú thân” mà chìa ra. Tôi mang cả cuốn “ Tất Đạt
tự ngôn “ đi theo.
Tôi nói, “ Cụ Khiêm giao cho tôi tháng
6- 1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai
bài thơ này. Tôi chìa ra thì Bác Đồng bảo tôi, “ Đồng
chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế này,
vì không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị em ruột của
Bác. Đồng chí lạo có cái duyên may được gặp
các anh chị Bác Hồ, lại đuợc các cụ tin cậy
giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời
và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thì
kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.
Sau tôi phải nói thật với
bác Đồng: ông Bùi xuân Phong xưa là bạn của cụ
Hoàng xuân Hành ( chú ruột mẹ Bác Hồ), cùng đi với
cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết
đâu. Cụ Bùi xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ
Hoàng hoa Thám, nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ Tú Bùi.
Nói điều đó để bác Đồng tin được
Bác Đồng lại nói :
“ Tôi hỏi đồng chí như
thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều
xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang làm
tôi cứ bâng khuâng. Giá mà biết trước cái này thì Bác còn sống mà nhắc lại
chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “ đi mất rồi “ ! Có
khi nào mà cái tuổi lên 5 lại cấu trúc được bài
thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được
cái “ tĩnh” với cái “ động “ , tư duy này là tư
duy “ dịch lý”.
Bác Đồng là người giỏi
dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng
mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm
văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của
gia đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người
ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ vì toàn là những
ông đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng
nhiều người làm quan, như thế “ họ “ sợ
mất lập trường nên không dám quay rõ. Bác Đồng
là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên
mới thấu hiểu được cái “ động “, cái
“ tĩnh “ trong bài thơ của Bác Hồ.
Rõ ràng cái gì thuộc về thiên
nhiên tạo đều “ tĩnh “, cái gì thuộc về con
người là “ động “ “ Núi cõng con đường mòn”
, “ Cha thì cõng theo con”, “ Đường bám lì lưng núi “ là tĩnh,
“ Con tập chạy lon ton “ là động. Thơ có thể
là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh
của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu,
đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn này
hơi lạ. Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại
sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù
cha nói đó là biển mà vẫn cứ , “ Ta lớn mau mau. Vượt
qua ao lớn “ . Thế thì có lý trí gì không? Không chỉ là xúc cảm
xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi
năm châu bốn biển: lịch sử nay đã cho thấy
Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa
thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc
không? Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển,
theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn
châu thôi.
Tôi nói : “ Bác Hồ đến Sitnây
( Sidney) tháng 11- 1913, đi với cụ Đào nhật Vinh,
hiện nay cụ Vinh ở số nhà số 13 đường
Nguyễn an Ninh , gần chợ Bến Thành.
Khi tôi nói với bác Đồng,
năm đó cụ Đào nhật Vinh đang sống. Sau giải
phóng miền Nam, tôi vào Sài gòn sưu tầm tài liệu về
Bác Hồ thì Dược sư Hồ thị Tường Vân,
con gái cụ Hồ tá Bang, giới thiệu gặp cụ Đào
nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định,
xuống tàu năm 1912 ( Bác Hồ năm 1911), cụ Đào
nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ,
Achentina, sau này gặp Bác ở Đaka, Sêõnêgan, đến đầu
năm 1917 gặp lại Nguyễn tất Thành cuối Đại
chiến thứ nhất. Vì sau đó ông không đi tàu nữa
mà lên Bocđô lấy vợ đầm. Sau này ông lại lấy
một bà Việt Nam. Nếu cụ Vinh kể không thì không ổn,
phải kể thêm số ảnh cụ chụp chung với
Bác Hồ năm 1946 ở Paris khi Bác là thượng khách thăm
chính thức nước Pháp . Lúc đó cụ đang ở
Pháp ở Hotel ở Bócđô.
Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp
một số tư liệu với bác Đồng. Bởi
vì viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên
cứu về Bác, đi đến tận nơi tận chốn
Bác sống, hoạt động để tìm tòi tra cứu
cả. Báo chí nước ngoài họ viết thế nào thì
ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một
số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết
thật sự đi lần theo dấu vết Bác. Đã có ông
nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong
đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy
phép thôi, còn đi đến đâu ông nhờ đồng bào,
mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả.
Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta và nhà
nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi
lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến
khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên báo Nhân Dân đi sang Hội
nghị Paris với Lê đức Thọ, nhân tiện ở
đó nghiên cưú về Bác ở Pháp, rồi sang Anh, thế
thôi, chứ thực sự để hẳn người
nghiên cứu về Bác Hồ thì không có. Vì vậy nó cứ
thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục
gửi về rất nhiều tư liệu.
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng
hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một
thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà
cả một quá trình, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối
buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định
của bác.
-
Tôi
nghe dồng chí bị thương ở mặt trận về,
khó khăn lắm. Anh em xuống nhà thăm nói đồng
chí ở chật chội lắm. Tôi có trao đổi với
anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để
đồng chí đỡ vất vả.
-
Thưa
Thủ tướng, cám ơn Thủ tướng. Bây giờ
Thủ tướng cho tôi căn hộ. Thủ tướng
mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ
trung làm được công việc đột xuất mà Thủ
tướng thưởng thì không ai nói. Thủ tướng
là người lãnh trọng trách lo cho cả đất nước.
Một người đột xuất như Đặng
thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc trình diễn dương
cầm được giải thưởng Sôpanh( Chopin). Người
Châu Á đầu tiên được giải thì Thủ tướng
cho một căn hộ , để Đặng thái Sơn đón
bố là Đặng đình Hưng về ở. Anh Hưng
bị cái án “ Nhân Văn giai phẩm “, bây giờ khổ quá,
nay con ông làm được cái việc vinh quanh đó. Thủ
tướng cho một căn nhà . Ai cũng quý cả , quý tấm
lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo của
người con đối với cha, như thế là đẹp.
-
Tôi là người tham gia cách mạng
sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại
căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng
cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa.
Nay trở về đòi không được. Thuê một chỗ
khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó.. thì
to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện.
Nhà tôi đòi không được, giờ tôi lại lên đây,
tôi không xin ( nhà ) mà Thủ tướng cho một xuất ở
thì tôi mang tiếng. Thủ tướng cũng mang tiếng.
Thủ tướng Phạm văn Đồng thì mang tiếng
“ ban phát “ cho cá nhân người này, người kia, còn tôi
thì mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi
nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi
“ để xin nhà “ . Dân ta thường nói, “ Ăn mày nhà
quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực
lòng với bác Đồng như thế nên bác rất quý. (
Nay thấy anh Trần tam Giáp , thư ký bác Đồng viết
bài để đăng báo Nhân Dân vào ngày giỗ năm cụ
“ ra đi “ , anh có nhắc đến chi tiết này).
-
Như thế là đến như
bác Phạm văn Đồng ở gần Bác , một trong
những người gần gũi nhất của Bác Hồ
như bác Võ nguyên Giáp, bác Trường Chinh.. Xưa người
ta nói “ tứ trụ “ là vậy. Nhưng thời niên thiếu
của Bác thì không có điều kiện để tìm hiểu
mà biết được. Còn tôi có duyên may trong quá trình đi
khai thác để sau này viết, trước chỉ nghĩ
ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng
sau khi đã có cái ‘ vốn “ mới nghĩ đến chuyện
“ đi buôn xa buôn gần “, viết cái này cái khác.
-
Khi cụ Hồ về tới Pác-Bó
thì nói với đồng chí Nguyễn lương Bằng là
tìm cho báo Thanh Nghị. Thế mà sau đại hội 3 có người
nói, “ có triết học Mác- Lênin “ không cần bộ tư
pháp, bỏ bộ tư pháp. Nói rồi khôi phục lại bộ
tư pháp đó chứ. Cái gì cụ Hồ đề ra thì bị
xoá gần hết. Nhà trí thức lớn không bao giờ kêu
ca gì. Còn có người nói ông Nguyễn khắc Viện là
tay sai của Pháp về, ai như ông Viện ? Hôm xét giải
thưởng cho ông Trần đức Thảo, cả hội
Khoa Học không ai đọc được cái gì của ông
Thảo vì ông viết bằng tiếng Pháp. Bấy giờ
giaó sư Phan Ngọc đọc bài giải trình về thầy
Đào duy Anh, Giáo sư Trần đức Thảo. Khi đọc
xong, cả hội trường đứng dậy , nhiều
lãnh đạo bực mình. Bài diễn văn có đoạn
“ Việc nhà nước trao giải thưởng Hồ chí
Minh cho Giaó sư Trần đức Thảo , nó cũng làm
sang cho giải thưởng ấy, nếu còn người đứng
lên nhận thì cái giải thưởng ấy thêm giá trị,
nhưng tôi thấy một nỗi rằng: Có giải thưởng,
vậy ai là người nhận đây? Không có ai cả, vì ông
đã nằm dưới mồ rồi. Nó gần giống
như thế kỷ 15, khi Đức Lê thánh Tông khôi phục
cho Nguyễn Trãi, làm cái lễ trở về Nhị Khê gần
Quán Gánh để minh oan cho Nguyễn Trãi trước dân làng.
Khi ông Thượng thư bộ Lễ đọc xong chiếu
giải oan thì nói thêm một câu rằng, “ Minh oan được
cho họ Nguyễn, nỗi oan khốc này đối với
quan Hành Khiển đã một thời “ Lê Lợi vi quân, Nguyễn
Trãi vi thần “ , bây giờ quay mặt lại thì không còn ai
nhận cái chiếu vua giải oan này nữa vì tru di tam tộc
mất rồi”. Mong sao lịch sử đừng bao giờ
lập lại! Nỗi đau lịch sử nó ghê gớm thế.
Suýt nữa thì ta phạm sai lầm với ông Tổng tư
lệnh của một quân đội dẹp xong mấy đế
quốc siêu cường. Trước đó đã chuẩn
bị một cái đảo để đi đầy ! Việc
đó suýt diễn ra trong thập niên 60. May sao lúc đó cụ
Hồ còn sống, cụ nói, “ Tôi còn sống, không ai thay được
Tổng tư lệnh Võ nguyên Giáp !” Họ gán cho ông Giáp là “
trùm xét lại “ . Việc động trời này nhiều người
đã biết.
-
Đọc 10 nỗi đau của
Bác Hồ, trong đó đồng chí Hoàng Tùng viết về
cải cách ruộng đất đã bắn bà Nguyễn thị
Năm như thế nào và quan điểm cụ Hồ về
chuyện này, vì cụ Hồ không chủ trương cải
cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước
có cái đặc thù thì đánh như thế nào, chứ không
thể đánh như Tàu được . Vì khi cách mạng
mới thành công cả trung đoàn ăn cơm trong nhà bà
Nguyễn thị Năm. Con trai bà là chỉ huy trung đoàn.
Thế mà cán bộ ta đi Trung quốc mang “ tư tưởng
Mao “ về , chủ trương bắn ngay bà Nguyễn thị
Năm. Bác Hồ nói : cách mạng này nó bạc bẽo quá,
gia đình bà đã bỏ thóc gạo nuôi hàng trung đoàn từ
thời cách mạng còn hàn vi. Nay cách mạng đã lớn mạnh
mà bắn người ta thì bạc bẽo quá. Bát cơm Xiếu
mẫu ở đâu? Sau đó còn nghe cố vấn nước
bạn lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong
quân đội, phần lớn trí thức tiểu tư sản,
trong đó có hàng tướng lãnh để chỉnh đốn
tổ chức.
-
Bác Hồ bảo phải đốt
ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ thì còn đâu để
lên Điện Biên bây giờ. Lúc đó Cải cách ruộng đất
như thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ
trong quân đội thì trời đất nào ? Nói như thế
để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta phải
thấy trong cái bể sản xuất nhỏ, trong một nước
chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì nó dễ cực
đoan lắm. Không lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần
dân tộc làm nhãn quan mà lấy giai cấp ,lấy cái thù hận
làm nhãn quan để đánh đổ người này, người
kia thì nguy. Ông Hoàng Tùng viết kể lại có lúc Bác Hồ
khóc vì bấy giờ ông phụ trách tuyên huấn, phụ trách
báo Nhân Dân nên rất gần Bác Hồ. Ông Hoàng Tùng kể lại
Bác Hồ hỏi sao Cải cách
ruộng đất lại bắn vào người đàn bà?
Người đàn bà Việt Nam khác với người đàn
bà Trung quốc. Người đàn bà Việt Nam thì cứu
nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi chồng nuôi
con để tham gia kháng chiến cứu nước. Có người
lại nói: hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn
người. Cho nông dân đấu tố để vùng lên,
nếu không thì nông dân hàm ơn địa chủ suốt đời
! Cho nên nghiên cứu về Bác
Hồ thì thấy Bác Hồ có nỗi cô đơn về
quan điểm “ dĩ bất biến ứng vạn biến
“ . Trước mặt mình đang có kẻ thù xâm lược
như thế này. Độc lập dân tộc là cái bất
biến, cho nên phải ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ
là đế quốc xâm lược cho nên có những vấn
đề phải lùi một chút. Trong di chúc Bác có nói khi kết
thúc chiến tranh, việc đầu tiên là phải chỉnh
đốn lại đảng chứ không phải để
đến 30 năm mới làm. Trước khi viết di chúc,
Bác xuống Côn Sơn , đọc bia Nguyễn Trãi. Người
nghiêng đầu vào bia, ôm lấy cái bia Nguyễn Trãi. Điều
đó đủ nói lên Bác có nỗi đau của Nguyễn
Trãi. Các nhà nghiên cứu giỏi, bắt vào cái thần cái ảnh
này thì sẽ hiểu tại sao ngày rằm tháng 1 năm 1965,
Bác Hồ đọc bia Nguyễn Trãi vì Nguyễn Trãi để
lại nỗi oan 500 năm trước, coi chừng khi kết
thúc chiến tranh đừng để lại nỗi oan này.
Trong chiến tranh thì cái mau thuẫn trong nội bộ dân tộc
phải lùi lại. Rồi ngày 10/5/1965 Bác bắt đầu
viết di chúc, đầu năm thì ôm lấy bia Nguyễn
Trãi ở Côn Sơn rồi lên động Thanh Hư để
cảm cái khí thiêng của dân tộc. Cái nguyên khí của đất
trời con người ấy đã cảm thấy cái chuyển
động trong cơ thể không còn có thể sống lâu hơn
được nữa. Rồi người sang Trung quốc
đúng ngày 19/5/ 1965 Bác về quê hương Khổng tử
giữa lúc Mao đang phê Lâm, phê Khổng, giữa lúc Trung quốc
đang làm đại cách mạng văn hoá , đập cả
trường đại học Thanh Hoa. Vậy mà Bác Hồ
cũng cụ Đổng tất Vũ, phó chủ tịch
nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa , người ngoài Đảng
như cụ Phan kế Toại của ta, di lên quê hương
Khổng tử , nằm ngủ tại đây mỗi đêm,
thắp hương cho Khổng tử . Các nhà lý luận không
giải thích xem tại sao cụ không sang Liên xô, sang Đức
để thắp mộ cụ Mác mà lại đến thắp
hương cho Khổng tử giữa lúc Trung quốc đang
đánh đổ Khổng tử . Cái triết học phương
Đông , đặc biệt là Việt Nam nó thâm thúy như
thế đấy.
Cụ Hồ chúng ta là vậy,
không trích dẫn đoạn này đoạn khác của các
triết gia mà nói dễ hiểu, cái tầng ngữ nghĩa
thì luận nó ra. Cụ về thì làm gì có bài thơ thắp hương
cho Khổng tử năm 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng
báo 1969 khi người ra đi, thì đến năm 1989, tức
là 20 năm sau, thấy không ai đá động gì đến
di chúc Bác cả, đồng chí Vũ Kỳ mới chép ra
trong hồi ký, “ Bác Hồ viết di chúc “ . Đặc biệt
là Bác dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng,
miễn thuế cho nông dân và vấn đề hoả táng
cho Bác để giải thoát cho người về với
trời đất chứ giữ thi thể lại trong lăng
là ngoài ý nghĩ của Bác. Việt Nam ta không để lăng
tẩm lại đế đô, vua băng hà thì đưa về
quê như 8 vua triều Lý là về Bắc Ninh, các vua Lê thì về
Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc tổ
quốc. Bác Hồ không dặn để lại ở Ba Đình.
Bác khai sinh Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở Ba Đình,
Bác hoá thân cũng đúng vào cái ngày ấy nhưng di chúc thì hỏa
táng, sau này có nhiều điện thì điện táng để
giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nông dân. Còn
tro cốt phân chia ra làm 3 cho Bắc, Trung , Nam . Bà con để
một nơi nào đó để tiện việc trồng
cây lưu niệm. Bác đã xem mộ cho Bác rồi, tức
là Đà Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi Tản Viên là
một trong những ông thánh “ tứ bất tử “ . Bây giờ
có một ông nào đó xây một cái đền thờ bằng
đá rất đẹp trên đó để thờ Bác. Lập
đền thờ Bác trên núi Tản Viên là sai ý Bác. Dân sẽ
có ý kiến là cụ Hồ không khiêm tốn, làm đền
trên núi Cha, núi Mẹ là núi Mẫu ở bên này. Chính nơi Bác
đã tìm là cái hang ở Đá Chông, dưới chân núi Đức
Tản Viên. Thời chiến tranh Bác làm việc ở đây,
Bác còn dặn lấy thép không rỉ để chống rết,
chống rắn nó vào. Sau khi hỏa táng thì lấy một phần
tro cốt vào đây. Chỗ này ta có thể để một
hướng cho người đến viếng Bác thắp
hương rồi trồng cây lưu niệm. Thế là di
chúc để lại cũng không được thực hiện.
Thế gian có chuyện cha để lại di chúc cho các con
thì các con không những không thực hiện mà còn đánh nhau
để chia của..Thế mà hôm nay, di chúc dặn phải
“ giữ đoàn kết như giữ gìn con ngươi của
mắt người” thì học trò – còn gọi là học trò
xuất sắc cả, mà phê cánh cả. Nguyện vọng của
Bác là Việt Nam hoà bình như vậy. Hoà bình là muôn đời.
Cái trong Bình Ngô Đại Cáo như các thấy các cô đã giảng
bài như vậy. Nước hoà bình, độc lập , thống
nhất. Thống nhất độc lập đi đôi với
dân chủ và giàu mạnh chứ không dặn là xã hội chủ
nghĩa. Xã hội chủ nghĩa là cái mơ ước. Hồi
đó có đồng chí trong thường vụ trung ương
muốn Bác sửa: Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập , dân chủ , phú cường. Bác bảo phú cường
là từ Hán- Việt. Nên nói giàu mạnh tức dân giàu, nước
mạnh.
Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hoá
có gặp cụ Lê Thước, Giáo sư Cao xuân Huy, Giáo sư
Nguyễn mạnh Tường, Giáo sư Đào duy Anh lúc đó
tản cư theo trường về Thanh Hoá. Bác vào Thanh Hoá
ngày 20/2/1947, phê bình tỉnh uỷ Thanh Hoá mất đoàn kết,
cách mạng chưa có gì đã tranh công, tranh phần. Họp
tỉnh uỷ , uỷ ban xong thì Bác gặp các trí thức. Cụ
Lê Thước thay mặt anh em đứng dậy nói, “ Thưa
bác...” Bác Hồ nói ngay, “ Chúng ta đồng lưá, bác để
cho thanh niên gọi” . Giáo sư Lê Thước đồng tuổi,
lại cùng quê với Bác, bèn nói, “ Thưa cụ, anh em chúng tôi
đây xin cụ giải thích cho một điều: Chế
độ Cộng hoà dân chủ, Xã hội chủ nghĩa ,
Dân chủ mới, vậy chế độ gọi là gì cho đúng
?
Bác cười và nói, “ Xin các cụ,
chúng ta đừng lệ thuộc gì vào mấy cái danh từ.
Ta hãy coi đây là nước dân chủ mới. Vì bên Tây đã
có dân chủ từ năm 1789 rồi, 1776 bên Mỹ , bên Anh
còn trước nữa nhưng đến bây giờ chưa
thực sự có một xã hội dân chủ có công bằng.
Cụ thể nước ta bây giờ là nước dân chủ
kiểu mới. Tôi nói thí dụ như Thanh Hoá đây là đất
văn vật mà hiện nay ở miền xuôi có 80 đến
85 phần trăm, miền núi đến 95 phần tăm dân
mù chữ. Đấy, cách mạng ta tiếp thu một cái
gia tài kiệt quệ sau 80 năm bị Pháp đô hộ. Thế
thì bây giờ chúng ta làm sao cho ai cũng biết đọc
biết viết và trung học , đại học trên cái nền
của toàn dân biết chữ. Còn nhà bị đói nghèo thì xoá
được đói nghèo, để có ăn, nhà có ăn rồi
thì đến no đủ, nhà no đủ rồi thì đến
giàu có, nhà giàu có rồi giàu nữa. Còn nói Xã hội chủ
nghĩa hay Cộng sản chủ nghĩa ta chưa quan tâm.
Nội dung của chế độ ta phấn đấu bằng
được như trên. Bây giờ ta lại nói 10, 15 năm
nữa bằng Liên xô, bằng Mỹ thì sao bằng được.
Ảo tưởng như thế, hão huyền như thế
không thể thực hiện được thì đổ vỡ
chứ ! Khi đuổi giặc xong, hy sinh hàng triệu người
mà cuối cùng không có cái bát ăn, trong khi đó một số
nước trong khu vực không đánh giặc như ta mà có
độc lập , có người suy ra cái này. Họ quên một
điều nếu không có người đi hàng đầu
trong việc chống đế quốc thực dân, làm tà cái
ý chí xâm lược , làm bá chủ thế giới của nó.
Muốn có bình đẳng cho các dân tộc thì có dân tộc
phải hy sinh. Hồi chiến tranh, cứ đến chiều
thì sợ nhất cái dàn pháo Tân tây lan, Thái lan, Nam Triều tiên.
Tất cả các nước huà vào với Mỹ. Các nước
đó được Mỹ dùng làm hậu cần tại chỗ.
Đợt đầu thì nó đưa từ bên Mỹ (
Honolulu) sang, sau này tất cả sản xuất phục vụ
chiến tranh và các nước khu vực này. Năm rồi
tôi có bài viết Bác Hồ có 7 thư gửi Tổng thống
Truman để công nhận cho độc lập của nước
ta, để tránh một cuộc chiến tranh, thế mà có
người không hiểu gì cả, lại nói cụ Hồ
thích được dân tộc anh hùng, để cho dân mình
khổ. Nói vậy là không phải. Khi cụ ở Luân –Đôn,
cụ ra nghĩa trang Hây-ghết đặt một bó hoa lên
mộ cụ Mác, chiêm ngưỡng một thiên tài có một
chủ nghĩa cứu cánh để tham khảo, giải
quyết vấn đề độc lập dân tộc của
nước mình, chứ không phải là quyết định.
Thế cho nên những năm cụ ở Quốc tế Cộng
sản rất cô đơn, đưa ra mấy cái luận
điểm về giải phóng dân tộc thì bị cô lập
. Lúc đầu định đi về Phương Đông.
Từ Mạc tư khoa mà sang Trung quốc chỉ được
cấp kinh phí đi đường một chuyến sang Quảng
Châu năm 1924. Đây là lần duy nhất. Còn thì tự nuôi
lấy mình, nuôi lấy đội ngũ cán bộ cách mạng.
Cho đến 1927, về lại Mạc tư khoa,năm
1928 lại bị đẩy đi khỏi Mạc tư
khoa vì không muốn để Nguyễn ái Quốc ở lại
Mạc tư khoa, sợ quan điểm của Nguyễn ái
Quốc sẽ ảnh hưởng đến đại biểu
của các dân tộc khác dự đại hội Quốc tế
Cộng sản. Về Thái lan
xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt kiều rồi
sang Trung quốc để hợp nhất ba đảng Cộng
sản trong nườc thành Đảng Cộng sản Việt
Nam. Bác chủ trương đoàn kết các giai tầng xã
hội , không phân biệt giai cấp. Đó là Đảng Bác
Hồ sáng lập ngày 3/2/1930. Nhưng đến ngày 11/4, Đệ
tam quốc tế phái ngay đồng chí Trần Phú về nước,
mang theo một bản phác thảo đề cương do ông
Míp, Viện trưởng viện các vấn đề dân tộc
của quốc tế cộng sản bằng tiếng Nga để
đồng chí Trần Phú bổ sung thêm phần khảo sát
phong trào trong nước viết bằng văn bản gọi
là luận cương tháng 10 của Trần Phú, bỏ các văn
kiện của Nguyễn ái Quốc thành lập Đảng
như: chính cương vắn tắt, điều lệ vắn
tắt , chương trình tóm tắt , tên mà Bác Hồ đặt
ra lúc thành lập Đảng! Bỏ bí thư đầu tiên
là Trịnh đình Cửu, còn gọi là Cửu kính trắng,
một trí thức ở Hà nội . Vợ ông là bà Lệ,một
lão thành cách mạng hiện nay hơn 95 tuổi , đang sống
trong một ngôi nhà ở hồ Tây. Khi Đảng của Bác
Hồ được thành lập bị bỏ , tháng 10 họp
không có Nguyễn ái Quốc, đặt lại tên Đảng
là Đảng Cộng sản Đông Dương, tất cả
mọi người phải vô sản hoá. Trong dự thảo
luận cương của đồng chí Trần Phú ( chưa được hội
nghị này thông qua) các nhà sĩ phu yêu nước thì gọi
là bọn Huỳnh thúc Kháng, những trí thức yêu nước
thì gọi là bọn Nguyễn an Ninh.. Tôi không dám nói bịa
trước anh linh của một nhà ái quốc , các ý trên đã
ghi trong Luận cương của đồng chí Trần
Phú. Đó là tả khuynh ấu trĩ của một thời
sai lầm về quan điểm như vậy. Chúng ta nhìn rõ
cái sai, nhưng chúng ta vẫn kính ái đồng chí Trần
Phú, một nhà yêu nước của dân tộc ta . Với Bác
Hồ thì ngược lại, năm 1945 Bác ôm lấy cụ
Huỳnh thúc Kháng mới từ Quảng Nam ra và nói, “ Cụ
ra đây là “ an dân lạc quốc “ . Ta lục lại lịch
sử như thế để mà thấy cái gì cứ rập
khuôn theo nước ngoài là chết, không độc lập
là chết, xa rời dân tộc là thất bại, chứ ta
không biệt phái. Cho đến tháng 8 nam 1935, Đại hội
thứ nhất tại Ma cao, đồng chí Hà huy Tập viết
một văn bản đề nghị Đệ tam quốc
tế thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn aí Quốc.
Bác Hồ suốt đời chỉ
muốn cho dân tộc độc lập , nhân dân no ấm.
Khi giành được độc lập rồi thì Bác chỉ
mơ ước làm sao cho đất nước hoà bình, thống
nhất, độc lập , dân chủ và giàu mạnh. Và khi
chết rồi Bác vẫn để câu ấy trong di chúc. Nếu
đi theo con đường Bác Hồ thì lấy từ cái
này, ta đừng vội năm ba năm , năm mười
năm để vượt ai, không nên ! Mà làm cho dân nghèo có ăn
rồi no đủ, no đủ rồi giàu có, giàu có rồi
giàu nữa ..cứ thế mà làm. Mọi người đều
trong sạch, dân no đến đâu mình no đến đấy.
Bây giờ một cái nhà của cơ quan huyện uỷ mà
700 triệu thì làm được bao nhiêu trường học.
Hôm nay tôi nói với các thầy các
cô với sự tin tưởng rằng Đại hội
9 sẽ mở ra mới hơn, dân chủ trong Đảng,
nó đã chỉ ra những con người cơ hội chui
vào Đảng , khuynh đảo một thời, làm cho Đảng
ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác
Hồ thành lập Đảng, cũng như bao lớp người
đi tìm con đường độc lập cho dân tộc,
no ấm cho nhân dân, nước phải độc lập,
dân phải no ấm, no ấm rồi thì được học,
học ít rồi học nhiều nữa, cả dân tộc đều
trí tuệ. Đã có nền văn hoá rồi thì dân tộc phải
đuợc học những vấn đề của thời
đại. Đến Đại hội 9 này mới thấy,
còn các đại hội trước chưa thấy, bế
tắc. Lần đầu tiên dân ta được tham gia ý
kiến , dù là thực hiện hay không thực hiện nhưng
trên đài, trên báo có đưa ý kiến của dân, của
người này , người khác, tuy chưa dám đưa hết.
,
Bên cạnh phòng họp đại
hội có phòng tập họp thư từ tố cáo của
đảng viên, cán bộ , nhân viên. Có đồng chí nhận
thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng
chí làm chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ông nào
giao cho ông ấy, còn bản gốc thì lưu lại. Sai đúng
thế nào chưa biết, ông này ông nọ có từng cái thư
tố cáo thì nhận lấy.Một trăm ông uỷ viên
trung ương là được phát cả, còn có phát cho đại
biểu đại hội không thì không biết. Trong những
thư đó thì chỉ có mấy ông không có bị tố cáo,
có cả danh sách gửi tiền nước ngoài, sợ quá
! Còn làm ăn thì phải có nhà một tầng, hai ba tầng
khang trang , bằng đồng tiền lao động, bằng
trí tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chận cái này
, ăn chận cái kia..
Hôm họp trung ương, có một
đồng chí cố vấn đứng dậy, bước
ra nói, “ Tôi cũng không ngờ cuộc đời hoạt động
đến hôm nay nó lại xảy ra dến mức thảm
hại như thế này...( tức là người ta dấu
cho). “Một trong ba ông cố vấn than vãn như thế .
Anh ta nhận ra thảm hại thì bây giờ đã hơn 80
tuổi rồi. Lời nói tự nó vô nghĩa, nhưng ít ra
thì anh cũng thấy anh tưởng anh có quyền, có lực
thì có vinh quang. .. Thực tế thì không có! Đó là cái nhục
đó, nó nhục ngay trên cái “ ghế” của vinh, không phải
trên cái ghế cao thì nó vinh đâu.. Tùy ở anh cống hiến
cho nhân dân, cho đất nước.. To mấy thì to, anh đừng
tưởng ngồi cao bao nhiêu thì vinh bấy nhiêu.. đâu
phải ? Anh tưởng anh là tổng bí thư, là uỷ viên
bộ chính trị là ghê gớm lắm..? Vừa bước
ra khỏi cái ghế là cái nhục nó đổ xuống đầu
anh ngay. Một ngươì như nhạc sĩ Văn Cao,
khi nằm xuống, hàng nghìn vòng hoa và trướng, nhân dân cả
nước khóc ông, vĩnh biệt ông, bởi lẽ không một
người nào lại không hơn một lần đứng
nghiêm chào cờ Tổ quốc, hát quốc ca. Biết bao thế
hệ hát những ca khúc của Văn Cao như Thiên Thai, Suối
mơ, Đàn chim việt, Làng tôi, Sông lô, Thăng Long, Hành khúc
tiến về Hà nội, Ca ngợi Hồ chủ tịch...
Trong dòng người viếng ông, đưa ông về nơi
an nghỉ đời đời, có Đại tướng
Tổng tư lệnh Võ nguyên Giáp đến người đạp
xích lô, người quét rác đường phố thủ đô
Hà nội. Mộ ông chôn ở Mai Dịch những ngày sau rượu
trắng người ta để trên mộ ông.
Vậy “ cái quan định luận
“ nằm xuống thì cái mồ anh thế nào?
Trịnh công Sơn không có chức
tước gì cả, khi nằm xuống...một nghìn năm
trăm vòng hoa trắng đến viếng, ông không có vợ.
Cái đó làm ta suy nghĩ chứ. Đến như bà Khánh
Ly, một ca sĩ, vưà khóc vừa nói qua sóng đài BBC, “
Trịnh công Sơn là nửa cuộc đời tôi. Tôi là một
ca sĩ không tên tuổi nhưng nhờ nhạc Trịnh công
Sơn mà cả Sài gòn biết đến tôi và sau này bao nhiêu
người biết đến tôi là Khánh Ly . Trịnh công Sơn
không đi với tôi, người ta tưởng tôi là người
yêu, có thể là vợ, nhưng không ! Ông Trịnh công Sơn
không của riêng ai cả. Ông là người của quê hương,
sinh ra ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát
cho quê hương,và khi đất nước có biến cố,
người ta nghĩ Trịnh công Sơn sẽ đi với
tôi, nhưng không, Trịnh công Sơn là người của
quê hương và ở với quê hương. Có người
lầm tưởng ông theo Cộng sản sau năm 75. Không,
ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo quê hương. Vì vậy
khi ông sang Pháp,ông không dám đi đâu cả, ông ở trong một
quán Việt Nam ở Paris, vì có kẻ muốn giết ông,
coi ông là phản bội. Nhưng tôi biết Trịnh công Sơn
là người của quê hương, không bao giờ ông sang
một nước khác nói là quê hương thứ hai của
mình. Hôm nay tôi khóc ông vì nếu không có ông thì cũng không có tôi.
Nhưng mà người như tôi cũng không lôi kéo được
ông đi. Đến khi ông sang thăm nước Pháp, haio
người ngồi với nhau, uống với nhau ly cà phê
trong quán Việt Nam, hai người cùng khóc nhớ lại
những đêm mưa Sài gòn, chiến tranh trùm khắp quê hương,
“ hát cho đồng bào nghe”, “ dậy mà đi đồng bào
ơi . Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất
quê hương, đó là Trịnh công Sơn của quê hương.
Ông không phải là của riêng tư của ai hết.”
Một nghệ sĩ đi hát mà
để lại niềm thương tiếc trong lòng nhiều
người . Nhạc sĩ Trần long Ẩn đọc điếu
văn trước mộ Trịnh công Sơn.
Nhắc lại 1500 vòng hoa trắng
, người đi tiễn biệt Trịnh công Sơn toàn
đi bằng xe gắn máy, nườm nượp từ
thành phố đến nghĩa trang và đặc biệt
trong đám tang này có Đại tướng Võ nguyên Giáp đến
tiễn đưa Nhạc sĩ Trịnh công Sơn.
Tôi thấm thiá một bài học,
“ Chức tước nó làm lợi ích cho nhân dân , người
ta quý. Làm người thầy thuốc chữa được
bệnh cho nhân dân , đó là hạnh phúc. Người thầy
giáo truyền kiến thức, học vấn cho học trò,
người cán bộ hoạt động trên địa hạt
của mình..làm được việc có ích, nhà văn viết
những trang sách không xu thời, không bóp méo sự thật,
không dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những
trang sách đó người đời ghi nhận.”
LỜI CÁM ƠN CỦA NHÀ TRƯỜNG
Thưa nhà
văn Sơn Tùng
Hôm nay là buổi học cuối cùng
của khóa 40 lớp “ Đào tạo cán bộ quản lý ngành
giáo dục “ và là buổi sinh hoạt cuối cùng của khóa
học trên hội trường.
Cũng như người đạo
diễn của một vở kịch, màn cuối cùng trước
khi màn khép lại bao giờ cũng là màn xúc động nhất,
hay nhất và gây ấn tượng.
Hôm nay để có món quà chia tay các
đồng chí trước khi ra về, nhà văn Sơn Tùng,
chuyên gia nghiên cứu về Chủ tịch Hồ chí Minh, được
mệnh danh là “ nhà Hồ chí Minh học” đến nói chuyện
với chúng ta về “ chân dung một người “ mà tên tuổi
của người gắn liền
với tinh hoa và khí phách dân tộc. Đó là Chủ tịch
Hồ chí Minh muôn vàn kính yêu,và thực tế ý tưởng của
tôi được nhà văn đáp lại bằng những
mẫu chuyện của nhà văn hôm nay, tôi xin đưa ra
một suy nghĩ :
“ Đã đến lúc sự thật
phải trả về cho sự thật, lịch sử trả
về cho lịch sử với giá trị nguyên bản đích
thực của nó, dẫu có biết rằng sự thật
nói ra có xù xì ..nhưng vẫn có giá trị hơn rất nhiều
so với lời nói nhận định sai lạc , giả
dối, giá lạnh , không có hồn, nhưng sự thật đủ
quang minh chính đại phù hợp lý tưởng con người và đặc biệt đó phù hợp
với lương tâm của chúng ta.
Giờ chia tay với nhà văn Sơn
Tùng đã đến, xin thay mặt anh em thành tâm chúc nhà văn
và gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc, sống thanh thản
với một cuộc sống vật chất còn nghèo khổ.
Nhưng nhà văn ghi nhận cho
một điều, đối với anh em chúng tôi, những
giá trị tinh thần mà nhà văn đã đem đến
cho chúng tôi trong khoá học này luôn khắc sâu trong tâm trí chúng
tôi.
Trước khi ra về, một
lần nữa xin cám ơn
( Thời điểm Đại
hội 9 sắp khai mạc )
PHẦN PHỤ
LỤC
Nói chuyện với đồng
chí Cao Nham;
1) Đầu năm 2001 tôi có dịp gặp
và nói chuyện với Đại tá cựu chiến binh Cao
Nham tại Nam Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết
tôi không thể quên, theo lời kể của đồng chí
Cao Nham về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968, ông Lê Duẩn nói với Bác Hồ, “ Đề
nghị Bác để tôi đánh trận này, nếu không thắng,
tôi xin từ chức tổng bí thư nhưng với điều
kiện Bác phải cách chức Võ nguyên Giáp( không nói lý do?)
Vào trận
đánh kết quả không như ý ông Duẩn. Đến đợt
2 ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề
nghị trên,kết quả cũng không đạt được
như ý ông. Tiếp đến đợt 3, một lần
nữa ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị
trên, nhưng kết quả cũng không hơn gì các đợt
trước
Vậy là cả 3 đợt tấn
công và nổi dậy như ông Duẩn chủ trương
không đạt theo ý định của ông. Đương
nhiên ông phải” từ chức “ như ông tự xác định
với Bác chứ, “ quá tam” mà. Nhưng không thấy ông tỏ
thái độ nào cả ( trong câu chuyện của đồng
chí Cao Nham ).
Tuy nhiên ( có thể theo tôi hiểu)
Bác Hồ cũng không muốn có sự xáo trộn khi sự
nghiệp giải phóng miền Nam chưa hoàn thành nên Bác bảo
Lê Duẩn cứ làm tổng bí thư vì Duẩn có uy tín với
đồng bào miền Nam. Còn chú Giáp giỏi quân sự thì cứ
để chú ấy làm bộ trưởng quốc phòng.
2) Về chủ trương Tổng tiến
công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành, nhưng
thiểu số phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng
vì lợi ích của cách mạng không để tổn thất
cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn để
hỏi ông Giáp, “ Có cách nào giảm nhẹ thiệt hại? Ông
Giáp nói, “ Chỉ có cách đánh các căn cứ gần giới
tuyến để kéo bớt lực lượng địch
ra ngoài này. “
Vì thế ta mới thấy có các trận
đánh ác liệt dọc đường 9 như Côn Tiên, Dốc
Miêu, Khe Sanh, A sâu, A lưới.. Địch phải kéo ra 4
sư đoàn để đối phó ở ngoài này, Và Tổng
thống Giôn xơn đã có một câu tuyên bố phải tử
thủ Khe Sanh chính vào lúc đó.
3) Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn
dám đề nghị với Bác sự tự khẳng định:
Nếu không thắng thì xin từ chức?
Câu hỏi này có thể được
giải đáp với mẫu chuyện của ông Mười
Hương như sau:
Năm 68, khi tôi còn công tác ở
K.68 ( Bộ CA) ( Tôi về bộ CA tháng 8/1966 sau khi tốt
nghiệp đại học ngoại giao). Ông Mười Hương
là cục trưởng thay thế ông Nguyễn thế Tùng về
hưu. Lúc đó cơ quan còn đang ở Quan Nhân, sơ tán
cách Hà nội 30 km, ông Mười Hương nói chuyện với
cán bộ P ( K 68) có tổ công tác của tôi. Ông nói, “ Ý định
của ta trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy
tết Mậu Thân 1968 là chiếm
đài phát thanh Sài gòn, đánh sứ quán Mỹ bắt Martin,
đánh Dinh Độc Lập bắt Nguyễn văn Thiệu,
để chúng tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh
Sài gòn
Nhưng trận đánh diễn
ra không suông sẻ như ý muốn của ông Duẩn vì Đại
sứ Martin ở cách sứ quán 200m, còn Tổng thống Thiệu
về Cần Thơ ăn tết, do không nắm sát tình hình
đó nên không bắt được chúng ( theo lời kể
của ông Mười Hương ). Vì thế nên mới có đợt
1, đợt 2, rồi đợt 3 là bởi vì sau khi chiếm
được đài phát thanh Sài gòn từ đợt 1 rồi,
nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy
chờ bắt hai tên kia nên mới sinh ra có đợt 2 nhưng
cũng không tóm được Martin và Thiệu ,nên lực lượng
chiếm đài phát thanh vẫn cứ phải cố thủ
để chờ tiếp đợt 3 ( xem sao) . Và kết
quả thì ai cũng đã biết.
Ông Mười Hương nói tiếp,
“ Năm 1967 Bác có ý định vào Nam bằng đi bộ,
nhưng Bộ chính trị không đồng ý vì tuổi tác sức
khoẻ của Bác ( có lẽ chỗ này trùng với câu chuyện
ông Sơn Tùng nói về hội nghị ba nước Đông
Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy giờ ). Nên ta
cố ý giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68,
chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào Nam
theo nguyện vọng của Bác. ( Câu chuyện này chính xác đến
đâu thì tôi không rõ, nhưng đây là câu chuyện của ông
Mười Hương nói ở P 5 chúng tôi năm đó ).
Đến đợt 3 cũng không
bắt được Martin và Thiệu thì cơ hội “bất ngờ “
không còn nữa và địch phản công lại . Thế là
chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy nhằm
mục đích tối thượng không đạt được.
Tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm
phán với ta ở Paris
4) Vế cuộc đàm phán Mỹ- Việt
ở Paris ta đã chuẩn bị từ năm 1963, khi tôi còn
đang học khoá 3, khoa Đối ngoại của trường
Kinh Tài.
Trong buổi
nói chuyện với sinh viên ngoại giao khoá đó, sinh viên nêu
câu hỏi với Bộ trưởng Xuân Thuỷ về
tình hình chiến sự và đàm phán sẽ diễn ra theo hướng
nào và triển vọng thì ông Xuân Thuỷ nói, “ Cuộc chiến
diễn ra ác liệt thế nào thì ta đã biết, còn về
đàm phán thì cũng vì thế mà ta xác định thế này,
rồi ông đọc hai câu thơ ( Ông Xuân Thủy là nhà báo,
bộ trưởng ngoại giao và là nhà thơ ):
Đàm đàm đánh đánh đàm
đánh đánh
Đánh đánh đàm đàm đánh
đàm đàm.
Rồi ông
giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn
ra cù nhầy kiểu như thế ,mà đúng là thế thật.
Hội nghị Paris kéo dài từ năm sau tết Mậu Thân
1968 cho đến đầu năm 1973 ( 5 năm).
Để chuẩn bị cho cuộc
đàm phán đó, ông Xuân Thuỷ được rút khỏi
chức bộ trưởng ngoại giao để làm trưởng
đoàn đàm phán ở Paris. Ông Nguyễn duyTrinh lên làm bộ
trưởng ngoại giao từ đó.
Dưới đây là mẫu chuyện
nhỏ về ông Hà văn Lâu. Bác Hồ mời ông Hà văn
Lâu đến giao nhiệm vụ. Ông Hà văn Lâu đến
giao nhiệm vụ. Ông Hà văn Lâu hỏi Bác về công tác
sắp được giao, thì Bác nói, :
“ Tên chú thế
nào thì công tác của chú cũng thế “
Đó chính
là Hội nghị Paris là nơi ông Hà văn Lâu công tác lâu năm
ở đoàn đàm phán của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm
Câu chuyện tôi đuợc nghe kể
lại
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945,
Nguyễn huy Tưởng có hỏi cụ Hồ :
_ Bây giờ
đạo đức dạy cái gì ?
Cụ Hồ nói:
_ Cẩn,
kiệm, liêm, chính.
Chắc là ông
Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới
tất cả vì khi đó cũng đang có phong trào vận động
xây dựng đời sống mới thì dạy đạo
đức cũng phải là “ đạo đức mới
“ . Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xã hội
chủ nghĩa như bây giờ , nên ông Tưởng mới
nói :
_ Cái đạo đức đó cổ
quá
Thì cụ Hồ
trả lời như thế này với ông Tưởng:
_ Thế
thì ngô, luá có từ bao giờ ?
( mất một
đoạn )..có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức
“ Cần, Kiệm, Liêm , Chính ) là 4 đức tính thuộc về
đạo đức nhân văn đã đưa xã hội
tiến bộ và phát triển không ngừng đến ngày
nay. Và như vậy thì nó cũng không bao giờ cũ , không
bao giờ cổ, cũng như ngô, luá chúng ta ăn có từ
thời thượng cổ đến nay nó đang nuôi chúng
ta.
Xã hội loài người mà xa rời
4 đức tính đó thì chắc ai cũng hiểu là thế
nào rồi.
Đó là ý nghĩa của một
trong những câu thành ngữ cổ xưa “ còn giá trị với thời đại như
nhà văn Sơn Tùng nói ở trường đào tạo cán
bộ quản lý ngành giáo dục ngày 11 tháng 4 năm 2001
Trích một số thư mới đây
của Cựu chiến binh Trần nhật Độ, nguyên
chính ủy bộ tư lệnh binh chủng đặc công
( Khu tập thể Nam Đồng- Đống Đa- Hà nội).
Sau khi nhận xét , đánh giá công
lao cống hiến vào sự nghiệp giải phóng dân tộc
thống nhất đất nước của một số
đồng chí lãnh đạo, kể cả khuyết điểm
thiếu sót, thư đã viết:
· Mậu Thân 1968, mọi người không
đồng tình đánh đợt 2, 3 . Vốn không phải
thời cơ phát huy vai trò của chủ lực, lại không
còn điều kiện phát triển tiến công mà tổng
khởi nghĩa mà ngay từ đầu đã không khuấy
lên được
· Việc thành lập quân đoàn , cuối
năm 1970 anhVăn đã đề ra, nhưng bị bác, bị
thiểu số. Năm 1971 trong chiến dịch Trị Thiên
cũng vậy. Đến tháng 1o năm 1973 mới có quân đoàn
1, sau đó là quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm
sư đoàn là cấp số cọng, quân đoàn là cấp
số nhân.
· Chiến
dịch Trị Thiên năm 1972 , nếu giữ nguyên ý kiến
anh Văn lấy lại Trị Thiên làm hướng chủ
yếu thì sẽ có cánh quân thu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả
chiến dịch sẽ khác xa.
· Đánh Kampuchia, anh Văn cho rằng chỉ
nên đánh đến sông Mêkông, dừng lại và keó
Shihanouk về để cách mạng
bạn tự phát triển, tự giải phóng. Ta không mang
tiếng, không sa lầy, không bị cô lập.
· Trong các cuộc
nói chuyện với đồng bào ,cán bộ , không ít lần
đồng chí Lê Duẩn đã có lời phê phán, phản bác
Bác Hồ và có ý vượt trội lên. Ví dụ như nói,:
-Giáp thì sợ Mỹ, Bác thì sợ
Trung quốc. Bác không sát thực tế . Bác không có điều
kiện nghiên cứu cơ bản. Tôi đây, tôi nghiên cứu
rất nhiều lý luận cơ bản. Bác chịu ảnh
hưởng Nho giáo, Khổng tử..thậm chí có những
lần Bác đã đến hồi lẩm cẩm.”
( mất một
đoạn )..” Thời thắng Mỹ “ dưới bút danh
Thép Mới , quy hoạch 36 bài sẽ đưa ra kết luận
“ Thời thắng Mỹ “ là thời đại gì ? Đã đăng
được 16 bài trên báo Nhân Dân. Do làn sóng phản ứng
của đảng viên, cán bộ, nhân dân, buộc phải đình
chỉ không được đăng tiếp nữa. So với
16 bài đã đăng, tác giả và báo Nhân Dân đã kịp
chấm dứt và cắt ngang thời đại Hồ chí
Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ chí Minh ở đây
với hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu
cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó
là chống phong kiến thì chậm tiến hành cải cách
ruộng đất. Đối với chế độ xâm
lược thì hiệp định Ge-ne-vơ là thoả hiệp
với địch, là ảo tưởng , là ngăn cản
nhân dân Việt Nam, Lào, Kamphuchia giành thắng lợi hoàn toàn.
· Cũng trên báo Nhân Dân, bài báo giới thiệu
tác phẩm , “ Bức thư vào Nam “ của đồng chí Lê
Duẩn, đã xưng tụng đồng chí Lê Duẩn là “
tổng công trình sư “ của đường lối đánh
Mỹ và “ tổng tư lệnh trên thực tế “ . Chỉ
một câu ngắn gọn gồm vỏn vẹn 16 từ ,
bài báo đã đồng thời phủ định hai nhân vật
lịch sử trọng yếu là Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp.
Hồ chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, là đại biểu cho ý chí và
khí phách của toàn dân tộc, là người thiết kế
đường lối đánh Mỹ đã được
manh nha từ chiến thắng Điện biên phủ. Từ
Hội nghị Geneve, Võ nguyên Giáp là bí thư quân uỷ trung ương
và tổng tư lệnh. Cho nên không thể là danh nghĩa mà
là thực quyền chiến đấu và hoạt động
( có văn bản chính thức của trung ương).
· Nghị
quyết 15 năm 1959 là do Bộ chính trị phân công Võ nguyên
Giáp khởi thảo với sự chấp bút của Hoàng Tùng
và Trần quang Huy tại Đồ Sơn
· Sau khi nước nhà thống nhất,
nếu chấp nhận ý kiến của ông ( Đại tướng
Võ nguyên Giáp) về xây dựng kinh tế là: trước hết
phải để thời gian khôi phục rồi mới
tính đến phát triển, và phải đặt nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu, thì chắc chắn là hạn
chế được những sự mất cân đối
nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy
giờ, đã dẫn đến khủng hoảng đời
sống.
· SƠN TÙNG
Nghiên cứu Bác Hồ, nhớ về Sơn Tùng – nhà Hồ Chí Minh học thực thụ
“Các chú đừng vẽ rắn thêm chân”, đó là câu Bác Hồ thường nói với những người sống gần Bác khi những người đó miêu tả, đánh giá, nhận định về một người hay một việc nào đấy. Ngay cả việc Bác Hồ thấy người khác nói, viết về mình, nặn tượng, vẽ tranh về mình, Bác cũng rất ngại, và thường là Bác khuyên người ta đừng có làm điều đó.
Thời còn là sinh viên ở trong ký túc xá của đất Mễ Trì (Hà Nội), nơi mà các lớp học trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân của Mỹ mới từ nơi sơ tán trở về (năm 1970), có một đêm các lớp sinh viên chúng tôi đã được nghe ông Hoài Thanh, một nhà thơ có tiếng cũng là một cây bút phê bình văn học sắc sảo, nói chuyện về thơ Hồ Chí Minh, có nghệ sĩ Kim Cúc ngâm thơ “minh hoạ”. Tôi nhớ rất đậm lời ông Hoài Thanh bình rằng: “Thơ Bác hay vì đó là thơ Bác”. Có lần, trong đêm, Bác nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, có buổi nghe thấy ông Hoài Thanh bình thơ của Bác. Một hôm, tình cờ gặp Hoài Thanh trong một hội nghị, Bác nói vui với Hoài Thanh rằng, thơ của Bác không hay đến thế; những ý tứ mà Hoài Thanh bình ở trong Đài, thì khi làm thơ, chính bản thân Bác không nghĩ đến.
Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà thơ. Lúc trong tù của Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, năm 1942, Bác tâm sự thể hiện trong bài thứ hai, tập Ngục trung nhật ký:
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi;
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Nam Trân dịch:
Mở đầu tập nhật ký
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuyây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Còn trong cuộc sống hằng ngày, kể cả khi làm Chủ tịch nước, Bác làm thơ để giãi bày, để kêu gọi mọi người trong các phong trào thi đua yêu nước. Bác khiêm tốn đã đành, nhưng Bác sợ người ta “vẽ” sai mình, mà đó chính là điều quan trọng nhất.
Sự thật là những điều ai cũng có thể thấy rõ trong cuộc sống. Nhưng, không ít những sự thật bị che dấu, che lấp, bị nằm lẫn trong vô vàn cái sự rối cuộc đời. Có khi sự thật đã trở thành một thứ “trầm tích” mà nếu muốn biết rõ, hiểu rõ thì phải khai nó lên. Khác và đối lập với sự thật là những điều giả dối, xuyên tạc.
Người ta hay gây nhiễu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu nhiều nhất.
Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh đến thăm em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà”[1].
Tháng 1 năm 1947, Bác Hồ viết trong bức thư chia buồn khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc”[2].
Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mười của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt được mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”[3].
Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”[4]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, có đề nghị Bác lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Bác thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[5].
Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Không, không có tài liệu nào thuyết phục người đọc được cả.
Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của Bác cả. Nếu Bác có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Bác đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Bác khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.
Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Bác không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam của Bác và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống hồ Bác lại là một người nổi tiếng, Bác là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào.
Sơn Tùng là người rất rành và rất đúng đắn về việc nghiên cứu Hồ Chí Minh. Sơn Tùng là nhà viết văn, nhà báo, nhà thơ. Ông đã có thơ mà Nhạc sĩ Lê Việt Hoà đã phổ nhạc (bài Gửi em chiếc nón bài thơ). Nhưng điều này thì không phải ai cũng biết: cả cuộc đời ông nghiên cứu Hồ Chí Minh một cách say mê, nghiêm túc, chỉn chu, đầy bản lĩnh. Sơn Tùng đi nhiều, viết nhiều, mà đề tài dường như chuyên sâu nhất là về Hồ Chí Minh, mà tác phẩm nổi tiếng nhất, có tiếng vang nhất của ông là Búp sen xanh đến nay đã tái bản hơn 30 lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng (Tác phẩm này có lúc bị “đánh” một cách phũ phàng, vô lối).
Sơn Tùng lao động, tìm hiểu vấn đề một cách say sưa, tận tụy với công việc, cày sâu, cuốc bẫm, thâm canh trên mảng đề tài Hồ Chí Minh. Điều đáng ngạc nhiên là ông là một thương binh nặng nhất trong thang bậc xếp hạng hiện nay ở nước ta (hạng 1/4), hiện vẫn còn mảnh đạn ở trong đầu, vết thương vẫn còn hành hạ ông. Mấy buổi chiều mới chớm hạ năm 2007, lần theo cái ngõ nhỏ ồn ã, gập ghềnh, lổn nhổn đầy ổ gà, tôi đến thăm Sơn Tùng và nhân đó ngỏ ý mời ông đến trao đổi ý kiến chung quanh vấn đề nghiên cứu Hồ Chí Minh cho nhóm nghiên cứu của tôi ở Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nhưng thấy ái ngại quá cho ông. Những ngày đó, thi thoảng Sơn Tùng vẫn bị máu rỉ từ tai ra.
Thường thì những buổi chiều trong căn hộ xinh nhỏ của Sơn Tùng mà ông gọi là Chiếu Văn ở trên gác hai chung cư ngõ Văn Chương chật hẹp, bất cứ mùa hè nóng bỏng hay mùa đông buốt giá, vẫn thế, vẫn hiện một con người nhỏ thó, đầy nghị lực, ngồi tiếp khách theo lối thiền, không bàn, không ghế mà ngồi bệt xuống sàn gỗ. Tiếng con chim cu gáy sống tự do không lồng như một thành viên trong gia đình Sơn Tùng, nó hay đứng trên giá sách cất tiếng gù chào mỗi khi có khách đến nhà, thật vui, mà ông gọi đó là “tiếng vàng cu gáy mênh mang thành phố vào Xuân” (Rất tiếc, mèo đã bắt trong một lúc chủ nhà sơ sẩy). Sơn Tùng và gia đình ông sống một cuộc sống đạm bạc. Hằng ngày, Sơn Tùng vẫn thiền như là một phương thuốc cực kỳ hiệu nghiệm cho cuộc sống.
Bởi vậy, đến nay, Sơn Tùng đã hơn 80 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, vẫn viết đều. Trong những buổi chiều tà mùa đông trước đó, vào những năm cuối thế kỷ XX, trong tiếng gió bấc rít dài từng cơn đập vào cánh cửa tầng hai khu chung cư cổ lâu ngày thiếu sự trung tu có vẻ ọp ẹp, trong cái màn mưa phùn như bụi giăng đầy ngõ nhỏ Văn Chương của phố Khâm Thiên (Hà Nội), Sơn Tùng nói cho tôi những điều sâu lắng về Hồ Chí Minh. Ông nói chậm rãi, khúc triết, mắt của người thương binh chống Mỹ ấy nhìn xa xăm như rọi thấu vào quá khứ, lôi nó trở về với cuộc sống ồn ã chốn thị thành ngõ nhỏ nơi gia đình ông đang ở. Giọng Diễn Châu xứ Nghệ gốc của Sơn Tùng không lẫn vào đâu được, phảng phất âm điệu của miền bắc phát ra ở xứ Nghệ. Không biết cái âm điệu ngôn ngữ ấy gốc là từ bắc vào hay lại chính từ gốc Diễn Châu lan ra bắc? Chưa biết chừng.
Qua nhiều buổi tôi nghe ông nói hoặc tôi hóng chuyện ông nói với người khác tại căn hộ nhỏ của ông, thì ra, có ba điều tôi ngỡ ngàng.
Thứ nhất, trong các tác phẩm của Sơn Tùng, dù là bài báo, là tiểu thuyết, là ký, v.v. thì đều từ cái nền nghiên cứu khoa học của ông mà ra. Ông nghiên cứu theo kiểu riêng của ông, tỷ mỉ, cẩn trọng, theo phương pháp khoa học, có đối chiếu, có kiểm định. Có nhiều sự kiện, Sơn Tùng đến tận nơi nghiên cứu, xem xét, kiểm định, đối chiếu, có những lúc khó khăn hoặc vết thương tái phát không tự mình đi được thì phu nhân của ông đưa đi. Sơn Tùng chính là nhà Hồ Chí Minh học thực thụ. Ông biểu đạt những kết quả nghiên cứu của ông về Hồ Chí Minh cho bàn dân thiên hạ biết theo cách riêng của ông, và chỉ mình ông, độc nhất vô nhị, mới có có cái cách đó.
Thứ hai, gia đình Sơn Tùng có quan hệ họ hàng với Hồ Chí Minh. Bà nội Sơn Tùng (Cụ Hà Thị Tự), là cháu họ bà nội Hồ Chí Minh (Cụ Hà Thị Hy). Em trai ông nội của Sơn Tùng đỗ tú tài cùng khoa với em trai ông ngoại Hồ Chí Minh. Đã từ lâu, từ trong kháng chiến chống Pháp 9 năm, Sơn Tùng đã có ý thức tìm hiểu, nghiên cứu về gia đình họ tộc Hồ Chí Minh, đã đến Kim Liên nhiều lần hầu chuyện và được chị, anh của Hồ Chí Minh là bà Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm hết sức tin cậy. Điều này thì Giáo sư Phan Ngọc đã viết trong mấy trang đầu cuốn Hoa râm bụt của Sơn Tùng lần xuất bản của Nhà xuất bản Thông tấn năm 2007.
Thứ ba, bên trong và đằng sau những trang ký, những tiểu thuyết, những bài báo của ông là ngồn ngộn những tư liệu về Hồ Chí Minh mà Sơn Tùng đã mã hoá theo cách riêng của mình. Ở Sơn Tùng, có sự tổng hoà tư chất của một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà viết kịch bản văn học và, tôi nhấn mạnh, nhà khoa học cộng với tình cảm của một chiến sĩ kháng chiến bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc theo tiếng gọi của Hồ Chí Minh cũng như ý thức trách nhiệm của một công dân, một kẻ sĩ thời đổi mới.
Sơn Tùng có nhiều tài liệu về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng, trong cuộc đời Hồ Chí Minh có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Nhưng Sơn Tùng khẳng định một cách chắc chắn, có cơ sở, rằng Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con.
Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai bà là người Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả nhà nghiên cứu, giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội Quảng Tây – Trung Quốc hiện đã nghỉ hưu) cũng đã có bài viết tương đối dài đăng trong Tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về cuộc sống chồng – vợ Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Nhưng, tôi đã đọc rất kỹ bài viết của Hoàng Tranh thì thấy rằng, lập luận và những chứng cớ mà ông nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại viết theo Hoàng Tranh.
Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ của Liên bang Nga từ năm 1992 (tiếp nối Lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại phông Lịch sử Chính trị-xã hội). Vì một số người không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng.
Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt “tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Bác, cho rằng Hồ Chí Minh chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí Minh chỉ coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7 bà vợ và nhiều con như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí Minh đến thăm. Làm gì có! Nhiều người cứ úp úp mở mở, viết và nói cứ lấp la lấp lửng làm ly kỳ hóa cái chuyện vợ con của Hồ Chí Minh.
Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi đàm đạo với ông về chuyện này. Ông “lý sự” rằng, các ông Trường-Chinh, Phạm Văn Đồng nhà có mấy đời đội mũ cánh chuồn mà khâm phục cái tâm, cái đức của Hồ Chí Minh và được cảm hoá từ nhân cách Hồ Chí Minh thì không phải chuyện vừa; giả sử Hồ Chí Minh là người cứ lăng nhăng, lít nhít về chuyện tình ái thì các ông ấy cạch, không bao giờ đi theo Hồ Chí Minh. Cổ nhân trên thế giới đã nói: Rendez à César ce qui est à César (Hãy trả lại cho Xêda những cái gì thuộc về Xêda). Sự thật bao giờ cũng là sự thật.
Tôi thực sự thích thú cái cách nghiên cứu và thể hiện về Bác Hồ trong các tác phẩm của Sơn Tùng, một cách thể hiện đúng, sâu đậm về tình cảm nhưng không có gì là “thần thánh hoá”.
Việc giải thích điều này có cái khó của nó. Ý dân và lòng dân thì đã phong thánh cho Hồ Chí Minh một cách tự nhiên rồi. Sơn Tùng đã viết trong tác phẩm Hoa râm bụt của mình (xuất bản nhiều lần, lần gần đây nhất là Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007) ở bài “Một bài học làm người”, trang 388: các cụ đồ Nho năm 1947 ở quê Sơn Tùng (Diễn Châu, Nghệ An) luận về đôi mắt Hồ Chí Minh rằng, “Mắt Cụ Hồ là thiên nhãn, là lưỡng mục trùng đồng đích thị thánh nhân. Thánh nhân chứ không phải thánh thần”. Các cụ nói rằng, Thánh Gióng trong huyền thoại nhưng mang đầy đủ đức tính Con người. Con người hoàn thiện đều thành thánh. Trần Quốc Tuấn Hưng Đạo Đại Vương là bậc nhân tướng, văn võ song toàn, lúc sống ngài cứu nước hộ dân, khi thác ngài hiển thánh. Đó là đức Thánh Trần, là thánh nhân. Ngày nay, Hồ Chí Minh là vị thánh sống. Dân mình mới thấm thía hơn ai hết nỗi nhục của cái kiếp làm thân trâu ngựa. Dân phong thánh cho người thực sự cứu nước, thương dân chứ đâu phải vua chúa! Vua chúa chỉ nhớ đến dân khi có giặc ngoại xâm, vua chúa thương dân thì ít thấy…
Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi ông viết lại lời các cụ đồ Nho trên đây và lời cảm bình của chính bản thân ông. Đọc hồi ký của một số chính khách, một số nhà hoạt động chính trị, xã hội ở nước ngoài, thấy có một số nhận định liên quan đến Hồ Chí Minh về mặt này. Nhưng, giữa vấn đề dân phong thánh cho Hồ Chí Minh hoặc một số người cho là Hồ Chí Minh là ông thánh với vấn đề trong nghiên cứu tránh việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh là hai chuyện khác nhau.
Thường thì ở đời, ngợi ca thì dễ, chê bai thì khó, vì chê là khó lọt cái lỗ tai con người lắm. Khen đúng, chê đúng mới là điều cần làm. Khi đã thiên lệch, thì có khi người ta khen hết lời, dùng những tính từ đẹp nhất, dùng đại ngôn để gán cho một người nào đó mà mình muốn khen. Cũng có khi thiên lệch thì lúc chê, người ta chê hết lời, bôi đen, nói xấu từ đầu tới chân. Sự thật là tiêu chuẩn cao nhất mà nhà khoa học nói chung cũng như nhà sử học nói riêng phải tôn trọng. Trình bày đúng sự thật như con người Hồ Chí Minh vốn có thì không dễ dàng một chút nào. Trong việc này, tôi không bàn đến người nghiên cứu có trong tay số lượng và chất lượng các tài liệu cần thiết, là bột để “gột nên hồ”, tuy rằng điều này là thực sự cần thiết mà thiếu nó thì nhà khoa học không thể dựng lại được một bức tranh toàn cảnh đúng như nó có. Cái phần quan trọng không kém là nhà khoa học không được tô hồng hay bôi đen sự thật. Đây chính là tư cách đích thực của nhà khoa học mà nếu vi phạm thì người đó không còn là nhà khoa học nữa.
Bản chất của cả hai khuynh hướng tô hồng hay bôi đen chỉ là một: đó là sự bóp méo, sự làm sai lệch sự thật lịch sử. Không phải là việc bôi đen có hại hơn việc tô hồng, mà cả hai đều có hại như nhau. Đừng tưởng bất cứ sự ngợi ca nào đều là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Sự ngợi ca không có cơ sở chắc chắn, không khoa học, mà tôi gọi đó là sự tô hồng, thì, như đã viết theo lời của ông Việt Phương , đều trừ đi chứ không thể nào là cộng vào cho Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đi vào đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam là bởi cái nhân, cái nghĩa, cái trí, cái dũng, cái liêm, cái tín của Bác đã cảm hoá được ý thức văn hoá đa thần của nhiều người Việt Nam. Người ta tôn thờ Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh Hồ Chí Minh để thờ, lập đền thờ…là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là “văn hoá đền”, văn hoá tâm linh. Đó là sự tự cảm từ mỗi con tim mỗi người, là ý thức cộng đồng với những người đã khuất, mong người đã khuất đi theo người đang sống, chở che, răn dạy những người đang sống.
Hồ Chí Minh đi vào lòng người dân không thần bí, không huyền thoại, tuy rằng, nhiều câu chuyện kể về Bác có vẻ đượm màu huyền thoại. Hồ Chí Minh hiện hữu như một nhân vật cùng với hiện tại, khi mà con người ta sống, để người ta cầu mong và hành động như mình, vì những điều thánh thiện.
Trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, điều thích hợp hơn cả là tuân thủ nguyên tắc lịch sử – cụ thể, là xem xét một cách toàn diện các mối liên hệ lịch sử cơ bản. Phải xem xét Hồ Chí Minh trong một chỗ đứng cụ thể và sự phát triển của các quan điểm của Người ra sao. Một điều chắc chắn là Hồ Chí Minh là một thực thể trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Hồ Chí Minh bị thực tế lịch sử chế định, và chính bản thân Bác cũng chế định lại lịch sử. Hồ Chí Minh có những thành công trong cuộc sống nhưng Bác cũng có những điểm không thành công, những hạn chế chủ quan. Đúng là nhân vô thập toàn. Bởi vì chính bản thân Bác cũng quan niệm: người đời ai cũng có khuyết điểm cả, không nhiều thì ít, không lớn thì bé; trừ khi người ta nằm trong bụng mẹ và cái lúc người ta nằm trong quan tài, còn lại trong cuộc đời mọi người đều có khuyết điểm.
Thần thánh là những “nhân vật” không có thực, nếu có thì từ con người có thực nào đó, người ta đã làm cho linh thiêng con người đó lên (tâm linh hoá), con người đã khái quát, trừu tượng hoá theo cảm nhận riêng. Nếu thần thánh hoá Hồ Chí Minh trong nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của Bác thì rất dễ biến những lời nói, những quan điểm của Bác thành những công thức định sẵn, xơ cứng, như giáo lý nào đấy- điều mà Hồ Chí Minh rất kỵ và đã không ít lần nhắc nhở là: đối với bất kỳ điều gì, của ai, của nước nào, cũng phải sáng tạo, phát triển, vận dụng cho phù hợp với từng lúc, từng nơi. Thần thánh hoá là lối nghiên cứu dễ dãi nhất và dẫn đến sai lầm lớn nhất.
Cái điều mà nhiều người đã viết Hồ Chí Minh là vĩ đại, là thiên tài, là lỗi lạc, là kiệt xuất (4 cặp từ) hoá ra nhiều khi lại biểu đạt trong những hành động rất bình dị nhưng cũng đầy cảm động mà Bác đã làm.
Đó là cử chỉ đi dém chăn cho bộ đội ngoài mặt trận để bộ đội có giấc ngủ ngon trong đêm đông.
Đó là nỗi nhớ thương đối với đoàn dân công đêm phải ngủ ngoài rừng.
Đó là những bữa nhịn ăn để dành gạo cứu những người đang đói khi nước nhà mới giành được độc lập.
Đó là những bức thư chia buồn, động viên, những buổi đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước.
Đó là những buổi lội ruộng cấy lúa bằng máy cấy thí nghiệm, những buổi tát nước gầu dai, đạp nước gầu guồng chống hạn.
Đó là những buổi cùng bà con ngư dân Thanh Hoá kéo rùng đánh cá nhân dịp đi nghỉ ở biển Sầm Sơn.
Đó là những buổi lội ruộng thăm bà con nông dân, lấy gang tay ước đo rễ cây lúa.
Đó là những buổi trầm ngâm làm thơ khi trăng vào cửa sổ.
Đó là hình ảnh Bác cầm bó hoa hoặc một bông hoa tặng cho cháu gái và cho khách nước ngoài.
Đó là hình ảnh Bác chẻ củi, hình ảnh vác cuốc đi tăng gia sản xuất.
Đó là hình ảnh Bác đang gõ máy chữ tuôn ra những dòng chữ phục vụ cho quốc kế dân sinh.
Đó là dáng Hồ Chí Minh cưỡi ngựa hiền, con ngựa do đích thân ông Vi Văn Định chọn cho, thoăn thoắt đi công tác ở chiến khu Việt Bắc.
Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đi bài quyền giản lược, những buổi Hồ Chí Minh tập võ thuật cùng anh em cảnh vệ.
Đó là những buổi Hồ Chí Minh đánh bóng chuyền với anh em cơ quan, mà anh em hay đùa ông bằng cách cứ được bóng là bỏ nhỏ tới vị trí Bác đang đứng làm cho Bác cứ loay hoay hoài trong sân bóng.
Đó là hình dáng Hồ Chí Minh lịch thiệp, hào hoa, rất “tây”, nhanh nhẹn “vít cổ” những người bạn nước ngoài để ôm hôn thắm thiết.
Đó là lần Hồ Chí Minh cầm gậy chỉ bản đồ chiến sự.
Đó là dáng hạc của Hồ Chí Minh đích thân đi Chiến dịch Biên Giới năm 1950.
Đó là ánh mắt bừng sáng của Hồ Chí Minh khi tiếp các cháu thiếu niên, nhi đồng.
Đó là dáng “nhạc trưởng” Hồ Chí Minh hiền hoà cầm đũa chỉ huy dàn nhạc bài “Kết đoàn” ở vườn Bách thảo (Hà Nội) năm 1960.
Đó là hình Hồ Chí Minh ngồi khoan thai, đĩnh đạc chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng.
Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Đó là cái nheo mắt nhìn về phương nam xa xôi, là nỗi suy tư, trăn trở của Hồ Chí Minh về miền Nam, Bác tự nhận mình là người chưa làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam, “đi đến nơi nhưng về chưa đến chốn”.
Đó là niềm rạng rỡ trong ánh mắt, nét mặt của Hồ Chí Minh khi nhận được tin chiến thắng miền Nam.
Vân vân và vân vân.
Tôi cảm thấy rằng, viết về Hồ Chí Minh cũng dễ mà cũng khó. Dễ là bởi vì những điều Hồ Chí Minh sống và làm việc, những điều Hồ Chí Minh nói và viết là những lời lẽ của bình dân. Khó là bởi vì, cuộc đời Hồ Chí Minh chính là phản ánh những điều cao cả qua những cái bình dị. Hồ Chí Minh như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì Bác làm được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy. Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta, ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây.
Một số người nước ngoài, trong đó có cả nhà khoa học và nhà bình luận chính trị, không hiểu được hết tấm lòng người dân Việt Nam yêu nước đối với Hồ Chí Minh. Do đó, trong một số bài viết, trong một số sách của họ viết về Việt Nam, viết về Hồ Chí Minh, có lúc họ thiên về cái ý là ở Việt Nam có sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Hiểu sùng bái cá nhân là hiểu theo nghĩa xấu, như ở trên thế giới đã có một số người được sùng bái cá nhân như vậy, rồi thì cuộc đời của họ về sau chẳng ra làm sao cả. Đối với Hồ Chí Minh ở Việt Nam, tuyệt nhiên không có tệ sùng bái cá nhân, không có sự thúc ép của bất kỳ tổ chức nào, mà đó là sự tự thôi thúc của bao con tim, khối óc của đồng bào của mình mà Hồ Chí Minh đã gắn bó.
Lòng người khó đo. Đúng như thế. Chẳng có cái thước nào đo được lòng người. Nhưng tấm lòng của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh thì đã được thử thách qua bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, có thể đo được một cách rõ ràng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử. Nói thế cho có văn có vẻ, nhưng nôm na thì hình ảnh Hồ Chí Minh có trong tấm lòng của những người Việt Nam yêu nước qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đặc biệt, Hồ Chí Minh – cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong của Bác — đã trở thành giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mà khi đã trở thành giá trị văn hoá thì chúng thẩm thấu và truyền một cách tự nhiên theo chiều dài sự phát triển của dân tộc. Hơn thế, những giá trị văn hoá đó được bảo tồn và phát huy thêm qua bao nhiêu năm tháng như dòng sữa mẹ nuôi con người ta lớn lên.
Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hoá trong tài sản văn hoá của dân tộc. Giá trị đó là bất diệt vì nó có ích, nó thẩm thấu, nâng cao nền văn hoá Việt Nam cả trong tương lai.
Đã nhiều lần đọc tác phẩm của Sơn Tùng, đã nhiều lần hầu chuyện Sơn Tùng, tôi đã cảm được những điều trên đây mà Sơn Tùng đã phổ cho tôi.
Mong Sơn Tùng mạnh khoẻ, nói và viết cho đời nhiều tác phẩm hơn nữa.
[1] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74. [2] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172.
[4] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151.
[5]
http://thehehochiminh.wordpress.com/2010/01/03/nghien-c%E1%BB%A9u-bac-h%E1%BB%93-nh%E1%BB%9B-v%E1%BB%81-s%C6%A1n-tung-nha-h%E1%BB%93-chi-minh-h%E1%BB%8Dc-th%E1%BB%B1c-th%E1%BB%A5/
CỔNG THÔNG TIN TƯ LIỆU VỀ CHỦ TỊCH HCM
Nguyên nhân của các luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh và giải pháp đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc đó
Vài lời mở đầu
Chuyên đề này không đi sâu vào việc nêu lên và phân tích những luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phản bác về cuộc đời, sự nghiệp, trước tác của Hồ Chí Minh, mà là nêu lên và phân tích những nguyên nhân, đồng thời nêu một số giải pháp đấu tranh với các luận điệu đó. Đương nhiên, theo một lôgíc của cả đề tài này, trong một phạm vi nhất định nào đó, có thể tôi sẽ đề cập một số luận điệu có liên quan để làm minh chứng.
I. NGUYÊN NHÂN
1. Nguyên nhân từ sự thâm thù chủ nghĩa cộng sản
Tôi muốn nhấn mạnh thêm rằng, trong nguyên nhân từ sự thâm thù chủ nghĩa cộng sản (hay viết theo thuật ngữ khoa học là “chủ nghĩa chống cộng anti-communisme”), có cả việc một số người ghét sự nghiệp cách mạng Việt Nam, ghét Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đi đến ghét luôn cá nhân Hồ Chí Minh. Điều này có lôgíc của nó. Bởi vì, sự nghiệp của Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một.
Chủ nghĩa cộng sản đã và đang là một tâm điểm để các thế lực thù địch đả kích. Đã có rất nhiều chiến dịch lớn có quy mô quốc tế chống phá, vu khống chủ nghĩa cộng sản. Gần đây nhất là Hội đồng châu Âu ra một luật lên án chủ nghĩa cộng sản, đặt chủ nghĩa cộng sản ngang hàng như là chủ nghĩa phátxít. Các thế lực thù địch không từ một phương thức nào để xuyên tạc về chủ nghĩa cộng sản, trong đó có việc nói xấu những lãnh tụ, những người lãnh đạo cách mạng vô sản ở nhiều nước, ngay cả đối với V.I.Lênin. Điều này không có gì lạ. Đã có thời những người hận thù cộng sản ra sức xuyên tạc về “chân dung” của người cộng sản khi cho rằng, đó là người không có tình cảm, không có tình nghĩa cha con, vợ chồng, anh em, v.v. Thậm chí, cực đoan hơn, họ còn vẽ tranh tuyên truyền người cộng sản với hình ảnh mồm ngậm con dao găm, máu từ mồm rỉ ra, mặt đằng đằng sát khí, cứ như một con ma cà rồng, một con ngáo ộp. Dương Thu Hương là một trong những người ghét cộng sản, đã nói thẳng tâm trạng của nhóm người căm ghét chủ nghĩa cộng sản liên quan đến vấn đề này như sau: “Hồ Chí Minh đối với những người căm thù cộng sản trở thành hố rác để người ta trút tất cả những sự phẫn nộ, thù hận và sự khinh bỉ, vân vân và vân vân”[1].
Đã có lần Hồ Chí Minh ứng xử để “quảng bá” cho hình ảnh của người cộng sản trước định kiến xấu của nhiều người trên thế giới. Trong chuyến công du sang thăm Pháp với tư cách Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946, tại một buổi tiếp xúc giữa giới báo chí với Hồ Chí Minh, sẵn ý định nhấn mạnh sự không cảm tình cộng sản, có nhà báo đã hỏi Hồ Chí Minh: “Thưa Chủ tịch, Chủ tịch có phải là người cộng sản không?”. Hồ Chí Minh trả lời bằng cách đến bên lẵng hoa, vừa rút từng bông hoa tặng mỗi nhà báo đứng gần kèm theo câu trả hóm hỉnh: “Tôi là người cộng sản như thế này này” (Je suis communist comme ca). Người cộng sản cũng như bao con người khác, cũng có trạng thái tâm lý hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, cũng có tình cảm, cũng có tình nghĩa, cũng có một cuộc sống gia đình bình thường. Có khác chăng là nếu cách mạng cần thì họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng để phục vụ Tổ quốc, biết ứng xử mối quan hệ gia đình trong mối quan hệ chung với Tổ quốc.
Đây thuộc về cái TÂM. Cái tâm không trong sáng, đầy thù hận với sự nghiệp cách mạng gắn với tên tuổi của con người Hồ Chí Minh, thì điểm nhìn và cách nhìn của những người có cái tâm không trong sáng đó chắc chắn bị lệch lạc. Ở đây, không phải là sự ngộ nhận mà là ý đồ cố tình xuyên tạc. Ngộ nhận thì khác. Có thể người ta có cái tâm trong sáng, nhưng những thông tin đến với người ta bị sai lệch cho nên rất dễ làm cho người ta đi đến nhận định không đúng. Mỗi một khi thông tin đã được điều chỉnh, được đính chính thì người ta có thể dễ dàng thay đổi lại nhận định. Hoặc, cũng đối với một số người vốn có cái tâm trong sáng, khi nghiên cứu, nhìn nhận về Hồ Chí Minh nhưng với phương pháp không đúng thì cũng có thể đánh giá về Hồ Chí Minh bị sai lệch. Cũng như trường hợp trên đây, nếu được thay đổi phương pháp nghiên cứu, phương pháp tiếp cận cho phù hợp, cho đúng đắn thì người ta sẽ điều chỉnh lại nhận định cho đúng đắn hơn.
Đằng này, không phải là từ các nguồn thông tin, từ mức độ và chất lượng thông tin (các tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh); không phải là từ phương pháp tiếp cận không phù hợp hay phương pháp nghiên cứu, nhìn nhận sai, mà là từ định kiến thâm thù. Đã như vậy thì một số người thuộc về trường hợp này sẵn sàng bóp méo thông tin, xuyên tạc, đổi trắng thay đen, đánh tráo khái niệm. Có một số trường hợp, một số người thuộc dạng có cái tâm không trong sáng này thể hiện cách nói, thể hiện ra các bài viết một cách tinh vi, ngụ ý, ẩn dấu, nhưng có không ít trường hợp thật trắng trợn, cực đoan, thể hiện ra bằng những lời lẽ “hàng tôm hàng cá”, hằn học, chửi bới, mạt sát Hồ Chí Minh, v.v. Tất cả các dạng đó có thể không hợp với đối tượng người này nhưng lại hợp với đối tượng người nghe, người đọc loại khác. Nhưng, xem ra, loại bịa đặt nhân chứng, tài liệu, hoặc dựa trên một vài sự kiện có thật để xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, trước tác Hồ Chí Minh, nghĩa là những cách trình bày lắt léo, tinh vi, cộng với bút pháp có vẻ ly kỳ hấp dẫn là có vẻ “ăn” hơn cả, nghĩa là có tác động lớn hơn cả, lừa được không ít người, nhất là đối với lớp người trẻ.
Vấn đề xuyên tạc, tôi xin nhấn mạnh lại một lần nữa, không phải là từ nhận thức, hay nói đúng hơn là vì ở tầm nhận thức thấp kém, hoặc thiếu thông tin đầy đủ, đúng đắn, mà là ở ý đồ xấu khi người ta đánh giá về Hồ Chí Minh.
Các nguồn tài liệu liên quan đến thân thế, sự nghiệp của Hồ Chí Minh cho đến nay nhiều vô kể. Nhưng, cái quan trọng nhất là cái nhìn, cái tâm của mỗi người khi đánh giá Hồ Chí Minh. Cùng một sự kiện, nhưng với cái tâm như thế này thì người viết đánh giá Hồ Chí Minh như thế, nhưng cùng với cái tâm khác thì người ta lại đánh giá về Hồ Chí Minh khác hẳn một trời một vực.
Số người viết sách, viết báo, cả báo viết, cả báo mạng, để cố tình xuyên tạc Hồ Chí Minh cho đến nay không ít. Họ xuyên tạc đủ điều, “bôi đen” Hồ Chí Minh từ đời riêng đến cả các mối quan hệ công tác và cố ý khái quát cả các những hiện tượng nhất thời, không đúng với bản chất của sự việc. Có khi họ cố tình đem Hồ Chí Minh đối lập với dân tộc Việt Nam. Có khi họ cho rằng, Hồ Chí Minh là đồ đệ của Quốc tế Cộng sản, của V.I.Lênin, của J.Xtalin nhưng núp dưới bóng của chủ nghĩa dân tộc. Họ lý giải hiện tượng lòng dân và ý dân Việt Nam yêu kính Hồ Chí Minh là do sùng bái cá nhân, v.v.
Một số người ở trong nước và nước ngoài không có tâm lành, không có đức dày cố tình gây nhiễu, xuyên tạc về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tôi lấy thí dụ về một vài vấn đề sau đây để làm rõ điều này. Đó là việc Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu, bị xuyên tạc nhiều nhất.
Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh, đến thăm em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc nhà”[2]. Điều này thì quả là rất phù hợp với quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân Hồ Chí Minh với việc riêng, việc nhà, việc nước. Ngày 9-11-1950, ở Việt Bắc kháng chiến, sau khi đi công tác về, Hồ Chí Minh nhận được tin ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời ở quê (25-8 năm Canh Dần, tức là ngày 6-10-1950 dương lịch).
Ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời, nhưng mãi hơn một tháng sau Hồ Chí Minh mới nhận được tin. Trong ánh chiều tà của núi rừng đại ngàn Việt Bắc, ngập dòng lệ, Hồ Chí Minh thảo một bức điện gửi về quê:
“Gửi họ Nguyễn Sinh
Nghe tin anh Cả mất, lòng tôi rất buồn rầu. Vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh đau yếu tôi không thể trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu.
Than ôi! Tôi xin chịu tội bất đệ trước linh hồn anh và xin bà con nguyên lượng cho cho một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước
Ngày 9 tháng 11 năm 1950
Chí Minh”[3]
Như vậy là, chữ hiếu và chữ đệ ở đây được Hồ Chí Minh đặt dưới “việc nước”. Việc nước là trên hết thảy, việc nhà phải tuân thủ và phải chịu sự hy sinh vì việc nước, biết rằng bản thân mình có tội bất đệ và Hồ Chí Minh đã nhận tội trước linh hồn của người anh trai. Hồ Chí Minh còn cho rằng, hiếu là hiếu với nhân dân, không những ta thương cha mẹ ta mà còn thương cha mẹ người khác, phải làm cho mọi người biết yêu thương cha mẹ; rằng, người kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình nhất, vì nếu không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng chục triệu bố mẹ người khác cũng bị đế quốc, phong kiến dày vò. Cái tôi cá nhân của Hồ Chí Minh bao giờ cũng được Hồ Chí Minh đặt thấp hơn cái cực đại của Tổ quốc, của nhân loại cần lao. Vì vậy, có thể rằng, cái việc lấy vợ của Hồ Chí Minh cũng vậy. Lúc trai trẻ thì Hồ Chí Minh đi đây đi đó khắp bốn phương trời, không tiện lấy vợ, lúc về nước thì đã luống tuổi, cũng có lúc định lấy vợ nhưng không thành.
Tháng 1 năm 1947, Hồ Chí Minh viết trong bức thư chia buồn khi được tin con trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột. Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc” [4].
Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mười của một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt được mục đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc sách làm vườn”[5].
Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Hồ Chí Minh nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một nhà!”[6]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí Minh 58 tuổi, trông Hồ Chí Minh đã già lắm rồi, có đề nghị Hồ Chí Minh lập gia đình để có người thân thương hằng ngày săn sóc, thì Hồ Chí Minh thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[7].
Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Không, không có tài liệu nào thuyết phục người đọc được cả.
Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của bản thân cả. Nếu Hồ Chí Minh có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Người đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Hồ Chí Minh khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.
Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Hồ Chí Minh không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống chi Hồ Chí Minh lại là một người nổi tiếng, là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái kim nào. Còn miệng thế gian thì càng không thể nào che được.
Đã có người viết về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng, trong cuộc đời Hồ Chí Minh nếu có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Nhưng cần khẳng định một cách chắc chắn rằng, Hồ Chí Minh chưa bao giờ có vợ con.
Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai người vợ Trung Quốc, hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả nhà nghiên cứu, giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội Quảng Tây – Trung Quốc hiện đã nghỉ hưu) cũng đã có bài viết tương đối dài đăng trong Tạp chí Đông Nam Á Tung hoành, số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về cuộc sống vợ chồng Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Nhưng, tôi đã đọc rất kỹ bài viết của Hoàng Tranh thì thấy rằng, lập luận và những chứng cớ mà ông nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại viết theo Hoàng Tranh. Công bằng mà nói, giáo sư Hoàng Tranh không phải là người không có cái tâm trong sáng. Ông vẫn là một nhà Hồ Chí Minh học có tiếng ở Trung Quốc và trên diễn đàn khoa học quốc tế. Ở Hoàng Tranh, có cái gì đấy như là sự đoán định không chắc chắn về việc này, sự suy diễn chỉ trên một mẩu nào đó của sự kiện, cho nên tôi cho rằng, những nhận định về chuyện vợ con của Hồ Chí Minh là không thuyết phục được người đọc.
Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu trữ chính trị-xã hội của Liên bang Nga từ năm 1992 (tiếp nối Lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô). Vì một số người không đặt vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai là vợ chồng.
Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt “tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí Minh coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7-8 bà vợ và nhiều con như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí Minh đến thăm. Làm gì có. Nhiều người cứ úp úp mở mở, viết và nói cứ lấp la lấp lửng làm ly kỳ hóa cái chuyện vợ con của Hồ Chí Minh.
2. Muốn “hạ bệ thần tượng”
Trong tiến trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam càng ngày càng nhận thức rõ rằng, Hồ Chí Minh đã đóng vài trò cực kỳ quan trọng đối với cách mạng Việt Nam; rằng, thực tế của sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và của những năm đổi mới nói riêng đã chứng tỏ rằng, không những chủ nghĩa Mác – Lênin, mà còn là tư tưởng Hồ Chí Minh, đã trở thành yếu tố chỉ đạo làm nên thắng lợi cho nhân dân Việt Nam. Vì thế, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6,7-1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội VII của Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[8]. Đại hội VII nêu rõ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và của cả dân tộc”[9].
Trong khi khẳng định và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội VII còn cho rằng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh…tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với mỗi người dân Việt Nam là vô cùng gần gũi, gắn liền với tình cảm yêu thương vô hạn của nhân dân đối với Bác, bởi công lao to lớn và đạo đức cách mạng trong sáng của Người. Vì vậy, nói tư tưởng Hồ Chí Minh là phù hợp với thực tế cách mạng nước ta, phù hợp với tình cảm và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta”[10].
Đại hội VII xác định: “Điều kiện cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ được định hướng xã hội chủ nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội”[11]. Đại hội nêu lên yêu cầu: “Trong những năm tới, nhiệm vụ chủ yếu của các ngành khoa học xã hội là vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của thế giới”[12].
Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cũng đã được ghi nhận trong hai văn kiện nữa rất quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1991 thông qua và trong Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 1992.
Đến Đại hội IX (4-2001), Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đầy đủ hơn Đại hội VII: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”[13].
Tiếp đó, Đại hội IX còn chỉ ra một cách cụ thể một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh: đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân…
Đến đây, chúng ta thấy rằng, Đại hội IX của Đảng không những cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, mà cái mới lần này Đảng ta nêu rõ Tư tưởng Hồ Chí Minh còn là kết quả của sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin nữa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 4 năm 2006, khi đề cập tư tưởng Hồ Chí Minh, đã nhận định: “Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua đã khẳng định rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin mãi mãi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng đó đã dẫn dắt chúng ta trên mỗi chặng đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là sức mạnh tập hợp và đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau” Đây chính là luồng đánh giá tiếp nối, là sự khẳng định thêm một lần nữa tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị, vai trò to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.
Trong nhiều “kênh” chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam, muốn đưa Việt Nam đi theo con đường khác, không phải là con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, các thế lực thù địch của cách mạng Việt Nam đã nhằm vào hai “kênh” chính yếu nhất: chống Đảng Cộng sản Việt Nam và chống Hồ Chí Minh.
Cũng dễ hiểu thôi, vì đó là kênh thứ nhất: chống một tổ chức chính trị đang cầm quyền, tìm mọi cách làm cho Đảng Cộng sản Việt Nam yếu đi, làm cho nó dần dần biến chất hoặc đi đến tan rã. Nếu điều đó xẩy ra thì tình hình sẽ như thế nào, chúng ta thấy rõ ngay: mọi thành quả cách mạng mà Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam tốn bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, bao nhiêu tinh lực, bao nhiêu núi xương sông máu, phút chốc sẽ bị đổ xuống sông xuống biển; Việt Nam sẽ đi theo con đường khác.
“Kênh” thứ hai là chống vào nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam và đánh vào giá trị tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc, hay nói như nhiều người đã nói là “hạ bệ thần tượng” Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh, cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Hồ Chí Minh, đã trở thành giá trị văn hóa có tính bền vững của cả dân tộc Việt Nam. Làm sụp đổ thần tượng này, tức là làm đánh mất giá trị văn hóa và làm cho Việt Nam đi theo một con đường khác. Giá trị tinh thần Hồ Chí Minh với Đảng Cộng sản Việt Nam, với sự phát triển của dân tộc trên con đường xã hội chủ nghĩa là một. Đánh vào Hồ Chí Minh cũng tức là đánh vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chĩa mũi dùi vào Hồ Chí Minh, hạ bệ “thần tượng” Hồ Chí Minh cũng là một biện pháp mà các thế lực xấu, thế lực phản động thường làm. Chính vì vậy, trên các phương tiện thông tin đại chúng, mà trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin 3.0 hiện nay, những bài, những sách viết xuyên tạc về Hồ Chí Minh quá nhiều. Những người chống đối sự nghiệp cách mạng Việt Nam, trong đó có cả việc chống Hồ Chí Minh, đã thẳng thừng tuyên bố rằng: “Trong khối “8406” bây giờ có mục tiêu cương quyết đạp đổ thần tượng Hồ Chí Minh, phá bỏ huyền thoại, và vì thế tìm đủ mọi cách để có thể hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh bằng mọi giá”[15].
Trong nhiều ý kiến xuyên tạc, đáng chú ý là những ý kiến cho rằng, không có tư tưởng Hồ Chí Minh; rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là điều do Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng tượng ra; rằng, cuộc đời của Hồ Chí Minh đầy những điều giả dối, Hồ Chí Minh là con người độc tài, v.v. do đó không xứng đáng là một “thần tượng” để mọi người dân Việt Nam ngưỡng mộ; rằng, sự ngợi ca, tôn vinh Hồ Chí Minh chỉ là sự sùng bái cá nhân mà thôi.
Trong nhiều biện pháp, thì biện pháp đánh vào cái gốc, đánh vào nền tảng tư tưởng, đánh vào yếu tố tinh thần, đánh vào giá trị văn hóa với tư cách như là la bàn định hướng đi cho dân tộc, đánh vào lãnh tụ của sự nghiệp cách mạng Việt Nam…là biện pháp thâm hiểm nhất. Cho nên, những kẻ xấu không từ một thủ đoạn nào, một hành vi nào, tận dụng tất cả mọi diễn đàn có thể có được trong công nghệ thông tin hiện đại để bôi xấu, xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, trước tác của Hồ Chí Minh. Họ muốn viết càng nhiều càng tốt, nói càng nhiều càng tốt, trên nhiều phương tiện càng tốt, dựng chuyện ly kỳ, bịa đặt, nói và viết úp úp mở mở…mà làm cho ngay cả không ít người có lương tri có lúc cũng “loáng choáng”.
Tôi khẳng định rằng, tập trung vào hai “kênh” đó, chĩa mũi dùi vào hai “kênh” đó, nếu thành công, thì đó là con đường ngắn nhất để những người có ý đồ xấu đối với cách mạng Việt Nam đạt được mục tiêu. Do vậy, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, là những cuộc chiến đấu gian khổ, quyết liệt để bảo vệ sự phát triển của dân tộc, tức là bảo vệ và khẳng định, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định lại ngay từ ngày đầu thành lập đầu năm 1930.
3. Nguyên nhân từ sự bất mãn của một số cá nhân
Những người bất mãn là những người Việt Nam từng có liên quan đến việc này việc nọ, từng giữ chức vụ này chức vụ nọ trong bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam, nay không còn có tình cảm với cách mạng hoặc thù hận do nhận thức sai lệch, do bị “dính” đến một hoặc nhiều sự kiện nào đó, hoặc bản thân mình hoặc người trong gia đình mình bị tổn thương… Điều này là dễ hiểu, vì trong quá trình cách mạng Việt Nam, có một số vấn đề sai lầm ảnh hưởng đến gia đình người này, người nọ, có một số sự việc rất nhạy cảm liên quan trực tiếp đến người này, người nọ. Chúng ta thấy đó là những người liên quan đến cải cách ruộng đất, đến “Nhân văn giai phẩm”, đến nhóm chống Đảng, v.v. Một số trong họ đang ở trong nước, một số khác định cư ở nước ngoài, có trường hợp “ra đi” hợp pháp, lại có trường hợp không hợp pháp. Chúng ta thường thấy bài vở, tác phẩm của họ trên các quầy sách báo nước ngoài, trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng, trên các báo mạng internet. Đó là Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Lê Hữu Mục, Thế Anh, Dương Thu Hương, v.v.
Tôi thấy rằng, những tác phẩm, bài vở của họ về cách mạng Việt Nam, về Hồ Chí Minh sặc mùi cực đoan, xuyên tạc, chửi rủa, hằn học, thâm thù…Họ dùng đủ lời lẽ, lập luận để vu cáo, xuyên tạc. Họ làm ra vẻ họ là những người “trong cuộc”, là những người nằm trong lòng các sự kiện đó, thậm chí là những sự kiện cho đến hiện nay được nhiều người coi là bí ẩn, cho nên họ cho rằng, họ là những người nắm chắc được bản chất của sự kiện để đưa ra thông điệp cho người đọc, người nghe rằng, những điều họ viết, họ nói mới là sự thật. Họ tự phong cho mình là người “vén những tấm màn bí mật” ở chốn “thâm cung bí sử”.
Thế yếu nhất của họ thường là bị mang danh là người bất mãn với chế độ chính trị, với cách mạng Việt Nam, bị nhiều người coi là “những phần tử phản động”, cho nên họ có thái độ cực kỳ cay cú, cho nên họ sẵn sàng bịa chuyện, hoặc dựa trên một vài sự kiện, tài liệu có thật để rồi thêm thắt, bình luận, hoặc viết rất ly kỳ, tinh vi để nói xấu Hồ Chí Minh, nói xấu cách mạng, tự bào chữa cho những sai lầm của họ hoặc gia đình họ trong quá khứ, hoặc nhấn mạnh, tô đậm những sai lầm, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính bản thân Dương Thu Hương cho rằng: “Còn đối với những người vượt biên, hay những người là nạn nhân của chế độ cộng sản, buộc phải rời Tổ quốc ra đi trong một nỗi đau khổ khốn cùng, trong một lòng thù hận khôn nguôi, thì chỉ có Hồ Chí Minh là cái đích, cái biểu tượng dễ nhất để mà khạc nhổ, để mà đánh đấm”[16].
Sự bất mãn của họ làm cho họ phát ngôn rất cực đoan về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ tìm mọi cách nói xấu Hồ Chí Minh, ly gián người này người nọ, bịa chuyện. Họ tận dụng nhiều diễn đàn, thể loại để làm việc đó, như viết báo, nhất là trên mạng internet; viết sách; nói chuyện với nhiều đối tượng; viết văn, v.v.
Số người bất mãn này thường liên lạc với nhau ở trong nước và ngoài nước, tự phong là những người dân chủ, bất đồng ý kiến với Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Trong số những người bất mãn, thực ra không phải ai cũng xuyên tạc Hồ Chí Minh. Họ chĩa mũi dùi vào Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng có không ít người vẫn kiềng nể Hồ Chí Minh; nhưng phần đông trong số họ là xuyên tạc đả kích cả hai, cả Đảng Cộng sản Việt Nam, cả cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực ra, tác dụng của sự xuyên tạc từ những người bất mãn này không thực sự lớn, vì họ mang danh là những người phản bội; người đọc, người nghe thấy rõ bản chất, thái độ, động cơ chính trị của họ. Lợi thế của họ chính là ở chỗ họ nói với những người nghe và người đọc rằng, họ là những người trong cuộc; họ là sản phẩm của cách mạng, thậm chí một số người xuất thân là con em cách mạng, v.v. Số này, lúc đầu còn có vẻ e dè, nhưng càng về sau viết xuyên tạc về Hồ Chí Minh càng mạnh mẽ hơn, không ngại bất cứ khía cạnh nào, kể cả những khía cạnh về mặt đời tư của Hồ Chí Minh, cố tình bôi đen đời tư của Hồ Chí Minh và rồi mức độ càng ngày càng cay cú, cực đoan.
Trở lên bên trên, tôi đã nêu lên ba nguyên nhân của các luận điệu xuyên tạc về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và trước tác của Hồ Chí Minh. Có thể còn một số nguyên nhân nữa, có cả nguyên nhân xa. Chẳng hạn, có cả nguyên nhân là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến hiện nay chưa được giới khoa học trong nước nghiên cứu một cách đầy đủ, chưa được làm rõ và khẳng định một cách chắc chắn. Cũng có thể nói rằng, còn khá nhiều khoảng trống nghiên cứu về Hồ Chí Minh chưa được lấp đầy. Điều này vô hình trung trở thành một mặt thuận lợi cho những kẻ xấu lợi dụng để xuyên tạc Hồ Chí Minh. Ở đây, cần có giải pháp hữu hiệu mà tôi sẽ trình bày ở sau.
II. GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ HỒ CHÍ MINH
Giải pháp về vấn đề này có thể có nhiều, nhưng trong điều kiện hiện nay, theo tôi, có ba giải pháp chủ yếu sau đây làm thành một thể thống nhất để chống lại những luận điểm xuyên tạc về Hồ Chí Minh:
1. Đẩy mạnh việc nghiên cứu một cách sâu sắc và đúng đắn, đầy đủ về Hồ Chí Minh
Việc nghiên cứu Hồ Chí Minh đã được đặt ra từ lâu, và cũng đã có một số kết quả tốt, nhưng quả thật cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục phải được đẩy mạnh, cần “lấp những khoảng trống”, cần có những nhận định, đánh giá sát thực hơn, với nguồn tài liệu phong phú, đầy đủ hơn, với những phương pháp phù hợp hơn.
Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh được người ta biểu đạt qua nhiều lĩnh vực. Ngoài lĩnh vực khoa học ra, còn có cả trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật nữa. Rồi cả phương pháp tiếp cận, phương pháp nghiên cứu, phương pháp thể hiện…của mỗi người đều có sự khác nhau. Khác nhau như thế là sự thường. Mà chính do có khác nhau cho nên nhân vật Hồ Chí Minh mới được người ta biểu đạt một cách nhiều chiều, lung linh, sinh động. Và, như thế thì quả thật Hồ Chí Minh là một nhân vật thật sự hấp dẫn.
Cho đến nay, thành quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh ở trong nước, về những nét đại thể, đã đạt được một số điểm sau đây:
Một là: Đã nêu lên được những nét lớn, có tính cơ bản về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhận thức là một quá trình. Đúng thế. Không phải ngay từ đầu mà những nhà hoạt động chính trị và những nhà khoa học đã đánh giá một cách đầy đủ, đúng đắn về Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã bị nhiều lần, nhiều người hiểu lầm, hiểu lầm một cách dai dẳng. Từ khi Hồ Chí Minh trở về nước năm 1941, nhất là từ sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc đánh giá về Hồ Chí Minh từ các nhà hoạt động chính trị đã khách quan hơn, đúng đắn hơn. Nhưng, dù sao, với hoàn cảnh Hồ Chí Minh còn sống, việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh chưa thực sự được đẩy mạnh, thể hiện ngay cả ở những trang tiểu sử của Người với tư cách là lãnh tụ của một Đảng và là nguyên thủ quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, rất sơ sài, lỗ mỗ, trống vắng nhiều sự kiện cơ bản trong cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.
Kể từ khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969 trở đi, việc nghiên cứu Hồ Chí Minh ở trong nước và ngoài nước được đẩy mạnh hơn. Đặc biệt là từ sau Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi Đảng nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng chủ nghĩa Mác – Lênin, làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, thì việc nghiên cứu Hồ Chí Minh càng được đẩy mạnh hơn. Lần đầu tiên, đã có hẳn một Chương trình khoa học cấp nhà nước mã số KX.02 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” (giai đoạn 1991-1995) với 13 đề tài do Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chủ trì, Giáo sư Đặng Xuân Kỳ (Viện trưởng) làm Chủ nhiệm và Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Cố vấn. Sau giai đoạn đó trở đi, tuy không thành một chương trình với quy mô lớn, nhưng một số đề tài khoa học nghiên cứu Hồ Chí Minh các giai đoạn tiếp theo vẫn được tiếp tục tiến hành. Tất cả công việc triển khai nghiên cứu Hồ Chí Minh trên đây, nhất là từ Chương trình KX.02, cho chúng ta thấy, Hồ Chí Minh đã được biểu đạt một cách rất cơ bản, từ cả thân thế, sự nghiệp đến tư tưởng, cả những tác phẩm của Người. Nhiều khoảng trống về Hồ Chí Minh đã được san lấp bằng những kết quả nghiên cứu khoa học xác đáng. Nhiều tài liệu về Hồ Chí Minh, của Hồ Chí Minh đã được đính chính cho chính xác, đã được bổ sung cho đầy đủ hơn. Nhiều nhận định, đánh giá về Hồ Chí Minh đã được đặt trên cơ sở khoa học, chắc chắn hơn.
Hai là: Đã hình thành lực lượng nghiên cứu Hồ Chí Minh ở trong nước tương đối đông đảo, nghiên cứu một cách có bài bản hơn.
Lực lượng nghiên cứu Hồ Chí Minh trong những năm từ sau 1991 trở đi đã được tập hợp lại, hình thành trong các viện nghiên cứu, trong các nhà trường, tạo thành một lực lượng chuyên nghiệp đi sâu vào lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy và đã hình thành một chuyên ngành “Hồ Chí Minh học”. Cho đến nay, lực lượng đó đã có hầu khắp nước, trong tất cả hệ thống các trường chính trị, các trường quân đội, công an, các trường đại học và cao đẳng.
Có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về Hồ Chí Minh đã được công bố. Năm 2004, trong khuôn khổ tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) đã tiến hành nghiên cứu hai chương trình khoa học trọng điểm, trong đó có Chương trình tổng kết Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới. Công trình khoa học này đã được Nhà xuất bản Lý luận chính trị xuất bản tháng 5 năm 2005[17]. Công trình đã tổng thuật, tuy chưa được đầy đủ, nhưng cũng đã nêu lên được những nét chính về các công trình ở trong và ngoài nước viết về Hồ Chí Minh.
Đã có rất nhiều giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh được xuất bản và đưa vào dạy và học trong các trường. Đó là Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh được biên soạn bởi Hội đồng Trung ương Chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (Ban biên soạn: GS Đặng Xuân Kỳ – Chủ biên; GS Vũ Khiêu; GS Song Thành), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Bộ Giáo dục và Đào tạo có Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong các trường đại học và cao đẳng trong cả nước (Tập thể tác giả: GS,TS Mạch Quang Thắng – Chủ biên; PGS Lê Mậu Hãn; PGS,TS Vũ Quang Hiển; TS Phạm Ngọc Anh; PGS,TS Ngô Đăng Tri; PGS,TS Bùi Đình Phong; TS Ngô Văn Thạo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. Theo chủ trương biên soạn chương trình, giáo trình mới, cuốn Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh lần sau, được nghiệm thu cuối năm 2008, do các vị sau đây biên soạn: PGS,TS Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), GS,TS Mạch Quang Thắng, GS,TS Nguyễn Ngọc Cơ, PGS,TS Vũ Quang Hiển, TS Lê Văn Thịnh, dự định sẽ xuất bản năm 2009. Ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngay từ nửa cuối những năm 90 thế kỷ XX trở đi, đã biên soạn nhiều tập bài giảng, giáo trình cho các hệ đào tạo cao cấp lý luận chính trị, cử nhân chính trị, cao học. Một số học viện, trường đại học trong và ngoài Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng đã biên soạn giáo trình riêng cho cơ sở đào tạo của mình. Có thể nói rằng, với việc mở đầu rất tích cực và có hiệu quả từ Chương trình khoa học cấp nhà nước “Nghiên cứu Hồ Chí Minh”, mã số KX.02, giai đoạn 1991-1995, việc nghiên cứu Hồ Chí Minh đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Ba là: Phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh đã được chú ý cho phù hợp hơn, đúng đắn hơn.
Những phương pháp nghiên cứu được sử dụng đã tuân thủ phép biện chứng duy vật, tôn trọng sự thật, liên hệ tổng thể, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể, v.v.
Đó là một mặt của tình hình. Nhìn nhận một cách nghiêm khắc, tôi cho rằng, công tác nghiên cứu Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, giải pháp để chống lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh, ngoài việc phát huy những kết quả tốt đã đạt được trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, còn phải chú ý khắc phục những hạn chế sau đây:
Trước hết, đó là vẫn còn nhiều tài liệu của Hồ Chí Minh, về Hồ Chí Minh chưa được sưu tầm đầy đủ, chưa được xử lý một cách khoa học.
Muốn nghiên cứu để có những nhận định chính xác, trên cơ sở khoa học về Hồ Chí Minh, điều cốt yếu nhất là phải có những tài liệu cơ bản, tương đối đầy đủ của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh.
Có người chỉ dựa vào tài liệu thành văn từ nhiều nguồn khác nhau để nghiên cứu và viết về Hồ Chí Minh, nhất là những tài liệu ở các kho lưu trữ trên thế giới. Lớn nhất là ở Nga và ở Pháp. Tài liệu nhiều ở Pháp là vì Hồ Chí Minh đã có một thời gian sống và hoạt động yêu nước, cách mạng ở Pháp (gần 10 năm – không liên tục). Khối lượng tài liệu từ các báo cáo của mật thám Pháp theo dõi Nguyễn Ái Quốc khá nhiều và rất tỷ mỉ, tuy chỉ là những nhận xét bên ngoài.
Những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam (tôi gọi chung cho các thời kỳ của các tên gọi Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam) và liên quan đến Hồ Chí Minh có rất nhiều ở kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô (đặt tại thủ đô Mátxcơva), phông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh đã hoạt động ở Liên Xô từ mùa hạ năm 1923 và sau đó gần một năm chính thức trở thành một cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Việt Nam là một phân bộ độc lập của Quốc tế Cộng sản từ tháng 4 năm 1931. Do đó, các báo cáo, thư từ, các tài liệu khác liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và liên quan đến Hồ Chí Minh được lưu trữ khá nhiều ở đấy. Hơn nữa, công tác lưu trữ ở Liên Xô có từ khá sớm, được bảo đảm tốt trên một cơ sở khoa học.
Không ít lần, trong khuôn khổ quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước của Liên Xô và Việt Nam, nhiều cán bộ của Việt Nam đã sang khai thác nguồn tài liệu này. Nhưng, thực sự “cơ chế” cứng nhắc, cái cơ chế gần như đóng từ phía Liên Xô đã không cho phép các cán bộ Việt Nam khai thác được gì nhiều trong kho tư liệu đó. Không riêng gì đối với Việt Nam mà Liên Xô còn áp dụng chung cái cơ chế đóng này cho tất cả những ai đến khai thác tài liệu lưu trữ ở đây, dù đã được thoả thuận qua cấp bộ Đảng, Nhà nước.
Liên Xô tan rã đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Một cơ chế hoàn toàn mới, một cơ chế mở đối với kho lưu trữ Quốc tế Cộng sản đã được thực thi. Nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới phần thì nhanh chân hơn, phần thì nhạy cảm thông tin hơn, phần thì nhiều tiền hơn, đã đặt chân đến kho lưu trữ Mátxcơva trước những cán bộ Việt Nam để khai thác những tài liệu, trong đó có những tài liệu về Hồ Chí Minh mà chưa từng được công bố.
Việt Nam lúc này, năm 1992-1993, theo tôi được biết, có ít nhất hai đoàn sang khai thác những tài liệu liên quan đến Đảng Cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh tại kho lưu trữ Mátxcơva. Một đoàn của Cục lưu trữ thuộc Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một đoàn của Ban Chủ nhiệm Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp nhà nước giai đoạn 1991-1995 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh”, mã số KX.02.
Sau thời gian khai thác tài liệu từ nguồn này, cả ở trong và ngoài nước, người ta đã công bố một số tài liệu về Hồ Chí Minh mà từ trước đến lúc bấy giờ chưa được ai công bố, trong đó cải chính, đính chính lại một số bài viết của Hồ Chí Minh mà do trước đây chưa có tài liệu gốc để kiểm chứng cho chính xác. Một số tài liệu được bổ sung, đưa vào bộ Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 12 tập được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản trong hai năm 1995, 1996 (Sau này, đến năm 2000, 2001, bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập được tái bản không sửa chữa, bổ sung)[18]. Ngày 18-5-2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Quyết định số 142/QĐ-TW, đã chủ trương tổ chức tiến hành sưu tầm, xác minh, bổ sung các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh cho bộ Hồ Chí Minh Toàn tập, dự định sẽ xuất bản vào dịp kỷ niệm 120 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh, năm 2010.
Năm 2006, trong một lần đến thăm Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hà Nội, ông S.V. Xtépashin (Tổng Kiểm toán Liên bang Nga) đã có ấn tượng rất sâu sắc về những tư liệu, hiện vật tại Bảo tàng. Tính đến thời điểm năm 2006, Bảo tàng Hồ Chí Minh của Việt Nam đã lưu giữ được 130 000 tài liệu, hiện vật gốc về Hồ Chí Minh, trong đó trưng bày hơn 2 500 tài liệu, hiện vật. Theo đề nghị của S.V. Xtépashin, trong dịp Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn châu á – Thái Bình Dương (APEC) từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 11 năm 2006 ở Hà Nội và nhân đó thăm chính thức Việt Nam, Tổng thống Liên bang Nga Vlađimia Vlađimirôvích Putin đã trao cho Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh Triết bộ phim tài liệu “Tên Người là Hồ Chí Minh”, nhiều bản sao tài liệu về Đảng Cộng sản Việt Nam và về Hồ Chí Minh từ kho lưu trữ của Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản trước đây.
Gần đây nhất là vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 2006, Đoàn cán bộ Bảo tàng Hồ Chí Minh thuộc Bộ Văn hoá – Thông tin Việt Nam (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch) đã dành ra một tháng sang sưu tầm tài liệu tại Kho lưu trữ Lịch sử Chính trị Xã hội Liên bang Nga. Đoàn đã sưu tầm được 1 000 trang tài liệu trong số hàng vạn trang về Hồ Chí Minh. Đó là những bức thư, các bản báo cáo, bản thảo, bút tích, nhiều bài viết của Hồ Chí Minh những năm 1923 – 1952 chủ yếu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Nga; những bài phát biểu của Hồ Chí Minh trên nhiều diễn đàn quốc tế; không ít giấy tờ cá nhân liên quan đến hoạt động của Người những năm 1922-1938 (thẻ dự các Đại hội Đảng Cộng sản Pháp, Đại hội Quốc tế Cộng sản, Đại hội Quốc tế Thanh niên, thị thực nhập cảnh nước Nga, hộ chiếu, một số bản khai lý lịch, v.v.). Có cả những đoạn phim tư liệu ghi dấu ấn của Hồ Chí Minh dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản, Hội nghị Quốc tế nông dân. Vẫn còn hàng trăm thước phim tài liệu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh có trong Kho lưu trữ này của Liên bang Nga. Đó là chưa kể có thể còn rất nhiều những tư liệu quý về Hồ Chí Minh đang lưu giữ tại nhiều kho lưu trữ ở các nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Đài Loan… thậm chí ở trong một số cá nhân.
Cho đến hiện nay, tài liệu của Hồ Chí Minh (tức là chính những bài nói, bài viết của bản thân Hồ Chí Minh), tài liệu về Hồ Chí Minh (tức là những bài viết của nhiều người cả trong và ngoài nước Việt Nam về Hồ Chí Minh, trong đó có cả những bài viết đã được khuôn vào hàng sách giáo trình, tập bài giảng chung, cũng như giáo trình dùng trong các học viện, các trường đại học và cao đẳng) có tương đối nhiều.
Lại có một dạng sách tham khảo nữa là các chuyện kể có liên quan đến Hồ Chí Minh. Các chuyện kể này là hồi ký, hồi tưởng của những người cùng hoạt động với Hồ Chí Minh, của những người được một hay nhiều lần gặp Hồ Chí Minh. Thậm chí, lạ thay, cả của những người chưa từng gặp Hồ Chí Minh lần nào lại biên soạn những chuyện kể về Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là con người của hành động. Có nhiều khi quan điểm của Người, tư tưởng của Hồ Chí Minh lại phát tiết từ chính hành động chứ không từ sách, báo của Người, không từ lời nói của Người. Do đó, những chuyện kể đóng góp một phần quan trọng nào đó cho việc tìm hiểu Hồ Chí Minh. Những bài viết, những cuốn như của T. Lan “Vừa đi đường vừa kể chuyện” hay của Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” (đang nghi là do chính Hồ Chí Minh viết), v.v. hay những bài báo, những cuốn sách kể chuyện hoặc viết về cuộc sống thường nhật của Hồ Chí Minh cũng rất quý. Một điều tôi cần nêu ở đây là, mặc dù tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh nhiều như vậy nhưng vẫn còn nhiều tài liệu vẫn còn đang ở dạng nghi vấn, nhiều tài liệu về Hồ Chí Minh, nhiều chuyện kể (hồi ký, hồi tưởng) về Hồ Chí Minh còn chưa đạt được tính chân xác. Điều này là dễ thấy. Trí nhớ của con người, động cơ của người đưa tin khác nhau. Không nói đâu xa, ngay cả những sự kiện, không phải sự kiện nhỏ mà sự kiện lớn hẳn hoi, diễn ra cách đây không lâu lắm, chẳng hạn sự kiện ở Dinh Độc Lập (Sài Gòn) trưa ngày 30-4-1975, mà mỗi người nhớ một phách, ỏm tỏi lên, ai cũng bảo là mình đúng.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác sưu tầm, xử lý những tài liệu liên quan đến Hồ Chí Minh cả ở trong và ngoài nước, không nên vì vấn đề eo hẹp kinh phí để buông lỏng việc này. Việc sưu tầm những tư liệu, hiện vật của Hồ Chí Minh, về Hồ Chí Minh vẫn đang còn ở phía trước, chủ yếu là ở các kho lưu trữ nước ngoài, ở những cá nhân nào đó trên khắp bốn phương trời vì vốn dĩ Hồ Chí Minh có lẽ là một người hoạt động chính trị đi nhiều nhất các nước trên thế giới (khoảng gần 40 lượt nước trong vòng 30 năm, từ năm 1911 đến năm 1941). Chúng ta mới biết được những điều chủ yếu nhất trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, còn những chi tiết của cuộc đời Hồ Chí Minh, có lẽ khó mà biết được một cách hoàn toàn.
Hai là, còn khá nhiều “khoảng trống” về cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh chưa được làm rõ.
Chính vì còn có nhiều “khoảng trống” về Hồ Chí Minh chưa được nghiên cứu làm rõ cho nên vô hình trung có “đất trống” cho những kẻ xuyên tạc hoạt động mạnh. Tôi chỉ lấy một thí dụ về chuyện đời tư, về chuyện Hồ Chí Minh có hay không có vợ con thôi để thấy rõ mặt này. Cho đến nay, chưa có một công trình chính thức nào khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: dứt khoát Hồ Chí Minh không có vợ con. Ngay cả những cuốn tiểu sử Hồ Chí Minh ở trong nước cũng chưa thật sự có điểm nhấn để khẳng định điều này. Năm 2005, có một đồng chí ở Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) nói với tôi rằng, trên mạng internet có rất nhiều bài viết xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Tôi nói lại với đồng chí ấy rằng, việc xuyên tạc cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh không phải đến bây giờ người ta mới làm, mà đã diễn ra từ lâu rồi. Để làm cho người ta hiểu một cách đúng đắn về Hồ Chí Minh, tôi nói với đồng chí ấy rằng, cách tốt nhất là nên xuất bản cuốn sách viết về tiểu sử thật sự khoa học, đầy đủ về Hồ Chí Minh. Tôi biết rằng, vào các năm 1995, 1996, Chương trình khoa học cấp nhà nước giai đoạn 1991–1995 KX.02 “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” có một đề tài nghiên cứu, biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh do Giáo sư Song Thành làm Chủ nhiệm. Sản phẩm chính của đề tài này là bản “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” đã được nghiệm thu; nhưng vì nhiều lý do, mãi cho tới lúc đó, năm 2005, chưa được xuất bản. Ý kiến của tôi là như vậy. Sau đó một thời gian, Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX cho thẩm định lại bản thảo công trình này để xuất bản thành sách. Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX giao cho Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) cùng với Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương giải quyết vấn đề này. Sở dĩ như vậy là vì đây là công trình khoa học thuộc Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh quản lý mà Viện này sau đó đã sáp nhập cùng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thành Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Theo đề nghị của Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, ngày 19-1-2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Khoá IX đã ra Quyết định số 156-QĐ/TW thành lập Hội đồng thẩm định và xuất bản tác phẩm “Hồ Chí Minh – Tiểu sử”.
Cuốn sách “Hồ Chí Minh – Tiểu sử” do Nhà xuất bản Lý luận chính trị (nay là Nhà xuất bản Chính trị – Hành chính) xuất bản đầu tiên theo Giấy phép xuất bản số 48-2006/CXB 01-01/LLCT ngày 12-1-2006 với số lượng 3000 cuốn, 758 trang khổ 15 cm x 22 cm, bìa cứng, nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006. Đây là cuốn sách mới nhất về tiểu sử Hồ Chí Minh được viết một cách công phu, tương đối chi tiết tiếp nối cuốn tiểu sử tóm tắt về Hồ Chí Minh trước đây do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương biên soạn và được Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản. Thực ra, tác phẩm tiểu sử Hồ Chí Minh mới nhất này cũng đã đưa ra được thông tin rằng, Hồ Chí Minh không có vợ con nhưng bằng cách không đề cập tới vấn đề này. Lẽ ra, theo tôi, với dạng viết tiểu sử, nên đề cập nhiều hơn đến đời tư, đời riêng của Hồ Chí Minh, trong đó có ý khẳng định thật rõ, thật chắc chắn là Hồ Chí Minh không có vợ con. Với cuốn sách này, về thực chất suy cho cặn kẽ thì vấn đề vợ con của Hồ Chí Minh vẫn đang bị bỏ ngỏ.
Ba là, cần chú ý cải tiến phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh cho phù hợp.
Những tài liệu của Hồ Chí Minh và về Hồ Chí Minh từ các nguồn khác nhau, trong đó đặc biệt là từ các kho lưu trữ, thật đáng quý. Nhưng, dù chúng đáng quý như thế nào đi chăng nữa thì cũng cần được thẩm định, được nhận thức một cách đúng đắn qua tư duy của người nghiên cứu. Những tài liệu lưu trữ là những chứng cứ, song những chứng cứ ấy bao giờ cũng bị chế định bởi hoàn cảnh lịch sử và muôn vàn yếu tố khác nữa. Nó chưa hoàn toàn là sự thật. Nó chỉ là một mảnh ghép nào đó thôi của sự thật. Do vậy, mới có tình trạng là tài liệu cùng một nguồn nhưng nhận thức, đánh giá của một số người lại trái ngược nhau.
Sự thật là những điều mà ai cũng có thể thấy rõ trong cuộc sống. Nhưng, không ít những sự thật bị che dấu, che lấp, bị nằm lẫn trong vô vàn cái sự rối cuộc đời. Có khi sự thật đã trở thành một thứ “trầm tích” mà nếu muốn biết rõ, hiểu rõ thì phải khai nó lên. Khác và đối lập với sự thật là những điều giả dối, xuyên tạc.
Ấy thế nhưng xem ra, tôi có cảm tưởng rằng, một số người khi trình bày, thể hiện về Hồ Chí Minh không có được phương pháp phù hợp. Có không ít người viết về Hồ Chí Minh không theo lối viết giản dị, dễ hiểu như chính bản thân con người Hồ Chí Minh, cuộc đời Hồ Chí Minh. Có không ít người nói và viết về Hồ Chí Minh cứ rối rối thế nào ấy. Chỗ này của Hồ Chí Minh lẽ ra chỉ là thế này, đơn sơ, mộc mạc như thế này thôi thì người ta lại cứ “phóng” lên, có khi rất đại ngôn. Xem ra không phải. Mà có khi lại hiện đại hoá, thái quá. Có khi lại mang dáng ra vẻ là triết học đây, trừu tượng hoá. Điều mộc mạc của Hồ Chí Minh phát biểu đấy, nhưng mà lại làm cho ra phức tạp, khó hiểu (phức tạp hoá cái điều đơn giản). Có tác giả tư biện quá, hễ viết thì “nện” những câu, những đánh giá rất cao siêu, từ ngữ hoa lá cành sáo rỗng, rồi ra dáng trừu tượng triết học khó hiểu. Mà như vậy kết quả là chỉ làm cho người đọc đi đến chỗ hiểu sai mà thôi. Đồng thời những điều đó làm cho những người có ý đồ xấu dễ đi đến xuyên tạc Hồ Chí Minh.
Lại nữa. Có không ít người khi viết bài, khi giảng bài, hễ bất kể cái gì của Hồ Chí Minh cũng cứ gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh về…”. Thành ra như vậy lại là tầm thường hoá tư tưởng Hồ Chí Minh. Tôi đã thử thống kê, đã có khoảng hơn 70 cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về…”. Đã có cả cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng và chống bão lụt”. Đã có cả cách gọi “Tư tưởng Hồ Chí Minh về người khiếm thị”, v.v. Làm như thế có đúng không và có nên không?
Tôi đã xem không ít bức tượng Hồ Chí Minh, nhiều nhất là những bức tượng Hồ Chí Minh bằng thạch cao thường được đặt một cách trang trọng trong phòng họp của các đơn vị, các cơ quan. Rất, rất nhiều bức tượng xem ra không thật giống Hồ Chí Minh lắm. Hao hao, từa tựa Hồ Chí Minh vậy thôi. Một số người đề nghị được vẽ tranh, đắp tượng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không bằng lòng, bảo là nên vẽ tranh, đắp tượng nhân dân chứ Người không có gì đặc biệt cả. Nhưng rồi có lúc cũng phải chiều lòng một vài người. Có lần, một nghệ sĩ cứ mỗi ngày vào nhà sàn 1 tiếng đồng hồ ngắm trực tiếp để đắp tượng Hồ Chí Minh. Một thời gian sau, bức tượng hoàn thành, người nghệ sĩ đó mang bức tượng đến cho Hồ Chí Minh xem. Khi xem bức tượng, Hồ Chí Minh nói đùa rằng: đây là bức tượng em của Hồ Chí Minh. Có nơi dựng tượng Hồ Chí Minh, nhưng éo le thay, lại không giống lắm, nếu bỏ đi thì lại “có chuyện” vì bức tượng đó đã ở tại vị trí ấy từ lâu rồi, người ta đã quen rồi, giờ bỏ đi sao đành. Có người vì vẽ không giống Hồ Chí Minh, đắp tượng không giống Hồ Chí Minh, thì lại ngụy biện rằng, hình của Hồ Chí Minh đã trở thành hình của nước, cho nên chẳng giống lắm thì không sao.
Hồ Chí Minh, cũng như bao con người khác, có những điều mà những người chung quanh, và hậu thế không hiểu hết được. Cần tuân thủ phương châm: biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, không được suy diễn lung tung về Hồ Chí Minh (Đây là ý của Khổng Tử cách ngày nay hơn hai nghìn năm: Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri dã. Nghĩa là: Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, chính như thế mới gọi là biết). Trong tình hình hiện nay, người ta suy diễn về Hồ Chí Minh quá nhiều, trong suy diễn ấy, có cả sự lợi dụng để xuyên tạc, bôi xấu, hoặc lại sang một cực khác, quá đề cao mà thực ra, nói như ông Việt Phương, không phải để cộng vào mà lại trừ đi của Hồ Chí Minh những điều mà Hồ Chí Minh đang có.
Trong phương pháp nghiên cứu, nên chú ý để không mắc phải căn bệnh thần thánh hoá Hồ Chí Minh như chúng ta vẫn thấy ở không ít tác phẩm. Việc giải thích điều này có cái khó của nó. Ý dân và lòng dân thì đã phong thánh cho Hồ Chí Minh một cách tự nhiên rồi. Nhưng, giữa vấn đề dân phong thánh cho Hồ Chí Minh với vấn đề trong nghiên cứu tránh việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh là hai chuyện khác nhau.
Thường thì ở đời, ngợi ca thì dễ, chê bai thì khó, vì chê là khó lọt cái lỗ tai con người lắm. Khen đúng, chê đúng mới là điều cần làm. Khi đã thiên lệch, thì có khi người ta khen hết lời, dùng những tính từ đẹp nhất, dùng đại ngôn để gán cho một người nào đó mà mình muốn khen. Cũng có khi thiên lệch thì lúc chê, người ta chê hết lời, bôi đen, nói xấu từ đầu tới chân. Sự thật là tiêu chuẩn cao nhất mà nhà khoa học nói chung cũng như nhà sử học nói riêng phải tôn trọng. Trình bày đúng sự thật như con người Hồ Chí Minh vốn có thì không dễ dàng một chút nào. Trong việc này, tôi không bàn đến người nghiên cứu có trong tay số lượng và chất lượng các tài liệu cần thiết, là bột để “gột nên hồ”, tuy rằng điều này là thực sự cần thiết mà thiếu nó thì nhà khoa học không thể dựng lại được một bức tranh toàn cảnh đúng như nó có. Cái phần quan trọng không kém là nhà khoa học không được tô hồng hay bôi đen sự thật. Đây chính là tư cách đích thực của nhà khoa học mà nếu vi phạm thì người đó không còn là nhà khoa học nữa.
Bản chất của cả hai khuynh hướng tô hồng hay bôi đen chỉ là một: đó là sự bóp méo, sự làm sai lệch sự thật lịch sử. Không phải là việc bôi đen có hại hơn việc tô hồng, mà cả hai đều có hại như nhau. Đừng tưởng bất cứ sự ngợi ca nào đều là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Sự ngợi ca không có cơ sở chắc chắn, không khoa học, mà tôi gọi đó là sự tô hồng, thì, như đã viết theo lời của ông Việt Phương trên đây, đều trừ đi chứ không thể nào là cộng vào cho Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đi vào đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam là bởi cái nhân, cái nghĩa, cái trí, cái dũng, cái liêm, cái tín của Người đã cảm hoá được ý thức văn hoá đa thần của nhiều người Việt Nam. Người ta tôn thờ Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh Hồ Chí Minh để thờ, lập đền thờ…là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là “văn hoá đền”, văn hoá tâm linh. Đó là sự tự cảm từ mỗi con tim mỗi người, là ý thức cộng đồng với những người đã khuất, mong người đã khuất đi theo người đang sống, chở che, răn dạy những người đang sống.
Hồ Chí Minh đi vào lòng người dân không thần bí, không huyền thoại, tuy rằng, nhiều câu chuyện kể về Hồ Chí Minh có vẻ đượm màu huyền thoại. Hồ Chí Minh hiện hữu như một nhân vật cùng với hiện tại, khi mà con người ta sống, để người ta cầu mong và hành động như Hồ Chí Minh, vì những điều thánh thiện.
Trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, điều thích hợp hơn cả là tuân thủ nguyên tắc lịch sử – cụ thể, là xem xét một cách toàn diện các mối liên hệ lịch sử cơ bản. Phải xem xét Hồ Chí Minh trong một chỗ đứng cụ thể và sự phát triển của các quan điểm của Hồ Chí Minh ra sao. Có người nói với tôi rằng, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ nghiên cứu những hệ thống quan điểm của chính bản thân Hồ Chí Minh mà còn nghiên cứu thông qua cả những quan điểm các học trò của Người: Trường-Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, v.v. giống như đối với học thuyết của Khổng Tử thì không chỉ phát tiết từ Khổng Tử mà còn thông qua các học trò của Khổng Tử. Tôi thì chưa chắc lắm có đồng ý hay không với ý kiến đó, nhưng có một điều chắc chắn là Hồ Chí Minh là một thực thể trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Hồ Chí Minh bị thực tế lịch sử chế định, và chính bản thân Hồ Chí Minh cũng chế định lại lịch sử. Hồ Chí Minh có những thành công trong cuộc sống nhưng Hồ Chí Minh cũng có những điểm không thành công, những hạn chế chủ quan. Đúng là nhân vô thập toàn. Bởi vì, chính bản thân Hồ Chí Minh cũng quan niệm: người đời ai cũng có khuyết điểm cả, không nhiều thì ít, không lớn thì bé; trừ khi người ta nằm trong bụng mẹ và cái lúc người ta nằm trong quan tài, còn lại trong cuộc đời mọi người đều có khuyết điểm.
Trong nhiều bài viết về Hồ Chí Minh, tôi thấy nhiều người đã dùng những từ sau đây để đánh giá Hồ Chí Minh: thiên tài, vĩ đại, lỗi lạc, kiệt xuất. Có lẽ bốn “cặp” này là đã đánh giá Hồ Chí Minh ở vào vị trí tột đỉnh rồi, không có từ nào có thể hơn. Đánh giá như vậy, xét về mặt nào đó, là không sai. Tuy nhiên, tôi không thích đại ngôn như vậy. Hãy từ chính bản thân sự việc, con người của Hồ Chí Minh toát lên những từ ngữ của các “cặp” đó.
Thần thánh là những “nhân vật” không có thực, nếu có thì từ con người có thực nào đó, người ta đã làm cho linh thiêng con người đó lên (tâm linh hoá), con người đã khái quát, trừu tượng hoá theo cảm nhận riêng. Nếu thần thánh hoá Hồ Chí Minh trong nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh thì rất dễ biến những lời nói, những quan điểm của Hồ Chí Minh thành những công thức định sẵn, xơ cứng, như giáo lý nào đấy- điều mà Hồ Chí Minh rất kỵ và đã không ít lần nhắc nhở là: đối với bất kỳ điều gì, của ai, của nước nào, cũng phải sáng tạo, phát triển, vận dụng cho phù hợp với từng lúc, từng nơi. Thần thánh hoá là lối nghiên cứu dễ dãi nhất và dẫn đến sai lầm lớn nhất.
Cái điều mà nhiều người đã viết Hồ Chí Minh là vĩ đại, là thiên tài, là lỗi lạc, là kiệt xuất hoá ra nhiều khi lại biểu đạt trong những hành động rất bình dị nhưng cũng đầy cảm động mà Hồ Chí Minh đã làm.
Đó là cử chỉ đi dém chăn cho bộ đội ngoài mặt trận để bộ đội có giấc ngủ ngon trong đêm đông. Đó là nỗi nhớ thương của Hồ Chí Minh đối với đoàn dân công đêm phải ngủ ngoài rừng. Đó là những bữa Hồ Chí Minh nhịn ăn để dành gạo cứu những người đang đói khi nước nhà mới giành được độc lập. Đó là những bức thư chia buồn, động viên, những buổi đi thăm các thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước. Đó là những buổi Hồ Chí Minh lội ruộng cấy lúa bằng máy cấy thí nghiệm, những buổi tát nước gầu dai, đạp nước gầu guồng chống hạn. Đó là những buổi cùng bà con ngư dân Thanh Hoá kéo rùng đánh cá nhân dịp đi nghỉ ở biển Sầm Sơn. Đó là những buổi lội ruộng thăm bà con nông dân, lấy gang tay ước đo rễ cây lúa. Đó là những buổi trầm ngâm làm thơ khi trăng vào cửa sổ. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh cầm bó hoa hoặc một bông hoa tặng cho cháu gái và cho khách nước ngoài. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh chẻ củi, hình ảnh vác cuốc đi tăng gia sản xuất. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đang gõ máy chữ tuôn ra những dòng chữ phục vụ cho quốc kế dân sinh. Đó là dáng Hồ Chí Minh cưỡi ngựa hiền, con ngựa do đích thân ông Vi Văn Định chọn cho, thoăn thoắt đi công tác ở chiến khu Việt Bắc. Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đi bài quyền giản lược, những buổi Hồ Chí Minh tập võ thuật cùng anh em cảnh vệ. Đó là những buổi Hồ Chí Minh đánh bóng chuyền với anh em cơ quan, mà anh em hay đùa Hồ Chí Minh bằng cách cứ được bóng là bỏ nhỏ tới vị trí Hồ Chí Minh đang đứng làm cho Người cứ loay hoay trong sân bóng. Đó là hình dáng Hồ Chí Minh lịch thiệp, hào hoa, rất tây, nhanh nhẹn “vít cổ” những người bạn nước ngoài để ôm hôn thắm thiết. Đó là lần Hồ Chí Minh cầm gậy chỉ bản đồ chiến sự. Đó là dáng hạc của Hồ Chí Minh đích thân đi Chiến dịch Biên Giới năm 1950. Đó là ánh mắt bừng sáng của Hồ Chí Minh khi tiếp các cháu thiếu niên, nhi đồng. Đó là dáng “nhạc trưởng” Hồ Chí Minh hiền hoà cầm đũa chỉ huy dàn nhạc bài “Kết đoàn” ở vườn Bách thảo (Hà Nội) năm 1960. Đó là hình Hồ Chí Minh ngồi khoan thai, đĩnh đạc chủ trì cuộc họp của Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước. Đó là cái nheo mắt nhìn về phương nam xa xôi, là nỗi suy tư, trăn trở của Hồ Chí Minh về miền Nam, Hồ Chí Minh tự nhận mình là người chưa làm tròn nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam, “đi đến nơi nhưng về chưa đến chốn”. Đó là niềm rạng rỡ trong ánh mắt, nét mặt của Hồ Chí Minh khi nhận được tin chiến thắng miền Nam.
Vân vân và vân vân.
Tôi cảm thấy rằng, phương pháp tiếp cận, nghiên cứu, viết về Hồ Chí Minh cũng dễ mà cũng khó. Dễ là bởi vì những điều Hồ Chí Minh sống và làm việc, những điều Hồ Chí Minh nói và viết là những lời lẽ của bình dân. Khó là bởi vì, cuộc đời Hồ Chí Minh chính là phản ánh những điều cao cả qua những cái bình dị. Hồ Chí Minh như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì Hồ Chí Minh làm được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy. Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta, ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây.
Một số người nước ngoài, trong đó có cả nhà khoa học và nhà bình luận chính trị, không hiểu được hết tấm lòng người dân Việt Nam yêu nước đối với Hồ Chí Minh. Do đó, trong một số bài viết, trong một số sách của họ viết về Việt Nam, viết về Hồ Chí Minh, có lúc họ thiên về cái ý là ở Việt Nam có sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Hiểu sùng bái cá nhân là hiểu theo nghĩa xấu, như ở trên thế giới đã có một số người được sùng bái cá nhân như vậy, rồi thì cuộc đời của họ về sau chẳng ra làm sao cả. Đối với Hồ Chí Minh ở Việt Nam, tuyệt nhiên không có tệ sùng bái cá nhân, không có sự thúc ép của bất kỳ tổ chức nào, mà đó là sự tự thôi thúc của bao con tim, khối óc của đồng bào của mình mà Hồ Chí Minh đã gắn bó.
Lòng người khó đo. Đúng như thế. Chẳng có cái thước nào đo được lòng người. Nhưng tấm lòng của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh thì đã được thử thách qua bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, có thể đo được một cách rõ ràng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử. Nói thế cho có văn có vẻ, nhưng nôm na thì hình ảnh Hồ Chí Minh có trong tấm lòng của những người Việt Nam yêu nước qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đặc biệt, Hồ Chí Minh – cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong của Người — đã trở thành giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mà khi đã trở thành giá trị văn hoá thì chúng thẩm thấu và truyền một cách tự nhiên theo chiều dài sự phát triển của dân tộc. Hơn thế, những giá trị văn hoá đó được bảo tồn và phát huy thêm qua bao nhiêu năm tháng như dòng sữa mẹ nuôi con người ta lớn lên. Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hoá trong tài sản văn hoá của dân tộc. Giá trị đó là bất diệt vì nó có ích, nó thẩm thấu, nâng cao nền văn hoá Việt Nam cả trong tương lai. Nghiên cứu Hồ Chí Minh ngoài việc cần phương pháp khách quan khoa học, còn có cả tình cảm, nhưng như thế không có nghĩa là thoát ly khỏi những phương pháp đúng đắn cần có của một chuyên ngành khoa học: Hồ Chí Minh học.
2. Tăng cường giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh
Một điều kiện tiên quyết mà tôi muốn nêu ở đây là giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh phải dựa trên cơ sở khoa học. Nếu không như vậy thì giáo dục, tuyên truyền sẽ phản tác dụng, sẽ có hại, thà rằng đừng tiến hành. Việc giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh nên chú ý trên những mặt sau đây:
Một là, đưa những vấn đề Hồ Chí Minh học vào trường học các hệ, các cấp, theo đặc điểm, yêu cầu phù hợp.
Đây là một chủ trương hiện nước ta đang tiến hành. Song, cái khó nhất là làm như thế nào cho phù hợp với cấp độ của các hệ thống trường học và mức độ như thế nào, phương pháp ra sao. Rõ ràng là cần có sự nghiên cứu tổng thể để đề ra cho từng loại hình, có tính đến đặc điểm của chúng. Không nên như gần đây Bộ Giáo dục và Đào tạo có ý tưởng đưa ra lấy ý kiến về chuẩn cho trẻ em các độ tuổi, trong đó có trẻ em 3 tuổi “phải biết yêu kính Bác Hồ”. Đưa thành các bài học cho các lớp, nhưng không nhất thiết nhất loạt như nhau, không cứng nhắc. Lẽ nào trong chương trình cho học sinh tiểu học chẳng hạn, lại có những bài dài, toàn lý thuyết là lý thuyết về tư tưởng Hồ Chí Minh để rồi lại theo kiểu nhồi nhét, bắt học thuộc lòng. Có khi những tranh vẽ, những thước phim về Hồ Chí Minh, những buổi tham quan di tích lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh lại có tác dụng rất lớn hơn là cứ giảng thao thao bất tuyệt trên bục giảng. Ngay cả ở cấp đại học, ở loại hình trong hệ thống các trường chính trị, trường quân đội, công an cũng vậy. Cần tránh giáo dục theo lối cứng nhắc, thô thiển như không ít trường hợp hiện nay về Hồ Chí Minh. Muốn thế, như tôi đã đề cập ở bên trên: cần có sự nghiên cứu tổng thể, thiết kế chương trình thích hợp với phương pháp giáo dục tiên tiến, khơi động sự hứng thú của cả đội ngũ thày cô giáo và học sinh. Có được và thấm được những tri thức đúng đắn và tình cảm trong sáng vào trong đầu các thế hệ học sinh thì việc nhận thức đúng đắn và tự mình phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh của những người xấu là điều không khó. Khi ai đó có mở mạng internet bắt gặp những thông tin, những bài xuyên tạc Hồ Chí Minh thì người ta có thể tự nhận thức một cách đúng đắn được ngay vì ở họ đã có sức đề kháng do được trang bị những tri thức chính xác, tình cảm trong sáng về Hồ Chí Minh.
Hai là, giáo dục, tuyên truyền trong các tổ chức của hệ thống chính trị một cách thích hợp.
Nên tính tới đặc điểm của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, từng lứa tuổi để có cách tuyên truyền thích hợp. Nên có sự tổng kết thật sự khách quan, khoa học, đánh giá thật sự đúng đắn về cách tuyên truyền bằng việc “kể chuyện” về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh như vừa qua. Làm như vừa qua, cái hay đã được khẳng định nhiều, nhưng cái không hay chưa được nêu và phân tích một cách thấu đáo. Chính qua những điều chưa hay, chưa đạt đó có phần vô tình tạo thêm kẽ hở để một số kẻ xấu tiếp tục xuyên tạc về Hồ Chí Minh. Có một số câu chuyện về Hồ Chí Minh không dựa trên cơ sở khoa học và thực tế xác đáng. Vì là những câu chuyện cho nên một số người còn có ý “thêu dệt”, hư cấu…làm cho sức thuyết phục người nghe yếu đi và để kẻ xấu lợi dụng.
Ba là, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền đối ngoại.
Cần tăng cường giao lưu, hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi học thuật với những người nước ngoài, nhất là với những nhà nghiên cứu khoa học đang quan tâm tìm hiểu Hồ Chí Minh. Cho đến hiện nay, việc này đang còn nhiều hạn chế. Sự trao đổi học thuật là một trong những biện pháp tốt để tăng cường sự hiểu biết đúng đắn về Hồ Chí Minh, trong đó có việc sưu tầm, xử lý những tài liệu có liên quan đến Hồ Chí Minh.
Những người nghiên cứu có tâm ở ngoài nước về Hồ Chí Minh không ít. Họ có thể là học giả có phương pháp nghiên cứu khác nhau, dựa trên những tài liệu khác nhau để cho ra những công trình nghiên cứu, trong đó có những nhận định về Hồ Chí Minh khác nhau. Vấn đề là cần trao đổi học thuật thông qua các tổ chức hội thảo, toạ đàm khoa học quốc tế về Hồ Chí Minh; thông qua các cuộc trao đổi song phương, đa phương, trao đổi tài liệu, thông qua nhiều cuộc gặp gỡ, v.v. Thường là những cuộc tiếp xúc trực tiếp của các nhà hoạt động chính trị và nhà khoa học trên thế giới về Hồ Chí Minh cho kết quả tốt nhất trong đánh giá xác thực về Hồ Chí Minh.
Bốn là, hình thành một tổ chức quần chúng rộng rãi về nghiên cứu, giáo dục, tuyên truyền về Hồ Chí Minh.
Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, sau khi Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, giới nghiên cứu khoa học trong nước đã đề nghị những người có trách nhiệm trong Đảng cho phép thành lập “Hội nghiên cứu Hồ Chí Minh”. Đề nghị này xuất phát từ tình cảm của nhân dân và giới trí thức đối với Hồ Chí Minh; từ xu thế các hội quần chúng, hội nghề nghiệp đang có đà phát triển mạnh; từ yêu cầu phải nghiên cứu cả bề rộng lẫn bề sâu cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh; từ nhu cầu tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền sâu rộng Hồ Chí Minh trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam cũng như đối với người Việt Nam ở nước ngoài, v.v. Rất tiếc là đề nghị này không được chấp nhận. Rất có thể có nhiều lý do khác nhau, trong đó có cả lý do là vào giai đoạn đó, vấn đề này (cả vấn đề thành lập Hội Triết học nữa) rất nhạy cảm, dễ xảy ra những nội dung liên quan đến đa nguyên chính trị…
Tình hình hiện nay đã có khác trước nhiều. Chúng ta đã có nhiều kết quả nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và của những năm đổi mới chứng minh là rất đúng đắn, thực sự là tài sản tinh thần to lớn, quý báu của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam. Trong giai đoạn này, Đảng Cộng sản Việt Nam đang chỉ đạo tiến hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cho nên, việc có được một hội như Hội nghiên cứu Hồ Chí Minh là một yêu cầu cần thiết. Hội này cùng sát cánh cùng những hội khác trong hệ thống các hội chính trị-xã hội, như các Hội Sử học, Liên hiệp hội Văn học-Nghệ thuật, v.v. hình thành nên một mạng lưới đắc dụng giáo dục, tuyên truyền Hồ Chí Minh. Tôi tin rằng, nếu Hội này được thành lập thì chắc chắn việc nghiên cứu, giáo dục, tuyên truyền Hồ Chí Minh sẽ có tác dụng tốt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có hiệu quả hơn.
3. Tăng cường đấu tranh trực diện với các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh
Các công trình khoa học đúng đắn về Hồ Chí Minh cả ở trong nước và ngoài nước được công bố tự nó là những mũi tiến công vào những luận điệu xấu, luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh. Nhưng, chừng ấy thôi chưa đủ. Rất cần có cả những bài viết, những tác phẩm đấu tranh trực diện để chống lại những luận điệu đó.
Có người cho rằng, những luận điệu xuyên tạc với cái tâm xấu ấy, những giọng điệu cực đoan, chửi rủa, “hàng tôm hàng cá” ấy không đáng để chúng ta viết bài chống lại; cách tốt nhất là hãy cứ “lờ” đi, chỉ cần có những công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh, đúng đắn về Hồ Chí Minh là đủ, v.v. Vấn đề không đơn giản như vậy. Tôi nghĩ rằng, trong tình hình hiện nay, rất cần thiết phải có những bài viết trực diện phản bác lại những luận điệu xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là “mặt trận” này xưa nay ở nước ta còn quá yếu ớt. Do vậy, muốn đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đẩy mạnh hơn nữa công bố những bài viết phản bác trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vấn đề còn lại là ở chỗ cách thể hiện như thế nào.
Trong khuôn khổ của chuyên đề này, tôi xin nêu lên một số biện pháp sau đây:
Một là, chú ý đến đối tượng phản bác.
Tôi thấy nhiều bài viết dạng này trong những năm vừa qua ở nước ta thường mắc phải sai lầm là không chú ý đến đối tượng mà mình phản bác. Những người xuyên tạc Hồ Chí Minh, như tôi đã phân tích ở bên trên, thường có cái tâm xấu, thường là những kẻ phản động. Những người này hoàn toàn có quan điểm, lập trường khác chúng ta, hoàn toàn không đứng trên quan điểm của Đảng. Do vậy, không nên và không thể dùng quan điểm, lập trường Mác – Lênin để “đấu” với họ. Về vấn đề tương tự, ngay bản thân Hồ Chí Minh cũng đã có lần phê bình một số cán bộ cải cách ruộng đất của ta khi tuyên truyền, giải thích cho linh mục thường cứ lấy chủ nghĩa Mác – Lênin ra để giải thích. Hai chỗ đứng khác nhau, nhất thiết không thể viết theo kiểu “viết lấy được”.
Hai là, không nên lấy lời lẽ chửi rủa để đối lại lời lẽ chửi rủa của những người xuyên tạc.
Những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh của những người không có tâm lành thường là rất cực đoan, bôi đen, chửi rủa kiểu “hàng tôm hàng cá”. Tôi đã đọc một số bài viết kiểu này ở trong nước. Sự phê bình nào cũng cần cái chất văn hóa, có như thế sự phê bình, phê phán mới ở tầm trí tuệ, mới có tác dụng, và qua đó cũng có thể hy vọng làm cho đối tượng được phê bình, phê phán tâm phục khẩu phục.
Những bài phê phán, phản bác sắc bén bao giờ cũng đi kèm với lối lập luận, với hành văn trong sáng, hấp dẫn, đầy tính nhân văn, hướng thiện, hướng cho người đọc vào cái đẹp của tình và lý. Điều này khác một trời một vực với kiểu lý lẽ không sắc bén, nhưng lại được viết theo kiểu đao to búa lớn, chửi cho bõ tức, “hòn đá ném đi, hòn chì ném lại”. Hơn ở đâu hết, những bài luận chiến này càng phải được đặt trên cái nền của văn hóa. Có như thế, những lời lẽ của người viết mới có sức sống lâu bền. Cái bền và cái lan tỏa của văn hóa chính là ở đó.
Ba là, những bài viết cần kịp thời, có lý lẽ khoa học; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ xung kích đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh.
Những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh thường rải rác cả thời gian và không gian, cho nên cần theo dõi chặt chẽ để có những bài viết phản bác kịp thời. Muốn vậy, phải có bộ phận chuyên trách theo dõi để phối hợp hoạt động nhịp nhàng, chú ý cung cấp tài liệu kịp thời cho người viết. Kịp thời, đúng lúc là một nhân tố bảo đảm sự thắng lợi trong cuộc đấu tranh tư tưởng nói chung, nhất là trong thời buổi công nghệ thông tin phát triển nhanh đến chóng mặt như hiện nay. Với công nghệ này, cần tận dụng các phương tiện một cách phong phú, hiệu quả. Chưa bao giờ mặt trận tư tưởng được mở rộng với nhiều phương tiện, hình thức như giai đoạn hiện nay. Đó là các phương tiện nghe nhìn, là truyền miệng, là báo viết, điện tử, báo hình, là phương tiện lưu truyền không chỉ là trên giấy, v.v. Người chiến sĩ trên mặt trận này hiện nay chưa bao giờ có được những lợi thế hành nghề như thế. Nhưng, lợi thế đó cũng nằm ở phía bên kia, mà có khi với điều kiện kinh phí, họ lại nhanh nhạy hơn chúng ta. Do vậy, phải có sự đầu tư thêm “vũ khí”, tức là phải chịu bỏ tiền ra để đầu tư “nâng cấp” các phương tiện. Phương tiện không phải là số 1, càng không phải là duy nhất, nhưng chúng có vai trò cực kỳ quan trọng trong cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng.
Đương nhiên, phương tiện vẫn chỉ là phương tiện; cái phần quan trọng nhất phải là con người sử dụng phương tiện đó. Do vậy, cái lôgíc của vấn đề còn lại là ở chỗ, con người đó phải được đào tạo, phải được luôn luôn được bồi dưỡng, được tu dưỡng. Điều này đòi hỏi chất lượng người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng. Mà chất lượng này được tạo ra từ kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Cần có biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ xung kích đấu tranh phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh. Tốt nhất là Ban Tuyên giáo Trung ương đứng ra tổ chức đội ngũ này. Tôi không dùng cụm từ “Đội ngũ cán bộ chuyên trách” mà là “Đội ngũ cán bộ xung kích”. Điều đó có nghĩa là, những chuyên gia trên lĩnh vực này có thể kiêm nhiệm từ các cơ quan, nhưng nên có một bộ phận chuyên trách ở Ban Tuyên giáo Trung ương. Tất cả lực lượng này, tôi nhấn mạnh rằng, phải có tổ chức, không phải là cộng tác viên, mà họ tuy có thể là những người kiêm nhiệm, nhưng đối với họ, việc thường xuyên đấu tranh phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ chính trị, chính thức trong biểu lịch công tác hằng năm. Đương nhiên, cần có chính sách đãi ngộ phù hợp cho đội ngũ này.
Tôi mới chỉ đề cập một mặt nhỏ của việc này mà thôi. Nhìn một cách toàn diện thì đó là công tác tổ chức của một mặt trận chiến đấu với nhiều nhiệm vụ, với cả một bộ máy quy củ, chặt chẽ của nó từ trên xuống dưới, từ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng đến các đơn vị và cá nhân.
Tôi và một số người có chung một nhận xét rằng, có một số bài viết, bài nói phê phán lại các xuyên tạc của một số người về Hồ Chí Minh không có sức thuyết phục, ngay cả phía chúng ta. Nguyên nhân chủ yếu là do những bài viết đó ít có chất liệu khoa học, lý lẽ không xác đáng, và như vậy dẫn đến không thể thuyết phục được người đọc. Do vậy, vấn đề đặt ra là ở chỗ: người viết phải có trình độ chuyên sâu, với phương pháp tốt. Điều này liên quan đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ như đã trình bày trên đây. Bài viết là sự kết tinh của trí tuệ, trách nhiệm, tình cảm tác giả. Một bài bút chiến dù có dùng bút pháp phù hợp đến đâu nhưng nội dung nhạt nhòa thì không thể có sức thuyết phục, làm cho người ta tâm phục, khẩu phục được.
Cái nền của việc này là ở công tác nghiên cứu. Cần tổ chức lại công tác nghiên cứu về Hồ Chí Minh học. Hiện nay, nước ta có Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng thuộc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Ở các trường đại học và cao đẳng chỉ có bộ phận giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước đây, chúng ta đã có hẳn một Viện Hồ Chí Minh làm nhiệm vụ nghiên cứu, nhưng tình hình hiện nay có khác. Cái khác ở chỗ:
- Viện Hồ Chí Minh hiện nay thuộc Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh có hai nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu và đào tạo, nhưng hiện tại vẫn nặng về đào tạo là chủ yếu. Có thể nói rằng, lực lượng cán bộ của Viện chủ yếu hiện nay là đi dạy, ít có thời giờ để tập trung nghiên cứu sâu.
- Đội ngũ cán bộ nghiên cứu của Viện hiện nay vừa thiếu, vừa yếu, vừa phân tán nhiệm vụ (như đã viết ở trên là nặng về giảng dạy). Nhận định này có thể làm cho anh chị em cán bộ của Viện tự ái. Song, đó là sự thật. Mà nói sự thật dễ mất lòng. Không thể không nói.
- Hướng chủ yếu hiện nay của Viện vẫn là nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh chứ không nghiên cứu một cách toàn diện với tư cách là chuyên ngành Hồ Chí Minh học (rộng hơn so với tư tưởng Hồ Chí Minh).
- Viện chưa có một chiến lược lâu dài, cơ bản, kể cả xây dựng lực lượng, mà bị hút vào công việc trước mắt.
- Viện chưa có nổi một diễn đàn riêng, ngay cả ở dưới dạng một bản tin khoa học, về Hồ Chí Minh. Về cơ bản, lâu dài, cần có một tạp chí về Hồ Chí Minh học, nhưng nghe ra có vẻ xa vời.
Có thể kể ra nhiều điểm nữa. Tôi kể ra như thế để đi đến một kiến nghị rằng, nên có tổ chức lại. Có thể thành lập một Viện Hồ Chí Minh chuyên làm công tác nghiên cứu, với chức năng, nhiệm vụ nặng hơn, trong đó có việc thường xuyên đấu tranh phản bác lại những luận điểm xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu có được một Viện như thế thì bộ phận chuyên trách như tôi đã đề cập ở bên trên dự định ở Ban Tuyên giáo Trung ương sẽ do Viện này đảm nhiệm. Xây dựng một đội ngũ cán bộ nghiên cứu Hồ Chí Minh thật hùng hậu trong cả nước. Chú trọng hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng, không chỉ “hớt váng” như bấy lâu nay bồi dưỡng để nhanh chóng đi dạy ở các trường đại học và cao đẳng, chất lượng rất thấp. Mạnh dạn mở hệ đại học chính quy 4 năm đào tạo cử nhân ngành Hồ Chí Minh học, trên cơ sở đó đào tạo chuyên sâu thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
Viện này đặt ở đâu? Vẫn là ở Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh hay ở chỗ nào khác? Điều này cần tính toán kỹ. Hiện nay, đặt ở Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, như tôi viết trên đây, là bị hút vào giảng dạy, chưa được đầu tư cán bộ và kinh phí nghiên cứu tương xứng. Viện vẫn bị bó hẹp về biên chế, về kinh phí. Thực trạng này khó có thể cải thiện được. Và, như thế, cái nền nghiên cứu Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục bị hạn chế. Cái vòng luẩn quẩn vẫn bị diễn ra như cái lôgíc tất yếu: nghiên cứu yếu kém ® yếu kém trong việc phản bác lại những luận điệu xuyên tạc Hồ Chí Minh ® yếu kém trong nghiên cứu…
Mỗi năm, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, đất nước ta đều đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Năm 2009 cũng vậy. Phát triển hay là chết. Đó là khẩu hiệu của cả dân tộc Việt Nam. Những phần tử xấu không muốn cho dân tộc ta phát triển trên con đường của chủ nghĩa xã hội. Muốn phát triển nhanh và bền vững, phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, trở thành sự bảo vệ những nhân tố chủ đạo của sự phát triển.
Đặt vấn đề như vậy, đủ để thấy tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác này lớn như thế nào.
Tháng 2 năm 2009
* Chuyên đề được viết theo yêu cầu của TS Dương Minh Đức, Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học các Ban Đảng KH-BĐ (2008)-04: “Một số giải pháp đấu tranh phản bác lại luận điệu sai trái, thù địch về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh””. [1] Theo “Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương”, http://www.bbc.co.uk/vietnamese, 12-2-2009, 11:54 GMT.
[2] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 114.
[4] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 171-172.
[6] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151.
[7] Như trên.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127.
[9] Như trên.
[10] Như trên, tr. 128.
[11] Như trên, tr. 53.
[12] Như trên, tr. 80.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 83.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 6 – 7.
[15] Theo “Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương”, http://www.bbc.co.uk/vietnamese, 12-2-2009, 11:54 GMT.
[16] Theo “Phỏng vấn nhà văn Dương Thu Hương”, http://www.bbc.co.uk/vietnamese, 12-2-2009, 11:54 GMT.
[17] Xem Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005 (TS Nguyễn Văn Sáu – Chủ biên; GS,TS Mạch Quang Thắng; PGS,TS Nguyễn Khánh Bật; PGS,TS Lê Văn Tích…).
[18] Ngoài bộ Hồ Chí Minh Toàn tập gồm 12 tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia còn xuất bản Hồ Chí Minh Tuyển tập gồm 3 tập dịp Kỷ niệm lần thứ 112 Ngày sinh của Hồ Chí Minh (5-2002). Hiện nay, ở Việt Nam đang xác minh, thẩm định các văn bản tài liệu nghi là những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh để bổ sung vào bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập.
http://thehehochiminh.wordpress.com/2010/01/03/nguyen-nhan-c%E1%BB%A7a-cac-lu%E1%BA%ADn-di%E1%BB%87u-xuyen-t%E1%BA%A1c-v%E1%BB%81-h%E1%BB%93-chi-minh-va-gi%E1%BA%A3i-phap-d%E1%BA%A5u-tranh-ch%E1%BB%91ng-l%E1%BA%A1i-cac-lu%E1%BA%ADn-di%E1%BB%87u-xu/
CỔNG THÔNG TIN TƯ LIỆU VỀ CHỦ TỊCH HCM
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete