Xin đừng quên! Nửa thế kỷ trước...
Bài viết này đã được đăng trên tờ Thế Kỷ 21 số Xuân
năm 2003. DLB xin phép được đăng tải lại.
Nguyễn Minh Cần (Danlambao) - Có thể bạn đọc sẽ trách tôi: trong dịp đầu năm (1) mà nhắc đến chuyện quá buồn. Xin các bạn lượng thứ cho! Nhưng chuyện này không thể không nói đến! Nó cũng khủng khiếp không kém gì chuyện Tết Mậu Thân (1968). Vậy mà chuyện Tết Mậu Thân chúng ta vẫn phải đành lòng nhắc đến trong dịp Tết cơ mà!
Nguyễn Minh Cần (Danlambao) - Có thể bạn đọc sẽ trách tôi: trong dịp đầu năm (1) mà nhắc đến chuyện quá buồn. Xin các bạn lượng thứ cho! Nhưng chuyện này không thể không nói đến! Nó cũng khủng khiếp không kém gì chuyện Tết Mậu Thân (1968). Vậy mà chuyện Tết Mậu Thân chúng ta vẫn phải đành lòng nhắc đến trong dịp Tết cơ mà!
Cần phải nhắc đến các tấn bi kịch, các thảm hoạ dân tộc đã
qua và hiện còn đang tiếp diễn dưới nền chuyên chính của Đảng
cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), để mọi người yêu nước thương dân thắp
một nén hương cho vong linh biết bao người vô tội đã ngã xuống,
để tưởng nhớ đến bao nhiêu người oan ức đã chịu những cực
hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ lại biết bao bạo
hành của một đảng độc tài đã gây ra trong quá khứ và trong
hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí đấu tranh cho công cuộc
dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần lắm thay!
Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền đang cố xuyên tạc lịch
sử, cố làm mọi cách để dân tộc ta quên đi các tội ác tày
trời của họ, nhất là để các thế hệ mới lớn lên không hề hay
biết gì đến các tội ác đó và những kẻ tội phạm chính danh!
Chuyện tôi muốn nói đến hôm nay là cuộc CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
(CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm hoạ khủng
khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã thực
tế bắt đầu diễn ra từ năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết
thúc năm 1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn mãi cho
đến tận ngày nay. Hồi đó, CCRĐ chẳng khác nào một trận bão
táp ác liệt đổ ập xuống miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn
phá khủng khiếp, biết bao đảo lộn kinh người, biết bao tang
tóc, đau thương cho người dân lương thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái
xứ sở đau thương này? Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ
Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva
(đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông (lúc đó đang
có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Đảng Việt Nam
coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị
phải tiến hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực
cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRĐ
ở các vùng gọi là “giải phóng”. Sau khi về nước, ông Hồ đã
cùng Thường vụ Trung ương (Bộ chính trị sau này) ĐCS trong hai năm
trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến hành CCRĐ. Chuẩn bị cả
về mặt tư tưởng, cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn về
mặt tổ chức. Theo sự phân công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp
đỡ cho Việt Nam, nên ông Hồ đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc
đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố vấn là La Quý Ba đồng thời
là đại sứ Bắc Kinh tại Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH). Vi
Quốc Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự, còn đứng đầu đoàn
cố vấn CCRĐ là Kiều Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh uỷ
Quảng Tây. Đó là chưa kể đủ loại cố vấn khác, như cố vấn
chỉnh huấn, cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên
truyền… Để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
quân đội, năm 1952, Bộ chính trị (BCT) Trung ương (TW) Đảng thực
hiện “cuộc chỉnh huấn” trong Đảng và “cuộc chỉnh quân” trong
quân đội, theo đúng mẫu mã “cuộc chỉnh phong” của ĐCS Trung
Quốc, chỉ có cái tên hơi khác một chút mà thôi. Chuẩn bị về
mặt tổ chức, BCT TW đã thành lập Uỷ ban CCRĐ Trung ương
(UBCCRĐTW), gồm có Trường Chinh, Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm,
hai phó chủ nhiệm là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn
Lương, uỷ viên BCT, còn uỷ viên thường trực là Hồ Viết Thắng,
uỷ viên TW Đảng. Dưới UBCCRĐTW là các đoàn CCRĐ, dưới các đoàn
là các đội CCRĐ. Cả một đạo quân hùng hậu để làm “chiến
dịch” đánh phong kiến!
ĐCS coi CCRĐ là “một cuộc cách mạng long trời lở đất”, cho nên
cần phải “phóng tay phát động quần chúng” để thực hiện, có
nghĩa là phải làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan
nhượng, không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn,
quá tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng sản thường nhấn
mạnh ĐCS là đảng cách mạng thì nhất định phải làm CCRĐ theo
tinh thần “cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất”! Họ cao
ngạo phê phán các cuộc CCRĐ hoà bình ở nhiều nước là cải lương
chủ nghĩa, tư sản và phản cách mạng: vì tại các nước đó,
chính quyền hạn định mức ruộng đất tối đa cho điền chủ được
có, còn phần thừa thì nhà nước mua lại để chia cho người ít hay
không có ruộng đất. Còn khi giải thích cho cán bộ mấy chữ
“phóng tay phát động quần chúng” khó hiểu này, ông Hồ đã dùng
hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra,
phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó
mới thẳng được. Hình như ông cũng khoái cái lối giải thích hóm
hỉnh ấy, không nghờ rằng cái tinh thần “quá đi một tí” sau này
chính là mối hoạ lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRĐ được tung
về nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền hạn không hạn
chế, họ cảm thấy mình nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp
trên đã “phóng tay” cho họ và họ cũng tự “phóng tay”… Vì thế,
trong dân gian thường nói “nhất đội, nhì Trời”, và các “anh đội”
cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi còn nhớ một lần, thiếu
tướng Vương Thừa Vũ, chủ tịch uỷ ban quân quản thành phố Hà
Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại thành
Hà Nội. Ông bị đội CCRĐ bắt giữ cùng với anh cần vụ (lính
hầu) và xe ô tô, van xin gì cũng không được thả ra. Về sau do một
sự tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới cho người đến
nhận ông về. Đại thần của chế độ mà còn bị như thế huống hồ
dân đen!
Trong năm 1952, BCT TW Đảng lao động Việt Nam (ĐLĐVN), tức là ĐCS
khoác tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm CCRĐ ở sáu xã thuộc
huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Trong lần thí điểm này có một
sự kiện “động trời”: toà án CCRĐ xử tử hình bà Nguyễn Thị
Năm, tức là Cát Thành Long, người mà thời trước cách mạng đã
từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc
Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản… Còn
trong Tuần lễ Vàng, gia đình bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính
quyền mới. Bà đã hoạt động trong Hội Phụ nữ, lại có con trai
đi bộ đội làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà đã bị quy là địa
chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, UBCCRĐ TW
duyệt y và BCT TW ĐLĐVN cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng
sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu,
nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, uỷ
viên BCT, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một
cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào
đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những
người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về
các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn
lường cho toàn dân tộc!
Năm 1953, thực tế là năm bắt đầu tiến hành CCRĐ, năm ĐCS chuẩn
bị toàn bộ đường lối, chính sách và “luật pháp hoá” các chính
sách của Đảng bằng quyết nghị của Quốc hội, sắc lệnh và
nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ. Dựa trên tài
liệu chính thức của ĐCS, tôi xin ghi lại những cái mốc lịch sử
đau thương của dân tộc ta trong cuộc CCRĐ đẫm máu và nước mắt
này:
- Cuối tháng 01.1953 – hội nghị lần thứ tư của TW ĐLĐVN để thông
qua bản Dự thảo cương lĩnh Đảng về chính sách ruộng đất. Tại
hội nghị, ông Hồ đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt để giảm
tô, tiến tới CCRĐ.
- Đầu tháng 03.1953 – Hội đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo
của Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng về mục đích, phương châm, kế
hoạch phát động quần chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua
các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần chúng,
tức là đã “luật pháp hoá” nghị quyết của TW Đảng.
- 01 – 05.03.1953 – báo Nhân Dân đăng tải bài “Chỉnh đốn chi bộ”
của uỷ viên Bộ chính trị ĐLĐVN, trưởng ban tổ chức TW Lê Văn
Lương, người trực tiếp phụ trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong
CCRĐ, và ngày 16.03.1953 – Chính phủ VNDCCH ra thông tư về việc
chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát động quần chúng.
Đây là những hướng dẫn cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn tổ
chức với CCRĐ, với tinh thần “không dựa vào (thực tế là đánh
vào – Người viết) tổ chức cũ mà lập nên tổ chức mới” ở nông
thôn!
- 12.04.1953 – Chính phủ VNDCCH ra ba sắc lệnh: 1/ sắc lệnh quy
định chính sách ruộng đất, trong đó có việc tịch thu, trưng thu,
trưng mua ruộng đất chia cho nông dân; 2/ sắc lệnh quy định việc
thành lập Toà án nhân dân ở những nơi phát động quần chúng; 3/
sắc lệnh quy định việc trừng trị những địa chủ ở những nơi
phát động quần chúng tiến hành CCRĐ.
- 01.06.1953 – báo Nhân Dân đăng bài về Chương trình CCRĐ.
- Tháng 06.1953 – ĐLĐVN tổ chức cái gọi là “đợt chỉnh huấn
chính trị” để nâng cao lập trường giai cấp cho cán bộ đảng viên
trong cuộc đấu tranh CCRĐ.
- 14.11.1953 – hội nghị TW lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc
của ĐLĐVN để quyết định tiến hành CCRĐ. Ông Hồ đã phát biểu ý
kiến tại hội nghị nhấn mạnh phải “phóng tay phát động quần
chúng tiến hành CCRĐ”.
- 01–04.12.1953 – kỳ họp thứ ba của Quốc hội khoá 1, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ CCRĐ”
và ngày 04.12.1953 – Quốc hội nhất trí thông qua Luật CCRĐ. Sau
đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh ban hành Luật CCRĐ do
Quốc hội thông qua.
Từ đó, bắt đầu các đợt CCRĐ, mà đợt đầu tiến hành ở 47 xã
tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó lan tràn trên
khắp miền Bắc, trừ các vùng miền núi. Đợt năm là đợt cuối
cùng, phần lớn diễn ra ở các xã đồng bằng Bắc bộ và các
vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho đồng bào miền núi,
vì ĐLĐVN chủ trương sau khi hoàn thành CCRĐ ở vùng đồng bằng mới
làm ở miền núi. Do sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên
dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ ra ở Quỳnh Lưu,
Phát Diệm, nên về sau, TW ĐLĐVN chỉ tiến hành cái gọi là “cải
cách dân chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa
phương (tức là các phía tạo) mà không dùng bạo lực quá mạnh vì
sợ dân chúng chạy sang Trung Quốc, Lào… Còn ở huyện Vĩnh Linh
tỉnh Quảng Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp Việt Nam
Cộng hoà, nên cũng được chiếu cố, nghĩa là dùng bạo lực vừa
phải “để không gây ảnh hưởng xấu đến miền Nam”.
- Tháng 09.1956 – hội nghị lần thứ 10 của TW ĐLĐVN kiểm điểm
tình hình CCRĐ. Do ảnh hưởng của đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô
vạch trần những tội ác của Stalin, do sự bất mãn trong dân
chúng, cộng thêm sự phản ứng khá mạnh của cán bộ, TW Đảng
buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và
chủ trương sửa sai. Tại hội nghị, TW đã thi hành kỷ luật như
sau: Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, chỉ còn làm uỷ viên BCT,
còn Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương mất chức uỷ viên BCT, Hồ
Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW ĐLĐVN. Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm
Tổng bí thư, còn Lê Duẩn làm bí thư TW, thường trực BCT.
- 29.10.1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên
BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và
TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong
CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là
cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã
đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ
chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải
thích: “Bác đến không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ
muốn đưa ông Giáp ra “chịu trận” thay mình, nên không hề có việc
ông Hồ khóc trước dân chúng.
*
Ở hải ngoại, cho đến nay cũng đã có một số tài liệu nói đến
những bạo hành, những tội ác trong CCRĐ, cuốn sách nói về đề
tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất (1964, bằng tiếng Anh) là
cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” của ông Hoàng Văn Chí.
Còn ở trong nước thì đến nay, chưa có một công trình nghiêm túc
nào nghiên cứu, chưa ra một tiểu thuyết nào viết riêng về đề
tài CCRĐ. Tại sao? Dễ hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa
nhận những sai lầm trong CCRĐ, BCT TW Đảng ra lệnh miệng tuyệt
đối cấm không được nói đến đề tài này. Người đầu tiên “vi
phạm” tabou “thiêng liêng” đó là nhà văn Hà Minh Tuân – anh đã
viết lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài cấm kỵ đó trong tác
phẩm “Vào Đời”. Tức thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là
“tư tưởng địa chủ ngóc đầu dậy”, và anh bị hành hạ hết nước.
Từ đó mọi người ai cũng im re, “lo giữ cái đội nón của mình”
(nhóm từ thông dụng hồi đó có nghĩa là giữ đầu mình)… Mãi sau
này, chỉ có vài nhà văn rụt rè mon men đến đề tài đó mà
thôi. Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu trong
nước vượt qua nỗi sợ “truyền kiếp”, dám đề cập đến đề tài
đau thương này một cách nghiêm túc và toàn diện.
Nếu nói về những tội ác trong CCRĐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau đây.
Thứ nhất. Tội tàn sát thường dân vô tội – tội ác chống nhân loại.
Người nông dân Việt Nam hiền hoà, chất phác đang làm ăn sinh
sống và hết lòng đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Pháp,
bỗng dưng ĐCS giáng cho họ một đòn chí mạng. ĐCS nói rằng CCRĐ
là một cuộc cách mạng để thực hiện ước mơ muôn đời của nông
dân: “người cày có ruộng” – nhưng thực tế thì không phải như
vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí mạng! Tầng lớp năng
nổ, giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa
chủ, phú nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết
đường sinh sống, còn một loạt cán bộ ở nông thôn đã từng chịu
đựng gian khổ làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất
thì bỗng nhiên bị quy là phản động, gián điệp, Việt gian, v.v…
bị trừng trị, nhiều người bị bắn giết vô cùng man rợ. Ngay cả
nhiều người trung nông, thậm chí một số bần nông cũng “bị kích
lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái gở 5% địa chủ (so với
dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà ĐCS dành
cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm thêm những
“kết luận” quái đản khác: đã có địa chủ, tất phải có cường
hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao nỗi oan khuất
không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ sót”,
cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã
gây ra tình trạng “kích thành phần”, “nống thành tích” cố tìm ra
nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá… để có được
bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao hơn… càng làm cho
nỗi khổ đau của người dân tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn
vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRĐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó
ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và Đặng Thí, phó bí
thư khu uỷ, khét tiếng hiếu sát trong CCRĐ, họ đều là trưởng
và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè có
câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Đặng Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: một
đội tới làm CCRĐ ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông
Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là
địa chủ được (những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh
nghèo chung của dân chúng ở đây). Đặng Thí “đả thông tư tưởng”
là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa chủ. Đội sợ trên
“đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì
cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào
ngờ khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì… Liếc mắt qua không thấy
có danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một
trận: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả
tập giấy vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra
được “hai địa chủ để bắn” vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa
đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng đưa báo cáo
và danh sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên yên
xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề nghị bắn hai
người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký
toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRĐ
kể lại chuyện thương tâm này. Đội mà ông bạn có chân về một
làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa
chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ
lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn!
Làng nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt
con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc
lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là
“đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét
cay ghét đắng”. Địa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng
ăn cướp thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó
phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng
không dám mở miệng khi “cỗ máy nghiền thịt” của Đảng đã khởi
động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy oan, bị tù oan và bị
giết oan là bao nhiêu vì ĐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều
người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi được
Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRĐ ở ngoại thành
Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông
Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà
Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Đôi
khi chúng tôi cũng nói chuyện với nhau về những vấn đề chung.
Một hôm tôi hỏi thẳng ông: trong CCRĐ có bao nhiêu người bị oan.
Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi thêm cụ thể hơn –
thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là mình đã
đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Đảng. Cho đến nay, tôi không
biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm
đó ông trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có
phần tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRĐ và Chỉnh đốn
tổ chức thì tôi ước đoán là chừng năm-sáu nghìn người (2). Đó
là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý do khác, như tự tử
trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam cầm ở xã,
chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v…
Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết
con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà
thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những
con số về người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định
được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy
đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác
chống nhân loại!
Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hoả mù”
chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân
chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Đảng mà thôi.
Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều
cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què
quặt thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người
bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan
vỡ… thì chỉ có Trời mới sửa được!
Ngay cả những việc tưởng
chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng
hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho
mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho
người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà
nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dỡ ngói, rút rui mè, cất
giấu hết, phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên
cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước.
Còn các
“quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc
lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ
bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại
cho người ta. Đó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã
bị tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa
thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được,
ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này
làm được là trả tự do cho những người bị tù oan. Còn việc
khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố cũng
đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp
giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của TW ĐLĐVN
hồi tháng 09.1956, TW buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm
trọng trong CCRĐ, người ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới
đã thi hành sai, chứ TW Đảng không nghiêm khắc tự phê phán mình,
họ vẫn coi “đường lối của TW về cơ bản là đúng”, chỉ có
“việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư
khẳng định: CCRĐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được
thắng lợi lớn”. Điều đó nói lên sự giả dối, nguỵ biện, sự
không thực lòng hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa
sai được?!
Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh
đạo CCRĐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư
luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn
là uỷ viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại
phụ trách công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu
bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em trí
thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù
đày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời,
đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị
thui chột trong nhiều thập niên.
Hoàng Quốc Việt (một người nổi
tiếng “ác liệt nhất” chẳng những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ
trước nữa, chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống
Pháp, ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều cán bộ,
phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người),
bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm
sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người, Lê
Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã làm cho
nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải ra
khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành uỷ Hà
Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW Đảng thì lại cho làm
uỷ viên thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước!
Trái lại, người
ngoài Đảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ĐCS, cho
dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh
Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê
phán cuộc CCRĐ và đưa ra những đề nghị hợp lý thì Đảng trù
dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi
có bao giờ TW Đảng thành thực sám hối về những sai lầm, những
tội ác của mình hay không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến ngày nay, ĐCS vẫn cứ
nói lấy được là CCRĐ đã giành được thắng lợi lớn: “thực hiện
ước mơ nghìn đời” của nông dân - đem lại ruộng đất cho người
cày. Đây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất nông dân
được chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy oan,
khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất chia còn
trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được
chia đó thì năm 1957-1958, ĐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác
xã để tập thể hoá nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ
ruộng đất của họ!
Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất
cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục
đích tối hậu của Đảng? Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau
ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến
pháp, Đảng đã nhẹ nhàng quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất trong
cả nước! Thế thì làm sao có thể nói là Đảng “đem lại ruộng
đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao
nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của dân tộc.
Truyền thống hòa hiếu, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn
Việt Nam được dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm đã bị ĐCS phá
vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRĐ. Nếu ai đã từng sống ở nông thôn
Việt Nam trước “cách mạng”, trước CCRĐ đều cảm nhận cái tinh
thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách” còn khá đậm đà
trong mối quan hệ giữa người với người. Cố nhiên, không ai nói
là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần
chung ở nông thôn ta là như vậy.
Với cái chính sách “phân định
thành phần giai cấp”, ĐCS chia cư dân nông thôn thành cố nông, bần
nông, trung nông (có ba loại, trung nông yếu, trung nông vừa, trung
nông cứng), phú nông (có hai loại, phú nông thường, phú nông
ngấp nghé địa chủ – đây là “sáng kiến” của người chấp hành
để khi cần thì dễ “kích” họ lên địa chủ, chứ trong chính sách
thì không chia ra), địa chủ (có mấy loại, địa chủ yêu nước và
kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào ác bá, địa
chủ phản động).
Sự phân chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi
thực hiện thì tất cả đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của
“đội” (khi trên bắt phải đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác bá,
phản động để bắn, thì cứ phải “kích” lên cho đủ số), do ý muốn
chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, như
khi thấy thái độ của đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích”
lên cho bõ ghét). Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì
phải “tố khổ”, phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành
phần. Với lối xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau
rất phổ biến trong CCRĐ, nên từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét
nhau. Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì
không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị
đội CCRĐ coi là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v… cuối cùng
thì ai cũng tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình.
Đây là số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì tư thù,
hoặc vì muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm
“rể”, làm “cốt cán”, làm cán bộ, để được chia “quả thực”
nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo túng vì lười
biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử lưu manh,
nhưng thường lại được đội coi như là bần cố nông để dựa, o bế,
sử dụng nhằm… hoàn thành nhiệm vụ của đội. Một điều kỳ
quái cần nói nữa là: mọi lời “tố” của nông dân đều không cần
bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là bằng
chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng! Không cần có bất cứ
một sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận” chung hồi đó là “phải
tin tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao động đã nói là đúng”.
Thế là không còn ai cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần
“đánh vào” bí thư hay chủ tịch uỷ ban kháng chiến trước ở vùng
tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó
“tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Đảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay
là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử
hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi
kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời
và chỉ chỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và
số phận anh ta coi như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn
lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên
tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay
đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước
nhà!
Tóm lại, CCRĐ làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng
xóm đảo lộn lung tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa sai thì tình hình
nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm chém, trả
thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”,
giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được
hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị
tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRĐ… Di sản nghìn năm
rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc,
hòa hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá huỷ
từ ngày CCRĐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác?
Thứ ba. Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân
tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm
người bị đảo điên một cách quái đản như trong CCRĐ. Các đội
CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra
phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha
mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ,
vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố”
thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng
xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng
khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái). Thật
là một tấn bi kịch hãi hùng!
Những người bị quy là địa chủ
ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị
chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân,
phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải
xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con.
Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”,
“con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng
tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái
lại cái “lệ mới” đó – đội tuyên bố phải đối xử như thế mới
“nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ”
được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai
cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”!
Ngay cả đứa bé con
cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa
chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc
cũng đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”.
Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân
thích, ruột thịt của người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều
bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng hãi
hùng đó! Đúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông thôn (và
cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ
vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc bị kích
lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia,
tức là vợ hay chồng, sợ liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi
lập gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ
mới.
Đến sau này thấy sai, người bị bắt đi tù này được trở
về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp
VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để “giải quyết những vụ
vợ chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể
hàn gắn được tình cảm yêu thương trong gia đình đã bị thương tổn
nặng nề bằng một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư pháp! Tình yêu
của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệt như thế –
để giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với người yêu
thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Đây cũng là một nét về đạo đức nữa cần phải nói đến. Chưa
bao giờ sự giả dối trắng trợn được đề cao như trong CCRĐ. Chẳng
cần phải nói tới việc các “anh đội”, “chị đội” báo cáo láo
cho đoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở đây chính là
người ta ép buộc, khuyến khích người nông dân nói dối, làm láo.
Dần dà rồi người nông dân cũng thấy cần phải nói dối, làm
láo để “qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ cũng “tố bậy”, “tố điêu”
dù trong thâm tâm biết mình đang nói dối, vu khống.
Cũng có
người cố giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ phải trả giá
đắt cho điều đó. Cho nên cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Đội
cũng dạy thêm cho nông dân quen làm những việc giả dối, chẳng
hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh xuất hiện hình địa chủ
thì phải hô “đả đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình địa chủ
để tỏ lòng uất hận của mình. Thế là nông dân cũng làm theo.
Tất nhiên, cũng không loại trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý
đám đông”, khi người ta hành động như trong một cơn lên đồng tập
thể. Chẳng hạn, mỗi lần chiếu phim “Bạch Mao Nữ” của Trung
Quốc, thì có nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện hình
địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh. Chính vì thế,
các diễn viên kịch thường từ chối lên sân khấu đóng vai địa
chủ vì sợ vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của UBCCRĐTW là trong các cuộc đấu địa chủ, nhất là
địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để
ra “đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước ngày đấu,
mọi “rễ”, “chuỗi”, dân quân, công an, toà án, chủ tịch đoàn…
đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên “đấu”
sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người “tố”
phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả đảo”
(khi người bị “tố” không nhận tội…), lúc nào thì bắt địa chủ
quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì
“hoan hô” (khi toà tuyên án tử hình, tịch thu tài sản…).
Chủ
tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán
mới đào tạo trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta
lúng túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra “đấu trường”,
thường “anh đội”, “chị đội” phải ngồi sau lưng nhắc, như người
nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc mãi không
được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội” giật micro và điều
khiển luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối lố
bịch, trắng trợn, mà không hề biết ngượng! Nhưng cái nguy hại
chính là sự giả dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và
người dân, tạo nên một nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều
người!
Thứ tư. Tội phá huỷ truyền thống tâm linh và văn hoá của dân tộc.
Bằng cuộc CCRĐ, ĐCS cố tình triệt hạ các tôn giáo và truyền
thống tâm linh của dân tộc. Trước CCRĐ, các nhà thờ Thiên Chúa
giáo, các tu viện, nhà cô nhi… đều có ruộng đất riêng, các
Chùa có ruộng hậu do tín chủ cúng cho chùa, các nhà thờ họ
có ruộng họ, các đình có ruộng làng… để lo việc sửa sang, tu
bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng tế hàng năm, việc từ thiện, v.v…
và để nuôi sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người
chuyên lo việc trông nom, thờ phụng…
Nhờ thế hoạt động tôn giáo,
tâm linh, từ thiện được tiến hành bình thường không có trở
ngại. Nhưng với chính sách CCRĐ của ĐCS, tất cả các ruộng đất
đó đều nhất loạt bị coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng
thu để chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa đó, tất cả các
nhà thờ, tu viện, nhà cô nhi, chùa chiền, điện thờ, miếu mạo,
nhà thờ họ, đình… đều trở nên điêu đứng và dần dần tàn tạ.
Riêng đối với nhà thờ Thiên chúa giáo, do phong trào giáo dân ồ
ạt di cư vào Nam, nên về sau Đảng đã phải để lại cho các nhà
thờ một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng các cơ sở thờ
cúng vào việc họp hành, đóng quân, làm hội trường, làm kho
hợp tác xã mua bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v…
Có nơi thậm
chí người ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con tín
đồ bí mật cứu các tượng Phật, đem chôn, đem giấu hầm kín, sau
này phần lớn các tượng gỗ đều mục nát, thế nhưng cũng có ít
tượng còn giữ được, vào thập niên 80 bà con mới đưa lại vào
chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xoá bỏ. Chữ
“thiện”, chữ “nhân” một thời gian dài chẳng ai dám nói đến, vì
giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến chữ “thiện”, chữ “nhân”
thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối!
Trong lúc đó, người ta lại đề cao bạo lực, cổ vũ đấu tranh
giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất nhân, điều vô đạo. Một
điều rất quái dị trong CCRĐ mà ĐCS lại coi là tự nhiên hoặc
là cần thiết: người ta thường xuyên huy động các cháu thiếu
niên từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRĐ. Bắt chúng mang trống ếch
đi cổ động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự các cuộc đấu tố,
các phiên toà CCRĐ, các buổi hành quyết công khai. Nhiều cháu,
nhất là các cháu gái, vốn có tâm lý hiền lành bị bắt buộc
phải tham gia, đã không chịu nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu
ngất xỉu trước cảnh hãi hùng, súng bắn, máu đổ…
Còn các
cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại thích thú hoan hô, thậm chí
sau khi “được” tham dự những cảnh tượng đó, có nơi chúng lại
bày trò chơi “đấu tố”, bắt con cái địa chủ quỳ để con cái
nông dân lên đấu, cũng xỉa xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội…
Chẳng biết có ai xúi giục không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra
những “trò chơi” quái đản đó! Khi cái thiện bị nén xuống mà
cái ác được cổ vũ, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên là đạo
đức bị suy đồi, băng hoại dưới chế độ của những người cộng
sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ “cởi trói”, đã được đọc truyện
ngắn “Bước Qua Lời Nguyền” của Tạ Duy Anh đăng trên tuần báo
“Văn Nghệ” (1989) ở Hà Nội, truyện đó phản ánh phần nào tấn
bi kịch của giới trẻ nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc CCRĐ
đầy kinh hoàng.
Không những CCRĐ đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo lý và
truyền thống nhân bản, mà nền văn hoá dân tộc cũng vì nó mà
bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều miếu đền uy nghiêm bề thế,
nhiều bia đá là những di tích văn hoá lâu đời của dân tộc đã
bị huỷ hoại trong CCRĐ. ĐCS giấu kín những chuyện này, nhưng
cũng có thể nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần,
trong và ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm.
Chẳng hạn, cụ
Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ
Nguyễn Tiên Điền, gọi thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đời thứ 11
là bác. Đầu năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và đoàn CCRĐ quy
là địa chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống) lại bị
“kích” lên thành phần phong kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử
nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến sĩ khoa Giáp
Thìn (1904) lúc 28 tuổi), mà thật ra cụ không hề nhận chức
tước, phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật. Cụ bị
đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm tù khổ sai, bị giam ở trại
Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên ngay mùa thu năm
ấy, cụ bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác ở ven rừng.
Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất hận là nỗi đau lớn, nhưng
nỗi đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị quy oan như
vậy, mà đội CCRĐ đã phá huỷ nhiều đền đài, bia, miếu thờ của
các danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa đã
đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch quý giá của dòng
họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó có di cảo của thi hào Nguyễn Du.
Một sự mất mát lớn lao về văn hoá không có gì bù lại được!
(Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của Đặng Cao Ruyện,
NXB Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện này nữa. Trong cuộc hội nghị cán bộ do TW Đảng
triệu tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong CCRĐ hồi tháng
09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận, lúc đó là thứ trưởng Bộ
văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã bị
đội CCRĐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp tốc thuê làm bia khác
giống hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ cũ và phải tuyệt đối giữ
bí mật để không ai biết là bia mới! Tôi không có điều kiện kiểm
chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ trưởng văn hoá lại nói sai?!
*
Như trên tôi đã viết, tuy là chuyện CCRĐ đã qua từ lâu rồi, nhưng
ngày nay, vẫn cần phải nói đến, vì ngày nay tập đoàn lãnh
đạo ĐCS đang cố viết lại lịch sử, đang cho bọn bồi bút xuyên
tạc lịch sử để chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho ĐCSVN trong
CCRĐ và cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói công bằng là trước năm 1950, ông Hồ và ĐCSVN không
nói đến CCRĐ, chỉ nói đến giảm tô, mà cũng chỉ trên giấy tờ
và rất coi nhẹ việc thực hiện. Chỉ từ năm 1952, vấn đề giảm
tô và CCRĐ mới đặt ra một cách gắt gao. Như vậy có thể nói là
việc CCRĐ là do sức ép của Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng khi
ông Hồ đã nhận làm CCRĐ là ông và ĐCSVN đã làm một cách tin
tưởng và tích cực.
Cũng có thể do yếu tố tâm lý của một
người trước đây đã từng bị Stalin và Quốc tế Cộng sản coi là
hữu khuynh, thậm chí bị nghi ngờ, không giao việc trong thời hạn
dài, nay lại bị nhận xét là coi nhẹ nhiệm vụ phản phong, thì
ông càng phải cố tỏ rõ tinh thần mẫn cán, kiên quyết của mình.
Quả là hồi đó, ông Hồ và ĐCSVN cũng thật tình rất tin tưởng
vào Stalin và Mao Trạch Đông. Chẳng thế mà ông đã công khai nói
trước hội nghị cán bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc để chuẩn
bị cho đại hội 2 của ĐCS sẽ họp năm sau là: “Các cô các chú
nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và
đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được”. Chính tôi có
mặt trong cuộc hội nghị đó, tôi nghe rõ, nhiều người khác cũng
nghe rõ như thế, có điều bây giờ họ không muốn hay không dám
nhắc lại mà thôi.
Đến đại hội 2 của Đảng (tháng 03.1951), ông
Hồ lại cũng nói đúng như thế, và cụ Nguyễn Văn Trấn cũng đã
kể lại chuyện đó trong sách của cụ “Viết Cho Mẹ Và Quốc
Hội”. Cho nên ông Hồ làm CCRĐ rõ ràng với sự tin tưởng và tích
cực. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà cụ Vũ Đình Huỳnh, người
gần gũi ông nhất thời gian đó sau này đã “khẳng định người
chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai lầm trong CCRĐ
là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải ông Trường Chinh, như đã có
sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần
cho sai lầm của ông Hồ” (xem “Đêm Giữa Ban Ngày” của nhà văn Vũ
Thư Hiên).
Theo tôi, đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm chính,
như cụ Vũ đã nói, nhưng Trường Chinh chẳng phải là “con dê tế
thần” với cái nghĩa “oan dương” đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí
thư, vừa là chủ nhiệm UBCCRĐTW, ông ta là người điều hành mọi
việc CCRĐ hồi đó, cho nên, nếu Trường Chinh không phải là thủ
phạm số một thì cũng phải là thủ phạm số hai. Cái ý của cụ
Vũ, theo tôi hiểu, là TW Đảng trong hội nghị lần thứ 10
(09.1956) đã không đả động gì đến Hồ Chí Minh, đã không dám nói
đến trách nhiệm của ông Hồ (vì thi hành kỷ luật Chủ tịch
Đảng, Chủ tịch nước thì… ôi thôi, ĐCS còn gì nữa!) mà chỉ đưa
Trường Chinh và các ông khác ra “chịu trận” mà thôi.
Sau này, trong giới thân cận với giai cấp cầm quyền, có những
người hay tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh không tán
thành chủ trương CCRĐ, không tán thành việc xử tử bà Nguyễn
Thị Năm, không tán thành làm Chỉnh đốn tổ chức trong CCRRĐ, v.v…
Nhưng, xét cho cùng, loại chuyện đó chỉ là những huyền thoại
không hơn không kém. Những huyền thoại ấy nhằm đánh lừa những
người không biết tình hình thực tế hồi thập niên 50 ở miền Bắc
và những thế hệ trẻ hậu sinh, nhằm chạy tội cho ông Hồ để
vớt vát cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm phao cứu mạng
cho tập đoàn thống trị cộng sản.
Hoàng Tùng, nguyên tổng biên
tập báo Nhân Dân, nguyên bí thư TW ĐCSVN, nhiều năm làm tuyên huấn,
v.v… là một trong số những “chuyên gia” sáng tác huyền thoại
kiểu đó. Trong hồi ký “Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, ông ta có
kể lại về thái độ của ông Hồ đối với án tử hình bà Nguyễn
Thị Năm như sau: “Họp Bộ chính trị Bác nói: “Tôi đồng ý người
có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu
phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy
cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn
bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc La
Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn
cứ cho là không phải”. Và họ cứ thế làm” (xem đoạn trích, đăng
trên tờ “Diễn Đàn Forum” ở Paris, số 123/11.2002, tr.15).
Khi kể
chuyện này, Hoàng Tùng đã cố lờ đi mấy điều thực tế lịch sử
rất quan trọng: 1/ vào thời điểm nửa đầu thập niên 50, uy thế
của ông Hồ trong Đảng là tuyệt đối, một lời của ông đã nói ra
thì không một ai, kể cả các ông trong BCT, dám làm trái ý ông
hết; 2/ tất cả các ông trong BCT TW, không trừ một ai hết, đều
răm rắp giữ đúng tư cách một người học trò khiêm tốn, không bao
giờ được phép quyết định những chủ trương lớn mà không có ý
kiến ông, huống hồ là việc làm trái ý ông.
Hồi 1952-1953 thì
không thể nào có chuyện “Thôi tôi theo đa số” và “Và họ cứ thế
làm” được! Nếu thật sự ý thức được là “không nên đánh đàn
bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”, mà ông Hồ chỉ lắc đầu
một cái thôi, chứ không cần phải nói nhiều lời như Hoàng Tùng
kể, thì chắc chắn là ông đã cứu được bà Nguyễn Thị Năm!
Mà
không chỉ một mình bà Năm! Thêm nữa, cái chữ “họ” trong câu của
Hoàng Tùng “Và họ cứ thế làm” rất mập mờ: “họ” là ai? Các
ông trong BCT hay các cố vấn? Các ông trong BCT thì chắc chắn là
không. Còn các ông cố vấn có thể họ trái ý với ông Chủ tịch
nước, Chủ tịch Đảng của Việt Nam, nhưng họ không thể bắt ép
ông được, họ chỉ là cố vấn, chứ không có quyền biểu quyết,
quyết định. Những cơ quan nào đã từng làm việc với cố vấn
Trung Quốc hồi đó đều biết cái nguyên tắc đó. Cho nên có thể
khẳng định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị Năm, đúng là ông Hồ
đã không cứu bà Năm. Cũng như sau này, trong vụ án Xét lại –
chống Đảng, ông đã không cứu ông Vũ Đình Huỳnh. Dù rằng ông
biết rõ về họ.
Hơn nữa, một câu hỏi hoàn toàn chính đáng được đặt ra: trong
suốt ba-bốn năm đằng đẵng lẽ nào ông Hồ và BCT không hề hay
biết gì hết đến những thảm hoạ của người dân ở nông thôn mà
họ cai trị hay sao? Lẽ nào ông Hồ, Trường Chinh và các ông khác
trong BCT không biết rằng ở quê hương mình những người đồng hương
của họ đang khốn khổ ra sao? Lẽ nào trong giới thân cận của
ông Hồ và các uỷ viên BCT không có một ai dám phản ánh tình
trạng bi đát của người dân cho họ biết hay sao?
Câu trả lời dứt
khoát là: các ông ấy đều có biết, nhưng các ông đều im lặng!
Im lặng đến nỗi ông Vũ Đình Huỳnh một lần đang ốm cũng cố
chống gậy lên Chủ tịch phủ gặp ông Hồ và nói toạc vào mặt
ông: “Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác ngồi yên được à?
Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm
vừa xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm,
nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng
bào, đồng chí!” (Xem “Đêm Giữa Ban Ngày”). Hoàng Tùng cũng đã
lờ tịt cái thực tế lịch sử phũ phàng này: Trong suốt thời
gian CCRĐ, ông Hồ, với tư cách là Chủ tịch nước, chưa hề ký
một lệnh ân xá nào cho một ai bị án tử hình.
Chỉ từ sau Đại
hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô và nhất là sau hội nghị cán bộ cao
cấp và trung cấp của Đảng (từ 28.04 đến 03.05.1956), do phản
ứng rất mạnh của cán bộ thì mới có lệnh tạm thời chưa thi
hành các án tử hình. Nhưng, than ôi, lúc đó thì… CCRĐ về cơ bản
đã gần xong rồi! Lúc đó các đoàn và UBCCRĐTW đang bắt tay làm
báo cáo tổng kết để chuẩn bị cho hội nghị TW Đảng kiểm điểm
CCRĐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ, Hoàng Tùng cũng cố
tình đổ lỗi cho cố vấn Trung Quốc là chính, chứ không phải lỗi
của ông Hồ và ĐCSVN. Ông Tùng viết: “Thuyết của họ là không
dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức của
Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác, như chính quyền, các
đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh
đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953.
Thế mà họ thẳng
tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích
của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào Đảng ta. May mà đến
năm 1956 ta kịp dừng lại (bao nhiêu đầu rơi, máu đổ và CCRĐ cũng
đã gần xong, thế mà bảo là “kịp”! – Người viết), nếu không
thì tan nát hết”. Một đoạn khác: “Đánh thuế công thương nghiệp,
cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề ra. Hậu quả là hơn
một triệu người di cư vào Nam.
Ta đổ tội cho Pháp, Mỹ, điều đó
chỉ đúng phần nào, còn là do ta vội, làm ẩu, đánh tràn hết.
Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh.
Đảng viên tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải
cách lúc đó là như thế” (xem tờ “Diễn Đàn Forum” nói trên).
Đúng là các cố vấn Trung Quốc chỉ biết có kinh nghiệm CCRĐ ở
Hoa Nam, khi Hồng quân tiến xuống phía Nam, hầu như không có cơ sở
tổ chức của ĐCS, nên có nhiều người không phải cộng sản cũng
đã đứng ra lập tổ chức, lập chính quyền, vì thế khi làm CCRĐ
thì ĐCS Trung Quốc cố tình nhân cơ hội ấy quét sạch các tổ chức
đó đi lập những tổ chức mới của họ. Còn ở miền Bắc Việt
Nam, tình hình hoàn toàn khác hẳn.
Không thể làm rập khuôn theo
kinh nghiệm Hoa Nam được. Tôi cũng chẳng thích gì các cố vấn
Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải xét vấn đề khách quan
theo đúng sự thật lịch sử, chứ không thể đổ lỗi, đổ tội tùm
lum cho họ tất cả được. Ông Hồ và BCT TW ĐLĐVN sống và làm
việc ở Việt Nam, có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố
vấn Trung Quốc xúi gì là làm nấy?
Chẳng qua chỉ vì khi đã say
men “lập trường giai cấp đấu tranh”, say men Marxisme-Leninisme,
Stalinisme, Maoisme... trong cuộc lên đồng tập thể, thì chính các
ông lãnh tụ cộng sản Việt Nam cũng “hăng hái” không kém gì
người ta. Tôi còn nhớ, có lần đọc bài nói chuyện của ông Hồ
với cán bộ CCRĐ đăng trên tờ nội san “Cải cách Ruộng đất” (tạp
chí lưu hành trong nội bộ), trong đó ông giải thích rất mộc mạc
chủ trương không được dựa vào tổ chức cũ như sau: “Tổ chức cũ
là “tổ kén”, các cô, các chú không được dựa vào…”.
Lại cũng
cái lối dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói trên! Năm 1962,
khi nói chuyện về Tuyển tập Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Kiến
Giang, lúc đó là phó giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể
rằng: “Làm tuyển tập đó chúng tôi mệt lắm, phải rà soát lại
cả, bao nhiêu bài nói của ông cụ trong CCRĐ phải loại bỏ hay thu
gọn lại”. Tôi hỏi anh có nhớ bài ông cụ nói “Tổ chức cũ là
“tổ kén” không? Anh trả lời: “Có chứ! Bài đó phải loại bỏ.
Cán bộ đảng viên nông thôn người ta đang oán giận đùng đùng, đưa
vào tuyển tập thế nào được!”. Nếu ông Hồ không tán thành chủ
trương của các cố vấn đối với tổ chức cũ ở nông thôn thì có
ai bắt ông phải nói thế đâu?
Tôi kể lại những chuyện đó chỉ để đi đến kết luận này: ĐCSVN
chớ nên đổ lỗi, đổ tội cho ai cả, mà cần thấy hết cái trách
nhiệm lớn lao của mình trong CCRĐ. Chừng nào ĐCSVN chưa sám hối
được về những tội ác đã gây ra, thì người dân chớ có hy vọng
là Đảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ không tái diễn lại
những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi người đừng quên: CCRĐ không phải là thảm hoạ đầu
tiên, cũng chẳng phải là thảm hoạ cuối cùng mà tập đoàn
thống trị cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi không
kể những thảm hoạ trước CCRĐ, mà chỉ nói ngay liền sau CCRĐ là
vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm, vụ án Xét lại – chống Đảng, rồi
Cải tạo công thương nghiệp, đánh đổ tư sản ở miền Bắc, rồi
cái nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Thường vụ Quốc hội do Trường
Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người vô tội ở
miền Bắc vào các trại tập trung khủng khiếp, rồi Tết Mậu
Thân, v.v… và v.v… Nếu kể hết thì ta thấy cả một chuỗi dài tội
ác khủng khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến tận ngày
nay. Cố nhiên, ngày nay người ta dùng thủ đoạn tinh vi hơn, nhưng
bản chất tội ác vẫn thế.
Tội ác mới gần đây nhất là vụ án Lê Chí Quang, xử một nhà yêu
nước chân thành, một chí sĩ đáng kính dù chỉ mới ngoài ba mươi
tuổi! Cái “tội” của anh là đã dũng cảm dấn thân vì nước, đã
dám kêu gọi đám cầm quyền hiện nay hãy cảnh giác kẻo mang tội
bán nước cho Bắc triều, đã dám đứng chân vào “Hội Nhân Dân
Chống Tham Nhũng” những mong trừ được quốc nạn cho dân tộc. Tập
đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã trắng trợn bày trò xử
án để tống người thanh niên yêu nước vào tù, người thanh niên
đã từng tuyên bố đanh thép chí hướng của anh trong bài tiểu
luận nổi tiếng “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”: “Tôi viết bài
này khi đang bị kìm kẹp trong vòng nghiệt ngã của các lực
lượng bảo thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng, bài viết
này không làm cho hào quang lấp lánh trên đầu tôi mà trái lại,
càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng nguy hiểm.
Ngay như đối với một
công thần của cách mạng, mà họ còn ngang nhiên tuyên bố xanh
rờn: "… Sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để bảo vệ chế độ".
Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị biến thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều.
Dẫu sao trước hiểm hoạ khôn lường của tồn vong đất nước, tôi
đâu dám nề hà xả thân, bởi tôi tâm niệm câu nói của Hàn Phi
Tử: "Nước mất, mà không biết là bất tri. Biết mà không lo
liệu, là bất trung. Lo liệu, mà không liều chết là bất dũng".
Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ mọn này, được lương tri dân tộc trong
và ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ giáo”
(01.10.2001).
Rất mong rằng trong dịp nhớ lại thảm hoạ CCRĐ, “lương tri dân
tộc trong và ngoài nước”, nhất là lương tri giới trẻ nhận thức
rõ rằng chế độ độc tài đảng trị mà còn thì những thảm hoạ
tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập đoàn thống trị cộng sản
không tôn trọng con người, không tôn trọng sinh mạng và quyền tự
do của con người, không tôn trọng luật pháp mà chỉ coi trọng
quyền lực của họ là tối thượng mà thôi. Nhắc lại thảm hoạ
CCRĐ, chúng tôi rất mong mọi người, nhất là giới trẻ, noi gương
Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh đấu sớm xoá bỏ chế độ độc
tài nhằm chuyển hoá đất nước ta thành một xã hội dân chủ đích
thực, tạo điều kiện cho sự phát triển và phồn vinh của Tổ
quốc chúng ta.
15.12.2002
____________________________
Chú thích:
1. Bài này được viết để đăng báo Thế Kỷ 21 số Xuân Quý Mùi 2003.
2. Sau này, tôi nhận thấy con số ước đoán này là sai (xin xem ghi chú ngày 10.12.2005).
Ghi chú ngày 10.12.2005: Trên báo Thông Luận số 197 (tháng
11.2005), ông Võ Xuân Minh đã phát hiện một điều rất đáng chú
ý, mà chúng tôi muốn ghi thêm để bạn đọc tham khảo. Điều phát
hiện này chứng tỏ rằng vì không có tổng kết toàn miền Bắc nên
ước đoán trước đây của chúng tôi chừng năm-sáu nghìn người bị
hành quyết là quá thấp so với thực tế.
Trong cuốn “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh tế
Việt Nam xuất bản, tập I viết về giai đoạn 1945-1954 (dày 662
trang), tập II, giai đoạn 1955-1975 (177 trang), (tập III chưa ra),
có đưa ra con số rõ rệt nhất từ trước tới nay: có 172.008
người là nạn nhân trong CCRĐ, trong số đó có 123.266 người sau
này được chính thức xác nhận là oan (chiếm 71,6%). Có điều là
trong sách đã không ghi rõ con số 172.008 nạn nhân này là bị
giết hay bị xét xử.
Ông Võ Xuân Minh đưa ra giả định rất có cơ sở: con số 172.008
nạn nhân này là những người bị giết trong CCRĐ. Ông lập luận
rằng: cuốn sách nói trên có cho biết CCRĐ được thực hiện ở
3.563 xã trên miền Bắc với 10 triệu dân số, mà tỷ lệ địa chủ
được quy định trước là 5,68% (trang 85, tập II), và các đoàn và
đội CCRĐ đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5% như một
quy định bắt buộc (trang 86, tập II), như vậy thì tổng số người
bị coi là địa chủ để đưa ra xét xử phải là trên 500.000 người,
chứ không phải 172.008. Thế thì phải hiểu rằng con số 172.008
người này là bị giết trong số trên 500.000 bị xét xử.
Ông Võ Xuân Minh cũng vạch ra rằng trong số 172.008 nạn nhân đưa
ra trong bảng thống kê thì có ghi rõ 586 người thuộc thành phần
kháng chiến, nếu so với báo cáo của Bộ chính trị thì số đảng
viên “bị xử trí” lên tới 84.000 người, như thế rõ ràng là con
số 586 người thuộc thành phần kháng chiến là số bị giết, và
con số 172.008 người đưa ra trong bảng thống kê cũng là số người
bị giết. Báo cáo của Bộ chính trị có xác nhận: “hàng vạn
đảng viên có nhiều công lao bị xử oan, phải chịu những nhục
hình rất tàn khốc dã man”.
Bảng thống kê đưa ra trong “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” ghi rõ: trong số 172.008 nạn nhân thì:
- Địa chủ cường hào gian ác – 26.453 người, trong đó bị oan 20.493 người (77,4%)
- Địa chủ thường – 82.777 người, trong đó bị oan 51.480 người (62,1%)
- Địa chủ kháng chiến – 586 người, trong bị oan 290 người (49,4%)
- Phú nông – 62.192 người, trong đó bị oan 51.003 người (82%)
Tổng cộng: 172.008 nạn nhân, trong đó bị oan 123.266 người (71,6%).
N.B. Chúng tôi ghi lại những con số đưa ra trong bảng thống kê
này chỉ là để chúng ta hình dung được quy mô to lớn của tội ác
đã diễn ra, chứ không phải vì thế mà mặc nhiên xác nhận là
48.742 người trong số 172.008, tức là 28,39%, (gồm 5960 cường hào
gian ác, 31.297 địa chủ thường, 296 địa chủ kháng chiến, 11.189
phú nông) là không bị oan, tức là “đáng tội”. Vì toàn bộ chính
sách CCRĐ, cũng như những nguyên tắc, tiêu chuẩn quy định thành
phần do Uỷ ban CCRĐ Việt Nam đưa ra đều rập khuôn theo CCRĐ của
Trung Quốc hoàn toàn xa lạ với Việt Nam, nên không chính xác,
không khoa học, lại thêm sự thi hành hết sức tuỳ tiện ở tất
cả các cấp, thì làm sao bảo đảm được số 48.742 người đó là
không bị oan và “đáng tội”? – Người viết
HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp * Chương 37* NGUYỄN MINH CẦN và Đảng Cộng Sản Việt Nam … Nguyễn Minh Cần gia nhập đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1946, từng là ủy viên thường vụ tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên (1946-1951), rồi ủy viên thường vụ thành ủy Hà Nội, phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh Hà Nội (từ 1954-1962). Khi đang theo học trường đảng cao cấp ở Liên Xô (từ 1962) Nguyễn Minh Cần đã bỏ đảng vì không chịu nổi sự đàn áp tư tưởng. Vào thời điểm cộng sản Việt Nam bắt giam những người trong nhóm xét lại, trong đó có cha con nhà văn Vũ Thư Hiên, Nguyễn Minh Cần cùng một nhóm người Việt Nam khác tại Liên Xô xin "tỵ nạn" cho đến nay (1) Từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong đảng Cộng Sản Việt Nam, và sau khi Liên Xô tan rã, được đọc nhiều tài liệu mật trong văn khố Nga, Nguyễn Minh Cần đã vận dụng kinh nghiệm bản thân phối hợp với kiến thức thu thập tại chỗ về hoạt động của đảng Cộng Sản Việt Nam để biên soạn cuốn Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng Sản Quốc Tế (2) để nói lên sự lệ thuộc của đảng này và cá nhân Hồ Chí Minh vào đường lối của Đệ Tam Quốc Tế tức Liên Xô, vì từ khi Stalin lên cầm quyền thay Lênin thì Đệ Tam Quốc Tế đã hoàn toàn do Liên Xô điều khiển.
Tác phẩm dày 230 trang này nêu nhiều bằng chứng rõ rệt về sự lệ thuộc của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam vào đường lối của Stalin. Nguyễn Minh Cần trích Marx và Engels qua Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản: "Những người Cộng sản chỉ khác các đảng vô sản khác trên hai điểm: Một là trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc mà chung cho toàn thể giai cấp vô sản…” Nhấn mạnh tính chất không phụ thuộc vào dân tộc, bởi lẽ chủ nghĩa Marx dựa trên đấu tranh giai cấp vì quyền lợi của giai cấp vô sản, chứ không phải đấu tranh dân tộc vì quyền lợi của dân tộc. Trên thực tế, khắp thế giới đều có giai cấp vô sản nên quyền lợi của giai cấp vô sản vượt khỏi mọi biên giới quốc gia. Vì thế, đấu tranh giai cấp bắt buộc mang tính quốc tế và đã hiện diện nhiều phong trào như Đệ Nhất Quốc Tế, Đệ Nhị Quốc Tế, Đệ Tam Quốc Tế, Đệ Tứ Quốc Tế. Nguyễn Minh Cần trích hiến pháp Liên Xô năm 1924: "Nhà nước mới Xô Viết là một bước quyết định mới trên con đường thống nhất những người lao động tất cả các nước vào Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Thế Giới.” Xác định trên biểu hiện rất rõ mục tiêu và phương hướng đấu tranh của Liên Xô. Liên Xô tỏ ra hết sức trung thành với chủ thuyết Marx được nêu trong Tuyên Ngôn Cộng Sản là nhắm vào những người lao động trên toàn thế giới để thống nhất thành một lực lượng đấu tranh. Phương hướng vận động này không dành chỗ đứng nào cho những người yêu nước theo đuổi mục tiêu phụng sự dân tộc. Vì mục tiêu đấu tranh của Liên Xô cũng được minh thị là tiến tới một Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Thế Giới mà trong thời điểm đó bắt buộc phải cụ thể hóa bằng Liên Xô. Tito của Nam Tư có thể sớm nhận thấy đường lối này của Đệ Tam Quốc Tế chỉ là một chủ trương đế quốc kiểu mới nhắm đưa Liên Xô lên địa vị thống trị các quốc gia khác nên đã không tuân theo và bị Stalin khai trừ khỏi phong trào cộng sản thế giới vào tháng 6-1948.
Riêng Hồ Chí Minh đã chọn vai trò của một chi bộ Cộng Sản Quốc Tế và kịch liệt lên án Tito nên không còn lý do để có thể cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc. Nguyễn Minh Cần không nêu nhận định của mình mà trích dẫn lời tuyên bố của Hồ Chí Minh được ghi trong Hồ Chí Minh Toàn Tập: "Đệ Tam Quốc Tế là một đảng Cộng Sản thế giới, các đảng ở các nước như là chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có lệnh và kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế thì các đảng không được làm.” (3)
Tác giả kể thêm một trường hợp đích thân chứng kiến và nghe rõ lời chỉ dẫn của Hồ Chí Minh vào dịp dự hội nghị trung ương ở chiến khu Việt Bắc với tư cách là cấp lãnh đạo đảng ở Thừa Thiên. Tác giả viết: "Tại hội nghị đó Hồ Chí Minh đã giải thích về chủ trương đổi tên đảng Cộng Sản Đông Dương thành đảng Lao Động Việt Nam. Sau khi giải thích lợi ích của việc đổi tên đảng là để đảng dễ dàng gần gũi, lôi kéo nhiều tầng lớp dân chúng, nhất là các tầng lớp trên, cả miền Nam lẫn miền Bắc đang còn nghi ngại đảng, ông giơ cao nắp hộp thuốc lá thơm Craven "A” của ông lên về phía có nhãn hiệu thuốc và nói: "Đây là Đảng Cộng sản”, rồi ông quay phía trong nắp không có nhãn hiệu và nói: "Còn đây là đảng Lao Động”. Ông lại lớn tiếng hỏi: "Thế thì các cô, các chú có thấy khác gì nhau không?” Cả hội trường đồng thanh đáp vang: "Dạ không ạ!” Ông nghiêm nghị nói: "Các cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên Đảng ta, Bác đã xin ý kiến các đồng chí Stalin và Mao Trạch Đông rồi (chúng tôi được biết hồi ấy ông vừa đi Moskva về), các đồng chí đã đồng ý.
Các cô, các chú nên biết rằng: “ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể nào sai được.” Cả hội trường vỗ tay rầm rầm. Tại đại hội 2 của đảng (1951), Hồ Chí Minh cũng đã có những lời tuyên bố tương tự. "Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được”… Đây là một chuyện thực trăm phần trăm, những người cùng thời với chúng tôi đều biết rõ và nhớ kỹ những chuyện như thế, tiếc rằng không mấy ai chịu viết sự thật lên giấy trắng mực đen!” Trung thành với tinh thần quốc tế cũng có nghĩa là không thể nương tay với những ai còn nặng tinh thần quốc gia dân tộc. Cho nên, việc thanh toán các phần tử quốc gia yêu nước trở thành một hành vi đấu tranh. Tác giả trích dẫn thư của Đệ Tam Quốc Tế gửi đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1931: "Có nhiều chứng cớ chỉ rằng Đảng không hiểu rõ cái nguy hiểm của chủ nghĩa quốc gia cải lương, đảng không kịch liệt tranh đấu, không giải thích cho quần chúng hiểu rõ tính chất phản dân phản quần chúng của bọn quốc gia cải lương. Dù cái vai trò của chúng không lấy gì làm lớn, ảnh hưởng của tư tưởng quốc gia cải lương vẫn có trong Đảng.” (4) Những dẫn chứng cụ thể đó cho thấy không một cán bộ Cộng Sản nào có thể vừa theo chủ nghĩa Cộng Sản lại vừa là người quốc gia yêu nước. Vì ngay chủ trương căn bản đã đòi hỏi tận diệt tính lưỡng diện. Mỗi cá nhân đều được nhắc nhở phải thành khẩn đáp ứng đòi hỏi này, nếu không muốn trở thành kẻ bị khai trừ khỏi tổ chức hoặc tệ hại hơn là bị thanh trừng. Tuy nhiên, dù trung thành tuyệt đối với chủ trương đã nêu của Quốc Tế Cộng Sản cũng không hẳn là hết khó khăn. Bởi lẽ ngoài những đòi hỏi của sách lược đấu tranh buộc mỗi cán bộ Cộng Sản luôn phải mang nhiều bộ mặt còn có những đổi thay ngay trong nội bộ bắt buộc phải có những sửa đổi để thích nghi với tình thế trong từng giai đoạn. Nguyễn Minh Cần cho biết về tình cảnh này của Cộng Sản Việt Nam: "Tại đại hội 2 đảng Cộng Sản Việt Nam (tháng 2-1951), đại hội đã quyết định rằng cơ sở tư tưởng của đảng Lao Động Việt Nam (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) là chủ nghĩa Marx – Engels – Lénin – Stalin và tư tưởng Mao Trạch Đông... Đến năm 1986, khi xuất bản Hồ Chí Minh toàn tập bằng tiếng Việt – tức sau khi đã có mâu thuẫn nặng giữa Cộng Sản Việt Nam và Bắc Kinh – thì trong bài này người ta đã cố tình cắt bỏ một đoạn, trong đó có những câu vừa nêu”. (5) Về hành động cụ thể của Hồ Chí Minh, tác giả đặc biệt nhìn lại thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất và việc ban hành nghị quyết số 49/NQ/TVQH ngày 20-6-1961 cho phép bắt giam không cần xét xử tất cả những người bị tình nghi chống đối. Nghị quyết do Đảng đưa ra đã được chính quyền hóa bằng cách đẩy sang quốc hội cho Trường Chinh ký và mở ra một kỷ nguyên tràn lan trại tù tại Việt Nam kéo dài cho tới nay. (6) Kết quả tức khắc của nghị quyết này được tác giả ghi lại: "Hàng chục vạn người bị tù đầy hầu như vô thời hạn, vợ con họ bị phân biệt đối xử, tình cảnh họ thật là bi thảm. Bao nhiêu người khốn khổ đã phải bỏ xác ở các trại tù. Đây thực sự là một tội ác của tập đoàn thống trị đảng Cộng Sản Việt Nam đối với dân tộc Việt Nam, và khốn thay, tội ác đó đã được lặp lại một lần nữa với quy mô rộng lớn hơn, sau khi họ chiếm được miền Nam.” (7) Về Cải Cách Ruộng Đất, Nguyễn Minh Cần đã viết trong một bức thư gửi cho bạn bè vào đầu năm 2003 với tựa đề Xin đừng quên! Nửa thế kỷ trước. Trong bức thư này, Nguyễn Minh Cần đưa ra nhiều bằng chứng để bác bỏ luận điệu bào chữa cho Hồ Chí Minh của một số người trong đó Nguyễn Minh Cần nêu đích danh Hoàng Tùng trong Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam. Những người này vẫn cho rằng Hồ Chí Minh phải làm Cải Cách Ruộng Đất do bị Liên Xô và Trung Cộng ép buộc còn những tội ác trong Cải Cách Ruộng Đất tại miền Bắc khai mào từ năm 1953 là do Trường Chinh và các cố vấn Trung Cộng ... Nguyễn Minh Cần nhắc lại những sự kiện xẩy ra mà tác giả được biết đích xác và kết luận Hồ Chí Minh là người chịu trách nhiệm chính, sau đó mới đến Trường Chinh. Tác giả viết: “Từ 1-4 tháng 12-1953, kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa 1, Hồ Chí Minh đọc báo cáo “tình hình đất nước và nhiệm vụ Cải Cách Ruộng Đất” và ngày 4-12-1953, quốc hội nhất trí thông qua luật Cải Cách Ruộng Đất. Sau đó Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh ban hành luật Cải Cách Ruộng Đất do quốc hội thông qua.” Tác giả kể thêm nhiều trường hợp cụ thể về trách nhiệm của Hồ Chí Minh. Trước hết là trường hợp bà Nguyễn Thị Năm, người từng che chở giúp đỡ các lãnh tụ cộng sản, lại có con là chiến sĩ trong quân đội và cũng là người bị xử bắn đầu tiên ở Thái Nguyên mà Hồ Chí Minh không can thiệp mặc dù biết rõ. Trường hợp kế tiếp là trường hợp Cụ Nghè Nguyễn Mai hậu duệ của Nguyễn Du bị đấu tố 3 đêm liền, rồi bị kết án 15 năm tù nhưng vào tù được mấy tháng thì chết. Đội Cải Cách Ruộng Đất lấy cớ cụ Mai là địa chủ (vì có vài mẫu tư điền cho phát canh) để “phá hủy đền đài, bia, miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa là đã đốt cháy ngôi nhà 5 gian chứa đầy thư tịch quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó có di cảo của thi hào Nguyễn Du”… Phân tích hàng loạt trường hợp đấu tố đã xẩy ra, Nguyễn Minh Cần nêu lên 4 tội ác nặng nhất của Cộng Sản trong Cải Cách Ruộng Đất: – 1) tàn sát thường dân vô tội – 2) phá hoại truyền thống tốt đẹp ngàn năm của dân tộc – 3) phá hoại đạo lý luân thường của dân tộc – 4) phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. Tất cả những tội ác này đều được tác giả trưng bằng chứng cụ thể để chứng minh. Thời gian đó tác giả đang là Phó Chủ Tịch Hà Nội nên có dịp nghe chính Võ Nguyên Giáp xác nhận trong Cải Cách Ruộng Đất có tới 2 vạn người bị giết oan. Con số do Võ Nguyên Giáp nêu là số những người bị giết oan theo quan niệm riêng của Võ Nguyên Giáp còn theo Hoàng Văn Chí, tác giả Từ Thực Dân Đến Cộng Sản, có tới nửa triệu người bị sát hại do Cải Cách Ruộng Đất. Lúc ấy Hoàng Văn Chí cũng đang ở miền Bắc nên cho biết ngoài số người bị giết ngay trong lúc đấu tố còn có những người bị chết trong tù, những người tự tử vì quá khổ nhục và rất đông thân nhân của những người bị hành quyết bị cô lập đã chết dần chết mòn sau đó… Nguyễn Minh Cần cũng được nghe Cù Huy Cận, lúc ấy là Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa, nói trong một buổi họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã bị đội Cải Cách Ruộng Đất phá hủy... Nhắc lại những sự việc do Vũ Thư Hiên ghi trong Đêm Giữa Ban Ngày, Nguyễn Minh Cần viết: “Cụ Vũ Đình Huỳnh, người gần gũi ông (Hồ) nhất thời gian đó sau này đã “khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải ông Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm... Cho nên có thể khẳng định rằng trong vụ án Nguyễn Thị Năm, đúng là ông Hồ đã không cứu bà Năm. Cũng như sau này, trong vụ án xét lại - chống đảng, ông ta cũng không cúu ông Vũ Đình Huỳnh. Dù rằng ông biết rõ về họ”. Theo Nguyễn Minh Cần, không thể bảo Hồ Chí Minh không biết gì về những thảm cảnh đang diễn ra. Bởi vì mọi báo cáo về công việc đều phải chuyển đến cho người lãnh đạo và lúc đó, Vũ Đình Huỳnh đang đau ốm vẫn phải chống gậy đến xin gặp Hồ Chí Minh để kêu lên “máu đồng bào đã đổ mà Bác ngồi yên được à!”. Sau tiếng kêu của Vũ Đình Huỳnh, cảnh giết chóc vẫn tiếp tục và không bao lâu sau đến lượt Vũ Đình Huỳnh bị tống vào nhà tù. Là một cán bộ Cộng Sản cao cấp, từng có dịp đối diện với Hồ Chí Minh, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng, từng tham gia nhiều hoạt động của Đảng và chính quyền…, Nguyễn Minh Cần đã đưa ra nhiều sự việc xác thực có thể giúp người đọc dễ dàng nhận thấy Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa dân tộc mà chỉ là cán bộ Quốc Tế Cộng Sản, phục vụ quyền lợi của Liên Xô trên hết đồng thời là người chịu trách nhiệm chủ yếu về mọi thảm cảnh đã xẩy ra trên đất nước Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua. CHÚ THÍCH CHƯƠNG 37 (01) Trong số có đại tá Cộng Sản Lê Vinh Quốc được coi như cánh tay mặt của Võ Nguyên Giáp, và thượng tá Văn Doãn, từng là tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân (02) Nxb Tuổi Xanh ở hải ngoại phát hành 2001. (03) SĐD tr. 60 (04) Tác giả ghi trích từ tài liệu "RSKHIDNI ở kho 495, bảng kê 154, Hồ sơ 567, trang 8-9, bản tiếng Việt". (05) SĐD tr. 54 * Tác giả cho biết những hàng trên được trích từ HCM toàn tập Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1986, tr. 6, tr.12 và chú thích “đây không phải trường hợp duy nhất…” Từ sự kiện này, có thể nghi ngờ là Cộng Sản Việt Nam đã nhiều lần cắt xén, thêu dệt mọi tài liệu liên quan đến tiểu sử Hồ Chí Minh để tô điểm vào đó những màu sắc dân tộc như yêu nước thương dân … (06)-(07) SĐD tr. 125, 126 Last Updated Saturday, April 01 2006 @ 01:35 PM EST Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc VN (bài 4) 2008-02-07 Nguyễn An phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần Đảng và nhà nước CSVN đã chuẩn bị thế nào cho cuộc cải cách ruộng đất Trong các buổi phát thanh trước, chúng tôi đã gửi đến quý thính giả phần đầu cụôc phỏng vấn của biên tập viên Nguyễn An với nhà nghiên cứu sử Trần Gia Phụng về các giai đoạn của cuộc Cải Cách Ruộng đất bắt đầu từ năm 1949 đến năm 1956. Bấm vào đây để nghe bài này Download story audio 9caicachruongdat150.jpg Hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm cải cách ruộng đất tổ chức tại Hà Nội từ tháng 3 đến tháng 5/1956. Kỳ này xin gửi đến quý thính giả cuộc phỏng vấn với ông Nguyễn Minh Cần về sự chuẩn bị của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam trước khi bắt đầu cuộc Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát Thanh Long từng gây xôn xao dư luận một thời. Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là một cán bộ trung cấp. Ông từng là bí thư quận uỷ ngoại thành Hà nội trước khi ra công khai, trở thành phó chủ tịch uỷ ban hành chính Hà nội vào năm 1954. Ông thấu hiểu từng bước của cụôc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa sai sau đó tại ngoại thành Hà nội. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva. Mời quý thính giả theo dõi cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị mọi mặt của đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam cho cuộc cải cách ruộng đất, khi đó đựơc gọi là một cuộc cách mạng long trời lở đất. Nguyễn An: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào? Ông Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951 và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng. Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân. Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu, mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn. Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân. Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó. Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải cách ruộng đất. Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới các đoàn là các đội cải cách ruộng đất. Nguyễn An: Xin ông nói rõ thêm về đội cải cách ruộng đất, là những người trực tiếp thực hiện và dân chúng còn mô tả là có quyền hành hơn cả Trời. Nhất đội nhì Trời kia mà. Ông Nguyễn Minh Cần: Mỗi đội cải cách ruộng đất, theo xã to hay nhỏ gồm khoảng 30 hoặc 40 người. Phần nhiều là những người ở các địa phương khác, tức là họ giữ một nguyên tắc là không để cho người địa phương nơi nào phải đi làm cải cách ruộng đất ở nơi ấy. Vì họ sợ như vậy sẽ tạo điều kiện bao che cho tổ chức cũ, bao che cho địa chủ quen biết v.v... Đấy là một nguyên tắc. Như vậy là cả một đạo quân để đi làm cải cách ruộng đất. Bây giờ để chuẩn bị một bước thứ ba nữa tức là chuẩn bị mặt chính sách. Năm 1952, Bộ chính trị tổ chức làm thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là một tình căn cứ của Việt Minh thời kỳ bấy giờ. Trong lần thí nghiệm này có một sự kiện động trời, tức là tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm (còn có tên gọi khác là bà Cát Thanh Long). Nguyễn An: Thưa ông, vụ án này nổi tiếng lắm, ông vui lòng kể thêm một số chi tiết về vụ án này. Ông Nguyễn Minh Cần: Bà là một người mà thời kỳ trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông lớn nhất của đảng CS lúc bấy giờ là ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Thanh Nghị và ông Lê Giảng. Bạn nghĩ gì về cuộc cải cách ruộng đất tại Việt Nam và những hậu quả của chính sách này? Xin email về Vietweb@rfa.org Còn trong thời kỳ "Tuần lễ vàng", là sau khi đã có chính phủ Việt Nam DCCH rồi thì gia đình bà đã dâng nộp100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con trai làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà lại bị quy là địa chủ, cường hào gian ác và bị đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình. Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương do Trường Chinh cầm đầu đã duyệt và thường vụ trung ương, tức là bộ chính trị cũng đã chuẩn y và tất nhiên cả ông Hồ Chí Minh lúc bấy giờ cũng biết sự kiện đó chớ không phải không. Nhưng họ lại lạnh lùng chuẩn y một án tử hình như vậy. Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người CS! Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh tụ CS, nó báo hiệu trước một tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc lúc bấy giờ. Nguyễn An: Xin được hỏi thêm ông về vụ xử tử bà Cát Thanh Long. Về sau mỗi khi tòa án tuyên án tử hình thì án được thi hành liền. Thế tại sao án tử hình của bà Cát Thanh Long lại còn phải đưa lên trên để xin ý kiến. Ông Nguyễn Minh Cần: Vì đây là thí điểm đầu tiên, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho nên có sự thận trọng. Về sau này thì lại khác, tức là quyết định của tòa án là bắn luôn. Từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4/12/1953 thì kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa I, tại đó chủ tịch HCM đọc báo cáo "tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất". Đến ngày 4/12 thì quốc hội nhất trí thông qua luật cải cách ruộng đất và chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh ban hành luật. Từ đó bắt đầu các đợt cải cách ruộng đất. Lúc đầu, mỗi đợt cải cách ruộng đất thì ở một vùng, số lượng xã ít hơn, nhưng dần dần thì mở rộng ra. Đến năm 1956, tức là đợt 5 là đợt cuối cùng, diễn ra ở hầu hết các đồng bằng Bắc bộ và các vùng trước đây bị Pháp chiếm đóng. Quý thính giả vừa nghe phần đầu cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An của ban Việt ngữ và ông Nguyễn Minh Cần về những chuẩn bị của đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam cho cụôc cải cách ruộng đất diễn ra tại miền Bắc Việt Nam 50 năm trước đây. Trong chương trình phát thanh tới, ông Nguyễn Minh Cần sẽ kể lại với quý thính giả một cách cụ thể diễn tiến một đợt cải cách ruộng đất, bắt đầu từ lúc đội cải cách xuống xã. Mong quý thính giả đón nghe. Thông tin trên mạng: - Trang web có những hình ảnh về Cuộc cải ruộng đất - Cải cách ruộng đất - Wikipedia - Land Reform in China and North Vietnam - A Special Supplement: In North Vietnam (The New York Review of Book) - The Solzhenitsyn of Vietnam - Statistics Of Vietnamese Genocide And Mass Murder © 2006 Radio Free Asia Theo dòng câu chuyện: Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền Bắc VN (bài 1) Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (bài 2) Giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất (bài 3) Diễn biến cụ thể một đợt Cải cách ruộng đất (Bài 5) Các tin, bài liên quan Giai đoạn cuối của cuộc cải cách ruộng đất (phần 3) Các giai đoạn của cuộc cải cách ruộng đất (phần 2)
Cuộc cải cách ruộng đất 50 năm trước đây tại miền bắc (Bài 1) Chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945 Nhật đảo chính Pháp tại Việt Nam năm 1945 (phần 3) Nhật đảo chính Pháp tại Việt Nam năm 1945 (phần 2) Nhật đảo chính Pháp tại Việt Nam năm 1945 (phần 1) Việt Nam Quốc Dân đảng và người lãnh đạo Nguyễn Thái Học (Phần 3) Việt Nam Quốc Dân đảng và người lãnh đạo Nguyễn Thái Học (Phần 2) Việt Nam Quốc Dân đảng và người lãnh đạo Nguyễn Thái Học (Phần 1) Tại sao học sinh VN hầu như không biết gì về lịch sử Việt Nam và thế giới? Sài Gòn bắt đầu áp dụng cơ chế ‘một cửa’ về thủ tục hành chánh Sài Gòn sẽ xét cấp hộ khẩu thường trú cho di dân từ các tỉnh Những biến cố lịch sử trong ngày cuối tháng Tư năm 1975 Vài mẩu chuyện về cuộc đời Hồ Chí Minh
Nguyễn Minh Cần
(Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội)
(Cựu Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội)
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete