HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Friday, 15 June 2012

72 * TRẦN GIA PHỤNG * HUYỀN THOẠI I

Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh (Bài 1) 
   Trần Gia Phụng 
 

1.- HUYỀN THOẠI VỀ NGƯỜI CHA

Theo sách Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, của nhà xuất bản Sự thật (Hà Nội), Hồ Chí Minh "sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân. Cụ thân sinh ra Người [họ Hồ] là Nguyễn Sinh Huy, tức Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929)...đỗ phó bảng và sống thanh bạch bằng nghề dạy học. Đối với các con, cụ giáo dục ý thức lao động và cho học tập để hiểu "đạo lý làm người". Sau khi đỗ phó bảng, bị bọn thống trị thúc ép nhiều lần, cụ ra làm quan, nhưng thường tỏ thái độ tiêu cực, không hợp tác với chúng. Cụ thường nói: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ", nghĩa là "Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn". Vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp, cho nên sau một thời gian rất ngắn, cụ bị chúng cách chức. Cụ vào Nam bộ làm nghề thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch, cho đến lúc từ trần." (1)

Ông Nguyễn Sinh Sắc quả thật đã đỗ phó bảng năm 1901 (Tân Sửu) cùng một lần với Nguyễn Đình Hiến, Phan Chu Trinh (2). Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề bị "bọn thống trị thúc ép nhiều lần" sau khi đỗ phó bảng mới chịu ra làm quan. Ông Sắc đã xin đi làm quan ngay sau khi đỗ cử nhân và trước khi đỗ phó bảng. Nguyên vào năm 1894, Nguyễn Sinh Sắc đỗ cử nhân tại trường thi Nghệ An. Năm sau (1895), ông Sắc vào Huế thi hội bị hỏng, đã xin đi làm hành tẩu bộ Hộ. Ba năm sau, ông hỏng kỳ thi hội một lần nữa vào năm 1898 (3). Trước khi dự kỳ thi hội năm 1901, ông Sắc còn tham dự hội đồng giám khảo chấm thi kỳ thi hương tại Bình Định năm 1897 và Thanh Hóa năm 1900 (4). Sau khi đỗ phó bảng trong kỳ thi hội và thi đình năm 1901, ông làm thừa biện bộ Lễ từ 1902 đến 1909, rồi đi tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5 năm đó. Từ thừa biện đi tri huyện là thăng chức chứ không phải xuống chức (5). 

Nguyễn Sinh Sắc bị sa thải chứ không phải bị cách chức (6). Lý do sa thải cũng không phải vì "vốn có tinh thần yêu nước, khảng khái, cụ thường chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp". Ông bị sa thải vì đã hành xử tàn bạo với dân chúng. Trong một cơn say rượu, Nguyễn Sinh Sắc đã dùng roi mây trừng phạt và đánh chết một người tù vào tháng 1-1910. Gia đình người nầy kiện lên cấp trên. Dù tri huyện Nguyễn Sinh Sắc đã chối cãi rằng không phải vì trận đòn của ông mà người kia chết, ông vẫn bị triều đình ra sắc chỉ ngày 17-9-1910 phạt đánh 100 trượng. Hình phạt nầy được chuyển đổi qua hạ bốn cấp quan lại và sa thải (7). Lý do chuyển đổi hình phạt để Nguyễn Sinh Sắc khỏi bị đánh đòn có lẽ nhắm giữ thể diện của một quan chức triều đình, và nhất là vị nầy lại là người có học vị cao. Ông Sắc nghiện rượu từ khi còn ở Huế. Chị của Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954), vào Huế thăm cha năm 1906. "Bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đã mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà" (8). Do đó, năm sau bà bỏ Huế ra Nghệ An trở lại, mà không sống với cha.

Phải chăng câu: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ" (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn) là do những cán bộ cộng sản bịa ra, rồi gán cho ông Nguyễn Sinh Sắc để đả kích chế độ quân chủ? Hay phải chăng vì bị đuổi ra khỏi ngành quan lại nên Nguyễn Sinh Sắc mới bất mãn và thốt lên câu: "Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ" (Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn). Nếu không, Nguyễn Sinh Sắc hăng hái xin đi làm quan làm gì, và sau nầy con ông, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) còn gởi thư đến viên Khâm sứ Pháp tại Huế xin cho ông một chức quan nhỏ nữa.

Ngày 26-2-1911, Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông ở lại Sài Gòn một thời gian, dạy chữ Nho cho nhà báo Diệp Văn Kỳ (9), rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Từ đó, ông không bao giờ trở ra Nghệ An. Ông sống lang thang ở miền Nam bằng nghề đông y, và nghề viết liễn đối cho dân chúng. Gần cuối đời, ông đến định cư tại làng Hội Hòa An, Sa Đéc, và từ trần ngày 29-11-1929 (10).

Khi Nguyễn Sinh Sắc bị bãi chức và sống lang thang nghèo khổ ở miền Nam, con ông ta là Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh, ra nước ngoài năm 1911, đã viết thư từ New York ngày 15-12-1912 cho viên khâm sứ Pháp tại Huế tha thiết "...cầu mong Ngài [chỉ khâm sứ Pháp] vui lòng cho cha tôi [cha của Thành tức ông Sắc] được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài..." (11).

Vậy huyền thoại về người cha của Hồ Chí Minh là một người yêu nước, chống đối chính quyền Pháp nên bị cách chức, là chuyện hoàn toàn bịa đặt do Ban Nghiên cứu Lịch sử trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam đưa ra nhắm là tăng giá trị cho lãnh tụ của họ.

Tưởng cũng nên thêm ở đây một phát hiện của ông Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội hiện nay. Trong sách Trong cõi của Trần Quốc Vượng, có bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)". Phần cuối của bài nầy cho biết rằng ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Ông Trần Quốc Vượng viết: "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm" (12).

2.- HUYỀN THOẠI RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC


Tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam đều viết rằng ngày 5-6-1911, thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Amiral Latouche-Tréville để ra đi tìm đường cứu nước. Sau đây là lời trong sách Lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội:

"Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến "tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Sau khi rời Huế vào Phan Thiết... Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài "xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào"..." (13).

Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng gần giống như thế: "... Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về "giúp đỡ đồng bào" đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người [HCM] đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta" (14).

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau: "...Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta..." (15).

Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đã có nhiều người viết sách về hoạt động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng họ đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí Minh dùng một tên khác tự ca tụng mình là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến.

Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích tìm đường cứu nước, nhưng trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã tìm được những chứng liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí Minh ra đi không phải để tìm đường cứu nước, mà chỉ vì lý do kinh tế gia đình.
Trong bài "Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa", hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá thư của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp, xin hai ông ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Địa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Đông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá thư nầy hoàn toàn giống nhau. Đó là: "Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn..." (16).
Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.
Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. Vì sinh kế gia đình, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Địa), hoặc cho phụ thân ông.
Điều nầy là chuyện bình thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Hơn nữa, điều nầy còn có nghĩa là Nguyễn Tất Thành không phải ra đi tìm đường cứu nước. Việc ra đi tìm đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị.
TRẦN GIA PHỤNG
(còn tiếp)

CHÚ THÍCH :


1. Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương (BNCLSĐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần 4 (xem lại và bổ sung), Nxb Sự Thật, Hà Nội 1975, tt. 11-12. Chữ "Người" với N (hoa) là của nguyên bản.
2. Cao Xuân Dục, Quốc triều đăng khoa lục, bản dịch của Lê Mạnh Liêu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn, 1962, tt. 234-240.
3. Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa, California, 1993, tr. 257
4. Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam [Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam] , Nxb. Gallimard, Paris, 1990. tt. 131-132.
5. Bình Khê nằm về phía tây huyện Tuy Phước. (Bình Khê là quê của bà Bùi Thị Xuân, thi sĩ Quách Tấn). Thừa biện là một chức quan nhỏ ở một bộ, thừa hành một nhiệm vụ nào đó do cấp trên giao phó trong một thời gian (Trần Thanh Tâm, Tìm hiểu quan chức nhà Nguyễn, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1996, tr. 229). P.C. Trinh đỗ phó bảng xong làm thừa biện bộ Lễ. H. Diệu đỗ phó bảng xong làm hàn lâm viện kiểm thảo cũng là một chức quan nhỏ, lo việc biên duyệt sách vở cho Hàn lâm viện, rồi mới được bổ tri huyện Tuy Phước, Bình Định.
6. Cách chức là không được giữ chức vụ cũ, hạ thấp chức vụ và công việc, nhưng vẫn còn được làm quan. Ở đây, ông Nguyễn Sinh Sắc chẳng những bị hạ chức mà còn bị đuổi không cho làm quan nữa, tức sa thải ra khỏi ngành quan lại.
7. Daniel Hémery, sđd. tr. 133. Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, nạn nhân của Nguyễn Sinh Sắc là một nông dân tên Tạ Đức Quang (Thành Tín, Mặt thật, Hồi ký chính trị, Nxb. Saigon Press, California, 1993, tr. 95).
8. Daniel Hémery, sđd. tr. 133. Nguyên văn: "...elle ne put supporter longtemps les brutalités de son père qui avait contracté des habitudes d' ivrognerie et la frappait très sou-vent..." Thành Tín, trong sđd. tr. 95 viết: "Ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượu rất nặng khi còn ở Huế, bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông bố đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn."
9. Diệp Văn Kỳ (1895-1945): Ông là con của Diệp Văn Cương và Công Nữ Thiện Niệm. Bà nầy là em vua Dục Đức (1883) và cô của vua Thành Thái (trị vì 1889-1907). Ông giỏi Nho học, Tây học, đã du học Pháp, đỗ cử nhân luật. Khi về Sài Gòn, ông sang tờ Đông Pháp Thời Báo, rồi xuất bản tờ Thần Chung. Tờ nầy bị đình bản năm 1932. Ông mất tại Trảng Bàng năm 1945.
10. Daniel Hémery, sđd. tr. 134. Theo các tài liệu cộng sản Việt Nam, ông Sắc từ trần và chôn ở Cao Lãnh. Theo tổ chức hành chánh hiện nay ở Việt Nam, Cao Lãnh và Sa Đéc là hai thị xã nằm gần nhau trong tỉnh Đồng Tháp. Nghề viết liễn đối: ngày trước, khi trong nhà có việc vui hay buồn như đám cưới, đám ma..., người ta thường tặng những câu liễn đối bằng chữ Nho, mang nội dung chúc mừng hay chia buồn chủ nhà. Muốn viết hay, người viết phải có trình độ Nho học cao.
11. Thành Tín [tức Bùi Tín], Mặt thật, sđd. tr. 95-96. Lê Văn Tiến, nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 116, tháng 12-1998 tt. 52-53. Thư ngày 15-12-1912 của Paul Tất Thành viết bằng chữ Pháp từ New York.
12. Trần Quốc Vượng, sđd. tr. 258. Trần Quốc Vượng còn thêm rằng chính ông Hồ Sĩ Tạo đã vận động cho Nguyễn Sinh Sắc vào học trường Quốc tử giám ở kinh đô Huế. (sđd. tr. 256)
13. Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, và một số tác giả, Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 145. Sách nầy viết sai chữ "La Touche Tréville". Đúng ra là "Latouche-Tréville". Chữ "Người" với chữ N (hoa) trong nguyên bản. Chúng tôi giữ nguyên cách viết trong bộ Lịch sử Việt Nam.
14. BNCLSĐ, sđd. tr. 15.
15. Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Sự Thật, H.Nội 1976, tr. 13.
16. Đăng trên nguyệt san Đường Mới số 1, Paris, 1983, từ trang 8 đến 25.







Huyền Thoại Về Một Người Ra Đi Tìm Đường Cứu Nước
-----------------------------------------------------------

TRẦN GIA PHỤNG
Tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) đều viết rằng ngày 5-6-1911, thanh niên Nguyễn Tất Thành đã xuống tàu Amiral Latouche-Tréville để ra đi tìm đường cứu nước. Sau đây là lời trong sách Lịch sử Việt Nam của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội:

"Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến "tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái". Sau khi rời Huế vào Phan Thiết ... ...Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville), thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài "xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào"..." (1)

Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng gần giống như thế: "... Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về "giúp đỡ đồng bào" đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người [HCM] đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta." (2)

Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn của tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau: "...Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta..." (3)

Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, đã có nhiều người viết sách về hoạt động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng họ đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí Minh dùng một tên khác tự ca tụng mình là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến. Cái biệt danh nầy cũng đáng nghiên cứu. Phải chăng Trần Dân Tiên có nghĩa là “ông tiên trên trời xuống trần làm dân”?

Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích tìm đường cứu nước, nhưng trong thời gian gần đây, nhiều tác giả đã tìm được những chứng liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí Minh ra đi không phải để tìm đường cứu nước, mà chỉ vì lý do kinh tế gia đình.

Trong bài "Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa" , hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá đơn của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp, xin hai ông ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Địa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Đông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá đơn nầy hoàn toàn giống nhau.

Đó là: " Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn..." (4)

Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.

Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. Vì sinh kế gia đình, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Địa), hoặc cho phụ thân ông.

Điều nầy là chuyện bình thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Hơn nữa, điều nầy còn có nghĩa là Nguyễn Tất Thành không phải ra đi tìm đường cứu nước. Việc ra đi tìm đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm "anh hùng hóa" và làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ, để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị.

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, Canada)

CHÚ THÍCH

1)Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, và một số tác giả, Lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr. 145. Sách nầy viết sai chữ "La Touche Tréville". Đúng ra là "Latouche-Tréville". Chữ "Người" với chữ N (hoa) trong nguyên bản. Chúng tôi giữ nguyên cách viết trong bộ Lịch sử Việt Nam.

2)Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư (có xem lại và bổ sung), Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1975, tr. 15.

3)Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1976, tr. 13.

4)Đăng trên nguyệt san Đường Mới số 1, Paris, 1983, từ trang 8 đến trang 25

Đây là tập bìa đựng hồ sơ của Nguyễn tất Thành xin vào học trường Thuộc địa Đông Dương


Đây là ảnh sao (photocopy) thư của Nguyễn Tất Thành bằng chữ Pháp gởi tổng thống Pháp xin vào học trường Thuộc địa Đông Dương.



Dưới đây là bản dịch thư của Nguyễn Tất Thành gởi tổng thống Pháp xin vào học trường Thuộc địa Đông Dương.

Marseille, ngày 15 tháng Chín năm 1911
Kính thưa Tổng Thống Cộng Hòa,
Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của Ngài ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú trường Thuộc Địa.
Tôi hiện đang làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis (tàu Amiral Latouche-Tréville) để sinh sống.
Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được những ích lợi của nền học vấn.
Tôi người gốc tỉnh Nghệ An, xứ An nam.
Trong khi chờ đợi câu trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi của Tổng Thống, xin Ngài nhận trước nơi đây lòng biết ơn của tôi.
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892,
Con của ông Nguyễn Sinh Huy (Phó bảng).
Học sinh Pháp văn, Quốc ngữ và chữ Nho.
Publié par NVU à l'adresse 18:48


Ra đi tìm đường cứu nhà
Trần Gia Phụng
 

Bến Nhà Rồng ngày nay,
nơi Nguyễn Tất Thành "đi tìm đường cứu nước"
Ngày 31-5-2011, tại Sài Gòn mà nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam (CSVN) đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra cuộc Hội thảo với chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Hành trình tìm đường cứu nước”.  Cuộc hội thảo do các cơ quan sau đây đứng ra tổ chức: Thành ủy đảng CSVN TpHCM, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị Hành chánh Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. Những cơ quan trong ban tổ chức cuộc hội thảo đều tầm cỡ khá cao trong nước, nên cuộc hội thảo quy tụ nhiều nhân vật quan trọng của CSVN, kể cả cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Phải nói ngay rằng đề tài nầy quá cũ, nhưng được CSVN cố tình đem ra hâm nóng trở lại, may ra để vớt vát lại uy tín cho đảng CSVN đang càng ngày càng tuột dốc. Cứ mỗi lần gặp khó khăn về chính trị, CSVN kiếm cách cầu cứu Hồ Chí Minh để lòe thiên hạ, nhất là giới trẻ tuổi mới lớn lên. Vì vậy, từ ngày 26-5, họp báo giới thiệu cuộc hội thảo, cho đến 139 bài tham luận đưa ra trong cuộc hội thảo, đều là một bản đồng ca ồn ào chói tai giống như ếch nhái đồng ruộng kêu ồm oàm sau một trận mưa lớn (Sài Gòn hiện đang vào mùa mưa), đều đặn đúng như những tài liệu cổ điển của CSVN. Tốt nhất, chúng ta trở lại với những tài liệu nầy.
Đầu tiên là nguyên văn lời trong sách Lịch sử Việt Nam của các tác giả cộng sản viết về sự kiện thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu Amiral Latouche-Tréville ngày 5-6-1911 để ra đi:
Sự thất bại của các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục của cuộc vận động Duy Tân và phong trào chống thuế ở các tỉnh Trung Kỳ mà Người [Hồ Chí Minh] từng tham gia khi đang học ở trường Quốc Học Huế, đã thôi thúc Người [HCM] hướng về các nước Tây Âu, mong muốn được đến “tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Sau khi rời Huế vào Phan Thiết … Được ít lâu, lấy tên là Văn Ba, Người [HCM] xin làm phụ bếp trên chiếc tàu thủy Đô đốc La Tusơ Tơrêvin (La Touche Tréville)[Latouche-Tréville], thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp, để đi ra nước ngoài “xem nước Pháp và các nước khác làm như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào…” ( Nguyễn Khánh Toàn và một nhóm tác giả, Lịch sử Việt Nam, tập 2, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1985, tr. 145).
Sách Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp của nhà xuất bản Sự Thật giải thích sự ra đi của Hồ Chí Minh cũng gần giống như thế:
“… Ít lâu sau, Hồ Chủ tịch vào Sài Gòn. Nam Kỳ dưới chế độ thuộc địa cũng chẳng khác gì Trung Kỳ dưới chế độ bảo hộ và Bắc kỳ dưới chế độ nửa thuộc địa, nửa bảo hộ. Ở đâu nhân dân cũng bị áp bức, bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đày, khổ nhục. Điều đó càng thôi thúc Hồ Chủ tịch đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường, rồi sẽ trở về “giúp đỡ đồng bào” đánh đuổi thực dân Pháp. Ý định ấy của Người [HCM] đã dẫn Người từng bước đi tới tìm một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.” (Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ  tư (có xem lại và bổ sung), Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1975, tr. 15).
Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, cũng do nhà xuất bản Sự Thật ấn hành, trả lời phỏng vấn của tác giả Trần Dân Tiên, Hồ Chí Minh nói về lý do ra đi như sau: “…Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta…” (Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1976, tr. 13).
Trần Dân Tiên chính lại là Hồ Chí Minh. Ông dùng một tên khác viết sách tự ca tụng mình. Tại Việt Nam cũng như trên thế giới, có nhiều người viết sách về hoạt động của mình, đôi khi để tự khen mình, hoặc để biện hộ cho những việc làm của mình, nhưng họ đều đề tên thật, chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Hồ Chí Minh dùng một tên khác tự ca tụng mình là một sáng kiến kỳ lạ chưa một người tự trọng nào dám nghĩ đến một hành động thật quá trơ trẽn.
Như thế, qua các sách của nhà cầm quyền cộng sản và qua chính những lời viết của Hồ Chí Minh, ông ta đi ra nước ngoài nhắm mục đích tìm đường cứu nước. Tuy nhiên nhiều tài liệu cụ thể cho thấy rằng Hồ Chí Minh ra đi không phải để tìm đường cứu nước, mà chỉ vì lý do kinh tế gia đình, ra đi để tìm đường cứu nhà.
Trong bài “Từ mộng làm quan đến đường cách mạng Hồ Chí Minh và Trường Thuộc Địa”, hai tác giả Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu đã phổ biến ảnh sao (photocopy) hai lá thư của Nguyễn Tất Thành đề ngày 15-9-1911 gởi cho tổng thống Pháp và bộ trưởng bộ Thuộc Địa Pháp, xin hai nhà lãnh đạo Pháp ban ân huệ cho Thành được đặc cách vào học Trường Thuộc Địa Paris, nơi đào tạo quan lại cho các thuộc địa Pháp trong đó có Đông Dương. Phần chính trong nội dung của hai lá thư nầy hoàn toàn giống nhau. Đó là:
Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận vào học nội trú Trường Thuộc Địa.
Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche-Tréville).
Tôi hoàn toàn không có chút tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn…” (Đặc san Đường Mới, số 1, Paris, tt. 8-25)

Lá đơn Nguyễn Tất Thành
xin học trường Thuộc địa Pháp
Hai lá đơn trên đều bị bác, Nguyễn Tất Thành tiếp tục hành nghề trên các tàu biển. Ngày 15-12-1912, từ New York, Hoa Kỳ, Nguyễn Tất Thành gởi đến viên khâm sứ Pháp tại Huế một lá thư rất thống thiết xin một đặc ân là ban cho cha Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Sinh Sắc, một chức việc nhỏ như giáo thụ hay huấn đạo, để ông nầy có điều kiện sinh sống.
Nguyên phụ thân của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) là Nguyễn Sinh Sắc (còn có tên là Huy) đỗ phó bảng trong kỳ thi Hội và thi Đình năm 1901 tại Thừa Thiên, và được triều đình Huế bổ làm thừa biện bộ Lễ (tại Huế) từ 1902 đến 1909, rồi đi tri huyện Bình Khê (thuộc tỉnh Bình Định) tháng 5 năm đó. Từ thừa biện lên tri huyện là thăng quan chứ không phải xuống chức.
Nguyễn Sinh Sắc vốn nghiện rượu. Trong một cơn say rượu, tri huyện Nguyễn Sinh Sắc cho thuộc hạ dùng roi mây trừng phạt và đánh chết một người tù vào tháng 1-1910. Gia đình người nầy kiện lên cấp trên. Dù tri huyện Nguyễn Sinh Sắc đã chối cãi rằng không phải vì trận đòn của ông mà người kia chết, ông vẫn bị triều đình ra sắc chỉ ngày 17-9-1910 phạt đánh 100 trượng.  Hình phạt nầy được chuyển đổi qua hạ bốn cấp quan lại và sa thải. (Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ‘Indochine au Vietnam [Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tr. 133). Lý do chuyển đổi hình phạt để Nguyễn Sinh Sắc khỏi bị đánh đòn có thể nhắm giữ thể diện của một quan chức triều đình, và nhất là vị nầy lại là người có học vị cao.
Ngày 26-2-1911, Nguyễn Sinh Sắc xuống tàu từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông ở lại Sài Gòn một thời gian, rồi đi Lộc Ninh làm giám thị đồn điền. Từ đó, ông không bao giờ trở ra Nghệ An. Ông sống lang thang ở miền Nam bằng nghề đông y, và nghề viết liễn đối cho dân chúng. Gần cuối đời, ông đến định cư tại làng Hội Hòa An, Sa Đéc, và từ trần ngày 29-11-1929.
Trước cảnh nghèo túng của cha, Nguyễn Tất Thành viết thư từ New York cho khâm sứ Pháp tại Huế ngày 15-12-1912, có những đoạn như “… cầu mong Ngài [chỉ khâm sứ Pháp] vui lòng cho cha tôi [cha của Thành tức Nguyễn Sinh Sắc] được nhận một công việc như thừa biện ở các bộ, hoặc huấn đạo, hay giáo thụ để cha tôi sinh sống dưới sự quan tâm cao quý của Ngài…” ( Thành Tín [tức Bùi Tín], Mặt thật, California: Nxb. Saigon Press, 1993, tt. 95-96).
Đây là một việc làm hiếu đễ đáng khen của thanh niên Nguyễn Tất Thành, nhưng rất tiếc khi gia nhập đảng Cộng Sản, thì Nguyễn Tất Thành từ bỏ luân lý truyền thống dân tộc, chuyển lòng trung hiếu thành lý tưởng phục vụ đảng và chủ nghĩa cộng sản, đến nỗi sau đó chính Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân Nguyễn Tất Thành, rất bực mình “không muốn nghe nói đến “đứa con hư” của mình [...] mà các chủ thuyết chẳng những đả phá uy quyền của nhà vua, mà còn đả phá luôn cả uy quyền của người gia trưởng.” (Daniel Hémery, sđd. tr. 134).
Hai lá đơn trên cùng với lá thư gởi năn nỉ viên khâm sứ Pháp tại Huế cho thấy lúc mới ra đi, Nguyễn Tất Thành chỉ nhắm mục đích sinh nhai. Vì sinh kế gia đình, lúc đó Nguyễn Tất Thành sẵn sàng thỏa hiệp với người Pháp để kiếm một chức quan cho cá nhân ông (bằng cách xin vào học Trường Thuộc Địa), hoặc cho phụ thân ông, chứ Nguyễn Tất Thành không chống lại nhà cầm quyền thực dân Pháp.
Giải quyết sinh kế cho gia đình  là chuyện bình thường của đời sống con người. Lớn lên, ai ai cũng phải kiếm cách mưu sinh để tự nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Ngày 5-6-1911 Nguyễn Tất Thành xuống tàu Amiral Latouche-Tréville ra đi không phải để tìm đường cứu nước mà để TÌM ĐƯỜNG CỨU NHÀ. Đơn giản chỉ có thế.
Việc ra đi tìm đường cứu nước chỉ là sản phẩm tưởng tượng sau nầy của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, nhắm “anh hùng hóa” và làm đẹp cho việc ra đi của họ Hồ để lôi cuốn quần chúng trên đường hoạt động chính trị. Cuộc hội thảo ngày 31-5-2011 vừa qua tại Sài Gòn cũng không ngoài mục đích đó.
 
(Toronto, 2-6-2011)
Trần Gia Phụng
© 2011 Đàn Chim Việt.
http://www.danchimviet.info/archives/35933



Hồ Chí Minh Con Người Xảo Trá
Trích Báo Tự Do Ngôn Luận Số 34 Cập Nhựt 11/2008
1 - Nguyễn Ái Quốc vào Hội Tam Điểm
Hồ Chí Minh là một nhân vật lịch sử hiện đại hoạt động kín đáo, thường thay tên đổi họ, và thường che giấu hành tung của mình. Một trong những điều được ông che giấu suốt đời là việc ông gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) Pháp năm 1922. Hồ Chí Minh đã dùng tên khác, viết sách để tự ca tụng mình, nhưng hoàn toàn không hé lộ một tý nào về việc ông gia nhập hội Tam Điểm. Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) cũng tránh né không nói đến trong các bản tiểu sử của Hồ Chí Minh.
Tài liệu bằng tiếng Việt đầu tiên và duy nhất lưu hành ở Hà Nội, nói về việc Hồ Chí Minh gia nhập Hội Tam Điểm có lẽ là sách Nguyễn Ái Quốc tại Paris 1917-1923, NXB Thông Tin Lý Luận ấn hành năm 1989, tác giả là bà Thu Trang. Trong sách nầy, bà Thu Trang viết rằng : “Theo một mật báo đã ghi ngày 14/06/1922, Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào Hội Franc-Maçonnerie (Tam điểm) ...” (tr 201.)
Mẩu tin nầy không bị ban Văn Hoá Tư tưởng Trung Ương Đảng CSVN kiểm duyệt hay gạch bỏ, có thể nhờ câu tiếp theo của bà Thu Trang : “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ. Mặc dù theo truyền thống, Hội trên chỉ dành cho giới giáo sĩ, quý tộc hoặc những nhà trí thức bác học tên tuổi ... Nguyễn Ái Quốc được chấp nhận vào hội nầy là do được sự giới thiệu (ít nhất phải có hai hội viên cũ giới thiệu) như một nhà báo lỗi lạc, hay một nhà cách mạng đã có tên tuổi ? Khó mà đoán được ...” (tr 201)
Cần chú ý các điểm :
1) Bà Thu Trang không phải là người Việt ở trong nước, mà bà đã định cư ở Paris từ năm 1961. Bà được Nhà xuất bản Thông Tin Lý Luận Hà Nội giới thiệu là “một nữ trí thức Việt kiều ở Pháp, với lòng tôn kính Bác Hồ” (Lời nhà xuất bản, tr 5).
2) Năm xuất bản là năm 1989, tức 20 năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời (1969). Năm đó, nhà cầm quyền cộng sản các nước trên thế giới tương đối cởi mở, kể cả Liên Xô, Cộng Hoà Nhân Dân Tàu, nên mẩu tin nầy không có gì làm mất uy tín đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).
3) Đa số người Việt trong nước ít biết Hội Tam Điểm là hội gì, chủ trương như thế nào ?
Hội Tam Điểm (Franc-Maçon-nerie do tiếng Anh : Freemasonry) nguyên là một hội đoàn giáo dục, nhắm truyền bá cho hội viên một triết lý sống có đạo đức. Xuất hiện ban đầu ở Anh vào thế kỷ 17 như một nhóm nghề nghiệp (thợ nề, thợ chẻ đá). Về sau nhóm trở thành một hội đoàn hướng đến lý tưởng cao cả như bác ái (fraternity), bình đẳng (equality) và hoà bình (peace). Dần dần hội cho gia nhập cả những người giàu có hoặc có địa vị trong xã hội. Lý tưởng chấp nhận tự do tín ngưỡng và bình đẳng giữa mọi người của hội Tam Điểm đi đôi với chủ nghĩa tự do thời thế kỷ 18. Hội Tam Điểm phổ biến ở các nước nói tiếng Anh, bị Giáo hội Ky-Tô giáo La Mã chống đối, vì Giáo hội cho rằng hội Tam Điểm tranh quyền với Giáo hội. Do đó, hội Tam Điểm không được chấp nhận ở các quốc gia theo Ky-Tô giáo La Mã. Dầu vậy, dần dần hội Tam Điểm phát triển khắp nơi. Hiện nay, trên thế giới, hội Tam Điểm đông nhất là hội Hoa Kỳ, chiếm khoảng 75% hội viên toàn cầu. Có nơi hội Tam Điểm chia ra thành nhiều phái và có khi chống đối nhau. (1)
Như thế, tuy cùng đề cao lý tưởng và quyền lợi công nhân, nhưng hội Tam Điểm phóng khoáng, tự do, trong khi đảng Cộng sản là một tổ chức chính trị độc tài và hai bên rất chống đối nhau. Nguyễn Ái Quốc đã gia nhập đảng Cộng Sản Pháp từ cuối năm 1920 đầu năm 1921. Nguyễn Ái Quốc chuyển qua hội Tam Điểm là hội đối nghịch với đảng CS vào năm 1922. Bà Thu Trang giải thích rằng “Điều nầy chứng tỏ là Nguyễn Ái Quốc đã đến với bất cứ tổ chức chính trị nào có tính cách tiến bộ ...” Tuy nhiên, xin đừng quên một điều là lúc đó, đời sống Nguyễn Ái Quốc tại Paris rất khó khăn. Tình trạng nghèo khó nầy được ông mô tả lại khá rõ trong sách Những mẩu chuyệnvề đời hoạt động của Hồ Chủ tịch dưới bút danh Trần Dân Tiên. Phải chăng Nguyễn Ái Quốc vào hội Tam Điểm để tìm kiếm một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới ?
Nguyễn Ái Quốc vào Hội Tam Điểm ngày 24-6-1922, thì trong tháng 7-1922, Nguyễn Ái Quốc hai lần gặp gỡ Phạm Quỳnh tại Paris, cũng là một nhân vật Tam Điểm VN. Nguyên lúc đó, vua Khải Định (trị vì 1916-1925) hướng dẫn phái đoàn Việt Nam sang dự cuộc đấu xảo (hội chợ triển lãm) ở Marseille (Pháp). Phạm Quỳnh tháp tùng theo phái đoàn nầy. Lúc đó, Phạm Quỳnh là một nhà báo, nghị viên Hội đồng thành phố Hà Nội, và đã gia nhập Hội Tam Điểm ở Hà Nội.
Theo lời mời của chính quyền Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hoá về đường tinh thần của dân Việt Nam từ ngày đặt bảo hộ đến giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.
Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềmnghi”, và không nêu tên những người ông đã gặp trong nhật ký. Tuy nhiên, trên sổ lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ : [Thứ Năm, 13-17] : “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins) ”. [Tờ lịch Chủ nhật 16-7] : “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Xin xem phần tài liệu phía dưới.)
Vài tháng sau khi gia nhập Hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quốc ra khỏi hội nầy và suốt đời giấu kín việc vào hội Tam Điểm vì một điều dễ hiểu, hội Tam Điểm đối nghịch với đảng CS. Vậy phải chăng vì Phạm Quỳnh biết rõ chuyện Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm ở Paris sau hai cuộc tiếp xúc vào tháng 7-1922, mà Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc, ra lệnh thủ tiêu Phạm Quỳnh ngày 6-9-1945, tại một địa điểm cách Huế 20 km, để giấu kín bí mật của mình ?
Theo lời tác giả Thu Trang, “Nguyễn Ái Quốc đã không ở lâu trong Hội nầy [Tam Điểm], vì cuối năm 1922 trên báp L'Humanité, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.”(sđd. tr 201.) Thật ra, lý do chính Nguyễn Ái Quốc dứt điểm hội Tam Điểm, vì lúc đó ông được đại diện Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản mời sang Nga hoạt động. Lời mời nầy vẽ ra trước mắt ông một cơ hội thăng tiến mưu sinh mới.
Nguyên vào tháng 10-1922, D. D. Manuilsky, đại diện ĐTQTCS, từ Moscow qua Paris dự Đại hội kỳ 2 đảng CS Pháp. Nhân đó Manuilsky mời Nguyễn Ái Quốc sang Moscow tham gia Hội nghị Quốc tế Nông dân vào năm 1923 (2). Sự việc nầy có nghĩa là Manuilsky chọn Nguyễn Ái Quốc để đưa qua Liên Xô huấn luyện. Nhận được lời mời Manuilsky, Nguyễn Ái Quốc vĩnh biệt hội Tam Điểm.
Ra khỏi hội Tam Điểm để gia nhập một tổ chức khác thích hợp với mình hơn, là chuyện bình thường. Chuyện bất bình thường ở đây là vào tháng 6 tuyên thệ gia nhập hội Tam Điểm, thì khoảng chưa đầy nửa năm sau, Nguyễn Ái Quốc lại “thẳng tay chỉ trích hội ấy với những lời lẽ hết sức cứng rắn.” (Bà Thu Trang, đã dẫn.) Ngay từ lúc nầy, mới bước vào con đường chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã tự chứng tỏ là một con người “cơ hội chủ nghĩa”, vừa lật lọng, vừa phản bội.
Bên cạnh sách bằng tiếng Việt, bà Thu Trang, với tên Thu Trang-Gaspard viết lại chuyện Nguyễn Ái Quốc ở Paris bằng tiếng Pháp, nhan đề sách là Hồ Chí Minh à Paris (1917-1923), do Nxb. Éditions L'Harmattan ấn hành tại Paris năm 1992, nội dung giống sách trên.
Về việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập hội Tam Điểm, ngoài những tài liệu của bà Thu Trang trên đây, còn có một số tài liệu chi tiết hơn của các tác giả Pháp. Một trong những người nầy là Jacques Dalloz. Ông viết sách Francs-maçons d'Indochine, Paris : Éditions Maçonniques de France, 2002. Sách nầy trình bày đầy đủ những nhân vật Tam Điểm ở Việt Nam, trong đó có Phạm Quỳnh và Nguyễn Ái Quốc.
Riêng về Nguyễn Ái Quốc, ngoài sách trên, trong bài báo nhan đề “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm thuộc địa], tạp chí Revue française d'Histoired'Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris : Société Française d'Histoire d'Outre-mer, tr 105, Jacques Dalloz viết : “Vào đầu năm 1922, do sự giới thiệu của một nhà chạm trổ tên là Boulanger, ông ta dự lễ gia nhập của tổ Fédération universelle (Paris GODF). Phiếu của ông ta ghi là : “Nguyễn Ái Quấc, sinh ngày 15-2-1895 (Việt Nam), thợ tô sửa hình, thợ vẽ.” (tạm dịch từ nguyên bản Pháp văn là : “Au début de 1922, il s'est présenté à l'initiation de la loge la Fédération universelle (Paris GODF), recommandé par le graveur Boulanger. Sa fiche indique : “Nguyen Ai Quâc, né le 15-2-1895 (Annam), retoucheur en photo, dessinateur”) (3).
Trong mệnh đề nầy có hai điều đáng chú ý : Thứ nhất là danh xưng Nguyễn Ái Quấc và thứ hai ngày sinh của Nguyễn Ái Quấc.
2- DANH XƯNG NGUYỄN ÁI QUẤC (QUỐC) và HỒ CHÍ MINH
Danh xưng Nguyễn Ái Quấc (Quốc) lúc đầu không phải là tên một người, mà là tên chung của bốn người. Đó là Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành (4). Cả bốn ông (Trinh, Trường, Truyền, Thành) cùng dùng một bút hiệu chung là Nguyễn Ái Quốc, đồng ký bản “Revendications du peuple annamite” [Thỉnh nguyện thư của dân tộc Việt], bằng Pháp văn do Phan Văn Trường viết, gởi cho các cường quốc trên thế giới, đang họp Hội nghị Versailles (Paris) sau thế chiến thứ nhất, bắt đầu từ 18-1-1919. Thỉnh nguyện thư của các ông xuất hiện lần đầu trên báo L'Humanité [Nhân Đạo] ngày 18-6-1919.
Trong bốn người cùng dùng chung biệt hiệu (Nguyễn Ái Quốc), Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường sống và hoạt động chính trị tại Pháp khá lâu, đang bị mật thám Pháp theo dõi, không tiện ra mặt. Nguyễn Thế Truyền (1898-1969) là sinh viên du học, đang hưởng học bổng của Pháp để theo học ngành hoá học (5) , nên không thể công khai chống Pháp.
Chỉ có Nguyễn Tất Thành là người mới đến, chưa bị mật thám chú ý. Nguyễn Tất Thành tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại Nghệ An, con ông Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) và bà Hoàng Thị Loan. Lúc nhỏ, Nguyễn Sinh Cung học chữ Nho, rồi chuyển qua tân học, theo chương trình Pháp. Sau khi đậu tiểu học khoảng năm 17 tuổi, Nguyễn Sinh Cung vào học lớp nhất niên (năm thứ nhất bậc trung học tức lớp 6 ngày nay) trường Quốc Học (Huế) năm 1907.
Một người bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung ghi nhận lúc học Quốc Học, Cung vẫn mang tên nầy. Tài liệu nầy cho biết thêm rằng đang học lớp nhất niên trường Quốc Học [tương đương với lớp ngày nay], Cung cùng học sinh Quốc Học tham gia biểu tình trong vụ Trung Kỳ dân biến tại Huế tháng 4-1908. Pháp đàn áp cuộc dân biến. Cung lo sợ bị bắt, liền bỏ học, trốn vào nam (6). Ông ghé Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, rồi làm giáo viên dạy Quốc ngữ và chữ Pháp ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) vào năm 1910, với tên mới là Nguyễn Tất Thành (7). Như vậy, có thể Nguyễn Sinh Cung đổi tên thành Nguyễn Tất Thành trong khoảng thời gian nầy.
Trong khi đó, phụ thân của Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Sinh Huy (tên cũ là Nguyễn Sinh Sắc) đang làm thừa biện [thư ký] bộ Lễ ở Huế, được bổ làm tri huyện Bình Khê (Bình Định) tháng 5-1909, tức được thăng chức. Điều nầy chứng tỏ Pháp và triều đình Huế lúc đó không quan tâm đến hoạt động của học sinh Nguyễn Sinh Cung, nên không ghép Nguyễn Sinh Huy vào tội không biết dạy con và mới cho phụ thân của Cung thăng quan. Năm sau (1910), quan huyện Nguyễn Sinh Huy dùng roi mây đánh chết người nên bị sa thải.
Dạy học tại trường Dục Thanh được nửa năm, Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, lấy tên là Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Amiral Latouche-Tréville và theo tàu nầy rời Sài Gòn, đi Pháp ngày 5-6-1911. Ông đặt chân đến Marseille, hải cảng miền Nam nước Pháp, ngày 6-7-1911.
Sau hơn hai tháng có mặt ở Pháp, Nguyễn Tất Thành viết tay hai lá đơn đề ngày 15-9-1911, có nội dung giống nhau; một gởi cho tổng thống Pháp, một gởi cho bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp, xin vào học École Coloniale (Trường Thuộc địa) ở Paris, nơi đào tạo những quan chức cho các nước thuộc địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành bị người Pháp từ chối.
Nguyễn Tất Thành tiếp tục đi tàu biển một thời gian. Sau đó, ông cư trú ở Luân Đôn (London), thủ đô của Anh. Giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, tiếp xúc với nhóm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền. Nhờ sự giới thiệu của ba người nầy, Thành bắt đầu làm quen với giới chính trị Paris, nhất là giới chính trị đối lập với chính phủ Pháp.
Sau khi cả bốn người cùng ký bản “Revendications du peuple an-namite”, ba người trước tránh mặt vì lý do an ninh, Nguyễn Tất Thành thường đại diện nhóm, dùng tên Nguyễn Ái Quốc để liên lạc với báo giới và chính giới. Có thể do đó, dần dần Thành dùng luôn bút hiệu Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của ông. Trong suốt cuộc đời còn lại, Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Ái Quốc còn có cả vài chục tên khác nhau, cho đến khi ông lấy tên cuối cùng là Hồ Chí Minh.
Có một điểm đáng chú ý : Nguyễn Sinh Cung bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng tên Nguyễn Ái Quốc và kết thúc sự nghiệp chính trị bằng tên Hồ Chí Minh. Hai tên nầy đều do Nguyễn Sinh Cung chiếm dụng của người khác.
Nguyên tại Nam Kinh (Tàu), Hồ Học Lãm, một nhà cách mạng Việt Nam, đã lập ra Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Khi đến Hồ Nam năm 1937, Hồ Học Lãm lấy bí danh là Hồ Chí Minh (8). Năm 1938, Nguyễn Sinh Cung, lúc đó lấy bí danh là Hồ Quang, từ Liên Xô qua Tàu lần thứ ba. Theo lệnh của Hồ Quang, những đảng viên cộng sản như Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp), Lý Quang Hoa (Hoàng Văn Hoan) ... len lỏi vào hàng ngũ của Hồ Học Lãm. Hồ Học Lãm già yếu, ít hoạt động. Các đảng viên cộng sản liền núp dưới danh hiệu Việt Minh để hoạt động cho đảng CS, rồi dần dần chiếm dụng danh xưng nầy. Thủ lãnh Hồ Quang, cũng chiếm dụng luôn bí danh thủ lãnh Hồ Chí Minh từ năm 1942 (9).
Riêng danh xưng Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung rất thích thú với tên nầy. Theo Trần Quốc Vượng, sử gia Hà Nội, trong bài "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", thì ông Nguyễn Sinh Sắc, phụ thân của Hồ Chí Minh, không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm, mà là con ông Hồ Sĩ Tạo. Trước khi đám cưới, bà vợ của ông Nguyễn Sinh Nhậm đã có mang với cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cho nên ông Nguyễn Sinh Nhậm chỉ là người cha trên giấy tờ của ông Nguyễn Sinh Sắc mà thôi. Theo Trần Quốc Vượng, Hồ Sĩ Tạo thương đứa con rơi, mới gởi gắm Nguyễn Sinh Sắc vào học trường Quốc tử giám ở kinh đô Huế. Trần Quốc Vượng còn viết rằng : "Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải là cụ Nguyễn Sinh Nhậm" (10) .
3- NGÀY SINH CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ HỒ CHÍ MINH
Khi đến Pháp năm 1911, Nguyễn Sinh Cung dưới tên mới là Nguyễn Tất Thành, làm đơn xin vào học trường Thuộc Địa Paris. Trong đơn, Nguyễn Tất Thành tự khai là sinh năm 1892. (Xin xem tài liệu phía dưới). Nay trong đơn vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc tức Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Cung, tự khai là sinh ngày 15/02/1895. Theo tài liệu của đảng CSVN, Hồ Chí Minh tức Nguyễn Sinh Cung lúc nhỏ, sinh ngày 19-5-1890. Ngày sinh nầy được đưa ra chính thức năm 1946, khi Hồ Chí Minh mới cầm quyền chưa được một năm.
Nhìn vào 3 ngày hay năm sinh do chính Nguyễn Sinh Cung, tức Nguyễn Tất Thành, rồi Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh, tự tay viết ra, rõ ràng hoàn toàn không giống nhau cả năm lẫn ngày tháng. Năm 1911, khi xin vào học trường Thuộc Địa, có thể lúc đó phải theo điều kiện tuổi tác ghi danh vào học, Nguyễn Tất Thành đề là sinh năm 1892, tức vừa trên 18 tuổi vào năm 1911. Năm 1922, khi xin vào hội Tam Điểm, không hiểu dựa vào đâu, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh năm 1895, tức 27 tuổi vào năm 1922.
Chuyện ngày 19-5, sinh nhật Hồ Chí Minh là một thủ thuật chính trị. Nguyên sau khi Nhật Bản đầu hàng ngày 14/08/1945, theo quyết định của tối hậu thư Potsdam ngày 26/07/1945, quân đội Nhật bị giải giới bởi quân Tàu ở bắc vĩ tuyến 16 và bởi quân Anh ở Nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư nầy không nói đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân Nhật bị giải giới, nên Pháp liền lợi dụng kẽ hở nầy, trở lại Đông Dương.
Ở nam vĩ tuyến 16 (từ Tam Kỳ trở vào), Pháp theo quân Anh, đến Sài Gòn rồi dần dần tái chiếm miền Nam. Ở bắc vĩ tuyến 16, Pháp thương lượng với Tàu, và đi đến hiệp ước Trùng Khánh ngày 28/02/1946, theo đó Tàu chịu rút quân từ ngày 01 đến 15/03/1946, và chậm nhất là ngày 31/03/1946. Ngược lại, Pháp trả về cho Tàu các tô giới Pháp ở Thượng Hải, Hán Khẩu, Quảng Đông, Quảng Châu Loan, bán cho Tàu thiết lộ Vân Nam, sửa đổi quy chế người Hoa ở Đông Dương, miễn thuế người Hoa ở Hải Phòng, và người Hoa chuyên chở hàng hoá ngang qua Bắc Việt sẽ khỏi phải chịu thuế.
Sau hiệp ước nầy, sáng sớm ngày 06/03/1946, sư đoàn 9 bộ binh Pháp đến Hải Phòng, dưới sự chỉ huy của trung tướng Jean Valluy. Túng thế, Hồ Chí Minh liền báo tin cho Pháp biết là ông ta đồng ý ký hiệp ước với Pháp. Vào buổi chiều cùng ngày, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, vội vàng ký thoả ước Sơ bộ với Pháp. Cùng ký bản văn nầy, ngoài Hồ Chí Minh, còn có Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng), phó chủ tịch Quân sự uỷ viên hội của chính phủ. Về phía chính phủ Pháp, đại diện là Jean Sainteny.
Trong khi đó, từ tháng 09/1945, quân đội Pháp theo quân Anh đến Đông Dương, chiếm Nam Lào, nhưng không tiến lên phía Bắc, vì vùng nầy do quân đội Tàu giữ. Sau hiệp ước Trùng Khánh ngày 28/02/1946, quân Tàu rời khỏi Lào ngày 12/03/1946. Pháp liền chiếm Vạn Tượng (Vientiane hay Viang Chan) ngày 23/04/1946.
Giải quyết xong việc Tàu chịu rút quân khỏi Việt Nam, từ ngày 14/05/1946, đô đốc D'Argenlieu, cao uỷ Pháp tại Đông Dương, bắt đầu mở cuộc kinh lý khu vực phía bắc vĩ tuyến 16 lần đầu tiên. D'Argenlieu đến Vạn Tượng ngày 17/05/1946, và dự tính sẽ đến Hà Nội vài ngày sau.
Đô đốc D'Argenlieu là cao uỷ Pháp tại Đông Dương, nghĩa là vừa đại diện nước Pháp, vừa được xem là nhà lãnh đạo các nước Đông Dương. Việt Nam mới ký thoả ước Sơ bộ 06/03/1946 theo đó điều 1 ghi rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp. Hồ Chí Minh đón rước D'Argenlieu nghĩa là đón rước quốc trưởng đến thăm Hà Nội.
Việc Hồ Chí Minh ký thoả ước Sơ bộ với Pháp, chính thức hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Pháp tại Việt Nam, hoàn toàn trái ngược với lời thề diệt Pháp của Hồ Chí Minh khi trình diện chính phủ vào ngày 02/09/1945, gây sự bất bình trong các đảng phái chính trị và trong đại đa số quần chúng. Nay lại đón rước D'Argenlieu đến Hà Nội và phải theo đúng nghi thức quốc gia, ít nhất phải có treo cờ chào mừng. Chắc chắn điều nầy càng gây thêm bất bình nơi quần chúng. Tuy nhiên, nhà cầm quyền VM vẫn ra lệnh treo cờ trong ba ngày 18, 19 và 20/05/1946. Việt Minh cho biết treo cờ không phải để chào đón đô đốc D'Argenlieu, mà để mừng sinh nhật Hồ Chí Minh, ngày 19/5. D'Argen-lieu đến Hà Nội chiều ngày 18/05/1946. Hồ Chí Minh và D'Argenlieu gặp nhau hai lần trong hai ngày liên tiếp 19 và 20/05/1946, nhưng không đạt kết quả đáng kể. (11)
Trước sự kiện nầy, có dư luận cho rằng Hồ Chí Minh lúng túng trong việc phải treo cờ đón D'Argenlieu cho đúng nghi thức, mới có sáng kiến đặt chuyện treo cờ để mừng sinh nhật, nhắm làm cho ông ta và chính phủ của ông ta khỏi mất thể diện, đồng thời làm cho dân chúng khỏi bất bình. Dư luận nầy có phần hữu lý ở chỗ trước đó, Hồ Chí Minh không bao giờ nói đến chuyện sinh nhật của mình, nay tự nhiên bày ra chuyện mừng sinh nhật. Hơn nữa, có điểm đáng chú ý là trong đơn xin vào hội Tam Điểm, Nguyễn Ái Quấc ghi rằng ông ta sinh ngày 15/2/1895; nay Hồ Chí Minh lại công bố sinh nhật của ông ta là 19/05. Thế là nghĩa làm sao ?
* * * * *
Tóm lại, ngày nay, không ai lấy làm lạ về việc Nguyễn Sinh Cung đã đổi nhiều tên, nhiều họ, nhiều năm sinh, tháng đẻ khác nhau, cho đến tên cuối cùng là Hồ Chí Minh với sinh nhật là ngày 19/05/1890. Điều đặc biệt là ngày chết của Hồ Chính Minh cũng không phải là một ngày. Người Việt Nam xem ngày chết rất quan trọng, thường tổ chức kỵ giỗ để tưởng nhớ người quá cố. Thế mà ngày chết của Hồ Chí Minh cũng được đảng Lao Động chính trị hoá, để phỉnh lừa dân chúng.
Nhiều người cho rằng vì hoạt động chính trị, Nguyễn Sinh Cung phải hành động như thế. Điều nầy chẳng có gì sai trái. Vấn đề là những hoạt động chính trị của Nguyễn Sinh Cung đã đem lại được gì cho đất nước Việt Nam ?
Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh nói rằng ông tranh đấu để giải phóng dân tộc. Cái giá của việc giải phóng theo kiểu Hồ Chí Minh mà dân tộc Việt phải trả thật quá cao. Nếu chọn lựa đi một con đường khác, không phải là con đường cộng sản, thì có thể tốt hơn. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam ra khỏi tay thực dân Pháp thì rơi vào tay thực dân nội địa (autocolonisation) [chữ của nhà báo Pháp Jean Lacouture], tức đảng CSVN, còn ác độc hơn thực dân Pháp. Giải phóng là cởi bỏ xiềng xích thực dân chứ không phải thay đổi xiềng xích thực dân, và để tiến lên chứ không phải để đi xuống.
Hồ Chí Minh nói rằng ông ta chống Pháp để giành lại độc lập ? Nước Việt Nam càng ngày càng nhượng bộ và lệ thuộc TC. Hồ Chí Minh bảo rằng ông ta tranh đấu cho tự do dân chủ ? Dân chủ của Hồ Chí Minh là dân chủ theo kiểu “đảng cử dân bầu”. Còn về tự do, sau năm 1954, khi các nhà trí thức, văn thi sĩ Bắc Việt yêu cầu trả văn học nghệ thuật lại cho văn nghệ sĩ, nghĩa là để cho văn nghệ sĩ được tự do sáng tác, thì Hồ Chí Minh và đảng Lao Động trả lời bằng cách bắt bớ, giam cầm, đày đoạ cho đến cuối đời hàng loạt trí thức, văn thi sĩ, mà rõ nét nhất là vụ Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội năm 1956.
Hồ Chí Minh cải cách ruộng đất, hứa hẹn để thăng tiến đời sống nông dân ? Hơn hai trăm ngàn người chết vì cải cách ruộng đất, toàn bộ đất đai của dân chúng do cha ông để lại bị quốc hữu hoá vào tay nhà nước cộng sản. Hồ Chí Minh đánh Mỹ để cứu nước ? Thật ra là đánh cho Liên Xô, đánh cho TC ... (12)
Đó là những câu trả lời về mục đích cuộc đời chính trị của một nhân vật lịch sử thay tên đổi họ, như tắc kè thay màu da, chỉ để làm những việc hại dân, hại nước, nhất là du nhập và ứng dụng chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam.
Gs Trần Gia Phụng (Toronto 21/06/2007)
Chú Thích
01 - Tam Điểm : Các hội viên Franc-Maçonnerie khi viết thư cho nhau, thường gọi nhau là huynh đệ/anh em (frère), hay thầy (maýtre), thường viết tắt : F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm (điểm) như 3 đỉnh hình tam giác đều. Vì vậy, người ta gọi hội Franc-Maçonnerie là hội Tam Điểm. (Tập san Historia Spécial, Paris : số 48, tháng 7-8/ 1997, tr 127.)
02 - Chính Đạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại 1892-1924, tập 1 : 1892-1924, in lần thứ hai, Houston : Nxb. Văn Hoá, 1997, tr 224.
03 - Hội Tam Điểm gồm nhiều “obédiences”, xin tạm dịch là “phân bộ”. Mỗi obédience gồm nhiều “loges”, xin tạm dịch là “tổ”. Ở đây, Nguyễn Ái Quấc gia nhập vào tổ (loge) Fédération universelle thuộc obédience (phân bộ) GODF. GODF là viết tắt của chữ : Grand Orient de France.
04 - Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'Indochine au Vietnam [Hồ chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris : Nxb. Gallimard, 1990, tt. 44-45.
05 - Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston : Nxb. Văn Hoá, 1997, tr 374. Học bổng lên tới 5759,50 francs. Lúc đó, số tiền nầy khá lớn.
06 - Lê Thanh Cảnh, tạp chí Hoài niệm Quốc Học, Huế : 1956, tr 37-39. Ông Lê Thanh Cảnh là bạn học cùng lớp với Nguyễn Sinh Cung.
07 - Hồ Tá Khanh, Thông sử công ty Liên Thành, Paris : 1983, tr 34.
0 - Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, sđd. t. 168.
09 - Chính Đạo, Hồ Chí Minh, tập 2, Houston : Nxb. Văn Hoá, 1993, tr 281.
10 - Trần Quốc Vượng, Trong cõi, Nxb. Trăm Hoa , California , 1993, tr 256, 258.
11 - Chính Đạo, Việt Nam niên biểu tập A 1939-1946 , Houston , Nxb. Văn Hoá, 1996, tt. 333-334.
12 - Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ , California , 1997, tr 422, phần chú thích.

Hồ Chí Minh luôn luôn hô hào đoàn kết dân tộc. 

Một trong những khẩu hiệu ưng ý của họ Hồ là "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công."(33)  Sau đây là các cách thức đoàn kết của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.
>Lột trần huyền thoại cái gọi là "Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước" - Trần Gia Phụng "justify"> 1.  Ðoàn kết là tiêu diệt tất cả mọi người bất đồng chính kiến bằng bất cứ giá nào để giành quyền lực:  Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu từ Vladivostok (viễn đông Liên Xô) đi Quảng Châu (Trung Hoa) với vai trò thông ngôn của phái bộ cố vấn Borodin bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên trong thời kỳ liên minh quốc cộng đầu tiên ở Trung Hoa.  Ðến Quảng Châu, Lý Thụy bắt đầu gây dựng cơ sở đảng Cộng Sản Việt Nam.  Nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam uy tín nhất ở Trung Hoa thời bấy giờ là Phan Bội Châu.  Ðể giành lấy tổ chức của Phan Bội Châu, một trong những việc làm đầu tiên của Lý Thụy ở Quảng Châu là bán tin tức cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi ông Phan đi từ Hàng Châu đến Thượng Hải ngày 1-7-1925.(34)  Từ đó, những người hoạt động cách mạng ở Trung Hoa thiếu người lãnh đạo, dần dần ngả về theo nhóm cộng sản của Lý Thụy.  Chẳng những chỉ một mình Phan Bội Châu, mà những cán bộ cách mạng nào không theo phe Lý Thụy, đều bị Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt trên đường về Việt Nam hoạt động.(35)                Trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, các đảng viên cộng sản áp dụng đúng sách vở của Lý Thụy, rải truyền đơn tố cáo Quốc Dân Ðảng sẽ tấn công Bắc Kỳ để Pháp đề phòng và lùng bắt các đảng viên QDÐ.  Nguyễn Thị Giang đã đưa các tờ truyền đơn nầy cho Nguyễn Thái Học xem, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn không tin là những đảng phái cách mạng Việt Nam cùng chống Pháp lại có thể hại nhau như thế.(36) 
Năm 1945, Nhật Bản thất trận và đầu hàng Ðồng Minh.  Tại hội nghị Potsdam (thị trấn ngoại ô Berlin), đại diện các nước Ðồng Minh đưa ra tối hậu thư cho Nhật, trong đó quyết định về vấn đề Ðông Dương như sau: quân đội Nhật sẽ bị giải giới do người Trung Hoa (Quốc Dân Ðảng) ở phía bắc vĩ tuyến 16, và do người Anh ở phía nam vĩ tuyến 16.  Tối hậu thư không nói ai sẽ cầm quyền sau khi quân đội Nhật bị giải giới.  Lợi dụng khoảng trống chính trị nầy, Mặt trận Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, gồm nòng cốt là đảng viên cộng sản, tổ chức cướp chính quyền.  Việt Minh đã giết hại và thủ tiêu vô số người yêu nước không đi theo chủ trương đường lối của Việt Minh.  Những tên tuổi lớn đều bị Việt Minh giết hại như Phạm Quỳnh (1945), Ngô Ðình Khôi (1945), Tạ Thu Thâu (1945), Bùi Quang Chiêu (1945), Phan Văn Hùm (1945), Trương Tử Anh (1946), Huỳnh Phú Sổ (1947), Khái Hưng (1947)...  Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Ðảng, các nhà trí thức khác, bà hàng ngàn tín đồ đạo Cao Ðài.(37)  Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã.
Như vậy, ý nghĩa thứ nhất về việc đoàn kết và liên hiệp đối với Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là sự sáp nhập hay tiêu diệt tất cả các phe nhóm hay cá nhân đối lập với Cộng Sản bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì, để chỉ còn lại những ai chịu "đoàn kết" chấp nhận vâng phục cộng sản.  Chỉ khi nào thất thế, gặp nhiều trở lực, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản mới sử dụng cách đoàn kết thứ nhì.
2.   Ðoàn kết là tạm thời nhượng bộ, liên minh giai đoạn để vượt khó khăn:  Cũng trong năm 1945, sau khi lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9, gồm đại đa số đảng viên cộng sản, Hồ Chí Minh gặp nhiều trở ngại về phía người Pháp theo chân người Anh đến Ðông Dương, và từ từ tiến ra Bắc; về phía người Trung Hoa (Quốc Dân Ðảng) đang từ biên giới tiến xuống Hà Nội theo thỏa ước Potsdam; và về phía những đảng phái cách mạng Việt Nam như Việt Nam Quốc Dân Ðảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội (Việt Cách).  Hồ Chí Minh đành phải nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 11-11-1945, thực chất là đảng Cộng Sản rút vào hoạt động bí mật.(38)  Họ Hồ tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1, và thành lập chính phủ liên hiệp ngày 2-3-1946 gồm cả những lãnh tụ Việt Cách và Việt Quốc như Nguyễn Hải Thần, Trương Ðình Tri, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Nghiêm Kế Tổ ...  Ngay sau khi ký kết được với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3, tạm hòa hoãn với Pháp, và mua chuộc được các tướng lãnh Trung Hoa để họ rút quân về nước, nghĩa là vừa thoát qua được khó khăn, Hồ Chí Minh thẳng tay loại bỏ ngay các lãnh tụ không phải là Việt Minh ra khỏi chính phủ, khủng bố, giết hại nhân viên các đảng phái quốc gia, nuốt chửng những kẻ đã từng liên hiệp với họ. 
Sách lược nầy được ứng dụng thêm một lần nữa với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ngày 20-12-1960.  Lúc đầu, mặt trận nầy gồm một số đảng viên cộng sản làm nòng cốt và một số người chống chế độ Ngô Ðình Diệm.  Sau đó, những người không thuộc đảng Cộng Sản bị loại dần cho đến khi mặt trận chỉ còn lại những người của Cộng Sản Ðảng mà thôi.
Những người trước đây bất đồng chính kiến, nhưng khi gặp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, chịu khuất phục và chịu đi theo họ Hồ thì được sử dụng trong những giai đoạn và hoàn cảnh cần thiết.  Ví dụ Trần Huy Liệu (1901-1969), chủ bút Ðông Pháp Thời Báo (1925-1927), chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở Sài Gòn, bị Pháp bắt đày Côn Ðảo trong năm năm.  Mãn hạn tù, ông ra bắc năm 1935 và gia nhập đảng Cộng Sản năm 1936.  Năm 1939, ông bị Pháp bắt trở lại, đày đi Sơn La, rồi an trí năm 1942 ở Thái Nguyên, và Yên Bái.  Năm 1945, ông trốn về Hà Nội làm báo Cứu Quốc của Việt Minh trong vòng bí mật.  Khi Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9, ông được Hồ Chí Minh giao làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Minh đầu tiên.  Ông được cử làm trưởng phái đoàn Việt Minh gồm cả Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (tức nhà thơ Huy Cận) vào Huế chứng kiến việc thoái vị của vua Bảo Ðại tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945.
bsp; Hồ Chí Minh giao Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền không phải vì tín nhiệm Trần Huy Liệu mà vì họ Hồ cần uy tín chính trị của ông.  Trần Huy Liệu vốn là chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt Quốc Dân Ðảng tại Sài Gòn.  Hồ Chí Minh sử dụng Trần Huy Liệu để tuyên truyền cho cái gọi là chính sách đoàn kết đảng phái của Việt Minh, nhắm lôi cuốn quần chúng theo họ, nhất là lôi cuốn các đảng viên Quốc Dân Ðảng.  Lúc bấy giờ do những hy sinh to lớn của Nguyễn Thái Học và các đồng chí, Quốc Dân Ðảng rất có uy tín chính trị trên toàn quốc.  Khi đã qua khỏi giai đoạn cần thiết, năm 1946, Hồ Chí Minh cử Trần Huy Liệu làm uỷ viên thường trực Quốc Hội.  Cuối cùng, năm 1953, Trần Huy Liệu trở thành trưởng ban Nghiên cứu Sử Ðịa của nhà cầm quyền cộng sản, một chức vụ không có quyền hành.
; Không chỉ riêng trường hợp Trần Huy Liệu, mà còn nhiều nhân vật tiếng tăm khác cũng rơi vào trường hợp ông, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Phương Thảo (tức tướng Nguyễn Bình), Nguyễn Hữu Thọ...  Như thế, ý nghĩa thứ nhì của việc đoàn kết với Hồ Chí Minh có nghĩa là quy thuận họ Hồ, theo đuôi đảng Cộng Sản và làm bù nhìn trong những thời điểm cần thiết cho họ Hồ hay nói cách khác là chỉ được họ Hồ liên minh giai đoạn.  Thử kiểm điểm danh sách những lãnh tụ cộng sản từ trước đến nay, chỉ những người gia nhập đảng Cộng Sản ngay từ khi bước vào hoạt động chính trị, thuộc thành phần trung kiên mới nắm giữ thực quyền.  Những người đã theo các đảng khác rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản, hoặc những người ngoài đảng mà có công lao, chỉ giữ những chức vụ tượng trưng mà thôi, như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình ... Ðoàn kết là sự vâng phục tuyệt đối lãnh đạo đảng:  Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội.  Trong di chúc, Hồ Chí Minh nhắn nhủ với các đảng viên đảng Cộng Sản: "...Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình..."(39)  Vậy sự "đoàn kết nhất trí" trong nội bộ đảng là gì? 
Trong sinh hoạt đảng Cộng Sản Việt Nam, khi các cấp lãnh đạo đưa ra những vấn đề thảo luận, nếu một đảng viên trình bày những ý kiến cấp tiến mới mẻ, thì được lãnh đạo gọi là "thành phần xét lại".  Ngược lại, có những đảng viên không muốn thực hiện các cuộc cải đổi quan trọng, thì được đánh giá là "bảo thủ, trì trệ".  Nói một cách khác, bất cứ ai có ý kiến gì cũng đều bị chụp mũ là tả khuynh hoặc hữu khuynh, lệch lạc hoặc xét lại, trừ ý kiến của lãnh đạo đảng.  Ðảng viên chỉ còn một giải pháp duy nhất là gật đầu vâng lệnh thượng cấp.
Như vậy, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam là sự tuyệt đối vâng phục và trung thành của đảng viên đối với lãnh đạo đảng.  Nếu không vâng phục lãnh đạo đảng, kết quả nhẹ nhất là sự trù dập, kỷ luật, và nặng nhất là thanh trừng. 
Ở Việt Nam có một câu thành ngữ thời danh minh họa sự đoàn kết của Cộng Sản: "Ðảng gọi thì dạ; đảng không gọi thì không dạ.  Ðảng gọi mà không dạ không được; đảng không gọi mà dạ cũng không được."  Nói trắng ra, ý nghĩa thứ ba của sự đoàn kết theo quan điểm của đảng Cộng Sản có nghĩa là phải chịu sự lãnh đạo độc tài, độc đảng, và tuyệt đối vâng phục trung kiên với đảng Cộng Sản.  Ðiều nầy đưa đến một kết quả tại hại là các đảng viên bị xơ cứng trí óc, sẽ không còn sáng kiến để làm việc. 
Ðiểm đặc biệt là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản chấp nhận một người trước đây chống đối họ, nhưng khi đã theo họ thì phải vâng phục tuyệt đối.  Ngược lại, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận những người trước đây đã từng hoàn toàn phục tùng họ, mà sau đó lại có ý muốn cải cách theo chiều hướng nhân bản, dân chủ, tự do, dù vẫn tuân phục đảng và chủ nghĩa xã hội.  Những người nầy cũng bị coi là kẻ thù và chắc chắn bị loại bỏ.  Ðó là trường hợp Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Ðộ, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương ...
Có lẽ cũng nên thêm một điểm nữa rất dễ thấy trong lịch sử, là đảng CSVN không bao giờ tôn trọng những hiệp ước quốc tế do họ ký kết.  Hiệp ước là giải pháp thỏa thuận giữa các bên về một cuộc tranh chấp, cũng có nghĩa là một sự giải hòa giữa các bên, bước đầu để tiến dần dần đến sự đoàn kết thống nhất.  Ðối với đảng CSVN, ký kết hiệp ước chỉ là đánh lừa dư luận, tạm ngưng tranh chấp, nhắm dưỡng sức và củng cố nội bộ, để rồi tiếp tục bành trướng.  Ví dụ rõ nét nhất là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973.  Ðảng CSVN ký kết hai  hiệp ước nầy với sự chứng kiến của các nước trên thế giới, mà họ còn trắng trợn vi phạm, xé bỏ hiệp ước, huống gì là sự cam kết giữa họ với những cá nhân hay những đoàn thể người Việt khác.
p; Do đó, hòa giải, liên hiệp và đoàn kết với cộng sản trước sau cũng sẽ bị cộng sản kiếm cách khống chế và hoàn toàn mất tự do.  Những ai muốn hòa hợp, liên hiệp, đoàn kết với cộng sản, nên nhớ câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh với Daniel Guérin trong một lần gặp mặt ở Paris: "... Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều sẽ bị bẻ gãy..."(40)
4.  Ðoàn kết là vắt chanh bỏ vỏ:  Lúc Việt Minh cộng sản phát động chiến tranh chống Pháp, nhiều người yêu nước đã đứng lên hưởng ứng công cuộc kháng chiến.  Chẳng những nhiều thanh niên lên đường theo tiếng gọi của quê hương, mà những người ở lại hậu phương cũng cố gắng đem tài vật ủng hộ công cuộc đấu tranh chống Pháp.  Việt Minh đã xưng tụng những người nầy là những nhàø "hằng tâm hằng sản"(có lòng và có của).  Một khi tạm đứng vững, và nhất là khi được Trung Cộng viện trợ ào ạt từ năm 1951 trở đi, cộng sản Việt Nam mở cuộc cải cách ruộng đất từ 1953, và quay mặt với những kẻ đã nuôi dưỡng mình từ khi còn trứng nước, coi họ như kẻ thù, tố cáo những nông dân " hằng tâm hằng sản" là địa chủ, đánh đập, hành hạ và giết họ mà không cho chôn xác.  Một tác giả đã từng sống gần Hồ Chí Minh, kể lại rằng bà Nguyễn Thị Năm ở huyện Ðồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nhà là nơi căn cứ giao liên, đã nuôi nhiều cán bộ cao cấp qua lại, từ Hồ Chí Minh, đến Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang); thế mà bà là một trong những người đầu tiên bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, và đặc biệt đã kêu cứu đến tận tai Hồ Chí Minh mà ông lờ đi, để cho người ta giết bà.(41)  Như vậy, với cộng sản, đoàn kết có nghĩa là lợi dụng một chiều theo giai đoạn, xong việc rồi "vắt chanh bỏ vỏ".  Việc "vắt chanh bỏ vỏ" được thấy rõ nhất trong việc Hồ Chí Minh đối xử với bà Nông Thị Xuân.  Hồ Chí Minh sống với bà Xuân như vợ chồng, và có với bà nầy một đứa con trai.  Khi đã chán bà Xuân, ông Hồ để cho viên bộ trưởng công an là Trần Quốc Hoàn tự do hiếp dâm bà Xuân, rồi giết vứt xác bà Xuân ngoài đường để ngụy tạo một tai nạn.(42)  Ðối xử với người đã từng sống với mình và có với mình một đứa con, mà còn tàn bạo như vậy, thử hỏi Hồ Chí Minh còn có thể nói là chuyện tình nghĩa đoàn kết với ai được?  Từ vụ cải cách ruộng đất năm 1953 đến vụ án "chống đảng" do Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ khởi xướng ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 1960, vì muốn bảo vệ địa vị của riêng mình, Hồ Chí Minh đã im tiếng không can thiệp, để mặc cho các đồng chí thân thiết của ông ta bị thanh trừng, tù đày, hay tàn sát.(43)  Chẳng những Hồ Chí Minh, mà Võ Nguyên Giáp cũng thế.  Những tướng lãnh và sĩ quan thân cận của viên tướng nầy lần lượt bị thanh trừng mà ông ta không dám lên tiếng để bảo vệ sự thật.  Như vậy, chẳng những trên phương diện chính trị đảng phái, mà cả trên phương diện cá nhân, đoàn kết với những người cộng sản chỉ có nghĩa là để cho họ lợi dụng xong rồi bị loại bỏ.(còn tiếp)  
CHÚ THÍCH:
33.   Hồ Chí Minh đưa ra khẩu hiệu nầy trong hội nghị ngày 3-3-1951, hợp nhất hai mặt trận của đảng Cộng Sản là Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt. (BNCLSÐ, sđd. tr. 110.)
34.   Thượng Huyền, "Giới thiệu sách: Hồ Chí Minh tại Trung Quốc" [của tác giả Tưởng Vĩnh Kinh, người Ðài Loan], nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 108, tháng 4-1998. 
Chính Ðạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại tập 2:1925-1945, Nxb. Văn Hóa, Houston, tt. 32-33.  Charles Fenn, Ho Chi Minh: a biographical introduction, Studio Vista, London, 1973, tr. 50; phần chú thích, trích dẫn P. J. Honey viết trên báo Time ngày 12-9-1971.
35.   Ngoài các tài liệu trong chú thích số 34, xin lưu ý câu chót của Trần Trọng Kim trong trích dẫn ở chú thích số 22 làm ví dụ.
36.   Hoàng Văn Ðào, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, tái bản kỳ 2, Sài Gòn, 1970, tr. 108.
37.   Trong Bạch thư Cao Ðài giáo công bố San Bernardino ngày 9-4-1999, vị đại diện Cao Ðài giáo Ngọc Sách Thanh cho biết rằng tại tỉnh Quảng Ngãi, chỉ trong ba tuần lễ kể tứ 19-8-1945, Việt Minh sát hại và chôn sống 2791 chức sắc, chức việc, và tín hữu Cao Ðài giáo. 
38.   Cộng sản thay thế đảng Cộng Sản Ðông Dương bằng hội Nghiên Cứu Mác-xít do cựu tổng bí thư đảng Lao Ðộng là Trường Chinh Ðặng Xuân Khu làm chủ tịch.  Trong cuộc gặp gỡ Stalin năm 1950 tại Moscow, trả lời câu hỏi của Stalin tại sao giải tán đảng Cộng Sản, Hồ Chí Minh giải thích rằng việc giải tán đảng Cộng Sản cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là đảng lùi vào hoạt động bí mật. (Thành Tín, Mặt Thật, tt. 67-68.)  Sau cuộc gặp nầy trở về, Hồ Chí Minh tái tổ chức đảng dưới một danh xưng mới là đảng Lao Ðộng ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư.(Chính Ðạo, Việt Nam niên biểu, 1939-1975 (tập B: 1947-1954), Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 230.)
39.   BNCLSÐ, sđd. tr. 170.
40.   Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Peter Wiles dịch từ tiếng Pháp qua tiếng Anh, Nxb. Penguin Books, Harmondsworth, 1969, p. 130.  Nguyên văn: "All those who do not follow the line which I have laid down will be broken."  Linh mục Cao Văn Luận, trong sách Bên giòng lịch sử Việt Nam, 1940-1975, Tantu Research, Sacramento, California, 1983, tt. 60-61 có tường thuật lại đầy đủ buổi tiếp tân  ngày 25-6-1946 tại Paris, trong đó Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến trên đây.  Lúc đó, họ Hồ qua Pháp theo phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Ðồng dẫn đầu tham dự hội nghị Fontainebleau.  Trong cuộc tiếp tân nầy, có một số người Việt tham dự, trong đó có linh mục Cao Văn Luận.
41.   Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 222.
42.   Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 607.
43.   Một trong những nạn nhân nổi tiếng trong vụ nầy là ông Vũ Ðình Huỳnh, người cộng tác thân tín của ông Hồ, phụ thân của tác giả Vũ Thư Hiên, đã được ông Hiên trình bày câu chuyện bạc đãi xuyên suốt trong tác phẩm Ðêm giữa ban ngày.

--------------


Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Hồ Chí Minh :

Con Người Trăm Mặt Trong bốn người liên quan tới việc xuất dương, chỉ có Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh ra đi năm 1911, là tự nhận mình tìm đường cứu nước. Trước đó, qua bộ máy tuyên truyền của đảng và chính Hồ viết sách để ca tụng và huyền thoại cuộc đời mình, làm cho nhiều người nhẹ dạ không muốn tin cũng phải gật đầu chấp nhận, vì biết đâu mà mò. Nhưng vào tháng 2-1983, hai sử gia VN, tiến sĩ Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, đã công bố khắp thế giới, một tài liệu vô cùng quan trọng, tìm thấy tại văn khố Pháp duy nhất nói tới giai đoạn 1911 của Nguyễn Tất Thành. 

 Ðó là hai lá thư xin nhập học Trường Thuộc Ðịa (Ecole Coloniale) viết ngày 15-9-1911 và một lá viết tại New York ngày 15-12-1912 gởi Khâm sứ Trung Kỳ. Ðiều này chứng tỏ rằng Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân như Trần Dân Tiên từng viết sách ca tụng. Ngoài ra những bí mật đã được bật mí, theo đó mới biết được gần suốt cuộc đời của Hồ, hầu như sống bằng nghề tình báo KGB, phục vụ cho quyền lợi của đệ tam quốc tế mà thôi. 


Nên người ngoài cũng không lấy làm lạ trước những sự kiện của đảng Cọng Sản Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, địa vị của Hồ Chí Minh từ năm 1930 cho tới cuối năm 1944 trong đảng rất mù mịt, không chiếm được một ưu thế nào, vì Hồ thật sự đâu có làm gì. Cũng theo sử liệu, lãnh đạo đảng lúc đó là những tên tuổi Ðặng Xuân Khu, Nguyễn văn Cừ, Lê Ðức Thọ, Văn Tiến Dũng cho nên mãi tới hội nghị đảng lần thứ VIII, họ Hồ vẫn chưa có một danh vị đảng. 


Theo Lê Quảng Ba viết trong Hồi ký Ðầu Nguồn, tiếng nói của nhóm cán bộ lưu vong tại hang Pắc Pó trong thời gian 1941-1944, Hồ Chí Minh từ Nậm Quang chính thức dời về đóng trụ ở biên giới Hoa-Việt, để dạy lớp cán bộ. Lớp học kết thúc ngày 26-1-1941 nhưng đã bế tắc vì Hồ không đủ uy tín để tổ chức được một chiến khu nào tại miền xuôi. Bởi vậy mới thấy tới ngày 22-12-1944, Võ Nguyên Giáp mới lập được Ðội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, tại rừng Trần Hưng Ðạo, Huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, chỉ được 34 người, hầu hết la dânợ Nùng, Thổ bản địa. Nhưng Hồ là người may mắn, từ thuở nhỏ đã được các quí nhân tại Phan Thiết như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang làm vang danh tại trường Dục Thanh. Sau đó qua Pháp, được Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền góp chữ và uy tín, đưa Bồi Ba, tức Nguyễn Tất Thành bước vào con đường chính trị, báo chí thế giới qua danh xưng của nhóm là Nguyễn Ái Quốc mà Hồ nhận riêng là của mình. 


Rồi từ hang Pắc Pó trở lại Tàu, may mắn bị quân Trung Hoa Quốc Gia bắt. Từ đó qua bảo đãm của Nguyễn Hải Thần cùng Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân Ðảng, với chủ tướng Trương Phát Khuê, họ Hồ chính thức sắm thêm vai gián điệp tình báo cho quân đội Ðồng Minh tại Ðệ Tứ Chiến Khu Hoa Nam, sau khi được trả tự do ngày 16-3-1945, theo như tài liệu của Michael Maclear viết trong ‘The Ten Thousand Day War Việt Nam (1945-1975), xuất bản tại New York năm 1981. Cũng từ đó, qua vai trò điệp viên tình báo quốc tế thuộc các cơ quan KGB, Trung Cộng, Trung Hoa Dân Quốc, rồi do Charles Fenn giới thiệu, lại trở thành điệp viên chính thức của OSS tức là Office of Strategic Services, tiền thân của cơ quan Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ ( CIA), làm việc dưới quyền Thiếu Tá Mỹ Archimedes Patti, đặc trách chiến trường Ðông Dương. 


Nhờ đó, Hồ bước qua hết các xác chết cản đường trong đảng, để mùa thu tháng chín 1945, nghênh ngang võng lọng về Hà Nội nhận chức và đọc diễn văn. Ðó là tất cả quá trình xuất dương cứu nước của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành, một huyền thoại (?)mà bao chục năm qua, thiên hạ vẫn không ngớt viết, nói về cuộc đời của một tên quốc tặc ‘ trước sau, nhỏ lớn ‘ đã và đang cùng với đồng bọn ‘ rước voi Nga-Tàu ‘ về dầy xéo cướp chiếm công khai non nước Việt, mà hiện nay cả thế giới, ai cũng đều thấy rõ. 

Từ câu chuyện nhục nhã trên, nhiều người đã thở dài khi nghĩ rằng, phải chi Nguyễn Tất Thành lúc đó, được thực dân Pháp nhận vào trường Thuộc Ðịa, thì với bản chất bất lương như vậy, cùng lắm Hồ chỉ là một tham quan Việt gian làm tay sai cho Pháp mà thôi. Nhờ đó đất nước và dân tộc Việt Nam ngày nay có thể đã thoát được nổi trường hận cùng khốn tận tuyệt dưới bàn tay tàn độc cũa một Hồ Chí Minh làm tay sai cho các thế lực quốc tế, từ Liên Xô, Trung Cộng, Pháp, Tàu Trắng và Hoa Kỳ. Năm 1932 danh xưng Nguyễn Ái Quốc được khai tử trong nhà tù Hồng Kông, để thay thế vào cái tên Hồ Chí Minh (với công luận : đó là một người Tàu được nhập vai HCN thật đã chết) . Chuyện thật giả, đúng sai cho tới giờ này chỉ có trời mới biết, chứ mặt thật thì ai cũng chỉ dựa vào sách báo để ghi lại mà thôi. 


 1- NGUYỄN TẤT THÀNH, CON NGƯỜI TRĂM MẶT :: Nhiều năm sau ngày ‘bác’ lên ngai Chủ Tịch nhà nước, người ta mới biết được cái tên Hồ Chí Minh, chỉ là một trong hằng trăm tên của Nguyễn Sinh Cung hay anh thanh niên thầy giáo Nguyễn Tất Thành, đã có một thời gian dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, trước khi rời Bến Nhà Rồng ở Sài Gòn, qua Pháp tìm đường cứu nước. Theo các sử gia cũng như các nhà biên khảo nghiên cứu trong và ngoài nước, thì cho tới nay vẫn chưa ai biết hết tất cả các bí danh của Nguyễn Tất Thành. Trước đó, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì ‘bác’ có chừng 19 tên. Năm 1982, nhà biên khảo Huỳnh kim Khánh nói ‘người’ có 32 bí danh. Một tác giả Việt Nam khác kiểm kê được 76 tên của Hồ. Nói chung, không riêng gì tên họ, mà cả ngày sinh và tên cúng cơm cũng vô cùng bí mật, không biết đâu mà mò. Quả thật đây là một con người có nhiều tên nhất trên trái đất, từ cổ tới kim, đông sang tây. Do không biết chính xác tên khai sinh khi lọt lòng mẹ là Côn, Cuông hay Cung, vì vậy ta thấy sách vở đã chọn cái tên Nguyễn Tất Thành như là một điểm tựa, nhất là sau năm 1983, ba cái đơn của ‘bác’ bị phát giác. Trong số 100 tên, có lẽ cái tên ‘Nguyễn Ái Quốc’ xuất hiện lần đầu tiên tại Paris là sôi động và đã gây ra không biết bao nhiêu tranh cãi, từ ấy cho đến bây giờ, vẫn chưa chấm dứt. Ai cũng biết, nói láo và bịa chuyện là bệnh nan y của người cọng sản, nhất là trong rừng sử sách của đảng, nhằm thần thánh hóa lãnh tụ ‘Hồ Chí Minh’. Gạt bỏ những huyền thoại của đảng viết về Bồi Ba, theo các nhà viết sử cho biết tới nay, họ vẫn còn rất mù mờ về giai đoạn của Nguyễn Tất Thành từ năm 1911-1919, ngoài ba chi tiết công khai: đó là Thành làm công trên tàu Latouche-Tréville của hãng Ðầu Ngựa, sống tại nước Anh thời đệ nhất thế chiến (1914-1918) và có mặt tại Pháp qua cái tên Nguyễn Ái Quốc trên . Người đã vậy, tên cũng vậy, do đó các nhà viết sử cận đại, cũng đành vậy, nghĩa là cứ cho rằng ngày 19-5 là ngày sinh của Nguyễn Tất Thành. Có như vậy, hằng năm thiên hạ mới có dịp ‘ đào mồ cuốc mã tên đại phản quốc ‘ để rửa hận cho quốc dân VN, nhất là trong giai đoạn ‘ quốc phá gia vong ‘ hiện tại, ngụy quyền cộng sản Hà Nội qua Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng .. đã công khai bán dân tộc và đất nước Việt cho Tàu đỏ. + Nguyễn Ái Quốc và nhóm Trinh-Trường-Truyền : Trước khi Nguyễn Tất Thành xuất dương, thì Phan Chu Trinh và con là Phan Chu Dật mới 8 tuổi, đã tới Pháp ngày 1-4-1911 với trợ cấp của Chính Phủ Ðông Dương. Từ năm 1912, Phan Chu Trinh kết thân với Phan văn Trường đang theo học Tiến Sĩ Luật tại Paris, nên dọn về ngôi biệt thự của Trường tại số 6 đường Villa des Gobellins. Từ năm 1912, Hồ đã bắt được liên lạc với Phan Chu Trinh tại Pháp qua thư từ, vì hai người đã quen biết nhau từ ngày còn ở Việt Nam, nên Thành vẫn gọi Trinh là ‘Hy Mã Nghị Bá Ðại Nhân’. Trong lúc đó tại Việt Nam từ năm 1911-1919, có nhiều biến cố thật quan trọng đã xảy ra. Trước hết là Ðề Thám, lãnh tụ cuối cùng trong phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi xướng xuất năm 1885, đã bị Lương Tam Kỳ giết chết ngày 10-2-1913. Cũng năm này, vào ngày 17-1 tại Huế, tên Khâm Sứ Trung Kỳ là Georger Mahé đã khai quật lăng vua Tự Ðức để cướp vàng bạc châu báu. Sự việc được báo chí như tờ Le Courrier d’ Haiphong và dư luận cả nước chống đối và nguyền rủa dữ dội bọn thực dân và đám quan lại Việt Nam bất lương vô liêm sĩ. Ngày 12-4, tại Thái Bình, các đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu và Cường Ðể, đã ám sát tên Tuần Phủ chó săn Nguyễn Duy Hàn. Những biến cố bi thảm trên, đã khiến cho Phan Chu Trinh bên Pháp cũng lên tiếng chỉ trích thực dân, kể luôn Toàn Quyền Ðông Dương là Sarraut , người đang cưu mang giúp đở cha con ông. Tại Trung Hoa, vì nhận tiền của Pháp nên Tổng Ðốc Lưỡng Quảng là Long Tế Quang đã bắt giam Phan Bội Châu và Mai Lão Bạng từ năm 1914 tới năm 1917 mới thả. Vì những biến cố đã xảy ra, ngay khi Ðức tuyên chiến với Pháp ngày 3-8-1914, nhà cầm quyền Ba Lê vin vào đó để bắt giữ và phân tán những yếu nhân trong Hội Ái Quốc Ðông Dương, do Trinh và Trường thành lập. Ngày 15-9-1914, Pháp bắt giam Phan Chu Trinh và Phan văn Trường tại ngục Santé mãi tới tháng 2-1916 mới phóng thích. Từ đó người Pháp cũng cắt đứt trợ cấp cho cha con ông, khiến lâm vào cảnh nghèo đói, nên cả hai mắc phải bệnh lao phổi nặng. Tháng 3-1921, Dật chết tại Bắc Kỳ. Từ đầu năm 1919, đại chiến lần thứ 1 đã kết thúc trong sự bại trận của phe trục Ðức, Áo, Hung, Thổ và Bảo Gia Lợi. Kinh đô Paris của Pháp trở thành nơi tụ hội của các thế lực quốc tế. Tổng Thống Hoa Kỳ là Woodrow Wilson đưa ra chủ thuyết ‘Tự Tri’ và đề xuất việc thành lập Hội Quốc Liên, rất được các nước nhược tiểu ủng hộ. Tại Nga, do Nga Hoàng Nicholas II (1894-1917), đứng về phe Ðồng Minh chống Ðức, nên nước này đã tích cực yểm trợ Nikolai V.I. Lenin (1870-1924) lật đổ vương triều.


 Ngày 7-11-1917, Lenin và Leon Trotsky đứng chung thành lập chế độ Bolshevik, hay còn gọi là cuộc Cách Mạng tháng mười, mở màn cho cảnh núi sông xương máu trong dòng lịch sử nhân loại, có cả Việt Nam, từ đó cho tới nay vẫn chưa chấm dứt. Tháng 3-1919 Lenin lập Ðệ Tam Quốc Tế Cọng Sản để xuất cảng chủ nghĩa vô thần, vô sản khắp năm châu. Ðây là miếng mồi béo bở mà Lenin, trùm đỏ vừa mới nổi lên, dẫn dụ các dân tộc bị trị khắp Á Châu từ Trung Ðông, Ấn Ðộ, Trung Á, tới Trung Hoa và Ðông Dương, lũ lượt kéo về thánh địa Viện Thợ Thuyền Ðông Dương tại Mạc Tư Khoa, để học tập con đường cách mạng vô sản chuyên chính, đánh gục tư bản, tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đàng xã hội chủ nghĩa.


 Trong nước, nhiều cuộc bạo động chống Pháp kháp nước, quan trọng nhất là vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân cùng các chí sĩ Thái Phiên, Trần Cao Vân tại Huế ngày 3/5/1916. Sau đó là cuộc biểu tình của Phan Xích Long tại Sài Gòn tháng 11-1916 và đặc biệt nhất là sự chiếm đóng tỉnh Thái Nguyên của Ðội Cấn, Lương Ngọc Quyến, Trần Trung Lập vào năm 1917 dù thất bại, nhưng vẫn mang nhiều khích lệ tới tuyệt đại dân chúng Việt Nam đang sống lầm than khổ ải dưới ách nô lệ của giặc Pháp. Trong giai đoạn trăm hoa đua nở, Nguyễn Tất Thành bỗng nổi lên như cồn trong giới cách mạng vô sản Pháp, qua bản ‘thỉnh nguyện thư đòi nhân quyền’ năm 1919, ký tên Nguyễn Ái Quốc, mà công án tới nay đã quy cho Hồ là cướp công của ba nhân vật đã sáng tạo: Phan Chu Trinh, Phan văn Trường và Nguyễn Thế Truyền. 


Nội dung bản thỉnh nguyện gồm 8 điểm, do một nhóm người An Nam yêu nước chung viết, được tờ báo L’Humanité của đảng Xã Hội Pháp, đăng ngày 18-6-1919 với dụng ý chính trị, dù thực chất chẳng có gì đặc biệt, nếu đem so sánh với sự đòi hỏi người Pháp phải trao trả độc lập hay ít nhất để Việt Nam tự trị của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể sống lưu vong và Vua Duy Tân đang bị cầm giam ngoài hải đảo. Dù gì chăng nữa thì đây cũng là một cơ hội vàng ròng với Hồ, vì ít nhiều tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc, đại diện cho nhóm người An Nam yêu nước trên đất Pháp, cũng được nhóm người Việt qua Tây đánh Ðức, hồi hương mang về phổ biến trong dư luận lúc đó. 

Mặt khác, qua chiến thắng của đảng Bolchevik Nga, khiến đảng xã hội Pháp hầu như nghiêng về Ðệ Tam Quốc Tế, vô tình giúp anh thanh niên Nguyễn Tất Thành lúc đó, đang thất nghiệp phải sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Chu Trinh, bỗng được các chính khách tả phái Pháp chú ý vì tính chất vô sản chuyên chính, nên đã giúp Hồ thoát cảnh chết đói, bằng cách cử ‘bác’ tới học ở Viện Thợ Thuyền Ðông Phương năm 1923. Từ đó Hồ qua bí danh Nguyễn Ái Quốc chính thức là một đảng viên của đệ tam quốc tế cộng sản. + Vụ Án Nguyễn Ái Quốc : 


Về vụ án lịch sử Nguyễn Tất Thành biếm xưng tên gọi của nhóm Nguyễn Ái Quốc, khi Hồ sống tại Pháp từ 1911-1923, cũng đã được tranh cãi sôi nổi giữa cơ quan tuyên truyền của đảng và nguồn dư luận trong cũng như ngoài nưóc. Ðọc ‘Chủ tịch Hồ Chí Minh-tiểu sử và sự nghiệp’ do đảng ấn hành, tuyên bố là tất cả những bài viết và tranh vẽ trên báo Le Paria số 1, đều của Nguyễn Ái Quốc sáng tạo. Ta biết tờ Le Paria hay ‘Người Cùng Khổ’ do Hội Liên Hiệp Thuộc Ðịa chủ trương, từ số 1 đến số 12 đều do J.B Meyrat làm quản lý.

 Các số khác từ số 13 về sau do G.Sarotte và Léopol Mesnard chịu trách nhiệm, đặc biệt số 1 ra ngày 1-4-1922 không có một bài nào của Nguyễn Ái Quốc. Vậy mà Ban Nghiên Cứu Lịch Sử của Trung Ương Ðảng VC, dám tuyên bố ‘bác’, tức là đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm quản lý tờ báo này. Ngoài ra cũng trên tờ Le Paria, có nhiều bài viết hay tranh vẽ ký tên Nguyễn Le Patriote, là biệt danh của Nguyễn Thế Truyền và các sinh viên trong Hội Ái Quốc An Nam, thế nhưng Ðảng vẫn tỉnh bơ nhận bừa đó là sản phẩm của Nguyễn Ái Quốc. Riềng bài viết ‘Lên Án Chủ Nghĩa Thực Dân’ được đánh giá là một tài liệu tranh đấu trác tuyệt về nội dung cũng như hình thức. Theo nhận xét, thì lúc đó các nhân vật đấu tranh sống ở Paris, chỉ có Luật Sư Tiến Sĩ Phan văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền mới có đủ khả năng Pháp ngữ cũng như tư tưởng nhận thức để viết được một bài văn tranh đấu nẩy lửa hùng biện như vậy. 


Còn Nguyễn Tất Thành mặc dù có sống giang hồ khắp nơi từ 1911-1922 nhưng dù sao trình độ học vấn cũng giới hạn, chỉ viết ba lá đơn xin nhập học mà còn phạm nhiều lỗi chánh tả và văn phạm, thì không thể nào là tác giả của kiệt tác trên. Phương chi, phóng đại vốn là nghề của đảng, tâng bốc để bác vang danh với đời lại càng thêm thần thông quảng đại hơn. Bởi vậy ngày nay, trước những khám phá về việc hoàn toàn bịa đặt một Nguyễn Tất Thành, đại thiên tài, từ một anh thanh niên giáo viên quèn tại một trường làng mang tên Dục Thanh tói nổi nhiều người sinh đẽ tại chỗ cũng không biết đó là cái quỹ quái gì, một bồi Ba trên tàu viễn dương, đùng một cái nhảy phóc lên làm ông quản lý một tờ báo nổi tiếng, phát hành 5000 số một kỳ, lại còn kiêm thêm họa sĩ và nhà văn... cho tới khi ‘bác’ sang Nga và Tàu từ năm 1923, vậy mà vẫn cứ làm quản lý và viết bài cho báo này tại Pháp cho tới khi báo đình bản. Tất cả đều do Trần Dân Tiên dựng đứng câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc, để thần thánh hóa Hồ Chí Minh, mà cả ba tên đều là Nguyễn Tất Thành.


 Sự thật ngày nay cho biết, Nguyễn Ái Quốc là tên gọi chung của nhóm người viết trên tờ Người Cùng Khổ (Le Paria), gồm có Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và trong suốt 38 số báo ấn hành, không có một bài nào hay tranh vẽ của Nguyễn Tất Thành nhưng chàng đã láu cá nhận vơ cái tên chung của nhóm là Nguyễn Ái Quốc. Sau đó được cơ quan tuyên truyền của đảng CS hợp thức hoá ‘sáng lập và linh hồn hay quản lý báo’. Chưa hết, căn cứ theo sử liệu ta biết từ năm 1923-1946, Hồ đã rời Paris đi Mạc Tư Khoa, Tàu. TRong thời gian đó, vào tháng 1/1926 tại Paris đã xuất hiện tờ Việt Nam Hồn bằng chữ quốc ngữ, thỉnh thoảng có các bài bằng Hán và Pháp Ngữ. Từ tháng 9-1929 lại đổi tên là Phục Quốc, do cơ quan ngôn luận của dảng Việt Nam Ðộc Lập tại Pháp ấn hành. Trong một vài số báo, có bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện lịch sử minh bạch như vậy mà đảng vẫn thản nhiên viết là năm 1923, ‘bác’ tại Pháp trong khi thành lập tờ ‘Người Cùng khổ’ đã kiêm nhiệm thêm tờ ‘Việt Nam Hồn’. 

Những sự thật thì không ai có thể thêm bớt, bóp méo hay xuyên tạc được. Cho nên những lố lăng về huyền thoại Hồ Chí Minh, ngày nay rốt cục đã trở thành những trận cười trong dân gian, dù nó tồn tại hay bị sóng đời vùi dập. + Nguyễn Ái Quốc, điệp viên ngoại hạng của cọng sản quốc tế : Ngày 15-10-1923, Nguyễn Ái Quốc đại diện cho đảng CS Pháp, tham dự Ðại Hội Nông Dân Quốc Tế, tổ chức tại Mạc Tư Khoa. Cũng kể từ đó, Hồ thoát xác thành một con người cọng sản quốc tế, chỉ biết phục vụ cho nền vô sản chuyên chính mà thôi. 

Ðể thưởng công, ngoài sự cho báo đảng đánh bóng tên tuổi, chính phủ Liên Xô còn cho Quốc ở lại phục vụ trong thánh địa Ðông Phương, một tổ chức mặt nổi là của Quốc tế Cọng Sản nhưng bên trong được Cơ Quan Tình Báo Nga (Intercenter Mainburo) bảo trợ. Theo tổ chức, Ban Phương Ðông lúc đó gồm ba khu vực: Miền Tây Trung Hoa, trụ sở tại Chita thuộc Mông Cổ. Miền Viễn Ðông có trụ sở tại Hải Sâm Uy, phụ trách các nước Mãn Châu, Cao Ly, Nhật Bản và Khu Ðông Nam trụ sở tại Thượng Hải, gồm miền Hoa Nam và các nước Ðông Nam Á đang là thuộc địa.

 Ngày 22-1-1924, Lénin chết, Nguyễn Ái Quốc đã làm thơ đăng trên tờ Pravda, khóc thương nức nở và thề trước linh cửu cha già quốc tế, là sẽ biến đau thương thành hành động. Hãy đọc bài thơ của Tố Hửu khóc cha non Staline, để biết được nổi bi thương cùng tận của ‘ bác ‘ lúc đó đối với cha già LêNin : Reply With Quote Reply With Quote 08-11-2011 01:09 AM #2 alamit alamit is offline Member Join Date 20-04-2011 Posts 1,851 Hồ Chí Minh - Gián điệp Quốc tế - Người muôn mặt ( 2 ) ‘Stalin ! Stalin, Yêu biết mấy, nghe con tập nói Tiếng đầu lòng, con gọi Stalin ông Stalin ôi. ông Stalin ôi, Hởi ôi ông mất, đất trời có không? thương cha, thương mẹ, thương chồng thương mình thương một, thương ông thương mười.’ (Ðời đời nhớ ông ,Tố Hửu).

 Mặc dù tài liệu Ðảng dấu chuyện Hồ xuất thân từ trường Stalin nhưng mới đây thư khố Nga giải mật, bật mí cho ta biết là gần hết cán bộ cao cấp của đảng VC , trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất phát từ lò ‘Viện Thợ Thuyền Ðông Phương’. Trường này được Lenin thành lập ngày 21-4-1921, để huấn luyện các cán bộ cọng sản vùng Châu Á, nên gọi là Viện Phương Ðông. Sau khi tốt nghiệp, những học viên sẽ trở thành cán bộ cách mạng vô sản chuyên chính về mặt lý thuyét cũng như hoạt động móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Tháng 8-1924 Hồ được Ðệ Tam Cọng Sản Quốc Tế, phong chức ‘Uỷ Viên Ban Phương Ðông’, phụ trách Cục Phương Nam coi toàn vùng Ðông Nam Á. Ðể che mắt mật thám Tây Phương, Hồ trở thành ‘Lou’, đặc phái viên của hãng Thông Tấn Nga Rosta, kiêm thư ký, thông ngôn cho phái đoàn Borodin của Liên Xô, tại Quảng Châu, qua bí danh Lý Thụy. 

Trước khi Hồ tới, Borodin đã móc nối được cả hai phe Trung Hoa Quốc Dân Ðảng của Tôn Văn, Tưởng Giới Thạch và Ðảng CS. Trung Hoa ngồi lại với nhau, dưới ảnh hưởng của Liên Xô. Do trên, có một số cán bộ cao cấp của Ðảng CS. Trung Hoa như Mao Trạch Ðông đã được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Ðảng. Trường Võ Bị Hòang Phố, do Nga bảo trợ khai giảng ngày 15-6-1924 do Tưởng Giới Thạch làm Giám Ðốc, còn Chu Ân Lai phụ trách chính tri. Nhưng một biến cố cực kỳ quan trọng đã xảy ra tại Quảng Châu, trong buổi lể kỷ niệm lần thứ 13 cách mạng Tân Hợi (10-10-1911), làm nhiều người cả hai phe thương vong, đồng thời đã khiến Tôn Dật Tiên tỉnh mộng, nên ông bỏ lên Bắc Kinh để hợp bàn chuyện thống nhất đất nước và kêu gọi tình hữu nghị Hoa-Nhật, khiến Liên Xô thất vọng vì kế hoạch bị đổ vỡ nửa chừng.

 Khi Lý Thụy, một tên mới của Nguyễn Tất Thành tới Quảng Châu, thì ở đây đã có nhiều người Việt sinh sống, phần lớn làm viêc trong Sa Ðiện tô giới Pháp, hai khu vực được ngăn cách bằng con sông Châu Giang. Nhờ các quan địa phương như Hồ Hán Dân rất có cảm tình với người Việt, nên đã giúp đỡ những chính khách lưu vong bị Pháp săn đuổi phải chạy sang Tàu trốn lánh như Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật cho tới Phan Bội Châu. Theo Niên Biểu, thì Sào Nam và Cường Ðể đã lập Việt Nam Quang Phục Hội tại đây, trong đó có nhóm Tâm Tâm Xã của một số thanh niên Việt Nam yêu nước. Tâm Tâm Xã gồm 9 đảng viên, đa số là người Nghệ An, có học thức, chủ trương bạo động gồm Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Sơn. Mùa thu 1924, Phan Bội Châu và Nguyễn Hải Thần đã yêu cầu Tưởng Giới Thạch, lúc đó là Giám Ðốc trường Võ bị Hoàng Phố, thu nhận các sinh viên Việt Nam vào thụ huấn và được ông chấp thuận. Do cảm tình và cũng nhận thấy giữa hai đảng cách mạng Việt Nam và Trung Hoa Dân Quốc lúc đó, đều có chung mục đích, đánh đuổi giặc xâm lăng ra khỏi đất nước mình, nên Phan Bội Châu đã đổi danh xưng Việt Nam Quang Phục Hội, thành Việt Nam Quốc Dân Ðảng và uỷ cho Hồ Tùng Mậu phổ biến trong nước. 

Ðây cũng là giai đoạn mà các sử gia dày công tìm kiếm về mối liên hệ giữa cụ Phan Bội Châu và Lý Thụy, dẫn tới nghi án Hồ Chí Minh cùng Lâm Ðức Thụ bán đứng Phan Bội Châu cho Pháp bắt tại tô giới Thương Hải năm 1925, mà sử liệu đã nhắc tới. Theo niên biểu Phan Bội Châu, cho thấy Sào Nam có gặp Nguyễn Ái Quốc đôi ba lần và trùm cọng sản Lý Thụy đã nhắc cụ thay đổi đảng cương Việt Nam Quốc Dân Ðảng, thời gian khi Hồ ở Tàu cuối năm 1924.

 Cũng năm này, Phạm Hồng Thái, một đảng viên của Việt Nam Quang Phục Hội, nhân Toàn Quyền Ðông Dương là Martial Merlin (1923-1925), ghé Sa Diện, sau khi từ Nhật Bổn về Hà Nội. Phạm Hồng Thái đã giả làm một phóng viên nhà báo, mang bom vào tận phòng ăn cũa tên giặc Pháp, quyết giết kẻ xâm lăng nhưng bom nổ chỉ làm Merlin bị thương nhẹ, trong lúc có 4 tuỳ tùng chết và 4 người khác bị thương. Xong nhiệm vụ, người chiến sĩ thoát thân nhưng vì con sông Châu Giang trước mặt. Cuối cùng ông cũng đền xong nợ nước và sau đó được chính người Trung Hoa, trân trọng cho ông được nghìn thu bên cạnh 72 liệt sĩ trong cuộc cách mạng Tân Hợi 1911, trên Hoàng Thạch Cương, khói hương miên viễn. Tên thực dân thoát chết nhưng cũng vỡ mật lại càng căm hận người Việt Nam yêu nước, còn thế giới thì chấn động và kính phục cháu con Hồng Lạc, bất khuất anh hùng.

 2 - HUYỀN THOẠI NGUYỄN ÁI QUỐC CHẾT TRONG NHÀ TÙ HỒNG KÔNG (1932) : \

Cũng trong chuyện dài về Nguyễn Tất Thành-Hồ Chí Minh, huyền thoại đáng kể nhất là vụ Nguyễn Ái Quốc chết trong nhà tù Hồng Kông vào cuối năm 1932, vì nghiện thuốc phiện và bị bệnh lao. Vụ này trước sau, từ Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Võ Nguyên Giáp cho tới cơ quan tuyên truyền của VC, đều nói là do Pháp phao tin để làm hạ uy tín Hồ. Riêng vợ luật sư Frank Loseby, người được Cọng Sản Quốc Tế mướn để biện hộ cho Hồ, sau năm 1969 khi ‘bác’ chết, đã nói tin đó là có thật, và do chính chồng bà ta tung ra, để đánh lạc hướng mật thám Pháp. Cuối cùng, theo các sử gia, việc Nguyễn Ái Quốc ‘giả chết’ đều theo ý Liên Xô, nhằm phục vụ nhu cầu chính trị. Với Nga, Nguyễn Ái Quốc chết mới có cơ hội đưa các cán bộ khác lên thay thế và gầy dựng lại đảng VC đã bị tan tác. Với Tây Phương, khai tử con người cọng sản quốc tế chuyên nghiệp, để một bí danh mới của Nguyễn Tất Thành là HỒ CHÍ MINH , đóng vai điệp viên tam trùng, đang cần thiết tại mặt trận Viễn Ðông sắp tới. Tất cả đều nằm trong vòng bí mật và có lẽ chẳng bao giờ tình báo Nga, chịu mở hồ sơ vụ trên, dù Hồ đã chết thật từ lâu rồi. Nhưng mới đây báo chí Trung Cộng lại tung tin ‘ Việc Hồ Chí Minh ‘ chết trong nhà tù Hồng Kông là thật. 

Vì kể từ đó TC mới đem một người Tàu chánh hiệu vào ‘ thế vai ‘ của HCM, đồng thời còn cài thêm vài trăm người cùng bọn vào đảng , qua tên VN.. mà hậu quả ngày nay từ Trung Ương Ðảng xuống tới các Tỉnh Ủy, hầu hết đều là Tàu .. nên đâu có gì lạ trước việc CSVN đã chính thức bán nước cho giặc, hiện đã trở thành ‘ một tỉnh hay khu tự trị ‘ thuộc lảnh thổ Trung Hoa như Mãn Châu, Nội Mông, Tây Tạng và Tân Cương.. 

 Nay qua dòng thế sự, góp nhặt những chuyện đời, để rồi tọc mạch kể lại cho thế gian vui. Nguyễn Du đã ôm bộ ngực gầy xương giữa trời lộng gió, trên đỉnh Hồng Lĩnh nhưng muôn đời sau, người ta vẫn tìm đến với thi nhân, để cùng cảm thông chung manh áo lạnh. Ðường vào lịch sử Hồng Lạc cũng vậy vì sự hưng thịnh, tồn vong, thảo khấu hay là chính thống, đều không qua khỏi những dòng chữ đá trên bia sử. 

Cho nên ngày nay, ta đọc câu chuyện sử về người trăm mặt Nguyễn Tất Thành, cũng chẳng qua chỉ đọc lại những câu chuyện kể về vận nước, mệnh ngươi, khen chê, xưng tụng. Xuôi nam hay ngược bắc, trong gió ngàn bay, nhìn ra biển lộng, đâu đâu cũng thấy chiến thuyền của chúa Nguyễn căng buồm lướt sóng hay vó ngựa chân voi dồn dập của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ danh trấn non sông. Nhưng rồi ngao ngán biết bao, khi lạc đường vào lịch sử, để phải đọc những huyền thoại gian dối của ‘bác’, làm cho hồn vừa giận vừa cười. Quả thật, trong dòng lịch sử VN, lôi hết những tên đại gian hùng giết vua phế chúa như Trần Thủ Ðộ, Hồ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung, Trịnh Kiểm, Trương Phúc Loan, Phan Khắc Hoè.. đem so sánh, thì chỉ bằng một cọng râu lơ thơ của Hồ mà thôi. 

Cũng nhờ những câu chuyện về Nguyễn Ái Quốc giả chết hay sự bặt tin của Lý Thụy, mãi cho tới khi sắp mở màn thế chiến thứ hai, Nguyễn Tất Thành mới được tái sinh qua cái tên Hồ Chí Minh từ năm 1939 cho tới bây giờ, chung cuộc chỉ là một màn kịch, diễn về một con người tầm thường nhưng được nổi nhờ cơ duyên và sự phô trương vô tiền khoáng hậu. Hiện nay các sử gia đều đặt nghi vấn, về câu hỏi là tại sao đồng loạt các cán bộ cao cấp của Ðông Dương Cong sản đảng từ Mạc Tu Khoa về, trong đó có Lê Hồng Phong tự dưng bị lộ, và kẻ chỉ điểm theo mật thám Pháp là một liên lạc người Hoa? Một điều khác cũng rất quan trọng, đó là tài chính dùng nuôi quân, nhưng Hồ đã ôm trọn khiến cho Hoàng văn Hoan, Vũ Anh và nhiều kẻ khác, đói đến độ phải nhờ vào người Quốc Gia mà sống. 


Ðây cũng chỉ là một phần nhỏ, tóm lược về cuộc đời của Nguyễn Tất Thành, qua huyền thoại ‘xuất dương’ tìm đường cứu nước, một con người trăm tên, trăm mặt, thay đổi hình dạng và thủ đoạn chính trị, đâu có khác gì loài tắc kè xanh xanh đỏ đỏ. Ðó mới chính là ‘ sự thật về cuộc đời Hồ Chí Minh ‘, một chuyện dài không bao giờ kết thúc dù chế độ CSVN có bị giựt sập... Reply With Quote Reply With Quote 09-03-2012 10:55 AM #3 alamit alamit is offline Member Join Date 20-04-2011 Posts 1,851 Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI Tác giả/nhà báo: Đào Vận Tây Người dịch: Quốc Thanh Mạng Lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc Phiên dịch tiếng Việt Trương Đức Duy, không quản lâm nguy nhậm chức sĩ quan liên lạc, chuyên trách theo chữa bệnh cho Hồ Chí Minh, đôi khi còn nấu ăn cả cho khách 

 TRỞ THÀNH THƯ KÝ RIÊNG, ÔNG Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN GIỜ PHÚT CUỐI CÙNG 

 Về Trương Đức Duy Người phiên dịch tiếng Việt có thâm niên của nước ta, sinh năm 1930 ở Quảng Đông, từng là Hoa kiều học tập tại Việt Nam. Năm 1954, tham gia thành lập Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, phụ trách phần phiên dịch và điều tra nghiên cứu. Từng lần lượt giữ chức Vụ phó Vụ Châu Á Bộ ngoại giao, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Vương quốc Thái Lan kiêm Đại sứ tại Campuchia dân chủ, đồng thời là Đại diện thường trú của Ủy ban Kinh tế và Xã hội Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương của Liên Hiệp Quốc, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Trung Quốc tại Việt Nam. Sau khi về hưu, từng trải qua các chức vụ Phó chủ tịch Hội hữu nghị Trung-Việt, Chủ tịch các khóa 3, khóa 4, khóa 5 và Chủ tịch danh dự Hội hữu nghị Hoa kiều Việt Nam, Campuchia, Lào. Năm 1967, Hồ Chí Minh bị bệnh đến Trung Quốc nghỉ dưỡng, Trương Đức Duy làm phiên dịch theo suốt cả thời gian này. Trong khoảng thời gian 2 năm sau đó, Trương Đức Duy luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời. 


Năm 1967, quân xâm lược Mỹ gieo ngọn lửa chiến tranh khắp cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, Trương Đức Duy tinh thông tiếng Việt đang làm việc ở Sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam. “Khi ấy, lãnh đạo tối cao của Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông dẫn dắt quân dân Việt Nam, với sự chi viện một lượng lớn vật lực, tài lực và nhân lực từ Trung Quốc, ngoan cường chống Mỹ cứu nước”, Trương Đức Duy nói. Chính vào thời điểm ngặt nghèo ấy, không ai ngờ bệnh tật lại tàn nhẫn tấn công người lãnh tụ huyền thoại này. “Sức khỏe của ông quá quan trọng đối với Việt Nam! Ông yêu cầu tôi đi cùng ông sang Trung Quốc chữa bệnh. Khỏi cần nói cũng hiểu là tôi phải gánh trên vai nhiệm vụ nặng nề đến nhường nào”. Trong 2 năm tiếp đó, Trương Đức Duy là phiên dịch của Hồ Chí Minh và là Thư ký Tổ chăm sóc y tế Trung Quốc, luôn ở bên Hồ Chí Minh cho đến giây phút cuối cùng. “Tôi gọi ông là Bác Hồ (bác đại diện cho thế hệ cha chú trong tiếng Việt), ông gọi tôi là em Duy. 


Ông để râu dài, đặc biệt rất sợ tiêm. Ông để chúng tôi ăn cơm cùng, kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện cách mạng phiêu lưu mạo hiểm của mình, mọi người nghe rất thích thú”. Trương Đức Duy nhớ lại. Không quản hiểm nguy Người phiên dịch Trung Quốc thành “thư ký” của Hồ Chí Minh Vào một ngày đầu năm 1967, Trương Đức Duy đang là Bí thư thứ ba Sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam nhận được cuộc điện thoại từ Vũ Kỳ, Thư ký của Hồ Chí Minh, nói Bác Hồ có chuyện muốn ông trực tiếp đến ngôi nhà gỗ nhỏ một chút. “Tôi bước vào, chợt thấy chột dạ, sao Bác Hồ không làm việc mà lại nằm trên giường?” Trương Đức Duy hốt hoảng, nhẹ bước tới bên giường, hỏi thăm Hồ Chí Minh. Ông cụ vẫy tay ra ý bảo ông ngồi xuống cạnh giường: “Bác gọi chú đến là muốn chú báo cáo với đồng chí Chu Ân Lai, nhưng chú phải chú ý giữ bí mật”. Thì ra thời gian gần đây, cả tay và chân của Hồ Chí Minh đều không còn cử động linh hoạt được nữa, tuy đã được bác sĩ khám, và cũng đã qua một vài loại trị liệu, nhưng không thấy biến chuyển. Cho nên, ông muốn sang Trung Quốc khám bệnh. “Tôi hiểu rồi!” Trương Đức Duy về ngay đại sứ quán, điện báo cho Chu Ân Lai. Hai ngày sau, sứ quán nhận được điện trả lời của Bắc Kinh, Chu Ân Lai đề nghị đưa Hồ Chí Minh tới ở Nhà khách Tùng Hóa Ôn Tuyền tỉnh Quảng Đông, rồi Trung ương sẽ chọn cử một bác sĩ giàu kinh nghiệm đến chẩn trị. 


Ngày 14 tháng 4, Hồ Chí Minh lên chiếc chuyên cơ bay đến Quảng Châu, người đi theo chỉ có Trương Đức Duy, Thư ký Vũ Kỳ và Cục trưởng Cục bảo vệ sức khỏe Nhữ Thế Bảo. Theo chỉ thị của Chu Ân Lai, về phía Quảng Châu đã thành lập “Tổ chăm sóc y tế Trung Quốc” để kiểm tra sức khỏe và chữa trị một cách có hệ thống cho Hồ Chí Minh, còn Trương Đức Duy thì là Thư ký của Tổ chăm sóc y tế. Tổ chăm sóc y tế kiểm tra thêm rồi chẩn đoán là: Bị chứng xơ vữa động mạch tuổi già, máu cung cấp lên não thiếu nặng, một vùng mạch máu não nào đó bị tắc nghẽn, cho nên mới sinh ra liệt nhẹ nửa người. Nhằm đúng vào nguyên nhân bệnh và triệu chứng ấy, Tổ chăm sóc y tế đã bố trí phương án trị liệu tổng hợp. Song Thư ký Vũ Kỳ và Cục trưởng Nhữ Thế Bảo lại đến tìm Trương Đức Duy, nói cho ông biết một tình huống đặc biệt – Bác Hồ sợ nhất là tiêm, đề nghị Tổ chăm sóc y tế không áp dụng phương pháp tiêm. Vì thế, phương án trị liệu đã không sử dụng cách châm cứu, mà dùng cách day ấn huyệt vị. Trương Đức Duy, Vũ Kỳ và Nhữ Thế Bảo cũng cùng với Hồ Chí Minh tiến hành tập luyện hồi phục sức khỏe vừa phải, “chúng tôi ném bóng cho ông, ông đỡ lấy rồi lại ném lại, ông được vui vẻ nói cười nên cũng không cảm thấy cô đơn nhàm chán”. 

 Tự tay nấu bếp Ông làm món sườn hấp chao[1] cho Bác Hồ Để giúp Hồ Chí Minh tăng cường thể lực, các đầu bếp lần nào cũng làm ra đầy một bàn các thức ngon, nhưng Hồ Chí Minh tiết kiệm quen rồi, vẫn giữ mỗi bữa chỉ cần ăn một món tanh[2], một món rau, một món canh. Các bác sĩ khuyên ông ăn thức ăn phong phú một chút thì sẽ giúp ích cho việc hồi phục sức khỏe, ông mới ăn thêm chút ít thức bổ dưỡng. Song Hồ Chí Minh nói, cơm và thức ăn quá nhiều, mỗi lần dùng bữa chỉ có mình ông, vừa ăn không hết lại vừa cảm thấy cô quạnh.


 Thế là muốn để cho cả Trương Đức Duy, Vũ Kỳ và Nhữ Thế Bảo cùng ăn. Để phối hợp với trị liệu cho người già, sau khi được sự đồng ý của lãnh đạo cấp trên, họ bắt đầu cùng ăn cơm với Hồ Chí Minh. Trương Đức Duy phát hiện ông thích ăn thịt gà và sườn, nhưng đầu bếp lại sợ răng người già không tốt, nên khi ninh hầm thường nấu cho nát nhừ, mất cả hương vị. “Tôi liền đề nghị đầu bếp làm mấy món thịt gà luộc chặt miếng và sườn hấp chao kiểu Quảng Đông thử xem, quả nhiên ông rất hào hứng với mấy món này, cứ khen ngon mãi. Rồi còn yêu cầu đầu bếp thường xuyên nấu kiểu cơm nhà, như vậy “vừa tiết kiệm tiền lại vừa ngon”. Trương Đức Duy nói. Trị liệu được hơn 2 tháng, hiệu quả chữa trị rõ, Hồ Chí Minh rất hài lòng, vì nhớ đến cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của Việt Nam, nên ngày 1 tháng 7 năm 1967 đã rời Quảng Châu quay về Hà Nội. 

Song về Hà Nội không lâu, Vũ Kỳ đã gọi điện nói Bác Hồ lại thèm ăn món sườn hấp chao rồi, nhưng mà đầu bếp không biết làm, nên muốn Trương Đức Duy dạy cho. Thế là Trương Đức Duy đã đến Phủ chủ tịch để bày cho đầu bếp cách làm. Mấy hôm sau, Vũ Kỳ lại gọi điện nói đầu bếp nấu không đúng vị, Bác nuốt không nổi, mong Trương Đức Duy tới tự tay làm một lần, vừa nghe nói được tự tay nấu ăn cho Hồ Chí Minh, Trương Đức Duy thấy vô cùng vinh dự, lập tức tới làm luôn. “Kết quả là Bác Hồ ăn hết, luôn mồm khen ngon, ‘đây mới là món sườn hấp chao chính cống’. Tôi nghe mà thấy trong lòng cũng quá phấn khởi”. 


Xem lễ ở quảng trường Phiên dịch giúp Hồ Chí Minh ăn mặc cải trang Ai ngờ chỉ hơn 1 tháng sau, sức khỏe Hồ Chí Minh đột ngột xuất hiện vấn đề mới. “Khi ấy Vũ Kỳ gọi điện cho tôi đến Phủ chủ tịch, khi gặp ông bảo Bác Hồ về nước làm việc và hoạt động quá nhiều, mấy hôm trước mưa dầm bị sốt cao, mãi chưa dứt”. Bí thư Trung ương Đảng Việt Nam Lê Văn Lương mong Trung Quốc điều Tổ chăm sóc y tế đến Hà Nội chữa trị. Chu Ân Lai được tin liền lập tức điều Tổ chăm sóc y tế đến Hà Nội, cho chữa trị kết hợp Đông Tây y, sốt hạ luôn, nhưng căn bệnh cũ ở não lại có hội chứng tái phát, tim cũng xuất hiện vấn đề mới. Cuối cùng, qua bàn bạc nhiều phía, Hồ Chí Minh lại sang Trung Quốc nằm tại Nhà điều dưỡng Trung ương Ngọc Tuyền Sơn ở Bắc Kinh dưỡng bệnh trong hơn nửa năm. Ngày 1 tháng 10 cùng năm là lễ kỷ niệm 18 năm ngày thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sáng hôm ấy ở Quảng trường Thiên An Môn có quần chúng diễu hành chúc mừng, Trung ương muốn để Hồ Chí Minh được dự lễ, nhưng vì bảo mật nên lại không thể bố trí Hồ Chí Minh lên lầu thành Thiên An Môn được. 

Thế là, Chu Ân Lai đã nghĩ ra được một biện pháp tuyệt diệu, để Đặng Dĩnh Siêu đi theo Hồ Chí Minh bí mật lên tầng 4 của Đại lễ đường nhân dân, nhìn ra từ cửa sổ cảnh tượng tráng lệ của cuộc diễu hành quần chúng. Còn buổi tối, Mao Chủ tịch sẽ mời Hồ Chí Minh lên lầu thành Thiên An Môn xem bắn pháo hoa. “Việc này cần phải bảo mật ra sao đã tốn mất rất nhiều suy nghĩ. Cuối cùng chúng tôi quyết định giúp ông ăn mặc cải trang để đi xem lễ”. Trương Đức Duy hóa trang cho Hồ Chí Minh, mặc bộ Tôn Trung Sơn, đội một chiếc mũ cán bộ Trung Quốc, đeo một chiếc khẩu trang, cuốn hết râu lại, như vậy sẽ chẳng ai nhận ra được. Tối đó, Hồ Chí Minh gặp mặt Mao Chủ tịch, Chu Ân Lai và Ủy viên trưởng Chu Đức một cách suôn sẻ. Mao Chủ tịch còn đích thân đi cùng Hồ Chí Minh ra ngoài lầu thành, ngồi trên mội chiếc ghế nhỏ xem pháo hoa. Trương Đức Duy nhớ lại: “Hai vị chủ tịch đều xem rất hào hứng, trao đổi với nhau bên nào bắn đẹp hơn, tôi đứng đằng sau làm phiên dịch”.

 Trên đường về chỗ ở, Hồ Chí Minh cảm khái nói Mao Chủ tịch, Chu Ân Lai đã quá quan tâm đến ông! “Không ngờ lại chu đáo đến vậy, còn thân thiết hơn cả đồng chí và anh em!” Giây phút hấp hối Ông đã chứng kiến những giờ phút cuối cùng của Hồ Chí Minh Trong khoảng thời gian 2 năm tiếp đó, Tổ chăm sóc y tế còn từng 3 lần đến Hà Nội chữa bệnh cho Hồ Chí Minh. Mùa hè năm 1969, Hồ Chí Minh muốn để cho Tổ chăm sóc y tế được về Trung Quốc nghỉ phép 1 tháng, tiện thể nhờ Trương Đức Duy mang thư đến cho Thủ tướng Chu Ân Lai luôn. 


 “Thư ông đã tự mình viết xong, chủ yếu là bày tỏ sự cảm ơn và nguyện vọng muốn sang Trung Quốc lần nữa. Tôi dịch ra tiếng Trung, ông xem rồi ký 3 chữ Hồ Chí Minh bằng chữ Hán”. Vào trung tuần tháng 8 năm đó, Hồ Chí Minh ra ngoài đi thị sát đột nhiên bị cảm, dẫn đến viêm phế quản cấp, từng bị choáng mất một lúc. Cả bệnh tim và bệnh mạch máu não cùng phát, tiếp đến viêm phế quản chuyển thành viêm phổi cấp. Bắt đầu từ ngày 25 tháng 8, Bắc Kinh điều sang thêm liên tiếp 2 tốp chuyên gia và đội chăm sóc y tế Đông, Tây y…, mang theo các loại thuốc cấp cứu và dụng cụ đáp chuyên cơ tới Hà Nội. Các thầy thuốc Trung Quốc thay phiên túc trực ngày đêm bên giường bệnh Hồ Chí Minh, đã dùng một loạt các biện pháp trị liệu, nhưng đều không thấy có hiệu quả. “Tôi còn nhớ rất rõ, trong những ngày tháng cuối cùng ấy, ông cụ tỏ ra rất yên lặng”. 


Trương Đức Duy nói, ông luôn ở trước giường Hồ Chí Minh, có lần Hồ Chí Minh bị hôn mê khi tỉnh lại, nhìn thấy hộ lý Trung Quốc đứng bên giường còn yêu cầu các cô hát. Hai cô hộ lý liền khẽ hát bài hát “Ca ngợi xã hội chủ nghĩa” đã quen thuộc với mọi người.[3] Hồ Chí Minh nghe xong mỉm cười gật đầu, mãn nguyện chìm vào giấc ngủ. Rạng sáng ngày 2 tháng 9, Hồ Chí Minh đã không còn tự chủ được hơi thở, tim ngừng đập hoàn toàn. Các bác sĩ Trung Quốc đã sử dụng mọi loại thiết bị, nhưng cuối cùng vẫn không thể hồi phục được nhịp tim cho ông cụ. Ba tốp chuyên gia chăm sóc y tế do Chu Ân Lai lệnh điều thêm vào ngày hôm đó còn chưa kịp tới Hà Nội thì tử thần đã cướp đi mất sinh mạng của Hồ Chí Minh. 


Đồng hồ điểm đúng 9 giờ 47 phút ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh đã không vượt qua nổi cái mốc 79 tuổi. (Nguồn: “Báo Pháp chế buổi chiều”) Mạng Lịch sử Đảng cộng sản Trung Quốc Bản tiếng Việt © Việt sử ký 2012 [1] Một món ăn dưỡng sinh của Trung Quốc -ND. [2] “Tanh” ở đây là gọi thức ăn đối lập với “chay”-ND. [3] Nguyên văn: 《社会主义好》. Bài ca cách mạng ra đời khi nước Trung Quốc mới được thành lập. – ND. Theo VietSuKy Reply With Quote Reply With Quote 10-03-2012 02:43 AM #4 chichchoe chichchoe is offline Banned Join Date 17-09-2011 Posts 809 Hình HCM mới. Hôm qua tôi vô www. hoang sa. o rg của VC. Tôi bất ngờ khi họ chưng ra hình bác hồ mới là hình người Việt. Tôi nghĩ có thể vì thời đại Internet này hình ảnh bác Hồ là người Tàu có vợ con đăng đầy nên chúng quê quá nên đăng hình HCM ban đầu. Nhận xét về nhân chủng học, ngôn ngữ, tình cảm... tôi chắc chắn hình HCM thường phổ biến là người Tàu. 

Hình mới đăng đây là người VN. ( Vì tôi có hình người Bắc rất nhiều như cụ Phan Đình pHùng, Phan Bội Châu, Đề Thám...). Hình mới này rất ít, có thể là được lấy cắp. Hình lúc trẻ, sau khi lớn tuổi, hình ảnh phổ biến là người Tàu. So sánh hình ảnh mới này với hình thường phổ biến là thấy một trời một vực. Reply With Quote Reply With Quote 14-03-2012 05:26 AM #5 alamit alamit is offline Member Join Date 20-04-2011 Posts 1,851 Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc Ngày 3 tháng 12 năm 1960, Mao Trạch Đông hội kiến với Hồ Chí Minh-Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên phải là Hoàng Văn Hoan. Lãnh đạo Việt Nam Hoàng Văn Hoan “đào thoát” tới Trung Quốc năm 1979 Năm 1979, giữa hai nước Trung-Việt xảy ra một sự kiện khiến cho tập đoàn Lê Duẩn đương quyền khi ấy ở Việt Nam bị bẽ mặt, cả thế giới phải kinh ngạc. Hoàng Văn Hoan – một trong những nhà lãnh đạo lão thành của Việt Nam đã đáp phi cơ từ Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) bay tới Bắc Kinh. Cho đến tận giờ, người ta vẫn gọi việc Hoàng Văn Hoan đến Trung Quốc là “Lãnh đạo cấp cao nhất của nước ngoài đào thoát tới Trung Quốc”. Trong nội bộ Đảng cộng sản Việt Nam có hai phái thân Xô và thân Hoa.


 Phái thân Hoa có Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Hoan… Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ… thuộc phái thân Xô nắm hết quyền lực trong Đảng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã bị chết trận. Thượng tướng Chu Văn Tấn bị giam lỏng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị treo giò. Hoàng Văn Hoan lúc này trong người cảm thấy khó chịu, vùng não luôn bị đau âm ỉ, bệnh viện ở Hà Nội kiểm tra nói: bị lao phổi. Nhưng lại chữa mãi vẫn không khỏi? Ông sinh năm 1905 tại tỉnh Nghệ An (nay là tỉnh Nghệ Tĩnh[1]), Việt Nam. Tên thật là Trần Xuân Phong. Năm 1925 tham gia học lớp đào tạo thanh niên Việt Nam do Hồ Chí Minh mở ở Quảng Châu, sau đó làm công tác cách mạng ở các nước Thái Lan, Miến Điện, Campuchia… và ở Châu Âu, nói thành thạo tiếng Trung Quốc giọng Quảng Đông, viết được những bài thơ hay bằng chữ Hán. Reply With Quote Reply With Quote 14-03-2012 05:32 AM #6 alamit alamit is offline Member Join Date 20-04-2011 Posts 1,851 Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - 

Người muôn mặt Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc Chính Hoàng Văn Hoan đã ý thức được rằng nếu ở lại trong nước thì không những chẳng làm được việc gì, mà bệnh của mình lại có thể còn bị nặng thêm. Ông lợi dụng dịp đi thăm nước Cộng hòa Dân chủ Đức cũ, với sự giúp sức của bạn bè và tình báo Trung Quốc, đã tới Bắc Kinh theo ngả Pakistan. Ngày thứ ba tới Bắc Kinh, kết quả kiểm tra ở Bệnh viện 301 Giải phóng quân cho thấy thực ra trong người ông có một khối u dài 6cm, rộng 5cm, được chẩn đoán là bị ung thư phổi sắp đến giai đoạn cuối. Năm 1979, tới Bắc Kinh, được đồng chí Đặng Tiểu Bình đón tiếp thịnh tình Bệnh viện 301 áp dụng phương pháp Đông Tây y kết hợp, đầu tiên tiến hành xạ trị, tiếp đó dùng các bài thuốc Đông y quý để tiến hành liệu pháp Đông y. Nằm chữa trị ở bệnh viện được hơn 1 tháng, khối u đã nhỏ lại chỉ còn dài 5cm, rộng 4cm. Khối u nhỏ lại được nhanh như vậy có thể nói là hết sức có hiệu quả.


 Nói chuyện với Việt kiều ở Côn Minh năm 1980 Bởi được trị liệu theo Đông Tây y kết hợp ở Bệnh viện 301, được dùng những bài thuốc Đông y vừa quý lại vừa đích thực có tác dụng kháng ung thư, cho nên Hoàng Văn Hoan đã hơn 70 tuổi vẫn sống tiếp được tới 15 năm nữa một cách đầy khỏe mạnh. Bơi ở Thanh Đảo năm 1984 Reply With Quote Reply With Quote 14-03-2012 05:36 AM #7 alamit alamit is offline Member Join Date 20-04-2011 Posts 1,851 Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Giải mật: vụ Hoàng Văn Hoan đào thoát sang Trung Quốc Hoàng Văn Hoan tới Trung Quốc không lâu, Việt Nam lần lượt tuyên bố hủy bỏ các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…, xóa Đảng tịch Đảng cộng sản Việt Nam của ông. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, bị chính quyền Việt Nam xử tử hình vắng mặt.  


 Ở Thanh Đảo năm 1984 Với sự nỗ lực của Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, quan hệ Trung-Việt được khôi phục. Nhất là Nguyễn Văn Linh còn cho đưa cả người nhà của Hoàng Văn Hoan sang Trung Quốc, khiến cho Hoàng Văn Hoan được đoàn tụ với gia đình vào những năm cuối đời. Tác giả đang viết: “Việt Trung hữu nghi, vạn cổ trường thanh” Còn có một giả thuyết khác, khi các nhà lãnh đạo Nguyễn Văn Linh… muốn khôi phục lại quan hệ bình thường với Trung Quốc, do qua kênh bình thường có chút khó khăn, nên con trai cả của Hoàng Văn Hoan đang làm việc tại Viện khoa học xã hội Việt Nam đã bí mật đến Sứ quán Trung Quốc để đẩy nhanh sự tiếp xúc giữa lãnh đạo hai nước. ** Mộ Hoàng Văn Hoan hình chữ nhật, sau mộ lập một tấm bia đá cao to, chính giữa bên trên có khảm bức di ảnh màu của Hoàng Văn Hoan, hai bên khắc nổi năm sinh năm mất “1905-1991”. 


Dưới di ảnh viết “Mộ đồng chí Hoàng Văn Hoan, nhà cách mạng lão thành Việt Nam, người bạn lâu năm được nhân dân Trung Quốc tôn kính”. Hoàng Văn Hoan (1905-1991) Lãnh đạo Đảng và chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sinh ở tỉnh Nghệ An. Năm 1926 tham gia lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh mở ở Trung Quốc, sau gia nhập Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1928-1942, lần lượt hoạt động cách mạng ở Xiêm và Trung Quốc. Năm 1942, về nước triển khai đấu tranh vũ trang và tiến hành các hoạt động lập căn cứ địa. Năm 1945, được bầu làm Ủy viên trung ương, nhậm chức Bí thư Đảng ủy Khu giải phóng Việt Bắc, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 cùng năm, từng nhậm chức Thứ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy viên chính trị toàn quốc Vệ quốc quân.


 Cuối năm 1946, nhậm chức Đại diện Liên khu 4 tại Chính phủ trung ương, lãnh đạo đấu tranh chống Pháp. Năm 1948, nhậm chức Đặc phái viên hải ngoại tại Chính phủ trung ương. Tháng 12 năm 1950, nhậm chức Đại sứ đầu tiên ở Trung Quốc, kiêm Đại sứ tại Triều Tiên, Mông Cổ. Tại “Đại hội 2” năm 1951 và “Đại hội 3” năm 1960 được bầu làm Ủy viên Trung ương. Hai lần, vào tháng 8 năm 1958 và tháng 9 năm 1960, được bầu làm Ủy viên Bộ chính trị Trung ương Đảng. Từ năm 1958, nhậm chức Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tháng 12 năm 1971, được bầu là Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc. Năm 1979, sau khi Việt Nam trắng trợn bài Hoa, vì phản đối tập đoàn Lê Duẩn… nên đã bị đánh và bức hại, để đấu tranh lại với những thế lực bài Hoa trong Đảng, vào tháng 7 bị bức phải rời Việt Nam gián tiếp chuyển tới Bắc Kinh, đã di cư tới Trung Quốc. 

Không lâu sau, Việt Nam lần lượt tuyên bố hủy bỏ các chức vụ Đại biểu Quốc hội, Phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy viên Đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam…, xóa Đảng tịch Đảng cộng sản Việt Nam của ông. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, bị chính quyền Việt Nam xử tử hình vắng mặt. Là người bạn lâu năm của nhân dân Trung Quốc, có tình cảm sâu nặng với nhân dân Trung Quốc. Đã làm rất nhiều công việc hữu ích để phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt. Đồng thời còn là một người “thông hiểu về Trung Quốc”, có nhiều nghiên cứu về văn hóa truyền thống Trung Quốc, đã viết nhiều bài thơ, câu đối bằng tiếng Hán trong đời. 

Trong thời gian bệnh nặng, các vị lãnh đạo Đảng và nhà nước như Dương Thượng Côn, Trần Vân, Lý Tiên Niệm… đã lần lượt đến bệnh viện thăm và an ủi động viên. Ngày 18 tháng 5 năm 1991 qua đời tại Bắc Kinh, hưởng thọ 86 tuổi. An táng tại Nghĩa trang cách mạng Bát Bảo Sơn Bắc Kinh. Tác phẩm để lại có “Hoàng Văn Hoan văn tập”.  Nguồn: www.tiexue.net * Bản tiếng Việt © Việt sử ký 2012 [1] Chỗ này tác giả nhầm. Tỉnh Nghệ Tĩnh đã được tách ra lại thành 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh từ năm 1991.- ND. - * Trang mạng được mở năm 2001, tiền thân là trang mạng mô phỏng chiến tranh thành lập năm 1999 tại Bắc Kinh; mạng www.tiexue.net có nội dung chủ yếu là về quân sự, cung cấp những thông tin thiết thực toàn diện và có giá trị. Qua vài năm phát triển, mạng www.tiexue.net đã phát triển thành mạng quân sự bằng tiếng Trung lớn nhất toàn cầu. (Nguồn: http://www.tiexue.net/). ** Xem: 76. 


TRƯỚC VÀ SAU CUỘC GẶP CẤP CAO TRUNG-VIỆT Ở THÀNH ĐÔ. 

Mời xem thêm: + Hồi ký Hoàng Văn Hoan: Giọt nước trong biển cả; + Hoàng Khoa Khôi: Đọc và Bình Luận “Giọt Nước Trong Biển Cả”-Hồi ký của Hoàng Văn Hoan (Dân luận), Phần 2; + Hoàng Văn Hoan (Wikipedia), + Số phận ông Hoàng Văn Hoan (BBC, 14/2/2009); + Nhìn lại nhân vật Hoàng Văn Hoan (BBC, 18/2/2009); + Tiến sĩ Balazs Szalontai: Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng sau 1979 (BBC). Reply With Quote Reply With Quote 15-03-2012 03:35 AM #8 Diêt VC Diêt VC is online now Member Join Date 13-03-2011 Posts 538 Quote Originally Posted by TNTVN View Post Hoàng Văn Hoan là người của Trung Cộng được mua chuộc trong DCSVN.

 Biết được và phá được gián điệp HVH này củng là kỳ công của tình báo VN. Bời vậy, ai tuyên truyền DCSVN theo Tàu là tầm xàm hết. DCSVN trên danh nghĩa thôi, thật ra họ là Nationalism (Người theo Việt Nam Dân Tộc). Chà ! rặn ra được một tiếng ngoại "Nationalism "rồi tự hãnh diện là mình thuộc loại "nhà nhân chủng học" bằng thứ lý luận con trẻ,thì chả khác chi khỉ đang múa may quay cuồng. Nên nhớ,dân tộc VN không có những loại người đi lấy bọn ngoại bang làm" ông tổ"...cứ xem tên Tố Hữu khóc lóc vật vã hơn cha mẹ của hắn qua đời trước cái chết của tên đồ tể diệt chủng Stalin.Vậy thì cái gọi là" chủ nghĩa Nationalism "này ai cũng quá hiểu rằng,cái dân tộc tánh mà VC đang mang trong người chính là" đệ tam quốc tế CS Nga Tàu"... 

Thuyết Nationalism này nếu ám chỉ cho Hitler là chính xác,vì Hitler mang một dân tộc tánh cuồng ngạo,tự xem dân tộc Đức là chủng tộc cao quý,nên đã dẫn đến việc tàn sát hàng triệu dân Do Thái.Tuy nhiên,đối với dân tộc Đức,Hitler vẫn chưa hề bị xem là kẻ giết hại đồng chủng,vì Hitler không hề giết dân của mình.Trong khi HCM thì nhận lệnh của Mao trạch Đông,qua bài học" cải cách ruộng đất",đã hai tay đẩm máu của hàng trăm ngàn nông dân vô tội miền bắc năm 1945..Một cái đảng chuyên làm tôi tớ,chịu ngoại bang sai khiến,ngay cả theo lời ngoại bang mà quay súng giết hại đồng bào của mình...thì chỉ có thằng NGU là mới cho rằng bọn VC là theo chủ nghĩa Nationalism. VC hết người hay sao mà tung vào VL một tên bồi bút kém" chất lượng" như thế.Đúng là vẹt mà nghĩ mình là phượng hoàng. Rùng mình DVC Reply With Quote Reply With Quote 10-06-2012 08:58 AM #9 alamit alamit is offline Member Join Date 20-04-2011 Posts 1,851 Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Hồ Chí Minh - Gián Điệp Quốc Tế - Người muôn mặt Hồ Chí Minh Và Hội Tam Điểm Tho Van 2012/04/28 Trần Gia Phụng 


http://www.vnfa.com/anews/0705_363.html



No comments:

Post a Comment