HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Friday, 15 June 2012

59 * TƯỞNG VĨNH KINH * HỒ BÁN PHAN BỘI CHÂU



 
Chương 07: 
TƯỞNG VĨNH KÍNH và Hồ Chí Minh tại Trung Quốc 
 HỒ CHÍ MINH - Nhận Định Tổng Hợp
 

>TÀI LIỆU BÁN CỤ PHAN



Kính gởi quý vị trên diễn đàn, quý thân hữu, chiến hữu.


Nhân có câu hỏi về cụ Phan Bội Châu có phải do Hồ Chí Minh giết hay không? Ðể rộng đường phán xét của người dân trong và ngoài nước, và làm sáng tỏ cho thế hệ mai sau, tôi xin trích trong cuốn "Hố Chí Minh Tại Trung Quốc" của nhà sử học Trung Quốc Tưởng Vĩnh Kính do Thượng Huyền dịch sang tiếng Việt ở trang 83, 84 và 85 với nguyên văn như sau:

"Cụ Phan Bội Châu lãnh đạo cuộc vận động dân tộc Việt Nam, có liên hệ mật thiết với hoàn cảnh cách mạng của Tôn Trung Sơn. Ðầu năm 1924, Tôn Trung Sơn cải tổ Trung Quốc Quốc Dân Ðảng để chấn chỉnh lại trận doanh cách mạng, thì cụ Phan cũng cải tổ Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Ðảng, đặt Tổng Chi Bộ tại Quảng Châu, cùng sánh vai với cuộc cách mạng của quốc dân Trung Quốc (chú thích 25- Ban Chấp Hành Trung Ương Việt Nam Quốc Dân Ðảng, báo cáo của Bộ chấp hành Hải Ngoại 20/01/1945). Cán bộ nòng cốt của tổ chức tại Trung Quốc lúc bấy giờ có Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Thượng Thuật, Ðặng Sứ Mặc v.v...., tỏ rõ cái khí thế sôi sục một thời (Chú thích 26- Bộ Hải Ngoại Trung Ương Trung Quốc Quốc Dân Ðảng soạn "Chú thích 26- Việt nam Cách Mạng Ðảng Phái Lược Lịch". Bản thảo chưa in ngày 6/05 năm Dân Quốc 32, Trùng Khánh)

Hồ Chí Minh, thuở nhỏ ở quê hương Nghệ An, vì thân sinh của ông là cụ Nguyễn Sinh Sắc có quen biết qua lại với cụ Phan Bội Châu, nên ông rất được cụ Phan thương mến. Cụ Phan đã từng khuyến khích ông tham gia phong trào Ðông Du, nhưng ông từ chối (g). Lần này ông đến Quảng Châu và xuất hiện dưới chiêu bài chủ nghĩa dân tộc, nên đã thường tiếp xúc với cụ Phan. Hai bên thường đàm luận về những về sự tiến triển của tình thế Việt Nam, cũng như bàn thảo về kế hoạch mới của Việt Nam Quốc Dân Ðảng (chú thích 27 - Charles B McLane, tr 109 - Dẫn Hồi Ký của Phan Bội Châu).

Nhưng việc bất hạnh đã đột ngột xảy ra: Tháng 6 năm 1925, cụ Phan bị cảnh sát Pháp bắt ở Thượng Hải, ngay tại tô giới Pháp. Theo lời ghi thuật của nhà học giả Việt Nam Hoàng Văn Chí thì cụ Phan bị bắt là vì do ông Hồ bán cụ cho Pháp để lấy một số tiền là một trăm ngàn đồng. Tin tức này trước tiên là do đồ đệ của cụ Phan thu lượm được, sau đó thì lan truyền trong khắp các lực lượng cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc. Sự việc này về sau đã được tay chân Hồ giải thích rằng " Cụ Phan già rồi không còn thích hợp với cách mạng nữa; mặt khác việc cụ bị bắt chắc chắn sẽ khích động mạnh mẽ tinh thần yêu nước của người Việt; mặt khác nữa số tiền nhận được của người Pháp, có thể dùng để nuôi dưỡng các lực lượng mới".


Sau này tìm hiểu thêm thì biết rằng ông Lâm Ðức Thụ (tên thật là Nguyễn Công Viễn), đại diện cho cụ Phan tại Hương Cảng đã hợp tác với ông Hồ trong việc bán cụ Phan cho Pháp. Sự việc xong, hai người chia đôi số tiền một trăm ngàn đồng đó. Ông Hồ đã dùng phần tiền của ông để tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội; còn Thụ thì dùng tiền để tiêu phí trong các hộp đêm tại Hương Cảng. Và từ đó Hồ, Thụ hai người còn tiếp tục hợp tác trong nhiều năm nữa để bán các đồng chí của cụ Phan.

Nguyên vì lúc bấy giờ, các thanh niên Việt Nam trốn sang Quảng Châu để xin vào học trường Võ Bị Hoàng Phố rất đông. Những ai chịu theo Hồ gia nhập Ðồng Chí Hội, thì sau khi học xong sẽ được bảo đảm bí mật trở về nước an toàn; còn những ai vẫn trung thành với tổ chức của cụ Phan, khi về đến biên giới Hoa-Việt, tức thì bị mật thám Pháp bắt ngay.


Những người này sở dĩ bị bắt, vì trước đó Hồ đã báo cho Thụ ở Hương Cảng biết, Thụ đem ảnh của họ nộp cho lãnh sự Pháp ở Hương Cảng. Sau khi họ bị bắt Hồ và Thụ lại được chia nhau tiền thưởng, trong tình hình đó Tổng Chi Bộ Việt Nam Quốc Dân Ðảng tại Quảng Châu dần dần mất liên lạc với quốc nội.


Kết quả là các thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trường Võ Bị Hoàng Phố mà không gia nhập tổ chức của Hồ thì không dám về nước, và chỉ có cách là gia nhập vào đoàn quân cách mạng Dân Quốc của Trung Quốc, khiến cho Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở quốc nội phải dần dần tan rã, và đảng Cộng Sản thì cứ mạnh lên dần


(Chú thích 28 - Theo J. Buttinger, Vietnam, tr. 109 Cụ Phan bị bắt là do sự sắp đặt của Hồ và một người khác nữa. Tháng 6 năm 1925 một buổi sáng nọ tại Thương Hải, cụ Phan nhận được giấy mời đi Quảng Châu tham dự lễ thành lập Chi Bộ Việt Nam của Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Nhược Tiểu trên Thế Giới. Khi cụ sắp lên tàu ở Thượng Hải để đi Quảng Châu thì bị một nhóm người tập kích và dẵn vào tô giới Pháp, rồi bị đưa sang Hải Phòng và giải về Hà Nội. Ông Hồ đứng giữa nhận tiền)

Sau khi bị bắt, cụ Phan đã bị nhà đương cuộc Pháp kết án tử hình, làm cho người Việt Nam vô cùng công phẫn. Toàn quốc rầm rộ tổ chức biểu tình, đòi lập tức trả tự do cho cụ Phan. Cuối cùng người Pháp phải bỏ án tử hình. Nhưng cụ vẫn bị quản thúc tại Huế và đã mất ngày 10.12.1940"..........................

Trân trọng

Việt Nam Quốc Dân Ðảng
http://www.toquocvietnam.org/TaiLieuBanCuPhan.htm 

 

Hồ Chí Minh đã ngụy trang Chủ Nghĩa Dân Tộc như thế nào?


(Trích dịch từ sách Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc, nguyên tác Hoa ngữ của Tưởng Vĩnh Kính - Thượng-Huyền dịch)
Hồ Chí Minh rời Mạc-tư-khoa đi Quảng-châu (miền Nam Trung-quốc)(a) vào khoảng cuối năm 1924(b).(1) Tháng 4 năm 1927, ông lại rời Quảng-châu để đi Vũ-Hán(c), và đến tháng 7 năm ấy thì trở về lại Liên-sô.(2) Đây là lần đầu tiên ông đến Trung-quốc và đã lưu lại đó trong thời gian hai năm rưỡi. Nhiệm vụ chủ yếu của ông lúc bấy giờ -- dưới sách lược về Đông-phương của Liên-sô -- là vận dụng cuộc cách mạng của Trung-quốc đang có ảnh hưởng mạnh đối với Việt-nam, dùng chiêu bài chủ nghĩa dân tộc để lập nên một tổ chức gọi là Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (gọi tắt là Đồng Chí Hội), tiến hành các hoạt động tổ chức và tuyên truyền hướng vào Việt-nam. Đồng Chí Hội chính là tổ chức tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam.


Quảng-châu, trong khoảng thời gian từ năm 1924 đến đầu năm 1927, là trung tâm cách mạng do Trung Quốc Quốc Dân Đảng lãnh đạo. Đảng này, đối nội thì đánh đổ các thế lực quân phiệt đang cát cứ các nơi, nhằm thống nhất Trung-quốc; đối ngoại thì phản kháng sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, nhằm mưu cầu nền độc lập tự chủ cho Trung-quốc; đồng thời, nó cũng thực hiện chính sách "giao hảo với Nga-sô và dung hợp với cộng sản". Quảng-châu vào thời đó, không những là trung tâm của cách mạng Trung-quốc, mà đồng thời cũng trở thành "thánh địa" của các phong trào chống đế quốc tại châu Á. Trường võ bị Hoàng-phố (chuyên dạy chíhh trị và quân sự), dưới sự chỉ huy của ông hiệu trưởng Tưởng Trung Chánh, đã thu hút đông đảo các thanh niên trí thức ở các nước vùng Đông Nam Á, đến để thụ huấn cả về chính trị lẫn quân sự, mà thanh niên Việt-nam là chiếm đại đa số. (3) Theo bản thống kê tháng 10 năm 1925 thì số thanh niên từ các nước Đông Nam Á như Việt-nam, Miến-điện, Triều-tiên, Đài-loan đã đến thụ huấn tại trường võ bị Hoàng-phố, tổng cộng hơn 4.400 người. (4) Những thanh niên này về sau đều trở thành các thành phần chủ lực trong các cuộc vận động độc lập tại các quốc gia Đông Nam Á.
Cuộc vận động cách mạng ở Trung-quốc càng phát triển mạnh mẽ, càng ảnh hưởng sâu đậm đến Việt-nam; điều đó đã được chính Hồ Chí Minh thừa nhận.(5) Trong một bài bình luận, ông Louis Roubaud, một kí giả Pháp, đã nói: "„nđộ và Trung-quốc là hai lò lửa lớn đang cháy hừng hực, Việt-nam nằm giữa hai lò lửa đó thì không thể nào giữ mãi ở tình trạng đóng băng được. "Việt-nam và „n độ đã cùng gặp nhau ở một điểm là cùng ề cao chủ nghĩa dân tộc; còn giữa Việt-nam và Trung-quốc thì sự đi lại đã có từ lâu đời, và Quảng-châu đã trở thành nơi "thánh địa" của cuộc vận động chủ nghĩa dân tộc cho Việt-nam. Những thanh niên trí thức Việt-nam đến từ ba kì Bắc, Trung, Nam, đa số đều theo học trường võ bị Hoàng-phố. Trong hoàn cảnh cuộc cách mạng Trung-quốc của niên đại 1920, những thanh niên này không những học tập về chiến thuật hiện đại, mà đồng thời còn học về những môn khoa học và kĩ thuật do Tây-phương đem vào; ngoài ra, họ cũng học tập chủ nghĩa tam dân cùng lí luận cách mạng của Tôn Trung Sơn.(6)


Cách mạng Trung-quốc đã trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc vận động cho chủ nghĩa dân tộc Việt-nam được nhìn thấy qua hai sự kiện: một là việc nhà chí sĩ cách mạng Việt-nam Phạm Hồng Thái đã ám sát viên Toàn-quyền Đôngđương là Martial Merlin tại Sađiện(d), Quảng-châu, nhưng sự không thành, họ Phạm phải nhảy xuống sông Chu tự tử; hai là việc cụ Phan Bội Châu, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng, bị cảnh sát Pháp bắt tại Thượng-hải và giải về Việt-nam. Hai sự kiện này đã khích động mạnh mẽ vào làn sóng vận động chủ nghĩa dân tộc Việt-nam, và Hồ Chí Minh đã tức khắc lợi dụng làn sóng này để phát triển những hoạt động và tổ chức của ông đối với Việt-nam.


Phạm Hồng Thái sinh năm 1893 tại Bắc-kì(đ), Việt-nam,(7) là đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng.(8) Đảng này do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo, có quan hệ mật thiết với Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Chính cương và tổ chức của nó, cơ hồ như được mô phỏng hoàn toàn với Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Nó chủ trương đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, tranh thủ nền độc lập dân tộc, cùng truyền bá tư tưởng của Tôn Trung Sơn về chủ nghĩa tam dân cho người Việt-nam. Công tác thực tế của đảng đã đặc biệt chú trọng đến các hoạt động tuyên truyền trong quân đội Pháp-Việt, tổ chức cho các binh sĩ Việt-nam đứng lên khởi nghĩa, và ám sát các quan lại người Pháp.(9) Vì vậy, trên thực tế, hoạt động của đảng có hai xu hướng: một phái chủ trương vận động quân đội Việt-nam khắp ba kì đánh đuổi người Pháp; một phái chủ trương tiến hành các cuộc ám sát. Phạm Hồng Thái thuộc về phái sau. Hồ Yểm(10) (người Phiên-ngu, Quảngđông), đã viết trong bài "An Nam Phạm Liệt Sĩ Mộ Kí" như sau:


"Ông húy là Hồng Thái ..... Lớn lên, trông thấy pháp luật quá hà khắc, các quan lại người Pháp thì cao ngạo và hung ác, ông rất phẫn nộ. Gặp lúc các nhân sĩ có chí khí, họp nhau thành lập chính đảng (tức là Việt Nam Quốc Dân Đảng) để vận động cách mạng, mời ông gia nhập đảng, ông gia nhập ngay. Lúc bấy giờ, những người trong đảng chia làm hai phái, một thì chủ trương vận động quân đội khắp ba kì chống lại chính quyền và đánh đuổi người Pháp; một thì chủ trương ám sát các quan tướng hung bạo tàn ác để trừ hại cho dân. Ông nghĩ rằng, vận động quân đội là việc trọng yếu, nhưng nếu không có những hành động tráng liệt thì không đủ để làm cho kẻ địch chồn dạ và kích động đồng bào. Cho nên ông đã nhập vào phái ám sát để mong gặp dịp là thực hành."(11)
Nhóm chủ trương ám sát -- trong đó có Phạm Hồng Thái -- của đảng cách mạng Việt-nam nói trên, vào năm 1923 đã thành lập tại Trung-quốc một tổ chức bí mật có tên là "Tâm Tâm Xã".(12) Nếu xét về danh xưng cũng như phương thức hoạt động của tổ chức này, có thể nói, nó đã chịu ảnh hưởng của một bộ phận cách mạng Trung-quốc tên là "Tâm Xã".(13) Sự việc Phạm Hồng Thái ám sát Toàn-quyền Đôngđương M. Merlin đã xảy ra vào ngày 19.6.1924.


Nguyên vì hôm ấy, trên đường từ Nhật-bản trở lại Việt-nam, M. Merlin đã ghé lại Quảng-châu để dự một buổi dạ tiệc tại tô giới của người Pháp. Nhân cơ hội này, Phạm Hồng Thái đã ném bom vào bữa tiệc, gây nên một cuộc đổ máu lớn. Việc đó, Hồ Yểm đã kể lại trong An Nam Phạm Liệt Sĩ Mộ Kí của ông như sau:
"M. Merlin sắp rời Nhật-bản để đến Thượng-hải và Quảngđông. Ông (tức Phạm Hồng Thái) biết được điều đó, liền chuẩn bị bom và súng đạn, lén đi Đông-kinh rồi Thượng-hải, nhưng vì mạng lưới mật thám quá chặt chẽ, không có một lỗ hổng nào để thực hiện được kế hoạch. Ông bèn quyết định đi Quảngđông để thực hiện hành động cuối cùng.
Ông dò biết người Pháp sẽ đãi tiệc M. Merlin tại khách sạn Victoria, bèn dặn dò một bạn đồng chí rằng: Việc này thành hay bại thì chưa biết chắc chắn được, nhưng tôi quyết sẽ không để mình lọt vào tay người Pháp. Tôi chỉ xin đồng chí giúp cho một điều là hãy đem tông chỉ của đảng tôi công bố ra ngoài để người Pháp khỏi hiểu lầm mà giết chóc bừa bãi. Được thế thì may mắn lắm! Vào ngày 19 tháng 6, lúc 8 giờ tối, ông tìm cách lẻn vào được khách sạn Victoria. Chờ cho mọi người đã vào hết trong phòng tiệc, ông vừa bắn vừa ném bom. Phút chốc, máu thịt bầy nhầy lênh láng giữa đám thực khách nam nữ.
Ông cười rằng: Đại sự đã hoàn tất, ta chết được rồi! Bèn nhảy xuống sông tự tử."(14)


Cuộc bạo động vang lừng trong ngoài này, thực tế chỉ giết chết năm người Pháp, còn M. Merlin thì may mắn thoát nạn.(15) Phạm Hồng Thái đã tự tử ở sông Chu. Lúc đầu mọi người đều không biết ai đã gây ra cuộc đổ máu, sau đó, nhờ Từ Hưng Á, một bạn đồng chí của Phạm, người Triều-tiên, tiết lộ bức thư do Phạm để lại, sự việc mới được rõ ràng.(16) Tuy cái án ấy đương thời ai cũng biết là do đảng cách mạng Việt-nam gây ra, nhưng lãnh sự đoàn tại Sađiện đã đổ trách nhiệm cho chính phủ cách mạng Trung-quốc, bằng cách gửi công hàm cho Tỉnh-trưởng Quảngđông là Liệu Trọng Khải, yêu cầu nhà đương cục Quảng-châu phải trấn áp những kẻ âm mưu, nếu không, các lãnh sự sẽ thi hành quyền tài phán của họ đối với những nơi có cuộc chống đối các chính phủ ngoại quốc. Trong khi chưa đạt được những phúc đáp vừa ý, các tô giới ở Sađiện đã quyết định, kể từ ngày 01 tháng 8, sau 9 giờ tối, người Trung-quốc muốn vào Sađiện, phải mang theo giấy thông hành có dán ảnh. Sự việc này đã đưa đến cuộc bãi công của toàn thể công nhân Trung-quốc tại Sađiện, để phản kháng hành động nhục mạ của các lãnh sự đối với Trung-quốc. Cuộc bãi công đã kéo dài đến 36 ngày. Cuối cùng, các lãnh sự quán Anh và Pháp phải hủy bỏ quyết định trên thì chuyện mới êm.(17)


Phạm Hồng Thái ám sát M. Merlin tuy không thành công, nhưng đã tác động vô cùng mạnh mẽ vào tinh thần chống Pháp của người Việt.
Trong hồi kí của Nguyễn Lương Bằng, một đảng viên cộng sản kì cựu, có nói:
"Khi tiếng bom của chí sĩ Phạm Hồng Thái ném ở Sadiện đã gây chấn động rộng rãi trong các giới dư luận, thực dân Pháp phải kinh hoàng hoảng sợ, nhân dân các nước trên thế giới bắt đầu chú ý đến cách mạng Việt-nam. Nhân dân Trung-quốc đối với chúng ta đã có thêm một bước hiểu biết, do đó lại càng gia tăng ủng hộ cuộc đấu tranh chánh nghĩa của chúng ta. Sự kiện Sađiện đã cổ vũ lớn lao cho tinh thần đấu tranh cách mạng của những người Việt-nam yêu nước. Sự việc vì nước bỏ mình một cách anh hùng của liệt sĩ Phạm Hồng Thái đã khích lệ tôi vô cùng sâu xa."(18)


Sau khi Phạm Hồng Thái tự trầm ở sông Chu, "những người Quảngđông đã vì nghĩa, thu nhặt thi hài ông đem táng ởNhị-vọng-cương(e) (Quảng-châu), là ngôi mộ đầu tiên, đầu xoay về hướng Tây-Nam(19), có ý nghĩa là hướng về tổ quốc Việt-nam." Từ đó, các thanh niên nam nữ khắp nơi ở Việt-nam, đã ùn ùn kéo sang Quảng-châu để chiêm ngưỡng mộ Phạm Hồng Thái.(20) Trường võ bị Hoàng-phố cũng đáp ứng yêu cầu của người Việt, từ năm 1925 trở đi, thu nhận một cách rộng rãi các lưu học sinh Việt-nam.(21)
Hành động của Phạm Hồng Thái và tổ chức Tâm Tâm Xã của ông, vốn không có chút quan hệ gì với Hồ Chí Minh cả. Chính vào lúc sự kiện Sađiện xảy ra, ông Hồ đang ở tại Mạc-tư-khoa và đang soạn cuốn Tội Trạng Của Chế Độ Thực Dân Pháp. Lúc đó ông chỉ nghe nói "có một người Việt-nam đã ném bom tại Quảng-châu", và có thể ông đã nhận ngay ra rằng, đó phải là một "sự kiện nghiêm trọng" đối với bọn thực dân.(22) Nhân đó, ngay sau khi đến Quảng-châu, ông tức khắc thiết lập liên hệ với Tâm Tâm Xã, lấy ngay kinh nghiệm ám sát M. Merlin bất thành này để mở rộng cuộc vận động chống Pháp. Cứ theo lời ghi thuật của Trường Chinh, một người có chức phận trong đảng Cộng Sản Việt Nam sau này, thì Hồ Chí Minh đương thời đã đưa ra một kết luận rằng: "Muốn cho cách mạng thành công, điều tất yếu là phải lập nên một chính đảng lớn mạnh để tiện tổ chức và lãnh đạo quần chúng quốc nội tiến hành đấu tranh, tiến tới phát động khởi nghĩa để đoạt lấy chính quyền." Sau đó, Hồ Chí Minh đã cùng thảo luận với các nhân vật trong Tâm Tâm Xã, và đến tháng 6 năm 1925, ông bèn đem Tâm Tâm Xã đổi tên thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội.(23) Đó cũng chính là lúc Phan Bội Châu bị cảnh sát Pháp bắt.


Phan Bội Châu tự là Thị Hán, ngoại hiệu là Sào Nam Tử, tinh thông Hán học. Cụ sinh năm 1867 tại Nghệ-an (Trung-kì, Việt-nam), cùng quê vớ Hồ Chí Minh. Cụ là người có tinh thần dân tộc cao độ. Năm 1900 cụ đỗ thủ khoa kì thi Hương. Cụ liền lợi dụng uy tín này để vận động cho nền độc lập dân tộc. Năm 1903 cụ viết tập Huyết Thư, bí mật phổ biến trong nước, kêu gọi thành lập những tổ chức vũ trang để chống Pháp. Năm sau, cụ gặp được nhà chí sĩ ái quốc Tăng Bạt Hổ, khiến cho kiến thức về chính trị của cụ như mở ra một cảnh giới mới.
Cụ Tăng là người Bắc-kì. Khi Pháp xâm chiếm Việt-nam, cụ kết hợp với viên thủ lãnh quân Cờ Đen (Trung-quốc) là Lưu Vĩnh Phúc để tổ chức đội ngũ người Việt kháng cự với quân Pháp. Sau đó cụ chu du ở các nước châu Á. Đến Nhật-bản nhiều lần. Năm 1904 cụ trở về Bắc-kì, biết được Phan Bội Châu đang nỗ lực vận động cho nền độc lập dân tộc, liền cùng nhau thảo luận, và đã đi đến quyết định là tổ chức một cơ cấu phục vụ bí mật để giúp đỡ cho các thanh niên trí thức Việt-nam sang Nhật du học, đó là phong trào Đông Du. Trong ba năm đã có khoảng 200 thanh niên sang học ở Nhật.
Mùa xuân năm 1905, Phan Bội Châu đi (cùng với Tăng Bạt Hổ) sang Nhật, và đã hoàn thành tác phẩm thứ hai là Việt Nam Vong Quốc Sử. Tại Nhật-bản cụ đã từng hội kiến với nhà lãnh tụ cách mạng Trung-quốc là Tôn Trung Sơn. Cụ đã có được những ấn tượng sâu sắc về những phần tử trí thức cách mạng do Tôn tiên sinh lãnh đạo, nhưng về sự liên kết cách mạng giữa hai người thì hình như chưa có một thỏa hiệp nào. Cụ cũng đã tiếp xúc rộng rãi với các nhân sĩ Nhật-bản, từ trong triều cho đến ngoài nội. Những cuộc tiếp xúc này đã đem đến cho cụ niềm xác tín rằng, chính Nhật-Bản mới có thể đuổi được người da trắng ra khỏi châu Á; và cuộc vận động dân tộc của Việt-nam chắc chắn là có thể trông cậy vào sự chi viện của nước này. Đến mùa thu năm ấy, cụ rời Nhật-bản trở về Việt-nam, một mặt phát khởi phong trào Đông Du, một mặt mời vị hậu duệ của nhà Nguyễn là vương tử Cường Đễ làm lãnh tụ tinh thần cho phong trào.
Tháng 4 năm 1906, Phan Bội Châu lại cùng với Cường Đễ và một nhà chí sĩ ái quốc khác là Phan Chu Trinh đồng sang Nhật-bản. Trong thời gian ba vị lưu trú tại Đông-kinh để tổ chức các đoàn thể chính trị, thì một hôm họ bỗng cảm thấy thất vọng, vì thấy rõ rằng người Nhật hoàn toàn không ủng hộ Việt-nam một cách chân thật. Sau khi thấy được giã tâm của người Nhật, cụ Phan Chu Trinh nghĩ rằng, không thể theo đuổi cái chính sách "dẫn cọp này đuổi cọp khác" như thế được nữa, cho nên đã trở về Việt-nam để bắt đầu cuộc vận động cho phong trào Duy Tân. Cụ Phan Bội Châu thì vẫn lưu lại Nhật-bản, để rồi lại bị thêm một lần thất vọng nữa: Năm 1907, Nhật kí kết với Pháp một hiệp định tại Ba-lê, trong đó, Nhật đáp ứng lời yêu cầu của Pháp, cấm chỉ mọi hoạt động cách mạng của du học sinh Việt-nam tại Nhật, và trục xuất họ ra khỏi nước. Do đó, các học sinh Việt-nam phải cấp tốc rời khỏi Nhật-bản và chia nhau nhóm thì sang Trung-quốc, nhóm thì sang Xiêm-la. Phan Bội Châu cũng đi Xiêm-la; còn Cường Đễ thì đi Hương-cảng. Sau khi cách mạng Trung-quốc thành công năm 1911, cụ Phan Bội Châu và Cường Đễ cùng đến Quảng-châu để hưng khởi lại cuộc vận động cách mạng. Năm 1912, cụ thành lập Việt Nam Quang Phục Hội. Lấy theo phương châm của cách mạng Trung-quốc, cụ tuyên bố, mục đích tối hậu của cụ là xây dựng thể chế "dân chủ cộng hòa" cho Việt-nam. Năm 1913, Viên Thế Khải dùng vũ lực đánh phá thế lực dân chủ của Tôn Trung Sơn, vây cánh của Viên là Long Tế Quang chiếm cứ Quảng-châu. Lúc đó, viên Toàn-quyền Đôngđương là Albert Sarraut liền thương lượng với Long Tế Quang bắt giam Phan Bội Châu và các đồng chí của cụ. Vì ham của hối lộ, Long đã cấu kết với người Pháp và hứa sẽ dẫn độ Phan Bội Châu giao cho Pháp. Nhưng chiến cuộc lại xảy ra giữa cách mạng Trung-quốc và Viên Thế Khải, kết quả, Viên thất bại, Tôn Trung Sơn trở lại Quảng-châu, và năm 1917, tiên sinh đã cho trả tự do cho cụ Phan và các đồng chí.(24)
Cụ Phan Bội Châu lãnh đạo cuộc vận động dân tộc Việt-nam, có liên quan mật thiết với hoàn cảnh cách mạng của Tôn Trung Sơn. Đầu năm 1924, Tôn Trung Sơn cải tổ Trung Quốc Quốc Dân Đảng để chấn chỉnh lại trận doanh cách mạng, thì cụ Phan cũng cải tổ Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, đặt tổng chi bộ tại Quảng-châu, cùng sánh vai với cuộc cách mạng của quốc dân Trung-quốc.(25) Cán bộ nòng cốt của tổ chức tại Trung-quốc lúc bấy giờ có Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Thượng Thuật, Đặng Sư Mặc v.v..., tỏ rõ cái khí thế sôi động một thời.(26)
Hồ Chí Minh, thuở nhỏ ở quê hương Nghệ-an, vì thân phụ ông là cụ Nguyễn Sinh Sắc có quen biết qua lại với cụ Phan Bội Châu, nên ông rất được cụ Phan thương mến. Cụ Phan đã từng khuyến khích ông tham gia phong trào Đông Du, nhưng ông từ chối(g). Lần này ông đến Quảng-châu và xuất hiện dưới chiêu bài chủ nghĩa dân tộc, nên đã thường tiếp xúc với cụ Phan. Hai bên thường đàm luận về sự tiến triển của tình thế Việt-nam, cũng như bàn thảo về những kế hoạch mới cho Việt Nam Quốc Dân Đảng.(27)
Nhưng việc bất hạnh đã đột ngột xảy ra: tháng 6 năm 1925, cụ Phan bị cảnh sát Pháp bắt ở Thượng-hải, ngay tại tô giới Pháp. Theo lời ghi thuật của nhà học giả Việt-nam Hoàng Văn Chí thì cụ Phan bị bắt là vì ông Hồ đã bán cụ cho Pháp để lấy một số tiền là mười vạn đồng (tiền Việt-nam). Tin tức này, trước tiên là do các đồ đệ của cụ Phan thu lượm được, sau đó thì lan truyền trong khắp các lực lượng cách mạng Việt-nam tại Trung-quốc. Sự việc này, về sau đã được tay chân của Hồ giải thích rằng, cụ Phan đã già rồi, không còn thích hợp với cách mạng nữa; mặt khác, việc cụ Phan bị bắt chắc chắn sẽ khích động mạnh mẽ tinh thần yêu nước của người Việt; mặt khác nữa, số tiền nhận được của Pháp, có thể dùng để nuôi dưỡng các lực lượng mới. Sau này tìm hiểu thêm thì biết được rằng, ông Lam Đức Thủ (tên thật là Nguyễn Công Viện)(h), người đại diện cho cụ Phan tại Hương-cảng, đã hợp tác với ông Hồ trong việc bán cụ Phan cho Pháp. Sự việc xong, hai người chia đôi số tiền mười vạn đồng. Ông Hồ đã dùng phần tiền của ông để tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội; còn Lam thì dùng tiền đó để tiêu phí trong các hộp đêm tại Hương-cảng. Và từ đó Hồ, Lam hai người tiếp tục hợp tác trong nhiều năm nữa để bán các đồng chí của cụ Phan. Nguyên vì lúc bấy giờ, các thanh niêm Việt-nam trốn sang Quảng-châu để xin vào học trường võ bị Hoàng-phố rất đông. Những ai chịu theo Hồ gia nhập Đồng Chí Hội, thì sau khi học xong, sẽ được bảo đảm bí mật trở về nước an toàn; còn những ai vẫn trung thành với tổ chức của cụ Phan, khi về đến biên giới Hoa-Việt, tức thì bị mật thám Pháp bắt ngay. Những người này sở dĩ bị bắt, vì trước đó Hồ đã báo cho Lam ở Hương-cảng biết, Lam đem ảnh của họ nộp cho lãnh sự Pháp ở Hương-cảng. Sau khi họ bị bắt, Hồ và Lam lại được chia nhau tiền thưởng. Trong tình hình đó, tổng chi bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Quảng-châu dần dần mất liên lạc với quốc nội. Kết quả là, các thanh niên Việt-nam tốt nghiệp trường võ bị Hoàng-phố mà không gia nhập tổ chức của Hồ, đều không dám về nước, và chỉ còn có cách là gia nhập vào đoàn quân cách mạng Dân-quốc của Trung-quốc, khiến cho Việt Nam Quốc Dân Đảng ở quốc nội phải dần dần tan rã, và đảng Cộng Sản thì cứ mạnh lên dần.(28)


Sau khi bị bắt, cụ Phan đã bị nhà đương cuộc Pháp-Việt kết án tử hình, làm cho người Việt-nam vô cùng công phẫn. Toàn quốc rầm rộ tổ chức các đoàn biểu tình, đòi lập tức trả tự do cho cụ Phan. Người Pháp, cuối cùng phải bỏ án tử hình.(29) Nhưng cụ vẫn bị quản chế ở tại Huế, cho đến ngày 20.12.1940 thì cụ qua đời(i).(30)
Sự kiện cụ Phan bị bắt đã làm cho làn sóng kháng Pháp của người Việt-nam vùng dậy mãnh liệt, nhưng đồng thời cũng khiến cuộc vận động cho chủ nghĩa dân tộc Việt-nam mất đi cái trung tâm lãnh đạo; lại đúng vào cơ hội để Hồ "thừa nước đục thả câu", như hồi kí của nhân vật cộng sản Nguyễn Lương Bằng:
"Khi tôi rời Việt-nam đến Quảng-châu thì cụ Phan Bội Châu đã bị bắt rồi. Tôi nghĩ, những người có bản lĩnh như cụ, rồi sẽ bị kẻ địch bắt dần cho đến hết. Nếu thế thì cuối cùng sẽ còn ai đâu để đảm đương quốc gia đại sự! Sau đó không lâu, tôi gặp được một người bạn Hoa kiều từng quen biết ở Việt-nam, ông Cẩm Thuận (nhân viên Trung-cộng)..... Do ông bạn này giới thiệu, tôi được làm quen với đồng chí Lão Ích (tức đồng chí Hồ Tùng Mậu) trong tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội..... Sau đó, đồng chí Lão Ích lại giới thiệu tôi với đồng chí Lão Vương. Mãi về sau này tôi mới biết được rằng Lão Vương chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc."(31)


Từ đoạn hồi kí trên của Nguyễn Lương Bằng, chúng ta có thể hiểu được cái tâm lí bàng hoàng của người Việt đương thời sau khi cụ Phan Bội Châu bị bắt, cũng như sự việc ông Hồ ngụy trang và thừa kẽ hở để xâm nhập vào cuộc diện cách mạng lúc bấy giờ. Thuở ấy tại Quảng-châu ông Hồ đã không dùng tên họ của ông lúc ở Ba-lê và Mạc-tư-khoa -- là Nguyễn Ái Quốc. Đối với Trung-quốc, ông xưng ông là Lí Thụy; đối với người Việt, ông xưng ông là Vương Sơn Nhi, hay Lão Vương. Thật ra, "Vương Sơn Nhi" tức là chiết tự của chữ "Thụy".(32) Theo các văn kiện của Trung-quốc đương thời, ông lại còn có tên là Vương Đạt Nhân.(33) Nhưng đối với Mạc-tư-khoa, ông vẫn tên là Nguyễn Ái Quốc.(34) Chức vụ công khai của ông ở Quảng-châu lúc đó là thông dịch viên của viên cố vấn Nga, ông Michael Borodin, bên cạnh Trung Quốc Quốc Dân Đảng; nhưng vai trò thực sự của ông là nhân viên của Mạc-tư-khoa phụ trách về Viễn Đông, sang Trung-quốc để hoạt động với danh nghĩa chủ nghĩa dân tộc Việt-nam. (35) Đó là thời kì Trung Quốc Quốc Dân Đảng đang chủ trương "giao hảo với Nga-sô và dung hợp với cộng sản", cho nên các đảng viên Trung-cộng hoạt động tại Quảng-châu, vừa là bí mật mà cũng vừa là công khai. Và ông Hồ xuất lộ thân phận mình ở Quảng-châu cũng cùng tính cách như vậy; theo đó, việc vận động cho chủ nghĩa dân tộc, chẳng qua chỉ là loại hoạt động ở mặt công khai của ông mà thôi.


Hồ Chí Minh dùng chiêu bài chủ nghĩa dân tộc để chính thức tiếp xúc với Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Trong thời gian Trung Quốc Quốc Dân Đảng tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc kì 2 tại Quảng-châu vào tháng 1.1926, với cái tên giả Lí Thụy, và tự xưng là một người Việt-nam lưu vong, ông đã gửi văn thư xin tham dự đại hội để được trần tình về hiện trạng đau khổ của Việt-nam và xin đại hội nghiên cứu giúp đỡ, đúng theo phương châm đã đề ra là giúp giải phóng các dân tộc bị áp bức. Nguyên văn bức thư như sau:
"Kính thưa Quí Đồng Chí Chủ Tịch Đoàn Đại hội Đại biểu Toàn quốc Trung Quốc Quốc Dân Đảng kì 2! Tôi là một người Việt-nam lưu vong, bôn ba tới đây, may mắn được gặp lúc Quí Đảng tổ chức đại hội nhằm nêu rõ phương châm trợ giúp công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Tôi vô cùng vui mừng. Nhưng, "muốn cho thuốc trước phải biết bệnh", cho nên, xin Quí Đảng, trước hết cho tôi được đến trình bày hiện trạng đau khổ của nước tôi, ngỏ hầu Quí Đảng có thể giúp tôi nghiên cứu tìm phương pháp. Thật là may mắn cho nước tôi! Thật là may mắn cho cách mạng! Kính chúc, cách mạng Trung-quốc muôn năm!


Rất mong nhận được phúc đáp của Quí Vị. Trung Quốc Quốc Dân Đảng muôn năm! Lí Thụy. Nơi thông tin: Công quán Borodin, nhờ ông Trương Xuân Mộc chuyển. Trung-hoa Dân-quốc năm thứ 15, ngày 6 tháng 1."(36)
Văn thư của ông đã được Đàm Bình Sơn phê chú: "Khi thảo luận đến đề án dân tộc thì mời người này phát biểu." Đồng thời, cứ theo địa chỉ liên lạc ghi trong văn thư thì có thể thấy rõ giữa Hồ Chí Minh - Borodin với Trung-cộng, đã có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Ngày 14 tháng 1, Hồ lại dùng một tên giả mới là "Vương Đạt Nhân" để trần tình trước đại hội.
Ngoài đề tài "Những thống khổ dân tộc An-nam đang chịu đựng", Hồ còn đặc biệt nhấn mạnh đến mối quan hệ về lịch sử, văn hóa và cách mạng giữa hai dân tộc Trung-quốc và Việt-nam. Ngày hôm ấy, phát biểu trước đại hội, còn có các "đồng chí"Triều-tiên và „n độ. Hồ phát biểu bằng tiếng Pháp, có Lí Phú Xuân thông dịch.(37) Lí là một nhân viên Trung-cộng từng du học tại Pháp; cho nên, có thể là hai người đã quen biết nhau hồi còn ở Pháp. Và từ sau đại hội này thì Lí và Hồ càng thân cận nhau hơn.(38)


Ông Hồ tiếp xúc vối Trung Quốc Quốc Dân Đảng, hiển nhiên cũng giống như kế hoạch của Trung-cộng, là cố nắm trong tay cuộc vận động chủ nghĩa dân tộc. Nhân đó, một mặt ông dùng Đồng Chí Hội làm cơ sở để thu hút các thanh niên Việt-nam; mặt khác, ông phát triển tổ chức của ông dưới sự trợ giúp của Trung-cộng.
Cơ sở Đồng Chí Hội nguyên là Tâm Tâm Xã, do một bộ phận của Việt Nam Quốc Dân Đảng lưu vong tại Trung-quốc tổ chức nên. Các thành viên cơ bản, ngoài Phạm Hồng Thái ra, còn có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Tán Anh v.v...(39) Sau khi xâm nhập vào tổ chức này, Hồ Chí Minh liền sắp xếp cho Hồ Tùng Mậu gia nhập đảng Cộng Sản Trung Quốc, có nhiệm vụ giữ vững mối quan hệ với Trung-cộng.(40) Bản thân Hồ cũng nhận công tác do Trung-cộng giao cho.(41) Lê Hồng Phong, sau này được Hồ giới thiệu sang Mạc-tư-khoa học quân sự, rồi chuyển vào trường đại học Lao Động Đông Phương; năm 1935 tham dự đại hội thế giới lần thứ bảy của cộng sản quốc tế, được chọn làm ủy viên dự khuyết ban chấp hành quốc tế và phái về Việt-nam để lãnh đạo Việt-cộng.(42)

 Những người trên đây đều là những nhân vật có trách nhiệm trong Đồng Chí Hội đương thời tại Quảng-châu, và là những cánh tay đắc lực của Hồ Chí Minh. Trụ sở của Đồng Chí Hội được đặt tại số 13, đường Văn-minh, Quảng-châu, -- cũng tức là nơi cư trú của Hồ. Cơ cấu huấn luyện của Đồng Chí Hội là ban huấn luyện chính trị đặc biệt. Đối diện với Đồng Chí Hội là Tổng Hội Nông Dân Trung Quốc, tức là kí túc xá của các học viên học tập về kế hoạch vận động nông dân của Trung-cộng do Mao Trạch Đông chủ trì. Các thành viên trong ban huấn luyện chính trị đặc biệt của Hồ đều ăn cơm tại đây, một phần các sở phí là do Trung-cộng đài thọ.(43) Hồ cũng đảm nhiệm công việc phiên dịch các tài liệu nội bộ cho cơ sở giảng dạy vận động nông dân (do một kí giả báo Anh ngữ viết, liên quan đến vấn đề vận động công nông), cùng công tác tuyên truyền đối ngoại.(44)


Để phát triển Đồng Chí Hội, Hồ Chí Minh phải dựa vào sự trợ giúp của Trung-cộng để thu hút các thanh niên Việt-nam có nhiệt huyết, nhất là các nhân viên hàng hải. Chức vụ của những nhân viên này thật là tiện lợi để đảm trách các nhiệm vụ đi lại và xâm nhập lén lút vào Việt-nam để hoạt động. Trong khi đó, tại Quảng-châu, ông thu nạp các thanh niên Việt-nam lưu vong và huấn luyện họ trong thời gian sáu tháng. Khoảng cuối năm 1925, ông đã tuyển chọn được một số nhân viên ưu tú làm ủy viên trung ương lãnh đạo Đồng Chí Hội, số còn lại được phái về Việt-nam hoạt động. Họ tổ chức thành những tiểu tổ bí mật, tuyên truyền và tuyển mộ các phần tử mới để lén đưa họ sang Quảng-châu thụ huấn.(45)
Cái quá trình mà Trung-cộng đã giúp Hồ kết nạp người Việt vào tổ chức, theo hồi kí của một nhân vật đương thời, đầu tiên là do sự tiếp xúc trong các sinh hoạt hàng ngày mà tìm hiểu nhau, rồi lợi dụng sự kiện Phạm Hồng Thái để khích động lòng hận thù đối với người Pháp và khơi dậy ý thức chính trị, sau đó đem giới thiệu cho Hồ Tùng Mậu, cuối cùng cho gặp Hồ Chí Minh để nói chuyện, khảo sát, huấn luyện, và cho gia nhập làm hội viên Đồng Chí Hội. Sau đây là lời thuật lại của một hội viên Đồng Chí Hội:


"Tôi gặp Cẩm Thuận, một người bạn Hoa kiều vốn đã quen biết khi còn ở Việt-nam. Ông ta nói tiếng Việt vô cùng lưu loát. (Về sau tôi mới biết ông vốn là hội viên của hội Công Nhân Hàng Hải do Trung-cộng lãnh đạo.) Qua những tiếp xúc trong sinh hoạt hàng ngày, ông ta biết rõ lòng tôi rất căm hận người Pháp, cho nên đã mau chóng đối xử với tôi hết sức thân mật..... Một hôm, ông ta hẹn tôi đến Hoàng-hoa-cương để viếng mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái, hi vọng rằng cái ý niệm về hoạt động cách mạng sẽ khởi dậy mạnh mẽ trong lòng tôi. Sau đó không lâu, do sự giới thiệu của Cẩm Thuận, tôi được quen biết với đồng chí Lão Ích (tức Hồ Tùng Mậu) trong Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội..... Rồi do sự quan hệ của Lão Ích, sau đó tôi lại được làm quen với đồng chí Lão Vương (tức Hồ Chí Minh)..... Đồng chí Lão Vương hỏi tôi về tuổi tác, về tình hình công tác, về các binh sĩ Việt-nam trên chiến hạm Pháp, cũng như về tình hình quốc nội..... Như chạm đúng mạch, tôi bèn đem tất cả lòng căm phẫn của mình mà tuôn ra hết. Lão Vương chăm chú lắng nghe tôi nói. Nghe tôi nói xong, ông mới nói với tôi về nhiều vấn đề, mà chủ yếu là nhấn mạnh nhiệm vụ chống Pháp, và tiến hành giáo dục tôi về tư tưởng của chủ nghĩa ái quốc."(46)


Những hội viên đã được Hồ thu nạp và huấn luyện, căn cứ vào chức nghiệp của họ mà giao phó nhiệm vụ. Điều đó rất tiện lợi. Tại các bến cảng thì đặt giao liên; trên các tàu bè thì đặt tuyến giao thông. Một mặt thì xâm nhập vào nội địa Việt-nam; một mặt thì tiếp đón các thanh niên đào thoát. Đến Quảng-châu thụ huấn, các thanh niên này, trước hết được các tiếp viên của "Tỉnh Cảng Bãi Công Úy Viên Hội" tại Quảng-châu tiếp đón, sau đó thì được đưa sang cho Hồ và các nhân viên phụ trách của Đồng Chí Hội để khảo sát. Loại hoạt động này đã được thực hiện tích cực nhất trong năm 1926. Một người Việt đương thời đã kể lại:


"Khoảng tháng 7 năm 1926, tại Sài-gòn, tôi gặp hai đồng chí vừa từ Quảng-châu trở về là Phạm Trọng Bình và Lão Lợi. Họ kể cho tôi nghe về hành trình của họ..... Vào một đêm tháng 9, chúng tôi mặc trang phục công nhân, đến tàu Đại Phúc Tinh (chạy bằng hơi nước) đậu tại bến Khánh-hội. Các thủy thủ trên tàu đang đợi chúng tôi..... Khi đến Quảng-châu, chúng tôi được đưa đến một nơi có nhiều công nhân..... Đó là những người đình công ở Hương-cảng. Chính quyền tỉnh Quảngđông đã đưa họ đến đây để học tập..... Về sau có một, hai đồng chí đến tìm chúng tôi để hỏi thăm về tình hình quốc nội. Có thể là họ lấy cớ hỏi thăm để dò xét chúng tôi chăng?"(47)


Sau cuộc khảo sát của nhân viên ông Hồ, đương sự sẽ được xử lí một trong hai trường hợp, hoặc là được chấp thuận cho gia nhập ngay vào Đồng Chí Hội, rồi sau sẽ tham dự khóa huấn luyện chính trị đặc biệt; hoặc là sau khi đã hoàn tất chương trình huấn luyện rồi mới được cho gia nhập Đồng Chí Hội. Trường hợp trước, như nhân viên hàng hải Nguyễn Lương Bằng chẳng hạn, là qua sự giới thiệu của Trung-cộng;(48) còn trường hợp sau đại đa số là áp dụng cho các thanh niên đến trực tiếp từ Việt-nam.(49) Cho nên, Đồng Chí Hội và ban huấn luyện chính trị đặc biệt chính là hai mặt của một bản thể. Những nhân vật lãnh đạo của hai bên cũng không phân biệt rạch ròi. Theo như một người thụ huấn thuật lại thì đặc trưng của những nhân vật này như sau:


Hồ Chí Minh, mọi người đều gọi là đồng chí Vương, mỗi ngày đều mặc bộ quần áo trung-sơn(k), không bao giờ thay đổi. Ông người dong dỏng, trán rất rộng, mắt sáng, nói năng thong thả và ôn nhu, tính cách rất lạc quan, nhưng rất ít khi cười. Trong ban huấn luyện, ông giảng dạy nhiều nhất. Ông giảng rất dễ hiểu. Bất kì con số nào ông cũng nhớ rất rõ ràng; cho nên, những giáo viên khác, con số nào không nhớ thì cứ hỏi ông. Cái hay của ông là chỉ dùng một vài con số cụ thể là có thể thuyết giải những vấn đề phức tạp; do đó, các học viên đều có thể hiểu vấn đề một cách dễ dàng.(50)
Hồ Tùng Mậu, thường mặc quần áo kiểu học sinh Trung-quốc, khoảng ngoài 30 tuổi, mắt sáng, lưỡng quyền cao, tính cách hoạt bát, thông minh, nói năng lưu loát, hùng biện, thường gọi là Lão Lương,(51) cũng gọi là Lão Ích.(52) Trong ban huấn luyện, ông là người trực tiếp chỉ đạo việc học tập và giải đáp các thắc mắc cho học viên.(53)
Lão Hoài, khoảng 20 tuổi, chuyên học về trang điểm, dáng vẻ lanh lợi, hoạt bát, cùng nhiệm vụ với Lão Lương trong ban huấn luyện, là trực tiếp chỉ đạo việc học tập và giải đáp các thắc mắc cho học viên.(54)
Lão Trương, mặt mũi đầy đặn, thường mang kính, người béo mập, thích mặc Âu phục, điều hành tổng quát mọi việc trong ban huấn luyện.(55)


Chương trình của ban huấn luyện chính trị đặc biệt gồm hai phần: lí luận và thực dụng. Phần lí luận gồm các môn: lịch sử tiến hóa của nhân loại -- mà chủ yếu là học về giai đoạn phát triển từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa đế quốc; lịch sử các cuộc vận động giải phóng của các nước, như Trung-quốc, Triều-tiên, „n độ, và lịch sử nước Việt-nam bị xâm lược; các chủ nghĩa như chủ nghĩa Gandhi, chủ nghĩa tam dân (học tập phê phán), chủ nghĩa Mác-Lê và cách mạng Nga. Về phần thực dụng có lịch sử và phương pháp của các tổ chức quốc tế -- trong đó có đệ nhất, đệ nhị và đệ tam quốc tế, liên hiệp phụ nữ quốc tế, liên hiệp thanh niên quốc tế, hội cứu tế đỏ, hiệp hội nông dân quốc tế v.v...; công tác phát động và tổ chức quần chúng, như phát động công nhân, nông dân, thanh niên, học sinh v.v... và tổ chức các đoàn thể công nhân -- trong đó có phần diễn tập công tác phát động quần chúng cùng học tập về tuyên truyền và xử lí các đại hội quần chúng như thế nào. Mỗi tuần, các tiểu tổ đều phải "báo cáo học tập", lại phải làm bích báo, rồi phải phê bình và tự phê bình.(56) Tập sách Đường Cách Mạng của Hồ Chí Minh cũng là một trong những tài liệu huấn luyện.(57)


Công tác phát động và tổ chức quần chúng, thật ra là một môn huấn luyện về kĩ thuật đấu tranh cách mạng, do chính Hồ Chí Minh chủ trì. Ông dạy cho học viên các cách thức làm truyền đơn, điều khiển đại hội quần chúng, xúi giục bãi công v.v...(58) -- vừa học lí thuyết và vừa thực tập. Trong buổi diễn tập, một học viên làm người tuyên truyền, những người khác làm thính chúng; thính chúng có thể nêu ra những vấn đề và yêu cầu người tuyên truyền giải đáp. Sau đó, mọi người cùng ngồi lại để rút tỉa kinh nghiệm và cho ý kiến bổ túc. Đến như cách làm thế nào tiếp cận với quần chúng để tiến tới việc phát động và tổ chức quần chúng, thì ông Hồ bảo họ phải giữ thái độ nhất trí với quần chúng; nếu không thì thật khó mà gần gũi quần chúng.(59) Cách tốt nhất để tiếp cận quần chúng là đi tìm những bạn bè thân thích thật gần gũi với mình, và khi tuyên truyền với họ thì: "Dù với vấn đề gì, cũng phải khéo léo dẫn đến sự kiện nhân dân Việt-nam ta đang bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột." Đối với chủ điểm này, nếu được đối phương đồng tình thì sẽ tiến tới khích động: "Vậy chúng ta có thể nào cứ chịu để cho chúng đè ép mãi mãi như thế sao?" Nếu đối phương bày tỏ là "Không thể nào!" thì hãy dùng danh nghĩa của "liên nghị hội" hoặc "hỗ tế hội" để dần dần đưa họ vào tổ chức. Những phần tử tích cực, hãy thu nạp họ vào hội ngay; số còn lại sẽ từ từ thu nhận sau. Cứ tiếp tục áp dụng phương pháp này để phát triển và mở rộng tổ chức; nhưng trong khi tiến hành công tác thì phải giữ hoàn toàn bí mật. Đại khái, cách thức xâm nhập và phát triển tổ chức của Hồ Chí Minh là lấy chủ nghĩa dân tộc làm cái áo che bên ngoài, rồi lợi dụng tâm lí quần chúng mà hạ thủ. Và khi người ta đã vào tròng rồi thì mới đưa ra phương pháp cùng chủ nghĩa cộng sản. Như thế là ông Hồ đã đặt cơ sở trên luận điểm của hai giai đoạn cách mạng.


Hồ Chí Minh đã rập khuôn theo các giáo điều của cộng sản quốc tế, đem cuộc vận động cách mạng Việt-nam chia làm hai giai đoạn: giai đoạn một, dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài và thiết lập chính quyền dân chủ của giai cấp tư sản; giai đoạn hai, thực sự đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhân đó, báo Thanh Niên do Đồng Chí Hội phát hành cũng chỉ là tiếng nói của "giai đoạn một". Nó không hề nói đến chủ nghĩa Mác-Lê một cách trực tiếp, mà các luận đề đều thảo luận trước tiên về chủ nghĩa dân tộc, rồi khéo léo xen vào một vài giáo điều cơ bản cùng quan điểm của Lênin, để chuẩn bị chuyển hướng đến "giai đoạn hai". Nhưng trong tác phẩm Đường Cách Mạng, dùng làm tài liệu học tập cho cán bộ, ông Hồ đã công khai nói rõ về chủ nghĩa Mác-Lê, đặc biệt nhấn mạnh đến ba quan điểm cơ bản:

"1. Nhiệm vụ của cách mạng không phải vì một thiểu số người nào mà chính vì quảng đại giai cấp công nhân và quần chúng nông dân, do đó, cần phải tổ chức quần chúng. 2. Cách mạng tất yếu phải chịu sự chỉ huy của chủ nghĩa Mác-Lê. 3. Cuộc vận động cách mạng ở trong mỗi quốc gia phải được kết hợp chặt chẽ với giai cấp vô sản quốc tế, công nhân và quần chúng nông dân phải phân biệt rõ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế."(60)

Số người thụ huấn tại ban huấn luyện chính trị đặc biệt, mỗi khóa nhiều ít không đều, có khóa chỉ vài người, có khóa đông đến vài chục người. Thời gian huấn luyện cũng dài ngắn khác nhau, tối thiểu là khoảng 6 tháng.(61) Nhưng trong khoảng từ 1926 đến 1927 thì thời gian này chỉ vào khoảng 3 hay 4 tháng. Sau khi hoàn tất huấn luyện, các học viên phải tuyên thệ gia nhập Đồng Chí Hội. Địa điển tuyên thệ là trước mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Trong lời thề có câu: "Nguyện hiến thân cho tổ quốc, dù phải hi sinh tính mạng cũng không từ." Sau đó thì nhận nhiệm vụ do tổ chức giao phó. Đại đa số là trở về Việt-nam công tác, một số ít được phái sang hoạt động ở Xiêm-la, hoặc một địa khu nào khác nhằm vận động các khối Việt kiều.(62) Từ hạ bán niên 1926 đến đầu năm 1927, số cán bộ được huấn luyện ít ra cũng đến 250 người, trong đó, khoảng 200 người đã được phái về Việt-nam. Vì vậy, tổ chức Đồng Chí Hội tại quốc nội đã phát triển vô cùng nhanh chóng. Tháng 5 năm 1929, khi Đồng Chí Hội tổ chức đại hội đại biểu toàn quốc tại Hương-cảng, theo thống kê của cảnh sát Pháp, số hội viên và cảm tình viên tham dự có đến một ngàn người. Đồng Chí Hội tại Việt-nam, mỗi kì đều có một ủy hội riêng: ở Bắc-kì, số hội viên công nhân chiếm đa số; ở Trung-kì và Nam-kì, hội viên gồm đủ các thành phần công nhân, giáo sư, học sinh và nông dân. Các cán bộ được huấn luyện tại Quảng-châu đều nắm các chức vụ trọng yếu trong tổ chức.(63) Đến năm 1930, Đồng Chí Hội mới được đổi thành đảng Cộng Sản Việt Nam.


Hầu như đa số những cán bộ xuất thân từ các khóa huấn luyện chính trị đặc biệt đều chấp hành công tác ở hạ tầng cơ sở; còn những cán bộ lãnh đạo cao cấp hoặc các nhân vật trọng yếu thì không phải xuất thân từ các khóa huấn luyện này. Trần Phú, bí-thư Việt-cộng năm 1930 chẳng hạn, đã xuất thân từ trường võ bị Hoàng-phố rồi được đào luyện tiếp ở Mạc-tư-khoa.(64) Đương nhiệm(l) phó-chủ-tịch kiêm thủ-tướng Bắc-Việt, ông Phạm Văn Đồng, cũng xuất thân từ trường võ bị Hoàng-phố.(65) Theo lời thuật lại của viên cố vấn Nga tại Quảng-châu, ông Alexander Ivanovich Cherepanov, Hồ Chí Minh giữ được đường dây liên lạc với các học sinh Việt-nam tại trường võ bị Hoàng-phố là nhờ xuyên qua sự quan hệ của Trung-cộng.(66) Lê Hồng Phong, người lãnh đạo Việt-cộng từ 1935 đến 1939, nguyên là một nhân viên cơ bản của Đồng Chí Hội, được sang Mạc-tư-khoa học về không quân, sau lại được chuyển vào trường đại học Lao Động Đông Phương.(67) Các nhân viên trong ban huấn luyện chính trị đặc biệt đương thời, đối với lí lịch thật của Hồ Chí Minh, cũng không biết rõ. Họ chỉ biết gọi ông là đồng chí Lão Vương. Họ cũng không hề biết ông chính là Nguyễn Ái Quốc.(68) Điều đó cho thấy, những người được ông huấn luyện và gia nhập Đồng Chí Hội, chỉ được coi là những phần tử ngoại vi mà thôi.
----------- Chú thích:
01. Hồ Chí Minh, Ngã Dữ Trung Cộng: "Từ 1924 đến 1927, tôi (Hồ tự xưng) đến Quảng-châu." (Bán nguyệt san Triển Vọng, số 183, trích dịch từ báo Nhân Dân, Bắc-Việt, số ra ngày 1.7.1961, nguyên tựa đề là "Cách Mạng Trung Quốc và Cách Mạng Việt Nam". Hương-cảng, 16.9.1969). Fall, trang 93, nói rằng Hồ Chí Minh đi Quảng-châu tháng 12 năm 1924.
02. Hoàng Văn Chí, trang 46; Ellen J. Hammer, trang 80.
03. Hoàng Văn Chí, trang 42-43.
04. Bản thống kê sỉ số học sinh kì thứ tư trong bản thảo lịch sử trường võ bị Hoàng-phố.
05. "Báo Cáo Chính Trị" của Hồ Chí Minh, đọc trong đại hội đại biểu toàn quốc kì 2 của đảng Lao Động Việt Nam, tháng 2 năm 1951. Xem Tuyển Tập Hồ Chí Minh, quyển 2, trang 133.
06. Ellen J. Hammer, trang 77.
07. Trường Chinh, trang 60 (chú thích số 14).
08. Nguyễn Văn Cang, Việt Nam Độc Lập Vận Động Nhất Lãm, trang 18.
09. Trần Hoài Nam, Cuộc Đấu Tranh Giải Phóng Của Nhân Dân Việt Nam, trang 7. Bắc-kinh: Thế Giới Tri Thức Xã xuất bản, 1954.
10. Hồ Yểm: tức Hồ Nghị Sinh, đảng viên Trung Quốc Cách Mạng Đảng, từng kề cận với Tôn Trung Sơn nhiều năm.
11. Phiên-ngu Hồ Yểm soạn, An Nam Phạm Liệt Sĩ Mộ Kí, ngày 1.1 năm Dân-quốc thứ 14 (1925) (bản rập lưu trữ tại Đảng Sử Hội). "Ba kì" tức Bắc, Trung và Nam-kì của Việt-nam. Bắc-kì tức Đông-kinh; Trung-kì tức An-nam; Nam-kì tức Giao-chỉ-chi-na.
12. Trường Chinh, trang 7 (chú thích số 1).
13. Tổ chức Tâm Xã của cách mạng Trung-quốc là do Lưu Tư Phục sáng lập. Lưu là người huyện Hương-sơn (nay là Trung-sơn), tỉnh Quảngđông, sớm gia nhập Trung Quốc Đồng Minh Hội, đảm nhiệm việc ám sát các quan lại nhà Thanh tại Quảng-châu; có khuynh hướng về một chủ nghĩa "vô chính phủ". Trung-hoa Dân-quốc năm đầu, ông cùng với các đồng chí Mạc Kỉ Bành, Lâm Trực Miễn v.v..., tổ chức Tâm Xã tại Quảng-châu. (Xem Phùng Tự Do, Cách Mạng Dật Sử, tập 2, chương "Lưu Tư Phục, Người Sáng Lập Tâm Xã".) Lại cứ theo lời thuật của Lí Hi Bân trong Một Đoàn Ám Sát Trong Đồng Minh Hội, sau khi đoàn này được thành lập, cụ Phan Bội Châu, người của cách mạng Việt-nam, đến Quảng-châu yêu cầu đoàn này viện trợ. Tạ Anh Bá v.v... của cách mạng Trung-quốc đã đáp ứng yêu cầu trên và đồng ý đễ cụ được hoạt động tại Quảng-châu.
14. Hồ Yểm, An Nam Phạm Liệt Sĩ Mộ Kí.
15. Ellen J. Hammer, trang 77.
16. Sở Nữ, "Tình Trạng Gần Đây của Cuộc Vận Động Giải Phóng Các Dân Tộc Nhược Tiểu Trên Thế Giới" (Tuần báo Trung Quốc Quốc Dân Đảng, số 39, 21 tháng 9 năm Dân-quốc thứ 13 - 1924, Quảng-châu). -- Sở Nữ, họ Tiêu, một phần tử Trung-cộng.
17. C. Martin Wilbur, Forging the Weapons: Sun Yat-sen and the Kuomintang in Canton, 1924, trang 42-43, (Columbia University, New York, 1966).
18. Hồ Thư, trang 48-49.
19. Hồ Yểm, An Nam Phạm Liệt Sĩ Mộ Kí.
20. Ellen J. Hammer, trang 77.
21. Úy Ban Chấp Hành Trung Ương Việt Nam Quốc Dân Đảng, báo cáo của Bộ Chấp Hành Hải Ngoại, 20.1.1945 (Trùng-khánh, nguyên kiện).
22. Tuyển Tập Hồ Chí Minh, quyển 1, trang 210.
23. Trường Chinh, trang 7.
24. Joseph Buttinger, Vietnam: A Political History, trang 155-158 (Frederick A.
Praeger, 1968).
25. Úy Ban Chấp Hành Trung Ương Việt Nam Quốc Dân Đảng, báo cáo của Bộ Chấp Hành Hải Ngoại, 20.1.1945.
26. Bộ Hải Ngoại Trung Ương Trung Quốc Quốc Dân Đảng soạn, Sơ Lược Lịch Sử Đảng Phái Cách Mạng Việt Nam (bản thảo chưa in, ngày 6 tháng 5 năm Dân-quốc thứ 32, Trùng-khánh).
27. Charles B. McLane, trang 109 -- Dẫn hồi kí của Phan Bội Châu.
28. Hoàng Văn Chí, trang 18-19, cho rằng, cụ Phan Bội Châu tuy biết Hồ là người cộng sản nhưng vẫn không coi ông ta là một địch thủ chính trị của mình. Cụ được ông Hồ mời đi Thượng-hải để diễn thuyết -- mà cụ không biết đó là tô giới của Pháp. Khi đến Thượng-hải, cụ bị cảnh sát Pháp bắt ngay. Theo J. Buttinger, Vietnam, trang 159, cụ Phan bị bắt là do sự sắp đặt của ông Hồ và một người khác nữa. Tháng 6 năm 1925, một buổi sáng nọ tại Thượng-hải, cụ Phan nhận được giấy mời đi Quảng-châu tham dự lễ thành lập Chi Bộ Việt Nam của Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Nhược Tiểu Trên Thế Giới. Khi cụ sắp lên tàu ở Thượng-hải để đi Quảng-châu thì bị một nhóm người tập kích và lôi vào tô giới Pháp, rồi bị đưa sang Hải-phòng và giải về Hà-nội. Ông Hồ đứng ở giữa, nhận được 150.000 đồng Việt-nam. Nhưng có vài tư liệu hoài nghi thuyết này.
29. Trường Chinh, trang 7; Nghiêm Kế Tổ, Lược Sử Đảng Phái Cách Mạng Việt Nam (bản thảo chưa in, 16.8.1942, Trùng-khánh).
30. Hoàng Văn Chí, trang 21.
31. Hồ Thư, trang 49.
32. Hoàng Văn Chí, trang 42.
33. Biên bản đại hội đại biểu toàn quốc Trung Quốc Quốc Dân Đảng kì 2, này 14.1, năm Dân-quốc thứ 15, Quảng-châu (ấn bản chì). Nhưng bản thảo của biên bản trên đã ghi là "Vương Đõo Nhân".
34. Ví dụ như các bài của ông Hồ để phát biểu trước Thông tấn Quốc tế vào năm 1925: "Một Số Vấn Đề về Á Châu";
"Phương Cách Thống Trị Của Người Anh"; cũng như bài phát biểu với báo Hiệu Giác vào năm 1926 về "Lênin và Đông Phương" v.v...,đều kí tên là Nguyễn Ái Quốc. Xem Tuyển Tập Hồ Chí Minh, quyển 1.
35. Charles B. McLane, trang 109.
36. Thư của Lí Thụy gửi cho chủ tịch đoàn đại hội đại biểu toàn quốc Trung Quốc Quốc Dân Đảng kì 2, ngày 6.1 năm Dân-quốc thứ 15 (Quảng-châu, nguyên kiện).
37. Biên bản đại hội đại biểu toàn quốc Trung Quốc Quốc Dân Đảng kì 2, ngày 14.1 năm Dân-quốc thứ 15.
38. Đầu năm 1930, Hồ đến Thượng-hải, giới thiệu vợ của Lí Phú Xuân là Thái Sướng (cũng là nhân viên Trung-cộng du học tại Pháp) với các cán bộ bí mật Việt-cộng. (Hồ Thư, trang 57.)
39. Trường Chinh, trang 7.
40. J. Lacouture, trang 49.
41. Hồ Chí Minh, "Tôi và Trung Cộng" (bán nguyệt san Triển Vọng, số 183).
42. Hồ Thư, trang 118 (Nguyễn Khánh Toàn thuật).
43. Hồ Thư, trang 90-91 (Lê Mạnh Trinh thuật).
44. Hồ Chí Minh, "Tôi và Trung Cộng".
45. Ellen J, Hammer, trang 78; Hoàng Văn Chí, trang 43-44.
46. Hồ Thư, trang 49-51 (Nguyễn Lương Bằng thuật).
47. Như trên, trang 87-90.
48. -nt-, trang 91.
49. -nt-, trang 93.
50. -nt-, trang 89, 92.
51. -nt-, trang 89.
52. -nt-, trang 51.
53. -nt-, trang 92.
54. -nt-, trang 88, 92. "Lão Hoài", có thể là Nguyễn Lương Bằng.
55. -nt-, trang 89. Tâm Tâm Xã còn có Tán Anh; vậy "Lão Trương" có phải là Tán Anh chăng? Đợi khảo cứu thêm.
56. -nt-, trang 91-92.
57. -nt-, trang 51.
58. Hoàng Văn Chí, trang 43.
59. Hồ Thư, trang 91, 93.
60. -nt-, trang 52.
61. J. Lacouture, trang 48-49, trích từ The Selected Works of Ho Chi Minh, trang 53 (Hà-nội: Foreign Language Publishing House, 1961).
62. Hoàng Văn Chí, trang 43.
63. Hồ Thư, trang 92-93.
64. Ellen J. Hammer, trang 80.
65. Hồ Thư, trang 41.
66. J. Lacouture, trang 50.
67. Alexander Ivanovich Cherepanov, Notes of a Military Advisor in China, trang 120, A Draft Translation by Alexandre O. Smith, Office of Military History, HQ MAAG Taipei, 1970.
68. Hồ Thư, trang 90-91.
69. Như Nguyễn Lương Bằng tự thuật, năm 1930 ông bị bắt tại Thượng-hải thì mới biết "Lão Vương" tức là Nguyễn Ái Quốc. Xem Hồ Thư, trang 49.
----
Phụ chú của người dịch:
(a) Quảng-châu là tỉnh lị của tỉnh Quảngđông; chứ không phải là tỉnh Quảng-châu như một số sách đã ghi.
(b) Học giả Hoàng Văn Chí, trong sách Từ Thực Dân Đến Cộng Sản (bản Việt ngữ do Mạc Định dịch, Chân Trời Mới xb), nói Hồ Chí Minh sang Quảng-châu năm 1925.
(c) Vũ-Hán: tức hai thành phố Vũ-xương và Hán-khẩu thuộc tỉnh Hồ-bắc, từng là cứ địa của cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911).
(d) Sadiện (chứ không phải là Sađiện như một số sách sử Việt-nam đã ghi), là vùng ngoại ô của thành phố Quảng-châu, nằm ngay trên bờ sông Chu.
(đ) Theo Trịnh Vân Thanh, trong Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển, quyển I, mục "Hoàng Hoa Cương", thì Phạm Hồng Thái sinh năm 1895 tại làng Ngọcđiền, thuộc vùng Nghệ-Tĩnh, Trung-Việt. -- Nhưng ở quyển II, mục "Phạm Hồng Thái" thì ông lại nói là nhà chí sĩ này sinh năm 1896.
(e) Chúng tôi chưa tra cứu được địa danh "Nhị-vọng-cương". Ông Trịnh Vân Thanh, trong bộ từ điển đã dẫn trên, quyển II, mục "Phạm Hồng Thái" ghi rằng: "Thi hài của nhà cách mạng Phạm Hồng Thái được an táng tại chân đồi Bạch-vân. Năm 1925, tỉnh trưởng tỉnh Quảng-châu là Hồ Hán Dân mến phục sự hi sinh cao quí của nhà liệt sĩ Việt-nam, liền cho cải táng hài cốt của Phạm Hồng Thái vào khu Hoàng-hoa-cương....." Vậy, có thể Nhị-vọng-cương chính là đồi Bạch-vân, nơi ngôi mộ đầu tiên (nguyên tác Hoa ngữ tác giả viết là "nguyên mộ") đã được nghĩa sĩ Quảngđông chôn cất thi hài của nhà chí sĩ, trước khi được Hồ Hán Dân cho đem vào cải táng ở Hoàng-hoa-cương.
(g) Trong quyển Nhận Diện Hồ Chí Minh (nhà xb Mekong-Tỵnạn, California, 1988), hai tác giả Huy Phong và Yến Anh cho rằng, Hồ Chí Minh rất thù hận cụ Phan Bội Châu vì phong trào Đông Du và Quan Phục Hội đã bác đơn xin xuất dương của ông.
(h) Trong các tài liệu tiếng Việt đều nói tên nhân vật này là Lâm Đức Thụ (tức Nguyễn Công Viễn).
(i) Ông Trịnh Vân Thanh (từ điển đã dẫn trên) và ông Lê Văn Đức (trong Việt Nam Tự Điển, quyển hạ, Khai Trí xb) đều nói rằng cụ Phan Bội Châu mất ngày 29.10.1940. Sách Từ Thực Dân Đến Cộng Sản (đã dẫn trên) thì lại nói cụ mất ngày 20.10.1940.
(k) Quần áo trung-sơn: đó là kiểu quần áo đặc biệt do Tôn Trung Sơn mô phỏng theo bộ đồ đồng phục của thiếu sinh quân mà chế ra.
---
(l) Sách này được in lần đầu vào năm 1972 tại Đài-bắc.




HCM "Sao Y Bản Chánh"
Cách Mạng Vô Sản của TC
Cố GS Hứa Hoành


"Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó, không phải là vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyển hay không" (Tưởng Vĩnh Kính, sách Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, trang 356 - 357).


- Ít ai ngờ rằng ông Hồ từng tâm sự với cán bộ thân tín rằng "Thà để cho thực dân Pháp đô họ thêm 5, 10 năm nữa, còn hơn để các đảng phái quốc gia giành được chánh quyền một nước Việt Nam độc lập !

- "Nhằm tranh thủ quần chúng, ông (Hồ) dựng cờ chống Pháp và tranh thủ độc lập dân tộc, trong khi đó, ông lại bán rẻ và bài trừ các đảng phái chống Pháp và tranh thủ độc lập dân tộc chân chính khác ... Ông tuyệt đối cần ngoại viện, nhưng ông không muốn cá nhân hoặc đảng phái nào nhận ngoại viện. Ông cũng cần tranh thủ quần chúng, nhưng không muốn cá nhân hoặc đảng phái nào tranh thủ quần chúng ...” (Sách đã dẫn, trang 373).

- Những năm gần đây càng ngày càng có nhiều học giả khám phá thêm nhiều tài liệu lịch sử, làm sáng tỏ nhiều vấn đề từ trước tới nay ít người biết. Các sử liệu ấy đã đánh đổ nhiều huyền thoại về Hồ Chí Minh, mà đảng cộng sản của ông đã thêu dệt, bịa đặt để thần thánh hóa ông ta. Sự thật ông Hồ không có sáng kiến gì cả. Cái gọi là "sự vận dụng nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác Lê", chẳng qua là sự sao chép, cóp nhặt, vay mượn của người khác. Nếu không có cuộc cách mạng vô sản ở Trung Cộng, liệu ông Hồ có thành công ở Việt Nam hay không ?


Ông Hồ chỉ học lớp 7 trung học phổ thông. Ông chưa biết hết khái niệm thông thường của khoa học thường thức. Tuy nhiên, vì ra đời sớm, tự lập để mưu sinh bằng đủ thứ nghề : bồi tàu hạng bét, phu quét tuyết trên đường phố Luân Đôn, bồi khách sạn, thợ rửa ảnh ... ông Hồ có nhiều mưu gian mẹo vặt và thủ đoạn gian hùng. Ông sáng trí trong việc bắt chước. Ông không bao giờ nêu xuất xứ. Đó là thái độ thiếu minh bạch. 

 

Hơn 20 năm làm cán bộ tình báo, gián điệp (1924-1944), ông Hồ ăn lương, lãnh phụ cấp, giấy thông hành của Liên Xô để qua các nước Á Châu hoạt động. Liên Xô không trả tiền để ông đi “giải phóng dân tộc” Việt Nam của ông. “Ai chi tiền, người ấy chỉ huy”, đó là một định luật. Ông Hồ ăn cơm chúa phải múa tối ngày. Những từ ngữ “đi tìm đường cứu nước”, “giải phóng dân tộc” là những huyền thoại mà đảng CSVN thêu dệt, bịa đặt thêm sau nầy, để tôn ông lên hàng "cha già dân tộc". Sự thật thủy chung ông Hồ vẫn là một cán bộ cộng sản quốc tế, có nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa CS sang các nước. Ông phải ngụy trang dưới chiếc áo dân tộc, để lừa gạt mọi người. Ông tới Trung Hoa trước sau 5 lần. Mỗi lần ông ở lại một thời gian khác nhau và lấy những bí danh khác nhau, để hoạt động gián điệp trá hình, và xuất cảng chủ nghĩa CS theo lịnh của nước chi tiền. 



Ông Hồ không thiết tha gì đế, "Dộc Lập Dân Tộc" :


Những ai từng nghiên cứu về cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh cũng nhận ra một điều quan trọng : Đối với ông, không có tình yêu nước hay dân tộc. Tuy nhiên, lúc nào ông cũng ngụy trang, nép mình dưới chủ nghĩa dân tộc để truyền bá chủ nghĩa cộng sản. Đó chính là lý tưởng suốt đời của ông. Nó thôi thúc ông trong bữa ăn, trong giấc ngủ. Nó biến thành một bản năng mãnh liệt.

Vào năm 1941, từ biên giới Trung Quốc, ông lén lút về hoạt động, ngụ tại hang Pác Bó (Cao Bằng). Thấy mình chưa có địa vị và quyền hành gì trong đảng CSVN, ông đã nghĩ ra mưu sâu kế độc “tiêu diệt trung ương đảng ở tại Nam Kỳ”. Ông bí mật chỉ điểm cho Pháp hốt trọn ổ trung ương đảng ở Nam Kỳ, rồi lập ra trung ương đảng mới, cử Trường Chính làm tổng bí thư. Theo sự nghiên cứu của các học giả Trung Quốc : "Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó, không phải là "vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không ?” 


Với thực lực còn yếu kém, cho nên vào các năm 1942 - 43, ông Hồ đã nghĩ đến việc phải thương lượng bắt tay với kẻ thù chánh là Pháp. Hiệp ước sơ bộ ngày 06/03/1946 của Hồ Chí Minh và Pháp sau nầy đã manh nha từ mấy năm trước.
Khi tiếp xúc được với đại diện phái bộ Đồng minh đi tìm phi công bị bắn rơi, ông Hồ tìm cách lợi dụng họ. Ông luôn che giấu bộ mặt thật cộng sản của mình. Ông còn tuyên truyền lừa bịp rằng "Việt Minh là một sự liên minh của các đảng phái quốc gia ... ?"
Ông gấp rút lập một căn cứ địa trong rừng núi Việt Bắc để đón tiếp "phái bộ không trợ trên mặt đất của Mỹ” để xin viện trợ, xin cung cấp võ khí và huấn luyện. Đổi lại, Việt Minh có cứu được vài phi công dẫn qua biên giới, trao cho đại diện của Đồng minh. Tại căn cứ, ông Hồ tỏ ra thân thiện với phái bộ Mỹ. Ông đã dùng điện đài của một viên trung sĩ Mỹ tại căn cứ nầy để liên lạc với đại diện của phe De Gaulle tại Côn Minh để xác nhận :
- Pháp phải hứa với ông (có giấy bảo chứng) sẽ trả độc lập cho VN từ 5 tới 10 năm nữa, thì ông sẽ cộng tác với Pháp.
- Yêu cầu Pháp giúp võ khí và huấn luyện.
Cũng qua các cuộc điện đàm, Hồ Chí Minh hứa sẽ thân thiện với Tây phương, đặc biệt là Pháp và Mỹ. Đồng thời ông tố cáo đảng Đại Việt (Đại Việt Duy Tân thân Nhựt) đang chĩa mũi nhọn vào người Pháp. Ông tiếp "Việt Minh sẽ ra lịnh cho hai triệu đảng viên và dân chúng ủng hộ, hãy đem hết khả năng đề phòng cẩn mật, cùng ngăn chận kế hoạch phạm pháp nầy của đảng Đại Việt ...”. (Đối với Việt Minh, đảng Đại Việt đang chống Pháp là "phạm pháp", còn VM thì bắt tay và ủng hộ Pháp !). Xem "Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, của Tưởng Vĩnh Kính, trang 359).

"Hồ Chí Minh nói xấu và bán rẻ đảng Đại Việt, không những để tranh thủ ân sủng của người Pháp, mà còn gián tiếp phản Hoa ... " (Sách đã dẫn trang 359) ... Trong một đoạn khác cùng tài liệu đã dẫn, cho biết : "Trước ngày Nhựt đầu hàng không lâu, John (Người Mỹ trong phái bộ Đồng minh đến căn cứ của ông Hồ) đã dùng điện đài của hắn đánh đi bức điện tín sau đây giùm ông Hồ :
”Đảng Đại Việt (chống Việt Minh) đang trù tính gây cuộc khủng bố chống Pháp đại quy mô và mưu toan giá họa cho Việt Minh ..."
(Sách đã dẫn, trang 358). 


Như vậy trong thâm tâm ông Hồ chẳng thiết tha gì đến độc lập dân tộc. Đó chỉ là chiêu bãi để ông sử dụng trong giai đoạn. Ông chỉ băn khoăn lo sợ rằng các đảng phái quốc gia sẽ phỏng tay trên ông, cướp chánh quyền trước, cho nên ông sẵn sàng liên kết với kẻ thù để tiêu diệt anh em cùng chung một mục đích. Đó là mưu kế gian manh, phản trắc của ông Hồ và tập đoàn đảng CSVN. Hồ Chí Minh suốt đời chỉ ôm ấp một giấc mộng đem chủ nghĩa cộng sản du nhập vào nước ta, và biến dân tộc nầy trở thành chư hầu của Liên Xô, cho nên đi đâu và lúc nào nhìn ở đâu ông cũng thấy hình ảnh Các Mác, Lenin, Engels.... Khi về ẩn náu trong hang Pác Bó, ông đặt tên ngọn núi phía sau hang là "núi Các Mác", suối trước mặt là "Suối Lenin", còn rừng xung quanh là "rừng Engels", hoa dại ven rừng là "hoa vô sản" ... Nhìn đâu, ông cũng thấy các lãnh tụ cộng sản, các lý thuyết gia cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã thâm nhập vào đầu óc ông ta mấy mươi năm, cho nên ông đâu có màng gì đến độc lập, tự do của dân tộc ? Nước ta đang bị hai từng áp bức bốc lột của Pháp Nhựt, dân chúng nhứt là miền Bắc và Trung đang rên xiết, oằn oại dưới sự bốc lột của thực dân, ông đâu có đau khổ  ... ? Ông chỉ mượn các thảm cảnh ấy làm chiêu bài đấu tranh giai đoạn mà thôi. 

 

Ít ai ngờ rằng ông Hồ từng tâm sự với các cán bộ thân tín rằng "Thà để cho thực dân Pháp đô hộ thêm VN 5, 10 năm nữa, còn hơn để các đảng phái quốc gia giành được chánh quyền một nước Việt Nam độc lập” (Sách đã dẫn).

Nếu như không tình cờ có cuộc “chiến tranh giải phóng” ở Trung Quốc, để đưa toàn dân Trung Hoa vào quỹ đạo cộng sản, liệu ông Hồ có tìm ở đâu cái khuôn mẫu để tổ chức kháng chiến ở Việt Nam ?

Ngụy trang dưới chiêu bài quốc gia dân tộc, giấu bộ mặt thật cộng sản để lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi tiến hành cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam, giết biết bao nhiêu người vô tội cũng chỉ vì yêu nước, theo kháng chiến, lập nhiều chiến công, rồi lại bị quy chụp là "giả vờ kháng chiến, leo cao, chui sâu vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại....” Đó là cách kết tội những người đi theo kháng chiến trước khi hạ sát họ. Chiếm được phân nửa đất nước miền Bắc, ông Hồ dựng lên chiêu bài "Chống Mỹ cứu nước" (Lại bắt chước Trung Cộng "Kháng Nhựt cứu nước") để lừa bịp toàn dân vào cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, chiếm cho bằng được miền Nam, mệnh danh là "giải phóng dân tộc ?"
Chữ nghĩa đã bị cộng sản làm thay đổi ý nghĩa nguyên thủy. Nếu như không sống với cộng sản thì không thể hiểu được tâm địa và mặt mũi họ. "Giải phóng" gì mà một nước nghèo nàn lạc hậu, dân trí thấp, đời sống cơ cực ... đem quân chiếm một nước giàu có, phồn thịnh hơn mình để cướp của, cướp tài sản ... thì gọi là "giải phóng dân tộc đó ư ?" 

MẶT TRẬN VIỆT MINH (1914) VÀ "MẶT TRẬN GPMN", SAO Y BẢN CHÁNH CỦA TRUNG CỘNG :
Năm 1938, từ Liên Xô, ông Hồ trở qua Trung Quốc lần thứ 3. Tại căn cứ địa Diên An, ông Hồ gia nhập làm đảng viên của Trung Cộng do Mao Trạch Đông lãnh đạo. Rồi ông gia nhập quân đội của Mao để làm lính đánh thuê cho Mao. Muốn thấy rõ tiến trình hoạt động của ông Hồ, chúng tôi xin nhắc lại giáo điều của Cộng Sản Quốc Tế :
“Hồ Chí Minh đã rập khuôn các giáo điều của CSQT, đem cuộc vận động cách mạng VN chia làm 2 giai đoạn :
- Giai đoạn 1 : Dùng chủ nghĩa dân tộc làm chiếc áo che ngoài, và thiết lập chính quyền dân chủ của giai cấp tư sản (Chính phủ liên hiệp hồi 1946 và "chính phủ cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam VN" 1973).
- Giai đoạn 2 : thực sự đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hồi đó báo "Thanh Niên" do "Đồng chí hội" phát hành, cũng là "tiếng nói của giai đoạn 1”. Nó không hề nói đến chủ nghĩa Mác Lê một cách trực tiếp, mà các luận đề thảo luận trước tiên về chủ nghĩa dân tộc, rồi khéo léo xen vào một vài giáo điều cơ bản cùng quan điển của Lénin, để “chuẩn bị chuyển hướng đến giai đoạn 2”. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, dùng làm tài liệu học tập cho cán bộ, ông Hồ công khai nói rõ chủ nghĩa Mác Lê ... " (Sách đã dẫn, trang 96).

Nên nhớ vào năm 1935, trong kỳ Đại hội CSQT kỳ 7, đã chỉ thị cho Trung Cộng : “Phải thay đổi đường lối là sau khi Mao Trạch Đông chạy thoát cuộc bao vay của Quốc Dân Đảng, còn gọi "Vạn lý trường chinh", là phải thành lập "Mặt trận dân tộc", rồi dùng chiêu bài "Kháng Nhựt cứu nước". Tất cả các tổ chức "cứu quốc" của ông Hồ đều mô phỏng y chang tổ chức của Trung Cộng mà thôi ... ”Mặt trận dân tộc”, các tổ chức “Cứu quốc”, rồi căn cứ địa, khu giải phóng ... đều được ông Hồ bê y chang đem về VN để lập “Mặt trận Việt Minh”, và các tổ chức phụ thuộc cùng tên gọi với các tổ chức của Trung Cộng. Khi Nhựt vào VN, uy hiếp Pháp, ông Hồ lợi dụng thời cơ lập ra cái gọi là "Mặt trận Việt Minh", để xây dựng chính quyền địa phương và chuẩn bị cướp chính quyền y chang như bên Trung Cộng. 

 

Trong thời gian làm lính đánh thuê cho Trung Cộng, ông Hồ học được nhiều kinh nghiệm về tổ chức huấn luyện cho binh sĩ, tổ chức các khóa học chính trị, và lập ra các tổ chức bịp bợm, ngụy trang dưới hình thức chính nghĩa. Ngoài ra, ông Hồ cũng học kinh nghiệm cùng phương pháp xâm nhập, lũng đoạn các tổ chức khác, để phá hoại lôi cuốn người của họ về phe mình.

Có thể nói Mặt trận Việt Minh (1941-1951) rồi "Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (1960-1975) cũng như khẩu hiệu "chống Mỹ cứu nước" chính là bắt chước các tổ chức của Trung Cộng mà thôi. Sách lược của tổ chức nầy, ngoài mặt "kêu gọi đoàn kết rộng rãi các dân tộc và đảng phái”, nhưng ý đồ sâu kín của họ là phân hóa hàng ngũ những người quốc gia, tiêu diệt các đảng theo hệ phái dân tộc chủ nghĩa, đồng thời khuếch xung lực lượng của riêng CS lớn mạnh thêm. Trước khi chọn danh xưng"Mặt trận Việt Minh", ông Hồ giả bộ thảo luận để chọn lựa từng chữ : “trước cục diện mới, vấn đề đoàn kết dân tộc càng quan trọng. Chúng ta phải cân nhắc kỹ để thành lập một mặt trận mà hình thức và tên gọi sao cho tuyệt đối phù hợp với cục diện đó”. “Chữ Việt Minh” do “VN Độc lập đồng minh”). (Sách đã dẫn, trang 186). 

 
Từ đó, ông Hồ tìm sự mập mờ giữa các đảng “VN cách mạng Đồng Minh Hội” và “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội” của những người quốc gia, có trước bên Trung Hoa, để lập ra “VN độc lập Đồng Minh” tức “Việt Minh”, rồi lại định nghĩa "Việt minh là sự liên minh các đảng phái quốc gia...."

Tưởng cũng nên nhắc lại rằng "VN Cách mạng đồng minh hội" là một tổ chức hợp pháp của các đảng theo xu hướng chủ nghĩa dân tộc, của các nhà cách mạng VN sống lưu vong tại Trung Hoa năm 1942. Thực chất "Việt Minh" là CS trá hình nhằm ngụy trang để lôi cuốn mọi từng lớp nhân dân. Khi mặt trận “Việt Minh” ra đời, ông Hồ đem các tổ chức “thanh niên cứu quốc”, “phụ nữ cứu quốc”, “công nhân cứu quốc”, “nông dân cứu quốc”......(đều bắt chước Mao) làm nồng cốt, núp dưới mỹ từ chính nghĩa "cứu quốc".
Các tổ chức mệnh danh là "cứu quốc" thật ra khủng bố đồng bào trong các vùng họ chưa thiết lập được chính quyền. Các tổ chức "cứu quốc" còn tranh công với phe quốc gia đang xả thân kháng chiến, rồi tìm cách tiêu diệt người quốc gia tiểu tư sản, bằng cách vu khống, chụp mũ, rồi thủ tiêu....

Khai sinh ra "Mặt trận Việt Minh" thì ông Hồ nhằm mục đích lợi dụng danh nghĩa “VN Độc Lập Đồng Minh Hội”, để chiêu tập tổ chức quần chúng của tổ chức này, và đồng thời chiêu dụ tàn quân của phe thân Nhựt. Ông Hồ lợi dụng danh nghĩa "VN Độc Lập Đồng Minh Hội” để lôi cuốn phe thân Nhựt, cũng giống như việc ông lợi dụng danh nghĩa “Giải Phóng Đồng Minh Hội” của Trung Quốc, để lôi cuốn phe thân Hoa. Mục tiêu thật sự của ông nhằm phân hóa hàng ngũ đối phương và xây dựng thêm lực lượng riêng của ông ta. Có thể nói không lầm lẫn rằng : khi lập Mặt Trận "Việt Minh", ông Hồ muốn che giấu bộ mặt thật cộng sản của mình và tổ chức của mình. Lý do hai chữ "cộng sản" đã bị dân chúng ghét bỏ vì nó đã tàn sát dã man người Việt trong vụ "cộng sản dậy năm 1940", mà sách của cộng sản gọi "Nam Kỳ khởi nghĩa". Mặt trận "Việt Minh" là sự ngụy trang chủ nghĩa dân tộc, bắt chước tổ chức "Mặt trận dân tộc" tung khẩu hiệu "Kháng Nhựt cứu nước", thì mục đích chánh của nó không phải đánh Nhựt, mà chỉ làm tiêu hao lực lượng của chính phủ Quốc Dân Đảng, đồng thời khuếch trương lực lượng của riêng ông ta. Theo cách đó, ông Hồ lập “Mặt trận Việt Minh”, kêu gọi đoàn kết chống Pháp, nhưng mục tiêu thật sự của nó nhằm phân hóa hàng ngũ của phe quốc gia, để tiêu diệt họ. Khi mặt trận "Việt Minh" ra đời rồi, ông Hồ cũng bắt chước phương pháp của Trung Cộng để tiến hành :


- Cho cán bộ thụ huấn về chánh trị ở Tỉnh Tây làm nòng cốt.
- Củng cố và phát triển căn cứ địa.

Ông nói : "Muốn củng cố thì phải lấy huấn luyện chính trị làm cơ bản. Muốn phát triển phải tuyên truyền. Trong chế độ cộng sản, sự tuyên truyền (lừa bịp) là quốc sách hàng đầu ... Khi chính phủ lâm thời tự phong đầu tiên trong rừng Thái Nguyên, ông Hồ có lập Bộ Tuyên Truyền, giao cho Trần Huy Liệu làm Bộ Trưởng. Cách tổ chức "chiến khu" thời kháng Pháp là bắt chước phương thức của Quốc Dân Đảng Trung Hoa thời kháng Nhựt. Hai chữ "chiến khu" thời kháng chiến như có ma lực, quyến rũ nhờ cách tuyên truyền qua các bài hát thịnh hành lúc đó :
"Chiều nay nhớ chiến khu,
"Trong rừng chiều ...

Tôi chắc rằng quý vị ở tuổi cổ lai hi hôm nay, nhiều ngời còn nhớ bài hát rất được thanh niên ưa thích nầy. Chánh sách của Việt Minh gồm hai mặt : điểm và diện. Nói chỗ nầy nhằm tấn công chỗ khác. Nói thẳng mình là cộng sản, và muốn làm cách mạng vô sản thì phần đông dân chúng chán ghét, sẽ thất bại. ông phải “nói một đàng, làm một nẻo". Muốn vậy phải học tập chính trị, nhồi sọ "chính nghĩa giai đoạn" cho mọi cán bộ. Cán bộ sẽ bảo đảm thi hành đúng đường lối và chánh sách của đảng đề ra. Trong sách “Hồ Chí Minh tại Trung Quốc”, tác giả Tưởng Vĩnh Kính có nhắc tới : “Ông Hồ tỉ dụ : “Cuộc vận động cách mạng (không phải kháng chiến giải phóng đất nước như họ đã tuyên truyền), giống như thủy triều lên. Các phần tử trung kiên giống như hàng cọc đóng xuống đất cát; khi thủy triều xuống, hàng cọc nầy sẽ chận giữ đất cát lại, không để cho trôi đi” (Sách đã dẫn, trang 210). 

 

Phương pháp tuyên truyền của VC trước sau như một : trước hết dùng lời lẽ ngọt dịu để quyến rũ. Sau đó, tới giai đoạn làm áp lực, buộc thanh niên nam nữ gia nhập các tổ chức. Ai không theo bị gán tội "Việt gian" sẽ bị giết bất cứ lúc nào và tịch thu gia sản. Vì lẽ đó, thời kháng chiến chống Pháp, nhiều gia đình trung lưu phải bỏ vùng "giải phóng", để ra vùng Pháp chiếm mới bảo toàn được sinh mạng, tuy bị mang tiếng phản bội.

Hồi mới về tuyên truyền lập các căn cứ du kích tại vùng của dân tộc Nùng, Thái đâu biết gì đến “độc lập” “tự do”. Họ chỉ biết có một điều “cơm no, áo ấm", và cán bộ Việt Minh bảo họ cứ theo "Kê Hồ" tức có đủ hai thứ đó, thế thì nhiều người theo. Tuyên truyền với dân tộc thiểu số rất dễ dàng, và ông Hồ nhờ đó thành công bước đầu. 
 

Chẳng những ông Hồ nhập nhằng giữa danh xưng các tổ chức có sẵn để lợi dụng, mà ông còn xâm nhập vào các tổ chức có trước, để lũng đoạn, phá hoại. Khi ở Liễu Châu (1942 - 44), ông Hồ tìm cách gia nhập “VN Cách Mạng Đồng Minh Hội” (lập 10 - 1942) để tìm viện trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng....Tuy nhiên, ông chỉ gia nhập với tư cách cá nhân, chớ không đem cái mặt trận Việt Minh của mình theo. Về chiến thuật này, ông Hồ từng nói với cán bộ : "Ta phải lợi dụng cơ hội đó mà gia nhập "VN Cách Mạng Đồng Minh Hội” để biến tổ chức của địch làm tổ chức của ta. Ta cũng lũng đoạn tổ chức của họ, khiến nó phân hóa”. Thủ đoạn nầy được ông Hồ áp dụng triệt để trong thời chiến tranh Quốc Cộng Nam Bắc 1954 - 75. 


Sách lược của ông Hồ là bất luận phe phái nào, tổ chức nào, miễn có lợi cho quyền lợi riêng của đảng CS, thì ông không bao giờ bỏ qua. Ông lợi dụng triệt để, để tiến hành công tác riêng của đảng CS.

Vì không biết rõ tâm địa của Hồ Chí Minh, nhiều trí thức, đảng phải quốc gia chỉ trích ông ta “trước ở hải ngoại thì cùng chung tranh đấu giành độc lập, nay về nước thì phản bội". Thật sự, chủ trương của ông Hồ chỉ giả vờ “đoàn kết”, thế thôi, ông Hồ “đoàn kết cuội”, để lừa dối họ, chớ đâu có thiết tha gì đến độc lập !

Nỗi ưu tư lớn nhứt của ông hồ là làm sao nắm chính quyền hợp pháp. Cướp chính quyền tháng 8 - 1945, chỉ có giá trị bằng sức mạnh, nhưng thiếu tư cách pháp lý để quốc tế nhìn nhận. Ông cần tư cách ấy, để kết tội những kẻ chống đối bằng những tội trạng bịa đặt, vu khống rồi tiêu diệt hoặc thủ tiêu. Sau đó mượn chánh nghĩa "Kháng chiến" giành độc lập để tiến hành cuộc cách mạng vô sản, để trở thành một nước xã hội chủ nghĩa, chư hầu của Nga, Tàu. 

 
Nói tóm lại, thái độ của ông Hồ và đảng CS thay đổi như cái chong chóng : Khi thân Hoa, khi thân Mỹ, khi thân Pháp ... có lúc lại biến tất cả thành kẻ thù. Lại có khi "liên hiệp" với các đảng quốc gia, nhứt cử nhứt động của ông ta, đều là những cử chỉ, thái độ giả trá. Mục đích của ông là làm sao cho Việt Minh cướp được chánh quyền. Khi có danh chánh ngôn thuận, tư cách chánh phủ hợp pháp, ông Hồ liền loại tất cả những ai không ở trong tổ chức Việt Minh. Sau khi bầu cử quốc hội cuội xong, ông Hồ, với tư cách chủ tịch nước, được quốc hội phê chuẩn, liền dùng mánh khóe, chụp mũ, vu cáo "những người quốc gia làm loạn", giết người cướp của....rồi hạ lệnh cho bọn "tự vệ", "cứu quốc" lùng sục, bắt bớ, thủ tiêu. Mặt khác, ông Hồ cho liên tục mở các khóa huấn luyện chánh trị cho cán bộ, để làm cái nhân của Việt Minh CS. Lẽ ra. "kháng chiến", một cuộc chiến tranh chống xâm lăng như dưới đời nhà Trần, nhà Lê, nó đâu cần "nhồi nhét" lý thuyết chánh trị vào đầu óc cán bộ, binh sĩ. Kháng chiến tự nó đã có chánh nghĩa, chớ không phải “có chánh nghĩa giai đoạn” như Việt Minh đề ra. Vai trò làm bình phong và cũng để lừa gạt dư luận của các trí thức như các ông Nguyễn Văn Huyên, Trần Đăng Khoa, Trần Thiện Lộc, Bùi Bằng Đoàn, Hoàng Minh Giám, Đặng Phúc Thông ... bị gạt bỏ, khi sự lừa bịp đã bị phơi bày. Hồi mới sang sảng kêu gọi, thúc giục toàn dân kháng chiến của ông Hồ, thanh niên cứ đinh ninh có một điều : “ta chiến đấu để đuổi quân thù ra khỏi đất nước, để nư ?c nhà độc lập, rạng rỡ, quang vinh. Nào ngờ, cuộc kháng chiến cứ đi ngoằn ngoèo từng giai đoạn. Đó là “chỉnh huấn”. Đó là "rèn cán chỉnh quân". Đó là "Cải cách ruộng đất”. Rồi phải học tập chỉ thị của đảng “đi theo cách mạng” (không còn kháng chiến nữa) là để cải tạo tư tưởng thối tha, để xưng đáng “là người của đảng, của xã hội mới”, chớ không phải kháng chiến để mong tới ngày độc lập như họ đã hứa, đã tuyên truyền mấy năm trước ! Những cán bộ sau khi thụ huấn ở Tỉnh Tây về, trở thành những kẻ giảng dậy cho binh sĩ tân tuyển. Huấn luyện xong, cán bộ, binh sĩ trở thành "những kẻ bảo vệ quyền lãnh đạo của đảng”. 


Họ được đưa vào Nam, để thay thế các chức vụ then chốt mà những người có tài, có khả năng, được binh sĩ, dân chúng kính trọng nắm giữ ... Xin nhắc lại nỗi bận tâm duy nhứt của ông Hồ và đảng CS tức Việt Minh không phải là vấn đề “VN có sớm được độc lập hay không, mà là vấn đề bản thân Việt Min có thể đoạt thủ chánh quyền hay không” (sách đã dẫn, trang 357). Vì thế, khi Nhựt đầu hàng, các đảng quốc gia từ Trung Quốc kéo về, bị Việt Minh liên tục chận đánh và tiêu diệt dọc đường. Từ tháng 05/1945, Việt Minh cũng đổi thái độ từ thân ra thù với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, vì sợ chánh phủ Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, sẽ giúp người quốc gia "hãm Việt Minh vào thế bất lợi."

Mở các khóa huấn luyện, ông Hồ bí mật cho phân loại thành phần xã hội những người đã theo Việt Minh để kháng chiến. Binh sĩ, cán bộ thuộc các gia đình tiểu tư sản, con cháu quan lại cũ, công chức thời Pháp, các gia đình điền chủ ... đều cảm thấy không còn chỗ đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa. Họ đã vì yêu nước mà theo Việt Minh, đã lập nhiều chiến công để Việt Minh nổi tiếng, bây giờ đến lúc “phải anh dũng hy sinh trong các trận đánh với Pháp”. Mỗi khi lâm trận, con em các gia đình tiểu tư sản bị dồn ra phía trước, làm bia đỡ đạn. Họ là những thành phần "phải xung phong trong chiến thuật biển người" của CS. Lợi dụng kẻ thù hy sinh cho đảng hưởng lợi là sách lược trước sau như một. Chánh sách nầy còn được tiếp diễn trong cuộc nội chiến Quốc Cộng (1954-1975) và ngay cả tới ngày nay. Những người tị nạn CS, chạy thụt mạng trên biển Đông, bây giờ, trở thành "Việt kiều yêu nước", đem tiền bạc, trí tuệ về "xây dựng quê hương", tức vỗ béo cán bộ, đảng viên CS ! 

 
Từ khi Mặt Trận Việt Minh ra đời (05/1941) cho tới khi chiếm được chánh quyền (02/09/1945), đảng CS và bản thân ông Hồ, đều ngụy trang dưới hình thức chủ nghĩa dân tộc. Trong tiến trình khuếch trương lực lượng để cướp chính quyền, ông Hồ có quá nhiều kẻ thù : Pháp, Nhựt, Trung Hoa Quốc Dân Đảng, Mỹ ... và các đảng phái quốc gia. Ông Hồ quỷ quyệt dùng nhiều thủ đoạn nay bạn, mai thù, sớm đầu tối đánh, khi thân, khi chống ... Ông còn giả vờ hợp tác với các đảng quốc gia trong “chánh phủ liên hiệp”, để phá hoại và tiêu diệt đối phương. Đời ông chỉ có hai nước mà thủy chung ông vẫn tôn thờ, sùng bái là Liên Xô, Trung Quốc. Tuy nhiên, lãnh tụ các nước ấy khinh bỉ ông ra mặt. Năm 1949, Mao Trạch Đông là chủ tịch Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Ông Hồ cũng là chủ tịch nước Việt Nam 4 năm rồi. Vậy mà ông Hồ cầm đầu một phái đoàn đi xin viện trợ, phải băng rừng lội suối đến biên giới. Nhà cầm quyền Trung Cộng dùng một chiếc xe hàng (truck) chở phái đoàn lên Quảng Tây, bất chấp nghi thức ngoại giao không kèn, không trống. Sau đó, ông đi Liên Xô. Ông Lê Phát, thành viên của phái đoàn nầy kể lại : " ... Sau nầy khi xem cuốn hồi ký "Mémoires Inédites" của Nikita Kroutchev do nhà xuất bản Pierre Belfont dịch và in ở Paris, tôi biết thêm về chuyến "vi hành đầy gian khổ của ông Hồ. Tác giả (Nikita Kroutchev kể lại : 

 

"Tôi nhớ Hồ Chí Minh đã đến Moscou để xin viện trợ vật chất và vũ khí để chống Pháp. Staline không tin vào cuộc chiến ở VN, nên đối xử với ông Hồ một cách nhục mạ. Tôi không thấy ở ông ta chút cảm tình nào đối với một người CS như Hồ ...”. Đáng lẽ phải kính trọng, biết ơn ... Tôi còn nhớ một việc khác xúc phạm đến Hồ. Staline nói với chúng tôi là Hồ xin được đón với tư cách là chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Staline không chấp nhận, đã trả lời Hồ : " Cơ hội ấy đã qua rồi. Ông đến Moscou không ai biết, không thể thông báo việc ông đến được” ... Hồ chỉ đề nghị Staline cho một máy bay và chuẩn bị diễn văn đón Hồ, có thể từ trên máy bay xuống, để được đón như chủ tịch nước. Staline từ chối và ông ta cười khoái trá khi kể cho chúng tôi nghe việc ấy  ..." (Hồi ký Lê Phát, Quê Mẹ, số 140). 

 

Chúng tôi xin mượn lời kết của Tưởng Vĩnh Kính : "Nhằm tranh thủ quần chúng, ông (Hồ) dựng cờ chống Pháp và tranh đấu độc lập dân tộc, trong khi đó, ông lại bán rẻ và bài trừ các đảng phái chống Pháp và tranh thủ độc lập dân tộc chân chính khác. Khi cần thiết, ông thà từ bỏ nhu cầu độc lập, để mưu cầu sự sinh tồn và phát triển cho bản thân ông. Ông cũng tuyên truyền chống Nhựt, nhưng lại kết hợp và lợi dụng các thế lực thân Nhựt, thậm chí còn cùng với Nhựt hành động song hành, hiệp trợ nhau chống lại kẻ địch khác, chỉ cốt mưu cầu bành trướng thế lực của bản thân ông. Ông cũng bày tỏ thái độ thân Hoa, nhưng chỉ là lợi dụng tổ chức thân Hoa nầy, để bài trừ hoặc tiêu diệt các đảng phái thân Hoa khác. Lúc cần thiết, ông lại thực thi các hành động bài Hoa để đạt mục đích khác. Ông tuyệt đối cần ngoại viện, nhưng ông không muốn cá nhân hoặc đảng phái nào nhận ngoại viện. Ông cũng cần tranh thủ quần chúng, nhưng không muốn cho cá nhân hoặc đảng phái nào khác tranh thủ quần chúng. Ông lớn mạnh không phải từ những hô hào về chủ nghĩa cộng sản. ông đã dùng rất nhiều tên giả, lấy chủ nghĩa dân tộc để ngụy trang, lợi dụng tất cả các cơ hội có lợi, để bảo tồn và phát triển lực lượng bản thân ông. Ông cũng lợi dụng những nhược điểm của đối phương để làm cho lực lượng đối phương yếu đi, hoặc bị tiêu diệt hẳn ... Bởi vậy, mỗi một hành động của ông đều cho thấy ông là một người theo cơ hội chủ nghĩa, chỉ biết lấy sự sinh tồn, lợi hại của bản thân mình làm mục tiêu chính." (Sách đã dẫn, trang 373).
Hứa Hoành
Các bí danh của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc :
Lý Thụy, Vương Sơn Nhi, Vương Đạt Nhân, Lão Vương, Tống Văn Cơ, P.C. Lin, Hồ Quang, Lão Trần, Hồ Chí Minh, Hoàng Quốc Tuấn, Thu Đại Gia ...
Tài liệu tham khảo :
- Sách "Hồ Chí Minh tại Trung Quốc" của Tưởng Vĩnh Kính, do Thượng Huyền dịch, nhà xuất bản Văn Nghệ phát hành, 1999.
- Hồi ký Lê Phát.
- Tư liệu của tác giả.
http://www.congdongnguoiviet.fr/ToiAcHcm/VietGianHCM/0701SaoYbanChanhH.htm

 


Nguyên tác Hoa ngữ của tác phẩm Hồ Chí Minh tại Trung Quốc chỉ được xuất bản lần đầu tại Đài Bắc năm 1972, nhưng trước đó 5 năm đã xuất hiện bản dịch Anh Ngữ của nữ dịch giả Margaret Chen vào tháng 6-1967. Năm 1999 mới có bản dịch Việt ngữ của Thượng Huyền.

Cước chú từng trang cho thấy Tưởng Vĩnh Kính tham khảo rất nhiều tác giả Pháp, Mỹ như Charles B. McLane, Jean Lacouture, Philippe Devillers, Joseph Buttinger, Robert Shaplen, Ellen Hammer, I. Milton Sacks... và nhiều tác giả Việt Nam trong số có Trần Dân Tiên mà lúc đó chưa ai biết là bút hiệu của Hồ Chí Minh. Tác giả cũng nhắc tới các nhân vật thân cận với Hồ Chí Minh như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Khánh Toàn…

Một số nhân vật Việt Nam khác được nhắc nhiều lần như Nghiêm Kế Tổ, Hoàng Văn Chí. Hoàng Văn Chí và Julie How là những người từng có thư từ liên lạc với tác giả. Nhưng tác phẩm của Tưởng Vĩnh Kính dựa phần lớn vào tài liệu của văn khố Trung Hoa Quốc Dân Đảng với những báo cáo của Julie How, Trương Phát Khuê, Tiêu Văn, Hình Sầm Châu, Trịnh Học Giá…Vì phần lớn tài liệu được sử dụng là tài liệu trong văn khố Trung Hoa Quốc Dân Đảng nên tập trung khá nhiều vào thời kỳ hoạt động của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc từ 1925 đến 1945. Trong khoảng thời gian này, Hồ Chí Minh lui tới Trung Quốc ít nhất 5 lần và ở lại đây ít nhất 10 năm.

Qua 375 trang sách, TưởngVĩnh Kính thuật lại nhiều chi tiết về cuộc đời và hoạt động của Hồ Chí Minh trong những năm sống tại Trung Quốc và xác định Hồ Chí Minh luôn luôn vì chủ nghĩa Quốc Tế Cộng Sản – tức Liên Xô – vì lúc nào cũng làm theo lệnh và báo cáo cho Bộ Phương Đông (1) Đệ Tam Quốc Tế. Theo Tưởng Vĩnh Kính, việc Hồ Chí Minh dành được tình thân và lòng tin của một số giới chức Trung Hoa như Trương Phát Khuê hay bà Tống Khánh Linh, phu nhân của lãnh tụ Tôn Dật Tiên… không do ý hướng đấu tranh phụng sự đường lối cách mạng quốc gia mà do những thủ thuật giao tiếp.

Hồ Chí Minh đã khôn khéo ứng phó với từng trường hợp để tìm điều kiện che chở cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu chính trị bí mật nhận lãnh từ Đệ Tam Quốc Tế. Đây cũng là cách thức mà Hồ Chí Minh tiếp tục vận dụng vào những thời điểm cần tỏ ra thân Mỹ hay thân Pháp để tạo điểm tựa cho việc giành quyền lãnh đạo và triệt hạ các thành phần đối lập, dù đó là những phần tử yêu nước như các nhà cách mạng thuộc các đảng Việt Cách, Việt Quốc và Đại Việt...

Nơi trang 116, Tưởng Vĩnh Kính nêu lên 5 điểm chứng tỏ Hồ hoạt đồng dưới sự điều khiển chặt chẽ và theo đúng kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế. Hai tổ chức mà Hồ Chí Minh thường liên hệ trong những năm 1929-1930 là Phòng Bí Thư Hội Công Chức và Công Nhân Thái Bình Dương (từ 1930-1931 do Viễn Đông Cục quản lý) và Viễn Đông Cục của Đệ Tam Quốc Tế ở Thượng Hải, ban đầu do Pavel Mif về sau do Hilaire Noulens điều hành.

Hồ Chí Minh cũng giúp Noulens điều hành Nam Dương Cục từ ngày 3-3-1930 đến tháng 6-1931 bao gồm các nước Nam Dương, Mã Lai, Xiêm.

Nhiều tác giả khác đều cho biết Hilaire Noulens là người trực tiếp điều khiển Hồ Chí Minh tại Thượng Hải trong một thời gian. Noulens là người ra chỉ thị cho Hồ Chí Minh và nhận báo cáo của Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành công tác.

Dựa vào những chứng nhân người Trung Hoa và tài liệu trong văn khố Quốc Dân Đảng, Tưởng Vĩnh Kính cho biết hoạt động chủ yếu của Hồ Chí Minh trong giai đoạn ở Hoa Nam là dựa vào uy tín các nhà ái quốc Việt Nam, kết thân với một số giới chức Trung Hoa để dễ dàng xâm nhập các tổ chức cách mạng Việt Nam tại đây.

Hồ Chí Minh không gia nhập với mục đích góp phần đẩy mạnh hoạt động đấu tranh giải phóng đất nước mà trước hết, tạo bình phong che giấu hình tích, và kế đó là đạt các mục tiêu mà Đệ Tam Quốc Tế đang nhắm.

Mục tiêu cụ thể trong thời điểm đó của Đệ Tam Quốc Tế là vừa khai thác vừa lũng đoạn phá hoại các tổ chức này để tạo đà phát triển ảnh hưởng cộng sản. Hồ Chí Minh mượn các tổ chức này để trình diễn bộ mặt yêu nước đồng thời lôi cuốn người của các tổ chức này gia nhập hàng ngũ cộng sản, và nếu được, sẽ biến các tổ chức này thành tổ chức cộng sản.

Nhận định của Tưởng Vĩnh Kính phù hợp với tiết lộ của Hoàng Văn Hoan, một nhân vật thân cận với Hồ Chí Minh nhiều năm, về giai đoạn Hồ Chí Minh tham gia tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của các nhân vật Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần...

Theo Hoàng Văn Hoan, Việt Minh vốn là tên gọi tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội mà Hồ Chí Minh đã tham gia và sau đó biến thành tên gọi của phong trào cộng sản Việt Nam vào năm 1945 mà mọi người đều biết là Mặt Trận Việt Minh.

Tưởng Vĩnh Kính xác nhận hai chữ Việt Minh là viết tắt của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội từng hoạt động từ lâu trước tháng 5-1941 do Hồ Học Lãm lãnh đạo. Về sau, tổ chức này cùng một số tổ chức khác kết hợp thành Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của nhiều nhân vật như Nguyễn Hải Thần, Trương Bội Công ...“Hồ gia nhập Cách Mạng Đồng Minh Hội, một mặt là do đã ngụy trang thành công, được cá nhân tướng Trương Phát Khuê tín nhiệm, mặt khác là được các phần tử tả khuynh Trung Quốc âm thầm hỗ trợ từ bên trong.” (2) và “Một năm sau, khi Hồ Chí Minh tỏ thái độ "hợp tác" và gia nhập Cách Mệnh Đồng Minh Hội, lúc bấy giờ các đảng phái Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc mới thực sự bị đẩy vào một tình huống "khốn đốn”. (3)

Tóm lại, Tưởng Vĩnh Kính đánh giá toàn bộ hoạt động của Hồ Chí Minh suốt thời gian ở Hoa Nam chỉ là xâm nhập để đánh phá các tổ chức cách mạng dân tộc yêu nước, bởi cộng sản theo đuổi việc nắm độc quyền lãnh đạo các lực lượng đấu tranh nên đã coi các tổ chức này là kẻ địch. Tình huống khốn đốn mà Tưởng Vĩnh Kính nhắc tới được khắc họa bằng hai hình ảnh: hoặc bị sang đoạt đổi tên thành tổ chức công cụ ngoại vi của Cộng Sản hoặc lâm cảnh bị kích động chia rẽ rồi tàn lụi.


Mục tiêu và ý hướng đó đã được Tưởng Vĩnh Kính nhắc lại qua những ghi nhận về thái độ của Hồ Chí Minh đối với cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930: "Ông Hồ rất vui mừng thấy Việt Nam Quốc Dân Đảng thất bại. Điều đó phản ảnh rõ trong ngữ khí của ông ta khi bình luận về cái thu hoạch được của Cộng Sản Việt Nam như sau: "Từ sau cuộc khởi nghĩa đó, giai cấp tư sản (chỉ Việt Nam Quốc Dân Đảng) đã mất tất cả ảnh hưởng trong cuộc vận động giải phóng dân tộc; và giai cấp công nhân cùng quần chúng nông dân lao động được tổ chức lại trong đảng tự do (chỉ Cộng Sản). Đảng trở thành người lãnh đạo duy nhất của cuộc cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc.” (4)

Đây là thời kỳ hoạt động mà về sau Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam luôn diễn tả sai lạc hoặc xóa bỏ bằng sự khẳng định Mặt Trận Việt Minh được Hồ Chí Minh cho ra đời tại Pác Bó. Các tác giả Cộng Sản Việt Nam sau này, ngoại trừ Hoàng Văn Hoan, đều ghi rằng Mặt Trận Việt Minh thành lập vào tháng 5-1941 theo sáng kiến của Hồ Chí Minh lúc đó còn mang tên Nguyễn Ái Quốc. (5)


Trọn chương 4 của tác phẩm được tác giả dành kể về hành động cụ thể của Hồ Chí Minh tại Quảng Châu trong nỗ lực ngụy trang bằng chủ nghĩa dân tộc và cách thức xâm nhập hàng ngũ những người yêu nước Việt Nam cũng như hàng ngũ Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Tháng 1-1926, nhân dịp đại hội Trung Hoa Quốc Dân Đảng, Hồ lấy tên Lý Thụy đã gửi thư xin được tới trình bày về tình hình ở Việt Nam. Tưởng Vĩnh Kính cho biết "Hồ đã tiếp xúc với Trung Hoa Quốc Dân Đảng, giống như kế hoạch của Trung Cộng là cố nắm trong tay cuộc vận động chủ nghĩa dân tộc.”

Tưởng Vĩnh Kính nhắc tới một số người hoạt động với Hồ Chí Minh đã có nhiều hành vi phản bội cách mạng như Lâm Đức Thụ, Vũ Anh, Lê Tùng Anh, Nguyễn Văn Thiều ... Lâm Đức Thụ được Hồ Chí Minh đưa lên thay Hồ Tùng Mậu trong vai trò lãnh đạo Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội tại Hương Cảng chính là kẻ giao nộp hình ảnh, tin tức hoạt động của nhiều người đấu tranh cho mật thám Pháp – "Thụ là người từng hợp mưu với Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp năm 1925”. (6)

Theo Tưởng Vĩnh Kính, người đầu tiên Hồ Chí Minh tìm gặp khi đến Côn Minh là Vũ Anh có bí danh Trịnh Đông Hải vốn cùng với Nguyễn Văn Thiều, Lê Tùng Anh là những kẻ “vẫn giữ liên hệ với lãnh sự quán Pháp một cách âm thầm” đã phản bội Việt Nam Quốc Dân Đảng khiến các nhân vật Trương Nguyên Minh, Vũ Hồng Khanh, Đào Quang Bào bị nhà cầm quyền Quốc Dân Đảng Trung Hoa trục xuất.

Tất nhiên việc tranh thủ tình cảm và lòng tin của chính quyền Trung Hoa Dân Quốc là điều Hồ Chí Minh hết sức chú trọng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã cùng đồng chí Phùng Chí Kiên mượn danh nghĩa hội Việt Nam Dân Chúng Trợ Hoa Kháng Địch Hậu Viện đưa ra các truyền đơn chống Nhật để được sự bao che của bà Tống Khánh Linh đồng thời chiếm thiện cảm của nhiều giới chức Trung Hoa lúc đó.
Nhưng thời gian này, tháng 8-1940, Hồ Chí Minh đã âm thầm phái Trần Văn Hinh đến Diên An ký một mật ước với Trung Cộng hứa sẽ liên hiệp các đảng phái lập mặt trận thống nhất, lấy khẩu hiệu chống thực dân và phong kiến làm chủ điểm đấu tranh và hứa yểm trợ các đảng viên Trung Cộng hoạt động tại Việt Nam. Đổi lại Trung Cộng đồng ý cấp cho Hồ Chí Minh và các đồng chí 50 ngàn quan để chi phí ở Trung Quốc.

Tưởng Vĩnh Kính nhận định là trong hành động, Hồ Chí Minh luôn coi đường lối của Mao Trạch Đông là mẫu mực nên vận dụng tối đa tấm bình phong chủ nghĩa dân tộc và trưng dẫn thêm quan điểm mà Hồ Chí Minh đã nêu trong tác phẩm Con Đường Kách Mệnh: "Một là, nhiệm vụ cách mạng không phải vì một thiểu số người nào mà vì quảng đại giai cấp công nhân và quần chúng nông dân, do đó cần phải tổ chức quần chúng. Hai là, cách mạng tất yếu phải chịu sự chỉ huy của chủ nghĩa Mác Lênin. Ba là, cuộc vận động cách mạng ở mỗi quốc gia phải được kết hợp chặt chẽ với giai cấp vô sản quốc tế; công nhân và quần chúng nông dân phải phân biệt rõ giữa đệ tam và đệ tứ quốc tế.”

Tưởng Vĩnh Kính cũng cho thấy sự trùng hợp như dập khuôn giữa nghị quyết đại hội kỳ 6 của Trung Cộng với bản hiệu triệu và cương lãnh giản yếu do Hồ Chí Minh đưa ra sau khi hợp nhất các nhóm Cộng Sản Việt Nam thành Đông Dương Cộng Sản Đảng ngày 18-2-1930. Cả hai văn kiện đều dựa theo phương án dành cho các đảng cộng sản Đông Nam Á được đề ra tại đại hội kỳ VI của Đệ Tam Quốc Tế nhưng trong bản hiệu triệu, Hồ Chí Minh đã lập lại đầy đủ 10 khẩu hiệu của Trung Cộng trong nghị quyết đại hội kỳ 6 của Cộng Sản Trung Hoa.

Tác giả trưng nhiều bằng chứng cho thấy Hồ Chí Minh luôn hành động rập khuôn theo Trung Cộng, từ việc khai thác chiêu bài kháng chiến chống Nhật qua việc tiếm danh các tổ chức quốc gia, việc lập nên các hội cứu quốc đến thủ đoạn triệt hạ các phần tử khác chính kiến mà tổ chức Việt Minh thi thố sau này: "Những người bị thảm sát đều bị gán cho tội "Việt gian”, tội "làm gián điệp cho địch”, hoặc thân Nhựt vv…Cách thức đó của Việt Minh hoàn toàn giống với Trung Cộng trong khu giải phóng của họ.” (7)

Tưởng Vĩnh Kính xác định mục đích tối hậu của Hồ là đoạt chính quyền, chứ không phải dành độc lập cho tổ quốc. Mục tiêu này đã soi sáng mọi hành vi cũng như lời lẽ của Hồ Chí Minh trong giao tiếp với các thế lực ngoại quốc lúc đó là Mỹ, Pháp, Trung Hoa.

Tác giả viết:

"Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó không phải là vấn đề có thể sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề bản thân của Việt Minh có thể đoạt thủ được chính quyền hay không…

… Do đó trước khi công tác chuẩn bị cho việc cướp chính quyền chưa hoàn thành, ông không hề mong quân Đồng Minh vào Việt Nam; lại càng không mong các đảng phái Việt Nam khác theo quân đội Trung Hoa trở về Việt Nam để tranh thủ dân chúng và chính quyền cùng với ông. Bởi vậy các thành viên Cách Mạng Đồng Minh Hội không thuộc cộng đảng trở về Việt Nam đều bị Việt Minh bao vây, bắt giết và đội quân dò đường của Trung Quốc vào Việt Nam đã bị quấy phá ngăn trở …

... Ông Hồ đã dùng điện đài Mỹ tại căn cứ của ông để tiếp xúc thẳng với đại diện chính phủ De Gaulle tại Côn Minh, ngoài việc yêu cầu Pháp bảo chứng sẽ trả độc lập cho Việt Nam trong vòng từ 5 đến 10 năm, còn yêu cầu Pháp cấp vũ khí và huấn luyện. Khoảng tháng 7, một đoàn đại biểu Pháp, Mỹ gồm 6 người đã nhảy dù xuống tổng bộ Việt Minh. Ông Hồ đã ngụy trang cho mình một bộ mặt rất "thân Tây phương". John, một thiếu úy Mỹ trẻ tuổi, ở chung mấy tháng với ông Hồ tại căn cứ Việt Minh lúc bấy giờ, đã ngây thơ tin chắc ông Hồ không phải là cộng sản. Dưới cái nhìn của John, giả sử ông Hồ có là cộng sản, thì cũng chắc chắn rằng ông Hồ rất muốn hợp tác với tây phương, đặc biệt là với Mỹ và Pháp. Hiển nhiên, Việt Minh có hành động bài Hoa cũng là nhằm mục đích dụ hoặc người Pháp”.

Tưởng Vĩnh Kính cho biết ngay giữa thời điểm đó, Hồ Chí Minh đã có một hành động vừa nhắm lấy lòng Pháp vừa muốn mượn bàn tay Pháp triệt hạ một tổ chức yêu nước là đảng Đại Việt: “Ông Hồ đã dùng điện đài của quân Mỹ để nói xấu và bán rẻ cái mũi nhọn chống Pháp là đảng Đại Việt, hòng tranh thủ lòng ưu ái của Pháp.Trước ngày Nhật đầu hàng không lâu, John đã dùng điện đài của mình đánh đi bức điện tín sau đây giùm ông Hồ: "Đảng Đại Việt đang trù tính gây một cuộc khủng bố chống Pháp đại quy mô và mưu toan giá họa cho Việt Minh. Việt Minh đã ra lệnh cho 2 triệu hội viên và vô số dân chúng ủng hộ, hãy đem hết khả năng đề phòng cẩn mật cùng ngăn chặn kế hoạch phạm pháp này của đảng Đại Việt. Việt Minh xin tuyên bố mục đích rõ ràng của mình là mưu cầu nền độc lập cho quốc gia bằng đấu tranh chính trị; nếu cần thiết phải dùng đến hành động quân sự thì quyết không dựa vào các thủ đoạn hèn hạ và phạm pháp. Ủy ban giải phóng dân tộc VM - ký tên" (8)

Theo Tưởng Vĩnh Kính, lúc đó đảng Đại Việt của Nguyễn Tường Tam và Quốc Dân Đảng của Vũ Hồng Khanh hợp nhất thành một lực lượng đấu tranh với thành phần lãnh đạo gồm 29 nhân vật đều là những phần tử trí thức ưu tú của Việt Nam không chỉ được sự ủng hộ của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mà còn có thanh thế rất lớn đối với dân chúng trong nước. Lực lượng này là mối lo cần đối phó trước hết của Hồ Chí Minh. “Bởi vậy, hành động "liên kết với Mỹ” và "bài Hoa” của ông Hồ và mặt trận Việt Minh hoàn toàn đặt cơ sở trên nỗi thao thức về vấn đề sinh tồn và phát triển của bản thân họ. Còn như Việt Nam có đạt được độc lập hay không chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.” (09)

Trong ý đồ đó, việc lợi dụng danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội được tác giả nhìn nhận là hết sức cần thiết cho Hồ Chí Minh và phân tích:

"…Tại sao ông Hồ và trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lại vẫn muốn lợi dụng lá cờ Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (chỉ bỏ chữ "hội” đi một cách khôn khéo mà thôi)? Cách thức đó chính là lặp lại một cách khéo léo điều mà người Cộng Sản gọi là "chiếm lĩnh cơ quan, làm phe tả của họ”. Ý đồ của họ, xét ra không ngoài việc lợi dụng danh nghĩa Độc Lập Đồng Minh Hội để dễ dàng chiêu tập tổ chức quần chúng của nó, thậm chí còn chiêu dụ cả đám tàn dư của phe thân Nhật. Ý đồ chủ yếu của ông Hồ và Cộng Sản Việt Nam khi tiếp thu Độc Lập Đồng Minh Hội hiển nhiên là nhằm chiêu dụ tổ chức quần chúng của hội này. (10)

Căn cứ vào các tư liệu tại Quảng Tây thời đó, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh được thành lập tháng 7 năm 1935, là sự hợp thành của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Độc Lập Đảng, Tân Việt Đảng … Các tổ chức quần chúng của nó cũng được ông Hồ đổi thành các hội "Cứu Quốc” (11) Ý đồ lớn nhất của ông Hồ khi lợi dụng cơ cấu Việt Minh là che giấu cái bộ mặt cộng sản, lợi dụng tình thế cùng tâm lý quần chúng Việt Nam, ngụy trang chủ nghĩa dân tộc, nhằm phát triển thực lực của bản thân.” (12)

Tác phẩm của Tưởng Vĩnh Kính không bao quát hết cuộc đời Hồ Chí Minh nhưng đã xác định được chủ đích trong mọi hoạt động của Hồ Chí Minh là tranh thủ quyền hành cho tổ chức của mình để theo đuổi lý tưởng, còn mục tiêu giành độc lập cho đất nước chỉ là mục tiêu giai đoạn bắt buộc phải đạt tới.

Hồ Chí Minh tỏ ra không mệt mỏi trong việc hô hào đấu tranh giải phóng dân tộc vì không còn con đường nào khác để phụng sự lý tưởng Cộng Sản và như chính Hồ Chí Minh đã nói – nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập thì quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.

Những trái ngược dễ dàng xẩy ra khi nhận định về Hồ Chí Minh có lẽ vì mức cuốn hút của một ý chí đấu tranh mãnh liệt đã phủ mờ yêu cầu phân tích tính mâu thuẫn tất yếu giữa quyền lợi giai cấp với quyền lợi dân tộc. Do đó, hình ảnh thực tế luôn chao đảo khiến mọi cái nhìn về một con người dựa trên nền tảng này khó tránh khỏi ngả nghiêng.


CHÚ THÍCH

CHƯƠNG 07

(01) Tên gọi của cơ cấu này theo tài liệu chính thức của Cộng Sản Việt Nam là Bộ Phương Đông Quốc Tế Cộng Sản, còn báo chí thường nhắc theo nhiều cách như Đông Phương Bộ, Ban Phương Đông, Đông Phương Cục hoặc Cục Đông Phương hoặc có khi là Viễn Đông Cục, Viễn Đông Vụ ....

(02) - (03) - (04) SĐD tr. 246, 245, 119

(07) Văn Kiện Đảng – T. 3, tr. 195 ghi: Từ ngày 10 đến ngày 19.5.1941 Hội Nghị lần 8 Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương họp tại Pác Bó, Cao Bằng. Đây là Hội Nghị Trung Ương Đảng lần đầu tiên họp ở trong nước do Nguyễn Ái Quốc chủ trì với tư cách đại diện Quốc Tế Cộng Sản. Hội nghị đã khẳng định: Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật ...Vì nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng thì... quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.

Hồ Chí Minh Toàn Tập – T. 3, tr. 197 ghi: Theo sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội Nghị trên đã quyết định thành lập Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh) nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn.

(06)-(07) SĐD tr. 108, 329

(08)-(09) SĐD – Cước chú ghi theo tài liệu của Robert Shaplen các tr. 28-30, tr.361

(10) Về gia nhập các tổ chức để tranh thủ quần chúng, xin xem chương về Phùng Thế Tài.

(11)-(12) SĐD tr. 202, 206


dadaocongsan.comhttp://dadaocongsan.com/Hanoi/article.php/20080613033045910

No comments:

Post a Comment