Về huyền thoại Hồ Chí Minh
Nguyễn Gia Kiểng
Đài "Tiếng Nói Việt Nam Hải Ngoại" phỏng vấn tôi về ông Hồ Chí Minh nhân ngày
sinh thứ 104 của ông. Sau nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu, đài này muốn cho
thính giả nghe quan điểm của một người hoạt động chính trị về một nhân vật chính
trị. Câu hỏi đầu tiên của ký giả Hồng Phúc làm tôi bối rối : "Xin ông cho thính
giả biết những nét chính về nhân vật Hồ Chí Minh". Nét đậm đầu tiên của ông Hồ Chí
Minh là ông là một người lý lịch không rõ rệt.
Ngay cả ngày sinh của ông, 19-5-1890, mà Đảng Cộng Sản Việt Nam dùng làm một
ngày lễ, cũng không có gì chắc chắn. Ở những dịp khác nhau, chính ông Hồ Chí Minh
đã khai những ngày sinh khác nhau, mặc dầu không có nhu cầu phải giấu giếm. Thí
dụ như khi nộp đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp, ông khai là sinh năm 1892 ; sau
đó ít lâu, trong hồ sơ gia nhập Hội Tam Điểm (Free Mason, Franc Maçonnerie) ông
khai ngày sinh là 15-2-1895. Cho đến một ngày rất gần đây mọi người vẫn đinh ninh
rằng ông họ Nguyễn, tên Nguyễn Tất Thành, sau đổi thành Nguyễn Sinh Cung, con ông
phó bảng Nguyễn Sinh Huy. Thế rồi sử gia Trần Quốc Vượng đưa ra một giả thuyết mới
theo đó ông thực sự họ Hồ, cháu nội ông Hồ Sĩ Tạo, và đã chỉ cho mang họ Nguyễn
sau một thảm kịch gia đình : bà nội ông đã có thai với ông Hồ Sĩ Tạo dù ông này
đã có vợ con, gia đình bà đã phải đem gả bà cho một ông đồ già họ Nguyễn, vì thế
thân phụ ông đã mang tên Nguyễn Sinh Huy. Trần Quốc Vượng đưa ra những chứng cứ
và biện luận khó phản bác.
Hồ Chí Minh đã sống thời niên thiếu như thế nào tại Việt Nam, đã làm gì tại Pháp
và tại Nga, đã có thành tích và trách nhiệm nào trước và trong thời gian làm chủ
tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ? Ngay cả những tài liệu về Hồ Chí Minh do những
người cộng sản kỳ cựu gần gũi với ông viết ra cũng đã mâu thuẫn.
Chính Hồ Chí Minh cũng đóng góp tích cực vào việc gây hoang mang và lẫn lộn về
tiểu sử của ông. Ông dùng những bí danh T. Lan và Trần Dân Tiên để viết về mình
một cách mơ hồ. Trong cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch",
ông Trần Dân Tiên, tức Hồ Chí Minh, thuật lại cảm giác bồn chồn sung sướng khi được
"Hồ chủ tịch" tiếp và được ông Hồ Chí Minh trả lời như sau khi ngỏ ý muốn viết tiểu
sử của ông : "Tiểu sử ? Đấy là một ý kiến hay. Nhưng hiện nay còn nhiều việc cần
thiết hơn. Rất nhiều đồng bào đang đói khổ". Câu chuyện này chứng tỏ Hồ Chí Minh
là một người giả dối muốn đánh bóng tiểu sử của chính mình; đó là tâm lý của những
người trong thâm tâm không hãnh diện về mình. Điều đáng ghi nhận là mặc dù đã bỏ
ra rất nhiều thời giờ và công sức và dùng tới hai bút hiệu để viết về chính mình,
một việc có lẽ chưa một nhà chính trị nào làm, nhưng cả hai hồi ký của ông Hồ Chí
Minh đều không có một giá trị lịch sử hay chính trị nào cả, bởi vì chúng không đóng
góp giải thích một sự kiện lịch sử nào mà chỉ là những mẩu chuyện nhắm mục đích
ca tụng ông Hồ Chí Minh như một người tốt, tài giỏi, dũng cảm, có chí lớn, có quyết
tâm, đáng ngưỡng mộ v.v. Hồ Chí Minh hoàn toàn không hiểu ý nghĩa và hậu quả của
những biến cố lớn của một giai đoạn lịch sử trọng đại, trong đó ông là nhân vật
chính ; ông chỉ chú trong đến những chuyện vụn vặt về cá nhân mình. Đây là một điều
đáng buồn cho cả ông Hồ Chí Minh lẫn dân tộc Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã phá mọi kỷ lục Việt Nam về tiểu sử. Số sách và bài viết về ông
đã gấp hàng trăm lần bất cứ nhân vật lịch sử Việt Nam nào. Tuy vậy bí ẩn về ông
vẫn còn nguyên vẹn. Bài này vì vậy không phải là một đóng góp thêm về tiểu sử ông
Hồ Chí Minh mà chỉ có mục đích nhận diện một trong những huyền thoại nền tảng của
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam.
Có một số dữ kiện mà mọi người có thể đồng ý. Ông sinh vào khoảng 1890-1895 tại
Nghệ An, mồ côi mẹ rất sớm, cha đậu phó bảng, làm quan đến chức tri huyện nhưng
vì say rượu đánh chết người nên mất chức, bị tù, rồi lưu lạc vào Nam chết trong
cô đơn và nghèo khổ. Hồ Chí Minh học hết tiểu học, đang học trường Quốc Học tại
Huế thì phải bỏ học vì cha bị mất chức. Ông sống vất vưởng ở trong Nam, đặc biệt
tại Sài Gòn vài năm, rồi đi làm phụ bếp trên một tàu buôn và tới Pháp năm 1911.
Tại đây ông làm đơn xin vào học Trường Thuộc Địa, một trường đào tạo công chức cho
chế độ thuộc địa Pháp ở Nantes, nhưng bị từ chối. Ông lên Paris sinh sống bằng nghề
tô ảnh, gặp một số trí thức có tinh thần quốc gia trong đó có Phan Chu Trinh, Phan
Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và hợp tác với họ. Ông gia nhập Đệ Nhị Quốc Tế, rồi
Đảng Cộng Sản Pháp, và được gửi đi Nga huấn luyện năm 1923. Cuối năm 1924 ông được
cử làm thông ngôn cho phái đoàn Nga tại Trung Quốc do Borodin cầm đầu ; do biến
cố này mà sự nghiệp chính trị của ông trở thành gắn bó với Việt Nam. Ông trở thành
đại biểu Đông Dương tại Đệ Tam Quốc Tế, đóng vai trò then chốt trong việc thành
lập Đảng Cộng Sản Việt Nam và trở thành lãnh tụ số 1 của đảng này từ khi thế chiến
II bùng nổ. Ông lãnh đạo cuộc Cách Mạng Tháng 8, rồi cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống chính quyền Bảo Đại do Pháp yểm trợ, kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên
Phủ và hiệp định Genève. Ông mất năm 1969, giữa lúc cuộc chiến tranh Nam Bắc đạt
đến mức độ gây cấn nhất. Về đời tư ông có khá nhiều người tình và cũng đã có vợ,
có con, nhưng ông giấu nhẹm những chuyện này. Một trong những người phụ nữ này là
cô Nông Thị Xuân, có con với ông, đã chết trong một trường hợp bí ẩn, thân nhân
quả quyết là đã bị thủ tiêu. Những sự kiện này được mọi nhà nghiên cứu nhìn nhận
và cũng chưa hề bị Đảng Cộng Sản Việt Nam bác bỏ.
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt Nam đặt nền tảng trên ba huyền
thoại : chủ nghĩa cộng sản chủ trương giải phóng giai cấp vô sản và thiết lập một
thế giới công bằng lý tưởng ; cuộc chiến đấu oanh liệt thắng Pháp, thắng Mỹ đem
lại độc lập và thống nhất đất nước; và thần tượng Hồ Chí Minh, một nhà tư tưởng
lớn, một nhà chính trị lỗi lạc, một mẫu mực về đạo đức, đồng thời cũng là một người
giản dị, khắc khổ chỉ sống cho đất nước.
Mỗi huyền thoại có một công dụng riêng. Chủ nghĩa cộng sản là một cứu cánh, một
biện minh sau cùng cho mọi hành động. Chiến công giành độc lập, thắng ngoại bang
cho Đảng Cộng Sản Việt Nam một sự chính đáng lịch sử và, quan trọng hơn, tiêu biểu
cho dụng cụ bạo lực sẵn sàng đập tan mọi chống đối. Thần tượng Hồ Chí Minh là đối
tượng để ngưỡng mộ và kính phục và đem lại cho đảng sự chính đáng về mặt đạo đức.
Ngày nay lý tưởng cộng sản không những đã sụp đổ mà còn bị lố bịch hóa. Nó chỉ được
duy trì qua loa như vòng phòng thủ bên ngoài. Còn lại cặp bài trùng cố hữu và bắt
buộc của mọi quyền lực : bạo lực và đạo đức. Bạo lực để đập tan mọi chống đối, đạo
đức để đừng bị chống đối. Đảng cộng sản dùng bạo lực để áp đặt sự tôn sùng Hồ Chí
Minh, ngược lại sự tôn sùng thần tượng Hồ Chí Minh, biểu tượng của đảng, có tác
dụng triệt tiêu ý muốn chống đối và do đó cho phép tiết kiệm việc sử dụng bạo lực.
Nếu một trong hai thành tố này không còn thì chế độ cộng sản không thể tiếp tục
tồn tại.
Vậy thì Hồ Chí Minh là nhân vật như thế nào ?
Một tranh cãi quen thuộc là Hồ Chí Minh có phải là một người yêu nước và nhân
bản hay không ? Sở dĩ câu hỏi này được đặt ra là vì Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao
ông như là chân dung của lòng yêu nước và đức hạnh, nhưng đây là một tranh cãi phiến
diện. Yêu nước là tình cảm tự nhiên của mọi người và ngay cả những kẻ phản quốc
cũng yêu nước. Sự quyến luyến với phần đất mà mình sinh ra và lớn lên nằm trong
phản xạ của mọi động vật, không cứ gì loài người. Vậy thì ông Hồ Chí Minh chắc chắn
là có yêu nước. Cũng thế, những giá trị nhân bản có sẵn trong mọi người. Ngay cả
những kẻ gian ác nhất cũng ưa chuộng sự lương thiện, sự thủy chung và lòng bao dung.
Con người đã được cấu tạo như thế. Vấn đề thực sự đặt ra là trong hoàn cảnh khó
khăn và trước hiểm nguy, lòng yêu nước và các giá trị đạo đức như tình bạn, tình
yêu có trọng lượng nào?
Hồ Chí Minh đã thẳng tay thủ tiêu các lực lượng chính trị, dù là cộng sản đệ
tứ, hay Đại Việt, hay Việt Nam Quốc Dân Đảng. Ông thừa biết là họ rất yêu nước,
nhưng họ không thuộc đảng cộng sản của ông và do đó sự hiện hữu của họ đe dọa độc
quyền lãnh đạo của ông.
Hồ Chí Minh biết bà Nguyễn Thị Năm là người vô tội, hơn thế còn là người tốt,
đã giúp đỡ nhiều cho đảng cộng sản và có con trai đang là trung đoàn trưởng quân
đội cộng sản. Ông quí bà Năm, nhưng khi cố vấn Trung Quốc cho biết là không thể
thay đổi quyết định xử bắn bà để thị uy vì tất cả mọi nghi thức đã sắp xếp xong
rồi thì ông im mồm và để cho bà Năm bị bắn. Sau này, trong các vụ Nhân Văn - Giai
Phẩm và "xét lại chống đảng" ông cũng để mặc cho các cộng sự viên gần gũi bị bách
hại oan ức. Ông bỏ rơi bà vợ chính thức Tăng Tuyết Minh để giữ hình ảnh một lãnh
tụ thánh thiện chỉ sống cho đất nước và lấy đất nước làm gia đình. Cũng vì hình
ảnh này mà ông hoặc đã ra lệnh hoặc đã chấp nhận thủ tiêu cô Nông Thị Xuân và bỏ
rơi người con của ông với cô này. Có rất nhiều khả năng là chính ông đã quyết định
tội ác này bởi vì ông quan tâm một cách bệnh hoạn đến hình ảnh của mình, ông đã
dùng cả hai bí danh để viết sách tự đánh bóng mình. Một người không mắc bệnh tâm
thần không thể làm như thế. Tóm lại, khi đứng trước khó khăn thì lòng yêu nước,
những giá trị đạo đức, cũng như danh dự và an ninh của những người thân thiết với
ông không có một trọng lượng nào đối với Hồ Chí Minh cả, ông có thể nhẫn tâm một
cách đáng sợ.
Ông Hồ Chí Minh thiếu hẳn những kiến thức cần thiết mà mọi người lãnh đạo quốc
gia, ngay cả trong thời đại của ông, phải có. Ông hoàn toàn không biết gì về khoa
học, kỹ thuật, kinh tế, tài chính, luật pháp, và ngay cả về nông nghiệp. Trong cuốn
sách "Mấy kinh nghiệm Trung Quốc cần phải học" mà ông viết dưới bút hiệu Trần Lực
(nhà xuất bản Sự Thật, 1958, tr. 41), ông tin và kêu gọi mọi người tin là một mẫu
lúa tại Trung Quốc có thể đạt được 333 tấn lúa mỗi năm. Những phát biểu của ông,
dù là bài viết hay bài nói, không chứng tỏ một sự hiểu biết nào, dù sơ sài đến đâu,
về lịch sử thế giới và tư tưởng chính trị. Việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đề cao ông
như một nhà tư tưởng là cả một xúc phạm đối với trí tuệ.
Không phải là Hồ Chí Minh không có tài, nhưng cái tài của ông ở chỗ khác. Ông
lặn lộn và từng trải, học được nhiều bài học thực dụng. Ông sống một thời niên thiếu
bi đát, một tuổi thanh niên chật vật, được hoàn cảnh đưa đẩy đến những hoạt động
phiêu lưu nguy hiểm, được huấn luyện để làm gián điệp tại Nga và đã hoạt động tình
báo thực sự với cả Nga, Trung Quốc lẫn Mỹ và Pháp trong bối cảnh chiến tranh và
khủng bố. Có thể nói ông là người Việt Nam đầu tiên trong thế kỷ 20 có huấn luyện
và kinh nghiệm trong các tổ chức quốc tế. Cuộc sống đó đã tạo cho ông một bản năng
sống còn đặc biệt bén nhậy và đã khiến ông hạ được các đối thủ, trong cũng như ngoài
đảng cộng sản, nhưng mặt khác cũng đã khiến ông đặt an ninh, địa vị và danh tiếng
cá nhân lên trên hết, và ông trở thành nguy hiểm cho mọi người vô tình hay cố ý
trở thành một đe dọa thực sự hay tưởng tượng đối với ông.
Quãng đời đấu tranh chống chế độ thuộc địa của ông ngay trên đất Pháp trong thời
gian 1915-1923, thường được Đảng Cộng Sản Việt Nam nhắc tới như một thiên anh hùng
ca. Hai sự kiện nói lên con người Hồ Chí Minh. Ông rất ít nhắc tới những đồng chí
của ông trong giai đoạn này, như các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Truờng, Nguyễn
Thế Truyền đã hướng dẫn ông, nhất là Nguyễn Thế Truyền, người bạn thân đã đem ông
vào Đảng Cộng Sản Pháp. Ông giành mọi thành tích của nhóm này cho riêng mình. Một
sự kiện khác là ông đã tham gia hội Tam Điểm. Đây là một hội kín mà theo một số
tài liệu đã xuất hiện từ thế kỷ thứ 10 và có thế lực lớn tại các nước phương Tây,
kể cả tại Pháp. Hội này có đặc tính nổi bật là các hội viên che chở cho nhau, mặt
khác nó cũng chống chính sách thực dân. Tam Điểm có vô số nhân vật đầy quyền lực
cho nên khi ra mặt đả kích chế độ thực dân tại Pháp Hồ Chí Minh đã được bảo vệ.
Nhưng Tam Điểm mâu thuẫn với Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản nên từ 1920 các đảng viên cộng
sản bị cấm gia nhập hội này. Hồ Chí Minh đã chọn Đệ Tam Quốc Tế vì phong trào này
cho ông một triển vọng thăng tiến lớn. Ông lặng lẽ bỏ hội Tam Điểm như một thành
viên bị mất tích và cũng không khai báo gì với Đệ Tam Quốc Tế. Hồ Chí Minh đi hai
hàng, Tam Điểm không biết ông là cộng sản, ngược lại Đệ Tam Quốc Tế cũng không biết
ông là hội viên Tam Điểm. Sau Cách Mạng Tháng 8, những người hoạt động chính trị
tại Việt Nam và thuộc hội Tam Điểm, do đó có khả năng biết Hồ Chí Minh cũng thuộc
hội này, như Tạ Thu Thâu, Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo, v.v. đều bị thủ tiêu
nhanh chóng. Ngoài ra còn có một đợt tàn sát khó hiểu đối với chức sắc Cao Đài,
một biến thể của hội Tam Điểm tại Việt Nam, mà Nguyễn Hộ có kể lại trong hồi ký
của ông. Sự tàn sát này phải chăng có mục đích khiến không ai ngờ rằng Hồ Chí Minh
có một liên hệ nào với Tam Điểm ? Điều chắc chắn là cho tới khi ông qua đời không
ai biết Hồ Chí Minh đã thuộc hội này. Sự thực mới chỉ được phơi bày gần đây.
Cái gì đã khiến Hồ Chí Minh thành công ? Có lẽ lý do chính là ông đã được huấn
luyện tại Nga trong bối cảnh khủng bố của các thập niên 1920 và 1930 nên đã hiểu
được bí quyết thành công của Đảng Cộng Sản Nga và hiệu lực của khủng bố. Đừng nên
quên rằng cuộc cách mạng lật đổ Nga hoàng đã xảy ra vào tháng 2-1917, trong đó đảng
cộng sản chỉ có một vai trò không đáng kể. Cách Mạng Tháng 10 Nga chỉ là cuộc đảo
chính của đảng cộng sản sau khi đã nắm được thế thượng phong nhờ khủng bố. Hồ Chí
Minh đã được huấn luyện về khủng bố và đã áp dụng khủng bố một cách thẳng tay. Cách
Mạng Tháng 8 đã khởi đầu với sự thủ tiêu hàng loạt các "phần tử phản động". Cuộc
chiến tranh 1946-1954 đã là một giai đoạn khủng bố kinh hoàng. Đặc tính lãnh tụ
khủng bố của Hồ Chí Minh cho đến nay chưa được nhấn mạnh đúng mức. Hồ Chí Minh sử
dụng khủng bố ngay cả khi không cần thiết như trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm và nhất
là trong đợt Cải Cách Ruộng Đất năm 1955, trong đó hàng trăm ngàn người đã bị sát
hại. Không thể đổ lỗi cho Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt và Hồ Viết Thắng vì lúc
đó Hồ Chí Minh còn nắm mọi quyền hành. Cũng nên nhớ là mãi tới năm 1958, ba năm
sau khi Cải Cách Ruộng Đất đã được nhìn nhận là một sai lầm đẫm máu, Hồ Chí Minh
vẫn còn cho xuất bản cuốn sách mà ông viết dưới bút hiệu Trần Lực ca tụng cải cách
ruộng đất tại Trung Quốc, khuôn mẫu của đợt cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
Hồ Chí Minh chắc chắn là có tài, nhưng là cái tài của một chuyên viên sách động,
khủng bố, lật đổ và cướp chính quyền, chứ không phải là cái tài của một người lãnh
đạo quốc gia.
Còn về con người Hồ Chí Minh ? Có thể tóm tắt ông đã là một đứa trẻ không may,
không được nuôi nấng và dạy dỗ trong tình yêu và hạnh phúc, mất mẹ sớm lại phải
chịu đựng một ông bố nghiện ngập và hung dữ. Gia đình ông đã là một thảm kịch và
ông đã phải bỏ học và lăn lộn với đời rất sớm. Mỗi thảm kịch trong tuổi thơ đều
để lại một thương tích trong con người và Hồ Chí Minh cũng không phải là một ngoại
lệ. Ông đã bị chấn thương về tâm thần. Có lẽ chính thảm kịch gia đình, mà theo Trần
Quốc Vượng đã bắt đầu ngay từ bà nội ông nhưng chắc chắn là đã trầm trọng từ đời
thân phụ ông, đã khiến Hồ Chí Minh không có tình cảm gia đình. Tất cả những tài
liệu do những người gần gũi với ông viết ra đều không bao giờ thuật lại một lần
nào Hồ Chí Minh nhắc đến cha mẹ, anh em, ngày giỗ v.v. Đặc biệt không coi trọng
phụ nữ, dù là bà Tăng Tuyết Minh hay cô Nông Thị Xuân hay những người đàn bà khác.
Trong cuộc đời ông không có những người đàn bà sung sướng và được quí trọng. Chị
ông, mẹ ông và có lẽ cả bà nội ông, đã chỉ là những người sinh ra để làm nạn nhân.
Thảm kịch cá nhân của Hồ Chí Minh đã biến ông thành một người mưu lược, khéo léo,
nhưng vô nguyên tắc và không bị trói buộc bởi một giá trị nào.
Hồ Chí Minh có công hay có tội ? Đó là một vấn đề sẽ còn tranh cãi rất nhiều
và rất lâu. Nhưng nếu ta đặt câu hỏi một cách khác : "Nếu không có Hồ Chí Minh và
đảng cộng sản thì Việt Nam sẽ khá hơn hay sẽ kém hơn hiện nay?" thì chắc chắn tuyệt
đại đa số người Việt sẽ có cùng một câu trả lời. Nói chung Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã là những sự kiện đáng tiếc. Trong cuốn Thời Dựng Đảng do Đảng Cộng
Sản Việt Nam xuất bản, ông Thép Mới viết : "Các thế hệ Việt Nam sau này sẽ nhớ đến
Hồ chủ tịch như là người đã có công đem chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam". Nhận
định này đúng, và giải thích lý do tại sao Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn cố gượng gạo
duy trì trên đầu môi chủ nghĩa Mác - Lênin. Vấn đề là việc đem chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam có lợi gì ?
Nhưng dù Hồ Chí Minh có thế nào đi nữa, dù ông có công hay có tội, thì ông cũng
vẫn là một con người và vẫn phải được hưởng quyền tối thiểu của một người chết,
nghĩa là được yên nghỉ. Việc đem xác một người đã chết trưng bày ở giữa một công
trường, dù là trong một lăng đồ sộ và trong một lồng kiếng, là một hành động dã
man theo văn hóa Việt Nam. Không một người Việt Nam nào có thể bị đối xử như thế.
Hồ Chí Minh đã bị sử dụng như một dụng cụ tuyên truyền. Đã đến lúc ông có quyền
được an táng một cách văn minh.
Nguyễn Gia Kiểng
(2004)
(2004)
(http://www.thongluan.org/diendan/tl181_ngk.shtml)
No comments:
Post a Comment