12 Sử Kiện Việt Nam...
... Trong Thế Kỷ 20
Kể từ những phát súng
đầu tiên của Rigault de Genouilly đánh đắm 9 chiến thuyền của vua Thiệu
Trị tại cửa biển Ðà Nẵng ngày 15/4/1847, Việt Nam chìm đắm trong hai bài
toán độc lập và canh tân cho đến hôm nay. Nhìn lại đoạn đường 100 năm
trầm luân của đất nước trong thế kỷ 20, quả thật hai quốc nạn thực dân
và cộng sản đã là đầu mối của biết bao tai họa điêu linh mà dân ta gánh
chịu. Một số sử kiện đáng ghi nhớ có thể tạm liệt kê như sau:
1904 : Phong Trào Ðông Du
Bối cảnh Việt Nam vào đầu thế kỷ 20
là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau các phong trào
Văn Thân, Cần Vương ở Bãi Sậy, Hương
Khê,... cuộc nổi dậy ở Yên
Thế của anh hùng Hoàng Hoa
Thám chính là điểm gạch nối
của kháng chiến Việt Nam giữa hai thế kỷ, với hai đặc điểm: thứ nhất là
bền bỉ nhất (1887-1913) ; thứ hai là anh dũng và đạt thành quả
giặc Pháp phải cắt đất cho nghĩa quân tự quản.
Cụ Phan Bội Châu
là một trong những người trực tiếp hỗ trợ cho cụ Ðề Hoàng. Tuy nhiên,
ngay khi chiến trường Yên Thế còn đang sôi động, thì cụ Phan cũng đã có
những hoạt động cá biệt.
Năm 1901, cụ Phan đã toan tính đánh
úp thành Nghệ An. Tháng 6 năm 1903, cụ Phan thành lập
Việt Nam Quang Phục Hội,
suy cử Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể làm hội trưởng, chủ trương Liên Kết mọi
nhân sĩ yêu nước để cùng vận động Trung Kỳ nổi dậy tiếp ứng cho cụ Ðề
Hoàng ngoài Bắc. Tháng 4 năm 1905, cụ Phan sang Nhật vận động viện trợ,
trở thành bạn tâm đắc với Lương Khải Siêu và các nhà cách mạng Trung Hoa.
Tháng 3 năm 1906, Cụ Sào Nam sang Hương Cảng đón Kỳ Ngoại Hầu, và gặp gỡ
cụ Phan Chu Trinh
tại đây. Tháng 3 năm 1907,
Ðông Kinh Nghĩa Thục và tờ Ðăng Cổ Tùng Báo
ra đời tại Hà Nội với chủ trương cách mạng văn hóa. Phong trào Ðông Du
được đẩy mạnh, ảnh hưởng tư tưởng duy tân lên cao và tạo ra nhiều hình
thái đấu tranh nối tiếp. Từ tháng 3 năm 1908, phong trào chống đi phu và
nộp thuế khởi động từ Quảng Nam, lan qua Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên,
Thừa Thiên, với đặc tính đấu tranh trực diện, đã khiến giặc Pháp điêu
đứng. Tháng 6 năm 1908 lại xảy ra vụ Hà Thành đầu độc. Quang Phục Hội bị
ruồng bố gắt gao, cho đến tháng 6 năm 1912, tức sau cuộc cách mạng Tân
Hợi bên Tàu, Hội này tái hoạt động với việc hình thành Quang Phục quân
và sự tham gia của cụ Nguyễn
Hải Thần.
Sau những cuộc khủng bố nhằm ám sát
toàn quyền Albert Sarraut và các tay sai Hoàng Trọng Phu, Lê Hoan,
Nguyễn Duy Hàn,... quân Pháp truy lùng ráo riết Quang Phục Hội. Tại
Quảng Ðông, cụ Phan bị tổng đốc Long Tế Quang bắt giam từ cuối năm 1913
đến đầu năm 1916 mới thả. Từ năm 1914 đến năm 1918, Quang Phục quân đã
đánh chiếm các đồn bót Pháp dọc biên giới Việt Hoa như Lục Nam, Nho Quan,
Phú Thọ, Móng Cái, Bát Xát, Ðồng Văn, Mường Khương, Pha Long, Cóc Pàn...
Ðến ngày 1/7/1925, Hồ Chí Minh và Lâm Ðức Thụ đã bán tin cho mật thám
Pháp bắt cụ Phan Bội Châu tại Thượng Hải. Cụ bị giam lỏng ở Huế cho đến
khi mất vào ngày 29/10/1940, hưởng thọ 74 tuổi.
1916 : Vua Duy Tân và cuộc khởi nghĩa Thái Phiên
Trong lúc Pháp và Ðức thư hùng trong
trận Thế Chiến Thứ Nhất, thì tại Việt Nam,
vua Duy Tân
bí mật liên lạc với các nhà cách mạng
Thái Phiên và Trần Cao Vân
trong Việt Nam Quang Phục Hội. Cuộc khởi nghĩa dự trù tiến hành vào ngày
3/5/1916, bằng việc nổi loạn của 2000 tân binh Việt Nam trong các trại
lính của Pháp, phối hợp cùng dân quân bên ngoài, đồng loạt vùng dậy ở
Huế và suốt mấy tỉnh miền Trung. Nhưng vì có kẻ nội phản, cơ mưu bại lộ,
ngoại trừ ở Tam Kỳ, nghĩa quân đã đánh chiếm được công sở Pháp. Vua Duy
Tân bị giặc bắt giam và đày sang đảo Réunion. Các thủ lãnh khởi nghĩa
đều hy sinh. Ngày 26/12/ 1945, vua Duy Tân qua đời trong một tai nạn máy
bay trong lúc chuẩn bị trở về Việt Nam lo việc sắp xếp cho quân Pháp
trao trả độc lập. Vận mệnh Việt Nam mất đi một cơ hội giải quyết vấn đề
của đất nước bằng phương thức hòa bình.
1924 : Trái bom Sa Ðiện
Sau cuộc thắng trận của Pháp trong
Ðệ Nhất Thế Chiến, các phong trào cách mạng trong nước bị đàn áp triệt
để và trong chiều hướng suy tàn. Tinh thần đấu tranh chỉ bùng dậy mạnh
mẽ sau tiếng bom Sa Ðiện. Ðó là giai đoạn toàn quyền Merlin sang Nhật,
Hương Cảng, Vân Nam để vận động triệt hạ các nhóm kháng chiến Việt Nam
đang hoạt động trên đất Trung Hoa. Ngày 19/6/1924, quân Pháp ở tô giới
Sa Ðiện thuộc Quảng Châu mở tiệc khoản đãi Merlin tại khách sạn
Victoria. Hai nhà cách mạng
Phạm Hồng Thái và Lê Tấn Anh
cùng nhận sứ mạng ám sát Merlin tại đây. Quả tạc đạn đã nổ tại phòng ăn,
giết chết 4 tên thực dân và làm 2 tên khác bị thương, nhưng Merlin thoát
chết. Anh hùng Phạm Hồng Thái chạy qua cầu bắc sang Quảng Châu, nhưng bị
lính Pháp đuổi sát, phải nhảy xuống Châu Giang đào thoát và bị nước
cuốn. Chính phủ Tôn Văn đã lập bia cho anh hùng Phạm Hồng Thái tại nghĩa
trang Hoàng Hoa Cương.
1930 : Khởi nghĩa Yên Bái
Nối tiếp giai đoạn hội kín chống
Pháp, việc tổ chức các đảng phái có tính khoa học bắt đầu từ năm 1925.
Ba đảng lớn thời đó là Việt
Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội, Tân Việt Cách Mạng Ðảng
(đều chủ trương chuyên chính vô sản), và
Việt Nam Quốc Dân Ðảng
(chủ trương quốc gia dân tộc).
Năm 1925, Nam Ðồng Thư Xã được thành lập tại Hà Nội, gây được ảnh hưởng
lớn trong giới sĩ phu Bắc Hà qua việc truyền bá chủ nghĩa Tam Dân của
Tôn Dật Tiên. Kết quả của ảnh hưởng đó là sự hình thành Việt Nam Quốc
Dân Ðảng vào ngày 25/12/1927 tại Hà Nội, do hai ông
Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu
lãnh đạo, với tôn chỉ đẩy mạnh cuộc cách mạng quốc gia, xây dựng nền dân
chủ trực tiếp qua ba nguyên tắc tự do, bình đẳng, bác ái, và chủ trương
tiến hành qua bốn giai đoạn đấu tranh. Ðịa bàn phát triển hữu hiệu là
tầng lớp sĩ phu yêu nước và binh lính Việt Nam trong hàng ngũ quân đội
thực dân.
Ðến năm 1929, mặc dù còn đang trong
giai đoạn phát triển, nhưng vì quân Pháp ruồng bố gắt gao, đảng Việt
Quốc đã phải tiến hành giai đoạn ba, tổng khởi nghĩa, dùng chủ lực là
các binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp, dự trù vào ngày 11/2/1930. Ông
Nguyễn Thái Học phụ trách các tỉnh Kiến An, Hải Dương, Thái Bình, Hải
Phòng. Ông Nguyễn Khắc Nhu phụ trách các tỉnh Yên Bái, Phú Thọ. Ông Phó
Ðức Chính trách nhiệm tỉnh Sơn Tây. Ngày 9/2/1930, Việt Quốc đánh úp một
đồn Pháp tại Yên Bái, cướp được kho súng và treo cờ Việt Quốc, nhưng sau
đó bị Pháp dồn quân trấn áp nên phải rút lui. Vào đêm 10/2/1930, Việt
Quốc tấn công đồn Phú Thọ, sau đó, đánh chiếm phủ Lâm Thao. Ðến lúc quân
Pháp phản công, ông Nguyễn Khắc Nhu bị thương, bị bắt rồi tự sát. Ở Hà
Nội, thẩm sát viên Genis bị ám sát ở cầu Long Biên, học sinh trường Kỹ
Nghệ ném bom các sở mật thám và bót cảnh sát nhưng không phối hợp được
với cuộc nổi dậy ở các tỉnh. Rạng ngày 16/2/1930, Việt Quốc đánh chiếm
huyện Phủ Dực ở Thái Bình và một toán khác đánh chiếm huyện Vĩnh Bảo,
Hải Dương, nhưng chưa kịp tấn công Ninh Giang thì bị Pháp dội bom tại
làng Cổ Am. Ngày 22/2/1930, thủ lãnh Nguyễn Thái Học bị thương rồi bị
bắt tại Ðông Triều. Ngày 17/6/1930, anh hùng Nguyễn Thái Học cùng 12
đồng chí bị tử hình tại Yên Bái. Cuộc tổng khởi nghĩa bị dập tắt, nhưng
tinh thần anh dũng của nghĩa quân Việt Quốc đã trở thành bất tử.
1943 : Ðặc xá Hồ Chí Minh
Tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc
theo chỉ thị của đệ tam quốc tế, từ Mạc Tư Khoa trở lại Hoa Nam để thành
lập Mặt Trận Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh. Mặt
trận này che dấu tung tích cộng sản để chiêu dụ các đảng phái lưu vong
tại Hoa Nam qua chiêu bài chống Tây đánh Nhật. Dù vậy, vẫn không che mắt
được chính phủ Trung Hoa Quốc Dân Ðảng, nên sang đầu năm 1942, Hồ Chí
Minh bị bắt giam. Cùng lúc đó, tướng Trương Phát Khuê là thống đốc tỉnh
Quảng Tây, đã hỗ trợ cho cụ
Nguyễn Hải Thần thành lập Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội.
Ðể tỏ lòng đoàn kết vì mục tiêu chống Pháp, cụ Nguyễn Hải Thần đã đề
nghị nhà nước Trùng Khánh đặc xá cho Nguyễn Ái Quốc. Sau đó, Quốc sử
dụng bí danh của cụ Hồ Học Lãm, tự xưng là Hồ Chí Minh để tổ chức lại
đảng cộng sản. Trong lịch sử cận đại nước ta, sự kiện cụ Nguyễn Hải Thần
xin đặc xá cho Hồ Chí Minh đã trở thành điểm khởi cho 70 năm điêu linh
về sau của cả dân tộc Việt Nam.
1946 : Thỏa ước Fontainebleau
Ngày 15/8/1945, Nhật đầu hàng Ðồng
Minh. Ngày 17/8/1945, Hồ Chí Minh đã gian trá biến cuộc biểu tình ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim trở thành ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Ngày 19/8,
Việt Minh tung các đội ám sát thủ tiêu nhiều nhà cách mạng Việt Nam chủ
trương không theo cộng sản tại Hà Nội, và treo cờ cướp chính quyền.
Ngày 25/8, vua Bảo Ðại bị
cưỡng ép thoái vị, trao quyền
lại cho chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh, với tuyên cáo thành lập vào
ngày 2/9/1945. Tháng 2/1946, quân Nhật bị giải giới, liên quân Anh - ấn
triệt thoái khỏi Việt Nam. Ngày 6/3/1946, Hồ Chí Minh ký với Pháp một sơ
ước để mời 15.000 quân Pháp vào Bắc Việt, ngược lại, Pháp công nhận Việt
Nam là một nước trong Liên Bang Ðông Dương thuộc khối Liên Hiệp Pháp.
Nhân dịp này, cao ủy Ðông Dương d'Argenlieu xúi Nguyễn Văn Thinh thiết
lập Nam Kỳ Quốc với một nền hành chánh riêng biệt ở cao nguyên Trung
phần. Pháp dựa vào đó để từ chối việc trao trả độc lập cho Việt Nam. Mạc
Tư Khoa lại chỉ thị cho Hồ Chí Minh không được gây khó khăn cho đảng
cộng sản Pháp. Do đó, Hồ đã chính thức ký thỏa ước Fontainebleau ngày
14/9/1946 với Marius Moutet, công nhận quyền cai trị của Pháp.
1954 : Hiệp Ðịnh Genève
Ngày 7/5/1954, cuộc chiến Ðiện Biên
kết thúc, de Castries đầu hàng. CSVN cũng đã trả một giá quá đắt bằng
xương máu nhân dân để tạo áp lực trên bàn hội nghị Leman về việc ngừng
bắn ở Ðông Dương. Ðây là một hội nghị do ngoại trưởng Pháp J.Bidault và
ngoại trưởng Liên Xô Molotov sắp xếp, sau khi Hội Nghị Tứ Cường ở Genève
tan vỡ từ đầu năm 1954. Sau trận Ðiện Biên Phủ, đại diện của Việt cộng,
Trung cộng và Liên Xô đã họp lại với phe đại diện Anh-Pháp-Ðông Dương
tại Genève, đi tới việc ký kết Hiệp định 20/7/1954 gồm 5 điều :
Ðiều 1 quyết định chia cắt đất nước Việt Nam làm đôi, lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17 làm ranh giới.Ðiều 2 là cả hai miền không được thiết lập thêm căn cứ quân sự và không tham gia vào các liên minh quân sự.Ðiều 3 quy định thời hạn 2 năm để cả hai miền tổ chức tổng tuyển cử.Ðiều 4 xác định quyền lợi và văn hóa Pháp tại Bắc Việt vẫn được Việt Minh bảo đảm.Ðiều 5 liên quan đến việc thành lập một Ủy Hội Kiểm Soát Ðình Chiến gồm có đại diện của Pháp, Việt Minh, Gia Nã Ðại, Ấn Ðộ, Ba Lan và Việt Nam.
1955 : Chính thể Việt Nam Cộng Hòa
Ở phía Bắc sông Bến Hải, CSVN tổ
chức nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa theo đường lối chuyên chính vô sản
của Mạc Tư Khoa. Ở miền Nam Việt Nam, ông
Ngô Ðình Diệm
cho mở cuộc trưng cầu dân ý ngày 23/10/1955 để nhân dân chọn lựa chính
thể. Chế độ quân chủ được chính thức chấm dứt. Ngày 26/10/1955, miền Nam
tuyên bố thành lập quốc gia Việt Nam Cộng Hòa theo tổng thống chế.
Ngày 5/3/1956, Quốc Hội Lập
Hiến miền Nam ra đời, cắt đứt
mọi liên hệ với thực dân và phong kiến và trở thành một nước độc lập
thuộc thế giới tự do.
1960 : Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Từ cuối năm 1956, Lê Duẩn đã triệu
tập hội nghị Xứ Ủy Nam Bộ kỳ II, quyết định khuấy động miền Nam. Ðến năm
1959, kế hoạch của Lê Duẩn được giới lãnh đạo trung ương CS Hà Nội hoàn
chỉnh. Giữa năm 1960, Lê Duẩn triệu tập hội nghị xứ ủy kỳ V, quyết định
tiến hành kế hoạch đánh chiếm miền Nam.
Ngày 20/12/1960, Mặt Trận Dân Tộc
Giải Phóng Miền Nam được chính thức thành lập
tại xã Tân Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Ðến ngày mùng một Tết
Tân Sửu (15/2/1961), CSVN cho ra đời lực lượng vũ trang gọi là Quân Giải
Phóng Miền Nam. Ðây là bàn đạp khuấy động của cộng sản Bắc Việt, nhận
lãnh sự thất bại trong các chiến dịch Ðồng Khởi ban đầu, và dần dà đã
giữ chức năng thứ yếu về sau, khi CSVN quyết định tung nhiều sư đoàn chủ
lực từ miền Bắc vào đánh chiếm miền Nam.
1968 : Trận Mậu Thân
Sau nhiều năm tấn công phá hoại và
không đạt kết quả, Hà Nội chỉ thị cho lực lượng CSVN ở miền Nam phải thi
hành một vụ công phá có động lượng. Kế hoạch đó nhen nhúm từ năm 1964,
nhưng bị đình hoãn nhiều lần. Tháng 5/1967, Bộ Chính Trị Hà Nội chỉ thị
cho Trung ương Cục miền Nam phát động chiến dịch tổng công kích-tổng
khởi nghĩa, nhưng lại bị hoãn thêm một lần nữa, vì tướng Nguyễn Chí
Thanh của CSVN bị đột tử trên đường vào Nam nhận chức vụ tân bí thư
trung ương cục. Phạm Hùng vào thay. Nguyễn Văn Linh làm phó bí thư. Kế
hoạch vẫn chưa được thi hành vì cộng sản miền Nam bị vỡ lở nhiều cơ sở
do nội phản. Các tiểu đoàn chính quy Bắc Việt xâm nhập vào Nam phải nằm
chờ. Cho đến đầu năm dương
lịch 1968, Trần Văn Trà ra Bắc, trực tiếp nhận chỉ thị của Hà Nội là
nhân dịp ngừng bắn đầu năm ta, phải khai hỏa vào Tết Mậu Thân bằng mọi
giá.
Cuộc tổng công kích xảy ra trên một
số địa bàn chiến lược. CSVN tấn công nhiều điểm trọng yếu tại Sài Gòn
nhưng bị quân lực VNCH đánh bật tức khắc. Riêng ở Huế, Bắc Việt đã chiếm
giữ thành phố nhiều ngày, giết và chôn sống dân từng loạt lên tới hàng
chục ngàn người. Nhưng cuối cùng cũng phải rút lui. Ðến tháng 5 năm
1968, Hà Nội lại ra lệnh cho Trung ương Cục Miền Nam tổng tấn công đợt
hai, với kết quả thất bại nhanh hơn đợt một. Từ hai đợt thất bại đó,
chiến dịch này được gọi lại là tổng công kích. Dù dưới tên gọi nào,
chiến dịch này đã xóa sổ hàng chục ngàn bộ đội và giết hại nhân dân miền
Nam nhiều lần cao hơn. Hồ Chí Minh cũng căm tức qua đời sau đó.
1975 : Nhuộm đỏ miền Nam
Sau Hiệp Ðịnh Ngưng Bắn ở Ba Lê năm
1973, và nhất là sau tiến trình Việt Nam Hóa chiến tranh của chính phủ
Mỹ, dân quân miền Nam bị đặt vào thế trói tay trên đấu trường. Trong khi
đó, Hà Nội vẫn được viện trợ hùng hậu từ đàn anh Liên Xô, và quyết tâm
đánh chiếm kỳ được miền Nam sau 20 năm khởi động cuộc chiến bành trướng
chủ nghĩa cộng sản. Hậu quả là
miền Nam rơi vào tay cộng vào ngày
30/4/1975 qua lời tuyên bố
đầu hàng của Dương Văn Minh. Dân tộc lại bị chia lìa lần nữa, sau vụ
hiệp định Genève. Một số người di tản ra khỏi nước ngay đầu tháng
5/1975. Một phong trào vượt biên vượt biển kéo dài nhiều năm sau đó, với
số người chết trên biển ước lượng lên tới hàng triệu nhân mạng. CSVN chở
hàng cướp đoạt từ Nam ra Bắc, và bắt đầu trả thù dân quân miền Nam bằng
hình thức tù cải tạo, triệt tiêu tư sản, và đày dân lên vùng kinh tế
mới. Quân cảng Cam Ranh trở thành tô giới của Liên Xô. Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam bị sổ toẹt khi không còn chức năng tay sai Hà Nội. Chính
sách vô sản hóa được thi hành thống nhất trên cả hai miền. Tài nguyên
đất nước được tập trung trả nợ chiến phí. Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc
vào Liên Xô và nhanh chóng rơi tuột xuống hàng nghèo đói nhất nhì thế
giới.
1979 : Chiến tranh xâm lược Cam Bốt và chống trả Trung Quốc
Liên Bang Ðông Dương vẫn từng là
giấc mơ của CSVN từ thời thành lập đảng năm 1930. Sau năm 1975, nhân khí
thế cưỡng chiếm miền Nam, và với một số lượng vũ khí to lớn sau chiến
tranh hai miền, Hà Nội quyết định xâm chiếm Cam Bốt. Những căng thẳng
với Cam Bốt xảy ra từ tháng 6/1976, khi Ieng Sary kêu gọi Tân Gia Ba
đừng tin vào một liên bang Ðông Dương của Hà Nội. Cuối tháng đó, Khmer
Ðỏ tấn công qua biên giới VN. Tháng 7/1977, Lê Duẩn và Phạm Văn Ðồng
sang Lào, ký kết hiệp ước hữu nghị, mở đường đưa 40 ngàn quân qua Lào.
Trong khi đó, Lê Ðức Thọ sang Mạc Tư Khoa triều kiến Brezhnev. Cuối
tháng 7/1977, Liên Xô tăng viện cho Hà Nội 600 cố vấn và các phi đội
Mig-21. Tháng 11/1977, Lê Duẩn lại sang Mạc Tư Khoa để trình kế hoạch.
Tháng 2/1978, Hà Nội chiêu dụ Heng Samrin và Hun Sen, đến tháng
4/1978, Hà Nội cho thành lập các lực lượng Khờme và Mặt Trận Cứu Nguy
Cam Bốt, tương tự kiểu MTGPMN
trước đây. Ðầu tháng 12/1978, Hà Nội thành lập bộ chỉ huy cuộc tấn công
Cam Bốt, với Lê Ðức Anh làm Tư lệnh lực lượng và Lê Khả Phiêu là phụ tá.
Ðến lễ Giáng Sinh 1978, Hà
Nội tung quân từ Lào và từ miền Tây Nam Việt sang Cam Bốt, lấy lý cớ
diệt trừ Khmer Ðỏ Pol Pot.
Cuộc chiến ác liệt khiến đôi bên đều bị tổn thất nặng nề. Sau cùng, lực
lượng Pol Pot bỏ chạy về biên giới Thái Lan. Hà Nội thiết lập một Hội
Ðồng Cách Mạng Cam Bốt, với Heng Samrin làm chủ tịch và Hun Sen làm bộ
trưởng ngoại giao.
Hậu quả cuộc xâm lăng này không chỉ
khiến hàng chục ngàn bộ đội CSVN bị chết thảm, nó còn khiến quốc tế lên
án Việt Nam, và gần nhất,
Ðặng Tiểu Bình tuyên bố là Hà Nội phải bị trừng phạt.
Ngày 17/2/1979, Bắc Kinh huy động 85 ngàn quân có thiết giáp yểm trợ
đánh tràn vào các chốt dọc biên giới Hoa-Việt. Hà Nội phải huy động toàn
lực ở miền Bắc để chống trả, với số thiệt hại rất cao về nhân mạng bộ
đội và thường dân. Trong thời gian này, tất cả sử sách liên hệ tới Trung
Hoa đều được Hà Nội viết lại bằng lời thóa mạ. Ngày 5/3/1979, quân Tàu
san bằng các vùng dọc biên giới và biến Lạng Sơn thành bình địa, sau đó,
tuyên bố đạt mục tiêu, và tự triệt thoái.
Cả hai cuộc chiến này, ngay sau mấy
thập niên chinh chiến giữa hai miền Nam-Bắc, thật sự vô ích và chỉ nhằm
đạt được tham vọng của Hà Nội là khống chế Miên-Lào. Hậu quả lâu dài của
nó là Việt Nam hoàn toàn bị cô lập ngoại giao và ngoại thương suốt một
thập niên, đóng góp hữu hiệu hơn vào việc vùi dập đất nước dưới vực sâu
nghèo đói.
***
Nhìn chung 100 năm cận đại, các sử
kiện tiêu biểu trên đây cho thấy là chỉ vì tham vọng của một thiểu số
lãnh đạo CSVN, bắt đầu từ Hồ Chí Minh, đất nước Việt Nam đã chịu cảnh
điêu linh trong suốt thế kỷ. Và đứng trước thềm thiên niên kỷ mới, hai
bài toán độc lập và canh tân của Việt Nam vẫn còn nguyên, như một thách
thức kéo dài cho những con dân Việt hằng mong dân tộc bước cùng thế giới
tiến bộ đón chào một kỷ nguyên hòa bình và phát triển :
Phải chấm dứt chế độ cộng sản để
canh tân Việt Nam.
Ngô Trọng Ðức
No comments:
Post a Comment