Đặng Chí Hùng – Những sự thật không thể chối bỏ (phần 5) – Nỗi đau Cải Cách
Những sự thật không thể chối bỏ (phần 5) – Nỗi đau Cải Cách
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
– Tôi xin được trình bày ở bài viết này sự thật về cái gọi là “Cải cách
ruộng đất” man rợ ở Miền Bắc. Nó không mới lạ với đa số bạn đọc. Nhưng
lâu nay, người cộng sản hoặc bênh vực cho cộng sản đổ tội cho ông Trường
Chinh, Lê Văn Lương… Điều này không sai nhưng chưa đủ. Vai trò và trách
nhiệm của ông Hồ Chí Minh trong chiến dịch dẫn đến cái chết của gần
200,000 người dân vô tội cần được vạch rõ.
A. Cải cách ruộng đất (CCRĐ) hay trò chơi với xác người?
1. Bối cảnh lịch sử và vấn đề cải cách nông nghiệp tại miền Bắc:
Đảng cộng sản dưới sự chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh đã thực hiện CCRĐ
trong tính toán của minh và theo tinh thần của “đàn anh” Trung cộng làm
trong “Cải cách văn hóa”. Đây cũng là một trong những điều chứng tỏ ông
Hồ và đảng cộng sản luôn luôn đưa mình vào vị thế làm chư hầu cho Trung
cộng (đã trình bày ở phần 4).
Điều này cũng không có gì quá ngạc nhiên vì trong các chế độ Cộng
sản, bản chất của Cải cách Ruộng đất là đảo lộn toàn bộ tổ chức xã hội
bằng cách phế bỏ quyền tư hữu đối với tất cả ruộng, đất, vườn, ao, hoa
màu, trâu bò và dụng cụ sản xuất như cày, bừa, cuốc, xẻng v.v… …
Thực chất vấn đề là nó biến cuộc nổi dậy theo cách gọi của Việt
Minh thành một cuộc trả thù đẫm máu. Nó không khác gì một cuộc diệt
chủng áp dụng lên chính đồng bào của mình.
Chiến dịch CCRĐ xảy ra vào giai đoạn mà đảng Cộng sản Việt Nam đã
củng cố được địa vị lãnh đạo và quyền lực. Sau khi cướp được chính quyền
vào năm 1945, đảng cộng sản đã tiêu diệt các lực lượng và đảng phái
quốc gia cũng như dân tộc khác từ năm 1946. Trong giai đoạn từ 1946 đến
1950, đảng cộng sản Việt Nam bị tách biệt với phong trào cộng sản Quốc
tế, không thể nhận sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc và vì còn yếu
nên còn cần sự hợp tác của các thành phần không Cộng sản trong hàng ngũ
Việt Minh. Khi đảng cộng sản Trung Quốc chiếm được chính quyền tại Trung
Quốc tháng 10-1949, biên giới Việt Nam–Trung Hoa thông thương được.
Cộng sản Việt Nam được Trung cộng viện trợ vũ khí, cán bộ huấn luyện.
Lúc đó đảng cộng sản cũng đã nắm vững tình hình trong nước nên có thể
thi hành biện pháp có tính cách Cộng sản mà trước đây đảng cộng sản chưa
thể làm vì chưa đủ sức chống đỡ với sự phản đối của quần chúng và các
tổ chức không theo cộng sản.
Chiến dịch Cải cách Ruộng đất và một số các chiến dịch thuộc vào
giai đoạn hai trong sách lược cách mạng vô sản của đảng Cộng sản: giai
đoạn đầu là Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân, giai đoạn hai là giai đoạn Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa.
Chỉ từ giai đoạn hai trở đi thì các đặc tính của cộng sản mới lộ ra.
Đây là chiêu lừa đảo rất tinh vi của cộng sản. Họ lợi dụng cách mạng dân
tộc để lừa bịp nhân dân chiến đấu, đóng góp cho chế độ độc tài kéo dài
đến ngày hôm nay.
Tại văn kiện đại hội đảng để thực hiện việc cải cách ruộng đất (Nhà
xuất bản chính trị đảng cộng sản việt nam- trang 5) có đánh giá: “…Việc
đấu tranh giai cấp giữa địa chủ và nông dân đã được đặt ra ngay từ khi
thành lập Đảng. Đây là vấn đề bức thiết cần phải thực hiện trong thời
gian tới đây. Chúng ta nhận thấy rằng từ có từ 90% đến 95% dân chúng
Việt Nam là nông dân, và trong số này thì chỉ có khoảng 5% là địa chủ
phú nông, còn đa số đều là người làm thuê, làm mướn, tá canh, tá điền.
Do đó, chúng ta muốn làm cách mạng xã hội phải lôi cuốn được khối đa số
đó, phải thỏa mãn khối đa số đó bằng quyền lợi để tiến hành cách mạng
dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội…”.
Như vậy, qua đây có thể thấy đảng cộng sản chỉ muốn lợi dụng số
đông nông dân có dân trí kém để thúc đẩy một cuộc cướp bóc, trả thù đẫm
máu với giai cấp trí thức hơn. Họ nhằm hai mục tiêu: (1) Đạt được ý
nguyện cướp bóc, trả thù và (2) lợi dụng đó làm bàn đạp cho chế độ đảng
trị khi trói buộc lợi ích của nông dân vào thòng lọng giăng sẵn.
2. Các bước thực hiện cải cách ruộng đất:
Giai đoạn khởi động: Vào giữa năm 1949, khi sửa
soạn chuyển qua giai đoạn phản công quân sự, Việt Minh đã vững mạnh ở
vùng nông thôn và nhất là rừng núi Việt Bắc. Lúc đầu, Việt Minh thực
hiện cuộc CCRĐ thử nghiệm, chỉ kiếm cách tăng gia sản lượng nông nghiệp
nhắm cung ứng nhu cầu đội quân càng ngày càng gia tăng. Để khuyến khích
nông dân ra sức cày bừa, chính phủ Việt Minh đã ra sắc lệnh số 78/SL
ngày 14-7-1949 thành lập “Hội đồng giảm tô”, ấn định các chủ
đất (Việt Minh gọi là địa chủ) phải giảm thiểu đồng bộ tiền thuê đất
(địa tô) cho tá điền là 25%, có nơi có thể giảm tối đa 35% trong trường
hợp tá điền quá nghèo khổ. Sau đó, thông tư liên bộ số 33/NVI ngày
21-8-1949 đưa ra những nguyên tắc chủ yếu về việc phân chia tạm thời cho
nông dân ruộng đất tịch thu của các điền chủ người Pháp và những điền
chủ “Việt gian”, tức là những người bị Việt Minh kết tội thân Pháp, hoặc
không cộng tác với Việt Minh.
Giai đoạn hai: Trong năm 1950, một loạt sắc lệnh
nông nghiệp ra đời có tính cách mỵ dân, nhắm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ
công cuộc kháng chiến của Việt Minh, bắt đầu bằng sắc lệnh số 20/SL ngày
12-2-1950 ra lệnh tổng động viên toàn bộ “nguồn nhân lực, vật lực (gia súc, công cụ) và tài lực (tiền bạc) cho tổ quốc”.
Sau đó, ngày 22-5-1950, xuất hiện cùng một lúc hai sắc lệnh. Sắc lệnh số 89/SL
quyết định xóa bỏ tất cả những hợp đồng vay nợ giữa tá điền với điền
chủ ký kết trước năm 1945, và xóa bỏ cả những hợp đồng ký kết sau năm
1945 nếu con nợ đã trả đủ 100% số tiền đã vay, hoặc con nợ đã từ trần vì
sự nghiệp của Việt Minh thì gia đình khỏi trả nợ.
Sắc lệnh thứ hai do chính phủ VM ban hành cùng ngày 22-5-1950 mang số 90/SL, quốc hữu hóa tất cả những đất đai đã bỏ hoang trong 5 năm liên tục kể từ ngày ra sắc lệnh.
Giai đoạn ba: Giai đoạn thứ ba bắt đầu bằng sắc
lệnh ngày 20-4-1953, đăng trên Công báo Việt Minh ngày 20-5-1953. Sắc
lệnh nầy không có gì mới lạ, chỉ củng cố những “thành quả” của cuộc Cải
cách trước. Lần nầy, giá thuê đất được hạ thêm 25% để “làm thế nào cho tiền thuê đất không thể vượt quá 1/3 lợi tức mùa gặt.”
Luật mới quy định các chủ đất không được buộc tá điền phải đóng thêm
tiền cho các phí tổn khác, như tiền thuê dụng cụ hay trâu bò cày bừa
(điều 6), cũng như cấm các chủ đất hủy bỏ những hợp đồng cũ để ký kết
những hợp đồng tương tự khác (điều 14, 16). Sắc luật nầy nhắc lại việc
hủy bỏ hoàn toàn tiền nông dân vay nợ trước tháng 8-1945 (điều 17), và
hoãn lại những món nợ của các thành phần ưu đãi của Việt Minh (binh sĩ
Việt Minh, người nghèo…) trong trường hợp những chủ nợ đang sống trong
vùng do chính quyền Quốc gia kiểm soát (điều 18). Đối với những chủ nợ
sống tại vùng Việt Minh, các con nợ vay sau 1945 cũng được giảm từ 18
đến 20% (điều 21). Sắc lệnh nầy quyết định tịch thu tất cả những tài sản
của “đế quốc” Pháp, “Việt gian” và “địa chủ ác ôn” để phân phối lại cho
những người không có đất đai nhà cửa, và ưu tiên cho những thành phần
nòng cốt của Việt Minh (điều 25 đến 30). Cuối cùng, sắc luật nầy thành
lập “Ủy ban nông nghiệp” các cấp. Ở trung ương, Ủy ban nông nghiệp do
thủ tướng đứng đầu, gồm bộ trưởng Canh nông, bộ trưởng Nội vụ, đại diện
Mặt trận Liên Việt, và hai đại diện của Ủy ban Liên lạc Nông dân. Ở mỗi
cấp hành chính, cho đến cấp xã đều có những “Ủy ban nông nghiệp” gồm
những nhân vật tương tự ở mỗi cấp (điều 35, 36).
Giai đoạn thứ tư: Vào cuối tháng 11 đầu tháng
12-1953, Việt Minh triệu tập Đại hội Đại biểu đảng Lao động, và Đại hội
Trung ương đảng tại vùng chiến khu Việt Bắc. Đề tài thảo luận chính của
khóa họp đảng Lao động lần này là câu khẩu hiệu “Ruộng đất cho người cày”.
Sau gần một tháng hội họp, kết quả thảo luận của Trung ương đảng được
đưa cho quốc hội Việt Minh thông qua để có hình thức dân chủ, trong kỳ
họp ngay sau đó. Quốc hội nầy thành lập từ năm 1946 gồm 444 người, nay
chỉ có 171 đại biểu dự họp. Đảng Lao động quyết định thực hiện dần dần
cuộc CCRĐ theo một kế hoạch được soạn thảo kỹ lưỡng.
Sắc lệnh CCRĐ lần này hơi khác với đường lối cải cách của Liên Xô.
Tại Liên Xô, đảng Cộng sản Liên Xô xóa bỏ hẳn sự tư hữu đất đai, và nông
dân chỉ có “quyền lao động”. Việt Minh theo đường lối cải cách của
Trung Cộng và Bắc Triều Tiên, trên lý thuyết không xóa bỏ hẳn quyền sở
hữu đất đai của nông dân mà cho phép dân cày có quyền có đất. Việc này
thực sự chỉ có trên lý thuyết, chứ trong thực tế, nhà nước Cộng sản quản
lý toàn bộ đất đai.
Mở đầu, Sắc lệnh ngày 4-12-1953 nêu lên ý nghĩa và mục đích của
cuộc CCRĐ lần nầy là “bãi bỏ toàn diện quyền sở hữu đất đai của “Thực
dân Pháp” và của tất cả những “đế quốc” khác, đồng thời thiết lập quy
chế sở hữu đất đai của nông dân” (điều 1). Toàn bộ đất đai của “Thực dân
Pháp”, “Việt gian”, “địa chủ phản động”, và những “phú hộ ác ôn” đều bị
tịch thu (điều 1). Đất đai của những thành phần dân chủ tiến bộ, kháng
chiến và hợp tác với Việt Minh sẽ được trưng dụng. Nhà nước sẽ bồi
thường hằng năm khoảng 1,5% tài sản (điều 4). Đối với những điền chủ lẩn
tránh chính sách bằng cách sang, bán, chuyển nhượng đất đai sau cuộc
CCRĐ lần thứ ba (20-4-1953), nhà nước xem đó là những hành động bất
chính, sẽ trưng dụng đất đai và bồi thường bằng tín phiếu ngân hàng
(điều 5). Cuối cùng, sắc lệnh nầy cấm đoán mọi sự phản kháng cuộc CCRĐ
(điều 35), và quy định việc thiết lập tòa án nhân dân đặc biệt để xét xử
những thành phần chống lại cuộc CCRĐ của Việt Minh (điều 36).
Giai đoạn thứ năm: Vào giữa năm 1954, nước Việt
Nam bị chia hai bằng Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7-1954, theo đó
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tức Việt Minh Cộng sản cai trị ở phía bắc vĩ
tuyến 17, Quốc gia Việt Nam ở phía Nam. Nói cách khác, Cộng sản không
còn ở rải rác trong các chiến khu khắp Bắc, Trung và Nam Việt Nam, mà
tập trung tại vùng phía bắc vĩ tuyến 17 đến biên giới Trung cộng. Hồ Chí
Minh và đảng Lao động muốn áp đặt một chính quyền độc tài theo chủ
thuyết Mác-Lê trên lãnh thổ miền Bắc. Muốn thế, họ nhắm ngay đến thành
phần rộng rãi chiếm đại đa số xã hội Việt Nam, đó là nông dân ở thôn
quê. Nắm được nông thôn, kho lương thực của dân chúng, thì Cộng sản sẽ
nắm được thành thị không mấy khó khăn.
Tình hình ruộng đất ở Bắc Việt thay đổi lớn lao sau hiệp định
Genève, vì khoảng 1,000,000 người bỏ đất Bắc di cư vào Nam, để lại toàn
bộ điền sản tại quê nhà. Sau khi tái tổ chức chính quyền, tạm ổn định
tình hình, Hồ Chí Minh ký sắc luật về CCRĐ ngày 14-6-1955.
Sắc luật nầy dựa căn bản trên hai sắc lệnh tháng 4 và tháng 12 năm
1953, theo đó nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản (đất đai, nhà cửa, gia
súc, nông cụ…) của những người “Thực dân”, địa chủ gian ác, cường hào ác
bá, “Việt gian” phản động; trưng thu không bồi thường và thu mua đất
đai, nông cụ, gia súc thuộc các nhân vật “tiến bộ”, các địa chủ đã tham
gia kháng chiến, các địa chủ thuộc thành phần thương gia hay kỹ nghệ
gia; truất hữu đất đai của các tổ chức tôn giáo như Công giáo, Phật giáo
(chương 2).
Chú ý: Tất
cả các văn bản, công văn có số ở phần trên có trong cuốn: Tập hợp văn
kiện văn bản của đảng trước 1975 (Nhà xuất bản văn hóa- của đảng cộng
sản) và một số lưu tại thư viện quốc gia Việt Nam. Đây là các tài liệu
củ đảng cộng sản, được đảng cộng sản công khai. Bạn đọc có thể kiểm
chứng. Hoặc có thể truy cập vào:
sẽ có đầy đủ các văn bản tại phần trên (Website này là thư viện pháp luật của bộ tư pháp Việt Nam).
3. Tiến hành:
Từ 1949 đến 1956, Việt Minh Cộng sản mở năm đợt Cải cách Ruộng đất
(CCRĐ). Sau mỗi đợt, Việt Minh tổ chức hội nghị rút ưu khuyết điểm, để
rồi tiến hành tiếp đợt khác. Trong hai đợt đầu (1949 và 1950), Việt Minh
thực hiện cải CCRĐ nhẹ nhàng để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân
trong hoàn cảnh chiến tranh.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung
Hoa, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trung cộng thừa nhận
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp
theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua
Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho
Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng
Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản. Stalin chỉ
đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập phương pháp
CCRĐ triệt để, vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn bình thường và vì
Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng. (Links : http://tennguoidepnhat.net/2012/04/06/về-chuyến-tham-bi-mật-lien-xo-va-trung-quốc-nam-1950/). Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Sau khi về nước, Hồ Chí Minh liền triệu tập Đại hội lần 2 đảng Cộng
sản Đông Dương tại chiến khu rừng núi Tuyên Quang, tái công khai đảng
Cộng sản dưới danh xưng mới là đảng Lao động ngày 19-2-1951, do Hồ Chí
Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư. Trong Đại hội nầy, Hồ
Chí Minh đã phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao động Việt Nam theo chủ
nghĩa Mác-Lênin… lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam… Tôi không
có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lênin”. (Trích Hồ Chí Minh toàn
tập-Sách của đảng cộng sản Việt Nam). Chẳng những thế, cũng trong Đại
hội này, Hồ Chí Minh còn nhiều lần tuyên bố: “Ai có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được”. (Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản quốc tế, 2001, tr. 63.)
Để tiến hành CCRĐ, sau Đại hội 2, Việt Minh cử người sang Trung
cộng tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lênin tổ chức tại Bắc Kinh
cho các đảng Cộng sản các nước Á Châu như Indonesia, Mã Lai, Thái Lan,
Pakistan, Philipin, Nhật Bản, chính là để học phương thức CCRĐ theo
đường lối Trung cộng. Phái đoàn nầy trở về liền được đảng LĐ gởi tổ chức
thí điểm CCRĐ, bắt đầu phát động “giảm tô, giảm tức” ở vài tỉnh Việt
Bắc và ở Thanh Hóa.
Các thành phần theo quy định của Việt Minh cộng sản Đối với các
thành phần nông nghiệp, VM ra sắc lệnh vào tháng 3-1953 ấn định các
thành phần xã hội ở nông thôn như sau (Bernard Fall, sđd. tr. 283):
Địa chủ: là những người có nhiều ruộng đất mà không trực
tiếp canh tác. Địa chủ được chia thành ba hạng: địa chủ thường (có
khoảng dưới 5 mẫu ta, đủ ăn, không phạm tội ác ôn dưới thời Pháp thuộc),
địa chủ cường hào ác bá (những người hiếp đáp, ngược đãi bần nông và
bần cố nông), địa chủ phản động (quan lại phong kiến, Việt Quốc, Đại
Việt, hay thân Pháp).
Phú nông: có khoảng 3 mẫu ta đất, có một con trâu, tự đứng ra canh tác và thuê nông dân trong việc canh tác.
Trung nông: có dưới 3 mẫu ta, trực canh, đủ sống. Trung
nông chia thành 2 loại: trung nông cấp cao (có dưới 3 mẫu ta, có một con
trâu hay bò), và trung nông cấp thấp (có dưới 1 mẫu ta ruộng).
Bần nông: có ít sào đất, không đủ sống, phải đi làm thuê cho địa chủ hay thuê đất của địa chủ rồi trả địa tô.
Bần cố nông: hoàn toàn không có đất, không có gia súc,
không có nông cụ, làm thuê đủ thứ nghề để sống. (Lâm Thanh Liêm, bđd.
sđd. tt. 187-188).
Đường lối đấu tranh CCRĐ là: dựa vào bần cố nông, lôi kéo (tranh thủ) trung nông, cô lập phú nông, và tập trung mũi nhọn vào địa chủ. (Trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam).
Khích động khát máu – “Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch”: Để khích động nông dân hưởng ứng cuộc CCRĐ, ban cải cách phải theo đúng ba giai đoạn đề ra do sắc lệnh ngày 12-4-1953 như sau:
Thứ nhất:
kích động tâm lý quần chúng chống lại các địa chủ bằng cách đưa cán bộ
về thực hiện “tam cùng” hay “tam đồng” với bần nông, để “thăm nghèo hỏi
khổ” và sau đó “bắt rễ, xâu chuỗi”.
Thứ hai:
Sau khi len lỏi “bắt rễ xâu chuỗi”, và nhờ thông tin của rễ chuỗi nầy,
nắm vững tình hình các gia đình trong địa bàn hoạt động, cán bộ bắt đầu
đánh giá và xác định lại các thành phần xã hội đã được Ủy ban hành chánh
địa phương sắp xếp theo Sắc lệnh tháng 3-1953 nêu trên. Từ đó, đội công
tác mới quyết định các đối tượng sẽ bị đấu tố. Đây là cơ hội giải quyết
những ân oán đã có từ trước ở trong làng, ví dụ rút địa chủ xuống hàng
phú nông cho nhẹ tội, hay ngược lại đưa phú nông lên hàng địa chủ cho
nặng tội.
Thứ ba:
Thiết lập tòa án nhân dân để xét xử những kẻ có tội với nhân dân. Để
việc xét xử đạt kết quả đúng yêu cầu của đảng LĐ, các bần nông được tổ
chức chặt chẽ và sửa soạn kỹ càng để họ chủ động đấu tố.
Trong năm 1953, mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ để tiến hành CCRĐ,
nhưng vào đầu năm 1954, chiến tranh đến hồi khốc liệt và sắp kết thúc,
chính phủ VM bận giải quyết chiến trường, vận động ngoại giao, rồi ký
kết Hiệp định Genève nên cuộc CCRĐ tạm đình hoãn vì sợ tiếng vang lan
truyền khắp nơi, khiến dân chúng lo sợ bỏ di cư vào Nam. Việt Minh chỉ
đình hoãn chứ không bãi bỏ.
Sau Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, đảng Lao Động cai trị phía bắc
vĩ tuyến 17 (bắc sông Bến Hải, Quảng Trị). Ổn định xong tình hình, đảng
Lao động mở lại cuộc CCRĐ giai đoạn 5. Lần này việc tổ chức có quy củ rõ ràng, do Ủy ban CCRĐ đứng đầu.
Ủy ban cải cách: gồm hai cấp trung ương và địa phương.
Cấp trung ương: do tổng bí thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng
(ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp
điều hành cuộc Cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng
đã từng đi học ở Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở “Trung tâm đào tạo cán bộ Cải cách Ruộng đất” tại chiến khu Cao Bắc Lạng.
Cấp tỉnh:
Hồ Viết Thắng bổ nhiệm những người đã được đào tạo về các tỉnh tổ chức
các đoàn CCRĐ. Trung bình mỗi tỉnh có 10 đoàn, mỗi đoàn có khoảng 100
cán bộ do một đoàn trưởng đứng đầu, quyền hạn tương đương với một bí thư
đảng cấp tỉnh, nhận lệnh trực tiếp từ Ban cải cách trung ương, không
qua trung gian hệ thống đảng hay chính quyền địa phương. Mỗi đoàn gồm
nhiều đội, mỗi đội có khoảng 6 hay 7 cán bộ. Đội trưởng được chọn trong
số bần nông hay bần cố nông, nhất là những người đã từng có kinh nghiệm
tham gia các CCRĐ trước đây. Các đội có quyền hạn tuyệt đối, nhận lệnh
thẳng từ Ủy ban CCRĐ, đúng như câu tục ngữ lúc đó “nhất đội nhì trời”,
được quân đội bảo vệ để thi hành công tác, và được nhà cầm quyền địa
phương cung cấp đầy đủ tài liệu theo chính sách của đảng và nhà nước.
(Lâm Thanh Liêm, sđd., bđd. tt. 184-185).
Nguyên tắc hành động căn bản của các Ủy ban CCRĐ là câu khẩu hiệu: “Thà chết mười người oan còn hơn để sót một địch”
(Trích trong hồ sơ của hội đồng CCRĐ- thư viện pháp luật Việt Nam).
Chính câu khẩu hiệu nầy đã đưa đến việc giết hại tràn lan biết bao nhiêu
lương dân vô tội.
Câu khẩu hiệu này xuất hiện trong bài diễn văn của luật sư Nguyễn Mạnh Tường.
Theo bài diễn văn luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc tại cuộc họp Mặt trận
Tổ quốc ở Hà Nội ngày 30 tháng Mười 1956, cuộc cải cách ruộng đất được
thực hiện với phương châm “thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch”.
Phương châm này đi ngược lại với quy tắc cơ bản của pháp luật, trong
trường hợp này là “thà 10 địch sót còn hơn một người bị kết án oan”. Cụ
thể các quy tắc pháp lý đã bị xâm phạm là:
Không xử phạt các tội đã phạm quá lâu đến hiện tại mới điều tra ra.
Trách nhiệm của phạm nhân thì chỉ một mình phạm nhân chịu, không quy
kết cho vợ con, gia đình. Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác
đáng. Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị can. Bị can
có quyền nhờ luật sư bào chữa. Phải tôn trọng bị can trong quá trình
truy tố và xét xử; khi bị can ra trước tòa không được xiềng xích và
không được dùng nhục hình.
Đoàn và đội công tác phóng tay phát động quần chúng đấu tranh CCRĐ
hoạt động theo kiểu khủng bố: Bí mật đến một địa phương nào đó, bí mật
hành động… và gieo rắc tai ương khủng khiếp cho địa phương. Không những
chỉ địa chủ, phú nông sợ hãi mà toàn thể dân chúng và cả các cấp chính
quyền cũng như quân đội địa phương đều sợ hãi, vì bất cứ ai cũng có thể
bị dính tên vào sổ đấu tố mà không ai có thể đoán lường trước hậu quả.
Tòa án nhân dân:
Sắc lệnh năm 1953 cũng như Sắc lệnh năm 1955 đều thiết lập tòa án nhân
dân để xét xử những tội phạm trong CCRĐ. Tòa án nầy được tổ chức ở những
vùng có cải cách, chánh án là một đội viên trong đội cải cách, biện lý
(công tố) là một nông dân hay bần nông đã từng làm việc (gia nhân, tá
điền…) trong nhà của bị cáo, biết rõ lý lịch khổ chủ. Các quan tòa nầy
chỉ là những kẻ dốt nát, lâu nay thấp kém, bỗng chốc được cất nhắc lên
địa vị quan trọng, nên hạch sách trả thù, moi ra hay bịa đặt mọi thứ gọi
là thói hư tật xấu của khổ chủ, đặc biệt là tội dâm ô, để đấu tố. Đặc
biệt trong tòa án nhân dân không có người đóng vai trò luật sư biện hộ,
và cũng chẳng ai dám biện hộ cho bị cáo cả. Quân đội bảo vệ tòa án và
những người tham dự đều là những người do Cộng sản sắp đặt trước, hò hét
khuyến khích người đóng vai “công tố”, bằng cách chửi rủa hoặc tố cáo
thêm những “tội ác”.
4- Hậu quả của cải cách ruộng đất:
Cộng sản độc quyền đất đai: Theo
nguồn tin từ phía Liên Xô, cuộc Cải cách Ruộng đất đã tịch thu 702,000
mẫu tây ruộng đất, 1,846,000 nông cụ, 107,000 trâu bò, 22,000 tấn thực
phẩm. Tất cả những thứ đó đã được chia lại cho 1,500,000 gia đình nông
dân và bần nông. Như thế mỗi gia đình nhận được 0,46 mẫu tây, một nông
cụ, và những gia đình 13 người mới nhận được một con trâu hay bò. Theo
tác giả Bernard Fall, một gia đình nông dân bốn người cần có ít nhất 1,5
mẫu tây để bảo đảm đời sống, đó là chưa kể đến thuế nông nghiệp phải
đóng hằng năm. (Bernard Fall, sđd. tt. 271, 282).
Hoặc tài liệu của đảng cộng sản trích trong cuốn: (Những điều cần
nhìn lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN): Cải cách Ruộng đất đã tịch
thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu ruộng đất canh tác, 112,000
con trâu bò và gia súc, 26,000 tấn thực phẩm, lương thực….
Sự phân chia đất đai theo đơn vị gia đình, dựa trên số thành viên thực sự lao động và không dựa trên giới tính.
Tuy chia đất cho nông dân, nhưng sau cuộc CCRĐ, Cộng sản tổ chức
những hợp tác xã nông nghiệp, và ép nông dân phải gia nhập hợp tác xã
nông nghiệp. Quá khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong CCRĐ, không một nông
dân nào dám phản đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ tuyến 17 đều
phải gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Khi vào hợp tác xã, ruộng đất
riêng tư của nông dân đều phải nạp cho hợp tác xã, và trở thành ruộng
đất tập thể của hợp tác xã. Thế là chẳng những số đất đã được chia, mà
cả đất đai do cha ông để lại, cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xã, tức
vào tay nhà cầm quyền Cộng sản. Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản,
và nhà cầm quyền Cộng sản trở thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả
ruộng đồng nông thôn. Thật là một tiến trình cướp đất rất hoàn hảo, mà
không một nông dân nào dám lên tiếng tố cáo.
Số lượng người bị giết: Những
địa chủ “Việt gian” hay địa chủ “cường hào ác bá” đều bị tử hình. Trong
trường hợp họ đã qua đời trước đó lâu ngày, vợ con họ bị đem ra xét xử
và kết quả không khác. Những địa chủ Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc)
hay Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội (Việt Cách), dầu đã theo Việt Minh
tham gia kháng chiến cũng bị tử hình. Những địa chủ các đảng bù nhìn của
chế độ Hà Nội như đảng Dân chủ, đảng Xã hội cũng chịu y số phận.
Khi bị tử hình, bản án tử hình được thi hành ngay tại chỗ bằng
nhiều cách: bị bắn, bị trấn nước chết, bị phơi nắng (không được ăn
uống), hoặc bị đánh đập cho đến chết. Nhiều khi nạn nhân qua đời, thân
nhân không được cho phép chôn cất, xác bị để phơi nắng mưa. Gia đình quá
đau lòng, phải hối lộ các chức việc, rồi ban đêm đến ăn cắp xác đem đi
chôn.
Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng
số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến
từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).
Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004
(tài liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5
(1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng
số người bị sát hại trong CCRĐ đợt nầy lên đến 172,008 người, trong đó có 123,266 người (71,66%) sau này được xác nhận đã bị giết oan
Nền nông nghiệp bị suy sụp:
Thông thường, nhà cầm quyền tổ chức CCRĐ nhắm giải quyết những sai lầm
của nền nông nghiệp cũ, giúp nông gia tăng gia sản lượng nông nghiệp,
thăng tiến đời sống dân chúng. Nhưng cuộc CCRĐ của Cộng sản chấm dứt năm
1956 lại đi đến kết quả ngược lại: đời sống nông dân tụt hậu, sản lượng
giảm xuống rõ rệt. Lý do vì trong các giai đoạn đầu của cuộc Cải cách,
đất đai bị chia thành nhiều mảnh nhỏ. Nông dân mới nhận đất chưa có kinh
nghiệm tổ chức sản xuất, thiếu tài chánh để mua trâu bò dụng cụ, phân
bón để cày cấy. Sau đó, vào cuối giai đoạn 5, việc suy sụp kéo dài nhiều
năm vì nhà nước Cộng sản đưa ra kế hoạch hợp tác lao động, tổ chức hợp
tác xã nông nghiệp và những nông trường quốc doanh tập thể từ khoảng năm
1957, 1958. (Bernard Fall, sđd. tt. 284-287).
Đảo lộn luân lý xã hội, tiêu diệt tình người:
Chiến dịch CCRĐ của Cộng sản đã khủng bố tinh thần dân chúng, làm cho
mọi người sợ hãi khép mình vào kỷ luật cai trị Cộng sản, và nhất là đánh
tan nề nếp xã hội cũ, làm sụp đổ nền tảng luân lý cổ truyền của dân
tộc, tiêu diệt tận gốc rễ tình cảm giữa người với người. Trong khi quyết
tâm thực hiện phương châm “trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” (nghĩa
là tiêu diệt từ trên xuống dưới bốn thành phần trí thức, phú thương,
địa chủ, cường hào), Cộng sản đã khuyến khích, ép buộc, đe dọa mọi người
tố cáo, đấu tố lẫn nhau, dù đó là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Do đó,
chẳng những đã xảy ra cảnh đấu tố giữa người với người ngoài xã hội, mà
trong gia đình cũng xảy ra cảnh đấu tố với nhau giữa cha mẹ, con cái, vợ
chồng, và anh chị em.
Dư luận lúc đó ở Hà Nội còn cho rằng, một nhà lãnh đạo khác của
đảng Lao động, tổng bí thư Trường Chinh Đặng Xuân Khu, đã đấu tố cả cha
mẹ của ông ta. Vì vậy, ở Hà Nội lưu truyền một câu đối hết sức bất hủ:
“Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác-Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng/ Hãm hại
sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa tên Khu.”
B. Kẻ chủ mưu thực sự là ai?
Trên thực tế cuộc cải cách ruộng đất đã thất bại và là một tội ác
của cộng sản. Tuy nhiên từ trước tới nay chúng ta thường biết đến Trường
Chinh và các thuộc cấp của ông ta là thủ phạm. Vì lúc đó ông Trường
Chinh đang là Tổng bí thư đảng Lao động. Nhưng những dẫn chứng sau đây
sẽ làm sáng tỏ ai là kẻ chủ mưu thực sự.
1. Người viết ra cương lĩnh hành động làm tiền đề cho CCRĐ:
Ông Hồ Chí Minh đã hiểu rất rõ nguyện vọng “người cày có ruộng” của
nông dân Việt Nam. Khi còn ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc
chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời
gian hoạt động tại Trung Hoa, ông ta tiếp nhận và để tâm nghiên cứu
cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp,
vừa để xây dựng chuyên chế vô sản. Trong một lá thư gởi các lãnh đạo
Quốc tế Nông dân đề ngày 08/02/1928, ông viết: “Tôi tranh thủ thời
gian viết ‘những ký ức của tôi’ về phong trào nông dân, chủ yếu là phong
trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người ‘anh hùng’ trong
‘những ký ức của tôi’ chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân ủy nông
nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lãnh tụ của nông dân cách
mạng”. (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265). Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến : “…
đồng chí Bành Bái ở Trung quốc, gia đình đồng chí là đại địa chủ, đại
phong kiến, nhưng đồng chí ấy đã tổ chức và lãnh đạo nông dân đấu tranh
rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).
Năm 1930, Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng cộng sản
Việt Nam) được thành lập. Cương lĩnh của đảng này là lấy việc chống đế
quốc, chống phong kiến và địa chủ, giành ruộng đất về cho nông dân làm
sách lược hàng đầu. Sách lược thứ hai của Đảng cộng sản ghi rõ: “Đảng
phải thu phục cho được đại đa số dân cày và phải dựa vững vào hạng dân
cày nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng
đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2
trang 297). Chương trình hành động thì hướng đến việc: “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến”
(Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 299). Chúng ta nên nhớ Các văn kiện
thành lập ĐCS Đông Dương đều do Hồ Chí Minh, đại diện Quốc tế Cộng sản,
soạn ra.
Ít tháng sau, ĐCS đã lãnh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu “trí – phú – địa – hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới – đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến.
Kết luận: Ông
Hồ Chí Minh là người chỉ ra đường lối của CCRĐ đẫm máu. Ông ta là người
phát biểu và người viết các cương lĩnh hoạt động cho đảng cộng sản. Vậy tội của ông ta có thể xem là chủ mưu. Tuy nhiên để rõ ràng hơn xin bạn đọc chú ý các ý sau đây.
2. Những hành động cụ thể:
Ngày 25/01/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ tọa, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát
động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống
giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ.
Ngày 12/04/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 /SL về Cải
Cách Ruộng Đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản
động chia lại cho nông dân nghèo.
Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội
nghị toàn quốc của Đảng Lao động đã quyết định tiến hành CCRĐ.
Trong báo cáo trước Quốc hội khóa I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đã phát biểu “Phương châm của Cải Cách Ruộng Đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Hành động kêu gọi “ phóng tay” chính là sự cổ vũ giết người của Hồ Chí Minh.
Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đã ra chỉ tiêu: “Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất ..”. (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đã giết hại không biết bao con người vô tội.
Vụ Việc bà Nguyễn Thị Năm:
Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xã tại huyện
Đại Từ tỉnh Thái Nguyên đã được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị
mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà còn được gọi là bà Cát Hanh
Long. Bà là người đã che giấu và nuôi dưỡng các lãnh đạo cộng sản như
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị,
Lê Giản… trong thời gian Đảng cộng sản còn hoạt động bí mật. Hai con
trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước
1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm chính ủy trung
đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.
Trong Hồi ký “Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn”, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là:
(1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố;
(2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố;
(3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là “… bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam”.
Ông viết tiếp: “Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe
nhiều cán bộ cao cấp nói lại: ‘Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ
đã can thiệp và nói đại ý: ‘ Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa
chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa
chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trường
Chinh và được trả lời là: ‘Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!’. Và thế là cái chết đã đến với bà Năm.
Trong hồi ký “Những kỷ niệm về Bác Hồ”, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ông Hoàng Tùng cho biết: “Chọn
địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn
Trường Chinh. Họp Bộ Chính trị Bác nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì
phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại
nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng,
người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành
hoa.’ Sau cố vấn Trường Trinh là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: ‘Tôi
theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải.’ Và họ cứ thế làm”.
Trước hết ông Hồ Chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về
chuyện này, và dù không biết, là chủ tịch nước, chủ tịch Đảng ông cũng
phải chịu phần trách nhiệm. Huống hồ ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận
định là bà Năm bị xử trí oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can
thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm.
Bài thơ “Địa chủ ác ghê”:
Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của
tác giả C. B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài
“Địa chủ ác ghê”. Bài viết này đã được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21
tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo
Thành Tín(ông Bùi Tín) cho biết, “các phóng viên báo chí các nhà văn hạ
phóng tham gia cải cách đã viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm
rồi”. Nhân tiện người viết xin được đăng toàn bài để bạn đọc có thể cùng
suy ngẫm.
Địa chủ ác ghê
Thánh hiền dạy rằng: “Vi phú bất nhân”. Ai cũng biết rằng địa
chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khóa –
thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
- Giết chết 14 nông dân.
- Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa
37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm
nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết
hết, không còn một người.
- Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65
nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn
đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm 1944-1945, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt
các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập
không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Như chúng ta đã biết Báo Nhân Dân là cơ quan tuyên truyền của Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam, bài báo phải được duyệt xét kỹ của Trung
ương Đảng trước khi cho phổ biến. Khi đọc bài báo này, người viết cảm
nhận một điều là bố cục, hình thức và văn phong của bài viết rất tương
tự với bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba
Đình ngày 02/09/1945, phần lên án thực dân Pháp.
Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ tên tác giả các bài viết trong đó là C. B.
– đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6
(từ 01/1951 đến 07/1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất
bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài
viết của Hồ Chí Minh ký tên là C. B.
Mặc dù bài viết này không được nhắc đến trong bộ sách Hồ Chí Minh
Toàn tập. Tuy nhiên trong Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử tập 5 trang 418
(Sách của nhà xuất bản Sự thật- ĐCS VN) ghi rõ: “Bài viết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: Địa chủ phản động ác ghê, ký bút danh Đ. X. đăng trên
báo Cứu Quốc, số 2459 (ngày 02/11/1953), tố cáo tội ác của một số địa
chủ phản động đã cấu kết với thực dân và bù nhìn để phản dân, phản nước,
mưu phá hoại chính sách ruộng đất của Chính phủ. Chúng là bọn ‘mặt
người dạ thú’ và tội ác của chúng là ‘tuyệt vô nhân đạo’”. Như vậy Có thể kết luân bài viết của ông Hồ trên báo Nhân Dân đã được đăng lại trên báo Cứu Quốc.
Ông Hồ Chí Minh gọi cuộc tắm máu nhân dân là “Chiến thắng”:
Trong hội nghị “Tổng kết thành tích Cải cách nông nghiệp đợt 5”, Hồ
Chí Minh đã gởi văn thư đề ngày 1-7-1956 cho đoàn cán bộ CCRĐ, trong đó
có đoạn viết: “Bác thay mặt Đảng và chính phủ gởi lời an ủi gia
đình những cán bộ đã hy sinh vì nhiệm vụ, đợt 5 Cải cách Ruộng đất rất
gay go, phức tạp. Song nhờ chính sách đúng đắn của Đảng và chính phủ,
nhờ nông dân hăng hái đấu tranh nên chính sách Cải cách Ruộng đất đã thu
được thắng lợi to lớn… Giai cấp địa chủ đã bị đánh đổ, các tổ chức ở xã
đã được trong sạch hơn v. v… và bản thân cán bộ được thử thách, rèn
luyện…”
Trong một lá thư, đề ngày 18/08/1956, gởi đến “đồng bào nông thôn”
nhân dịp CCRĐ căn bản đã hoàn thành, Hồ Chí Minh xác định CCRĐ là “một thắng lợi vô cùng to lớn” và “có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn”. Ông viết tiếp: “Cải
Cách Ruộng Đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một
cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá
hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực
đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và
Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc, cho nên khi CCRĐ
đã xảy ra những khuyết điểm sai lầm” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 507). Riêng việc “kẻ địch phá hoại điên cuồng” đã được ông giải thích như sau: “Như con giun không biết nhảy, khi ta giẫm lên nó, nó cũng giãy trước khi chết. Giai cấp địa chủ cũng thế”. (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7, trang 358).
Vài năm sau, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập ĐCSVN, 06/01/1960,
Hồ Chí Minh lại gắn liền cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc CCRĐ, ông
tuyên bố: “Buổi đầu kháng chiến, Đảng vẫn tiếp tục thực hiện chính
sách giảm tô, giảm tức. Nhưng đến lúc kháng chiến đã phát triển mạnh,
cần phải bồi dưỡng hơn nữa lực lượng nhân dân, chủ yếu là nông dân thì
Đảng đã cương quyết phát động quần chúng Cải Cách Ruộng Đất hoàn thành
thực hiện người cày có ruộng. Nhờ chính sách đúng đắn này, lực lượng
kháng chiến ngày càng mạnh thêm và đã liên tục thu được nhiều thắng lợi” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8, trang 596).
Kết luận: Trong
quá trình thực hiện thể hiện bằng bài thơ, vụ án bà Năm hay các tuyên
bố về CCRĐ coi là “thắng lợi” sau này, bài thơ “Địa chủ ác ghê” đã chứng
tỏ ông Hồ Chí Minh coi CCRĐ là một chuyện bình thường chứ không ân hận
về sai lầm như báo chí cộng sản. Bản chất của CCRĐ là màn kịch đẫm máu
ông Hồ học ở Trung cộng về và những giọt nước mắt ông ta khóc sau này
chỉ là “nước mắt cá sấu”.
3. Điểm vô lý:
Về mặt hành chính, ngày 2-11-1956, báo Nhân Dân đăng thông báo của Hội đồng Chính phủ, theo đó:
- Ủy ban CCRĐ không có quyền chỉ đạo nữa, mọi việc sẽ thuộc chính phủ trung ương.
- Hủy bỏ Tòa án Nhân dân đặc biệt (tức tòa án chuyên đấu tố).
- Hồ Viết Thắng thôi chức Phó chủ nhiệm và Ủy viên thường trực Ủy ban CCRĐ Trung ương, cũng như Thứ trưởng Nông lâm.
- Lê Văn Lương thôi chức Thứ trưởng bộ Nội vụ và Chủ nhiệm phòng Nội chính Chính phủ. (Chính Đạo, I-C, sđd. tr. 106.)
Tuy thế, chẳng bao lâu sau, Trường Chinh được cử làm Phó thủ tướng
(29-4-1958), rồi Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội (7-7-1960). Hoàng
Quốc Việt lẫn Lê Văn Lương về sau vẫn tiếp tục giữ những chức vụ quan
trọng trong guồng máy cầm quyền Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng sau đổi tên là
Hồ Thắng, làm thứ trưởng bộ Nông nghiệp.
Những điều đó chứng tỏ các người này chỉ là những kẻ thừa hành chủ
trương chính sách của đảng Lao động lúc đó. Khi chủ trương đó bị dân
phản đối, họ bị làm vật hy sinh để chống đỡ và cứu nguy cho đảng, tạm
thời bị huyền chức một thời gian, rồi được trọng dụng trở lại. Nếu các
kẻ này mà tự ý làm sai trái chủ trương của đảng Lao động, nếu không bị
thủ tiêu hoặc tù tội, thì cũng bị loại luôn, mà không bao giờ trở lại
được chính trường, như trường hợp Dương Bạch Mai… trong vụ án mà cộng
sản gọi là “Vụ án Tổ chức chống Đảng, chống Nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài”.
Kết luận: Ông
Hồ Chí Minh đã dùng những “kẻ thế thân” để trốn tránh tội ác của mình.
Thực ra ông ta là kẻ chủ mưu và chạy tội khi bị nhân dân lên án.
Nhận xét chung:
Cải cách ruộng đất là một cuộc hành quyết đẫm máu nhân dân vô tội.
Nó không những ảnh hưởng đến đời sống nhân dân mà còn ảnh hường lâu dài
đến kinh tế cũng như nền tảng đạo đức.
Sự thực tôi đã chứng minh ở 3 luận điểm: Ông Hồ là người vạch ra
cương lĩnh của đảng, của CCRĐ. Sự việc cụ thể khi ông xử án bà Năm, bài
báo “Địa chủ ác ghê” và những tuyên bố sau CCRĐ, sự vô lý trong việc “xử
lý” những người được cho là có tội trong CCRĐ chứng tỏ một điều: Nếu
thực sự ông ta “ân hận” như đã nói thì chắc chắn ông ta không tuyên bố
“CCRĐ là thắng lợi” và những vị như Trường Chinh… không bao giờ có thể
ngóc đầu dậy sau biến cố đó được.
Khẳng định: CCRĐ là do ông Hồ chủ trương
và điều hành. Ông là thủ phạm đứng đầu trong một chiến dịch bắt chước
toàn bộ theo mô hình lẫn cố vấn tại chỗ của đảng cộng sản Trung Quốc,
dẫn đến cái chết của gần 200,000 người dân vô tội và phá hủy toàn bộ
những giá trị đạo đức, quan hệ giữ người và người mà hệ quả đã kéo dài
cho mãi đến ngày hôm nay.
Chỉnh sửa và hoàn thiện: 18/06/2012
Đặng Chí Hùng
Đặng Chí Hùng – Những sự thật không thể chối bỏ (phần 6) – Dù đau đớn nhưng vẫn là sự thật!
Posted on June 21, 2012
Đặng Chí Hùng (Danlambao)
– Không có gì buồn hơn khi phải khơi lại ký ức buồn. Đó là tâm trạng
chung của tất cả chúng ta. Tuy nhiên, lịch sử là sự thật, cần phải tôn
trọng nó. Và chúng ta phải chấp nhận cho trái tim rỉ máu khi viết về nó.
Tôi muốn những nỗi đau này được khơi lại sự thật nhằm mục đích không
còn những nỗi đau tương tự trong tương lai, là nén hương lòng cho những
oan hồn trong CCRĐ. Chấp nhận điều này chính là muốn “Đau một lần rồi
thôi”. Chúng ta hãy biến nỗi đau này thành sức mạnh để đứng lên lật đổ
kẻ thủ ác, như vậy nỗi đau này chỉ có một lần…!
Tiếp theo bài trước (phần 5). Tôi xin trình bày ở bài này những cay đắng mà dân tộc ta đã bị đảng cộng sản bưng bít bấy nhiêu lâu. Sở dĩ tôi gửi Danlambao
2 bài này liền nhau vì tôi muốn bạn đọc có thể theo dõi tường tận tội
ác của đảng cộng sản và ông Hồ Chí Minh gây ra cho dân tộc. Rất mong
những đóng góp này đến tay những người dân còn tin vào những tuyên
truyền bóp méo lịch sử, như là một đóng góp vào con đường dẫn đến xã hội
dân chủ thực sự.
A. Sưu cao thuế nặng và ruộng đất vào tay ai?
Như trong phần 5
tôi đã nói sơ qua. Thực tế đảng cộng sản với cái tên trá hình ban đầu
(Đảng Lao động) và cái tên thực sự là đảng cộng sản sau này chỉ là một
thủ đoạn đánh lừa nhân dân ta. Khẩu hiệu họ trưng ra “Người cày có ruộng”
khác hẳn với thực tế. Đơn giản nó chỉ là khẩu hiệu mà thôi. Vì sao nói
vậy? Để có thể đánh giá chính xác lời tuyên bố đó chúng ta cần nhìn nhận
dưới một số khía cạnh sau đây.
1. Vấn đề lý thuyết và chuẩn bị:
Về mặt chủ trương, Hồ Chí Minh đến Moscow (đầu năm 1951) nhận lệnh
của Stalin và Mao Trạch Đông về làm CCRĐ. Trong hai năm chuẩn bị
(1952-1953), Đảng cộng sản thực tế chỉ copy y nguyên hình thức đã làm
tại Trung cộng, rồi luật hóa các chính sách đó để cưỡng bức người dân
phải theo pháp luật mà họ đã áp đặt. Điều này chúng ta thấy rất rõ ràng
việc họ ra liên tiếp hơn 10 sắc lệnh trong khoảng một thời gian ngắn
khoảng 2 năm. Chúng ta nên nhìn nhận một vấn đề to lớn như CCRĐ cần phải
có thí điểm, rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh chứ sao lại có thể ra
những quyết định ồ ạt mà không cần biết đến hậu quả của nó? Đơn giản vì
đảng cộng sản Việt Nam can tâm làm chư hầu cho Trung cộng, họ coi việc
CCRĐ như một cuộc dạo chơi chính sách, thử nghiệm cướp đất của nhân dân.
Vậy thì làm gì có chuyện dân cày có đất. Đó chỉ là khẩu hiệu suông.
Trong thời gian hai năm chuẩn bị, đảng cộng sản không hề để thời
gian điều tra nghiên cứu xem thực tế tình hình ruộng đất, nhà cửa, phân
bố dân cư và trình độ lao động. Họ chỉ chực chờ ra quyết định để áp đặt
những điều vô nghĩa.
Điều đó cho thấy những người lãnh đạo đảng cộng sản không hề nghĩ đến việc làm sao cho “người cày có ruộng” thật
sự, “có ruộng” lâu dài để nền kinh tế được phát triển, để thật sự cải
thiện đời sống người dân. Đơn giản, họ chỉ nghĩ rằng bây giờ đã nắm được
chính quyền rồi, đã có “chuyên chính vô sản”, và đảng cộng sản muốn làm
sao cũng được, người dân phải cúi đầu chịu. Chính vì vậy phải làm một
“cuộc cách mạng long trời lở đất”, để “tiêu diệt giai cấp địa chủ”, để
cho mọi tầng lớp dân chúng phải khiếp đảm, tạo điều kiện thuận lợi nhằm
thực hiện nhiệm vụ chính của chuyên chính vô sản như Lenin đã dạy cho họ
là “xây dựng chủ nghĩa xã hội, bước đầu của chủ nghĩa cộng sản”.
Chính vì thế, cái đích của Đảng cộng sản không phải là để “người cày có
ruộng” mà chính là để thực hiện nhiệm vụ của chuyên chính vô sản.
Điều này càng cho thấy đảng cộng sản là những kẻ cướp thực sự, họ
muốn cướp của nhân dân ngay từ trong suy nghĩ của mình. Họ chỉ nghĩ cho
bản thân chủ nghĩa cộng sản, không hề có một chút tình thương giành cho
dân tộc. Đó là một tội ác.
2. Vấn đề thực tế trong và sau CCRĐ:
Vấn đề thuế nông nghiệp:
Thuế nông nghiệp tính trung bình 17 kg lúa trên một đầu người trong
gia đình (số liệu có tại cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam – xuất bản tại
Hà Nội 2004). Thuế đóng bằng lúa phơi khô, quạt sạch rồi gánh đến nạp
kho cơ quan thu thuế. Một điều làm cho nông dân khổ sở nữa là cách cân
của các cán bộ cộng sản luôn luôn vượt quá mức quy định. Thuế
này tính theo phương thức lũy tiến hằng năm, nên năm sau cao hơn năm
trước. Thuế nông nghiệp có thể đóng bằng tiền, và giá lúa quy định cao
hơn giá thị trường (nội dung có ghi trong cuốn Lịch sử
kinh tế Việt Nam-xuất bản tại Hà Nội 2004). Nhiều nông dân không chịu
nổi thuế nông nghiệp, đem trả lại đất được phân phối nhưng không ai dám
nhận. Nông dân phải tiếp tục giữ đất để canh tác. Thiếu hỗ trợ về vốn,
lúa giống, dụng cụ canh tác, trâu bò…, mức sản xuất xuống thấp hơn so
với trước kia.
Như vậy có thể thấy chính sách thuế của cộng sản đặt ra với nông
dân không khác gì sưu cao thuế nặng thời Pháp thuộc. Vậy có thể thấy
Đảng cộng sản thực chất chỉ là một dạng thực dân bóc lột kiểu mới mà
thôi.
Vấn đề sở hữu ruộng đất:
Như đã đề cập ở phần 5, thực tế đất đai sau khi cải cách lại rơi
vào tay nhà nước cộng sản. Chính quyền cộng sản tổ chức những hợp tác xã
nông nghiệp, và ép nông dân phải gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Quá
khiếp sợ trước cảnh tra tấn trong CCRĐ, không một nông dân nào dám phản
đối. Thế là tất cả nông dân phía bắc vĩ tuyến 17 đều phải gia nhập hợp
tác xã nông nghiệp. Khi vào hợp tác xã, ruộng đất riêng tư của nông dân
đều phải nộp cho hợp tác xã, và trở thành ruộng đất tập thể của hợp tác
xã. Chẳng những số đất đã được chia, mà cả đất đai do cha ông để lại,
cũng đều bị lọt vào tay hợp tác xã, tức vào tay nhà cầm quyền cộng sản.
Toàn thể nông dân nay trở thành vô sản, và nhà cầm quyền cộng sản trở
thành chủ nhân ông độc quyền của tất cả ruộng đồng nông thôn. Thật là
một tiến trình cướp đất rất hoàn hảo, mà không một nông dân nào dám lên
tiếng tố cáo.
Và như đã nói tài liệu của đảng cộng sản trích trong cuốn: (Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN):
Cải cách Ruộng đất đã tịch thu của bọn địa chủ và cường hào 760,000 mẫu
ruộng đất canh tác, 112,000 con trâu bò và gia súc, 26,000 tấn thực
phẩm, lương thực….
Như vậy trong thực tế nông dân đã bị đảng cộng sản lừa bịp một cách
khéo léo. Đảng cộng sản đã khích động họ bằng “người cày có ruộng “ rồi
sau khi CCRĐ đã lại “sửa sai” bằng cách thu lại ruộng đất của chính
những người nông dân này thông qua cái gọi là Hợp tác xã nông nghiệp.
Trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam – xuất bản tại Hà Nội 2004 có đoạn: Năm
1959 có 55% hộ nông nghiệp vào hợp tác xã. Đến năm 1960 đã có 2.404.800
(85,83% hộ nông dân) làm việc trong 40.200 hợp tác xã cấp xóm, cấp
thôn.
Bước sang năm 1961, các hợp tác xã trên nhanh chóng sáp nhập lại để thành hợp tác xã quy mô cấp xã. Cuối
năm 1960 đầu 1961, ở các thành phố, thị xã, thị trấn đã có 263.600 hộ
thủ công (81%) vào hợp tác xã thủ công, 102.000 hộ tiểu thương (45,1%)
vào hợp tác xã mua bán. (Trích trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam – xuất bản tại Hà Nội 2004)
Thu nhập bình quân đầu người ở các hộ xã viên hợp tác xã nông
nghiệp có sự bất bình thường về cơ cấu. Trong tổng thu nhập của họ thì
khoản thu nhập trong hợp tác xã nhỏ hơn thu nhập ngoài hợp tác xã, trong
khi 95% ruộng đất và toàn bộ công cụ sản xuất (trâu, bò, cày, bừa…) đều
nhập vào tập thể. Phần 5% ruộng đất chia về các hộ chỉ nhằm tạo thêm
thu nhập phụ, mà thường là những thửa ruộng đầu thừa đuôi thẹo. Trong
cuốn Những điều cần nhìn lại sau CCRĐ- NXB Văn hóa- của ĐCSVN có đoạn: Năm
1961: Tổng thu nhập bình quân đầu người là 11,50 đồng/tháng, trong đó
thu nhập trong hợp tác xã là 4,5 đồng, còn thu nhập ngoài hợp tác xã là
7,0 đồng.
Kết luận: Sau khi cải cách ruộng đất nhân dân ta
ngoài việc bị giết oan vô tội vạ còn chịu thêm cảnh sưu cao thuế nặng từ
chính quyền luôn tự xưng là cách mạng. Và sau đó họ còn bị nhà nước
cộng sản đó cướp đất một cách “hợp pháp”. Đời sống nhân dân bị o ép thực
sự khó khăn và khổ sở trong ách thống trị của đảng cộng sản.
B. Những con số biết nói:
Thống kê chính thức của nhà nước được đăng trong cuốn Lịch sử kinh tế Việt Nam tập hai cho biết là đã có 172.008 người
bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông, là những người bị xếp vào
loại kẻ thù của nhân dân, bị “đào tận gốc, trốc tận rễ” nghĩa là không
bị bắn tại chỗ thì cũng bị lãnh án tù rồi chết trong nhà giam.
Con số này có thể không chính xác do vấn đề thống kê có sai số là
tất yếu, nhưng số nạn nhân quyết không thể thấp hơn thế được vì nó được
ghi trong Văn kiện đảng toàn tập do nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành,
và vì nó không nói gì đến những người bị kết án là Quốc Dân đảng thường
thì bị bắn ngay tại chỗ. Trong số này, có cả những đảng viên Cộng sản
trung kiên, mà trước khi chết vẫn còn hô to khẩu hiệu, đảng Cộng sản
muôn năm. Hơn thế nữa sai số không thể quá lớn trong một thống kê của
nhà nước. Như vậy số người bị giết là khoảng gần 200 nghìn.
Năm 1956 cũng là năm mà ông Hồ Chí Minh và đảng Lao động công khai
lên tiếng nhận sai sót trong quá trình thực hiện cuộc cải cách ruộng
đất, rồi thực hiện một số biện pháp kỷ luật và tiến hành sửa sai. Bản thống kê chính thức cho biết là trong
số 172.008 người bị quy là địa chủ và phú nông trong cải cách ruộng đất
thì 123.266 người bị quy sai, tức là bị oan. Tính theo tỷ lệ là 71,66%.
Có lẽ chưa bao giờ và ở đâu tỷ lệ giữa số bị oan và nạn nhân lại cao đến như thế.
Nhà thơ cộng sản Tố Hữu lúc bấy đó là trưởng ban tuyên truyền trung ương đảng sau này nhớ lại đã phải nói: “Không thể tả hết được những cảnh tượng bi thảm mà những người bị quy oan là địa chủ, ác bá (mà trong thực tế là trung nông) phải chịu đựng ở những nơi được phát động.”
Và như trong phần 5 tôi đã nêu về 2 nguồn dữ liệu tôi xin nhắc lại ở đây:
Dựa vào tài liệu các nước ngoài, giáo sư Lâm Thanh Liêm, cho rằng số người bị giết trong cuộc CCRĐ năm 1955-1956 ở Bắc Việt có thể lên đến từ 120,000 đến 200,000 người. (Lâm Thanh Liêm, bđd., sđd. tt. 203-204).
Theo sách Lịch sử Kinh tế Việt Nam 1945-2000 tập 2, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm 2004 (tài
liệu mới của nhà nước cộng sản Việt Nam) cho biết cuộc CCRĐ đợt 5
(1955-1956) được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, và tổng
số người bị sát hại trong CCRĐ đợt này lên đến 172,008 người, trong đó
có 123,266 người (71,66%) sau này được xác nhận đã bị giết oan.
Trong khuôn khổ bài này để bổ sung cho những sự thật không thể chối
bỏ này, tôi xin trính bày thêm hai thống kê để thấy được tội ác của
đảng cộng sản Việt Nam.
Trên Wiki (http://vi.wikipedia.org/wiki/Cải_cách_ruộng_đất_tại_miền_Bắc_Việt_Nam) có viết:
Tổng cộng chiến dịch Giảm tô tịch thu của địa chủ, phú nông
31.110 tấn thóc tô, 15.475 ha ruộng, 8.246 trâu bò. Tổng cộng chiến dịch
Cải cách Ruộng đất tịch thu của địa chủ 810.000 ha ruộng, 106.448 trâu
bò, 1.846.000 nông cụ, 148.565 ngôi nhà. Số tài sản này được phân chia
cho 2.104.138 hộ bần nông, trung bình mỗi hộ được 0,38 ha, 0,87 nông cụ,
0,071 ngôi nhà.
Số lượng người bị giết trong chương trình Cái cách Rộng đất là không thể thống kê chính xác và còn gây tranh cãi. Nhưng
theo chủ trương ở một số địa phương phải tìm cho ra tỷ lệ 5% địa chủ,
“Việt gian” để mang ra đấu tố thì con số sẽ không ít.
Hay như trong cuốn Ownership Regimes in Vietnam có đoạn nêu lên con số người chết là: 165,230 người bị bắt oan sai và có khoảng 70% trong số này bị giết hại bằng tử hình tại chỗ hoặc chết trong ngục tù.
Kết luận: Dù là với con số nào thì đây cũng là
những con số khủng khiếp mà đảng cộng sản đã gây ra ở miền Bắc Việt Nam
trong CCRĐ. Với những con số đau thương này, dân tộc ta cần có cái nhìn
thấu đáo hơn về đảng cộng sản Việt Nam. Họ là những kẻ diệt chủng man rợ
ngay cả với đồng bào mình. Điều này cho thấy họ còn dã man hơn cả
Hitler vì ông ta không giết người Đức.
C. Thêm bằng chứng về kẻ chủ mưu:
1. Hai bức thư Hồ Chí Minh gửi Stalin về cải cách ruộng đất:
Như trong phần 5 tôi đã trình bày, việc ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản thực hiện cuộc CCRĐ là do chủ trương của thế giới cộng sản. Ông Hồ nhận chỉ thị trực tiếp từ Stalin và Mao Trạch Đông để rập khuôn cuộc CCRĐ tại Việt Nam theo phương thức của Trung cộng.
Năm 1949, Mao Trạch Đông và đảng Cộng sản chiếm được lục địa Trung
Hoa, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trung cộng thừa nhận
chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Hồ Chí Minh ngày 18-1-1950. Tiếp
theo, Liên Xô thừa nhận ngày 30-1-1950. Tháng 2-1950, Hồ Chí Minh qua
Bắc Kinh và Moscow xin viện trợ. Khi gặp Hồ Chí Minh, Stalin ra lệnh cho
Hồ Chí Minh phải thực hiện ngay hai việc: thứ nhất tái công khai đảng Cộng sản và thứ hai đẩy mạnh CCRĐ theo đường lối Cộng sản.
Stalin chỉ đạo cho Hồ Chí Minh phải cử người sang Trung cộng học tập
phương pháp CCRĐ triệt để, vì lúc đó mối liên lạc Xô-Trung còn bình
thường và vì Việt Nam nằm sát biên giới Trung cộng. (http://tennguoidepnhat.net/2012/04/06/về-chuyến-tham-bi-mật-lien-xo-va-trung-quốc-nam-1950/). Đây là trang web của ban tuyên giáo Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Cụ thể là ngày 31/10/1952, Hồ Chí Minh đã gửi bức thư xin chỉ thị từ Stalin với nội dung lược dịch như sau:
Đồng chí Stalin thân mến:
Xin gửi ngài chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động
Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ
của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San. Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ
dẫn.
Gửi lời chào cộng sản.
Hồ Chí Minh, 31/10/1952
Như trong bức thư này có đoạn “Chương trình hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San”.
Điều này khẳng định ông Hồ Chí Minh chính là kẻ chấp nhận phận chư hầu
cho Trung cộng và Liên xô chỉ đạo CCRĐ. Và quan trọng hơn cả, ông ta
chính là người vạch ra chương trình hành động như chính ông ta khẳng
định với Stalin. Vậy càng thêm bằng chứng cho thấy ông Hồ là người cầm
đầu tội ác CCRĐ.
Bức thư thứ hai 30-10-1952, lại một bức thư nữa Hồ Chí Minh gửi thư cho Stalin về vấn đề CCRĐ. Tạm dịch như sau:
Đồng chí Stalin kính mến
Tôi đã bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.
Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hy vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.
1. Cử một hoặc 2 đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và
tìm hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để
có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường
mất khoảng 10 ngày.
2. Chúng tôi muốn gửi tới Liên Xô 50-100 du học sinh, với trình
độ văn hóa lớp 9 ở Việt Nam, trong số họ có người là Đảng viên và cũng
có người chưa phải là Đảng viên, độ tuổi của họ từ 17-22. Đồng chí nhất
trí về vấn đề này chứ.
3. Chúng tôi muốn nhận từ phía các đồng chí 10 tấn thuốc kí
ninh (thuốc sốt rét) cho quân đội và dân thường, có nghĩa rằng 5 tấn
trong nửa năm.
4. Chúng tôi cần những loại vũ khí sau:
(a) Pháo cao xạ 37 li cho 4 trung đoàn, tất cả là 144 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu pháo.
(b) Pháo trận địa 76,2 li cho 2 trung đoàn, tất cả là 72 khẩu và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu
(c) 200 khẩu súng phòng không 12,7 li và 10 cơ số đạn cho mỗi khẩu.
Sau khi nhận chỉ thị của đồng chí về những vấn đề trên, tôi dự định vào ngày mùng 8 hoặc là mùng 9 tháng 11 sẽ rời khỏi Moscow.
Gửi tới đồng chí lời chào cộng sản và lời chúc túc đẹp nhất
Hồ Chí Minh
30-10-1952
đã kí
Như vậy chúng ta thấy ở bức thư này có 2 điều khá quan trọng.
Điều thứ nhất “Tôi bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.”.
Điều này thêm khẳng định việc ông Hồ làm chư hầu và chính ông ta là kẻ
chủ mưu trong CCRĐ đẫm máu. Ông ta chính là người thảo đề án khủng khiếp
sau này.
Ngoài ra, điều thứ hai cũng khá quan trọng. Trong (4) của bức thư
chúng ta nhận thấy ông Hồ đã cầu xin Liên Xô cung cấp cho mình. Chắc hẳn
bạn đọc không quên phần 3
tôi đã chứng minh thực sự trong thời điểm trước 1960 thì miền Bắc không
chịu áp lực quân sự từ Mỹ và VNCH. Như vậy càng có thể khẳng định ông
Hồ xin vũ khí chính nhằm gây chiến cho cuộc chiến huynh đề tương tàn với
VNCH. Ông Hồ đã xin vũ khí trong thời điểm không chịu áp lực quân sự.
Rõ ràng đây là mưu đồ nhuộm đỏ Việt Nam của phe cộng sản và ông Hồ là
điều lý giải cho sự kiện này.
Một điểm lưu ý là dưới lá thư, ông Hồ Chí Minh đã ký thêm tiếng Tàu.
Chú ý: Hai bức thư trên có trong tài liệu của cục lưu trữ quốc gia Liên Bang Nga:
Bạn đọc hoàn toàn có thể kiểm chứng.
Kết Luận: Ông Hồ là kẻ soạn thảo chủ trương CCRĐ
theo ý chỉ của Liên Xô theo mô hình Trung cộng. Ông ta cũng là kẻ chủ
mưu gây chiến tại Việt Nam. Thực sự ông ta có tội rất lớn trong CCRĐ và
cũng có thể coi như một dạng tội phạm chiến tranh.
2. Thêm bằng chứng về bút danh C.B là của ông Hồ Chí Minh:
Như tôi đã nêu trong phần 5, ông Hồ là người có tội trong cái chết của bà Năm.
Chính ông Hồ đã làm gương cho cán bộ đảng viên trong việc đấu tố
nầy. Năm 1952, trong thí điểm CCRĐ tại 6 xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái
Nguyên, tòa án nhân dân đã kết án tử hình bà Nguyễn Thị Năm, tức bà Cát
Hanh Long, một ân nhân của đảng LĐ, người đã từng che chở, nuôi ăn
chẳng những ông Hồ, mà hầu hết các nhà lãnh đạo đảng LĐ. Khi bị đấu tố,
bà kêu cứu đến ông Hồ. Ông ta biết chuyện nầy, nhưng ông ta đã để mặc
cho bà bị giết thảm thương. Chuyện nầy của ông Hồ thật đúng với một câu
tục ngữ Việt Nam: “Giúp vật, vật trả ân, giúp nhân, nhân trả oán.”
Ông Hồ đã tố cáo cái gọi là “tội ác” của bà Năm trong bài thơ “Địa chủ ác ghê”. Phần này tôi đã trình bày cụ thể ở phần 5. Trong đoạn này, tôi xin chỉ nêu thêm bằng chứng bút danh C. B trong bài thơ đó chính là của ông Hồ.
Và đây là những hình ảnh của nó:
Tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất ghi rõ tên tác giả các bài viết trong đó là C. B. – đây là một trong những bút hiệu của Hồ Chí Minh. Chỉ riêng trong tập 6 (từ 01/1951 đến 07/1954) của bộ sách Hồ Chí Minh Toàn tập do nhà xuất bản Sự Thật Hà Nội in năm 1989, người viết đã đếm được tất cả 15 bài viết của Hồ Chí Minh ký tên là C. B.
Kết luận: Ông Hồ đã ngoảnh mặt nhìn người có công
với cách mạng chết dưới chính bàn tay của ông. Và ông ta cũng chính là
người lên án bà Năm – một người có công với cách mạng. Đó là một sự ác
độc và vong ân bội nghĩa, không xứng đáng với đạo đức dân tộc.
D. Kết Luận Chung:
Ông Hồ Chí Minh và đảng cộng sản phải chịu trách nhiêm trước dân
tộc Việt Nam về những cái chết oan ức của nó cho gần 200.000 người vô
tội. Người chủ mưu được xác định qua 2 phần 5 và 6 trong bài viết của
tôi chính là ông Hồ.
Dù là biện minh cho con số người chết thì đó cũng là tội ác vì
không phải một người chết oan sai. Và dù cho có biện minh do tính chất
dân trí thấp và nông nổi của bần cố nông cũng cho thấy là sự bao biện
gượng ép. Qua hai bài viết tôi đã chứng minh cho các bạn thấy ông Hồ có
viết cương lĩnh và kế hoạch hành động, có đội ngũ tổ chức từ trung ương
đến địa phương, có tòa án của đảng lập ra thì những lý do đổ tội cho bần
cố nông là cực kỳ vô lý. Chính quyền tổ chức như vậy mà lại để cho bần
cố nông thực thi thì chính quyền đó gọi là gì? Không! chính chính quyền
đó là những kẻ giết người.
Ông Hồ Chí Minh qua bức thư gửi cho Stalin càng chứng tỏ mộng chư
hầu của ông ta với thế giới cộng sản và mộng quyền lực thông qua chiến
tranh. Ông ta là người cầm đầu cho tổ chức chiến tranh sau này tại Việt
Nam.
Với những quá khứ đau thương của CCRĐ, tôi xin trình bày rút gọn
trong vòng 2 bài. Sự thật còn rất nhiều nhưng chưa thể một lúc nêu ra
hết. Tôi mong rằng đây là bài học xương máu cho dân tộc Việt Nam để có
thể nhận ra mặt thật của ông Hồ và đảng cộng sản. Tác giả mong rằng chế
độ cống sản nhanh chóng bị loại trừ khỏi Việt Nam, tránh cho dân tộc
thêm những nỗi đau khôn xiết!.
Chỉnh sửa và hoàn thiện
20/06/2012
This entry was posted in LONG ĐIỀN, Quan Điểm Đấu Tranh. Bookmark the permalink.
No comments:
Post a Comment