TRÂN GIA PHỤNG * ÔNG HỒ MẤY VỢ?
Ông Hồ mấy vợ?
Trần Gia Phụng
Lời nói đầu: Sau khi các báo đăng bài viết của tôi nhan đề “Sự thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương”, thì có một độc giả nhận là du học sinh Việt Nam, đã e-mail hỏi tôi về việc gia đình và vợ con của Hồ Chí Minh. Câu hỏi nầy trùng với đề tài một bài báo tôi đã viết và đăng trên Thế Kỷ 21 ở California gần mười năm trước. Tôi hiệu đính và đăng lại bài nầy, hy vọng để cung cấp cho các bạn trẻ thêm một số thông tin về đời sống Hồ Chí Minh mà trong nước cấm kỵ và bưng bít.
Một người đến tuổi trưởng thành, lập
gia đình là chuyện bình thường. Hồ
Chí Minh là một con người như mọi
người. Do đó, nếu Hồ Chí Minh lấy vợ
thì không có gì đáng nói. Tuy nhiên,
bản thân Hồ Chí Minh cũng như đảng
Cộng Sản Việt Nam (CSVN) luôn luôn
xưng tụng ông Hồ là một người chỉ
nghĩ đến việc phục vụ đất nước nên
không có thời giờ lập gia đình, và
không có vợ con. Sự thật không phải
như thế. Tài liệu cho thấy rằng ít
nhất ông Hồ đã bốn lần lấy vợ.
1. Tăng Tuyết Minh, ngượi vợ đầu
1. Tăng Tuyết Minh, ngượi vợ đầu
Tăng
Tuyết Minh: thời xuân sắc và
lúc tuổi già mòn mỏi đợi chờ
(với ảnh vẫn trên tường)
Nguồn: dprk-cn.com |
Tháng 10/1924, Nguyễn Ái Quốc, tên
của ông Hồ thời mới qua Liên Xô, rời
Moscow đi Vladivostok (Hải Sâm Uy),
hải cảng cực đông Liên Xô, trên bờ
biển Thái Bình Dương. Từ đây, ông
đáp tàu thủy, xuống tới Quảng Châu
khoảng giữa tháng 11-1924, với bí
danh Lý Thụy, một công dân Trung Hoa,
làm thư ký kiêm thông ngôn trong
phái đoàn cố vấn Borodine (Liên Xô)
bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên ở
Quảng Châu, trong giai đoạn liên
minh quốc cộng lần thứ nhất ở Trung
Hoa.
Trong thời gian sống tại Quảng Châu, ngoài những hoạt động chính trị, Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc), Uỷ viên Đông phương bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS), đã kết hôn với một nữ đảng viên CSTH là Tăng Tuyết Minh (1905-1991) ngày 18-10-1926. Lễ kết hôn diễn ra tại nhà hàng Thái Bình ở trung tâm thành phố Quảng Châu với sự hiện diện của các bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ ông Chu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sướng. Hai người chia tay khi chiến tranh Quốc Cộng bùng nổ ngày 12-4-1927.(1) Lý Thụy trốn đi Vũ Hán, đến Thượng Hải, theo đường biển lên Vladivostok (Hải Sâm Uy), qua Moscow khoảng giữa tháng 6 năm 1927.
Cuối năm 1927, Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) được ĐTQTCS chuyển qua hoạt động ở Tây Âu một thời gian ngắn, rồi đến Ý. Tại đây, ông được gởi qua Xiêm La (Thái Lan) và ông đến Xiêm tháng 8-1928. Trong thời gian họat động ở Xiêm La, Lý Thụy có gởi cho Tăng Tuyết Minh một lá thư bằng chữ Nho, bị mật thám Pháp phát hiện ngày 14-8-1928, nên thư không đến tay người nhận(2)
Vào tháng 5-1950, nhìn thấy hình Hồ Chí Minh trên Nhân Dân Nhật Báo (Trung Hoa), bà Tăng Tuyết Minh gởi nhiều lá thư cho ông Hồ, thông qua đại sứ Việt Minh ở Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan, nhưng đều không được trả lời. Sau năm 1954, bà Tăng Tuyết Minh xin qua Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, cũng bị từ chối. (3)
Trong thời gian sống tại Quảng Châu, ngoài những hoạt động chính trị, Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc), Uỷ viên Đông phương bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS), đã kết hôn với một nữ đảng viên CSTH là Tăng Tuyết Minh (1905-1991) ngày 18-10-1926. Lễ kết hôn diễn ra tại nhà hàng Thái Bình ở trung tâm thành phố Quảng Châu với sự hiện diện của các bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ ông Chu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sướng. Hai người chia tay khi chiến tranh Quốc Cộng bùng nổ ngày 12-4-1927.(1) Lý Thụy trốn đi Vũ Hán, đến Thượng Hải, theo đường biển lên Vladivostok (Hải Sâm Uy), qua Moscow khoảng giữa tháng 6 năm 1927.
Cuối năm 1927, Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) được ĐTQTCS chuyển qua hoạt động ở Tây Âu một thời gian ngắn, rồi đến Ý. Tại đây, ông được gởi qua Xiêm La (Thái Lan) và ông đến Xiêm tháng 8-1928. Trong thời gian họat động ở Xiêm La, Lý Thụy có gởi cho Tăng Tuyết Minh một lá thư bằng chữ Nho, bị mật thám Pháp phát hiện ngày 14-8-1928, nên thư không đến tay người nhận(2)
Vào tháng 5-1950, nhìn thấy hình Hồ Chí Minh trên Nhân Dân Nhật Báo (Trung Hoa), bà Tăng Tuyết Minh gởi nhiều lá thư cho ông Hồ, thông qua đại sứ Việt Minh ở Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan, nhưng đều không được trả lời. Sau năm 1954, bà Tăng Tuyết Minh xin qua Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, cũng bị từ chối. (3)
Thư Lý
Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh
do Nha Liêm Phóng (Công an)
Đông Dương phát hiện ngày
14/8/1928
Nguồn: Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'Indochine au Vietnam |
Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội phủ
nhận mối quan hệ giữa Lý Thụy và
Tăng Tuyết Minh. Họ cho rằng nếu lá
thư có thật, chẳng qua là Lý Thụy
thường thông tin với các đồng chí
dưới dạng thư tình để qua mặt giới
tình báo của các nước tại Quảng
Châu, Trung Hoa. Sự phản bác nầy
không hữu lý, vì chú ý đọc kỹ lá thư
với lời lẽ rất thân thiết lãng mạn
(muội, huynh, tình thâm), thì không
thể là thư liên lạc bình thường.
Sau đây là lá thư Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng (Công an) Đông Dương phát hiện ngày 14/8/1928:
Sau đây là lá thư Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng (Công an) Đông Dương phát hiện ngày 14/8/1928:
“Dữ muội tương biệt,
Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,
Bất ngôn tự hiểu.
Từ nhân hồng tiện,
Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,
Thị ngã da vọng.
Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.”
Tạm dịch:
“Cùng em chia tay nhau,
Thấm thoát nháy mắt đã hơn năm,
Nhớ nhung tình sâu,
Không nói cũng tự biết.
Nay nhân gởi tin hồng nhạn,
Xa xôi gởi lá thư mang tấm lòng,
Mong em yên tâm,
Là điều anh trông ngóng.
Cũng xin vấn an nhạc mẫu vạn phúc.
Người anh vụng về Thụy.” (4)
2. Nguyễn Thị Minh Khai, người đồng chí
Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình, nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp. Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh. Năm 1928, Minh Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.(5)
Ở Hương Cảng, tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông Phương của Quốc tế cộng sản, hằng ngày, vào buổi sáng, Minh Khai học chính trị do Lý Thụy đích thân truyền dạy. Từ đó nẩy sinh tình cảm nam nữ giữa hai người.(6) Tháng 4-1931, Minh Khai bị bắt ở Hương Cảng, đến đầu năm sau thì được thả ra. Trong khi đó, Lý Thụy cũng bị bắt ngày 6-6-1931 tại Cửu Long (Kowloon), gần Hương Cảng, rồi bị trục xuất đầu năm 1933. Lý Thụy qua Quảng Châu, lên Thượng Hải, đáp tàu đi Vladivostok, rồi đến Moscow trong cùng năm đó.
Ngày 25/7/1935, tại Moscow khai mạc Đại hội cộng sản quốc tế. Phái đoàn đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm Lê Hồng Phong, Quốc, Kao Bang, Minh Khai và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến. (8) CD
Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên chồng là Lin. Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó.(9): Cũng theo nguồn tài liệu nầy, những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tại nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường, chung đồ dùng...(10)
Nguyễn
Thị Minh Khai (1910-1941),
một trong những đảng viên
đầu tiên của đảng CSĐD
Nguồn/Ảnh: Ho Chi Minh, A life, William J. Duiker/TTXVN |
Theo lời con gái của bà Vera
Vasilieva (bà nầy là một nhân viên
người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng
sản), kể cho nhà nữ sử học Sophia
Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Thành
Tín viết lại trong sách Về ba ông
thánh, thì trong thời gian diễn ra
Đại hội nầy, ông Lin (tức Lý Thụy)
hay ghé lại nhà bà Vera Vasilieva
thăm, và thường đi cùng với một phụ
nữ Việt Nam tên là Phan Lan. Phan
Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh
Khai dùng khi ở Moscow.(11)
Sau Đại hội, Minh Khai ở lại Liên Xô và học ở Viện thợ thuyền Đông phương tức trường Stalin đến tháng 2-1937. Trong thời gian nầy, Quốc bị giữ lại Liên Xô và cũng học ở Viện thợ thuyền Đông phương. Năm 1938, Minh Khai qua Pháp, về Sài Gòn. Hai năm sau (1940), Khai bị bắt, bị lên án tử hình, và bị bắn tại Hóc Môn năm 1941. Theo tài liệu của đảng CSVN, Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức Lê Huy Doãn), và có với Phong một người con gái tên Lê Thị Hồng Minh, sinh năm 1939. Trước khi làm vợ Lê Hồng Phong, những tài liệu trong tờ khai lý lịch và những câu chuyện do bà Sophia Quinn Judge đưa ra, cho thấy một thời Minh Khai đã là vợ của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh.
Nhà báo Thành Tín còn đi xa hơn nữa khi đặt câu hỏi biết đâu tên Minh (trong Hồ Chí Minh) là kỷ niệm về Minh Khai? Ngoài ra ông Hồ còn lấy tên là T. Lan để viết một quyển sách tự truyện tựa đề là Vừa đi đường vừa kể chuyện. Cũng theo tác giả Thành Tín, có thể chữ Lan cũng lấy từ Phan Lan, bí danh của Minh Khai khi ở Moscow.(12)
3. Đỗ Thị Lạc là ai?
Sau Đại hội, Minh Khai ở lại Liên Xô và học ở Viện thợ thuyền Đông phương tức trường Stalin đến tháng 2-1937. Trong thời gian nầy, Quốc bị giữ lại Liên Xô và cũng học ở Viện thợ thuyền Đông phương. Năm 1938, Minh Khai qua Pháp, về Sài Gòn. Hai năm sau (1940), Khai bị bắt, bị lên án tử hình, và bị bắn tại Hóc Môn năm 1941. Theo tài liệu của đảng CSVN, Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức Lê Huy Doãn), và có với Phong một người con gái tên Lê Thị Hồng Minh, sinh năm 1939. Trước khi làm vợ Lê Hồng Phong, những tài liệu trong tờ khai lý lịch và những câu chuyện do bà Sophia Quinn Judge đưa ra, cho thấy một thời Minh Khai đã là vợ của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh.
Nhà báo Thành Tín còn đi xa hơn nữa khi đặt câu hỏi biết đâu tên Minh (trong Hồ Chí Minh) là kỷ niệm về Minh Khai? Ngoài ra ông Hồ còn lấy tên là T. Lan để viết một quyển sách tự truyện tựa đề là Vừa đi đường vừa kể chuyện. Cũng theo tác giả Thành Tín, có thể chữ Lan cũng lấy từ Phan Lan, bí danh của Minh Khai khi ở Moscow.(12)
3. Đỗ Thị Lạc là ai?
Lê
Hồng Phong, Tổng bí thư của
Đảng Cộng sản Đông Dương từ
1935 đến 1936 (1902-1942)
Nguồn: wikimedia.org |
Sau Đại hội Moscow ngày 25-7-1935,
Lê Hồng Phong (1902-1942) được QTCS
gởi về nước Việt Nam hoạt động, còn
Nguyễn Tất Thành (hay Lý Thụy,
Nguyễn Ái Quốc) ở lại hay bị giữ lại
ở Liên Xô cho đến năm 1939, Thành
được gởi về Trung Hoa dưới một tên
mới là Hồ Quang, điều khiển ban Hải
ngoại đảng Cộng Sản Đông Dương.
Đầu năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn Đảo rồi chết ở ngoài đó năm 1942. Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. (13)
Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức Hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941), đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư, Hồ Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ. Cuối tháng 8-1942, Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943.(14)
Ra khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn. Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa đang có sự hợp tác quốc cộng lần thứ hai để chống Nhật. Tướng Tiêu Văn theo phương thức đó áp lực các tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhau.
Dầu bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) phản đối, Tiêu Văn vẫn cho tiến hành Đại hội tại Liễu Châu ngày 28-3-1944 gồm đại biểu của tất cả các tổ chức chính trị Việt Nam. Các phe phái không cộng sản và cộng sản tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành mới gồm có bảy uỷ viên chính thức, một uỷ viên dự khuyết là Hồ Chí Minh, và ba uỷ viên giám sát.(15)
Trong danh xưng mới, Hồ khéo léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậy. Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, đem theo súng đạn, thuốc men và tiền bạc. Tiêu Văn đồng ý cho Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự Đại Kiều (gần Liễu Châu), cọng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944.
Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy, có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần”. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin.
Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một cơn gió bụi cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh.(16) Do tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS (Office of Strategic Services), tức Sở Tình báo Chiến lược (Hoa Kỳ) dưới bí danh là Lucius vào tháng 3-1945.(17) Đầu tháng 5-1945, Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn, rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó.
Chuyện tình giữa Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Nguyễn Thị Minh Khai, Tăng Tuyết Minh đều bị đảng CSVN giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa.
(Còn tiếp)
Toronto, Canada
Copyright © 2006 DCVOnline
Đầu năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn Đảo rồi chết ở ngoài đó năm 1942. Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. (13)
Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức Hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941), đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư, Hồ Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ. Cuối tháng 8-1942, Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943.(14)
Ra khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn. Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa đang có sự hợp tác quốc cộng lần thứ hai để chống Nhật. Tướng Tiêu Văn theo phương thức đó áp lực các tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhau.
Dầu bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) phản đối, Tiêu Văn vẫn cho tiến hành Đại hội tại Liễu Châu ngày 28-3-1944 gồm đại biểu của tất cả các tổ chức chính trị Việt Nam. Các phe phái không cộng sản và cộng sản tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành mới gồm có bảy uỷ viên chính thức, một uỷ viên dự khuyết là Hồ Chí Minh, và ba uỷ viên giám sát.(15)
Trong danh xưng mới, Hồ khéo léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậy. Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, đem theo súng đạn, thuốc men và tiền bạc. Tiêu Văn đồng ý cho Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự Đại Kiều (gần Liễu Châu), cọng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944.
Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy, có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần”. Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin.
Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một cơn gió bụi cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh.(16) Do tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS (Office of Strategic Services), tức Sở Tình báo Chiến lược (Hoa Kỳ) dưới bí danh là Lucius vào tháng 3-1945.(17) Đầu tháng 5-1945, Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn, rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó.
Chuyện tình giữa Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Nguyễn Thị Minh Khai, Tăng Tuyết Minh đều bị đảng CSVN giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa.
(Còn tiếp)
Toronto, Canada
Copyright © 2006 DCVOnline
Thi Xuân
Thị Ninh
Hồ Chí Minh có mấy vợ (2)
Saturday, September 8, 2007 10:47:51 AM
Gs Trần Gia Phụng:
4. Nông Thị Xuân, cô gái miền sơn cước Sau khi hiệp định Geneva được ký kết ngày 20/7/1954, đất nước bị chia hai, hòa bình được tái lập, Hồ Chí Minh về Hà Nội làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt). Ban bảo vệ sức khỏe trung ương, chuyên trách về sức khỏe các nhân vật cao cấp, đã tuyển một phụ nữ thuộc “gia đình cách mạng” tên là Nông Thị Xuân, người làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, thuộc sắc tộc Nùng. Cô Xuân được đưa về Hà Nội sống với ông Hồ năm 1955. Lúc đó, ông Hồ đã khoảng 65 tuổi, còn cô Xuân 22 tuổi. ở Phố Hàng Bông, Hà Nội Nguồn:: www.hanoimoi.com.vn
Sau vài tháng có thêm một em gái của cô Xuân tên là Vàng, và một em gái con cậu ruột là Nguyệt cũng được đưa theo. Cả ba được sắp đặt sinh sống trong ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông - Thợ Nhuộm, gần đường Quang Trung, Hà Nội.
Thông thường, để giữ bí mật về mối quan hệ giữa bà Xuân và ông Hồ, chính bộ trưởng bộ Công an của nhà cầm quyền Hà Nội là Trần Quốc Hoàn, tên thật là Nguyễn Cảnh (1916–1986), đưa cô Xuân vào gặp ông Hồ, rồi sau đó chở về.
Bà Xuân rất được ông Hồ ưa thích, và có với ông Hồ một người con trai năm 1956, đặt tên là Nguyễn Tất Trung, nhưng trước sau ông Hồ vẫn không cho bà Xuân vào ở phủ chủ tịch với ông, và không làm lễ cưới.
Thế rồi bỗng nhiên “vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm [Hà Nội]. Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Đức, được nhận dạng. Đó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn...”(18)
Theo tác giả Nguyễn Minh Cần, lúc xảy ra vụ án ông là Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội (tương đương với Phó thị trưởng), thì Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng bộ Công An chính phủ Hà Nội, nhiều lần đến nhà bà Xuân để hãm hiếp bà từ ngày 6/2/1957, và cuối cùng đã giết bà Xuân ngày 11/2/1957, bằng cách cho người đánh búa vào đỉnh đầu (theo khám nghiệm của bác sĩ), rồi quăng xác ở dốc Cổ Ngư.
Điều nầy chứng tỏ thẩm quyền tối cao về chính trị tại Hà Nội lúc đó, hoặc Hồ Chí Minh, hoặc bộ chính trị trung ương đảng, hoặc cả hai bên, đã quyết định thanh toán bà Xuân, khi bà nầy muốn công khai hóa mối liên hệ giữa bà với ông Hồ, và đòi chính thức nhìn nhận đứa con, nên Trần Quốc Hoàn mới dám làm hỗn với bà Xuân trước khi giết. Người chứng kiến việc chị mình bị hãm hiếp và bị đem đi giết chết là cô Vàng, cũng bị thủ tiêu khoảng ngày 2 hay 3/11/1957.(19)
Nguyễn Lương Bằng (1904–1979)
Nguồn: congdoanbdvn.org.vn
--------------------------------------------------------------------------------
Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi Trung bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904–1979), bí danh Sao Đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt Bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung.(20)
Nguyễn Tất Trung hiện khoảng 50 tuổi và sống ở Hà Nội. Cho đến nay, đảng CSVN hoàn toàn không lên tiếng về trường hợp Nguyễn Tất Trung, mà vẫn cứ cho học sinh Việt Nam học tập rằng ông Hồ độc thân, không có vợ và hy sinh cuộc đời cho cách mạng. Có lẽ đảng CSVN nên thử DNA xem Nguyễn Tất Trung có đúng con ông Hồ không? Nếu đúng thì đảng CSVN phải viết lại tiểu sử ông Hồ cho đúng sự thật, vì viết sai lịch sử thì học sinh ở trong nước hiện nay không thèm học sử, ít điểm về môn sử là phải. Chẳng những tiểu sử ông Hồ, mà toàn bộ lịch sử do cán bộ cộng sản viết cũng phải hiệu đính lại hết. Ngày nay, với phương tiện thông tin, tin học phát triển, các em học sinh hoặc gia đình các em biết rất rõ sự thật đã diễn ra trong quá khứ, nên những chuyện như thiếu trung thực như chuyện Trần Dân Tiên, hay chuyện “đuốc sống” Lê Văn Tám, không còn hấp dẫn học sinh nữa. Vì vậy các em chán học sử. Nhà cầm quyền Hà Nội phải tự nhận lỗi trước, đừng bóp méo, đừng bịa đặt lịch sử, chứ đừng chê các em học sinh Việt Nam dốt sử.
Trở lại chuyện ông Hồ mấy vợ, ngoài bốn nhân vật chính trên đây, theo tác giả Thành Tín, tức cựu đại tá Bùi Tín của quân đội cộng sản Hà Nội, trong cuộc đời Hồ Chí Minh còn có một vài cuộc tình nhỏ. Như khi còn ở Paris, ông Hồ có một người tình tên là Marie Bière; lúc sang Hoa Nam, ông Hồ yêu bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ Chu Ân Lai. Sau đây là lời Thành Tín viết về hai “mối tình con” nầy của ông Hồ:
“...Theo tài liệu ở Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Bière nào đó...” Ở một đoạn khác, Thành Tín tiếp : “...Theo chị Sophia, có người kể với chị là ông Hồ còn có lúc yêu cả vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu, khi gặp nhau ở Hoa Nam thời trẻ; ông cũng có lúc có tình cảm mặn nồng với cả chính bà Véra Vasiliéva. Chị Sophia kể rằng con gái bà Véra Vasiliéva nhớ lại rằng anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm...”(21)
Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, trong bài “Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh”, thì Nguyễn Ái Quốc, lúc làm nghề nhiếp ảnh ở Paris năm 1923, đã tỏ tình với cô Bourdon, nhưng bị cô nầy cự tuyệt. Cũng theo giáo sư Anh, khi Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, chính phủ Liên Xô cung cấp cho Quốc một bà vợ; và khi cảnh sát Hương Cảng bắt Nguyễn Ái Quốc tại Cửu Long ngày 6/6/1931, ông Quốc đang sống chung với một thiếu phụ tên là Li Sam.(22)
Sau hiệp định Genève, trước vụ cô Xuân, ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để điều hòa tâm sinh lý, giúp giữ gìn sức khỏe được tốt. Người ta chọn cho Hồ Chí Minh một nữ cán bộ trẻ đẹp là cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh uỷ Thanh Hóa. Khi về Hà Nội gặp họ Hồ, cô Phương Mai đồng ý lấy ông Hồ với điều kiện là phải danh chánh ngôn thuận, nghĩa là phải làm lễ cưới công khai đàng hoàng. Ông Hồ và các cán bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội cho rằng ông Hồ không lấy vợ thì có lợi cho uy tín chính trị hơn (?), nên cuối cùng việc cô Phương Mai không thành. Không muốn lấy vợ thì ông Hồ triệu cô Phương Mai ra Hà Nội làm gì? Phải chăng các lãnh tụ cộng sản Hà Nội sợ cô Phương Mai, một khi trở thành vợ của họ Hồ, sẽ tranh giành quyền lực nên cản trở vụ nầy? Về sau, cô Phương Mai được đưa lên làm thứ trưởng bộ Thương binh trong chính phủ Hà Nội.(23)
Qua các cuộc tình của Hồ Chí Minh, và nhất là qua sự kiện Nông Thị Xuân và Nguyễn Thị Phương Mai, người ta thấy rõ ông Hồ và cả đảng CSVN muốn ông ta có cơ hội giải quyết sinh lý của một con người bình thường, nhưng không chịu công khai hóa một cách danh chánh ngôn thuận đời sống vợ chồng, nhắm tạo cho ông ta thành huyền thoại về một siêu nhân suốt đời sống cô đơn, hy sinh bản thân cho đại cuộc của đất nước.
Đó là chưa kể chính bản thân của ông Hồ là một người say mê công danh đến cùng tột. Sự say mê đó được thể hiện rõ qua việc đảng Cộng Sản đã in cả hàng triệu quyển sách bằng tiếng Việt và bằng ngoại ngữ, để thần thánh hóa ông Hồ, mà ông vẫn chưa thỏa mãn. Ông ta còn lấy những bút hiệu khác để viết sách tự đề cao mình. Đó là hai quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, bút hiệu Trần Dân Tiên, và Vừa đi vừa kể chuyện, bút hiệu T. Lan. Các danh nhân trên thế giới viết hồi ký kể lại quá trình hoạt động của mình là chuyện bình thường. Trong hồi ký của họ, đôi khi họ cũng ca ngợi chính bản thân họ, nhưng vấn đề là họ thẳng thắn tự đề tên thật, và chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Ngược lại, Hồ Chí Minh giấu mình qua những tên khác để tự ca tụng mình. Dưới tên Trần Dân Tiên, ông Hồ đã mở đầu sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch như sau:
“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình...”
Sau đó, ông Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh tự đề cao mình: “...Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi [?] nghe bình sinh của người được?...”(24)
Trước phần kể chuyện của Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Sự Thật đã viết lời dẫn nhập như sau: “...Trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, Hồ Chủ Tịch đã nêu tấm gương đạo đức cách mạng vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, quyết tâm cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới...”(25)
Nhà xuất bản Sự Thật là cơ quan chuyên xuất bản sách vở kinh điển của Trung ương đảng Cộng Sản, không thể không biết rõ lai lịch của quyển sách, lý lịch của người viết. Nếu nhà xuất bản Sự Thật không biết sách của ai, hoặc tác giả chỉ là một nhà báo tầm thường không tên tuổi như Trần Dân Tiên hoặc T. Lan, thì chắc chắn không bao giờ sách được nhà xuất bản Sự Thật in ra. Do đó, chắc chắn nhà xuất bản Sự Thật biết Trần Dân Tiên và T. Lan là Hồ Chí Minh, mới dám in hai quyển trên. Chẳng những sách được in trong nước, mà các sách nầy còn được nhà xuất bản Ngoại Văn của nhà nước Hà Nội dịch thành nhiều thứ tiếng khác nhau, để phát hành khắp trên thế giới.
Đây không phải chỉ là ý đồ cá nhân của Hồ Chí Minh mà còn là chủ tâm của toàn đảng CSVN nhắm suy tôn lãnh tụ, thần thánh hóa Hồ Chí Minh, để đánh lừa chẳng những đồng bào Việt Nam ở trong nước, mà còn cả toàn thể dư luận thế giới trong thời gian chiến tranh trước đây.
Hồ Chí Minh cũng chỉ là một con người bình thường như mọi người, có vợ có con, kể cả việc có nhiều vợ hoặc người tình cũng không có gì lạ. Hiện tượng đa thê rất phổ thông trong xã hội, nhất là xã hội nước ta cho đến giữa thế kỷ 20. Vấn đề là tham vọng trở thành một siêu lãnh tụ chính trị đã thúc đẩy ông Hồ giấu tất cả những quan hệ tình cảm cá nhân, chối bỏ trách nhiệm làm chồng, làm cha, rồi lại có lúc đối xử tàn bạo với người đã từng là vợ mình, để xóa bỏ mọi dấu tích liên hệ tình cảm.
Helene Demuth (ảnh chụp 1850)
Nguồn: marxists.org
--------------------------------------------------------------------------------
Cung cách hành xử của ông Hồ có thể do ông học được từ kinh nghiệm của Karl Marx (1818-1883), người đã cùng Friedrich Engels (1820–1895) tung ra bản Tuyên ngôn Quốc tế Cộng sản năm 1848, bênh vực giai cấp công nhân nghèo khổ, tiếng tăm lừng lẫy trên thế giới. Từ năm 1849, trong thời kỳ sinh sống ở London (Anh) cho đến khi từ trần, Karl Marx có một người con trai ngoại hôn sinh năm 1851, với một phụ nữ giúp việc trong nhà tên là Helene Demuth. Người giúp việc nầy do bà mẹ vợ, vốn là quý tộc Đức, vì thương con gái, gởi qua từ Đức. Người con trai ngoại hôn của Marx tên là Frederick Lewis (Henry) Demuth (1851–1929). Chẳng những Karl Marx không thừa nhận Frederick mà còn buộc bà Helene phải trục xuất đứa con ra khỏi nhà. Dư luận cho rằng Marx sợ sự có mặt của người con làm giảm uy tín ông ta.(26)
Karl Marx ngoại tình hay có con ngoại hôn là cũng là chuyện bình thường. Chuyện bất bình thường ở đây là Marx, ông tổ của lý thuyết cộng sản, chủ trương bênh vực quyền lợi giai cấp công nhân vô sản nghèo khổ, yêu và cưới một cô gái quý tộc, sau đó phản bội vợ và ngoại tình, lấy một phụ nữ nghèo khổ, rồi lại thiếu chung thủy với người tình công nhân nghèo, và đuổi người con của chính mình ra khỏi nhà. Người con nầy phải mang họ mẹ, sống tăm tối không tương lai. Điều đặc biệt hơn nữa, các tổ chức cộng sản quốc tế giấu nhẹm việc nầy, mãi đến đầu thập niên 70 mới được phát hiện.(27)
Ông tổ cộng sản mà còn vậy, thì những đệ tử như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, noi theo đúng “sách” thì cũng không lấy làm lạ. Riêng ông Hồ hành xử như vậy chẳng qua vì quá ham danh vọng và quyền lực, nhắm tự tạo cho mình hình ảnh của một lãnh tụ độc thân, trong sạch, hy sinh cá nhân, để suốt đời tận tụy lo toan việc nước, nhắm lôi cuốn quần chúng đi theo đường lối cộng sản của ông ta.
Huyền thoại nầy rất cần thiết để xây dựng chế độ độc tài, nên ông Hồ và các đảng viên thân tín của ông càng ra sức gia công phát huy rộng rãi huyền thoại nầy cho những toan tính của đảng Cộng Sản. Một khi nhà lãnh tụ vong thân trong huyền thoại, thì họ không còn được cuộc sống bình thường của con người bình thường, mà nhất nhất đều phải theo sự điều hành trong guồng máy của chủ nghĩa độc tài. Do đó, khi trở thành lãnh tụ nhà nước ở Hà Nội, ông Hồ muốn quyết định bất cứ việc gì, dù có tính cách riêng tư, cũng đều có ý kiến của bộ chính trị đảng Cộng Sản, tức là nhóm lãnh đạo cao cấp trong đảng Cộng Sản Hà Nội lúc bấy giờ. Vì thế mới có chuyện đảng Cộng Sản đi tìm phụ nữ cho Hồ Chí Minh. Tuy nhiên một khi các cô gái muốn chính danh, đòi hợp thức hóa bằng hôn lễ công khai, thì lại thoái thác rằng “bác” không lấy vợ để có lợi cho uy tín chính trị hơn. Trong chế độ cộng sản hiện nay ở Việt Nam, không phải chỉ có một trường hợp điển hình là Hồ Chí Minh, mà có thể còn nhiều khuôn mặt khác nữa... Hiện tượng nầy cũng không phải chỉ riêng ở Việt Nam mà là một hiện tượng chung của thế giới cộng sản. Lý do chính là trong thế giới cộng sản, không có cơ chế dân chủ, không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí. Từ đó không có sự chế tài đối với các lãnh tụ. Các lãnh tụ vượt ra ngoài vòng dư luận, đứng trên luật pháp, tự cho mình có quyền làm bất cứ điều gì mình thích, không sợ sự phê bình của dân chúng, cũng không sợ sự chế tài của luật pháp. Điều nầy đưa đến nhiều hậu quả tai hại rộng lớn và lâu dài cho đất nước, khiến đất nước càng ngày càng đi xuống thê thảm như tình trạng Việt Nam chúng ta ngày nay.
Toronto, Canada
Trích web http://www.tudongonluanonline.com
4. Nông Thị Xuân, cô gái miền sơn cước Sau khi hiệp định Geneva được ký kết ngày 20/7/1954, đất nước bị chia hai, hòa bình được tái lập, Hồ Chí Minh về Hà Nội làm chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt). Ban bảo vệ sức khỏe trung ương, chuyên trách về sức khỏe các nhân vật cao cấp, đã tuyển một phụ nữ thuộc “gia đình cách mạng” tên là Nông Thị Xuân, người làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, thuộc sắc tộc Nùng. Cô Xuân được đưa về Hà Nội sống với ông Hồ năm 1955. Lúc đó, ông Hồ đã khoảng 65 tuổi, còn cô Xuân 22 tuổi. ở Phố Hàng Bông, Hà Nội Nguồn:: www.hanoimoi.com.vn
Sau vài tháng có thêm một em gái của cô Xuân tên là Vàng, và một em gái con cậu ruột là Nguyệt cũng được đưa theo. Cả ba được sắp đặt sinh sống trong ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông - Thợ Nhuộm, gần đường Quang Trung, Hà Nội.
Thông thường, để giữ bí mật về mối quan hệ giữa bà Xuân và ông Hồ, chính bộ trưởng bộ Công an của nhà cầm quyền Hà Nội là Trần Quốc Hoàn, tên thật là Nguyễn Cảnh (1916–1986), đưa cô Xuân vào gặp ông Hồ, rồi sau đó chở về.
Bà Xuân rất được ông Hồ ưa thích, và có với ông Hồ một người con trai năm 1956, đặt tên là Nguyễn Tất Trung, nhưng trước sau ông Hồ vẫn không cho bà Xuân vào ở phủ chủ tịch với ông, và không làm lễ cưới.
Thế rồi bỗng nhiên “vào một buổi sáng mùa xuân năm 1957, người ta thấy có xác một người đàn bà bị xe ô tô đụng chết ở dốc Cổ Ngư lên Chèm [Hà Nội]. Xác chết được đưa vào bệnh viện Việt Đức, được nhận dạng. Đó chính là cô Xuân. Nhưng xác không được mổ theo thường lệ, mà bị chôn cất vội vã, theo lệnh của Trần Quốc Hoàn...”(18)
Theo tác giả Nguyễn Minh Cần, lúc xảy ra vụ án ông là Phó chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Hà Nội (tương đương với Phó thị trưởng), thì Trần Quốc Hoàn, bộ trưởng bộ Công An chính phủ Hà Nội, nhiều lần đến nhà bà Xuân để hãm hiếp bà từ ngày 6/2/1957, và cuối cùng đã giết bà Xuân ngày 11/2/1957, bằng cách cho người đánh búa vào đỉnh đầu (theo khám nghiệm của bác sĩ), rồi quăng xác ở dốc Cổ Ngư.
Điều nầy chứng tỏ thẩm quyền tối cao về chính trị tại Hà Nội lúc đó, hoặc Hồ Chí Minh, hoặc bộ chính trị trung ương đảng, hoặc cả hai bên, đã quyết định thanh toán bà Xuân, khi bà nầy muốn công khai hóa mối liên hệ giữa bà với ông Hồ, và đòi chính thức nhìn nhận đứa con, nên Trần Quốc Hoàn mới dám làm hỗn với bà Xuân trước khi giết. Người chứng kiến việc chị mình bị hãm hiếp và bị đem đi giết chết là cô Vàng, cũng bị thủ tiêu khoảng ngày 2 hay 3/11/1957.(19)
Nguyễn Lương Bằng (1904–1979)
Nguồn: congdoanbdvn.org.vn
--------------------------------------------------------------------------------
Sau khi bà Xuân qua đời, Nguyễn Tất Trung mới một tuổi, mồ côi mẹ, được dì là cô Vàng nuôi, nhưng rồi Trung bị bắt đem đi gởi cho Nguyễn Lương Bằng (1904–1979), bí danh Sao Đỏ, một lãnh tụ cộng sản Việt Nam. Năm bé Trung năm tuổi (1961), người ta lại chuyển cho tướng Chu Văn Tấn nuôi. Chu Văn Tấn cùng sắc tộc Nùng với bà Xuân, là kẻ đứng ra tổ chức đơn vị cứu quốc quân đầu tiên của cộng sản ở vùng rừng núi Việt Bắc. Khi ông Hồ qua đời ngày 2-9-1969, thư ký kiêm cận vệ của ông Hồ là Vũ Kỳ nhận Trung làm con nuôi và đổi tên là Vũ Trung.(20)
Nguyễn Tất Trung hiện khoảng 50 tuổi và sống ở Hà Nội. Cho đến nay, đảng CSVN hoàn toàn không lên tiếng về trường hợp Nguyễn Tất Trung, mà vẫn cứ cho học sinh Việt Nam học tập rằng ông Hồ độc thân, không có vợ và hy sinh cuộc đời cho cách mạng. Có lẽ đảng CSVN nên thử DNA xem Nguyễn Tất Trung có đúng con ông Hồ không? Nếu đúng thì đảng CSVN phải viết lại tiểu sử ông Hồ cho đúng sự thật, vì viết sai lịch sử thì học sinh ở trong nước hiện nay không thèm học sử, ít điểm về môn sử là phải. Chẳng những tiểu sử ông Hồ, mà toàn bộ lịch sử do cán bộ cộng sản viết cũng phải hiệu đính lại hết. Ngày nay, với phương tiện thông tin, tin học phát triển, các em học sinh hoặc gia đình các em biết rất rõ sự thật đã diễn ra trong quá khứ, nên những chuyện như thiếu trung thực như chuyện Trần Dân Tiên, hay chuyện “đuốc sống” Lê Văn Tám, không còn hấp dẫn học sinh nữa. Vì vậy các em chán học sử. Nhà cầm quyền Hà Nội phải tự nhận lỗi trước, đừng bóp méo, đừng bịa đặt lịch sử, chứ đừng chê các em học sinh Việt Nam dốt sử.
Trở lại chuyện ông Hồ mấy vợ, ngoài bốn nhân vật chính trên đây, theo tác giả Thành Tín, tức cựu đại tá Bùi Tín của quân đội cộng sản Hà Nội, trong cuộc đời Hồ Chí Minh còn có một vài cuộc tình nhỏ. Như khi còn ở Paris, ông Hồ có một người tình tên là Marie Bière; lúc sang Hoa Nam, ông Hồ yêu bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ Chu Ân Lai. Sau đây là lời Thành Tín viết về hai “mối tình con” nầy của ông Hồ:
“...Theo tài liệu ở Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Bière nào đó...” Ở một đoạn khác, Thành Tín tiếp : “...Theo chị Sophia, có người kể với chị là ông Hồ còn có lúc yêu cả vợ ông Chu Ân Lai là bà Đặng Dĩnh Siêu, khi gặp nhau ở Hoa Nam thời trẻ; ông cũng có lúc có tình cảm mặn nồng với cả chính bà Véra Vasiliéva. Chị Sophia kể rằng con gái bà Véra Vasiliéva nhớ lại rằng anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm...”(21)
Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, trong bài “Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh”, thì Nguyễn Ái Quốc, lúc làm nghề nhiếp ảnh ở Paris năm 1923, đã tỏ tình với cô Bourdon, nhưng bị cô nầy cự tuyệt. Cũng theo giáo sư Anh, khi Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô, chính phủ Liên Xô cung cấp cho Quốc một bà vợ; và khi cảnh sát Hương Cảng bắt Nguyễn Ái Quốc tại Cửu Long ngày 6/6/1931, ông Quốc đang sống chung với một thiếu phụ tên là Li Sam.(22)
Sau hiệp định Genève, trước vụ cô Xuân, ban lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội có ý kiến là ông Hồ cần có vợ để điều hòa tâm sinh lý, giúp giữ gìn sức khỏe được tốt. Người ta chọn cho Hồ Chí Minh một nữ cán bộ trẻ đẹp là cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh uỷ Thanh Hóa. Khi về Hà Nội gặp họ Hồ, cô Phương Mai đồng ý lấy ông Hồ với điều kiện là phải danh chánh ngôn thuận, nghĩa là phải làm lễ cưới công khai đàng hoàng. Ông Hồ và các cán bộ lãnh đạo đảng Cộng Sản Hà Nội cho rằng ông Hồ không lấy vợ thì có lợi cho uy tín chính trị hơn (?), nên cuối cùng việc cô Phương Mai không thành. Không muốn lấy vợ thì ông Hồ triệu cô Phương Mai ra Hà Nội làm gì? Phải chăng các lãnh tụ cộng sản Hà Nội sợ cô Phương Mai, một khi trở thành vợ của họ Hồ, sẽ tranh giành quyền lực nên cản trở vụ nầy? Về sau, cô Phương Mai được đưa lên làm thứ trưởng bộ Thương binh trong chính phủ Hà Nội.(23)
Qua các cuộc tình của Hồ Chí Minh, và nhất là qua sự kiện Nông Thị Xuân và Nguyễn Thị Phương Mai, người ta thấy rõ ông Hồ và cả đảng CSVN muốn ông ta có cơ hội giải quyết sinh lý của một con người bình thường, nhưng không chịu công khai hóa một cách danh chánh ngôn thuận đời sống vợ chồng, nhắm tạo cho ông ta thành huyền thoại về một siêu nhân suốt đời sống cô đơn, hy sinh bản thân cho đại cuộc của đất nước.
Đó là chưa kể chính bản thân của ông Hồ là một người say mê công danh đến cùng tột. Sự say mê đó được thể hiện rõ qua việc đảng Cộng Sản đã in cả hàng triệu quyển sách bằng tiếng Việt và bằng ngoại ngữ, để thần thánh hóa ông Hồ, mà ông vẫn chưa thỏa mãn. Ông ta còn lấy những bút hiệu khác để viết sách tự đề cao mình. Đó là hai quyển Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch, bút hiệu Trần Dân Tiên, và Vừa đi vừa kể chuyện, bút hiệu T. Lan. Các danh nhân trên thế giới viết hồi ký kể lại quá trình hoạt động của mình là chuyện bình thường. Trong hồi ký của họ, đôi khi họ cũng ca ngợi chính bản thân họ, nhưng vấn đề là họ thẳng thắn tự đề tên thật, và chịu trách nhiệm về những điều họ viết. Ngược lại, Hồ Chí Minh giấu mình qua những tên khác để tự ca tụng mình. Dưới tên Trần Dân Tiên, ông Hồ đã mở đầu sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch như sau:
“Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất đơn giản: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình...”
Sau đó, ông Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh tự đề cao mình: “...Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn biết bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi [?] nghe bình sinh của người được?...”(24)
Trước phần kể chuyện của Trần Dân Tiên tức Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Sự Thật đã viết lời dẫn nhập như sau: “...Trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, Hồ Chủ Tịch đã nêu tấm gương đạo đức cách mạng vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, quyết tâm cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới...”(25)
Nhà xuất bản Sự Thật là cơ quan chuyên xuất bản sách vở kinh điển của Trung ương đảng Cộng Sản, không thể không biết rõ lai lịch của quyển sách, lý lịch của người viết. Nếu nhà xuất bản Sự Thật không biết sách của ai, hoặc tác giả chỉ là một nhà báo tầm thường không tên tuổi như Trần Dân Tiên hoặc T. Lan, thì chắc chắn không bao giờ sách được nhà xuất bản Sự Thật in ra. Do đó, chắc chắn nhà xuất bản Sự Thật biết Trần Dân Tiên và T. Lan là Hồ Chí Minh, mới dám in hai quyển trên. Chẳng những sách được in trong nước, mà các sách nầy còn được nhà xuất bản Ngoại Văn của nhà nước Hà Nội dịch thành nhiều thứ tiếng khác nhau, để phát hành khắp trên thế giới.
Đây không phải chỉ là ý đồ cá nhân của Hồ Chí Minh mà còn là chủ tâm của toàn đảng CSVN nhắm suy tôn lãnh tụ, thần thánh hóa Hồ Chí Minh, để đánh lừa chẳng những đồng bào Việt Nam ở trong nước, mà còn cả toàn thể dư luận thế giới trong thời gian chiến tranh trước đây.
Hồ Chí Minh cũng chỉ là một con người bình thường như mọi người, có vợ có con, kể cả việc có nhiều vợ hoặc người tình cũng không có gì lạ. Hiện tượng đa thê rất phổ thông trong xã hội, nhất là xã hội nước ta cho đến giữa thế kỷ 20. Vấn đề là tham vọng trở thành một siêu lãnh tụ chính trị đã thúc đẩy ông Hồ giấu tất cả những quan hệ tình cảm cá nhân, chối bỏ trách nhiệm làm chồng, làm cha, rồi lại có lúc đối xử tàn bạo với người đã từng là vợ mình, để xóa bỏ mọi dấu tích liên hệ tình cảm.
Helene Demuth (ảnh chụp 1850)
Nguồn: marxists.org
--------------------------------------------------------------------------------
Cung cách hành xử của ông Hồ có thể do ông học được từ kinh nghiệm của Karl Marx (1818-1883), người đã cùng Friedrich Engels (1820–1895) tung ra bản Tuyên ngôn Quốc tế Cộng sản năm 1848, bênh vực giai cấp công nhân nghèo khổ, tiếng tăm lừng lẫy trên thế giới. Từ năm 1849, trong thời kỳ sinh sống ở London (Anh) cho đến khi từ trần, Karl Marx có một người con trai ngoại hôn sinh năm 1851, với một phụ nữ giúp việc trong nhà tên là Helene Demuth. Người giúp việc nầy do bà mẹ vợ, vốn là quý tộc Đức, vì thương con gái, gởi qua từ Đức. Người con trai ngoại hôn của Marx tên là Frederick Lewis (Henry) Demuth (1851–1929). Chẳng những Karl Marx không thừa nhận Frederick mà còn buộc bà Helene phải trục xuất đứa con ra khỏi nhà. Dư luận cho rằng Marx sợ sự có mặt của người con làm giảm uy tín ông ta.(26)
Karl Marx ngoại tình hay có con ngoại hôn là cũng là chuyện bình thường. Chuyện bất bình thường ở đây là Marx, ông tổ của lý thuyết cộng sản, chủ trương bênh vực quyền lợi giai cấp công nhân vô sản nghèo khổ, yêu và cưới một cô gái quý tộc, sau đó phản bội vợ và ngoại tình, lấy một phụ nữ nghèo khổ, rồi lại thiếu chung thủy với người tình công nhân nghèo, và đuổi người con của chính mình ra khỏi nhà. Người con nầy phải mang họ mẹ, sống tăm tối không tương lai. Điều đặc biệt hơn nữa, các tổ chức cộng sản quốc tế giấu nhẹm việc nầy, mãi đến đầu thập niên 70 mới được phát hiện.(27)
Ông tổ cộng sản mà còn vậy, thì những đệ tử như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, noi theo đúng “sách” thì cũng không lấy làm lạ. Riêng ông Hồ hành xử như vậy chẳng qua vì quá ham danh vọng và quyền lực, nhắm tự tạo cho mình hình ảnh của một lãnh tụ độc thân, trong sạch, hy sinh cá nhân, để suốt đời tận tụy lo toan việc nước, nhắm lôi cuốn quần chúng đi theo đường lối cộng sản của ông ta.
Huyền thoại nầy rất cần thiết để xây dựng chế độ độc tài, nên ông Hồ và các đảng viên thân tín của ông càng ra sức gia công phát huy rộng rãi huyền thoại nầy cho những toan tính của đảng Cộng Sản. Một khi nhà lãnh tụ vong thân trong huyền thoại, thì họ không còn được cuộc sống bình thường của con người bình thường, mà nhất nhất đều phải theo sự điều hành trong guồng máy của chủ nghĩa độc tài. Do đó, khi trở thành lãnh tụ nhà nước ở Hà Nội, ông Hồ muốn quyết định bất cứ việc gì, dù có tính cách riêng tư, cũng đều có ý kiến của bộ chính trị đảng Cộng Sản, tức là nhóm lãnh đạo cao cấp trong đảng Cộng Sản Hà Nội lúc bấy giờ. Vì thế mới có chuyện đảng Cộng Sản đi tìm phụ nữ cho Hồ Chí Minh. Tuy nhiên một khi các cô gái muốn chính danh, đòi hợp thức hóa bằng hôn lễ công khai, thì lại thoái thác rằng “bác” không lấy vợ để có lợi cho uy tín chính trị hơn. Trong chế độ cộng sản hiện nay ở Việt Nam, không phải chỉ có một trường hợp điển hình là Hồ Chí Minh, mà có thể còn nhiều khuôn mặt khác nữa... Hiện tượng nầy cũng không phải chỉ riêng ở Việt Nam mà là một hiện tượng chung của thế giới cộng sản. Lý do chính là trong thế giới cộng sản, không có cơ chế dân chủ, không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí. Từ đó không có sự chế tài đối với các lãnh tụ. Các lãnh tụ vượt ra ngoài vòng dư luận, đứng trên luật pháp, tự cho mình có quyền làm bất cứ điều gì mình thích, không sợ sự phê bình của dân chúng, cũng không sợ sự chế tài của luật pháp. Điều nầy đưa đến nhiều hậu quả tai hại rộng lớn và lâu dài cho đất nước, khiến đất nước càng ngày càng đi xuống thê thảm như tình trạng Việt Nam chúng ta ngày nay.
Toronto, Canada
Trích web http://www.tudongonluanonline.com
Huyền thoại về cuộc sống độc thân giản dị
Hồ Chí Minh cũng như ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương luôn luôn đề cao rằng ông ta suốt đời sống độc thân, không lập gia đình, để có thể toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Sự thật, dù Hồ Chí Minh đi đâu, ở nơi nào, cũng đều có bóng dáng của người đàn bà trong suốt cuộc đời hoạt động của ông.
Theo giáo sư Nguyễn Thế Anh, khi hành nghề nhiếp ảnh ở Paris, Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã gởi thư tỏ tình với cô Bourdon ngày 10-5-1923. Sau vài cuộc gặp gỡ và thư từ qua lại, cô Bourdon viết thư ngày 11-6-1923 cự tuyệt mối tình của Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh còn trưng dẫn nhiều tài liệu cho thấy khi qua Moscow, nhà cầm quyền Liên Xô đã cung cấp cho Nguyễn Ái Quốc một "người vợ".(17)
Ðến Quảng Châu (Trung Hoa), Nguyễn Ái Quốc, lúc đó lấy tên là Lý Thụy kết hôn với một người phụ nữ Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh năm 1926. Bà nầy bị thất lạc sau cuộc chiến Quốc Cộng ở Trung Hoa năm 1927.(18) Theo một tài liệu khác, thì trong thời gian nầy, Lý Thụy còn sống với một phụ nữ Trung Hoa thứ nhì là Lý Huệ Khanh, em của Lý Huệ Quần. Lý Huệ Quần là vợ của Lâm Ðức Thụ, một đồng chí của Lý Thụy. Tài liệu nầy giải thích rằng Nguyễn Ái Quốc đổi tên thành Lý Thụy là theo họ của Lý Huệ Khanh cho dễ hoạt động.(19) Khi cảnh sát Hồng Kông bắt Lý Thụy ngày 6-6-1931 tại thị trấn Cửu Long, gần Hồng Kông, ông đang sống với một phụ nữ Trung Hoa tên là Li Sam. Khi Lý Thụy đến Vân Nam, tướng Long Vân (Lung Yun) đã tìm cho ông một nhân tình người Tàu.(20)
Từ năm 1930, ở Hồng Kông, Lý Thụy dạy chính trị cho Nguyễn Thị Minh Khai tại trụ sở chi nhánh Bộ Ðông phương của Quốc tế cộng sản. Sau một thời gian, hai người trở thành vợ chồng, và khi qua Liên Xô tham dự đại hội cộng sản quốc tế ngày 25-7-1935, hai người công khai sống chung.(21) Năm 1944, Hồ Chí Minh về hoạt động tại vùng Pắc Bó, Cao Bằng. Ở đây, theo sử gia và nhà hoạt động chính trị Trần Trọng Kim, ông Hồ sống chung với bà Ðỗ Thị Lạc, bí danh "chị Thuần", và sinh hạ một người con gái.(22)
Sau cuộc sống chung tạm bợ với Ðỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử cho đến năm 1954, ông Hồ về Hà Nội. Theo tài liệu của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Minh Cần, bộ chính trị đảng Lao Ðộng đã đưa một cô gái thuộc sắc tộc Nùng ở Cao Bằng là Nông Thị Xuân (có sách viết Nguyễn Thị Xuân) về phục vụ Hồ Chí Minh năm 1955. Lúc đó, ông Hồ khoảng 65 tuổi và bà Xuân có lẽ khoảng trên dưới 22 tuổi, khá xinh đẹp: "Cô Xuân rất xinh gái, da trắng nõn, miệng tươi như hoa".(23) Năm sau, bà Xuân sinh hạ một người con trai được đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Sau một thời gian chung sống, Hồ Chí Minh sa thải bà Xuân. Viên bộ trưởng công an Hà Nội là Trần Quốc Hoàn đã hiếp dâm bà Xuân, rồi cho người thủ tiêu một cách tàn bạo.(23)
Trong thời gian nầy, đảng Lao Ðộng còn có ý định đưa cô Nguyễn Thị Phương Mai, tỉnh uỷ viên tỉnh Thanh Hóa, về Hà Nội để làm vợ Hồ Chí Minh. Cô Phương Mai đòi công khai hóa cuộc hôn nhân giữa hai người, thì bị từ chối, nên cô rút lui.(24) Năm 1959, Ðào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng Cộng Sản, Phó thủ tướng chính phủ Trung Quốc sang Việt Nam nghỉ dưỡng. Một bộ trưởng trong chính phủ Hà Nội đã nói riêng với Ðào Chú rằng Hồ Chí Minh muốn tái hôn với một người vợ Quảng Ðông. Ðào Chú rất hoan hỷ giúp đỡ, nhưng thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai đã thận trọng yêu cầu phía Việt Nam xem xét vấn đề cẩn thận. Hội nghị do Lê Duẩn triệu tập đã đi đến quyết định là phải bảo vệ hình tượng Hồ Chí Minh, nên việc ông Hồ muốn tái hôn với một phụ nữ Quảng Châu đã không thành.(25) Hồ Chí Minh cho Ðào Chú biết ông muốn tái hôn, có nghĩa là ông Hồ tự thú nhận đã kết hôn một lần nào đó rồi.
Như thế huyền thoại thứ ba về Hồ Chí Minh, hy sinh cuộc sống cá nhân, sống độc thân để toàn tâm toàn ý lo việc nước, là một câu chuyện bí mật giấu đầu lòi đuôi. Hồ Chí Minh có vợ là một chuyện bình thường, nhưng bản thân Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản trước sau luôn luôn che đậy việc nầy để lừa bịp nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới. Kết hôn, lập gia đình là điều chẳng có gì xấu xa, nhưng xử sự tàn bạo với những người đã từng sống với mình, che đậy việc kết hôn, lừa bịp trắng trợn mọi người là điều mà không một nền luân lý nào chấp nhận.
Sau khi Hồ Chí Minh từ trần, trong lời kêu gọi đưa ra ngày 3-9-1969, đảng Lao Ðộng Việt Nam (tức đảng CSVN) đã viết: "...Cuộc đời của Người là một tấm gương chói lọi của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần đoàn kết, của đạo đức giản dị, khiêm tốn, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư..."(26) Hãy nhìn vào cách sống của Hồ Chí Minh để biết ông có phải là người "giản dị, khiêm tốn" hay không?
Trước hết, chế độ Hà Nội tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh sống trong một ngôi nhà sàn bằng gỗ. Nghe chữ "nhà sàn", người Việt thường liên tưởng đến những ngôi nhà của người miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng một thước, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc, hoặc liên tưởng đến những nhà sàn của một số cư dân ven sông hay dọc các kênh đào. Những ngôi nhà sàn nầy rất đơn sơ, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến nhiều người tưởng tượng rằng ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh có lẽ cũng thế, và cũng tưởng rằng Hồ Chí Minh sống rất bình dân. Thực tế hoàn toàn không như vậy. Những du khách đã từng viếng ngôi nhà sàn của ông Hồ, hoặc những ai đã từng nhìn ngôi nhà sàn nầy qua phim ảnh, rồi so sánh với nhà sàn của người miền núi hoặc của những người sống ven sông, sẽ có cảm nghĩ khác. Ngôi nhà sàn của ông Hồ có vẻ giản dị một cách cố ý, lại rất sang trọng, xây dựng bằng loại gỗ cực tốt, trang bị đầy đủ theo tiện nghi thời đại, có người chăm sóc cẩn thận, và gần như là nhà nghỉ mát mùa hè, hoặc nơi ông đón tiếp du khách. Như vậy ngôi nhà sàn của ông Hồ chỉ là loại trang trí mắc tiền.
"Áo quần lên sân khấu rất quan trọng: luôn luôn giản dị (áo quần màu chàm). Ðối với Hồ cũng như Staline, Mao, hoặc Kim Nhật Thành, sự giản dị được nghiên cứu kỹ lưỡng. Áo quần cắt may thô sơ theo kiểu Kroutchev hoặc Ceaucescu, biểu tượng của một thế hệ lãnh đạo cộng sản. Ðiều đặc biệt của Hồ trong giới lãnh đạo cộng sản là Hồ đi dép lốp (trên nguyên tắc cắt từ lốp xe hơi) ... Còn gì ăn ảnh hơn dù là tiền chiến hay hiện đại "Bác" Hồ đi dép lốp trên màn ảnh."(27)
Hồ Chí Minh duy nhất chỉ để lộ một sở thích phàm tục rất người, đó là ông thích hút thuốc thơm Hoa Kỳ, đặc biệt là Camel hay Lucky Strike. (28) Không biết đây là dàn kịch để chứng tỏ ông ta cũng bình thường như mọi người, hay quả thật ông ta thích hút thuốc Mỹ. Dầu sao, cuộc sống của ông Hồ không giản dị như người ta tưởng.
Trong sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Trần Dân Tiên (chính là Hồ Chí Minh) đã viết trong phần đầu sách: "Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của người được?"(29) Một người dùng một cái tên khác viết sách, tự khen mình là khiêm tốn không muốn nói về mình, rồi sau đó, suốt trong quyển sách lại kể lể tự đề cao sự nghiệp của mình, thì không biết nên xếp ông ta vào loại người gì đây?
Cuối sách nầy, Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí Minh) viết: "Nhân dân gọi Chủ tịch là cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của Tổ quốc Việt Nam."(30). Lời nầy cho thấy Hồ Chí Minh muốn gợi ý để được người Việt Nam gọi ông là cha già của dân tộc, nhưng không được dân chúng hưởng ứng, nên ông quay qua dùng chữ "bác". Ở đây lại thấy ông Hồ thậm khôn, vì trong cơ cấu gia tộc Việt Nam, bác là anh của cha, bác lớn hơn cha và đứng trước cha trong sinh hoạt đại gia đình, hoặc lễ nghi tế tự.
Theo Thành Tín, tức Bùi Tín, cựu đại tá quân đội cộng sản Hà Nội, cựu phó tổng biên tập báo Nhân Dân, Hồ Chí Minh công khai tự xưng là "bác" năm 1945 trước quần chúng, lúc đó ông khoảng 55 tuổi.(31) Nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những người già cả, đáng tuổi ông, cha, chú, anh, chị mình mà xưng bác thì xin khỏi bàn về tư cách của "bác".
Chẳng những thiếu kính trọng với người đang sống, Hồ Chí Minh còn tỏ ra thiếu lễ độ đối với những người trước ông hàng mấy trăm năm. Hãy đọc những câu thơ của Hồ Chí Minh qua bài "Ngẫu hứng" ông viết vào dịp viếng đền thờ Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn (1226-1300) khoảng trước năm 1950: "Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng, Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung. Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc, Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng. Bác đưa một nước qua nô lệ Tôi dắt năm châu đến đại đồng. Bác có linh thiêng cười một tiếng Rằng tôi cách mạng đã thành công."(32)
Tự phong mình là anh hùng đã là chuyện lạ, gọi một vĩ nhân của lịch sử sống cách đây hơn 600 năm bằng "bác" là một sự vô lễ chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử Việt Nam. Khi Quốc sử quán triều Nguyễn trình Khâm định Việt sử thông giám cương mục lên vua Tự Ðức (trị vì 1847-1883) duyệt, trong khung cảnh xã hội vua là thiên tử (con trời), nhà vua đã phê bình nhiều nhân vật lịch sử, đôi khi với lời lẽ gay gắt, nhưng chưa bao giờ nhà vua có ngôn ngữ sỗ sàng thiếu lễ độ như Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh tưởng rằng gọi Trần Hưng Ðạo bằng "bác" là có thể tự nâng mình lên ngang tầm với người xưa, nhưng ngược lại những lời nầy cho thấy hố cách biệt lớn lao giữa một vị thánh và một kẻ tự phụ hợm mình. Chẳng những thế, người Việt Nam xưng tụng đức Trần Hưng Ðạo là thánh, nên cách xưng hô của họ Hồ xúc phạm đến cả niềm tin của dân chúng Việt Nam. Nếu nói rằng bài thơ nầy là "thơ khẩu khí", thì càng thấy "khẩu khí" của Hồ Chí Minh chẳng khiêm cung tý nào.
Hồ Chí Minh là chủ tịch miền Bắc, ông có quyền sống một cách tiện nghi đầy đủ để làm việc; thậm chí ông có quyền tận hưởng mọi lạc thú trên đời sau khi đã dày công cực khổ tranh đấu; ông có quyền lực to lớn của một chủ tịch nhà nước độc tài; ông có thể vượt qua luật pháp ra lệnh sinh sát mọi người; ông có thể làm bất cứ việc gì ông muốn dưới chế độ độc tài; nhưng nói rằng họ Hồ là người "giản dị khiêm tốn" là điều hoàn toàn sai sự thật. (còn tiếp)
CHÚ THÍCH:
17. Nguyễn Thế Anh, "Hành trình chính trị của Hồ Chí Minh", đăng trong Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, một nhóm tác giả, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 25.
18. Daniel Hémery, sđd. tt. 63, 145.
19. Lữ Giang, Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam, quyển I, tái bản lần thứ nhất, có hiệu đính và bổ túc, California, 1999, tr. 109.
20. Nguyễn Thế Anh, bài và sách đã dẫn, tt. 25-26. Stanley Karnow, Vietnam A History, Nxb. Viking, New York, in lần thứ nhì, 9-1983, tr. 126. Karnow còn viết thêm:" A Communist official in Hanoi in 1981 told me that Ho had loved a Chinese woman, a doctor, who died before they could marry." (Một viên chức cộng sản ở Hà Nội vào năm 1981 đã nói với tôi rằng Hồ đã yêu một phụ nữ Trung Hoa, một bác sĩ; bà nầy từ trần trước khi họ định cưới nhau.)
21. Thành Tín, Về ba ông thánh, California, 1995, tr. 136. Sau đây là nguyên văn của ông Thành Tín: "...Bà Minh Khai ghi rõ chồng là "Lin", bí danh của Nguyễn Ái Quốc hồi ấy; cả những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tại nhà ở tập thể của cán bộ thuộc Quốc Tế Cộng Sản ghi rõ: hai vợ chồng Minh Khai và "Lin", chung phòng, chung giường, chung đồ dùng... Có tài liệu ghi rõ hai vợ chồng nầy cũng chung sống ở Hồng Kông một thời gian... Ðây không thể nào là tài liệu giả..." Chú ý: Nguyễn Thị Minh Khai là chị ruột của Nguyễn Thị Quang Thái. Bà Thái là vợ đầu của Võ Nguyên Giáp.
22. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, tr. 75. Sau đây là nguyên văn của Trần Trọng Kim trong đoạn nầy: "Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội lại dời về tỉnh Quảng Tây, và cho ông Hồ Chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt. Sau đó, Hội cho ông Minh cùng 22 đảng viên, phần nhiều là người đảng Phục Quốc, về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên là Ðỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau, thấy người ta nói khi đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản."
23. Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày (hồi ký chính trị của một người không làm chính trị), Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 605-609. Nguyễn Minh Cần, "Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời của Hồ Chí Minh", nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, số 96, tháng 4-1997, tt. 33-40.
24. Nguyễn Minh Cần, bđd., tt. 36-37.
25. Văn trích tuần báo, số tháng 1-1991. Bài báo nhan đề: "Hồ Chí Minh tằng tưởng tái hôn". Nguyệt san Phụng Sưï, Glendale, Phoenix, Arizona, bộ mới, số 10, ngày 15-10-1996, chụp hình và dịch bài báo sang tiếng Việt.
26. BNCLSÐ, sđd. tr. 160. Chữ "Người" viết hoa theo nguyên bản.
27. Oliver Todd, "Huyền thoại Hồ Chí Minh", Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 276.
28. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 277. Stanley Karnow, "Ho Chi Minh", tạp chí Time, tập 151, số. 14, 13-4-1998, tr. 123.
29. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 9. Những chữ viết hoa theo nguyên bản.
30. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 149. Những chữ viết hoa theo nguyên bản.
31. Thành Tín, Hoa xuyên tuyết, Nxb. Nhân Quyền, California 1991, tr. 117.
32. Phạm Cây Trâm, "Về bài thơ viếng đền thờ Ðức Trần Hưng Ðạo của ông Hồ", mục "Bạn đọc viết", nguyệt san Thế kỷ 21, California, số 136, tháng 8-2000, tr. 8.
Hồ Chí Minh luôn luôn hô hào đoàn kết dân tộc. Một trong những khẩu hiệu ưng ý của họ Hồ là "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công đại thành công."(33) Sau đây là các cách thức đoàn kết của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam. 1. Ðoàn kết là tiêu diệt tất cả mọi người bất đồng chính kiến bằng bất cứ giá nào để giành quyền lực: Khoảng giữa tháng 11-1924, Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý Thụy, đáp tàu từ Vladivostok (viễn đông Liên Xô) đi Quảng Châu (Trung Hoa) với vai trò thông ngôn của phái bộ cố vấn Borodin bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên trong thời kỳ liên minh quốc cộng đầu tiên ở Trung Hoa. Ðến Quảng Châu, Lý Thụy bắt đầu gây dựng cơ sở đảng Cộng Sản Việt Nam. Nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam uy tín nhất ở Trung Hoa thời bấy giờ là Phan Bội Châu. Ðể giành lấy tổ chức của Phan Bội Châu, một trong những việc làm đầu tiên của Lý Thụy ở Quảng Châu là bán tin tức cho Pháp bắt Phan Bội Châu khi ông Phan đi từ Hàng Châu đến Thượng Hải ngày 1-7-1925.(34) Từ đó, những người hoạt động cách mạng ở Trung Hoa thiếu người lãnh đạo, dần dần ngả về theo nhóm cộng sản của Lý Thụy. Chẳng những chỉ một mình Phan Bội Châu, mà những cán bộ cách mạng nào không theo phe Lý Thụy, đều bị Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt trên đường về Việt Nam hoạt động.(35)
Trong cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Nam Quốc Dân Ðảng năm 1930, các đảng viên cộng sản áp dụng đúng sách vở của Lý Thụy, rải truyền đơn tố cáo Quốc Dân Ðảng sẽ tấn công Bắc Kỳ để Pháp đề phòng và lùng bắt các đảng viên QDÐ. Nguyễn Thị Giang đã đưa các tờ truyền đơn nầy cho Nguyễn Thái Học xem, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn không tin là những đảng phái cách mạng Việt Nam cùng chống Pháp lại có thể hại nhau như thế.(36)
Năm 1945, Nhật Bản thất trận và đầu hàng Ðồng Minh. Tại hội nghị Potsdam (thị trấn ngoại ô Berlin), đại diện các nước Ðồng Minh đưa ra tối hậu thư cho Nhật, trong đó quyết định về vấn đề Ðông Dương như sau: quân đội Nhật sẽ bị giải giới do người Trung Hoa (Quốc Dân Ðảng) ở phía bắc vĩ tuyến 16, và do người Anh ở phía nam vĩ tuyến 16. Tối hậu thư không nói ai sẽ cầm quyền sau khi quân đội Nhật bị giải giới. Lợi dụng khoảng trống chính trị nầy, Mặt trận Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, gồm nòng cốt là đảng viên cộng sản, tổ chức cướp chính quyền. Việt Minh đã giết hại và thủ tiêu vô số người yêu nước không đi theo chủ trương đường lối của Việt Minh. Những tên tuổi lớn đều bị Việt Minh giết hại như Phạm Quỳnh (1945), Ngô Ðình Khôi (1945), Tạ Thu Thâu (1945), Bùi Quang Chiêu (1945), Phan Văn Hùm (1945), Trương Tử Anh (1946), Huỳnh Phú Sổ (1947), Khái Hưng (1947)... Việt Minh thủ tiêu hàng loạt các đảng viên Quốc Dân Ðảng, các nhà trí thức khác, bà hàng ngàn tín đồ đạo Cao Ðài.(37) Việt Minh thủ tiêu tất cả những ai có thể tranh quyền với Việt Minh, từ trung ương, ở các thành phố lớn, đến những đơn vị nhỏ nhất ở các làng xã.
Như vậy, ý nghĩa thứ nhất về việc đoàn kết và liên hiệp đối với Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, là sự sáp nhập hay tiêu diệt tất cả các phe nhóm hay cá nhân đối lập với Cộng Sản bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì, để chỉ còn lại những ai chịu "đoàn kết" chấp nhận vâng phục cộng sản. Chỉ khi nào thất thế, gặp nhiều trở lực, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản mới sử dụng cách đoàn kết thứ nhì.
2. Ðoàn kết là tạm thời nhượng bộ, liên minh giai đoạn để vượt khó khăn: Cũng trong năm 1945, sau khi lập chính phủ đầu tiên ngày 2-9, gồm đại đa số đảng viên cộng sản, Hồ Chí Minh gặp nhiều trở ngại về phía người Pháp theo chân người Anh đến Ðông Dương, và từ từ tiến ra Bắc; về phía người Trung Hoa (Quốc Dân Ðảng) đang từ biên giới tiến xuống Hà Nội theo thỏa ước Potsdam; và về phía những đảng phái cách mạng Việt Nam như Việt Nam Quốc Dân Ðảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội (Việt Cách). Hồ Chí Minh đành phải nhượng bộ, tuyên bố giải tán đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 11-11-1945, thực chất là đảng Cộng Sản rút vào hoạt động bí mật.(38) Họ Hồ tổ chức tổng tuyển cử ngày 6-1, và thành lập chính phủ liên hiệp ngày 2-3-1946 gồm cả những lãnh tụ Việt Cách và Việt Quốc như Nguyễn Hải Thần, Trương Ðình Tri, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Chu Bá Phượng, Nghiêm Kế Tổ ... Ngay sau khi ký kết được với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3, tạm hòa hoãn với Pháp, và mua chuộc được các tướng lãnh Trung Hoa để họ rút quân về nước, nghĩa là vừa thoát qua được khó khăn, Hồ Chí Minh thẳng tay loại bỏ ngay các lãnh tụ không phải là Việt Minh ra khỏi chính phủ, khủng bố, giết hại nhân viên các đảng phái quốc gia, nuốt chửng những kẻ đã từng liên hiệp với họ.
Sách lược nầy được ứng dụng thêm một lần nữa với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thành lập ngày 20-12-1960. Lúc đầu, mặt trận nầy gồm một số đảng viên cộng sản làm nòng cốt và một số người chống chế độ Ngô Ðình Diệm. Sau đó, những người không thuộc đảng Cộng Sản bị loại dần cho đến khi mặt trận chỉ còn lại những người của Cộng Sản Ðảng mà thôi.
Những người trước đây bất đồng chính kiến, nhưng khi gặp Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản, chịu khuất phục và chịu đi theo họ Hồ thì được sử dụng trong những giai đoạn và hoàn cảnh cần thiết. Ví dụ Trần Huy Liệu (1901-1969), chủ bút Ðông Pháp Thời Báo (1925-1927), chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt của Việt Nam Quốc Dân Ðảng ở Sài Gòn, bị Pháp bắt đày Côn Ðảo trong năm năm. Mãn hạn tù, ông ra bắc năm 1935 và gia nhập đảng Cộng Sản năm 1936. Năm 1939, ông bị Pháp bắt trở lại, đày đi Sơn La, rồi an trí năm 1942 ở Thái Nguyên, và Yên Bái. Năm 1945, ông trốn về Hà Nội làm báo Cứu Quốc của Việt Minh trong vòng bí mật. Khi Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9, ông được Hồ Chí Minh giao làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền trong chính phủ Việt Minh đầu tiên. Ông được cử làm trưởng phái đoàn Việt Minh gồm cả Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận (tức nhà thơ Huy Cận) vào Huế chứng kiến việc thoái vị của vua Bảo Ðại tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945.
Hồ Chí Minh giao Trần Huy Liệu làm bộ trưởng bộ Tuyên Truyền không phải vì tín nhiệm Trần Huy Liệu mà vì họ Hồ cần uy tín chính trị của ông. Trần Huy Liệu vốn là chi bộ trưởng chi bộ đặc biệt Quốc Dân Ðảng tại Sài Gòn. Hồ Chí Minh sử dụng Trần Huy Liệu để tuyên truyền cho cái gọi là chính sách đoàn kết đảng phái của Việt Minh, nhắm lôi cuốn quần chúng theo họ, nhất là lôi cuốn các đảng viên Quốc Dân Ðảng. Lúc bấy giờ do những hy sinh to lớn của Nguyễn Thái Học và các đồng chí, Quốc Dân Ðảng rất có uy tín chính trị trên toàn quốc. Khi đã qua khỏi giai đoạn cần thiết, năm 1946, Hồ Chí Minh cử Trần Huy Liệu làm uỷ viên thường trực Quốc Hội. Cuối cùng, năm 1953, Trần Huy Liệu trở thành trưởng ban Nghiên cứu Sử Ðịa của nhà cầm quyền cộng sản, một chức vụ không có quyền hành.
Không chỉ riêng trường hợp Trần Huy Liệu, mà còn nhiều nhân vật tiếng tăm khác cũng rơi vào trường hợp ông, như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Phương Thảo (tức tướng Nguyễn Bình), Nguyễn Hữu Thọ... Như thế, ý nghĩa thứ nhì của việc đoàn kết với Hồ Chí Minh có nghĩa là quy thuận họ Hồ, theo đuôi đảng Cộng Sản và làm bù nhìn trong những thời điểm cần thiết cho họ Hồ hay nói cách khác là chỉ được họ Hồ liên minh giai đoạn. Thử kiểm điểm danh sách những lãnh tụ cộng sản từ trước đến nay, chỉ những người gia nhập đảng Cộng Sản ngay từ khi bước vào hoạt động chính trị, thuộc thành phần trung kiên mới nắm giữ thực quyền. Những người đã theo các đảng khác rồi sau đó gia nhập đảng Cộng Sản, hoặc những người ngoài đảng mà có công lao, chỉ giữ những chức vụ tượng trưng mà thôi, như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình ...
3. Ðoàn kết là sự vâng phục tuyệt đối lãnh đạo đảng: Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời tại Hà Nội. Trong di chúc, Hồ Chí Minh nhắn nhủ với các đảng viên đảng Cộng Sản: "...Các đồng chí từ trung ương đến các chi bộ phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình..."(39) Vậy sự "đoàn kết nhất trí" trong nội bộ đảng là gì?
Trong sinh hoạt đảng Cộng Sản Việt Nam, khi các cấp lãnh đạo đưa ra những vấn đề thảo luận, nếu một đảng viên trình bày những ý kiến cấp tiến mới mẻ, thì được lãnh đạo gọi là "thành phần xét lại". Ngược lại, có những đảng viên không muốn thực hiện các cuộc cải đổi quan trọng, thì được đánh giá là "bảo thủ, trì trệ". Nói một cách khác, bất cứ ai có ý kiến gì cũng đều bị chụp mũ là tả khuynh hoặc hữu khuynh, lệch lạc hoặc xét lại, trừ ý kiến của lãnh đạo đảng. Ðảng viên chỉ còn một giải pháp duy nhất là gật đầu vâng lệnh thượng cấp.
Như vậy, sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam là sự tuyệt đối vâng phục và trung thành của đảng viên đối với lãnh đạo đảng. Nếu không vâng phục lãnh đạo đảng, kết quả nhẹ nhất là sự trù dập, kỷ luật, và nặng nhất là thanh trừng.
Ở Việt Nam có một câu thành ngữ thời danh minh họa sự đoàn kết của Cộng Sản: "Ðảng gọi thì dạ; đảng không gọi thì không dạ. Ðảng gọi mà không dạ không được; đảng không gọi mà dạ cũng không được." Nói trắng ra, ý nghĩa thứ ba của sự đoàn kết theo quan điểm của đảng Cộng Sản có nghĩa là phải chịu sự lãnh đạo độc tài, độc đảng, và tuyệt đối vâng phục trung kiên với đảng Cộng Sản. Ðiều nầy đưa đến một kết quả tại hại là các đảng viên bị xơ cứng trí óc, sẽ không còn sáng kiến để làm việc.
Ðiểm đặc biệt là Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản chấp nhận một người trước đây chống đối họ, nhưng khi đã theo họ thì phải vâng phục tuyệt đối. Ngược lại, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận những người trước đây đã từng hoàn toàn phục tùng họ, mà sau đó lại có ý muốn cải cách theo chiều hướng nhân bản, dân chủ, tự do, dù vẫn tuân phục đảng và chủ nghĩa xã hội. Những người nầy cũng bị coi là kẻ thù và chắc chắn bị loại bỏ. Ðó là trường hợp Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Trần Ðộ, Hà Sĩ Phu, Dương Thu Hương ...
Có lẽ cũng nên thêm một điểm nữa rất dễ thấy trong lịch sử, là đảng CSVN không bao giờ tôn trọng những hiệp ước quốc tế do họ ký kết. Hiệp ước là giải pháp thỏa thuận giữa các bên về một cuộc tranh chấp, cũng có nghĩa là một sự giải hòa giữa các bên, bước đầu để tiến dần dần đến sự đoàn kết thống nhất. Ðối với đảng CSVN, ký kết hiệp ước chỉ là đánh lừa dư luận, tạm ngưng tranh chấp, nhắm dưỡng sức và củng cố nội bộ, để rồi tiếp tục bành trướng. Ví dụ rõ nét nhất là hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Ðảng CSVN ký kết hai hiệp ước nầy với sự chứng kiến của các nước trên thế giới, mà họ còn trắng trợn vi phạm, xé bỏ hiệp ước, huống gì là sự cam kết giữa họ với những cá nhân hay những đoàn thể người Việt khác.
Do đó, hòa giải, liên hiệp và đoàn kết với cộng sản trước sau cũng sẽ bị cộng sản kiếm cách khống chế và hoàn toàn mất tự do. Những ai muốn hòa hợp, liên hiệp, đoàn kết với cộng sản, nên nhớ câu nói bất hủ của Hồ Chí Minh với Daniel Guérin trong một lần gặp mặt ở Paris: "... Tất cả những ai không theo đường lối của tôi đều sẽ bị bẻ gãy..."(40)
4. Ðoàn kết là vắt chanh bỏ vỏ: Lúc Việt Minh cộng sản phát động chiến tranh chống Pháp, nhiều người yêu nước đã đứng lên hưởng ứng công cuộc kháng chiến. Chẳng những nhiều thanh niên lên đường theo tiếng gọi của quê hương, mà những người ở lại hậu phương cũng cố gắng đem tài vật ủng hộ công cuộc đấu tranh chống Pháp. Việt Minh đã xưng tụng những người nầy là những nhàø "hằng tâm hằng sản"(có lòng và có của). Một khi tạm đứng vững, và nhất là khi được Trung Cộng viện trợ ào ạt từ năm 1951 trở đi, cộng sản Việt Nam mở cuộc cải cách ruộng đất từ 1953, và quay mặt với những kẻ đã nuôi dưỡng mình từ khi còn trứng nước, coi họ như kẻ thù, tố cáo những nông dân " hằng tâm hằng sản" là địa chủ, đánh đập, hành hạ và giết họ mà không cho chôn xác. Một tác giả đã từng sống gần Hồ Chí Minh, kể lại rằng bà Nguyễn Thị Năm ở huyện Ðồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên có nhà là nơi căn cứ giao liên, đã nuôi nhiều cán bộ cao cấp qua lại, từ Hồ Chí Minh, đến Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt (Hạ Bá Cang); thế mà bà là một trong những người đầu tiên bị đấu tố trong cải cách ruộng đất, và đặc biệt đã kêu cứu đến tận tai Hồ Chí Minh mà ông lờ đi, để cho người ta giết bà.(41) Như vậy, với cộng sản, đoàn kết có nghĩa là lợi dụng một chiều theo giai đoạn, xong việc rồi "vắt chanh bỏ vỏ". Việc "vắt chanh bỏ vỏ" được thấy rõ nhất trong việc Hồ Chí Minh đối xử với bà Nông Thị Xuân. Hồ Chí Minh sống với bà Xuân như vợ chồng, và có với bà nầy một đứa con trai. Khi đã chán bà Xuân, ông Hồ để cho viên bộ trưởng công an là Trần Quốc Hoàn tự do hiếp dâm bà Xuân, rồi giết vứt xác bà Xuân ngoài đường để ngụy tạo một tai nạn.(42) Ðối xử với người đã từng sống với mình và có với mình một đứa con, mà còn tàn bạo như vậy, thử hỏi Hồ Chí Minh còn có thể nói là chuyện tình nghĩa đoàn kết với ai được? Từ vụ cải cách ruộng đất năm 1953 đến vụ án "chống đảng" do Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ khởi xướng ở Bắc Việt khoảng giữa thập niên 1960, vì muốn bảo vệ địa vị của riêng mình, Hồ Chí Minh đã im tiếng không can thiệp, để mặc cho các đồng chí thân thiết của ông ta bị thanh trừng, tù đày, hay tàn sát.(43) Chẳng những Hồ Chí Minh, mà Võ Nguyên Giáp cũng thế. Những tướng lãnh và sĩ quan thân cận của viên tướng nầy lần lượt bị thanh trừng mà ông ta không dám lên tiếng để bảo vệ sự thật. Như vậy, chẳng những trên phương diện chính trị đảng phái, mà cả trên phương diện cá nhân, đoàn kết với những người cộng sản chỉ có nghĩa là để cho họ lợi dụng xong rồi bị loại bỏ.(còn tiếp)
CHÚ THÍCH:
33. Hồ Chí Minh đưa ra khẩu hiệu nầy trong hội nghị ngày 3-3-1951, hợp nhất hai mặt trận của đảng Cộng Sản là Mặt trận Việt Minh và Mặt trận Liên Việt. (BNCLSÐ, sđd. tr. 110.)
34. Thượng Huyền, "Giới thiệu sách: Hồ Chí Minh tại Trung Quốc" [của tác giả Tưởng Vĩnh Kinh, người Ðài Loan], nguyệt san Thế Kỷ 21, Garden Grove, California, số 108, tháng 4-1998.
Chính Ðạo, Hồ Chí Minh, con người và huyền thoại tập 2:1925-1945, Nxb. Văn Hóa, Houston, tt. 32-33. Charles Fenn, Ho Chi Minh: a biographical introduction, Studio Vista, London, 1973, tr. 50; phần chú thích, trích dẫn P. J. Honey viết trên báo Time ngày 12-9-1971.
35. Ngoài các tài liệu trong chú thích số 34, xin lưu ý câu chót của Trần Trọng Kim trong trích dẫn ở chú thích số 22 làm ví dụ.
36. Hoàng Văn Ðào, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, tái bản kỳ 2, Sài Gòn, 1970, tr. 108.37. Trong Bạch thư Cao Ðài giáo công bố San Bernardino ngày 9-4-1999, vị đại diện Cao Ðài giáo Ngọc Sách Thanh cho biết rằng tại tỉnh Quảng Ngãi, chỉ trong ba tuần lễ kể tứ 19-8-1945, Việt Minh sát hại và chôn sống 2791 chức sắc, chức việc, và tín hữu Cao Ðài giáo.
38. Cộng sản thay thế đảng Cộng Sản Ðông Dương bằng hội Nghiên Cứu Mác-xít do cựu tổng bí thư đảng Lao Ðộng là Trường Chinh Ðặng Xuân Khu làm chủ tịch. Trong cuộc gặp gỡ Stalin năm 1950 tại Moscow, trả lời câu hỏi của Stalin tại sao giải tán đảng Cộng Sản, Hồ Chí Minh giải thích rằng việc giải tán đảng Cộng Sản cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là đảng lùi vào hoạt động bí mật. (Thành Tín, Mặt Thật, tt. 67-68.) Sau cuộc gặp nầy trở về, Hồ Chí Minh tái tổ chức đảng dưới một danh xưng mới là đảng Lao Ðộng ngày 19-2-1951, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, Trường Chinh làm tổng bí thư.(Chính Ðạo, Việt Nam niên biểu, 1939-1975 (tập B: 1947-1954), Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 230.)
39. BNCLSÐ, sđd. tr. 170.
40. Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Peter Wiles dịch từ tiếng Pháp qua tiếng Anh, Nxb. Penguin Books, Harmondsworth, 1969, p. 130. Nguyên văn: "All those who do not follow the line which I have laid down will be broken." Linh mục Cao Văn Luận, trong sách Bên giòng lịch sử Việt Nam, 1940-1975, Tantu Research, Sacramento, California, 1983, tt. 60-61 có tường thuật lại đầy đủ buổi tiếp tân ngày 25-6-1946 tại Paris, trong đó Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến trên đây. Lúc đó, họ Hồ qua Pháp theo phái đoàn Việt Nam do Phạm Văn Ðồng dẫn đầu tham dự hội nghị Fontainebleau. Trong cuộc tiếp tân nầy, có một số người Việt tham dự, trong đó có linh mục Cao Văn Luận.
41. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 222.
42. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 607.
43. Một trong những nạn nhân nổi tiếng trong vụ nầy là ông Vũ Ðình Huỳnh, người cộng tác thân tín của ông Hồ, phụ thân của tác giả Vũ Thư Hiên, đã được ông Hiên trình bày câu chuyện bạc đãi xuyên suốt trong tác phẩm Ðêm giữa ban ngày.
Huyền thoại về giải phóng dân tộc
Trong Tự phán hay Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu cho biết rằng năm 1920 (canh thân), ông gặp hai nhân vật Liên Xô tại Bắc Kinh là Grigorij Voitinski và một viên tham tán tòa đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh. Khi Phan Bội Châu ngỏ ý muốn nhờ Liên Xô giúp đỡ đưa du học sinh Việt Nam sang Liên Xô du học, viên tham tán nầy chỉ vẽ cặn kẽ, và hứa rằng Liên Xô sẽ giúp đỡ tận tình với điều kiện là phải chấp nhận "...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ... ra sức làm những sự nghiệp cách mạng." Viên tham tán nầy yêu cầu Phan Bội Châu dùng tiếng Anh viết sách kể hết chân tướng người Pháp. Có thể những đòi hỏi của người Liên Xô về "tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản" làm Phan Bội Châu e ngại, nên ông tránh mặt, không gặp lại người Liên Xô. Phan Bội Châu giải thích rằng ông không viết được tiếng Anh, nên ông "không lấy gì trả lại thịnh ý ấy".(44) Ðây là một lối nói xã giao, chứ thật ông Phan có thể vượt qua vấn đề ngôn ngữ bằng cách nhờ những người khác giúp làm thông ngôn, bằng chứng là Phan Bội Châu không biết tiếng Nhật, nhưng cũng đã nhờ Lương Khải Siêu giới thiệu tiếp xúc với hai chính trị gia Nhật Bản là bá tước Ðại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu) và tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki). Ngoài ra, giả dụ trong trường hợp Phan Bội Châu thật lòng muốn tiếp xúc, chắc chắn toà đại sứ Liên Xô tại Bắc Kinh có những thông ngôn Hoa ngữ, có thể viết bút đàm với Phan Bội Châu.
Ở đây cần chú ý một điểm là tại Nga, cuộc cách mạng cộng sản diễn ra vào ngày 7-11-1917.(45) Ðảng Cộng Sản Liên Xô phải tốn một thời gian từ 1917 đến 1922 để tiêu diệt nhóm Bạch Nga bảo hoàng còn lại ở trong nước, ổn định tình hình nội bộ, nắm quyền thật vững chắc, mới bắt đầu bành trướng thế lực ra nước ngoài vào đầu đầu thập niên 20. Khi đó, Liên Xô phải đối đầu với các cường quốc Âu Mỹ đã tiến chiemn các thuộc địa từ thế kỷ 19. Do đó, nhu cầu vận động các nước thuộc địa nổi lên tranh đấu chống lại các cường quốc thực dân đang là kẻ thù của Liên Xô, nằm trong sách lược nầy. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc được cộng sản quốc tế sắp đặt cho qua Liên Xô để thụ huấn trở thành một thứ "chiến sĩ tiên phong" trong việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản ở Á Châu, và cũng chính từ đó mà Nguyễn Ái Quốc đã hình thành quyển Bản án chế độ thực dân Pháp năm 1925.
Nếu viên đại diện Liên Xô tại Bắc Kinh yêu cầu Phan Bội Châu phải chấp nhận "...tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản, học thành rồi về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông ..." thì những người Việt khác theo Ðệ tam Quốc tế Cộng sản, như Hồ Chí Minh, chắc chắn đều phải làm thế.
Ðiều đó có nghĩa là khi đến Liên Xô đầu năm 1924, Hồ Chí Minh, lúc đó lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, chắc chắn phải tuyên thệ thực hiện những điều nầy mới được Liên Xô chấp nhận, và cũng có nghĩa là ngay từ đầu, Hồ Chí Minh chịu làm tay sai cho Liên Xô, biến nước Việt Nam thành một nước cộng sản chư hầu của Liên Xô, và thực hiện nhiệm vụ quốc tế cho Liên Xô, nghĩa là kiếm cách đánh phá những địch thủ của Liên Xôââ. Hồ Chí Minh và những người cộng sản che giấu rất kỹ điều nầy. Phải chăng do tâm lý ẩn ức vì cả cha lẫn con đều bị thất bại trên đường quan lại của Pháp, không xin được vào học trường Thuộc Ðịa Paris để ra làm quan cho Pháp, mà Hồ Chí Minh cam tâm làm như thế, để đạt cho được tham vọng quyền lực mà ông hằng khao khát?
Sau khi làm việc trong phái bộ Borodin tại Trung Hoa, Nguyễn Ái Quốc không được Ðệ tam quốc tế tín nhiệm nên bị giữ lại ở Liên Xô một thời gian, từ 1933 đến 1938. Trước khi thế chiến thứ nhì bùng nổ (1939), tại viễn đông, Nhật Bản hoành hành mạnh, tranh giành những quyền lợi của Liên Xô ở Mãn Châu, và Triều Tiên, nhất là từ khi giới quân phiệt kiểm soát được chính quyền ở Nhật Bản, và thi hành chính sách bành trướng đế quốc.(46) Ðệ tam quốc tế cộng sản liền sai Nguyễn Ái Quốc trở qua Trung Hoa vào đầu năm 1939 nhắm thực hiện những điệp vụ chống Nhật ở Á Châu. Ðể thấy rõ bản chất tay sai cộng sản quốc tế của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, xin đọc đoạn sau đây của bộ sử do chính các tác giả cộng sản Hà Nội viết:
"Sau một thời gian nắm tình hình cách mạng Việt Nam và Ðông Dương, ngày 10-5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Hồ Chủ tịch triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Ðảng Cộng Sản Ðông Dương lần thứ 8 ở Pắc Bó. Các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, cùng một số đại biểu của Xứ uỷ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài đã tham gia Hội nghị.
"Hội nghị phân tích sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, vạch rõ triển vọng của cuộc chiến tranh thế giới và khẳng định: Nếu sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, xuất hiện nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên là Liên Xô, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần nầy sẽ làm cho cách mạng nhiều nước thành công, sẽ có thêm nhiều nước xã hội chủ nghĩa ra đời. Ðảng nhấn mạnh phải xem cách mạng Việt Nam như một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, lúc nầy là một bộ phận của phong trào dân chủ chống phát xít, đặc biệt là phải tích cực ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc."(47)
Gần đây, trong sách Viết cho mẹ & quốc hội, một đảng viên cao cấp của cộng sản, ông Nguyễn Văn Trấn tiết lộ rằng tên đảng Lao Ðộng do chính Stalin đặt,(48) và cũng chính Stalin đã thúc đẩy Hồ Chí Minh thực hiện cuộc cải cách ruộng đất ngay từ cuộc gặp gỡ năm 1950.(49) Sau đó Mao Trạch Ðông áp lực, huấn luyện cán bộ, và gởi chuyên viên sang tổ chức, theo dõi, thi hành cuộc cải cách ruộng đất.(50) Cuộc cải cách nầy phát khởi năm 1953 đã sát hại hàng trăm ngàn nông dân ở miền Bắc.
Vì đã mật kết đi theo con đường cộng sản Liên Xô, Hồ Chí Minh dùng chiêu bài giải phóng đất nước và độc lập dân tộc để dẫn cuộc chiến tranh chống Pháp thành cuộc chiến tranh giữa hai thế lực tư bản và cộng sản, lồng trong khung cảnh nội chiến giữa hai khuynh hướng quốc gia và cộng sản. Trong cuộc xâm lăng miền Nam từ năm 1960, Lê Duẩn, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, đã từng nói: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc..."(51)
Như vậy, trước sau như một, Hồ Chí Minh và đảng CSVN luôn luôn kiên định vai trò "lính đánh thuê" cho Liên Xô và Trung Quốc bằng xương máu của dân tộc Việt Nam. Chính Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã dồn các thành phần quốc gia về phía phải kiếm cách liên kết với Pháp, và sau nầy với Hoa Kỳ, để chận đứng nạn cộng sản trên đất nước chúng ta, và để khỏi bị cộng sản Việt Nam tiêu diệt.
Với sự hỗ trợ tích cực của Liên Xô và Trung cộng, cuộc bành trướng của cộng sản tại Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn: (1)thiết lập các căn cứ tại Việt bắc từ đầu thập niên 40 và cướp chính quyền năm 1945; (2) dùng chiêu bài giải phóng và độc lập để kêu gọi dân chúng chống Pháp, và chiếm lĩnh một nửa đất nước, từ vĩ tuyến 17 trở ra bằng hiệp định Genève năm 1954; (3) Hồ Chí Minh và đảng CSVN tiếp tục mở cuộc chiến tranh xâm lăng miền Nam từ năm 1960 cho đến năm 1975.
Khi chưa chiếm được miền Bắc, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam đã tổ chức cuộc cải cách ruộng đất. Cuộc cải cách nầy được tiếp tục năm 1954 cho đến năm 1956, gây kinh hoàng cho nhân dân miền Bắc, giết chết hàng trăm ngàn người, và nhất làm làm tê liệt mọi sức đối kháng của người dân, làm hỏng hết các giềng mối luân lý đạo đức gia đình, con cái tố cha mẹ, vợ chồng tố nhau, anh em tố nhau, bà con không dám nhìn mặt nhau. Một sĩ quan cấp tiểu đoàn trưởng quân đội cộng sản Hà Nội tuyên bố: "Ông ấy [chỉ Hồ Chí Minh] biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương."(52)
Về phương diện văn hóa, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Cộng Sản dẹp bỏ hết các tôn giáo, tịch thu hết sách vở cũ, chỉ cho nhà trường dạy về chủ nghĩa cộng sản, lịch sử cộng sản, những nhà văn nhà thơ cộng sản. Ðề thi văn chương ở đại học và trung học chỉ quanh quẩn những bài thơ của Hồ Chí Minh và Tố Hữu. Từ năm 1956 đến năm 1958, các văn nghệ sĩ không ca tụng chế độ cộng sản bị đem ra đấu tố và tù đày trong vụ án gọi là Nhân văn giai phẩm. Sau đó, các văn nghệ sĩ muốn sống còn phải im hơi lặng tiếng, viết theo chỉ thị của đảng. Cuộc đánh phá các văn nghệ sĩ nầy còn nhắm mục đích lâu dài là chận trước các tiếng nói đối lập để họ khỏi cản trở công cuộc xâm lăng miền Nam. Văn nghệ sĩ vốn là những người nhạy cảm trước nỗi đau khổ của đồng bào, nếu để họ tự do ngôn luận, thì khó có thể thi hành kế hoặch xâm lăng mà không bị họ phát hiện hoặc phản đối.
Về phương diện kinh tế, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gọi là giải phóng, nhưng đã loại bỏ nền kinh tế tự do, để trói buộc dân Việt vào chính sách kinh tế chỉ huy theo kiểu Liên Xô và Trung Cộng, tịch thu hết đất đai, dồn nông dân vào các hợp tác xã nhà nước, quốc hữu hóa các công ty xí nghiệp của tư nhân. Vì người dân không được quyền sáng kiến làm ăn sinh sống, không được tự do kinh doanh, nên nền kinh tế Bắc Việt hoàn toàn suy sụp và kiệt quệ dưới chế độ cộng sản của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh phải nhờ đến viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng. Người ta kể rằng một cây kim may cũng phải nhờ Trung Cộng viện trợ. Càng nhờ vả thì càng mất tự do, và phải trả bằng nguyên vật liệu như than đá, quặng sắt ... mà cho đến nay vẫn còn chưa trả hết.
Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản tiếp tục áp dụng chiêu bài giải phóng dân tộc với miền Nam sau năm 1954. Năm 1972, người Hoa Kỳ bắt tay được với Trung Cộng, thay đổi chiến lược chính trị ở Á Châu, tìm cách rút quân ra khỏi Việt Nam. Hiệp định Paris năm 1973 đã đưa Việt Nam Cộng Hòa vào tư thế lúng túng. Cộng sản Bắc Việt, với sự hậu thuẫn hùng hậu của Liên Xô và Trung Cộng, tiến chiếm miền Nam năm 1975.
Những chính sách áp dụng ở miền Bắc năm 1954 lại được đem ra áp dụng ở miền Nam. Về tôn giáo, văn hóa, chính trị, cộng sản buộc miền Nam đi vào quỹ đạo cộng sản. Về kinh tế, lần nầy cộng sản trúng vố bở vì từ năm 1954 đến năm 1975, miền Nam càng ngày càng phồn thịnh, dân chúng giàu có. Cộng Sản lấy được 16 tấn vàng của kho bạc miền Nam, tịch biên tất cả những nhà tư sản mà Hà Nội gọi là "mại bản",(53) đổi tiền nhiều lần để kiểm soát tình hình lưu thông tiền tệ, quốc doanh tất cả công ty xí nghiệp... Miền Nam là vựa thóc của đất nước, nhưng dưới chính sách kinh tế chỉ huy của cộng sản, dân chúng miền Nam đói rách nghèo khổ cùng cực hơn bao giờ cả.
Trong bản tuyên bố ngày 2-9-1945 mà cộng sản gọi là bản tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh viết: "Chúng [chỉ thực dân Pháp] lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân...Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến do dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ nguyên liệu. Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn..."(54)
Nay chúng ta ứng dụng những lời do chính tay Hồ Chí Minh viết, và từ miệng Hồ Chí Minh đọc, vào chính sách của chế độ cộng sản ở Việt Nam, như nhà tù nhiều hơn trường học, như quốc hữu hóa đất đai, công ty xí nghiệp, đánh tư sản ... thì nghiệm ra rằng "chúng" là cộng sản chứ chẳng ai khác.(55)
Do những thay đổi ở Trung Cộng khi Ðặng Tiểu Bình trở lại cầm quyền năm 1978 sau khi Mao Trạch Ðông từ trần (1976), do chủ trương Glasnost (Cởi mở) và Perestroika (Tái cấu trúc) của Gorbachev khi ông lên làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1985, do những biến động ở Ðông Âu năm 1989, sự sụp đổ của đảng Cộng Sản Liên Xô năm 1991, và nhất là do cuộc cách mạng thông tin liên lạc bằng hệ thống vi tính và mạng lưới viễn thông quốc tế, đảng Cộng Sản Việt Nam không còn bưng bít và gò ép được dân chúng nữa, nên bắt buộc đảng Cộng Sản phải thay đổi về kinh tế, nhưng vẫn độc tôn về chính trị. Khẩu hiệu "Chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc" trước đây trong thời chiến tranh, nay trở thành khôi hài với dân chúng và mỉa mai đối với những người đã chết trong cuộc chiến vì khẩu hiệu nầy, khi nhà cầm quyền Hà Nội tha thiết mong mỏi Hoa Kỳ trở lại Việt Nam vào giữa thập niên 90.
Theo nghĩa tầm nguyên, giải phóng là cởi mở ra cho tự do, nghĩa là đưa một cái gì từ tình trạng bị giam hãm kềm kẹp đến tình trạng được thoát ly và tự do, tức từ chỗ xấu đến tốt hơn. Ðàng nầy, với đảng CSVN, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước có nghĩa là biến Việt Nam thành chư hầu của Liên Xô, Trung Quốc, nô lệ hóa dân chúng Việt Nam theo tín điều cộng sản, đặt nhân dân Việt Nam dưới chế độ độc tài, độc đảng, bóc lột, phá hoại, đầy ải và bần cùng hóa nhân dân một cách có hệ thống, có bài bản của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam.
Trong lịch sử Việt Nam, khác với những cuộc chiến tranh giải phóng trước đây, Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản là trường hợp đầu tiên và duy nhất đã lợi dụng tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, khát vọng độc lập tự do của nhân dân, đưa ra chiêu bài giải phóng đất nước, kêu gọi dân chúng theo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, "đế quốc" Mỹ, để áp đặt một chế độ độc tài bóc lột khắc nghiệt hơn cả ngoại bang thực dân. Lợi dụng khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam để tước đoạt tự do của người Việt Nam, sử dụng xương máu của giống nòi để phục vụ quyền lợi đảng phái riêng tư và quyền lợi của quốc tế cộng sản, là một tội lỗi lịch sử ngàn năm bia miệng . (còn tiếp)
CHÚ THÍCH:
44. Phan Bội Châu niên biểu, đăng trong Phan Bội Châu toàn tập [gồm 10 tập], tập 6, do Chuơng Thâu sưu tầm và biên soạn, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1990, tr. 272.
45. Nếu theo lịch mới do giáo hoàng Grégoire 13 (giáo nhiệm từ 1572-1585) ban hành, và hiện đang áp dụng trên toàn thế giới, cuộc cách mạng Nga xảy ra vào ngày 7-11-1917. Cuộc cách mạng nầy thường được gọi là "Cách mạng tháng 10" vì lúc đó, Nga chưa dùng lịch Gregoire, vẫn còn dùng lịch cũ đặt ra từ thời Julius Caesar (102-44 tr.CN). Ngày 7-11 lịch mới là ngày 26-10 lịch cũ.
46. Cuộc tranh chấp Nhật Nga bắt đầu từ sau khi Minh Trị thiên hoàng (trị vì 1868-1912) canh tân nước Nhật và đưa Nhật Bản lên hàng cường quốc. Năm 1905, Nhật đại thắng Nga tại Ðối Mã (Tsushima), nằm trong eo biển giữa Nhật Bản và Triều Tiên. Do trung gian của Hoa Kỳ, hai bên ký kết hòa ước Portsmouth, (New Hampshire, đông bắc Hoa Kỳ) ngày 5-9-1905. Hòa ước nầy thừa nhận ưu thế của Nhật tại Triều Tiên, đồng thời Nga chịu nhường cho Nhật tất cả những quyền lợi chính trị và kinh tế ở nam Mãn Châu, kể cả bán đảo Liêu Ðông (Liaotung) cũng như ở miền nam đảo Saklalin. Từ đó cho đến khi thế chiến thứ nhì bắt đầu, Nga, rồi Liên Xô mất dần hết những quyền lợi ở Mãn Châu và Triều Tiên.
47. Nguyễn Khánh Toàn, sđd. tt. 320-321. Những chữ viết hoa theo nguyên bản. Dòng in đậm do người viết nhấn mạnh.
48. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ & quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tr. 150. Nguyên văn Nguyễn Văn Trấn viết: "... Bác Hồ theo Staline mà đặt tên đảng ta là Ðảng Lao Ðộng Việt Nam... Nghe tới Staline nói thì còn ai hó hé..."
49. Thành Tín, Mặt thật, Sài Gòn Press, California, 1993, tr. 67.
50. Nguyễn Văn Trấn, sđd. tt. 164-169. Nguyễn Văn Trấn được cử đi học khóa huấn luyện nầy ở Trung Hoa..
51. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 422, phần chú thích.
52. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 249.
53. Mại bản (comprador) : từ ngữ được dùng khi Trung Hoa tiếp xúc với Tây phương, để chỉ những người địa phương làm trung gian buôn bán với các doanh nghiệp nước ngoài.
54. Trần Dân Tiên, sđd. tr. 113.
55. Ðề nghị một tòa báo hay một tư nhân nào thử lấy đoạn văn trên, đừng ghi xuất xứ từ bản tuyên bố ngày 2-9-1945 của Hồ Chí Minh, đặt câu hỏi trắc nghiệm với người Việt ở ngoài cũng như ở trong nước: "Chúng" là ai? Chắc chắn kết quả trả lời chữ "chúng" là cộng sản Việt Nam.
Huyền thoại về cái gọi là : tư tưởng Hồ Chí Minh
Sau năm 1975, Việt Nam suy sụp dần dần với chính sách kinh tế chỉ huy và sự cai trị hà khắc của chế độ cộng sản. Cao điểm của sự suy sụp là việc ông Ðỗ Mười, uỷ viên bộ Chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, thực chất là đánh "tư sản" năm 1978, ngăn sông cách chợ, cấm cản tiểu thương, đày ải dân thành thị đến các vùng hoang địa, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Campuchia, chỉ để tránh sức mạnh của người dân trong nước. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thần cán bộ đảng viên sa sút theo.
Ðể kiếm cách tuyên truyền cổ võ dân chúng hưng phấn trở lại, nhà nước cộng sản Hà Nội đánh bóng hình tượng Hồ Chí Minh, đã chết từ năm 1969 trước khi miền Nam bị cưỡng chiếm. Họ tổ chức cuộc "rước đuốc bác Hồ" xuyên Việt, từ lăng mộ Hồ Chí Minh ở Hà Nội lên các tỉnh miền núi Bắc Việt, và quan trọng nhất là từ Hà Nội tiến xuống các tỉnh phía Nam vào khoảng tháng 10-1980, giống như kiểu rước đuốc của nhà độc tài Hitler năm 1933 ở Nuremberg (Ðức).
Ánh đuốc bập bùng lung linh gây không khí huyền hoặc theo nghi lễ cổ xưa cũng không làm tan đi băng giá lạnh lùng trong tâm hồn dân chúng Việt Nam đã triền miên khổ đau vì nạn độc tài cộng sản. Càng về nam, dân chúng càng ít hưởng ứng, nên sau chặng đường từ Tuy Hòa vào Nha Trang thì cuộc rước đuốc tan rã. Dân chúng cần cái ăn cái mặc, chứ không phải là những lời nói suông. Vì không xuống quá Nha Trang, do đó ở Sài Gòn và trong nam, dân chúng ít nghe biết chuyện rước đuốc nầy.
Năm 1989, Ðông Âu bắt đầu biến động và thoát khỏi đế quốc Liên Xô. Sau đó đến lượt Liên Xô, chiếc nôi của Cộng Sản Quốc Tế, sụp đổ năm 1991. Khẩu hiệu chiến lược hàng đầu mà đảng Cộng Sản Việt Nam thường sử dụng: "Chủ nghĩa Mác - Lê bách chiến bách thắng" không còn hiệu nghiệm. Ðảng CSVN lâm vào tình trạng lúng túng, không biết làm sao tiếp tục tuyên truyền với đảng viên và dân chúng, vì nói rằng chủ nghĩa Mác-Lê bách chiến bách thắng, nay sao lại sụp đổ tan tành chóng vánh ngay tại quê hương của Lenin? Ðảng CSVN vội quay qua cầu cứu Hồ Chí Minh lần nữa, đưa thêm "tư tưởng Hồ Chí Minh" tiếp theo sau chủ nghĩa Mác Lê, nghĩa là từ nay nền tảng của ý thức hệ cộng sản Hà Nội là chủ nghĩa Mác xít - Lê nin nít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó mới xuất hiện chuyện "tư tưởng Hồ Chí Minh". Ðiều 4 chương 1 hiến pháp năm 1992 của cộng sản Hà Nội chính thức công khai việc nầy.(56)
Tưởng cũng nên thêm ở đây, khi Liên Xô sụp đổ, ở Hà Nội việc duy trì xác ướp Hồ Chí Minh gặp khó khăn cả về kỹ thuật lẫn tài chánh. Người ta đã nghĩ đến việc thiêu xác ông ta. Việc nầy đã được báo chí và đài phát thanh nói đến, nhưng do nhu cầu chính trị cần nêu cao "tư tưởng Hồ Chí Minh", nên Hồ Chí Minh vẫn còn được nằm trong ngôi mộ đồ sộ ở Hà Nội với sự cố vấn của các chuyên gia Nga.
Hồ Chí Minh từ trần ngày 2-9-1969, nhưng Lê Duẩn và bộ chính trị đảng CSVN sợ xui xẻo vì trùng với ngày quốc khánh của Hà Nội, đã sửa đổi ngày chết là 3-9, và sửa đổi luôn cả chúc thư của Hồ Chí Minh.(57) Ðồng thời đảng CSVN xây dựng nấm mồ Hồ Chí Minh thật đồ sộ, tốn kém, gọi là lăng theo từ ngữ vua chúa thời quân chủ, nhắm lợi dụng huyền thoại và nấm mồ bề thế Hồ Chí Minh để uy hiếp tinh thần dân chúng, và tạo hào quang cho những kẻ kế thừa.(58)
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" là gì? Không thấy đảng Cộng Sản Việt Nam trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đại hội tháng 2 năm 1951, Hồ Chi Minh phát biểu: "Về lý luận, đảng Lao Ðộng Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin...lấy tư tưởng Mao Trạch Ðông làm kim chỉ nam.". Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với Hồ Chí Minh rằng: " Có đồng chí còn nói: hay là ta viết "tư tưởng Mao Trạch Ðông và tư tưởng Hồ Chí Minh". Ông Hồ trả lời:"Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác- Lê nin."(59) Một lần khác, có người đã hỏi Hồ Chí Minh vì sao ông không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Ðông viết rồi.(60) Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách và gắn cho nhãn hiệu Hồ Chí Minh.
Theo dõi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rõ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng văn hóa và chính trị đông tây. Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ đọc ngày 2-9-1945, thường được đảng Cộng Sản gọi là bản "Tuyên ngôn độc lập", hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ.(61) Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.(62)
Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3.000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 12 trung học), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh viết: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người ". (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được sách vở Cộng Sản xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng các đây hơn hai ngàn năm.(63)
Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng Hồ Chí Minh để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản là "Chí công vô tư, cầm kiệm liêm chính", thật ra rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đã trên 2.000 năm. Với các phạm trù nầy, Nho giáo đã đào tạo không biết bao nhiêu thế hệ quan lại thanh liêm trước đây phục vụ quần chúng. Ngược lại, lời sao chép của Hồ Chí Minh chỉ là cái vỏ bọc che đậy một hệ thống cầm quyền tham ô nhũng lạm từ trên xuống dưới, mà bất cứ người nào ở trong cũng như ngoài nước, kể cả người ngoại quốc đều biết.
Còn việc Hồ Chí Minh bảo rằng "Không có gì quý hơn độc lập tự do", thì mọi người đều đã biết, chính nhờ lợi dụng tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu thích tự do của dân chúng mà Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ cộng sản Nga Hoa.
Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ ông Hồ và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông Hồ, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn bưng bít, không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Rủi ro có người nào phát hiện, người đó cũng không dám lên tiếng dưới chế độ độc tài của ông. Ngay cái tên "Nguyễn Ái Quốc", ông Hồ mượn của Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền;(64) và cái tên "Hồ Chí Minh" ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm.(65) Chẳng những lấy tên "Hồ Chí Minh" của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936 để đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa để được giúp đỡ.
Theo tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, Bản án chế độ thực dân Pháp do Nguyễn Ái Quốc đưa ra năm 1922, do chính ông khởi viết từ 1921.(66) Thật ra, Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, vì lúc đó ông ta không đủ trình độ Pháp văn để viết sách,(67) và ông ta đã cóp nội dung bài "Ðông Dương chính trị luận" của Phan Chu Trinh (đã được Jules Roux, bạn của Phan Chu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Ðông Dương). "Bài nầy Quốc chỉ sửa chút ít, viết lại đề tựa khác "Bản án chế độ thực dân Pháp", nhờ luật sư Phan Văn Trường sửa chữa, viết lại nhiều trang, viết lời tựa trước khi in và phổ biến."(68)
Chẳng những ông Hồ "mượn" tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của mình, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của mình, ông ta còn mượn luôn thơ của người khác để làm thơ mình. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù]. Nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục đã phân tách tỉ mỉ tác phẩm nầy và đi đến kết luận như sau: "Phần phân tích ở trên chứng thực già Lý là chủ nhân của những bài thơ xây dựng theo kĩ thuật thơ Ðường; những bài thơ nầy chiếm hết ba phần tư tác phẩm. Phần còn lại có thể coi là của Hồ Chí Minh. Tôi chỉ nói là có thể vì tôi không khẳng định được rõ ràng bài thơ nào đích thực là của Hồ Chí Minh, bài thơ nào thuộc về các tác giả khác."(69) Từ phát hiện của nhà nghiên cứu Lê Hữu Mục, có lẽ cũng cần nên cẩn án lại cẩn thận những tác phẩm mang tên Hồ Chí Minh có phải thực sự là của ông ta không?(70)
Không biết ông Hồ đã tự cóp nhặt hoặc đạo văn, hay những thuộc hạ của ông muốn tâng bốc ông Hồ, đã cóp nhặt và đạo văn giúp cho ông Hồ. Nếu như thế thì họ đã hại hình tượng Hồ Chí Minh của họ. Tai hại một cách công khai nhất là bộ chính trị đảng Cộng Sản Việt Nam đã thêm phần "tư tưởng Hồ Chí Minh" sau chủ nghĩa Mác-Lê. Hồ Chí Minh không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lý thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture đã ít nhất hai lần nói rằng ông Hồ không phải là một lý thuyết gia, dù lúc viết sách nầy Lacouture là một ký giả còn thiên tả.(71) Mọi người đều đã từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (Xìtalin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến "Hoism" (Hồ-ít).(72) Ông Hồ thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắc máu và tàn ác dị thường.(73) Việc bộ chính trị đảng CSVN đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, công khai đưa vào hiến pháp, làm cho người ta càng thêm chú ý, và càng để lộ trước mặt mọi người rằng ông Hồ chẳng có tư tưởng nào đặc sắc.(74)
Sau sự sụp đổ của các đảng cộng sản tại Liên Xô và Ðông Âu, bộ chính trị đảng CSVN tưởng rằng thổi phồng huyền thoại "tư tưởng Hồ Chí Minh" nhắm gây hưng phấn dân chúng. Thực chất việc trên đã làm cho chủ nghĩa nầy càng thêm mất ý nghĩa và không quyến rũ được ai. Ngày nay, chủ nghĩa Mác-Lê, và hình tượng Hồ Chí Minh chỉ còn là chiếc phao để đảng Cộng Sản duy trì quyền lực độc đảng độc tài dựa trên bạo lực mà thôi. Trong khi đó, dư luận trong nước cũng như trên thế giới đều lên tiếng hô hào loại bỏ điều 4 hiến pháp 1992, nghĩa là chẳng những loại bỏ đặc quyền tối thượng của đảng CSVN, mà còn loại bỏ luôn chủ thuyết Mac xít - Lê nin nít và cái gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh".
Tóm lại, những huyền thoại về Hồ Chí Minh do ông tự tạo ra, hay do các thuộc hạ của ông dựng nên, đều là những phấn son giả tạo tô điểm hình tượng Hồ Chí Minh.(75) Những huyền thoại nầy một thời đã đánh lừa được một số người Việt Nam và thế giới. Gần đây, trong một cuộc phỏng vấn, sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), tác giả sách Livre Noir du Communisme [Sách đen chủ nghĩa cộng sản], đã nói: "Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản." (76)
Dần dần, dòng sông thời gian đã rửa sạch lớp phấn son giả tạo, làm bay đi những huyền thoại, để lộ ra khuôn mặt thật của Hồ Chí Minh. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng Hồ Chí Minh là một nhân vật lớn của lịch sử hiện đại Việt Nam. Ông đã lập nhiều thành tích đáng kể và đáng nể. Những thành tích nầy tốt hay xấu, có lợi hay có hại cho nhân dân Việt Nam, đó là sự phán xét của nhân dân.(77) Lột trần những huyền thoại Hồ Chí Minh là việc làm cần thiết để trả lại cho Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Sinh Cung, những gì thật sự là của Nguyễn Sinh Cung.
CHÚ THÍCH:
56. Sau đây là nguyên văn điều 4 chương 1 của hiến pháp năm 1992 của chế độ cộng sản Hà Nội: "Ðảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật." (Tài liệu rút từ Internet). Ðiều 4 nầy chẳng những chính thức xác nhận bên cạnh chủ nghĩa Mác Lênin, "tư tưởng Hồ Chí Minh" là kim chỉ nam hành động của đảng CSVN, mà còn đặt đảng CSVN đứng trên hiến pháp, và mọi quyền hành trong nước đều nằm trong tay đảng CSVN vì "là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội ".
57. Sau đây là nguyên văn của Thành Tín, tức Bùi Tín, trong Hoa xuyên tuyết, tr. 118: "Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ tháng 5-1965, sau đó cứ vào tháng 5 hằng năm lại viết lại, viết thêm. Cho nên có tới bốn bản Di chúc bổ sung cho nhau. Ông Vũ Kỳ kể chuyện là ngày 2-9-1969, sau khi ông Hồ Chí Minh mất, vào buổi tối, ông Phạm Văn Ðồng đến nơi đặt thi hài ông Hồ. Ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn đựng cả bốn Di chúc. Ông Phạm Văn Ðồng đưa cả hai tay ra ngăn lại: "Không, tôi không nhận. Ðây là chuyện hệ trọng. Ðể sáng mai, có đầy đủ Bộ Chính trị, đồng chí đưa ra." Sáng 3-9-1969, có đầy đủ Bộ Chính trị, ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn ấy. Ông Lê Duẩn liền cầm lấy rồi gọi ông Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân vào phòng nhỏ bên cạnh. Ông Duẩn tự quyết định chỉ đưa ra một bản, cắt bỏ, sửa chửa vài chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng công bố..." (Những chữ viết hoa theo nguyên bản.)
58. Chẳng những việc xây lăng và bảo vệ xác ướp rất tốn kém, việc duy trì lực lượng quân sự để bảo vệ lăng cũng vô cùng tốn kém từ 1969 đến nay. Tư lệnh quân đội bảo về lăng là một sĩ quan cấp tướng, với ít nhất hai tiểu đoàn chính quy, và không biết bao nhiêu cảnh sát vừa nổi vừa chìm đứng gác, với một lượng điện và nước tiêu dùng bằng một quận lớn, trong khi dân chúng thiếu thốn.
59. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho mẹ & quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, tái bản năm 1996, tr. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Mác-Lê.
60. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 277.
61. Lời mở đầu của bản tuyên bố ngày 2-9-1945:
"Hỡi đồng bào cả nước,
"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.
"Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được tự do sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc."
"Lời bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
"Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
"Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi."
"Ðó là những lẽ không ai chối cãi được..." (Trần Dân Tiên, sđd. tr. 112.)
56. Stanley Karnow, sđd. tr. 138.
57. Quản Trọng: Tên là Quản Di Ngô, năm sinh năm và mất không rõ, sống vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên. Ông làm tể tướng, phò Tề Hoàn Công lập bá nghiệp thời Xuân Thu (722-479 tr CN). Ông có công trong cải cách kinh doanh, thuế vụ, được Tề Hoàn Công kính trọng gọi là "Trọng phụ"(cha già), nên người đời gọi là Quản Trọng. Quản Trọng cho hành nghề mãi dâm công khai và đánh thuế, nên ông cũng được thờ là tổ lầu xanh và là thần "Bạch mi" (Lông mày trắng). Tác phẩm để lại: Quản Tử, gồm những tư tưởng triết lý chính trị. Câu của Quản Trọng là: " Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc; thập niên chi kế tại ư thụ mộc; bách niên chi kế tại ư thụ nhân" (Kế một năm trồng lúa, kế mười năm trồng cây, kế trăm năm trồng người.) Ban sáng lập viện Ðại học Ðà Lạt, Việt Nam Cộng Hòa, dùng ý câu nầy làm phương châm "Thụ Nhân" của nhà trường.
58. Nguyễn Thế Anh, bđd., sđd. tr. 29.
59. Chính Ðạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tt. 168-169. Lữ Giang, sđd. tt. 110-111. Hồ Học Lãm (? - 1942): Người Quỳnh Ðôi, Nghệ An, qua Nhật theo cụ Phan Bội Châu trong cuộc Ðông du (1905-1908). Năm 1909, ông bị trục xuất khỏi Nhật, qua Trung Hoa, học khóa 2 sĩ quan Bảo Ðịnh Quân, rồi phục vụ trong quân đội Trung Hoa. Trong thập niên 1920, Hồ Học Lãm sống ở Hàng Châu, giao thiệp thân cận với Cường Ðể, Phan Bội Châu và những nhà cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa. Có thể nói ông là gạch nối giữa những nhà hoạt động cách mạng Trung Hoa và Việt Nam. Ông lấy tên Hồ Chí Minh khoảng năm 1937. Tên nầy được Nguyễn Ái Quốc "mượn" dùng lần đầu khoảng cuối 1940.
60. BNCLSÐ, sđd. tr. 29.
61. Tờ trình của viên chánh kiểm soát quân đội và người Ðông Dương tại Pháp, gởi toàn quyền ngày 12-9-1923, nói về việc Nguyễn Ái Quốc viết và nói tiếng Pháp như sau: "...Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do ông ta viết... Người Việt Nam ấy [Nguyễn Ái Quốc] chưa đủ khả năng nói và viết tiếng Pháp trôi chảy..." (Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh, Nxb. Văn Hóa, Houston, TX, 1999, tr. 226, trích dẫn tài liệu của Ðặng Hữu Thụ, Nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, tr. 124.) Ðiều nầy hữu lý vì Nguyễn Ái Quốc tức Nguyễn Sinh Cung (hay Côn) học chưa hết năm thứ nhất trường Cao đẳng tiểu học Quốc Học (tương đương với lớp 6 Trung học đệ nhất cấp ngày nay) thì đã bỏ học vào tháng 4-1908.
62. Hứa Hoành, sđd. tr. 224.
63. Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả "Ngục trung nhật ký", Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990, tr. 94. "Ông già họ Lý", người bị giam chung với họ Hồ vào đầu thập niên 30 tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông.
64. Gần đây, tuyển tập Quốc Học, trường tôi do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành tại Huế năm 1996 có đăng bài thơ "Tầm hữu vị ngộ" của Hồ Chí Minh. Tuyển tập trên chú giải rằng bài thơ nầy của Hồ Chí Minh gởi cho Võ Nguyên Giáp năm 1954, và "mới được phát hiện". Theo ông Tuệ Quang Tôn Thất Tuệ, trong bài "Ai là tác giả bài Tầm hữu vị ngộ?", tạp chí Hương Văn, California, số 5, 2-1999, tt. 91-96, nếu nói rằng bài thơ nầy của một lãnh tụ (Hồ Chí Minh) tặng cho một ông tướng (Võ Nguyên Giáp), được sáng tác năm 1954, mà sao đến năm 1990 mới phát hiện? Hai người nầy đều là những nhân vật quan trọng đầu não của chế độ Hà Nội, mà sao bài thơ có thể thất lạc một thời gian dài? Ông Tuệ Quang đi sâu vào chi tiết bài thơ và nhận xét: "Tóm lại, bài thơ "Tầm hữu vị ngộ", xét về hình thức lẫn nội dung, không phù hợp với thi cách và khuynh hướng của ông Hồ ".
65. Jean Lacouture sđd. tt. 58, 153: (1) tr. 58: Lacouture trình bày nhận xét của đảng viên cộng sản Pháp Joseph Ducroux, cùng hoạt động với họ Hồ ở Trung Hoa: "He devoted little time to doctrinal wranglings. He was first and foremost a militant, an organizer." (Ông ta ít dành thời giờ để bàn cãi chủ thuyết. Trước hết và trên hết ông là một người tranh đấu, một nhà tổ chức.) (2) tr. 153: "Ho ... has never been a theorist like Truong Chinh." (Hồ ... chưa bao giờ là lý thuyết gia như Trường Chinh.) Từ gần cuối thập niên 60 trở đi, khi chứng kiến chính sách hiếu chiến và tàn bạo của cộng sản, Jean Lacouture mới thấy mình sai lầm, dần dần từ bỏ lập trường thiên tả.
66. Charles Fenn, sđd. tr. 47.
67. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 459. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 276, 295.
68. Gần đây, trên tạp chí Cộng Sản số 24 ra ngày 15-12-1999 có đăng bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh với quá trình trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta" của ông Võ Nguyên Giáp, đại tướng hưu trí quân đội cộng sản, được báo Lao Ðộng đăng lại và đưa lên trang Web ngày 20-12-1999. Trong bài nầy, về tư tưởng Hồ Chí Minh, có đoạn ông Võ viết:"Ðến với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã có một chuyển biến nhảy vọt về chất, giải phóng dân tộc đã gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng con người, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế chân chính."
Phần thời sự báo Nhân Dân [Hà Nội] ngày 19-5-2000 [rút từ Internet], có đăng bài tường thuật hội thảo khoa học tổ chức tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tại Hà Nội với đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam", do ông Nguyễn Ðức Bình, uỷ viên bộ Chính trị, chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương, Giám đốc Học viện chính trị, chủ trì cuộc hội thảo. Ngoài ông Nguyễn Ðức Bình, còn có các ông Võ Nguyên Giáp, Tố Hữu và các giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học trong và ngoài học viện với 135 bài tham luận. Sau đây là đúc kết các ý kiến phát biểu của báo Nhân Dân: " Các bản tham luận đều nghiên cứu sâu nhiều khía cạnh như Hồ Chí Minh với giáo dục tư tưởng XHCN; Hồ Chí Minh với văn hóa và khoan dung văn hóa; tư tưởng Hồ Chí Minh với chiến lược con người trong cách mạng XHCN ở Việt Nam; những quan điển cơ bản về chỉnh đốn Ðảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh; về Nhà nước dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh; sự nghiệp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Hồ Chí Minh biểu tượng tinh thần quốc tế vô sản... và đi đến một nhận định thống nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là kết quả sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Ðó là hệ thống quan điểm, lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên CNXH ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, là tư tưởng của sự kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người mà hạt nhân trung tâm là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH."
Như thế, các nhà trí thức xuất sắc của đảng Cộng Sản Việt Nam hội họp tại Hà Nội để xác định một lần nữa rằng "tư tưởng Hồ Chí Minh" dựa trên căn bản học thuyết Mác-Lênin để giải phóng dân tộc...Quanh đi quẩn lại, vẫn không có gì mới mẻ, vẫn chừng đó chuyện, với những từ ngữ hoa mỹ theo kiểu cộng sản. Thật ra, chính Lenin đã dùng chiêu bài giải phóng và độc lập dân tộc, xúi giục các nước bị trị đứng lên chống các nước tư bản đế quốc, vì các các nước tư bản lúc đó là địch thủ của Liên Xô, đồng thời để Liên Xô bành trướng chủ nghĩa cộng sản, hình thành ra một loại đế quốc đỏ mới do Liên Xô lãnh đạo. Cũng vì Hồ Chí Minh đã gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa quốc tế cộng sản nên Việt Nam mới bị chiến tranh triền miên, và bị đói khổ như ngày nay.
Ðiều đáng ghi nhận là khi sống nhiều năm tại Liên Xô (hai lần) trong các thập niên 20 và 30, Hồ Chí Minh đã chứng kiến rõ việc áp dụng chủ thuyết Mác-Lênin tại Liên Xô đã làm cho dân chúng nước nầy nghèo đói đến mức nào, nhưng vì tham vọng cá nhân, ông ta chẳng những không từ bỏ mà còn quyết đem về áp dụng tại Việt Nam.
69. Sau đây là cuộc đối thoại giữa Oliver Todd và Nguyễn Khắc Viện, một tác giả cộng sản: "Tôi đùa với Viện: "Nếu Hồ không có thực thì chắc ông đã sáng chế ra." Viện cười ha hả: "Lẽ dĩ nhiên, ông nên nhớ rằng nước chúng tôi trước hết là một nước nông nghiệp, chúng tôi thích thần thoại. Huyền thoại và huyền thoại, phải công nhận là huyền thoại do chúng tôi tạo ra thật là hấp dẫn." (Oliver Todd, bđd., sđd. tt. 273-274.) Ðể hiểu thêm cung cách ngụy tạo huyền thoại của cộng sản, hãy cùng đọc đoạn sau đây của Trần Ðăng Khoa. Năm 1998 ở trong nước, Trần Ðăng Khoa ấn hành tác phẩm Chân dung và đối thoại, trong đó có bài "Tố Hữu và bài thơ Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên". Trong bài nầy, Trần Ðăng Khoa kể lại rằng, trong một lần nói chuyện, ông ta đã hỏi Tố Hữu: "Thế từ lúc mở màn đến khi kết thúc chiến dịch, anh có lên Ðiện Biên bao giờ không? " Tố Hữu trả lời:"Không! Nào mình có biết Ðiện Biên ở đâu mà đi. Ði sao được... Mình hỏi mấy chú đã đến Ðiện Biên rồi. Hỏi xem ở đấy có những cái gì, mới biết những địa danh như thế đấy chứ, biết cả ở đó có cam, có mơ ... Sau nầy khi viết, mình cứ lôi nó ra, đưa vào thơ, cứ nhét bừa vào... Này, xem ra không thể tin được vào cánh văn nghệ được đâu hỉ. Phịa, toàn là phịa. Chỉ có điều là mình phịa như thật..." (Tài liệu rút từ Internet, http//www.vietbao.com/tc_canhen/Chandung_Doithoai, ngày 30-1-2000)
70. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000, tài liệu rút từ Internet).
71. Sau đây là nhận xét về Hồ Chí Minh của một sử gia trẻ Hoa Kỳ, Robert Templer, trong một bài báo đăng trên Mercury News, được Trac Nguyen dịch đăng trên Việt Mercury ở California, ra ngày 31-3-2000, dưới nhan đề "Một quan điểm về vụ triển lãm chân dung Hồ Chí Minh": "Ông [Hồ Chí Minh] đã cho ám sát các kẻ thù chính trị, đã phát động những cuộc cải cách điền địa tàn bạo. Ông đã im lìm trong lúc các đồng chí thân thiết bị thanh trừng. Ông đã khởi sự một cuộc chiến tranh sát hại 3 triệu con người. Ðối với ông Hồ, con người có thể bị hy sinh; cứu cánh luôn luôn biện minh cho phương tiện."
(http://www.huyen-thoai.org/)
Lại chuyện đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh (I)
Trần Gia Phụng
Đài BBC ngày 11/2/2007 loan tin rằng ở trong nước, đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN)
vừa đưa ra chỉ thị số 06-CT/TW, tổ chức cuộc vận động dân chúng “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, nhắm làm cho toàn dân nắm vững “nội
dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Cuộc vận động sẽ khởi diễn từ ngày 3/2/2007 và tổng kết vào ngày 3/2/2011. Hàng
năm, cuộc vận động sẽ được sơ kết vào ngày 19-5. (Theo đảng CSVN, ngày 3-2 là ngày
kỷ niệm thành lập đảng, và ngày 19-5 là ngày kỷ niệm sinh nhật Hồ Chí Minh.)“Đây là một chủ trương lớn vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc… tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong tòan xã hội, đặc biệt trong cán bộ đảng viên, công chức, viên chức, đòan viên, thanh niên học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.” (Nguyên văn chỉ thị do BBC trích)
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao có chỉ thị nầy và tại sao chỉ vận động trong bốn năm? Đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?
1. Tại sao có chỉ thị này?
Ai cũng biết, từ lâu nay, đảng CSVN luôn bắt mọi người ở trong nước học tập đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trẻ em tiểu học tới trường đã bị buộc phải học thuộc lòng “Năm điều bác Hồ dạy”. Đó là: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt. Lao động động tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” Nhắc lại một ví dụ nhỏ như thế để cho thấy là từ lâu, học tập Hồ Chí Minh hầu như là một điều tất yếu cho mọi công dân Việt Nam, từ trẻ em, đến sinh viên, đòan viên thanh niên, phụ nữ, quân đội… Thế thì tại sao nay đảng CSVN lại phải ra chỉ thị tổ chức cuộc vận động dân chúng “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”?
Trước khi đi vào vấn đề, cần phải chú ý đến hoàn cảnh mới của Việt Nam. Việt Nam chính thức trở nên thành viên thứ 150 của tổ chức WTO từ ngày 11/1/2007. Có thể nói, hiện nay là thời kỳ quá độ của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam tiến lên hội nhập vào nền kinh tế thị trường trên thế giới, trước khi Việt Nam từ bỏ hẳn các lý tưởng kinh tế của chủ nghĩa Mác Lê trước đây.
Thực tế hiện nay ở trong nước, mà hầu như không ai phủ nhận, đó là đại đa số cán bộ đảng viên quá tham nhũng và tham nhũng có hệ thống. Không tham nhũng thì không thể tồn tại được, vì lấy tiền đâu mà “đóng hụi chết” cho thượng cấp? Theo nhiều người, bệnh tham nhũng trong chế độ Việt Nam hiện nay là bệnh nan y, hết thuốc chữa!
Cán bộ đảng viên là thành phần lãnh đạo xã hội, mà tham nhũng thì toàn bộ sinh họat xã hội sẽ bị ảnh hưởng, nhiễu xạ, băng họai, từ văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế, y tế … đến thể dục, thể thao. Với đội ngũ cán bộ như thế, nhà nước Việt Nam làm thế nào có thể điều động guồng máy kinh tế cho kịp với đà vận hành của nền kinh tế thị trường? Nếu trong giai đọan quá độ, mà cán bộ tham nhũng, vô kỷ luật, thì có thể sẽ đi đến chỗ quá đà, quá trớn, bước ra ngoài tầm kiểm soát của đảng CSVN. Phải chăng vì khủng hoảng đạo đức trầm trọng nên đảng CSVN phải phát động phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”?
Thứ đến, trước đây lãnh đạo đảng CSVN thường là những lãnh tụ trong hai cuộc chiến tranh 1946-1954 hay 1956-1975. Sau giới nầy, đến những nhà lãnh đạo do Liên Xô đào tạo như Phan Văn Khải, Trần Đức Lương, Nông Đức Mạnh. Nay chiến tranh chấm dứt đã hơn 30 năm. Liên Xô sụp đổ được một phần tư thế kỷ. Giới lãnh đạo ngày nay không thuộc hai thành phần trên, mà có thể nói đa số là những nhà hành chánh “văn phòng phẩm”, xuất thân từ hệ thống văn phòng đảng CSVN sau năm 1975. Ưu điểm của những nhà lãnh đạo nầy là trẻ trung, ít vướng mắc vào những vấn đề quá khứ như Cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm … Tuy nhiên uu điểm nầy cũng chính là khuyết điểm của họ, vì họ không đủ thành tích chiến đấu, thử thách trong chiến tranh và trong “tù tội”, nên tiếng nói của họ thiếu trọng lượng đối với cán bộ, đảng viên. Theo nhà văn Trần Vàng Sao, sau 1975, ông Nguyễn Khoa Điềm còn là nhân viên trong văn phòng một huyện ở Huế, mà nhờ gia thế (con của Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) nên chỉ hơn 20 năm, lên tới ủy viện bộ Chính trị, Trưởng ban văn hóa tư tưởng đảng. Do đó ông thật sự không đủ uy tín chính trị như những nhân vật trước ông ta đã vào tù ra khám, hoặc xuất thân từ các trường đảng ở Liên Xô. Các ông Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng cũng thế mà thôi.
\
Nói cách khác, sau đại hội X đảng CSVN từ 18/4 đến 25/4/2006 tại Hà Nội, Việt Nam lâm vào bế tắc lãnh đạo nếu không muốn nói là khủng hoảng lãnh đạo, nhất là trong giai đọan biến chuyển từ kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập vào nền kinh tế tự do trên thế giới. Kinh nghiệm quá khứ cho thấy, mỗi lần có biến chuyển khó khăn, khủng hoảng chánh trị hay kinh tế, thì CSVN thường nhờ đến hình tượng Hồ Chí Minh.
Từ sau năm 1975, tình hình kinh tế Việt Nam suy sụp dần dần do thực hiện chính sách kinh tế chỉ huy. Sự suy thoái lên cao điểm năm 1978 khi ông Đỗ Mười, ủy viên Bộ chính trị đảng CSVN, chỉ huy cuộc cải tạo công thương nghiệp miền Nam, đánh tư sản, ngăn sông cấm chợ, cấm cản tiểu thương, đày ải dân chúng đi các vùng “kinh tế mới”, cưỡng bách lao động trong những công tác thủy lợi thiếu nghiên cứu, tung quân xâm lăng Cambodia. Dân chúng đói khổ ta thán, tinh thấn cán bộ đảng viên cũng chán nản, sa sút theo.
Trong tình hình đen tối đó, để lấy lại khí thế (từ ngữ của cộng sản), đảng CSVN tổ chức “Rước đuốc bác Hồ” vào tháng 10-1980, tuyên truyền làm sống lại hình tượng Hồ Chí Minh. Cuộc rước đuốc từ lăng Hồ Chí Minh ở Hà Nội, lên các tỉnh phía Bắc và vào miền Trung, nhưng đến khoảng Nha Trang thì dân chúng không hưởng ứng, nên ngưng hẳn. Dân chúng miền Nam rất tiếc không thấy đuốc bác Hồ!
Lần thứ hai, khi các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô sụp đổ vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, câu khẩu hiệu chiến lược hàng đầu của đảng CSVN là “Chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng muôn năm”, không còn giá trị. Mới có 70 năm mà đã sụp đổ thì sao gọi là muôn năm? Vì vậy đảng CSVN phải từ bỏ câu khẩu hiệu nầy và đảng CSVN quay qua cầu cứu Hồ Chí Minh, sáng tác ra “tư tưởng Hồ Chí Minh”, đưa vào điều 4 hiến pháp năm 1992.
Trong năm vừa qua, một biến cố quan trọng xảy ra ở Âu Châu. Ngày 25-1-2006, tại Strasbourg, một thành phố miền đông bắc nước Pháp, Quốc hội Âu Châu, với đa số áp đảo, 99 phiếu thuận, 42 phiếu chống, đã đưa ra nghị quyết số 1481, lên án chủ nghĩa cộng sản là tội ác chống nhân loại, và các chế độ toàn trị cộng sản đã vi phạm nhân quyền tập thể. Nghị quyết nầy, một lần nữa nhận sâu thêm xuống vực thẳm con thuyền chủ nghĩa cộng sản, vốn đã bị bão táp thời đại đánh cho tơi tả.
Dầu báo Nhân Dân của CSVN đã cho người viết bài lên tiếng phản đối nghị quyết nầy, và gọi đây là một hành động sai trái của Quốc hội Âu Châu, nhưng CSVN không thể “lấy thúng úp miệng voi”, nên không thể phủ nhận một thực tế, là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Mác-Lênin càng ngày càng bị xa lánh, và chế độ cộng sản toàn trị rõ ràng không còn hợp thời, nhất là với các nước đối tác với Việt Nam trong WTO, là những nước tự do dân chủ. Phải chăng vì vậy, qua đầu năm 2007, đảng CSVN tập trung đánh bóng trở lại lãnh tụ Hồ Chí Minh, tuyên truyền rằng ông ta không phải chỉ là người học trò trung thành của Mác-Lê, mà còn là một lãnh tụ dân tộc, và dùng hình ảnh của ông ta thu hút các nước trên thế giới?
Một điểm đáng chú ý nữa là cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, sẽ bắt đầu từ ngày 3-2-2007 và tổng kết vào ngày 3-2-2011, tức trong bốn năm tròn. Học tập đạo đức thì phải học suốt đời, chứ sao chỉ học bốn năm? Phải chăng đây là chương trình tiểu học, trung hay đại học? Hay đây là kế họach kinh tế tứ niên, kế họach ngũ niên…? Xa hơn nữa, là trùng với nhiệm kỳ năm năm của Bộ chính trị đảng CSVN, hay nhiệm kỳ của Quốc hội Cộng Hòa Xã Hội Chú Nghĩa Việt Nam? Chỉ có nơi nào đưa ra chỉ thị mới có thể trả lời câu hỏi nầy, nhưng rất tiếc không thấy giải thích cụ thể từ phía đã đưa ra chỉ thị, vì sao chỉ học tập trong bốn năm?
Cuối cùng, chỉ thị số 06-CT/TW, tổ chức cuộc vận động dân chúng “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cũng giống như chỉ thị ngày 29-11-2006 của Nguyễn Tấn Dũng về việc tăng cường lãnh đạo và quản báo chí, cấm tuyệt đối không cho báo chí tư nhân, đều do Bộ chính trị đảng CSVN ra lệnh thi hành. Điều nầy theo đúng nguyên tắc của CSVN là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, (không biết làm chủ cái gì?), nhưng không theo đúng vận hành trong một chế độ dân chủ tự do thật sự, là chỉ có hành pháp (tổng thống hay thủ tướng) và lập pháp (quốc hội) mới có quyền ra chỉ thị bắt nhà nước thi hành.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh?
Đã nói học tập đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải biết sơ qua đạo đức và
tư tưởng của Hồ Chí Minh là gì?
Đạo đức gia đình – Trước hết, thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau nầy là
Hồ Chí Minh), rời Sài Gòn ngày 5-6-1911 để mưu sinh. Giành giụm được một số tiền,
từ New York, ngày 15-12-1912, Nguyễn Tất Thành gởi về nhờ viên khâm sứ Pháp tại
Huế, giao lại cho cha mình. Như thế Nguyễn Tất Thành có thể được xem là người mở
đầu phong trào vượt biên và chuyển ngân về giúp gia đình mà ngày nay đang thịnh
hành. Đây là tấm gương đáng khuyến khích để giúp phát triển kinh tế gia đình và
cũng là kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, Nguyễn Tất Thành còn xin viên khâm sứ Pháp kiếm
cho cha mình một công việc như giáo thụ (giáo viên), để đủ sống qua ngày. Hành động
hiếu đễ của cậu thanh niên Nguyễn Tất Thành thật đáng khen. Rất tiếc, khi gia nhập
đảng Cộng Sản, Nguyễn Tất Thành từ bỏ luân lý truyền thống dân tộc, chuyển lòng
trung hiếu thành lý tưởng phục vụ đảng và chủ nghĩa cộng sản, đến nổi chính phụ
thân của Nguyễn Tất Thành, ông Nguyễn Sinh Sắc, rất bực mình “không muốn nghe
nói đến người con hư của mình… mà các chủ thuyết chẳng những đả phá uy quyền của
nhà vua, mà còn đả phá luôn uy quyền của người gia trưởng”.(1) Trong
di chúc trước khi chết, Hồ Chí Minh viết : “…tôi để sẵn mấy lời nầy, phòng khi
tôi đi gặp cụ Cac Mac, cụ Lênin…”(2) Không biết Hồ Chí Minh có gặp được
các ông tổ cộng sản nầy hay không, nhưng chắc chắn ông không đề cập gì đến việc
gặp phụ thân của ông là Nguyễn Sinh Sắc, đang yên nghỉ ở Sa Đec (Nam phần), và tổ
tiên ông ở Nghệ An. Điều nầy sẽ giảI thích vì sao trong “Năm điều bác Hồ dạy”,
không có điều nào ông Hồ dạy trẻ em phải có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh
em, lễ độ với người lớn tuổi.
Cũng trong đạo đức gia đình, khi lấy vợ, Hồ Chí Minh chẳng những không trung
thành với vợ mà còn tàn ác với vợ. Không kể những mối tình lẻ tẻ, Hồ Chí Minh có
hai cuộc sống vợ chồng rõ ràng là cuộc hôn nhân với bà Tăng Tuyết Minh và cuộc sống
chung với bà Nông Thị Xuân.
Tháng 10 năm 1926 tại Quảng Châu (Trung Hoa), Hồ Chí Minh, lúc đó có tên là Lý
Thụy, làm lễ thành hôn với một phụ nữ Trung Hoa là bà Tăng Tuyết Minh (1905-1991),
tại nhà hàng Thái Bình, ở trung tâm thành phố, với sự hiện diện của bà Đặng Dĩnh
Siêu (vợ Chu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sương. Khi chiến tranh Quốc Cộng bùng nổ
năm 1927, Lý Thụy phải trốn tránh nên phải xa Tăng Tuyết Minh. Tháng 5-1950, nhìn
thấy hình Hồ Chí Minh trên báo Nhân Dân (Trung Hoa), Tăng Tuyết Minh gởi nhiều lá
thư cho Hồ Chí Minh, thông qua đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan, nhưng
đều không được trả lời.(3)
Khi về Hà Nội cầm quyền sau năm 1954, Hồ Chí Minh vui duyên mới, với một phụ
nữ trẻ đẹp là bà Nông Thị Xuân năm 1955. Lúc đó Hồ Chí Minh khoảng 65 tuổi, Nông
Thị Xuân khoảng 22 tuổi. Hai người có một con trai là Nguyễn Tất Trung. Một thời
gian sau, bà Xuân bị Hồ Chí Minh bỏ, và bị thủ tiêu một cách tàn nhẫn. Nguyễn Tất
Trung được giao cho người khác nuôi, ngay khi Hồ Chí Minh còn sống.(4a)
Với những tài liệu rõ ràng không thể chối cãi như thế, bất hiếu với cha, giết
vợ bỏ con, Hồ Chí Minh có phải là tấm gương đạo đức gia đình cho cán bộ đảng viên
hay không? Trước khi bắt cán bộ đảng viên học tập, mong các quan chức trong Bộ Chính
trị hãy can đảm kể sự thật những chuyện trên đây cho vợ con trong gia đình các ông
nghe, và hỏi ý kiến của vợ con các ông, như thế Hồ Chí Minh có xứng đáng cho các
ông học tập và noi theo gương đối xử với vợ con như thế hay không? Nếu cán bộ đảng
viên CSVN theo gương Hồ Chí Minh, giết vợ, bỏ con thì xã hội Việt Nam sẽ ra sao?
Đạo đức cách mạng – Thanh niên Nguyễn Tất Thành đến Marseille khoảng ngày
10-7-1911. Hơn hai tháng sau, thanh niên Nguyễn Tất Thành cùng một lần viết hai
lá đơn đề ngày 15-9-1911, gởi cho tổng thống Pháp và gởi cho bộ trưởng Bộ Thuộc
địa Pháp, xin vào học trường Thuộc Địa Paris, là trường chuyên đào tạo quan chức
cho các thuộc địa Pháp. Lá đơn nầy đều bị cả hai nơi từ chối. (Hồ sơ hiện còn lưu
trữ trong thư khố Pháp.) Như thế thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi vì lý do kinh
tế, mưu sinh, là việc thường tình trong đời sống, nhưng chắc chắn không phải là
ra đi tìm đường cứu nước. Cứu nước sao lại xin vào học trường Thuộc địa để ra làm
quan cho thực dân Pháp?
Khi Đệ tam Quốc tế (ĐTQT) chuẩn bị gởi Hồ Chí Minh, lúc đó là Nguyễn Ái Quốc,
từ Liên Xô qua Viễn đông hoạt đông, Nguyễn Ái Quốc viết thư đề ngày 11-4-1924 gởi
cho Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, đề nghị cấp cho ông ta “một ngân sách xấp
xỉ 100 đô la mỗi tháng không kể hành trì Nga-Trung Quốc”.(Hồ Chí Minh toàn tập,
tập 2, tt. 251-252.)
Sau khi qua Trung Hoa, tuy được cấp lương chi dùng nhưng không đủ, Nguyễn Ái
Quốc phải làm đơn ngày 19-2-1925 xin các đồng chí ĐTQT vui lòng cấp thêm cho một
số tiền. (Báo Điện tử đảng
Cộng Sản Việt Nam, trích ngày 8/1/2007.)
Đây là những tài liệu do chính đảng CSVN đưa ra, cho thấy Nguyễn Ái Quốc (Hồ
Chí Minh) tự nguyện biến thành một cán bộ chính trị chuyên nghiệp của ĐTQT, lãnh
lương của ĐTQT mà từ ngữ dân sự gọi là công chức hay cán bộ, và từ ngữ quân sự gọi
là lính đánh thuê cho ĐTQT, dưới sự điều khiển của Liên Xô. Một khi lãnh lương nước
ngoài để họat động cách mạng ở Việt Nam, thì sau khi thành công, người công chức
hay cán bộ đó, hoặc kẻ đánh thuê đó, chắn chắn phải có bổn phận hay nghĩa vụ đóng
góp trở lại cho nước ngoài. Phải chăng vì vậy, khi Hồ Chí Minh mở cuộc xâm lăng
miền Nam, vào đầu thập niên 60, Lê Duẩn đã phát biểu: “Ta đánh Mỹ là đánh cho
Liên Xô, đánh cho Trung Quốc…”(4b) Đó là có phải là đạo đức cách mạng
của Hồ Chí Minh không?
Học được phương pháp tổ chức và khuynh đảo của Học viện Thợ thuyền Đông phương
tại Moscow, Nguyễn Ái Quốc lấy phương châm “cùng đích biện minh cho phương tiện”,
đã sử dụng mọi phương tiện, thủ đọan, bất chấp đạo lý, tình nghĩa, để phát triển
tổ chức cộng sản, bành trướng chủ nghĩa ĐTQT theo kiểu Lenin và Stalin.
Nhận lãnh sứ mạng của ĐTQT, Hồ Chí Minh lợi dụng lòng yêu nước của người Việt,
mở cuộc chiến tranh gọi là giải phóng đất nước thoát ách ngọai xâm, rồi lại tiêu
diệt tự do của dân chúng. Giải phóng đất nước là đưa đất nước ra khỏi tình trạng
bị nô dịch, đem lại tự do cho đất nước. Đàng nầy, đất nước tránh vỏ dưa, lại trợt
vỏ dừa. Thoát khỏi tay Pháp thì bị cộng sản toàn trị, còn độc tài, độc ác và bóc
lột hơn cả thời Pháp thuộc. Thời Pháp thuộc đâu có Cải cách ruộng đất giết hại cả
hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội? Đâu có Nhân văn Giai phẩm tiêu diệt biết bao nhiêu
nhân tài? Dầu thực dân Pháp nổi tiếng bóc lột, nền kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc
vẫn đứng hàng đầu ở Đông Nam Á, dân chúng Việt Nam đâu có nghèo đói cơ cực như
“thời đại Hồ Chí Minh”. Sau năm 1975, dân chúng miền Nam Việt Nam có một
câu tục ngữ mộc mạc: “Đả đảo Thiệu Kỳ, cái gì cũng có. Hoan hô Hồ Chí Minh, một
cái đinh cũng không có.” Ai cũng biết, ngày nay
Phải chăng do di sản đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh, mà ngày nay Bộ chính
trị đảng CSVN đưa ra thông báo số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 về một số biện pháp tăng
cường lãnh đạo và quản lý báo chí, nghĩa là triệt để cấm tư nhân được quyền ra báo?
Cho đến đầu thế kỷ 21 mà tư nhân ở Việt Nam chưa được quyền ra báo, thì Tây thực
dân cũng phải chào thua CSVN! (Còn tiếp)Toronto, 12/1/2007
Nguồn: Bài do tác giả gởi đến. DCVOnline biên tập và minh hoạ
(3) Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam [Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris: Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tr. 134.
(3) Ban Nghiên Cứu Lịch Sử Đảng Trung Ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư, có xem lại và bổ sung, Hà Nội: Nxb. Sự Thật, 1975, tr. 171. (Phía cuối phóng ảnh)
(3) Hoàng Tranh [Huang Zheng], “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung Hoành, Nam Ninh (CHNDTH), tháng 11-2001. Báo Diễn Đàn, Paris, số 121, tháng 9-2002, dịch đăng lại, tt. 17-22.
(4) Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, California: Nxb. Văn Nghệ, 1997, tt. 605-609 (4a), tr. 422 phần chú thích (4b).
Lại chuyện đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh (Kết)
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh?
Từ đâu xuất hiện “Tư tưởng Hồ Chí Minh”? – Theo ông Dương Trung Quốc, tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam ở trong nước, “... tại Đại hội VII, ta bắt đầu đề cập tới khái niệm về “tư tưởng Hồ Chí Minh” thì rồi sau đó mới tập trung triển khai nghiên cứu xem “tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?” (Dương Trung Quốc, “Đóng góp ý kiến văn kiện Đại hội X”, Đàn Chim Việt, ngày 25/11/2005.)
Đại hội VII đảng CSVN họp từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Đỗ Mười được bầu làm tổng bí thư. Lúc đó, vừa xảy ra những biến động làm sụp đổ chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu vào năm 1990. Từ đầu năm 1991, Liên Xô bắt đầu lâm vào tình trạng khủng hoảng, sắp sửa tan rã. Chủ nghĩa Mác-Lê không còn ăn khách. Đảng CSVN lúng túng, không biết làm sao tiếp tục tuyên truyền với đảng viên và dân chúng, liền vội quay qua cầu cứu Hồ Chí Minh lần nữa, đưa thêm “tư tưởng Hồ Chí Minh” tiếp theo sau chủ nghĩa Mác-Lê, nghĩa là từ nay, nền tảng của ý thức hệ cộng sản Hà Nội là chủ nghĩa Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó mới xuất hiện chuyện “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Để điều chỉnh căn bản ý thức hệ đang bị lung lay, cộng sản Hà Nội cho sửa đổi hiến pháp, và chính thức hợp thực hóa một cách công khai “tư tưởng Hồ Chí Minh” bằng điều 4 Hiến pháp năm 1992.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” theo Đảng Cộng sản Việt Nam – Chữ “tư tưởng” có hai ý nghĩa thông thường: 1) Nghĩa hẹp, tư tưởng là sự suy nghĩ hay ý kiến của một người về các vấn đề trong cuộc sống. Sự suy nghĩ nầy sẽ hướng dẫn người đó hành động hay thực hiện các ý định của họ. 2) Nghĩa rộng, tư tưởng là hệ thống suy tư hay tư duy của các cá nhân hay tổ chức về một số vấn đề trọng đại, có tính cách thuần lý, để giúp đỡ, hướng dẫn, giáo dục con người theo một đường lối nào đó. Trong ý nghĩa thứ nhì nầy, “tư tưởng” đồng nghĩa với “triết lý”; ví dụ “tư tưởng Phật giáo”, “tư tưởng Lão Trang”...
Đảng CSVN sắp hạng tư tưởng Hồ Chí Minh theo nghĩa thứ nhì, tức nghĩa rộng trên đây, nhưng không thấy đảng CSVN trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh là gì? Ngược lại, ngay từ Đại hội 2 của đảng CS vào tháng 2 năm 1951 tại Tuyên Quang, để đưa đảng CS ra hoạt động công khai trở lại với danh xưng mới là đảng Lao Động (LĐ) do Stalin đặt, Hồ Chí Minh phát biểu: “Về lý luận, đảng Lao Động Việt Nam theo chủ nghĩa Mác-Lênin... lấy tư tưởng Mao Trạch Đông làm kim chỉ nam.”. Khi đó, đại biểu miền Nam là Nguyễn Văn Trấn đã trình bày với Hồ Chí Minh rằng: “Có đồng chí còn nói: hay là ta viết “tư tưởng Mao Trạch Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Ông Hồ trả lời: “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lê nin.”(5) Cũng trong Đại hội nầy, Hồ Chí Minh nhiều lần tuyên bố: “Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được.”(6) Một lần khác, có người đã hỏi Hồ Chí Minh vì sao ông không viết sách về lý thuyết cộng sản, thì ông trả lời ông không cần viết, vì đã có Mao Trạch Đông viết rồi.(7)
Đảng CSVN ca ngợi Hồ Chí Minh là nhà “giải phóng dân tộc”. Thật ra Hồ Chí Minh chống Pháp vì người Pháp không biết điều với ông ta. Ngày 15/9/1911, Hồ Chí Minh làm đơn xin vào học Trường Thuộc Địa Paris là trường chuyên đào tạo các quan chức thuộc địa, để ra làm quan cho Pháp. Hồ Chí Minh tình nguyện đặt mình dưới sự sai khiến của người Pháp, nhưng ông bị Pháp từ chối, nên ông chống Pháp. Trong trường hợp Hồ Chí Minh được vào học Trường Thuộc Địa Paris và được ra làm quan cho Pháp, thì ông đâu có chống Pháp.
Giả thiết Hồ Chí Minh là “nhà giải phóng dân tộc” như sách báo CSVN đã
viết, thì tư tưởng giải phóng dân tộc không phải là một hệ thống tư duy triết học.
Tư tưởng giải phóng dân tộc cũng không do Hồ Chí Minh khởi xướng, mà đã tiềm ẩn
trong trí óc của người Việt từ thuở Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40, cách đây gần
hai ngàn năm, truyền từ đời nầy qua đời khác. Nhờ vậy người Việt và nước Việt mới
tồn tại cho đến ngày nay trước bao nhiêu cuộc ngoại xâm. Còn việc Hồ Chí Minh viết
rằng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, thì đây chỉ là khẩu hiệu để Hồ
Chí Minh và đảng CSVN lợi dụng tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu quý tự do của
người Việt để đưa đất nước vào vòng thống trị của chế cộng sản độc tài toàn trị.
Đảng CSVN còn cho Hồ Chí Minh đã có sáng kiến kết hợp công cuộc giải phóng dân tộc với đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa xã hội. Thật ra người đưa ra sự kết hợp nầy là Lenin, nhà lãnh đạo cuộc Cách mạng cộng sản năm 1917 ở Nga. Liên minh công nông chống thực dân phong kiến, cũng không phải do Hồ Chí Minh nghĩ ra. Ai cũng biết đó là tư tưởng của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, khi ông ta muốn ứng dụng chủ nghĩa Mác-Lê vào Trung Hoa. Josip Broz Tito (Yugoslavia) là người chủ trương đảng và chế độ cộng sản Quốc gia độc lập, chứ không nằm trong hệ thống Đệ tam Quốc tế cộng sản từ năm 1948. Hồ Chí Minh chưa hề có tư tưởng như Tito. Nói cho cùng, Hồ Chí Minh không có một hệ thống tư duy nào để trở thành nhà tư tưởng, như đảng CSVN áp đặt.
Vì Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách rồi gắn cho nhãn hiệu Hồ Chí Minh. Họ chắp nối một số diễn văn, lời nói của ông ta để hình thành “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Họ giải thích tùy hứng những điều mà họ nói là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, không khác gì lối diễn giải tùy thích những sấm truyền bí hiểm của các nhà tiên tri như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo dõi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rõ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng, văn hóa và chính trị đông tây.
Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ đọc ngày 2/9/1945, thường được đảng Cộng Sản gọi là bản “Tuyên ngôn độc lập”, hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ. Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.(8)
Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3,000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 10 trung học, lúc đó hệ trung học ngoài Bắc chỉ có 10 năm), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh viết: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được treo ở tất cả các trường đại học và trung tiểu học dưới chế độ cộng sản. Câu khẩu hiệu nầy được sách vở Cộng Sản xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng (Quản Di Ngô) cách đây hơn hai ngàn năm. “Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc; thập niên chi kế tại ư thụ mộc; bách niên chi kế tại ư thụ nhân.” (Kế một năm trồng lúa, kế mười năm trồng cây, kế trăm năm trồng người.)
Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng Hồ Chí Minh, để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản là “Chí công vô tư, cần kiệm liêm chính”, được rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đã trên 2.000 năm.
Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh (hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống tư duy) chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ Hồ Chí Minh và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông ta, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn biệt lập, bưng bít. Không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Nói cho cùng, người ta có biết, cũng không dám lên tiếng.
Ngay cái tên “Nguyễn Ái Quốc”, ông Hồ mượn của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền;(9) và cái tên “Hồ Chí Minh”, ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm.(10) Chẳng những lấy tên “Hồ Chí Minh” của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936,(11) nhắm đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng, để được giúp đỡ.
Theo tài liệu của đảng CSVN, Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản ở Pháp năm 1925 do chính Nguyễn Ái Quốc khởi viết từ 1921.(12) ) Có tài liệu cho rằng Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, vì lúc đó ông ta không đủ trình độ Pháp văn để viết sách.(13) Ông ta đã cóp nội dung bài “Đông Dương chính trị luận” của Phan Châu Trinh (đã được Jules Roux, bạn của Phan Châu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Đông Dương). (14)
Chẳng những Hồ Chí Minh “mượn” tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của mình, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của mình, ông ta còn mượn luôn thơ của người khác để làm thơ mình. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù], đa số là chép lại của một ông già họ Lý người Hoa.(15)
Theo nhiều tài liệu, Hồ Chí Minh không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lý thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture, sử gia Pháp, đã ít nhất hai lần nói rằng Hồ Chí Minh không phải là một lý thuyết gia, dù lúc viết sách nầy, Lacouture là một ký giả còn thiên tả.(16) Mọi người đều đã từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (Xìtalin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến “Hoism” (Hồ-ít).(17) Hồ Chí Minh thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắt máu và tàn ác dị thường.(18)
Như thế, xét theo chiều rộng, Hồ Chí Minh hoàn toàn không có một hệ thống tư duy đáng kể, và đúng như ông Dương Trung Quốc viết, đảng CSVN đã đưa ra khái niệm về “tư tưởng Hồ Chí Minh” trước, rồi sau đó mới tập trung triển khai nghiên cứu xem “tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?” Từ đó, đảng CSVN vẽ rồng vẽ rắn, nhào nặn ra tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tóm lại nếu nói rằng Hồ Chí Minh là một đảng viên cộng sản trung kiên, hết lòng
họat động, bành trướng chủ nghĩa cộng sản, hết lòng phục vụ ĐTQT, một cán bộ xuất
sắc có ăn lương của Liên Xô, có tài tổ chức, khuynh đảo, đa sát, thì đúng. Tuy nhiên,
nếu nói rằng Hồ Chí Minh là người có đạo đức cách mạng với tâm hồn và tinh thần
Việt Nam, có hệ thống “tư tưởng” riêng, thì cần phải xét lại.Đảng CSVN còn cho Hồ Chí Minh đã có sáng kiến kết hợp công cuộc giải phóng dân tộc với đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa xã hội. Thật ra người đưa ra sự kết hợp nầy là Lenin, nhà lãnh đạo cuộc Cách mạng cộng sản năm 1917 ở Nga. Liên minh công nông chống thực dân phong kiến, cũng không phải do Hồ Chí Minh nghĩ ra. Ai cũng biết đó là tư tưởng của Mao Trạch Đông, lấy nông thôn bao vây thành thị, khi ông ta muốn ứng dụng chủ nghĩa Mác-Lê vào Trung Hoa. Josip Broz Tito (Yugoslavia) là người chủ trương đảng và chế độ cộng sản Quốc gia độc lập, chứ không nằm trong hệ thống Đệ tam Quốc tế cộng sản từ năm 1948. Hồ Chí Minh chưa hề có tư tưởng như Tito. Nói cho cùng, Hồ Chí Minh không có một hệ thống tư duy nào để trở thành nhà tư tưởng, như đảng CSVN áp đặt.
Vì Hồ Chí Minh không có tư tưởng gì, nên những kẻ thừa kế tha hồ vẽ vời sáng tác mọi chính sách rồi gắn cho nhãn hiệu Hồ Chí Minh. Họ chắp nối một số diễn văn, lời nói của ông ta để hình thành “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Họ giải thích tùy hứng những điều mà họ nói là “tư tưởng Hồ Chí Minh”, không khác gì lối diễn giải tùy thích những sấm truyền bí hiểm của các nhà tiên tri như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Theo dõi những bài diễn văn, những khẩu hiệu do ông Hồ đưa ra, mọi người đều nhận biết rõ ràng tất cả đều do ông Hồ cóp nhặt từ các nhà tư tưởng, văn hóa và chính trị đông tây.
Ví dụ bài diễn văn khai sinh chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ đọc ngày 2/9/1945, thường được đảng Cộng Sản gọi là bản “Tuyên ngôn độc lập”, hoàn toàn vay mượn của các văn bản Pháp và Mỹ. Mọi người sẽ không lấy làm lạ nếu biết rằng người giúp ông Hồ viết bản văn nầy là một thiếu tá người Hoa Kỳ, Archimedes L. A. Patti.(8)
Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng hơn 3,000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 10 trung học, lúc đó hệ trung học ngoài Bắc chỉ có 10 năm), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh viết: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. (Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958) Câu khẩu hiệu nầy được treo ở tất cả các trường đại học và trung tiểu học dưới chế độ cộng sản. Câu khẩu hiệu nầy được sách vở Cộng Sản xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho đất nước, thật ra là câu nói của Quản Trọng (Quản Di Ngô) cách đây hơn hai ngàn năm. “Nhất niên chi kế tại ư thụ cốc; thập niên chi kế tại ư thụ mộc; bách niên chi kế tại ư thụ nhân.” (Kế một năm trồng lúa, kế mười năm trồng cây, kế trăm năm trồng người.)
Một trong những khẩu hiệu hàng đầu được xem là tư tưởng Hồ Chí Minh, để huấn luyện và giáo dục cán bộ cộng sản là “Chí công vô tư, cần kiệm liêm chính”, được rút từ lời dạy của Nho giáo cũng đã trên 2.000 năm.
Nêu lên vài ví dụ trên đây để thấy rằng những điều gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh (hiểu theo nghĩa rộng là một hệ thống tư duy) chỉ là sự cóp nhặt danh ngôn của những vĩ nhân thế giới, rồi đề tên họ Hồ vào. Sở dĩ Hồ Chí Minh và các thuộc hạ của ông mạnh dạn mượn tư tưởng của người khác làm của riêng ông ta, vì từ năm 1954 đến 1975, Bắc Việt sống hoàn toàn biệt lập, bưng bít. Không có bất cứ một sách vở xưa cũ hay một phương tiện truyền thông nào đến với dân chúng, ngoài sách đảng, báo đảng, và đài phát thanh đảng. Trong tình hình đó, Hồ Chí Minh muốn cóp nhặt của ai thì tha hồ mà cóp nhặt, không ai biết gì để có thể so sánh. Nói cho cùng, người ta có biết, cũng không dám lên tiếng.
Ngay cái tên “Nguyễn Ái Quốc”, ông Hồ mượn của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền;(9) và cái tên “Hồ Chí Minh”, ông Hồ mượn của Hồ Học Lãm.(10) Chẳng những lấy tên “Hồ Chí Minh” của Hồ Học Lãm, năm 1940, Nguyễn Ái Quốc còn chiếm dụng luôn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Minh do Hồ Học Lãm và Nguyễn Hải Thần lập ra ở Nam Kinh (Trung Hoa) vào năm 1936,(11) nhắm đánh lừa những người yêu nước Việt Nam và cả chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng, để được giúp đỡ.
Theo tài liệu của đảng CSVN, Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản ở Pháp năm 1925 do chính Nguyễn Ái Quốc khởi viết từ 1921.(12) ) Có tài liệu cho rằng Nguyễn Ái Quốc không viết được sách nầy, vì lúc đó ông ta không đủ trình độ Pháp văn để viết sách.(13) Ông ta đã cóp nội dung bài “Đông Dương chính trị luận” của Phan Châu Trinh (đã được Jules Roux, bạn của Phan Châu Trinh, dịch ra tiếng Pháp để gởi cho chính phủ Pháp và Albert Sarraut sắp qua làm toàn quyền Đông Dương). (14)
Chẳng những Hồ Chí Minh “mượn” tư tưởng vĩ nhân thế giới làm tư tưởng của mình, cóp sách của người khác rồi sửa chửa làm sách của mình, ông ta còn mượn luôn thơ của người khác để làm thơ mình. Tác phẩm được coi là nổi tiếng của họ Hồ là Ngục trung nhật ký [Nhật ký trong tù], đa số là chép lại của một ông già họ Lý người Hoa.(15)
Theo nhiều tài liệu, Hồ Chí Minh không bao giờ là một nhà tư tưởng, cũng không phải là một lý thuyết gia chính trị. Trong sách Ho Chi Minh, Jean Lacouture, sử gia Pháp, đã ít nhất hai lần nói rằng Hồ Chí Minh không phải là một lý thuyết gia, dù lúc viết sách nầy, Lacouture là một ký giả còn thiên tả.(16) Mọi người đều đã từng nghe nói đến Marxism (Mác-xít), Leninism (Lênin-nít), Stalinism (Xìtalin-nít), Titoism (Titô-ít), Maoism (Mao-ít), nhưng không bao giờ nghe nói đến “Hoism” (Hồ-ít).(17) Hồ Chí Minh thật sự chỉ là một nhà chính trị giỏi thực hành, một chiến thuật gia (tactician), ứng biến mau lẹ, có tài đóng kịch, đặc biệt rất sắt máu và tàn ác dị thường.(18)
Như thế, xét theo chiều rộng, Hồ Chí Minh hoàn toàn không có một hệ thống tư duy đáng kể, và đúng như ông Dương Trung Quốc viết, đảng CSVN đã đưa ra khái niệm về “tư tưởng Hồ Chí Minh” trước, rồi sau đó mới tập trung triển khai nghiên cứu xem “tư tưởng Hồ Chí Minh là gì?” Từ đó, đảng CSVN vẽ rồng vẽ rắn, nhào nặn ra tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng CSVN muốn đảng viên học theo lãnh tụ họ Hồ thì tùy ý. Chỉ sợ càng học, đảng CSVN càng đưa đất nước và dân chúng Việt thụt lùi thêm nữa. Nếu đảng CSVN bắt người Việt học tập đạo đức và tư tưởng Hồ Chí Minh, thì người Việt có thêm cơ hội trở lại chuyện Hồ Chí Minh, vạch trần thêm những sự thật bên trong huyền thọai Hồ Chí Minh, và có thêm nhiều đề tài tiếu lâm lý thú. Ví dụ vừa qua, CSVN âm thầm đem tượng Hồ Chí Minh vào trong chùa, tưởng rằng để cho dân chúng thờ lạy như cúng Phật. Dân chúng Việt Nam nghĩ khác. Đồng bào nói với nhau rằng Hồ Chí Minh tội lỗi nhiều quá, cần phải sám hối, để cho ông ta vào chùa tu trì, nghe kinh kệ, hóa giải nghiệp chướng, mới hy vọng có cơ hội siêu thoát, chứ để ông chết phơi thây mãi thì biết khi nào được hóa kiếp? Tuy nhiên, nếu những nhà lãnh đạo hiện thời của CSVN đang cầm quyền, vào chùa nghe kinh kệ thì tốt hơn rất nhiều, thay vì gởi đại biểu là ông Hồ Chí Minh!
Để thay thế kết luận, bài nầy xin giới thiệu chương trình lịch sử trung học của CHNDTH mới được áp dụng ở Thượng Hải (Shanghai), mà theo tác giả Joseph Kahn trong bài “Mao ở đâu? Hay Trung Quốc đang viết lại lịch sử” (Phạm Minh Ngọc dịch, Talawas, 27/9/2006), phần mở, có đọan viết: “Chủ nghĩa xã hội được thu vào trong một chương ngắn trong cuốn sách lịch sử dành cho học sinh lớp trên. Lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc trước cuộc cải cách kinh tế năm 1979 được rút lại còn có một câu. Mao Trạch Đông chỉ được nhắc tới một lần – trong chương nói về đức dục.” Cần lưu ý, CHNDTH gia nhập WTO ngày 11/12/2001. Từ tháng 12/2001 đến đầu 2006 là hơn bốn năm. Và đó cũng là thời hạn “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của chỉ thị số 06-CT/TW của Bộ chính trị đảng CSVN (3-2-2007 đến 3-2-2011). Có lẽ rồi đây, trường hợp Hồ Chí Minh cũng sẽ không khác Mao Trạch Đông.
Toronto, 12/1/2007
(5)Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ
[tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối
thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa
Mác-Lê.
(6) Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, California: Nxb. Tuổi Xanh, 2001, tr. 63.
(7) Oliver Todd, “Huyền thoại Hồ Chí Minh”, Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 277.
(8) Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, University of California Press, California, 1980, tr. 223.
(9) Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'Indochine au Vietnam (Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Vệt Nam), Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 44-45.
(10) Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tt. 168-169.
(11) Hồ Học Lãm cùng với Nguyễn Hải Thần (1878-1959), với sự giúp đỡ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, đã thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tại Nam Kinh vào tháng 1-1936.(Chính Đạo, sđd. tr. 168.)
(12) Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương (BNCLSĐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư (có xem lại và bổ sung), Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1975, tr. 29.
(13) Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh, Nxb. Văn Hóa, Houston, TX, 1999, tr. 226.
(14) Hứa Hoành, sđd. tr. 224.
(15) Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả "Ngục trung nhật ký", Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990, tr. 94. "Ông già họ Lý", người bị giam chung với họ Hồ vào đầu thập niên 30 tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông.
(16) Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Peter Wiles bản dịch Anh ngữ từ nguyên văn tiếng Pháp, Harmondswoth: Nxb. Penguin Books, , 1969, tt. 58, 153.
(17) Charles Fenn, Ho Chi Minh: a biographical introduction, London: Studio Vista, 1973, tr. 47.
(18) Vũ Thư Hiên, sđd.. tr. 459. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 276, 295.
Ngày: 18-01-2007
(http://dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=2852)
http://xoathantuong.tripod.com/tgp_ddtthcm.htm(6) Nguyễn Minh Cần, Đảng Cộng Sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào cộng sản quốc tế, California: Nxb. Tuổi Xanh, 2001, tr. 63.
(7) Oliver Todd, “Huyền thoại Hồ Chí Minh”, Nguyễn Văn dịch, đăng trong sách Hồ Chí Minh, sự thật về thân thế và sự nghiệp, Nxb. Nam Á, Paris, 1990, tr. 277.
(8) Archimedes L. A. Patti, Why Viet Nam?, University of California Press, California, 1980, tr. 223.
(9) Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l'Indochine au Vietnam (Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Vệt Nam), Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tt. 44-45.
(10) Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Nxb. Văn Hóa, Houston, 1997, tt. 168-169.
(11) Hồ Học Lãm cùng với Nguyễn Hải Thần (1878-1959), với sự giúp đỡ của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, đã thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội tại Nam Kinh vào tháng 1-1936.(Chính Đạo, sđd. tr. 168.)
(12) Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng trung ương (BNCLSĐ), Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, in lần thứ tư (có xem lại và bổ sung), Nxb. Sự Thật, Hà Nội 1975, tr. 29.
(13) Hứa Hoành, Những phú hộ lừng danh, Nxb. Văn Hóa, Houston, TX, 1999, tr. 226.
(14) Hứa Hoành, sđd. tr. 224.
(15) Lê Hữu Mục, Hồ Chí Minh không phải là tác giả "Ngục trung nhật ký", Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Canada, 1990, tr. 94. "Ông già họ Lý", người bị giam chung với họ Hồ vào đầu thập niên 30 tại khám lớn Victoria ở Hồng Kông.
(16) Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Peter Wiles bản dịch Anh ngữ từ nguyên văn tiếng Pháp, Harmondswoth: Nxb. Penguin Books, , 1969, tt. 58, 153.
(17) Charles Fenn, Ho Chi Minh: a biographical introduction, London: Studio Vista, 1973, tr. 47.
(18) Vũ Thư Hiên, sđd.. tr. 459. Oliver Todd, bđd., sđd. tr. 276, 295.
Ngày: 18-01-2007
(http://dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=2852)
Nghi Án Thế Kỷ Về Hồ Chí Minh
Trần Gia Phụng
MỜI QUÍ NT VÀ CÁC BẠN ĐỌC THÊM MỘT NGHI ÁN VỀ HCM
NGHI ÁN THẾ KỶ - Trần Gia Phụng
1.-
XUẤT XỨ CỦA NGHI ÁN - Trong tuần qua, trên Internet xuất hiện một nguồn
tin gây xôn xao dư luận Việt . Đó là quyển sách bằng chữ Hoa mới xuất
hiện ở Đài Loan về một nhân vật chính trị Việt Nam, nhan đề là Hồ Chí Minh sanh bình khảo (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh). Sách do nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa phát hành tại Đài Loan ngày 01-11-2008 với mã số ISBN 9789866820779. (ISBN: International Standard Book Number).
Trên website http://www.haingoaiphiemdam.com/Tham-khao ngày 25-11-2008, xuất hiện bài báo của tác giả Chân Mây, nhan đề “Tài liệu mới: Hồ Chí Minh là người Khách Gia (Hakka)!”. Sau đó, trên website http://blog.360.yahoo.com/blog-calB7c8leuiQNqd4fyQ2Ua1yzA--?cq=1, ngày 28-11-2008, xuất hiện bài “GS Hồ Tuấn Hùng: Hồ Chí Minh là người Khách Gia (Trung Quốc)” của tác giả Tạ Phong Tần.
Dựa theo lời giới thiệu của nhà sách Press Store (http://www.vital.com.tw/ps/book/book.), cả hai bài báo nầy cho biết rằng tác giả sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo là giáo sư Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, hiện là một viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. ở đảo quốc nầy
Trên website http://www.haingoaiphiemdam.com/Tham-khao ngày 25-11-2008, xuất hiện bài báo của tác giả Chân Mây, nhan đề “Tài liệu mới: Hồ Chí Minh là người Khách Gia (Hakka)!”. Sau đó, trên website http://blog.360.yahoo.com/blog-calB7c8leuiQNqd4fyQ2Ua1yzA--?cq=1, ngày 28-11-2008, xuất hiện bài “GS Hồ Tuấn Hùng: Hồ Chí Minh là người Khách Gia (Trung Quốc)” của tác giả Tạ Phong Tần.
Dựa theo lời giới thiệu của nhà sách Press Store (http://www.vital.com.tw/ps/book/book.), cả hai bài báo nầy cho biết rằng tác giả sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo là giáo sư Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Đại Học Quốc Lập Đài Loan, hiện là một viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. ở đảo quốc nầy
Nội dung sách có một điểm đặc biệt là giáo sư Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc đã từ trần vì bệnh lao năm 1932, có giấy chứng tử, và từ năm 1933 xuất hiện một Nguyễn Ái Quốc giả. Cũng theo giáo sư Hồ Tuấn Hùng, Nguyễn Ái Quốc giả nầy tên thật là Hồ Tập Chương, vốn là người thuộc sắc tộc Hakka tức Khách Gia, mà người Việt gọi là Hẹ, thuộc huyện Miên Lật, địa khu Đồng La, Đài Loan. Nguyễn Ái Quốc giả nầy về sau chính là Hồ Chí Minh, người đã sáng lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945.
Trong sách, ngoài chi tiết quan trọng trên đây, giáo sư Hồ Tuấn Hùng còn viết thêm về nhiều vấn đế chung quanh Nguyễn Ái Quốc (giả) như chuyện hôn nhân, văn phong trong tập thơ Ngục trung nhật ký, di chúc Hồ Chí Minh…Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi vẫn là ngồn gốc của nhân vật mà giáo sư Hồ Tuấn Hùng cho là Nguyễn Ái Quốc (giả) từ năm 1933, tức Hồ Chí Minh.
2.- CHUNG QUANH TÁC GIẢ
Cho đến nay, chưa có thể đánh giá tài liệu của giáo sư Hồ Tuấn Hùng vì chúng ta chưa được đọc và biết nội dung chi tiết trong sách của vị giáo sư nầy. Tuy nhiên, chúng ta có thể dựa vào một số yếu tố chung quanh tác giả Hồ Tuấn Hùng để có thể có một cái nhìn tổng quát về tác phẩm nầy.
Theo nhà sách Press Store, giáo sư Hồ Tuấn Hùng là người gốc sắc tộc Khách Gia ở Đài Loan, sinh năm 1949, nghĩa là khi chiến tranh Việt Nam xảy ra, ông còn trẻ tuổi và đang đi học. Nếu học hành bình thường song suốt, theo đúng quy trình chung là đi học từ tiểu học, qua trung học, lên đại học, giáo sư Hùng tốt nghiệp đại học vào đầu thập niên 70 của thế kỷ qua.
Lúc đó Hồ Chí Minh đã từ trần ở Hà Nội ngày 2-9-1969 mà chế độ Hà Nội đổi qua thành ngày 3-9-1969. Sau đó chiến tranh kết thúc năm 1975. Như thế, giáo sư Hồ Tuấn Hùng không vướng mắc vấn đề gì trong chiến tranh Việt Nam.
Một người viết sử, dầu cố gắng khách quan thế nào đi nữa, cũng không thể tách ra khỏi quá nghiệp (background) của mình. Ở đây, cái quá nghiệp của giáo sư Hùng không liên hệ gì đến chiến tranh hay chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nên động cơ viết sách của ông không phải vì tranh chấp chính trị hiện vẫn còn tiếp diễn ở Việt Nam.
Động cơ chính khiến giáo sư Hồ Tuấn Hùng viết sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo có lẽ là vì giáo sư Hùng họ Hồ, thuộc sắc tộc Khách Gia, và theo ông, từ nhỏ đã nghe truyền khẩu rằng Hồ Chí Minh ở Việt Nam thuộc cùng một sắc tộc với ông.
Theo bài báo trên website http://www.haingoaiphiemdam.com/Tham-khao thì một website của người Khách Gia do giáo sư A Quý thành lập, www.sctlog.sctnet.edu..tw, đã đề cập đến một nhân vật Khách Gia nổi tiếng duy nhất ở Việt Nam là Hồ Chí Minh. Như vậy, dư luận về việc Hồ Chí Minh là người Khách Gia mà giáo sư Hùng nghe đưọc từ sắc tộc của ông là chuyện có thật, đã được người Khách Gia đề cập đến.
Điểm thứ hai chúng ta cần chú ý đến tác giả sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo, theo lời giới thiệu của Press Store, là giáo sư Hồ Tuấn Hùng tốt nghiệp chuyên môn về ngành sử học tại Đại học Quốc lập Đài Loan và ông đã là giáo chức trong 30 năm nay. Như vậy ông không phải là một nhà nghiên cứu sử tài tử, viết cho vui, mà là một người làm việc đúng với chuyên môn của mình.
Hơn nữa, ông đã viết nguyên một quyển sách khảo cứu, chứ không phải chỉ viết một bài báo theo ngẫu hứng, tức ông phải tốn công sức và thời gian tìm tòi tài liệu, cẩn án chuyên môn…, rồi mới viết thành sách.
3.- TẦM QUAN TRỌNG CỦA VẤN ĐỀ
Tác phẩm nghiên cứu của giáo sư Hồ Tuấn Hùng đề cập đến một nhân vật lịch sử quan trọng của Việt Nam. Dầu bênh vực hay chống đối Hồ Chí Minh, mọi người Việt Nam đều không thể phủ nhận rằng Hồ Chí Minh là một nhân vật ảnh hưởng rất lớn đến lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay. Hồ Chí Minh và cả đảng CSVN xây dựng nhiều huyền thoại bao quanh ông ta. Nay những phát hiện mới lạ của giáo sư Hồ Tuấn Hùng chắc chắn gây ngạc nhiên cho nhiều người Việt Nam .
Thứ hai, Hồ Chí Minh là người du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, là người thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930 ở Hồng Kông, và thành lập đảng Lao Động Việt Nam năm 1951 tại Tuyên Quang. Hai đảng nầy là tiền thân liên tiếp của đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) hiện nay ở trong nước. Những phát hiện của giáo sư Hồ Tuấn Hùng không khỏi làm cho các đảng viên CSVN, già hay trẻ, đều phải quan tâm, suy nghĩ đến vấn đề.
Thứ ba, Hồ Chí Minh là người thành lập chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2-9-1945 tại Hà Nội. Chế độ nầy là tiền thân của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN). Phát hiện của giáo sư Hồ Tuấn Hùng chẳng những ảnh hưởng đến công dân Việt Nam trong nước mà ảnh hưởng cả cộng đồng người Việt Hải ngoại, nay là công dân các nước trên thế giới gốc Việt Nam.
Thứ tư, Hồ Chí Minh là nhân vật lãnh đạo chủ chốt cuộc chiến tranh ba mươi năm (1946-1975) trên đất nước Việt Nam. Chiến tranh nầy từ năm 1950 là điểm nóng trong thế chiến tranh lạnh toàn cầu, với sự tham gia của quân đội nhiều nước như Pháp, Trung Hoa, Hoa Kỳ và các nước Đồng minh… Vì vậy, vấn đề nguồn gốc Hồ Chí Minh do giáo sư Hồ Tuấn Hùng đặt ra cũng sẽ làm cho công dân các nước trên thế giới liên hệ và quan tâm đến chiến tranh Việt Nam chú ý theo dõi.
Thứ năm, dưới chế độ cộng sản, hiện tượng sùng bái cá nhân rất phổ quát. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh được thần tượng hóa đến độ thần thánh hóa. Từ sau khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 2-9-1969, đảng Lao Động quyết định xây lăng cho Hồ Chí Minh ngay tại Hà Nội. Lăng được khánh thành ngày 29-8-1975, nằm ở trung tâm Hà Nội, đứng sừng sửng phía trước phủ chủ tịch (tức dinh Toàn quyền cũ), bảo trì rất tốn kém. Xác của Hồ Chí Minh được đặt trong lăng cho mọi người chiêm bái. Gần đây tượng của Hồ Chí Minh còn được đặt trong chùa. Dầu đảng CSVN không chính thức đứng ra làm việc nầy, nhưng chắc chắn đảng CSVN đồng ý nên không ngăn cấm việc nầy.
Quan trọng hơn cả, vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ qua, chế độ cộng sản sụp đổ ở các nước Đông Âu và ngay chính tại Liên Xô, chiếc nôi của chủ nghĩa cộng sản, nên để củng cố ý thức hệ và nhất là tăng cường lại niềm tin nơi đảng viên và quần chúng, đảng CSVN đã sáng tạo ra “tư tưởng Hồ Chí Minh”từ sau Đại hội 7 đảng CSVN tại Hà Nội từ 24 đến 27-6-1991. Sau đó, tư tưởng Hồ Chí Minh được chính thức đưa vào điều 4 chương 1 hiến pháp năm 1992 của CHXHCNVN.
Công trình nghiên cứu của giáo sư Hồ Tuấn Hùng với sự khẳng định rằng Nguyễn Ái Quốc thật đã từ trần năm 1932 và từ năm 1933 xuất hiện một Nguyễn Ái Quốc giả, về sau là Hồ Chí Minh, có thể nói là đã động chạm mạnh đến niềm cấm kỵ (taboo) đối với những người lâu nay đặt niềm tin nơi Hồ Chí Minh, nghĩa là đối với đảng CSVN.
4. HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC SAU NĂM 1930
Bỏ qua một bên những phát hiện của giáo sư Hồ Tuấn Hùng, ở đây xin nhắc lại những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ sau năm 1930 theo các tài liệu trước đây, để nếu có cơ hội, độc giả có thể so sánh với những phát hiện của giáo sư Hồ Tuấn Hùng.
Sau khi thành lập đảng CSĐD ngày 6-01-1930, Nguyễn Ái Quốc, lúc nầy có tên là Lý Thụy, tiếp tục làm nhiệm vụ của một nhân viên tình báo của Cộng Sản Quốc tế (CSQT) tại Trung Hoa. Do phát hiện đường dây tổ chức cộng sản từ Singapore, người Anh bắt được Song Man Ch'o lúc 2 giờ sáng 6-6-1931 tại thành phố Kowloon (Cửu Long), gần Hồng Kông. Song Man Ch'o hay Tống Văn Sơ, chính là Lý Thụy hay Nguyễn Ái Quốc.
Được tin nầy, ĐTQTCS nhờ văn phòng luật sư Frank H. Loseby & N. Pritt tại London (thủ đô Anh Quốc), biện hộ cho Quốc. Văn phòng nầy uỷ nhiệm cho luật sư F. C. Jenkin, có văn phòng ở Hồng Kông, phụ trách bào chữa. Tòa án Hồng Kông quyết định trục xuất Quốc về Hải Phòng (Việt Nam) ngày 12-8-1931. Jenkin chống án. Tòa phá án Hồng Kông vẫn giữ y án và buộc đương sự phải rời Hồng Kông về Việt Nam đầu tháng 9-1931.
Luật sư F. C. Jenkin kiện lên Hội đồng Cơ mật Vương quốc Anh. Hội đồng cho ngưng lệnh trục xuất. Nguyễn Ái Quốc tiếp tục bị giam ở Hồng Kông cho đến tháng 1-1933, ông mới bị đuổi ra khỏi Hồng Kông và được tự ý chọn lựa điểm đến. Việc QTCS thuê luật sư để cứu Quốc ra khỏi tù, chứng tỏ có thể lúc đó ông ta giữ một vai trò khá quan trọng trong tổ chức QTCS ở Đông Nam Á.
Nguyễn Ái Quốc qua Singapore đầu năm 1933, nhưng không được nhận. Ông trở về Hồng Kông và bị bắt trở lại ngày 19-1-1933. Lúc đó có tin đồn ông bị chết trong nhà tù Hồng Kông.
Tin nầy do thống đốc Hồng Kông đưa ra ngày 20-1-1933 nói rằng Nguyễn Ái Quốc chết vì ho lao. Trong khi đó, QTCS công bố Nguyễn Ái Quốc từ trần ngày 26-6-1932. Tuy nhiên, tình báo Pháp cho rằng khi bị người Anh cầm tù, Nguyễn Ái Quốc giả vờ nhận cộng tác với tình báo Anh để ra khỏi tù, nên người Anh đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao.(1)
Trong khi đó, tin cho biết Nguyễn Ái Quốc bị người Anh trục xuất lần nữa, và đến tạm trú ở Sa Diện, khu tô giới ngoại quốc tại Quảng Châu. Mùa hè năm 1933, lãnh tụ đảng CS Pháp là Paul Vaillant-Couturier ghé qua Trung Hoa, nhân đó giúp Nguyễn Ái Quốc trốn đi Thượng Hải. Từ Thượng Hải, ông đi tàu lên Vladivostok (Liên Xô), rồi qua Moscow.
Tại Moscow, Nguyễn Ái Quốc “bị khiển trách”. (2) Việc nầy có thể bắt nguồn từ những báo cáo của Hà Huy Tập (tên Nga là Siniskin) trong Đại hội đảng CSĐD lần thứ nhất tại Ma Cao (Trung Hoa) từ 27 đến 31-3-1935.(3) Đồng thời, cũng có thể vì QTCS nghi ngờ về lý do vì sao Nguyễn Ái Quốc được nhà cầm quyền Anh ở Hương Cảng thả ra.(4)
Vì vậy, dù đang sống tại Moscow, Nguyễn Ái Quốc chỉ được cử làm đại biểu dự khuyết trong phái đoàn đảng CSĐD tại Đại hội QTCS kỳ 7 ở Liên Xô từ 25-7 đến 25-8-1935. Ba đại biểu chính thức là Lê Hồng Phong (tên Nga là Litvinov), Hoàng Văn Nọn, và Nguyễn Thị Minh Khai (tên Nga là Phan Lan). Sau Đại hội, ba đại biểu chính thức (Phong, Nọn và Khai) trước sau lần lượt về nước, Nguyễn Ái Quốc bị giữ lại ở Liên Xô.
Học tập tiếp tại Moscow trong ba năm, Nguyễn Ái Quốc viết thư ngày 6-6-1938, nhờ một “đồng chí ở Quốc tế Cộng sản” can thiệp, giúp đỡ ông ta “thay đổi tình cảnh đau buồn nầy”.(5) Có thể nhờ sự can thiệp của người nầy, Nguyễn Ái Quốc được ĐTQTCS gởi qua Trung Hoa vào năm 1939 để thực hiện một nhiệm vụ mới.
KẾT LUẬN
Cho đến nay, chúng ta chưa được đọc nội dung chi tiết sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo nên chưa thể đánh giá công trình nghiên cứu của giáo sư Hồ Tuấn Hùng. Do sự giới thiệu của Press Store, chúng ta chỉ biết tổng quát rằng vấn đề quan trọng nhất do sách nầy đặt ra là nhân vật Nguyễn Ái Quốc thật từ trần năm 1932 và từ năm 1933 trở đi là nhân vật Nguyễn Ái Quốc giả, về sau nầy chính là Hồ Chí Minh. Phát hiện nầy hoàn toàn đi ngược lại với những gì người ta viết về Hồ Chí Minh từ xưa đến nay, nhất là ngược lại với những huyền thoại mà đảng CSVN đã dày công xây dựng chung quanh ông ta.
Vấn đề Hồ Chí Minh vốn là một vấn đề nhạy cảm đối với người Việt Nam, đã tạo ra quá nhiều tranh luận, đến độ trở thành định kiến không thể nào thay đổi về cả hai phía bênh vực cũng như chống đối, nên dầu giáo sư Hồ Tuấn Hùng có viết như thế nào đi nữa, dầu đúng hay sai, chắc chắn cũng sẽ tạo thêm đề tài kéo dài cuộc tranh luận triền miên bất tận, không biết khi nào tìm ra sự thật. Trong khi đó, phía bênh vực vẫn sẽ cứ bênh vực, bên chống đối vẫn sẽ cứ chống đối. Như thế, vấn đề do tác phẩm Hồ Chí Minh sanh bình khảo đặt ra, đúng là một nghi án của thế kỷ.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 30-11-2008)
CHÚ THÍCH
1. Chính Đạo, Hồ Chí Minh: con người và huyền thoại, tập II 1925-1945, Houston, Nxb Văn Hóa, 1993, tt. 126-127.
2. , Encyclopedia of Marxismsm, chọn chữ H, tìm mục Hồ Chí Minh.
3. Lữ Phương, “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh (Sự hình thành một chọn lựa)” (tài liệu Internet) Tác giả Lữ Phương theo tài liệu của Cộng sản và của Sophie Quin-Judge, Nguyen Ai Quoc, The Comintern and the Vietnamese Comunist Movement (1919-1941), (luận án tiến sĩ), tr. 204. Trong Đại hội nầy, Lê Hồng Phong được bầu làm tổng bí thư, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm đại biểu đảng bên cạnh QTCS. Sau Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập làm tổng bí thư từ tháng 7-1936 đến tháng 3-1938.
4. William J. Duiker, Ho Chi Minh, New York:Hyperion, 2000, tr. 213.
5. Xin xem bản sao chụp lá thư nầy, trích từ Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr. 90, phía dưới.
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete