Hồ Chí Minh ông là ai ???… Những sự kiện và các nhân chứng đương thời với Hồ Chí Minh
Nguyễn Gia Định
PHẦN BA
*** Nghĩ về Thế Việt tâm Tàu
”Công lao vĩ đại nhất của Hồ Chí Minh là đã tạo nên được
một đảng cộng sản người Việt cho Tàu. Những gì đang diễn ra trên đất
nước hôm nay là kết quả mỹ mãn của công lao đó”.
Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc ngày nay là một địa
chỉ du lịch nỗi tiếng trên toàn thế giới. Sự kỳ vĩ, ngoạn mục, tuổi thọ,
quy mô đằng nào cũng chiếm kỷ lục nằm sờ sờ ra giữa trung nguyên hùng
vĩ để nhân loại hôm nay nhìn thấy sức người Tàu trên hai nghìn năm trước
đã ghê gớm như thế. Vâng! Hơn hai nghìn năm trước địa giới nước Tàu ở
đó nên mới làm nên tên nước là Trung Hoa. Cái đẹp ai cũng mê. Hùng vĩ ai
cũng nể. Và, trong cái độ dài làm nên trường thành ấy, người ta tĩnh
tâm còn nghe rõ tiếng khóc ai oán, còn nhìn thấy dấu tay của cư dân nước
Tần với sáu nước láng diềng Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy bị xóa sổ.
Ngày ấy biên cương Trung Hoa xa Văn Lang vạn dặm mà quân nhà Tần đã tràn
xuống phương nam rồi. Ngày nay “Vạn Lý Trường Thành không là biên cương
nữa. Trung Hoa thành Đại Trung Hoa. Bách Việt bị thôn tính.
Sử ký một nghìn năm Bắc Thuộc, con nít nước ta đứa nào
cũng thuộc. Vạn Lý Trường Thành oai hùng, các nhà cầm quyền nước ta đứng
đầu từ cấp huyện trở lên hình như người nào cũng đã được đặc ân chiêm
ngưỡng. Không biết, khi đi trên “Vạn Lý Trường Thành” trong số họ có ai
thầm nhắc câu hát mà Trinh Công Sơn đưa vào ca khúc hay không!
“Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu”
Vạn Lý Trường Thành xóa xong ranh giới sáu nước vào năm
221 trước Công nguyên thì ngay lập tức, Tần Thủy Hoàng cho quân tiến lên
phía bắc chiếm đất người Hung Nô lập nên Hà Sáo đồng thời xua quân
xuống phía nam thôn tính Bách Việt. Nhâm Ngao và Triệu Đà được sai đánh
chiếm Âu Lạc (214 trước CN).
Trong cuốn “Lịch sử nước ta” (diễn ca) của Hồ Chí Minh viết vào năm 1941, bản in thạch cở nhỏ dạng sổ tay khoảng 8cm x 12cm, tôi được đọc một lần khi mới phát hiện, nhớ mấy câu đầu là “Dân ta phải biết sử ta. Cho tường gốc tích nước nhà Lạc Long… Triệu Đà là tổ nước ta. Nước ta khi đó gọi là Văn Lang…” Tôi và vài người bạn đều trố mắt nhìn nhau. “Triệu Đà là tổ nước ta” ?. Từ đó tôi biết sợ.
Quân của Nhâm Ngao, Triệu Đà xông vào cướp Âu Lạc. Nhân
dân Âu Lạc tản vào rừng, nhờ rừng để tránh và để chống ngoại tộc cướp
nước.
Triệu Đà không làm gì được bèn thay mưu. Cho con trai là
Trọng Thủy sang lấy vợ, ở rể. Vì mất cảnh giác, thành Cổ Loa vào tay
Triệu Đà, An Dương Vương cõng con gái chạy về phía Hồng Lĩnh. Vào đến
đất Nghệ mới được thần nhân cho biết giặc ngồi sau lưng mình. Thì ra
giặc là người trong nhà. Ta mất nước thì ra do người trong nhà. Chỉ một
chút nhẹ dạ cả tin thôi dân ta phải chịu “Một nghìn năm đô hộ giặc Tàu”.
Triệu, Hán, Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường thay nhau cai
trị nước ta. Cho hay triều nọ suy, triều kia thịnh, nội bộ người ta sát
phạt nhau, nhưng mục tiêu bành trướng Đại Hán với tính tham lam, tàn
bạo, nham hiểm trong thống trị ngoại tộc thì không thay đổi. Di dân,
chiếm đất, đồng hóa song hành với tiêu diệt bản địa … trước Công nguyên
hay sau Công nguyên vẫn thế.
Năm 938 may có ông Ngô Quyền không thèm bả vinh hoa
phương Bắc đã hô hào dân chúng làm cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
đời Đường. Rừng góp sức làm nên chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất. Thế
rồi, rừng lại làm nên chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai dưới thời Lê Đại
Hành (981).
Sang thế kỷ XIII, quân Nguyên đã gây nên sợ hãi ám ảnh
không chỉ các nước phương Đông mà lan tràn khắp lục địa Á, Âu. Nhờ rừng
và biển vua Trần mới bảo toàn lực lượng tổ chức kháng chiến. Lại nhờ
rừng Trần Hưng Đạo Đại Vương mới làm nên chiến công Bạch Đằng lần thứ ba
(1288).
Thơ ông Tố Hữu tôi mê không được, nhưng câu “Rừng che bộ đội, rừng ngăn quân thù” thì tôi nghĩ là ông rất biết tác dụng của rừng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giữ nước.
So về bằng cấp học vị, ông Tố Hữu không bằng các “nhà”
trị dân trị nước ngày nay, nhưng ông có tầm nhìn, nếp nghĩ như bàn dân
ta, như tổ tiên ta mà không như bộ này bộ nọ đang cai trị dân ta. Đang
lừa phỉnh dân ta thì đúng hơn. Lẽ nào họ không biết vị thế rừng giúp dân
tộc ta giữ nước ? Họ bán rừng đầu nguồn, bán Bô xít Tây Nguyên, bán một
số cảng nước sâu, miễn thị thực nhập cảnh… gợi lên cho tôi ý nghĩ rằng
từ ngày có cụ Hồ, DÂN ta đã “nuôi quá nhiều ong trong tay áo”. Từ kinh
nghiệm xâm lược, người Tàu nhận ra thế chiến lược phòng thủ và tiến công
từ rừng của ta. Từ âm mưu thôn tính ta hàng nghìn năm qua, người Tàu
nhận ra tầm quyết định của nội thuộc. Thời trước tìm mọi cách đưa Trọng
Thủy sang làm con rể, lấy cho được bí quyết nỏ thần. Ngày nay đổi hướng,
người ta tìm mọi cách vun đắp tô điểm vị “cha già dân tộc” còn cao tay
hơn. Đã có “cha già” càng cần nhiều con trẻ. Làng Tàu theo dự án đầu
nguồn mà lập nên mọi nơi có rừng.
“Thâm Nho” là chỗ đó.
Thưa ông Tố Hữu. Thơ ông bị đàn em của ông sử lại rồi:
“Rừng che mưu giặc, rừng ngăn dân mình” Hài lòng chưa các ông!
Là dân nước ta, từng chia sẻ với vị thế nước ta “Việt
Nam Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông. Chung một biển Đông chung
tình hữu nghị”. Ca khúc hay ho đó họ chế cho ta ra rả hát để họ ra rả
bắn giết, đánh đập, cướp bóc Ngư dân ta trên biển, thủ tiều lâm dân ta
trong rừng. Lịch sử Trung cộng cho ta biết rằng họ không thực thi chủ
nghĩa cộng sản trên đất nước họ mà chỉ tâm đắc thuyết “Thế Giới Đại
Đồng” để thực hiện chủ nghĩa bá quyền mà thôi.
Bởi chủ nghĩa bá quyền là không định được biên giới quốc gia. Thôn tính và thôn tính, đó là “học thuyết Trung Hoa”.
Ta bé nhỏ mà phải đội cái thúng đá to quá cở trên đầu.
Thế nước Nam là thế! Nhìn xem bản đồ nước ta và nước Tàu có phải thế
không! Đầu ta bị lún sâu vào đít thúng nên không nhìn thấy gì nữa. Ta
cong lưng đến bao giờ? Vạn Lý Trường Thành 200 năm trước Công nguyên đã
liếm xuống biển Đông theo cái lưỡi bò và tham vọng Trung Hoa chắc chắn
không dừng lại đó.
Người đội đá không nhanh tay hất sang một bên hẳn là tự sát.
“Cha già dân tộc” lập mưu “dắt năm châu đến đại đồng”
là cốt phỉnh ta phải yêu Tàu, nhưng đã đến lúc ta nên “bất hiếu” với
“cha”. Bởi láng diềng “bốn tốt” của ta cần không gian sinh tồn cho người
Hán, không cần thuộc dân. Có thế mới cứu được cộng đồng các dân tộc
Việt Nam qua khỏi nạn diệt chủng.
Thời Minh Mạng (1820 -1841), mỏ đồng Tụ Long nằm trong
lãnh địa Đại Nam, do nhà nước Đại Nam tổ chức khai thác. Ngày nay Tụ
Long nằm sâu trong lục địa Tàu. Lẽ nào các nhà cầm quyền hiện thời không
biết! Năm 1955 “anh ta” giúp ta khôi phục tuyến đường sắt Nam Quan – Hà
Nội. Bởi quá “thiện chí” “anh ta” làm mẫu 10 km từ ải trở vào rộng
1,40m như đường bên nước anh ta, nói là để khi thế giới đại đồng thì
đường sắt xuyên lục địa đều thống nhất cùng một cở. “Bác” bảo thế! Ta
tưởng thật, để “anh ta” vô tư làm. Ngót ba mươi năm sau, “anh ta” cãi
đường rộng 1,40m đến đâu là biện cương của “anh ta” đến đó.
Lẽ nào các nhà cầm quyền hiện thời không biết ? Ngày
trước, mỗi lần xuống Ninh Bình, tôi nhìn cái ống khói của nhà máy thiêu
hủy than đá Quảng Ninh chính phẩm do Tàu giúp ta xây dựng vừa đốt than
vừa ban phát bụi cho toàn thành phố đồng thời làm cái “dương” cắm giữa
cái “âm” của Ngọc Mỹ Nữ (núi Cánh Diều) đã bị họ, vâng! chính họ chặt
đôi chân Thần Nhân nằm ngả giữa trời (1955). Yểm. Người Tàu yểm. Dân
Ninh Bình thuở đó bảo thế!
Những điều như thế, lẽ nào các nhà cai trị không biết!
“Bác vẫn còn chúng cháu hành quân” sao đặng Quảng Châu với Hồ Chí Minh
Dường như mọi loại sách báo, giáo trình, giáo khoa các
cấp học từ vở lòng đến đại học, học viện… khi viết về Hồ Chí Minh đều
dựa vào cuốn “Những mẫu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Hồ Chủ
tịch” do Trần Dân Tiên biên soạn.
Trần Dân Tiên đóng vai nhà báo nhiều lần xin gặp Hồ Chí
Minh nhưng vì “người bận trăm công nghìn việc” nên không thể được, đành
phải tự lần mò khắp hang cùng ngõ hẽm mới góp nhặt được ít nhiều mẫu
chuyện về một con người mà “cả cuộc đời chỉ vì dân vì nước bôn ba khắp
năm châu bốn biển”. Từ lẽ đó, Trần Dân Tiên không thể đi hết, viết hết
mọi chuyện về vị lãnh tụ tối cao này mà chỉ chắp nối từng đoạn như vẽ
một con rồng khi ẩn khi hiện trong mây.
Được đọc “Những mẫu chuyện về đời hoạt động cách mạng
của Hồ Chủ tịch” ai ai cũng cảm động và cảm phục Trần Dân Tiên tận tâm,
chịu khó. Rõ ràng là, nếu không có Trần Dân Tiên mấy ai biết được công
lao vĩ đại của “Bác Hồ”.
Trường mẫu giáo là nơi bắt đầu “trồng người” hay học
viện chính trị quốc gia là chốn đào tạo quan liêu các cấp để “gài
người”, tất thảy đều dựa vào Trần Dân Tiên mà ngợi ca Hồ Chí Minh.
Trên cõi đời này chưa có nhà báo nào sánh được với Trần Dân Tiên.
Trên cõi đời cũng không có ai như Hồ Chí Minh bịa ra Trần Dân Tiên để thêu dệt về mình.
Với người Việt Nam ta “mèo khen mèo dài đuôi” đã bị lên
án, đã bị chế riễu và được liệt vào loại tiếu lâm. Trần Dân Tiên quả là
nhân vật tiếu lâm và là tay viết tiếu lâm có nghề. Nghề tinh từ nền
tảng năng khiếu. Năng khiếu xuất chúng do tâm làm điểm xuất phát. Cái
tâm Hồ Chí Minh làm nên nhà báo Trần Dân Tiên không ngoài lẽ đó.
“Vào nửa sau năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên
Xô, lần lượt tham dự hội nghị Quốc tế nông dân (15-101923), Đại hội lần
thứ năm Quốc tế Cộng sản (17-6 đến 18-7-1924), Đại hội lần thứ tư Quốc
tế thanh niên, Đại hội lần thứ ba Quốc tế phụ nữ cộng sản, Đại hội lần
thứ ba Quốc tế công hội đỏ và Đại hội lần thứ nhất Quốc tế các chiến sĩ
cách mạng (tức Quốc tế cứu tế đỏ).
… Sau các hội nghị quốc tế, Nguyễn Ái Quốc còn ở lại Liên Xô làm việc trong Quốc tế Cộng sản, nghiên cứu chế độ xô viết, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức một chính đảng kiểu mới theo học thuyết Lê nin, tiếp tục tuyên truyền những luận điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa trên báo sự thật của đảng Cộng sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế Cộng sản. … Sau khi dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế Cộng sản và các hội nghị quốc tế khác, cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc).
Tháng 6-1925, tại đây người đã lựa chọn một số chiến sĩ
trẻ tuổi trong tổ chức Tâm tâm xã và một số thanh niên yêu nước đã từng
hoạt động dưới ảnh hưởng của Phan Bội Châu để lập ra một đoàn thể cách
mạng có xu hướng mácxit – đó là Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí
hội (gọi tắt là Thanh niên).
Tháng 7 năm đó, cùng với các nhà cách mạng Trung Quốc,
Triều Tiên, Indônêsia, Mã lai, Ấn Độ…Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức ở Á Đông do ông Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm
hội trưởng. Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội có quan hệ mật
thiết với tổ chức này”.
(GS Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử Việt Nam Giản Yếu, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nôi, 2000, trang 451-452).
Thiết nghĩ nếu không có Trần Dân Tiên (tức Hồ Chí
Minh), sáu giáo sư đồng tác giả lấy đâu ra tư liệu viết được những dòng
hay đến thế ?
Nhân những ngày vừa qua, Tàu thực hành “bốn tốt” với ta
ngoài biển Đông, Hà Nội thường hay có người tụ tập thể hiện tinh thần
yêu nước, để tránh mọi hành vi biểu tình, tôi ngại ra đường. Vốn nhát
gan, sợ các “đồng chí còn đảng còn minh” lôi về đồn nên tôi nằm nhà đọc
sách và ngủ. Gặp những dòng trên đây, lấy làm đắc chí chép lại hầu bạn
đọc gần xa.
Đã đọc là phải ngẫm, tôi nhận ra lắm lẽ đáng quan tâm.
“Vào nửa sau năm 1923, Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Liên Xô”, với tư cách
gì mà lần lượt tham dự nhiều hội nghị Quốc tế thế? Có đảng nào cử đại
biểu trước hàng năm trời để đi dự liền tù tì tất cả các hội nghị Quốc
tế. Đến khi kết thúc mọi hội nghị thì đại biểu được cử đi không quay về
nơi xuất phát để báo cáo thu hoạch mà lặng lẽ về Quảng Châu (mùa Thu,
1924). Đảng Cộng sản Pháp dư quỹ đài thọ đại biểu và quản lý đảng viên
hời hợt, lỏng lẻo vậy sao? Đại hội lần thứ năm Quốc tế Cộng sản kết thúc
vào cuối tháng 7 năm 1924. Sau đó “đồng chí Nguyễn Ái Quốc” còn dự một
loạt hội nghị quốc tế khác và còn ở lại “nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức
một chính đảng kiểu mới theo học thuyết Lê nin, tiếp tục tuyên truyền
những luận điểm của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa trên báo sự
thật của đảng Cộng sản Liên Xô và tạp chí Thư tín quốc tế của Quốc tế
Cộng sản (sách đã dẫn, trang 451).
Cái tài của các giáo sư sử học – tác giả công trình này
là nói được những điều lạ tai. Một người Việt Nam thất học trình độ
tiểu học Đông Ba (Huế), bị đuổi khỏi trường đi làm phụ bếp độ nhật, nhảy
lên Paris sau ngày chiến tranh thế giới kết thúc, viết được “Thỉnh
nguyên thư gửi Hội nghị Quốc tế tại cung điện Véc Xây (1919)” rồi sang
Nga lại viết báo “tuyên truyền những luận điểm của Lênin về vấn đề dân
tộc và thuộc địa” cho dân Nga đọc, rồi về Trung Quốc thành lập tổ chức
quốc tế rồi giao cho một nhân sĩ Trung Quốc làm hội trưởng… Quả là ghê
gớm.
Chú tôi, một giáo sư vào lớp đàn anh, có mặt ở Nga khá
sớm đang ôm trong lòng một nỗi day dứt chưa dám ngõ cùng đời, rằng năm
1955 Hồ Chí Minh sang Nga báo cáo về cải cách ruộng đất, chú tôi được đi
làm phiên dịch. Cảm tưởng đầu tiên là tiếng Nga của Hồ Chí Minh chỉ đủ
để giao tiếp thôi. Viết lách chắc còn vất vả lắm. Trong một buổi đàm
thoại bằng tiếng Pháp với một người Pháp, “Bác” tưởng chú tôi thuộc loại
trẻ con nhà quê ra tỉnh mới sang hoc tiếng Nga, không biết gì về tiếng
Pháp nên đã dùng tiếng bồi nhà nghề nói với người Pháp kia một số lời
làm chú tôi giật mình. “Lẽ nào Bác lại là mật thám Pháp”. Điều day dứt
đó chú tôi dặn “sống để bụng, chết mang theo” đừng hở ra mà mang tai họa
khó lường. Nghe lời chú, tôi ngậm miệng từ đó cho đến hôm nay Tàu gây
hấn mới dám ngõ vụng cùng đời. Và nếu Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt
Nam vì Tàu mà ra lệnh cho thuộc hạ gây tai nạn giao thông hại tôi, tôi
cũng cam lòng hả dạ là đã nói được điều nên nói.
Tôi muốn nhắc lại điều này vì mấy lẽ – Đại hội lần thứ V
của quốc tế cộng sản diễn ra từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 08 tháng 7 năm
1924 là mạnh Thu. Sau Đại hội đó “người” còn tham dự một loạt Đại hội
của Thanh niên, Phụ nữ, Công hội, Cứu tế đỏ. Đã dự quá nhiều đại hội lại
bỏ ra một thời gian để nghiên cứu và viết bài tuyên truyền cho người
Nga hiểu Lênin, mà đến tháng 8 trọng Thu “người” đã có mặt tai Quảng
Châu với tên mới là Lý Thụy rồi. Thánh thật! Một tháng thôi sao làm
nhiều việc thế!
Quảng Châu những năm 1924 – 1927 là tai mắt dò la mà
nội bộ là Quốc – Cộng, ngoại bộ là Anh, Pháp, Nga, Nhật…Nghĩa là luôn
luôn có sự rình rập của mọi kẻ thù. Nguyễn Ái Quốc lại ngang nhiên lựa
chọn người này loại bỏ người kia để đứng ra thành lập Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội dễ như mua bán giữa chợ trời vậy sao! Tôi
nghĩ những việc này đều phải coi lại. Bởi Trần Dân Tiên (HCM) khoe cốt
để giúp Hồ Chí Minh – Trọng Thủy của thế kỷ XX, chiếm lĩnh ngôi cao nhất
nhằm lái Việt Nam nhập vào quỹ đạo “Xích quỷ” Tàu. Các giáo sư hăng hái
quá nên không kịp nghĩ.
Về những thanh niên yêu nước có mặt ở Quảng Châu có thể
chia thành hai thời đoạn trước và sau năm 1925. Trước năm 1925 là lớp
thanh niên thuộc phong trào Đông Du, do Phan Bội Châu đề xướng và kêu
gọi đã có mặt tại Nhật khoảng 200 người. Nhật tẩy chay theo yêu cầu của
Pháp (1908), một số người đổi tên ở lại học hành và tìm việc làm độ
nhật, một số chạy sang vài ba nước châu Âu, đại bộ phận theo Phan Bội
Chau về Quảng Châu. Tại đây họ là những người làm nên Việt Nam Quang
phục Hội (19/6/1912), về sau một số thành lập Tâm Tâm xã. Từ Tâm Tâm xã
một bộ phận chuyển thành Việt Nam Quốc dân đảng (19/6/1924). Lớp thứ
hai, sang sau năm 1925 là những người chứng kiến, tham gia phong trào
đòi tha Phan Bội Châu và dự đám tang Phan Chu Trinh.
Xin mọi người nhớ rằng Quảng Châu sau khi quả bom Phạm
Hồng Thái mưu giết toàn quyền Mec lanh nổ tai khách sạn Victoria ở Sa
Điện thuộc tô giới Pháp (ngày 19 tháng 6 năm 1924) thì mạng lưới mật
thám Pháp rải khá dày ở “thủ đô” cách mạng Việt Nam lưu vong này. Kế
đến, là vị lãnh tụ thiên cộng Tôn Trung Sơn đột ngột qua đời tại Bắc
Kinh trong một chuyến công cán (12/3/1925), chính phủ Quảng Châu thuộc
quyền điều hành của Đới Quý Đào và Tưởng Giới Thạch. Hai nhân vật này là
hai lưỡi gươm thanh cộng không nương tay. Mọi ngõ ngách Quảng Châu đều
được kiểm soát nghiêm ngặt. Bởi vậy không bao lâu sau đó phái bộ Nga do
Mikhain Bôrôdin cầm đầu phải rời Quảng Châu về nước, chấm dứt công việc
của Lý Thụy. Tiếp theo là vụ Phan Bội Châu bị chỉ điểm để Pháp bắt tại
ga xe lửa Thượng Hải vào ngày 01 tháng 6 năm 1925. Đối với người Việt
trong và ngoài nước, nhất là tại Quảng Châu, Phan Bội Châu bị Pháp bắt
là một tổn thất nặng nề và ngay lúc đó người ta nghi do có người chỉ
điểm. Nguyễn Thượng Huyền, Lâm Đức Thụ, Lý Thụy là ba nghi can hầu như
đã được xác định. (Nhóm năm thanh niên Việt Nam được Tổng bộ Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội gửi sang học tại trường Đại học Phương
Đông ở Mạc Tư Khoa không cho Line (tức Lý Thụy, Thậu Chín) vào ký túc
xá (1929) một phần xuất phát từ lý do trên).
Có điều mong được các giáo sư – tác giả công trình vừa
nêu giải thích thêm là tại sao một người mà các tác giả đã viết là của
Quốc tế cộng sản lại không rút về Nga theo phái bộ Bôrôđin mà bị bỏ lại,
rơi vào tình thế “lưng không bén đất. Cật không đến trời”. Tại sao khi
Trương Vân Lĩnh báo Tưởng Giới Thạch đã có lệnh truy nã, Lý Thụy không
tìm được bất cứ một chỗ dựa nào trong anh em Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí hội đang có cơ sở ở Quảng Châu để nương thân mà lại phải
chạy sang Phì Chịt (Thái-lan) ăn nhờ ở đậu tại Trại cày Đặng Thúc Hứa?
Và tại sao, một người được các tác giả đề cao là sáng lập Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội, mà 6 lần tổ chức này họp với Việt Nam Cách
mạng đảng (Tân Việt) trong nước để bàn về hợp nhất, “người sáng lập”
lại không hay biết gì. Đến như Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội họp tại Hương Cảng ngày 01 tháng 5 năm 1929
phân hóa bất thành mà người sáng lập cũng không can dự! Tôi sợ cái sáng
lập khống lắm.
Với tư cách một người giúp việc cho phái bộ Bôrôđin, Lý
Thụy chỉ có chỗ dựa trong thời gian Bôrôđin còn ở Quảng Châu. Bôrôđin
rời Quảng Châu là Lý Thụy hết việc. Vậy thì, lấy gì để coi ông ta là ủy
viên phương Đông bộ của Quốc tế cộng sản. Và, một điều nên lưu ý là một
ủy viên phương Đông bộ của Quốc tế cộng sản mà chỉ dự một kỳ đại hội lần
thứ V còn đại hội IV, đại hội VI, đại hội VII lại đứng ngoài nhìn!
Một câu hỏi lịch sử phải trả lời là Hồ Chí Minh là ai? Nguyễn Ái Quốc là ai? Hai người này chắc chắn không phải là một.
Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu trong bản Thỉnh nguyện
thư gửi Hòa hội Véc xây là Patriot Nguyen. Như vậy Nguyễn Ái Quốc này
chỉ mang tính đại diện cho nhóm nhân sĩ trí thức Việt Nam yêu nước đang
có mặt tại Pháp. Đó là Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn An Ninh. Vài năm sau, Nguyễn Thế Truyền còn viết một số
bài trên báo Người Cùng Khổ vẫn để bút danh mang tính đại diện đó. Có
thể coi Nguyễn Ái Quốc trong khoảng thời gian 1919-1925 là của chung
không phải riêng ai.
Năm 1924, Nguyễn Tất Thành về Quảng Châu với phái bộ
Bôrôđin, bị xa lạ trước những thanh niên Việt Nam sang Quảng Châu theo
các tuyến đường mà Phan Bội Châu và cộng sự của ông lập nên. Những tuyến
đường đó là:
1. Vinh-Thanh Hóa-Nam Định-Thái Bình-Quảng Yên-Mông Cái-Mũi Ngọc-Đông Hưng.
2. Sài Gòn-Hương Cảng. 3. Vinh – Phì Chịt – Băng Cốc – Hương Cảng.
Xa lạ là khó tin. Cho dù Lý Thụy là người Nghệ yêu nước
và hoạt động cứu nước đến mức nào, nhưng không nằm trong sự lựa chọn,
gửi gắm từ cơ sở đều khó có thể gia nhập hội. Bởi mỗi tuyến có người
tuyển chọn, có sự đảm bảo đủ độ tin cậy riêng từ cơ sở. Lý Thụy không
thuộc tuyến nào cả.
Trong tình thế đó, Lý Thụy tự nhận mình là Nguyễn Ái
Quốc để Phan Bội Châu nể và khoe mà dọa các thành viên khác của ông.
Phan Bội Châu nhầm và tưởng đó là Nguyễn Ái Quốc thật, người mà ông đã
hâm mộ qua một số bài viết với bút danh Nguyễn Ái Quốc. Tạm coi đây là
Nguyễn Ái Quốc do Nguyễn Tất Thành – Lý Thụy mạo nhận.
Sau ngày bị Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong tẩy chay không
cho Tống Vân Sơ tham dự Đại hội lần thứ I của Đảng Cộng sản Đông Dương
tổ chúc tại Ma Cao (1935), Tống Vân Sơ lại sang Nga lảng vãng quanh hội
trường Đại hội lần thứ VII của Quốc tế cộng sản họp tại mạc Tư Khoa
(25/7-25/8/1935) và bị Staline bắt đày ra Xibiari.
Năm 1939 có một hiện tượng trùng lặp trong tư liệu chữ
viết là Hồ Quang (một bí danh của Hồ Chí Minh) và Hồ Học Lãm
(1884-1943), người Nghệ làm lính rồi làm quan của Tưởng Giới Thạch cùng
về Hoa Nam.
Hồ Quang đội lốt Nguyễn Ái Quốc nhập Pắc Bó trở thành Hồ Chí Minh.
Như vậy là có ba dạng Nguyễn Ái Quốc.
1. Nguyễn Ái Quốc đại diện tập thể (1919-1925)
2. Nguyễn Ái Quốc mạo nhận (1925-1931) 3. Nguyễn Ái Quốc đội lốt (1931-1969)
Từ đó tôi nghĩ rằng: Hồ Chí Minh – Nguyễn Ái Quốc –
Nguyễn Sinh Cung ba không phải là một. Có lẽ Nguyễn Tất Thành bị kết
thúc đời hoạt động cách mạng của mình ngay sau phong trào “Xô viết Nghệ
Tĩnh” (1930-1931) bị khủng bố khi mà tiếng tăm Nguyễn Ái Quốc cùng với
đảng Cộng sản Đông Dương đã gây nên dấu ấn mới mẻ có khả năng thay các
thế hệ đi trước. Người tinh khôn đón được rằng Việt Nam không còn Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh thì Nguyễn Ái Quốc thế nào cũng nắm đảng Cộng
sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương thế tất sẽ leo lên cái giàn
chống Pháp mà người Việt đã tạo dựng trên đất Việt như một thứ trước bạ
kể từ năm 1858 tại Đà Nẵng. Thay thế Nguyễn Ái Quốc của họ vào vị thế
Nguyễn Ái Quốc của Nguyễn Tất Thành là có trong tay cái giàn Việt trọn
vẹn. Năm 1931, chậm lắm là năm 1932 Tống Vân Sơ thay thế Nguyễn Ái Quốc
từ toan tính đó. Bởi tại thời điểm này, tên tuổi Nguyễn Ái Quốc đã gieo
được vào dư luận Việt Nam mà mặt thật của ông ta thì không mấy ai nhận
rõ. Có chăng, một vài người Việt từ trong nước lén lút sang Quảng Châu
thì chân ướt chân ráo giữa buổi nhập nhèm tranh tối, tranh sáng sau các
sự kiện Phạm Hồng Thái giết hụt toàn quyền Đông Dương và Phan Bội Châu
bị bắt, khó mà nhìn được mặt nhau. Tống Vân Sơ, Vương, Lý Thụy, Trần,
Trần Lực, Hồ Quang, T. Lan. T. L … chưa ai lắm tên như thế cũng chính là
một kiểu tung hỏa mù làm quan trọng hóa nhân vật Nguyễn Ái Quốc giả cho
mau thành thật nhanh chóng xóa mọi bở ngỡ hoài nghi. Tống Vân Sơ nghiễm
nhiên thay thế Nguyễn Ái Quốc để trở thành Hồ Chí Minh, “cha già” dân
tộc không gây nên bất cứ trục trặc nào.
Lớp thanh niên yêu nước Việt Nam đang tôn thờ Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh nhưng cả hai thần tượng trên thì một đã bị bắt, một
đã tạ thế. Tống Vân Sơ mà mọi người tin là Nguyễn Ái Quốc như là hiện
thân của hai đấng cứu nước trên trở thành mục tiêu tập hợp.
Thế là những người cộng sản Việt mang trọn cái giàn
chống ngoại xâm cứu nước có sẵn giao cho Tống Vân Sơ. Người Tàu qua Tống
Vân Sơ – Hồ Chí Minh nắm gáy những người cộng sản Việt. Người cộng sản
Việt đã có sẵn trong tay cái giàn cứu nước đẩy toàn dân lao vào lò lửa
chiến tranh, làm lính đánh thuê cho Tàu. Tàu đứng ngoài cổ vũ, bố thí
súng đạn và lương khô. Chiến công càng lớn. Con em chết trận càng nhiều.
Sinh lực Việt mỗi ngày mỗi kiệt quệ trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn
càng oanh liệt Tàu càng hài lòng khích lệ. Chu Ân Lai ép Phạm Văn Đồng
ký Hiệp định đình chiến Geneve (21/7/19540) chia đôi đất nước, rồi lại
xui Việt cộng thẩy hết thanh niên ưu tú vào miền Nam gây chiến để miền
Bắc, Tàu canh giữ cho.
Không có Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thì Hồ Chí Minh qua Chu
Văn Tấn, khu Tự trị Việt Bắc và khu Tự trị Tây Bắc “thắm thiết tình Việt
Trung” với khu Tự trị Choang, Quảng Tây không mấy trở ngại.
Quảng Châu 86 năm trước là sân chung của nhân loại.
Không dành riêng cho cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, có ta là có địch. Tứ
xứ chẳng ai nhận ra ai trong trò chơi mèo chuột thuở đó. Thay người dễ
như thay áo. Vì thế không đơn giản như các vị giáo sư vẽ nên chân dung
một người xa lạ từ đâu nhảy tới là đứng ra thành lập ngay tổ chức cách
mạng chống Pháp ngang nhiên như mua bán giữa chợ trời.
Nhìn ba tấm ảnh tư liệu Nguyễn Ái Quốc, Tống Vân Sơ, Hồ
Chí Minh xin mọi người chú ý vành tai phải của Nguyễn Ái Quốc khác hẳn
vành tai phải của Tồng Vân Sơ, Hồ Chí Minh. Ấy là lẽ tạo hóa không để
bọn bất lương bịt hết mắt thiên hạ rồi muốn làm gì thì làm. Thâm Nho mấy
vẫn có sơ suất. Ấy là lẽ đời.
Điều đáng sợ là người biết cố tình không biết.
Năm 1969 Hồ Chí Minh chết nếu đúng tuổi là 77 hoặc như
khai gian là 79. Nhưng nhìn thẳng vào dung nhan ngoài đời của ông ta lúc
đó, tôi nghĩ phải trên 80 – 85. Khai thêm tuổi là sợ mình già trước
tuổi chăng? Mặt khác tôi còn nghĩ Hồ Chí Minh không phải là Lý Thụy nên
né tránh những ai đã từng có mặt ở Quảng Châu trước năm 1930. Nhiều
người già ở quê tôi nghi ông ta là Hồ Học Lãm, hậu duệ của Thái thú Hồ
Hưng Dật được Tầu nhồi nặn phục hưng tiếp tục sứ mệnh bành trướng đại
Hán. 5 tháng vào Pắc Bó (1941) nắm được gáy Việt Nam, thì về Tàu ngay
năm đó. Hai năm sau Hồ Học Lãm “chết” (1943) mãi đến cuối năm 1944 Hồ
Chí Minh trở lại Pắc Bó dấn thân vào sự nghiệp cao cả: Lái con tuyền
cách mạng Việt Nam lao vào chiến tranh “cứu nước” cho Tàu. Nếu Hồ Chí
Minh là Nguyễn Ái Quốc thật thì không đời nào Tưởng Giới thạch lại cho
diễu bên đó những ba năm.
“Ngục trung nhật ký” có lẽ cũng giống như báo Thanh
Niên và sách Đường Kách Mệnh… rất đáng nghi là tư liệu người ta chuẩn bị
gây niềm tin, uy tín cho Hồ Chí Minh để ông ta củng cố vị thế “cha già
dân tộc” của mình!
Xin mọi người một lần nữa hãy nhìn vào thế thái nhân
tình nước ta hiện thời, nhìn vào sự mất mát của Dân tộc ta kể từ ngày có
Hồ Chí Minh, rồi nhìn ra chung quanh xem các nước láng diềng trước và
sau năm 1945. trước và sau năm 1975 thì mới nhận ra “công lao vĩ đại của
Bác”
Điều cần thiết lúc này là trả lại vị thế đảng nằm trong
lòng Dân tộc chứ không phải Dân tộc nằm trong lòng đảng để mọi người
Việt Nam gạt bỏ định kiến trong hay ngoài, đảng này hay đảng nọ, cùng
nhìn rõ mưu ma chước quỷ của Tàu, tỉnh táo chung sức, chung lòng đặt lợi
ích Dân tộc, Tổ quốc lên trên hết thì may ra còn có cơ cứu nước.
Thử nhìn lại phía sau lời hô hào
Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh bổng dưng xuất hiện trong hang Cốc Lếu, bản
Pắc Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, sát biên giới Việt Trung mà
trước đó dường như chưa ai biết gì về người mang cái tên lạ hoắc này.
Nếu ông ta đích thực là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái
Quốc “sau ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước trở về” như người ta
tâng bốc, thì tại sao lại không do những người của Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí hội hoặc cơ sở của tổ chức đó dẫn về mà lại vòng lên
Vân Nam để nhờ một người Quảng Trị tên là Trịnh Đông Hải, làm thợ sửa
chữa xe ở dọc đường Mông Tự – Xì Xuyên đưa vào hang Cốc Lếu? Tại sao lại
không do những người cộng sản đã từng là “đồng chí” cùng có mặt ở Quảng
Châu, Ma Cao, Hương Cảng, Mạc Tư Khoa, nghĩa là những người ít nhất một
lần gặp Lý Thụy, đón mà lại là Đặng Xuân Khu, Hạ Bá Cang? Hồ Chí Minh
là gì ở thời điểm trước ngày 28 tháng 01 năm 1941 và quan hệ với những
ai thuộc đảng cộng sản Đông Dương để được toàn quyền triệu tập và chủ
trì hội nghị Pắc Bó, tháng 5 năm 1941.Nguyên tắc đảng ở đâu! Chỉ thế
thôi. Nếu không vì đạo diễn, không vì áp lực, không vì a dua thì khó có
thể ra đời một hội nghị trung ương chẳng có ai trước đó đã chính thức
hoặc được bàn giao thừa kế là trung ương.
Không nói chuyện thời xa xưa mà kể từ khi có đảng cộng
sản trên đất Việt Nam, việc giữ bí mật của một hội kín, nhất là để chống
Pháp đã trở thành lẽ sống còn. Phan Bội Châu sang Nhật, Pháp theo sang
gây sự. Phan Bội Châu về Trung Quốc Pháp bỏ tiền, rải người lập mưu bắt.
Ngô Gia Tự, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ … thận
trọng, kín đáo hết sức vẫn sa lưới. Nhiều mẻ lưới xét cho thấu là có nội
gián. Điều đó dạy cho mọi người hoạt động chống Pháp luôn luôn đề
phòng. Và chính điều đó cũng làm cho mọi người Việt Nam khi bình tâm rồi
mới nghĩ ra rằng hoạt động bí mật chống Pháp không thể dễ dải, đơn giản
như vậy! Một người tự cho mình sáng lập, huấn luyện Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí hội đồng thời lựa chọn những thành viên xuất sắc gửi
sang Nga đào tạo… mà nhóm năm Thanh niên Việt Nam thuộc tổ chức đó đang
học tại trường Đại học Phương Đông Mạc Tư khoa (1929) lại không biết,
không muốn tiếp “vị huấn luyện” mình (?). Khi miễn cưỡng tiếp thì chỉ
gặp xã giao ngoài cửa trường, dứt khoát không cho vào Ký túc xá và không
tiếp lần thứ hai. Vì sao vậy? Một người tự cho mình là sáng lập đảng
Cộng sản Đông Dương, là ủy viên Đông Phương bộ của Quốc tế Cộng sản, mà
Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập tẩy chay không cho tham dự Đại hội đảng lần
thứ I họp tại Ma Cao năm 1935. Có nghĩa là không được bầu làm đại biểu
cộng sản Việt Nam tham dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản
(1935). Một người tự cho mình là đại diện của Quốc tế Cộng sản, tại sao
lại bị Stalin bắt giam rồi đày ra Xibiari?
Những điều như thế đủ nói rằng Lý Thụy – Tống Vân Sơ
chẳng có vai vế gì ở tổ chức quốc tế này. Lảng vảng, dòm ngó quanh những
địa chỉ mà mật thám Pháp thuở đó quan tâm gợi lên cho người ta nhận
thấy hành vi của một thám tử quốc tế hơn là một nhà hoạt động chính trị.
Một người như thế lấy tư cách gì để đứng ra triệu tập,
rồi chủ trì hội nghị Pắc Bó tháng 5 năm 1941 chỉ có dăm bảy người tham
dự. Kể cũng lạ và cũng đáng nghi. Tại sao khi Trường Chinh, Hoàng Quốc
Việt vượt qua biên giới Việt Trung sang Tàu để vòng về Pắc Bó tổ chức
hội nghị đó, thì Xứ ủy Bắc Kỳ lại triệu tập Hội nghị bất thường mở rộng
tại Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, phê phán tính vô nguyên tắc và tẩy chay
hội nghị Pắc Bó? Tại sao một người trung kiên như Chu Huệ (bạn Trương
Văn Lĩnh) vượt ngục Đắc Min để ra tù hoạt động cách mạng thì cải cách
ruộng đất lại bị vu rồi xử bắn mà một người như Bùi San dự hội nghị Pắc
Bó, trên đường về bị Pháp bắt cung khai đầy đủ với Pháp lại vẫn được
trọng dụng?
Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương do Hội
nghị lần thứ 6 của ban Thường vụ Trung ương đảng Cộng sản Đông Dương
chính thức tuyên bố thành lập tháng 11 năm 1939, tại Bà Điểm là sản phẩm
tập thể, Hồ Chí Minh lấy tư cách gì xóa bỏ để thay Mặt trận Việt Nam
Độc lập Đồng minh do Hồ Học Lãm thành lập tại Nam Kinh (Trung quốc)
trước đó 5 năm (1936).
Tình hình nước ta ở thời điểm 1939 – 1945 mục tiêu cấp
bách là “phản đế” hay “đồng minh”? “Đồng minh” với ai? Tàu Tưởng hay Tàu
cộng?
Phần nhiều những người tham gia Hội nghị lần thứ 6 của
Ban Thường vụ Trung ương đảng Cộng sản bị Pháp bắt, một số bị xử bắn
hoặc bị đày ra Côn Đảo chịu án cấm cố, có liên quan gì với sự xuất hiện
đột ngột, bất ngờ của nhóm Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hồ Chí Minh,
tại Pắc Bó tháng 5 năm 1941. Ai đứng đàng sau, manh mối, đạo diễn hội
nghị này?
Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt là những học sinh bỏ học
tham gia biểu tình đòi thả Phan Bội Chấu (1925), rồi tham gia hoạt động
chống Pháp ở Bắc Kỳ, bị Pháp bắt giam tại nhà tù Sơn La, trước đó chưa
hề biết Quảng Châu, có nghĩa là chưa một lần giao tiếp với Hồ Chí Minh ở
bất cứ đâu. Vậy tại sao lại là những người được Hồ Chí Minh tin cậy và
tin cậy Hồ Chí Minh. Chỉ thế thôi, hàng ngũ những người cộng sản Việt
Nam tức khắc bị phân liệt. Trước hết là Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt
với xứ ủy Bắc Kỳ. Kế đến là Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt với những
người cọng sản Nam Kỳ, và mở rộng dần ra giữa những người cọng sản từng
bị giam cầm ở nhà tù Sơn La với những người cộng sản bị Pháp bắt giam ở
các nhà tù khác như Hỏa Lò, Buôn Ma Thuột, Côn Đảo.
Hội nghị tháng 5 năm 1941 được gán là hội nghị lần thứ 8
của ban Thường vụ trung ương có xứng đáng đại diện toàn đảng cộng sản
Đông Dương không? Tại sao từ đó gây nên nạn phân liệt? Trường hợp điển
hình cụ thể là Võ Xán, một người yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng
sản kiên cường, quê ở huyện Bình Khê, bị Pháp bắt đày lên nhà tù Sơn La,
ra tù đã tổ chức cướp chính quyền ở Bình Định lại bị nhóm cộng sản nhà
tù Buôn Ma Thuột đứng đầu là Nguyễn Văn, Ngô Đức Mậu giết tại Bống Sơn
vì cho rằng ông ta là Việt Minh giả của Trường Chinh (cùng tù Sơn La).
Võ Xán uất quá lao đầu vào bụi tre, sau khi chết đầu bị kẹp chắt, không
lôi xác ra được!
Một điều tưởng cũng nên nhắc lại là tại sao hội nghị
Đình Bảng cuối năm 1940 do Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt chủ trì đã có
lúc gọi là hội nghị lần thứ 7 nhưng về sau lại không được thừa nhận. Như
vậy là mấy người trên chưa đủ tư cách thay thế Ban Thường vụ của Hội
nghị lần thứ 6 (11/1939) thì cũng có nghĩa là chưa đủ tư cách làm nên
hội nghị lần thứ 8 tại hang Cốc Lếu, bản Pắc Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng, tháng 5 năm 1941.
Pháp đại bại. Nhật thất thế. Nội các Trần Trọng Kim
được thành lập sẽ là bước chuyển giao quyền lực ôn hòa vừa giành độc lập
dân tộc vừa tránh đổ máu do một cuộc nội chiến hoặc ngoại xâm gây nên.
Nếu Hồ Chí Minh, Trường Chinh thực lòng vì quyền lợi và sinh mệnh tối
cao của dân tộc thì đã hợp tác với chính phủ đó. Tàu sợ một chính phủ
thân Nhật. Hồ Chí Minh, Trường Chinh cũng sợ một chính phủ thân Nhật. Vì
sao Hồ Chí Minh vu cáo Chính phủ Trần Trọng Kim là bù nhìn thân Nhật,
lại ra sức lôi kéo các thành viên của Nội các đó làm trang sức cho chính
của phủ mình? Từ đây mọi người Việt Nam nên nhìn cho rõ khẩu hiệu “Đoàn
kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết” của Hồ Chí Minh với việc làm cụ thể của
ông ta! Nếu là một người yêu nước chân chính biết đặt lợi ích tối cao
của dân tộc lên trên hết thì đã đoàn kết với chính phủ đang ra sức thực
thi quyền độc lập thực sự cho đất nước mình!
Mong mọi người hãy nhìn vào các thành viên Nội các Trần Trọng Kim đã được nhà vua Bảo Đại phê chuẩn, có nghĩa là danh chính ngôn thuận trước công luận trong và ngoài nước gồm:
1. Trần Trọng Kim, Học giả, Thủ tướng
2. Trần Văn Chương, Luật sư, Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. 3. Trần Đình Nam, Y sĩ, Bộ trưởng Nội vụ. 4. Trịnh Đình Thảo, Luật sư, Bộ trưởng Tư pháp. |
HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ
http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html
Saturday, 16 June 2012
87. NGUYỆN GIA ĐỊNH *THẾ VIỆT TÂM TÀU
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment