HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Friday, 22 June 2012

131 * TÂM VIỆT *PHÊ PHÁN 2 * TÊN * NGỤC TRUNG NHẬT KÝ

   VI. Bác Dối Trá Với Sinh Viên

Giết cô Xuân vào đầu năm 1957 , thì chỉ mấy tháng sau , khoảng cuối năm 1957 , Hồ Chí Minh vào thăm trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội . Trong buổi nói chuyện thân mật với sinh viên , Bác ra cái điều thành khẩn : « Bác có hai tật xấu , các cháu không nên bắt chước . Một là hút thuốc . Hai là không lấy vợ » . Câu chuyện Bác Hồ vào thăm sinh viên và khai rằng mình không lấy vợ là do Hoàng Quốc Kỳ thuật lại trong quyển Ma Đầu Hồ Chí Minh ( trang 17 ) . Cũng như trong cuộc phỏng vấn của tác giả Bernard Falls vào năm 1967 về câu hỏi « vợ con » , Bác đã trả lời rằng tất cả chỉ là tin đồn sai sự thực .
Bác Còn Tệ Hơn Đạo Quân Xâm Lược Nhật Bản
Chuyện thực giả quá rõ ràng , nhưng những sự việc sau đây là do tưởng tượng của người viết , cũng xin mời quý bạn đọc chơi cho biết . Thời gian thấm thoát thoi đưa , các cháu của Bác Hồ tham dự buổi nói chuyện hôm ấy vào cuối năm 1957 , đến bây giờ là đầu thiên niên kỷ thứ ba , 50 năm đã trôi qua , chúng đã thành những bậc lão niên thất thập cổ lai hi rồi . Hẳn là có một số cháu đã sinh Bắc tử Nam hoặc chết rục trong ngục tù cộng sản vì liên can tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm . Hẳn là có một số cháu ngoan vẫn giữ vững niềm tin Bác Hồ của mình là Cha Già Dân Tộc suốt đời không lấy vợ . Chắc chắn cũng có một số cháu không tin như vậy và lý luận rằng Bác không lấy vợ làm sao Bác có con , vậy chớ Nguyễn Tất Trung là con của ai , nếu cô Xuân không phải là vợ của Bác thì là gì , chẳng lẽ Bác xem cô Xuân là an uỷ phụ như đạo quân xâm lược Nhật Bản trong thời Đệ Nhị Thế Chiến xử dụng phụ nữ các nước bị chiếm đóng làm comfort women để giải quyết sinh lý cho binh sĩ lúc xa nhà . Tại sao Bác lại xử tử cô Xuân , so sánh với đạo quân xâm lược Nhật Bản , Bác còn tệ hơn họ vì họ không tàn sát những comfort women của họ !
Chuyện Hồ Chí Minh Và William J Duiker
Quý độc giả thân mến , quý bạn vừa đọc « Chuyện Hai Cha Con Nguyễn Tất Thành Và Nguyễn Tất Trung » , tiếp theo là « Chuyện Hai Thầy Trò Hồ Chí Minh Và Trần Quốc Hoàn » , tại sao bây giờ lại có « Chuyện Hồ Chí Minh Và William J Duiker » , người viết xin trả lời ngay . Chẳng qua là vì tác giả Duiker đã viết về Hồ Chí Minh , và đã xem Hồ Chí Minh như một thân nhân trong gia đình của mình ! Quyển sách Duiker viết là quyển « Ho Chi Minh , A Life » . Quyển sách thật đồ sộ , dài 700 trang , mất 20 năm mới được viết xong . Tác giả Duiker hưởng được phương tiện dồi dào để đi khắp nơi trên thế giới thu thập tài liệu , thảo luận với những tác giả trước đó đã viết về Hồ Chí Minh , và phỏng vấn rất nhiền nhân vật quan trọng trong chính phủ . Kết quả là quyển Ho Chi Minh , A Life được đánh giá là quyển sách đầy đủ nhất và có uy tín nhất từ trước đến nay trong loại thư mục về Hồ Chí Minh .

Hoàn thành xong đại tác phẩm đó , trong Lời Phi Lộ tác giả Duiker cảm ơn hai người con gái của ông , Laura và Claire , đã chịu đựng hàng giờ ( và hàng năm ) để nghe ông nói như giảng kinh về chuyện Việt Nam . Tác giả Duiker cũng mãi mãi thiết tha tri ân vợ là Yvonne vì nàng đã đọc bản thảo và đã tỏ ra kiên nhẫn chịu đựng Hồ Chí Minh trong nhiều dịp như là một thân nhân trong gia đình . Thật đẹp vô cùng , tình cảm tác giả Duiker dành cho vợ con ông và nhân vật Hồ Chí Minh qua Lời Phi Lộ đó ! Một cách tế nhị , Duiker chứng tỏ ông là người chồng thương vợ và người cha thương con .

Nhưng thật hoàn toàn trái ngược với tác giả Duiker , Hồ Chí Minh lại là người chồng bất nghĩađã giết vợ ! Tuy Hồ Chí Minh không hề xem cô Xuân là vợ , nhưng theo Tình Tự Dân Tộc thì « Một ngày cũng nghĩa vợ chồng » , ông bà ta đã theo nếp sống đẹp như vậy ! Ông cũng là người cha bất nhân đã hại con mình phải mồ côi mẹ khi đứa bé còn chưa biết bò ! Hồ Chí Minh bất nhân bất nghĩa như vậy thì làm sao xứng đáng là người thân của gia đình Duiker ! Nếu áp dụng đúng luật pháp của Hoa Kỳ , thì Hồ Chí Minh phải bị truất phế khỏi chức vị lãnh tụ mà còn phải ngồi tù đền tội sát nhân , tác giả Duiker lấy đâu ra đề tài để viết . Người viết không hề muốn làm phiền lòng vợ con tác giả Duiker nhưng vì quyển sách Ho Chi Minh , A Life đã gây thiệt hại cho Dân Tộc Việt Nam quá nhiều !

Tác giả đã đứng về phe phái Hồ Chí Minh trách cứ Tổng Thống Truman đã không chịu cứu xét lá thư của Hồ Chí Minh xin ủng hộ , vì thế cho nên chiến tranh mới xảy ra thảm khốc . Vì tác giả Duiker đã viết cả 10 quyển sách về Việt Nam , ông không phải là một sử gia bậc thường , cho nên Dân Tộc Việt Nam chúng ta có quyền trách cứ ông , sử gia Duiker , tại sao ông lại bỏ qua không có một lời nào nói đến Thông Điệp của Vua Bảo Đại ngày 20/08/1945 gởi đến Tổng Thống Truman , Quốc vương Anh George Đệ Lục , Thống chế Tưởng Giái Thạch , và cả Tướng Charles de Gaulle để xin công nhận nước Việt Nam độc lập ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh ! Thông điệp của vì vua đã hy sinh ngai vàng của mình cho Nền Dân Chủ của Đất Nước không đáng quý trọng hay sao ?
Chuyện Duiker Và Trần Khải Thanh Thuỷ
Chương viết về Hồ Chí Minh , Kẻ Mang Tên Giả nầy sẽ không trọn vẹn nếu không đối chiếu tác giả Duiker với một nhà văn nữ ở Hà Nội . Đó là Trần Khải Thanh Thuỷ , người từng được giải thưởng quốc tế Hellman Hemmet nhờ viết bài binh vực và đòi nhân quyền cho dân oan , nhưng lại bị Đảng khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và bị trù dập thậm tệ . Duiker viết quyển Ho Chi Minh , A Life với phương tiện của một đại gia triệu phú . Chỉ một việc ông đã bay đi khắp nơi trên thế giới , kể cả qua Liên Xô , để thu thập tài liệu cũng đủ làm bàng hoàng các cây viết sử ở những nước nghèo . Nhà khảo cứu Minh Võ , trong quyển Hồ Chí Minh , Nhận Định Tổng Hợp đã viết như sau ( trang 53 ) :
-« Để hoàn thành tác phẩm , Duiker đã dành 20 năm cho việc đọc và gặp gỡ các tác giả đi trước , những người cầm bút ở Mỹ , Úc , Âu Châu , Việt Nam , TC , Nhật Bản … Ông nêu hàng loạt tên tuổi , trong đó phần lớn là viên chức các cơ quan tại Hà Nội như Viện Mác Lênin , Viện Sử Học , Đại Học Hà Nội và những nhân vật Cộng Sản Việt Nam mà ông gọi là các học giả và nhà nghiên cứu thường quan tâm đến Hồ Chí Minh hay tới cuộc cách mạng Việt Nam . Một số người còn được ông nêu đích danh như Nguyễn Huy Hoàn ở Viện Bảo Tàng Hồ Chí Minh , Trần Thanh , bốn nhà sử học Phùng Hữu Thu , Lê Mậu Hân , Phạm Xanh , Phạm Công Tùng cùng các nhân vật Hà Huy Giáp , Đặng Xuân Kỳ , Đỗ Quang Hưng , Ngô Phương Ba , Văn Tạo , Trần Hữu Đính , kể cả Lưu Doãn Quỳnh thuộc Viện Liên Lạc Quốc Tế của Cộng Sản Việt Nam … » .

Với phương tiện dồi dào như thế đó , Duiker lại chọn được đề tài ăn khách là viết về Hồ Chí Minh , cho nên quyển Ho Chi Minh , A Life hẳn là quyển sách ăn khách nhất ( best seller ) trong mục loại đó . Trong nền kinh tế thị trường ở Hoa Kỳ là nước giàu nhất thế giới , quyển Ho Chi Minh , A Life hẳn đã gặt hái thành công rực rỡ . Những hàng chữ cuối cùng của quyển sách thành công rực rỡ đó , tác giả Duiker dành để viết những lời trang trọng cho Hồ Chí Minh như sau ( Quyển Ho Chi Minh - A Life , ấn bản Úc Châu , trang 577 ) :
- « Di sản của Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc dù được người đời phán xét bằng bất cứ lời lẽ nào , ông cũng đã đoạt được ngôi vị trong đền thờ anh hùng cách mạng có quá trình tranh đấu để cho những người cùng khổ khắp nơi trên thế giới được cất lên tiếng nói của mình » .

Quyển Ho Chi Minh , A Life được ấn hành ở Hoa Kỳ và Úc Châu năm 2000 , thì 25 năm trước đó , vào ngày 02/09/1975 , Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khánh thành lăng của chủ tịch họ Hồ ở công trường Ba Đình , Hà Nội . Xác ướp Hồ Chí Minh được đặt trong quan tài bằng thuỷ tinh trong suốt , trong phòng điều hoà không khí quanh năm để cho du khách khắp nơi đến chiêm ngưỡng . Rồi từ đó về sau , mỗi năm lăng Hồ Chí Minh gây tốn hao cho công quỷ không biết bao nhiêu triệu đô la ( 100 tỷ đồng Việt Nam theo kỹ sư PN Đỗ Nam Hải trong tác phẩm Hãy Trưng Cầu Dân Ý , trang 190 ) , trong lúc vô số hộ gia đình cần giúp đỡ để xoá đói giảm nghèo .

Trong một nước nghèo khổ cùng cực như Việt Nam hiện nay , chi tiêu một ngân khoản khổng lồ để điều hành và bảo trì xác ướp Hồ Chí Minh là một nghịch cảnh đau lòng . Xác ướp Hồ Chí Minh lại được trang điểm bằng chiếc quần kaki có một miếng vá , chứng tích vô cùng thô bỉ của đạo đức giả , chứng tích nói lên tính gian xảo lừa bịp của Hồ Chí Minh suốt cả cuộc đời và của cả cái đảng do ông thành lập ! Tới đây , người viết xin mượn nguyên văn lời đối đáp của Trần Văn Thuỷ với Nguyễn Thị Hoàng Bắc trong quyển Nếu Đi Hết Biển ( trang 87 ) . Khi Hoàng Bắc nói đến số tiền người Việt ở nước ngoài gởi về hàng tỷ Mỹ Kim thì cán bộ Trần Văn Thuỷ gạt ngang và nói : « Tôi nghĩ chúng ta không nên xen chuyện tiền bạc , trần tục vào câu chuyện nghiêm chỉnh như thế này » . Chúng ta rất đồng ý với Trần Văn Thuỷ không nên xen vấn đề tiền bạc trần tục vào việc nghiêm chỉnh như việc thờ kính các bậc anh hùng dân tộc . Điều nghiêm chỉnh là chúng ta hãy xem lại lời xưng tụng của tác giả Duiker » quá trình tranh đấu của Hồ Chí Minh để cho những người cùng khổ khắp nơi trên thế giới được cất lên tiếng nói của mình » có nghiệm đúng hay không ?

Không đúng ! Hoàn toàn sai ! Lời xưng tụng của Duiker hoàn toàn sai ! Phải bỏ ngay vào Sọt Rác Lịch Sử ! Hồ Chí Minh không hề tranh đấu cho Dân Chủ và Nhân Quyền ! Hồ Chí Minh đã đi theo Stalin , tức là đã đi theo « Cuộc Cách Mạng Đã Bị Phản Bội » ! Hồ Chí Minh chỉ tranh đấu để mang lá cờ đỏ của Lenin đi khắp nơi và để xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam tàn bạo , độc tài , tham lam , và bần tiện nhất trong lịch sử loài người !

Ngày 27/10/2006 , ngay trong thành phố Hà Nội , trái tim của nền Văn Hoá Việt Tộc , thủ đô của nước CHXHCN Việt Nam , không xa Lăng Bác Hồ , căn hộ nghèo của nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thuỷ ở phường Đống Đa đã bị Chủ Tịch Phường , Bí Thư Đảng Uỷ , cùng Tổ Trưởng Dân Phố huy động một đám đông 100 người đến đập phá nhà cửa tan hoang một cách dã man rừng rú và còn hành hung đánh đập hai vợ chồng . Kính cửa sổ bị đập bể nát trong lúc Mùa Đông đang đến . Giường ngủ của họ bị 10 người mang cả giày leo lên dậm sập . Hai cô con gái tuổi học trò của họ ngơ ngác hoảng loạn !

Điều nghiêm chỉnh ở đây là chính nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thuỷ cũng là người thấp cổ bé miệng trước quyền thế cực kỳ hung bạo của Đảng . Nhưng bà lại can đảm đứng lên , cất cao tiếng nói của mình để giúp những người dân oan khiếu kiện đòi lại tài sản , đất đai đã bị những « Đảng Uỷ Kách Mệnh » của Hồ Chí Minh cướp giựt . Những bài phóng sự của bà đã xuất hiện thường xuyên trên những trang báo và diễn đàn điện tử ở Hải Ngoại để tạo thêm sự hỗ trợ cho những người dân thấp cổ bé miệng hơn bà . Chính vì thế mà bà bị « Kách Mệnh » trừng phạt ! Đảng cho « Côn Đồ Kách Mệnh » đến đánh đập vợ chồng bà chưa đủ , đập phá tan hoang căn hộ nghèo của bà chưa đủ , nên sau đó Đảng còn bắt bà vào tù theo Luật Rừng của Đảng !

Lời tác giả Duiker tôn vinh Hồ Chí Minh thật không nghiêm chỉnh tý nào ! Ví như một vỡ hài kịch thô bỉ hạ cấp được diễn trong một nhà hát rộng lớn nguy nga mà không có khán giả , hàng ghế đầu chi loe que vài quan chức đỏ có giấy mời nên vỗ tay khen rối rít . Người viết chân thành không muốn máng từ « văn nô » vào văn nghiệp của tác giả Duiker , nhưng ông thật không thận trọng khi xử dụng những văn liệu từ các cây viết của Bắc Bộ Phủ . Tác giả Duiker có thấy Linh mục Lê Văn L‎‎‎ bị bịt miệng ngay giữa toא בn hay khפng ? Lời Duiker tôn vinh Hồ Chí Minh đó phải vất ngay vào Sọt Rác Lịch Sử thôi ! Đảng lại còn muốn chuyển ngữ cả quyển » Ho Chi Minh , A Life » ra tiếng Việt để vất luôn vào Sọt Rác Lịch Sử hay sao ! ?
Đi Tìm Út Huệ Thứ Hai Cho « Bác »
Trở lại chuyện cô Xuân , có câu hỏi tại sao Bác lại ra lịnh thủ tiêu cô Xuân dễ dàng như vậy ? Tại sao Bác không có lòng thương hoa tiếc nguyệt như lối diễn tả của các bậc thi bá thi hào thuở xưa ? Có phải vì Bác đã có sẵn những cô Hạ , cô Thu , cô Đông , cô Thanh Minh , cô Đoan Ngọ hay chăng ? ( xin mượn chút văn phong của nữ sĩ Dương Thu Hương ) . Câu hỏi đặt chơi cho vui vậy thôi , không ngờ lại đúng ! Trong cung đình Hang Pác Bó của Bác , có biết bao nhiêu chuyện bí mật còn chờ bật mí . Xin mời quý bạn theo dõi câu chuyện do Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh tâm tình với Hoàng Dũng , người phụ tá một thời của ông mà ông rất tin cẩn . Buổi tâm tình đó liên quan đến rất nhiều chuyện bí mật và Hoàng Dũng viết lại thành bài Những Bí Ẩn Về Tân Thủ Tướng Việt Nam ( Báo Việt Luận ở Úc Châu đăng lại ngày 31/10/2006 ) . Người viết chỉ xin trích những phần liên quan đến Hồ Chí Minh . Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh , người Hưng Yên miền Bắc , vào Sài Gòn hoạt động năm 1939 và đã ở miền Nam suốt 50 năm sau đó . Lúc ông giữ chức Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam , ông nhận lịnh của Bộ Chính Trị ( lúc đó do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lãnh đạo ) phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ , đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ Chính Trị . Tại sao phải tìm con gái miền Nam để phục vụ Bác ? Do công sưu tầm của nhà văn Sơn Tùng thì từ thuở còn thanh niên , Bác đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam . Sơn Tùng công bố trong bài viết Đi Tìm Út Huệ . Do vậy Bác có ấn tượng và thiện cảm với những người phụ nữ Nam Bộ . Vào lúc đó thì Võ Văn Kiệt là Uỷ viên Trung Ương Cục được Nguyễn Văn Linh tin dùng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này , nhiệm vụ tìm cho Bác Một Út Huệ Thứ Hai . Theo lời Hoàng Dũng thì vào lúc ông Nguyễn Văn Linh thố lộ những chuyện thâm cung bí sử trong Trung Ương Đảng Cộng Sản thì ông đã về nghỉ , ông trở nên trầm tư và đôi khi sự thất vọng và u uẩn hiện rõ trên nét mặt và trong thái độ của ông . Ông đã vượt qua ngưỡng cửa Cổ lai hy , như vậy không thể cho ông nói thiếu chính xác được và cũng không thể nói ông dèm pha bêu xấu Đảng được .
Nguyễn Thị Minh Khai Là Vợ Của Ai ?
Tác giả Nguyễn Thuyên trong quyển Bộ Mặt Thật Của Hồ Chí Minh ( trang 127 ) đã liệt kê một danh sách dài những người tình hoặc vợ hờ của Bác như sau : « Vợ Tàu , vợ Pháp , vợ Nga , ở đâu Hồ Chí Minh có mặt là có nhân tình ở đó . Ngày mới đặt chân đến Pháp đã viết thơ tình cho cô Bourdon - bị cô này từ chối , rồi cặp bồ với Brière . Qua Nga dan díu với cô Véra Vasiliera , khi qua Tàu thì yêu cô Tuyết Cần , cô Tăng Tuyết Minh . Lúc ở Hong Kong thì sống chung với cô Lý Sâm . Trong lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam ai cũng tưởng Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong ( tức là Lê Huy Doãn ) . Nhưng khi Cộng Sản Liên Xô sụp đổ , nhà báo Sophia Quinn Judge đã tìm thấy trong hồ sơ Quốc Tế Cộng Sản ở Mạc Tư Khoa thì trước đó Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Hồ Chí Minh , sau mới lấy Lê Hồng Phong . Về hang Pắc Bó , Hồ Chí Minh lấy một thôn nữ hầu cận « Bác » tên Phá Thị Nùng , sinh được một con trai . Sau đó Phá Thị Nùng bỗng nhiên biến mất không trở lại thôn bản Cao Bắc Lạng nữa » .

« Năm 1942 , nhiều người Việt tham gia hoạt động chống Pháp tại Liễu Châu , trong số đó có Đỗ Thị Lạc ( chị Thuần ) theo học lớp truyền tin , rồi trở về Việt Nam hoạt động . Hồ Chí Minh cũng dan díu với chị Thuần có một con . Sau đó chị Thuần cũng không còn thấy xuất hiện » .

Chuyện vợ con của Bác Hồ , viết bao nhiêu cũng không hết được , nếu không thêm vào một chuyện : người ta đồn rằng nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Thập là « Bác Gái » . Theo tác giả Lê Minh Khôi , trong Hồ Chí Minh Chính Truyện ( trang 165 ) , thì Nguyễn Thị Thập nguyên là nữ giao liên trên tuyến đường Vũ Nhai - Bắc Sơn , sau được Hồ Chí Minh phong chức Chủ Tịch Hội Phụ Nữ .

Trở lại chuyện các cháu của bác Hồ , trong số các cháu ấy , phân loại ra thì có cháu ngoan và cũng có cháu không ngoan . Chỉ riêng về việc Bác Hồ của chúng có vợ hay không , chúng đã chia làm hai nhóm và luôn luôn bất hoà , tranh luận không ngớt , nhóm nào cũng giữ vững lập trường của nhóm mình . Xin các chính trị gia , tư tưởng gia , những nhà giáo dục , những bậc ưu thời mẩn thế hãy tìm dùm một phương cách cho hai nhóm cháu này được nhất trí và đừng tranh luận nữa . Hãy khoan bàn chuyện Hoà Hợp Hoà Giải Dân Tộc . Có những việc nhỏ nhoi về Hồ Chí Minh cần phải bàn và giải quyết trước cái đã !
Năm Sinh Nào Là « Thứ Thiệt » của Bác ?
Tác giả Bùi Tín đã viết : « Không ai biết năm sinh « thứ thiệt của ông Hồ là năm nào ! » . Hồ Chí Minh khai đủ các năm , tuỳ nơi , tuỳ lúc . Trong sách Trần Dân Tiên , ông khai 1890 . Khi là Yên Sơn , một bí danh khác của ông , ông khai 1891 . Trong đơn xin nhập học Trường Thuộc Địa của Pháp , ông khai 1892 . Với Sở Cảnh Sát Pháp ở Paris , ông khai 1894 . Với sứ quán Nga ở Bá Linh để xin qua Nga học , ông khai 1895 . Chị Ba Sophia của Bùi Tín nghiên cứu tài liệu trong Kho Lưu Trữ của Liên Xô cũng cho biết : « Tài liệu năm 1934 ông khai 1894 , và tài liệu năm 1938 ông ghi là sinh năm 1893 ! » .

Trong bài viết Đừng Hiểu Sai , Viết Lầm Về Hồ Chí Minh , tác giả Nguyễn Tường Bá có lời khuyên phải rất thận trọng về « Bác Hồ » và viết :
- « Tìm hiểu năm nào đúng là việc làm vô bổ và chúng ta chỉ cần ghi nhận khi cần trẻ để du học thì Bác khai trẻ hơn , và khi về nước Bác lại khai già hơn , tất cả là do nhu cầu thực tế và sự khôn vặt của Hồ » .

Thật đúng vậy , nhất cử nhất động của Hồ Chí Minh đều nằm trong » sự tính toán sách lược » ( chữ của Lữ Phương ) . Vì khi về nước để làm Cha Già Dân Tộc , thì Bác phải điều động cho Trần Dân Tiên khai năm sinh là 1890 để cho Bác được 55 tuổi ! Hồ Chí Minh Đúng Là Biểu Tượng Của GIAN XẢO CÓ TÍNH TOÁN THEO SÁCH LƯỢC ! Bây giờ , có cháu nào còn tin được « Bác Hồ » !
Di Chúc Nào Là « Thứ Thiệt » Của Bác
Về năm sinh của « Bác » thì có năm ba năm khác nhau . Về tên giả của « Bác » thì không biết cơ man nào mà kể . Cho đến di chúc của « Bác » cũng nằm trong hào quang tuyên truyền của Đảng . Có Di chúc 1 , mà lại có Di chúc 2 . Thế nên thực hư , chân giả , thiện ác nhoà nhập thành một khối hổn loạn khôn phân ! Dân Tộc không biết tin cái nào ? Ai cũng biết khi Hồ Chí Minh qua đời ngày 02/09/1969 và được phát tang ngày 03/09/1969 , ông để lại Di chúc rằng sẽ đi gặp các ông Tổ Cộng Sản Mác , Lê … Mãi đến cuối thập niên 80 , người ta thấy xuất hiện ở Pháp một Di chúc khác đề ngày 14/08/1969 , nói là do Hồ Chí Minh viết để lại cho đứa con gái lai tại Pháp . Bản chụp Di chúc 2 này do một người Pháp ở Paris gởi cho Luật sư Nguyễn Văn Chức ở Hoa Kỳ , kèm theo bản chụp bút tự của Hồ Chí Minh để chứng tỏ Di chúc là do chính tay Bác viết . Sau đó Luật sư Chức đưa câu chuyện về Di chúc 2 lên internet của Thư Viện Toàn Cầu ngày 10/05/2007 .

Trong Di chúc 2 này , Hồ Chí Minh kể lể :
- « Vừa mới đây , Lê Duẩn có đi với Trần Quốc Hoàn tới gặp tôi , buộc tôi phải viết bản di chúc theo ý họ . Tôi đã viết , mà trong bụng thì tấm tức vô cùng » .

Ông lại có lời hối hận rằng :
- « Cái nhầm tai hại nhất của tôi là đi theo cộng sản Mác Xít mà không biết là chủ nghĩa này dần dần trở thành lạc hậu và phản động , những người đi theo Mác Xít chỉ là giả bộ , để đánh lừa giai cấp nghèo mà cướp lấy chánh quyền cho nước Nga » .

Hồ Chí Minh cũng nói về việc tặng Tổng Thống Ngô Đình Diệm 2 cành đào vào đầu năm 1963 với bức thư đề nghị cụ Ngô cùng ông « thảo luận trong tình anh em , để hai bên cùng lo cho dân 2 miền , trên căn bản thi đua làm cho dân giàu nước mạnh , theo đường lối riêng của từng người » . Ông viết tiếp rằng chuyện vỡ lở ra , cho nên cụ Ngô bị giết ở trong Nam , còn ở ngoài Bắc ông bị kiểm soát rất khắt khe , không có quyền quyết định gì nữa cả . Sau vụ đó ông than rằng :
- « Đáng lẽ ra thì tôi bị giết ngay từ hồi đó rồi , nhưng tên tôi còn bị thế giới biết đến , nên họ còn phải lợi dụng mà để cho tôi sống thêm . Tôi đã già , râu tóc đã bạc mà còn phải sống trong cảnh ngục tù , cứ nghĩ đến điều này là tôi ứa nước mắt » .

Ở phần cuối di chúc , ông không nhắc nhở gì tới đứa con Việt Nguyễn Tất Trung mà chỉ nói :
- « Tôi không có vợ , nhưng cũng có được một đứa con gái lai Pháp . Tôi ước mong con gái tôi khi đọc được tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi không đủ bổn phận làm cha , nhưng phụ tử tình thâm , tôi luôn luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm » .

Người viết xin miễn bàn về Di chúc 2 này . Bây giờ thì thực giả khôn phân vì Đất Nước đã có quá nhiều giả dối !
Đất Nước Quá Nhiều Giả Dối !
Câu chuyện tràng giang đại hải về tên tuổi của Bác , nói tới đâu cũng không đủ . Còn có 4 tên làNghe Lỏm , CB , Trần Lực , Yên Sơn , người viết chưa tìm ra bản văn mà Bác đã ký đề bằng các tên ấy . Nhưng thôi , ngần ấy giả dối gian xảo của Bác cũng tạm đủ để dân tộc biết Bác là thủ phạm đã lường gạt Dân Tộc bằng cách xây dựng Thiên Đàng Xã Hội Chủ Nghĩa Bánh Vẽ , bằng Bản TuyênNgôn Độc Lập giả dối , bằng cuộc Cách Mạng Dân Tộc mị dân , xây dựng một xã hội đầy dối trá gian xảo , mồ liệt sĩ giả , nhà tình thương giả , tiền polymer giả , anh hùng tí hon Lê Văn Tám giả ( tự đốt mình chạy vào kho đạn của Pháp để kho đạn phát nổ ) , chiến sĩ Nguyễn Văn Cừ giả ( lấy thân mình lấp ổ châu mai ) , chiến sĩ Phan Đình Giót giả ( đã bị thương nhưng vẫn lấy vai mình cho đồng đội tựa trung liên mà bắn máy bay địch ) , chiến sĩ Bế Văn Đàn giả ( lấy thân mình chặn bánh xe đại pháo cho khỏi tuột dốc ) , bằng cấp giả , thí sinh vào phòng thi công khai dùng phao , các sư cha quốc doanh tu hành giả dối , chiếm đoạt chùa chiềng để làm kinh tài cho Đảng , tham gia chính trị thì được phong chức dân biểu quốc hội còn các nhà sư đạo hạnh và các vị linh mục chân chính thì bị tố cáo là lo làm chánh trị , bầu cử thì theo kiểu Đảng Cử Dân Bầu , quốc hội dân biểu giả không lo việc dân vì dân biểu biến thành Đảng Biểu và quốc hội biến thành Đảng Hội , cán bộ có quyền có chức thì lo tư túi , nhận công trình xây cất thì lo rút ruột , cán bộ tham nhũng bị bắt thì lo chạy án , cán bộ cai quản lâm trường bảo vệ môi sinh thì biến thành lâm tặc , cán bộ muốn làm ăn trái pháp luật thì phải tìm ô dù , ăn cắp công quỹ thì phải dọn dẹp sạch sẽ để hạ cánh an toàn , người dân đến cửa công để xin giấy tờ thì phải biết vấn đề đầu tiên ...
Người Cha Bất Nhân , Người Chồng Bất Nghĩa
Trong truyền thống Dân Tộc với Luân Thường Đạo Lý và Lễ Nghĩa Liêm Sỉ , chúng ta ngậm ngùi thương tiếc những ngày xa xưa khi chúng ta thấm nhuần nếp đạo Tu Tề Trị Bình và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc . Đạo Làm Người , tức là Nhân Đạo , không phải chỉ là giáo lý riêng của Khổng Giáo mà chính là căn bản đạo đức chung của nhân loại . Ngày hôm nay , trong những quốc gia dân chủ được tự do bầu cử , những chính trị gia khi ra ứng cử , thường trình cho cử tri đoàn biết hình ảnh gia đình êm ấm với cảnh vợ con đề huề hiếu thuận , vì đấy là một lợi điểm dễ chiếm cảm tình của cử tri , vì hình ảnh gia đình êm ấm thuận hoà là hướng tiến hoá của nhân loại , là giấc mơ thơ mộng ngàn đời của loài người .

Trở lại chuyện Hồ Chí Minh với việc giết cô Xuân , cướp đoạt Quyền Sống và Quyền Làm Mẹ của cô cùng với Quyền Được Hưởng Tình Mẫu Tử Thiêng Liêng của con ông , chỉ vì chút hư danh làm Cha Già Dân Tộc , ông đã nhúng tay vào máu và phạm vào tội ác vô cùng kinh tởm để trở thànhNgười Cha Bất Nhân Người Chồng Bất Nghĩa Trong Lịch Sử Việt Nam . Nhân đây xin nhắc lại lời của đức Mạnh Tử :
- « Nếu phải giết một người vô tội để lấy hết thiên hạ thì đó cũng là chuyện không nên làm » .

Nhưng trong con người duy vật vô thần của Hồ Chí Minh chỉ có toàn Mác , Lenin , Stalin , và Mao , chứ nào đâu có Khổng Mạnh cùng Đức Phật và Đức Chúa , cho nên ông đã đạp đổ Tu Tề còn phép Trị Bình của ông thì không phải do Đạo Nghĩa Pháp Trị mà chỉ áp đặt bằng gươm đao súng đạn sát hại hàng triệu nhân mạng . Bộ Máy Nghiền của Đảng phát động bởi vô số công an do Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn đào luyện đã nghiến nát hết tự do , dân chủ , hạnh phúc và cả sanh mạng của người dân . Dân Tộc bị dìm sâu xuống cùng cực trong nô lệ . Đất Nước thành Nhà Tù Khổng Lồ cho đến nổi nếu cột đèn biết đi thì chúng cũng vượt biên . Con Đường Bác Đi , tức con đường Kách Mệnh chất đầy xương máu của Dân Tộc mà Nguyễn Tất Thành đã dẫm đạp lên để đi để trở thành Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh , thì thật quá Bi Đát cho Dân Tộc Việt Nam !
Xây Dựng Lại Đất Nước Để Đón Mùa Xuân Thăng Long Bất Diệt
Nhưng cùng tắc biến , biến tắc thông , Trời Đất xoay vần , hết cơn bỉ cực rồi sẽ đến hồi thới lai . Những cánh quạ đen rồi sẽ bay đi . Bầy én xuân sẽ rủ nhau về . Dân tộc sẽ bừng lên làm lại CuộcCách Mạng Đạo Nghĩa Pháp Trị . Truyền thuyết Một Mẹ Trăm Con , tinh hoa của Dân Tộc , sẽ như cơn mưa thương yêu thuần hoà thấm nhuần Đất Tổ . Như câu sấm ký đã truyền tụng Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về , Nguyễn Tất Thành ra đi khỏi nước với tên Ba , rồi trở thành Nguyễn Ái Quốc , Lý Thuỵ , Trần Dân Tiên , vân vân ... rồi thành Hồ Chí Minh , sau cùng trở lại thành Nguyễn Tất Thành cha đẻ của Nguyễn Tất Trung . Phần sau của câu sấm ký Giặc đến Bồ Đề thì giặc sẽ tan rồi sẽ ứng nghiệm . Khi giặc tan rồi , Dân Tộc sẽ dời Lăng Bác về hang Pắc Bó , nơi có đồi Mác và suối Lê Nin , chỗ ngụ của Bác ngày xưa , để cho Vườn Hoa Ba Đình được thắm tươi và thanh khiết . Hướng về mảnh đất thiêng Nghìn Năm Văn Vật , cái nôi của nền Văn Hoá Việt Tộc , toàn dân sẽ bừng lên nỗi vui mừng đón Mùa Xuân Thăng Long huy hoàng rực rỡ .
1a / 1b / 2a / 2b / 3a / 3b / 4a / 4b / 5a / 5b
Nhóm Tâm Việt Sydney
V



VII.Cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh

Trong Cuộc Chiến Tranh của Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đánh Dân Tộc , cuộc chiến thường được gọi là cuộc tranh chấp Quốc Cộng ... thì phe Quốc Gia Dân Tộc chịu thiệt thòi vô cùng phải ở thế hạ phong dẫn đến thất bại ngày 30/04/1975 . Một trong những nguyên nhân là vì trong hàng ngủ Quốc Gia Dân Tộc có quá nhiều kẻ ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản , những kẻ đâm sau lưng chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà , những kẻ nằm vùng theo những sách lược địch vận của Cộng Sản như : trí vận , tôn giáo vận , văn hoá vận , sinh viên vận , học sinh vận , phụ nữ vận , binh vận … nhiều vô số không thể nào kể hết , và sau ngày 30/04/1975 lại có thêm kiều vận nữa . Nào là Bà Ngô Bá Thành hợp cùng ni sư Huỳnh Liên với Phong Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống xuống đường gây rối , nào là Phong Trào Phản Chiến với nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với cứ chĩa mũi dùi về phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong khi Bộ Đội Cộng Sản hung hăng đòi tiêu diệt hết các nước Tư Bản Chủ Nghĩa để tiến tới Thế Giới Đại Đồng thì lại được nhạc sĩ binh vực ! Lại còn thêm những trí thức ưu tú của miền Nam , tự nhận là Thành Phần Thứ Ba đứng trung lập , nhưng lại do Cộng Sản giật dây điều khiển .
Chuyện GS Châu Tâm Luân
Có một trường hợp bây giờ thuật lại nghe giống như chuyện tiếu lâm . Đó là chuyện GS/TS Châu Tâm Luân . Ông được học bổng đi Mỹ học và đậu bằng Tiến sĩ kinh tế nông nghiệp . Khi về nước , ông dạy ở các trường Nông Lâm Súc . Trên bục giảng Đại học trước các sinh viên , ông thường phê bình :
- « Chế độ Sài Gòn như một cái áo rách nát đến nổi không còn có thể vá , cách duy nhất là xé bỏ và may một chiếc áo mới » .

Rồi lời ước muốn của ông hoá thành sự thật . Ngày 30/04/1975 Sài Gòn thất thủ , Việt Cộng chiến thắng , GS Luân được sống với Việt Cộng , nhưng ông lại không muốn cái áo mới màu đỏ của Việt Cộng nên bỏ trốn đi vượt biên ! Có người hỏi tại sao ông không ở lại phục vụ mà lại vượt biên thì ông đáp : « Họ tàn ác lắm ! Hở ra một chút là họ giết liền ! » . Ở miền Nam trước kia , có không biết bao nhiêu người như GS Châu Tâm Luân , nhiều không thế nào kể xiết ! Sau đây , xin mời bạn đọc chuyện văn sĩ nằm vùng Vũ Hạnh , một chuyện điển hình với đầy đủ chi tiết hơn .
Chuyện Ông Khai Trí Và Nhà Văn Vũ Hạnh
Vũ Hạnh là một cán bộ văn hoá vận của Việt Cộng nằm vùng ở Sài Gòn thật lâu . Ông là một văn sĩ có tài . Tác phẩm « Người Việt Cao Quý » của ông xuất bản ở Sài Gòn và được tái bản 3 lần sau đó . Có một giai thoại thật đẹp giữa văn sĩ Vũ Hạnh và nhà xuất bản Nguyễn Hùng Trương , chủ nhân của nhà sách Khai Trí . Câu chuyện xảy ra vào khoảng cuối thập niên 60 . Chuyện kể khi văn sĩ Vũ Hạnh mang bản thảo của mình đến thương lượng với nhà xuất bản Nguyễn Hùng Trương thì hai bên ưng thuận với giá 100 ngàn đồng ( theo thời giá , số tiền ấy có thể mua được 5 hoặc 6 cây vàng ) . Nhưng đến ngày thanh toán tiền bản quyền , nhà văn nhận bao thơ , mở ra đếm thì thấy đến 120 ngàn . Nhà văn ngạc nhiên , bèn hỏi nhà xuất bản có nhầm lẫn không . Ông Nguyễn Hùng Trương , mà ai cũng gọi là ông Khai Trí , điềm nhiên trả lời :
- « Không , tôi không trả lộn đâu . Trước kia , chúng ta ưng với giá 100 ngàn vì tôi chưa đọc bản thảo . Nhưng sau khi đọc xong , tôi thấy giá trị của nó đến 120 ngàn , cho nên tôi phải trả đúng theo giá trị của nó » .

Thưa quý độc giả , lúc đó chúng ta đang ở vào một thời điểm của Đệ Nhị Cộng Hoà với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu , khoảng cuối thập niên 1960 . Ông Nguyễn Hùng Trương , tức là ông Khai Trí , vui lòng và tự ý trả thêm cho văn sĩ Vũ Hạnh 20 ngàn đồng cho xứng đáng với giá trị của tác phẩm , điều quá bất ngờ cho tác giả Vũ Hạnh . Hai mươi ngàn đồng từ trên trời rơi xuống ? ! Không phải ! Từ trái tim và khối óc của một nhà xuất bản thành công , trong một nền kinh tế thị trường thành công , và trong một chế độ dân chủ khá ổn định ! Mối giao hảo giữa nhà văn và nhà xuất bản mà đẹp đến thế thì ít có nơi nào trên thế giới sánh bằng ! Chúng ta đã có một nền kinh tế thị trường khá hoàn hảo và nhất là chúng ta đã có một nhà xuất bản tuyệt vời biết quý trọng các nhà văn và nền văn học nghệ thuật . Với nền kinh tế thị trường về sách báo đẹp như vậy , tuy chế độ dân chủ của Việt Nam Cộng Hoà ở phương Nam còn non trẻ , nhưng chế độ đã cung cấp cho văn nghệ sĩ khá đầy đủ tự do và phương tiện để họ xứng đáng là Văn Nghệ Sĩ Chân Chính phục vụ nghệ thuật chứ không phải là Văn Nô Bồi Bút nịnh bợ Đảng để ăn lương như xã hội miền Bắc của Hồ Chí Minh .
NS  Xuân Tiên Đem Yêu Thương Về Cho Phương Bắc
Vào thời gian đó , sau hơn 10 năm định cư ở miền Nam , một triệu đồng bào miền Bắc di cư đã ổn định cuộc sống và vững vàng với sự nghiệp đã được tạo dựng lại . Tình nghĩa đồng bào đậm đà thắm thiết trên mảnh đất lành của phương Nam được nhạc sĩ Xuân Tiên cảm đề với lời ca tuyệt vời trong bản « Khúc Hát Ân Tình » , bài nhạc mà ai ai cũng gọi bằng tên rất thân thương là bài « Tình Bắc Duyên Nam » . Lời ca đẹp và hiền hoà như tấm lòng Người Mẹ Chung Của Trăm Con với tình yêu thương bao la chan hoà cho tất cả :

Người từ ( là từ ) phương Bắc đã qua dòng sông ( sông ) dài
Tìm đến phương này , một nhà thân ái
Ôi ! Tình Bắc Duyên Nam ( là duyên ) tình chung muôn đời ta đắp xây
Gặp nàng ( nàng ) là thôn nữ mắt duyên cười say
môi hồng tình ngát đôi lòng mộng vàng chung bóng
Ôi ! Mạch đất dâng hương ( là hương ) cần lao chung đời vai sát vai
Cùng góp bàn tay thương yêu nhau rồi
Ngô khoai hai mùa ngát một niềm vui ( chung vui )
Cho thơm hương đời lúa vàng tình ơi
Ngày mai hạnh phúc nơi nơi reo cười
Quê hương thôi đau sầu ngăn sông cách núi
Ta đem yêu thương về cho phương Bắc
Ôi ! Đời sống yên vui ( là vui ) Dìu nhau đi vào chung bóng mơ .
Lời Phát Biểu Huênh Hoang Của Lê Duẩn
Nói chung , người dân miền Nam lúc đó có cuộc sống sung túc , có bát ăn bát để , và được hưởng một nền tự do dân chủ khá cao so sánh với các nước Đông Nam Á . Nhưng than ôi ! Hạnh phúc không được hưởng trọn vẹn vì chiến cuộc đang leo thang gây đổ nát tang tóc khắp nơi nơi và khắp mọi nhà . Cuộc chiến trong khoảng thời gian đó , giới truyền thông Tây phương thường gọi là cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Hai , là một cuộc chiến tranh không cần thiết , do Đảng Cộng Sản gây ra để nuốt trọn miền Nam sau khi đã chiếm miền Bắc , một cuộc chiến tranh mà Tổng Bí Thư Lê Duẩn đã huênh hoang phát biểu ( Trích Đêm Giữa Ban Ngày của tác giả Vũ Thư Hiên , trang 422 ) :
- « Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô , đánh cho TC , cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại , đánh cho cả bọn xét lại đang đâm vào lưng ta ! » .

Dân Tộc hãy đọc thật kỹ lời phát biểu trên . Đúng là lời nói của kẻ đâm thuê giết mướn . Hiển nhiên là như vậy , vì đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô , đánh cho TC … chứ nào có đánh cho Dân Tộc đâu ? Rõ ràng Lê Duẩn đã nói thế kia mà ! Trong một bài nói chuyện nội bộ , Lê Duẩn đã huênh hoang như vậy và Chế Lan Viên lấy hứng làm chủ đề cho bài thơ ca ngợi hoà bình : « Hỡi những con thỏ hoà bình . Đang tìm nơi gặm cỏ . Súng ta nổ cũng là vì ngươi đó ... » . Than ôi ! Nhà thơ đòi nổ súng giết ai để bảo vệ hoà bình ? !

Trong khi Lê Duẩn tự hào về việc đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô và đánh cho TC , thì Dương Thu Hương , người nữ đảng viên một thời đã hăng say trong chiến dịch Tiếng Hát Át Tiếng Bom bên cạnh các bộ đội tiền tuyến , đã Tỉnh Cơn Say Đảng và Tàn Giấc Mê Hồ , để ngộ rằng đó chỉ là cuộc bắn giết giữa anh em Nam Bắc một nhà . Người nữ sĩ , mắt đẫm lệ , ngồi ở lề đường của Sài Gòn vừa được mang tên mới là thành phố Hồ Chí Minh , đã ân hận nhận ra rằng « Cuộc Chiến Tranh Chống Mỹ Là Cuộc Chiến Tranh Ngu Xuẩn Nhất Trong Lịch Sử Dân Tộc » . Không ngu sao được nếu ta nhìn sang nước Phi Luật Tân láng giềng được độc lập ngày 04/07/1946 . Đáng lý ra Phi Quốc phải được độc lập đúng một năm trước đó , tức là ngày 04/07/1945 , theo tinh thần ước kết 10 năm trước giữa hai nước Mỹ và Phi .
Phi Quốc Được Độc Lập Đúng Ngay Ngày Quốc Khánh Của HK
Nhắc lại lịch sử tranh thủ độc lập của Phi Luật Tân , trong quyển Giải Thể Chế Độ Cộng Sản , tác giả Luật Sư Nguyễn Hữu Thống viết ( trang 180 ) :
- « Đầu thập niên 1930 , Luật Sư Quenzon , lãnh tụ Đảng Quốc Gia Phi Luật Tân đã tới Hoa Thịnh Đốn để vận động Quốc Hội Hoa Kỳ ban hành quy chế tự trị và độc lập cho Phi Luật Tân . Năm 1934 , Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Luật Tydings-McDuffie Act công nhận Phi Luật Tân là quốc gia tự trị ( dominion ) từ 1935 . Trong đạo luật này có khoản quy định rằng , 10 năm sau , đúng ngày quốc khánh Hoa Kỳ ( 04/07/1945 ) , Phi Luật Tân sẽ được hoàn toàn độc lập » .

Tại sao Phi Quốc phải bị độc lập trễ một năm ? Vì lẽ Phi còn bị quân đội Thiên Hoàng Phù Tang chiếm đóng cho nên Đại Tướng MacArthur phải điều động quân đội Mỹ đổ bộ lên đất Phi ở điểm Lingayen , một thành phố nhỏ phía Bắc Manila , để giải phóng toàn bộ nước Phi , và trong nội địa Phi , lực lượng Quốc Gia Phi còn phải thanh toán những ổ kháng cự lẻ tẻ của Nhật .

Và tại sao là ngày 04/07 ? Khi Hồ Chí Minh chôm chĩa lời hay ý đẹp trong bài Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ để viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập của mình - chỉ để lường gạt Dân Tộc Việt Nam - và tuyên đọc ở Quảng Trường Ba Đình ngày 02/09/1945 , ông có biết rằng ngày 04/07 là ngày Quốc Khánh của Mỹ Quốc hay không ? Hồ Chí Minh có biết rằng Mỹ Quốc trao trả Độc Lập cho Phi Quốc đúng vào ngày Quốc Khánh của mình vì một nghĩa cử cao đẹp muốn dân tộc Phi cũng được hạnh phúc mừng Độc Lập cùng một ngày với dân tộc Hoa Kỳ hay không ? Hồ Chí Minh và Đảng có biết chăng Mỹ đã thực hiện một cuộc đổ bộ đầy đảm lược ( mà cường độ về quân số tham chiến chỉ kém có cuộc đổ bộ ở miền Bắc nước Pháp ) để đất nước Phi được hoàn toàn giải phóng trước khi trao trả lại cho dân tộc Phi ? Nước Phi có diễm phúc như thế là vì Phi có Đảng Quốc Gia chứ không phải như Việt Nam có cái đảng ăn hại và dối trá mang đủ thứ tên như Đảng Cộng Sản Đông Dương , Hội Nghiên Cứu Mác Lê , Đảng Lao Động , có lúc lại giải tán đảng , rồi sau cùng khi chiếm đoạt hết cả nước mới tự nhận là Đảng Cộng Sản Việt Nam ! Dân tộc Phi được may mắn là nhờ định hướng chính trị đúng của Luật Sư Quenzon đã đến ngay Quốc Hội Hoa Kỳ để tranh thủ nền tự trị và độc lập cho nước mình . Trái lại , Dân Tộc Việt Nam thì quá bất hạnh vì Hồ Chí Minh trong khoảng thời gian đó còn đang chăm lo học nghề làm Cộng Sản với Sư Phụ Stalin ở thủ đô Mạc Tư Khoa của Liên Xô !

Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản có biết chăng Phi nhận nền Độc Lập từ tay Mỹ mà không đổ một giọt máu , không tốn một nhân mạng ? Nước Mỹ hành xử đẹp như thế đối với Phi thì Mỹ nào đâu có lòng tham , muốn xâm lăng chiếm cứ đất đai của ai , tại sao Hồ Chí Minh cứ tuyên truyền và phát động cuộc chiến tranh Chống Mỹ Cứu Nước sát hại và gây thương tật biết bao nhiêu triệu người cả Bắc lẫn Nam ? Xử dụng đến cạn kiệt xương máu của dân tộc để dồn cho chiến trường miền Nam , riêng tỉnh Thanh Hoá đã động viên tới 450 ngàn bộ đội , nhiều xã không còn bóng dáng thanh niên . Lê Duẩn đã quyết tâm rằng nhân dân ta dù có mặc quần xà lỏn , đốt đuốc cũng đánh Mỹ tới cùng . Hồ Chí Minh trước khi chết cũng nhắn nhủ « các cháu của Bác » là dù có cháy cả dải Trường Sơn cũng phải chiến đấu đến cùng . Tội ác gây ra cuộc chiến tranh nầy , nếu không phải Hồ Chí Minh , thì ai chịu trách nhiệm ?
Chuyện Nhạc Sĩ Trịnh Công n
Trước khi viết về Trịnh Công Sơn , chúng ta nên biết qua về hai nhạc sĩ đàn anh tài hoa là Phạm Duy và Văn Cao . Nhạc sĩ Phạm Duy tham gia kháng chiến rất sớm , ngay từ những ngày tháng đầu tiên năm 1945 . Ông đã tham gia kháng chiến ở Nam Bộ , ông đã có mặt ở Liên Khu 4 Thanh Nghệ Tĩnh , và có mặt ở chiến khu Việt Bắc . Ở khắp nơi ông đã trình diễn và sáng tác những bài ca nêu cao tinh thần kháng chiến chống Pháp . Đến khi ông sáng tác bài Bên Cầu Biên Giới thì Đảng không chấp nhận và ra lịnh cho ông phải khai tử bản nhạc . Quyền tự do sáng tác bị xâm phạm , một trong những lý do khiến nhạc sĩ Phạm Duy dinh tê và sau đó vào Nam ( năm 1951 ) . Thật may cho nhạc sĩ , nhưng may mắn cho Dân Tộc thì lớn lao vô cùng ! Như cá gặp dòng nước trong bơi lội nhởn nhơ và hoá thành rồng , với thiên tài về nhạc , hồn nhạc trong ông bay lượn trong bầu không khí tự do của miền Nam , và với sức sáng tác phi thường , nhạc sĩ Phạm Duy đã cống hiến cho Dân Tộc cả Một Kho Tàng Âm Nhạc Vô Giá . Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007 , đọc lại chuyện xưa , mới thấy rằng nền Tự Do của VNCH ở Miền Nam vào thuở đó thật đáng quý !

Nhạc sĩ Văn Cao là tác giả bài Tiến Quân Ca mà Đảng Cộng Sản dùng làm Quốc Ca . Ông không dinh tê như nhạc sĩ Phạm Duy . Năm 1952 , ông được Đảng cho đi Liên Xô tham quan như một chuyến hành hương về Đất Tổ để chiêm ngưỡng XHCN của nước Cộng Sản Liên Xô đàn anh . Chuyến đi làm ông thất vọng . Trở về Hà Nội , ông ngẩn ngơ như người mất hồn ! Chợt đến phong trào đấu tranh Nhân Văn Giai Phẩm , ông bị khai trừ khỏi hội văn và hội vẽ . Ông chỉ còn ở trong hội nhạc nhờ là tác giả của bài Quốc Ca nhưng cũng chỉ làm vì .

Theo nhà phê bình văn học Nguyễn Mạnh Trinh trong bài Văn Cao , Thơ Của Những Giấc Mơ , ta đọc được dòng chữ u buồn : « Suốt mấy chục năm , Văn Cao phải lặng lẽ sống âm thầm sáng tạo trong đớn đau , trong cảnh túng quẩn . Dường như ông không viết bài hát nữa mà chuyển vào những tiểu phẩm nhạc không lời « Hàng Dừa Xa » , « Sông Tuyến » , « Biển Đêm » , ông dằn lòng viết những câu thơ không in , vẽ minh hoạ để kiếm chút « tiền còm » bởi thúc bách của đời sống thường nhật » .

Kết Luận : thiên tài của nhạc sĩ Văn Cao bị mai một trong Chế Độ XHCN của Hồ Chí Minh !

Chợt đến thập niên 60 , ngôi sao âm nhạc Trịnh Công Sơn rực sáng ! Nhạc Trịnh Công Sơn sáng tác đáp đúng thị hiếu của thanh thiếu niên , nên bài nhạc nào cũng được đón nhận nồng nhiệt , nhất là những bản phản đối chiến tranh thường được gọi là nhạc phản chiến . Nhạc sĩ được tự do sáng tác , không bị Chế Độ miền Nam bắt phải khai tử bản nhạc nào như trường hợp nhạc sĩ Phạm Duy phải khai tử bài « Bên Cầu Biên Giới » khi sống với Đảng ! Cũng vào thời điểm đó , vào khoảng tháng 09/1963 , trong dịp đi nghỉ mát ở Quảng Châu , Hồ Chí Minh gặp Chu Ân Lai và Trần Nghị và phát biểu về quyết tâm chiến đấu ở miền Nam như sau :
- « Đừng nói phải đánh 5 năm , 10 năm , dù có 20 năm , 30 năm , thậm chí 50 năm cũng phải đánh » .

Trích câu phát biểu đầy sắt máu của Hồ Chí Minh , người viết xin tri ân tác giả Minh Võ đã nghiên cứu Hồ Chí Minh , Biên Niên Tiểu Sử để tô vẽ thật rõ nét bộ mặt hiếu chiến hiếu sát của Hồ Chí Minh cùng sự dàn dựng bộ máy chiến tranh để tàn phá phần Đất Nước ở phương Nam . Vào lúc đó , hai nước Đức Quốc và Hàn Quốc cũng bị phân chia làm hai như Việt Nam . Nhưng chính quyền cộng sản lãnh đạo Đông Đức và Bắc Hàn không chủ trương đánh phá Tây Đức và Nam Hàn như Bắc Việt của Hồ Chí Minh đã làm ! Do đó Tây Đức và Nam Hàn được thanh bình để chăm lo phát triển vùng đất của mình , và chẳng bao lâu sau , Tây Đức thành cường quốc kinh tế bậc nhất ở Âu Châu và Nam Hàn thành một trong 9 nước tân tiến đứng đầu về kỷ nghệ cơ khí . Còn Hồ Chí Minh đã làm gì ? Ông đã đưa cả triệu thanh niên miền Bắc , kể cả những người « lính cái » ( chữ của Dương Thu Hương ) , phải Sanh Bắc Tử Nam gây ra cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn sát hại và gây thương tật hàng triệu người cả hai bên chiến tuyến !

Lãnh tụ Hồ Chí Minh là thủ phạm dàn dựng thật tỷ mỷ trọn vẹn bộ máy chiến tranh đánh chiếm Miền Nam với ý chí sắt đá « dù cho cuộc chiến dài 10 năm , 20 năm , 30 năm , thậm chí 50 năm cũng đánh » . Dàn dựng con cờ bù nhìn Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chưa đủ , tên Đại Mưu Sĩ Hồ Chí Minh còn thiết lập thêm một chính đảng bù nhìn cho Mặt Trận là Đảng Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam cho trọn bộ sậu . Đúng ra Hồ Chí Minh chỉ chẻ Đảng Cộng Sản ra làm hai , những đảng viên ở miền Nam , ông cho hoá trang và cho mặc áo Nhân Dân Cách Mạng Miền Nam , thế thôi . Bởi thế cho nên tất cả những hành động phản đối chiến tranh , tuyệt thực và xuống đường đòi hoà bình , viết bài phản chiến , đặt nhạc phản chiến mà không nhắm vào Thủ Phạm Hồ Chí Minh , không nghiêm khắc kết tội ông , thì có khác nào là đồng lõa với ông , giúp ông đoạt được chính nghĩa mà đáng lý ra ông không có !

Cùng một ý tương tự , tác giả Sắc Không , trong Nguyệt san Làng Văn trang 101 , đã viết như sau : « Miền Nam , trước 1975 , những loại thơ văn nhạc « phản chiến » chỉ phản chiến được với phía tự vệ , không phản chiến với phía gây chiến . Cộng quân vẫn tiến ào ào » .

Nhân đây xin nhắc lại lời tuyên bố của Trotsky trước Nghị Viện Amsterdam khoảng năm 1932 ( Trích từ Lời Giới Thiệu của Vũ Huy Quang cho quyển Hồ Sơ Đệ Tứ Tập 3 , của nhóm Đệ Tứ Việt Nam tại Pháp , xuất bản năm 2004 , trang 15 ) . Lời tuyên bố của Trotsky về phản chiến như sau :
- « Viết bài trên báo , đi biểu tình , tuyên dương hoà bình bằng l‎‎‎ sự luân lý để chống chiến tranh … mà không biết guồng máy phát động … chỉ là những tiếng be be của bầy cừu trước con dao đồ tể » .

Những chiến sĩ của Quân Lực VNCH đem xương máu ngăn chận Làn Sóng Đỏ để bảo vệ tự do , dân chủ , và nhân quyền cho miền đất đẹp ở phương Nam tất nhiên không mấy hài lòng về tính chất phản chiến của nhạc Trịnh Công Sơn ! Tuy nhiên , nhạc của ông hay vô cùng !

Cần viết thêm rằng sau khi Đảng chiếm đoạt miền Nam , Đảng ra lịnh cấm không cho hát bài Gia Tài Của Mẹ của Trịnh Công Sơn , cùng với vô số bài nhạc khác của các nhạc sĩ miền Nam ! Một hành động thật hạ cấp vô văn hoá và ngu xuẩn chỉ để cho Dân Tộc thương tiếc ngẩn ngơ khoảng thời gian vàng son khi không có Đảng ! Khi Đảng ra đời , thì Dân Tộc mất tất cả !
Từ Paris Võ Văn Ái nhận xét
Từ nguồn Gió-o , bài phỏng vấn nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái , lãnh tụ trí thức Đấu Tranh Nhân Quyền Số Một ở Hải Ngoại , do Lê Thị Huệ thực hiện ngày 01/11/2009 :
Lê Thị Huệ : - « Ông có thể khai triển rõ hơn về phe phản chiến do Liên Xô điều động ? » .
Võ Văn Ái : - « Trong thế giới có phong trào này phong trào kia phát động . Nhìn từ bên ngoài là sự tự phát , nhưng từ cơ bản đa số do các khuynh hướng chính trị hay đảng phái giật dây . Phong trào phản chiến hay phong trào hoà bình hồi đó cũng vậy . Trong cuộc chiến tranh Việt Nam thời ấy , Hà Nội được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn , nên Liên Xô thông qua các đảng địa phương ở Âu Châu phát động rầm rộ một phong trào rộng lớn ủng hộ cho « Hoà Bình Việt Nam » . Nói là hoà bình Việt Nam , nhưng kỳ thực là ủng hộ cuộc chiến tranh do Hà Nội chủ suý . Phe Cộng Sản quốc tế bỏ tiền mua các cơ quan truyền thông , báo chí , kích động các phong trào quần chúng , đặc biệt giới sinh viên đại học xuống đường kêu gọi « Hoà Bình Chống Mỹ » .
Vung Mã Tấu Chặt Ngón Tay Em Học Sinh Nhỏ Nhất
Vào một ngày trong niên học 1961-1962 , trong địa hạt tỉnh An Xuyên , « Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường , chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm doạ nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế ! » ( Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh , Nguyệt San Làng Văn số 203 tháng 07/2000 , trang 26 ) .

Nhóm Việt Cộng đó muốn gì ? Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam muốn gì ? Lúc đó Hồ Chí Minh ở Bắc Bộ Phủ muốn gì ? Tại sao lại lựa em bé nhỏ nhất để chặt ngón tay ? Tại sao lại cấm học sinh đi học ? Nếu thật tâm vì chính nghĩa cao đẹp Giải Phóng Miền Nam khỏi ách kềm kẹp của Mỹ Nguỵ thì tại sao Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản lại xử dụng phương cách hèn hạ tàn nhẩn đối với trẻ thơ như vậy ? Với những câu hỏi « Tại Sao ? » dồn dập như trên , câu trả lời chỉ có thể là Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản đã chiếm đoạt được miền Bắc rồi , không lo xây dựng phát triển miền Bắc , mà chỉ lo tiếp tục gây chiến để cướp đoạt miền Nam cho kỳ được , không từ nan bất cứ hành động khủng bố đê hèn nào ! Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng :
- « Toàn tỉnh An Xuyên , số học sinh bị sút giảm 20000 em , 150 trường học phải đóng cửa , khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết ! Trong niên học đó , trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng của vì sách lược khủng bố này » .

Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế , đến nổiHiệp Hội Các Tổ Chức Sư Phạm Thế Giới ( World Confederation of Organizations of the Teaching Profession ) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra . Bài viết của ký giả John B Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest ( số tháng 11/1968 ) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên .
Chặt Hai Bàn Tay Em Bé 7 Tuổi
Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của k‎‎‎ giả John B Hubbell , bאi được Trung Tướng TCLC Lewis Walt giới thiệu , chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau ( Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn Đàn Độc Giả của Tuần Báo Sài Gòn Times ngày 28/10/2004 ) :
- « Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng , vì một trong các đứa con của họ , một bé trai mới 7 tuổi , đã bị mất tích từ bốn ngày rồi . Họ tìm đến Trung Tướng Lewis W . Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc » .

« Rồi đột nhiên , thằng bé thoát ra khỏi rừng , chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng . Thằng bé vừa chạy vừa khóc . Mẹ nó vội chạy ra , ôm nó vào lòng , và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng , ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó » .

Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của VNCH nên mới cảnh cáo ông xã trưởng , hay bất kỳ người nào trong làng , cả gan đi bỏ phiếu , ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta .
Ném Lựu Đạn Vào Đêm Lửa Trại Học Sinh Qui Nhơn
Vào một đêm năm 1972 , tại Sân Vận Động Qui Nhơn , trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường Trung Học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt ! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương . Cô GS Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến , có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp , đến để vui lửa trại với các em trại sinh , bị chết ngay tức khắc . Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30 , để lại ba đứa con 4 tuổi , 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ . Chồng cô là GS Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng . Khi xe cứu thương đến , ông chân bước lên xe , tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài , và thân mang đầy vết lựu đạn !

Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn . Sau khi chiến thắng miền Nam , Vũ Hoàng Hà được phong Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh Bình Định kiêm Uỷ viên Trung Ương Đảng . Mãi sau này , các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra !

Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972 , thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha . Vết thương quá nặng , GS Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị ! Nhưng trời cao có mắt . Câu chuyện có hậu . Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng . Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện ( EE ) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà , bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi , trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma , Hoa Kỳ . Câu chuyện do GS Nguyễn L‎‎ Tưởng tường thuật , ông là bạn học tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế đồng khoá với vợ chồng GS Tạ Quang Khánh ( Theo nguồn tin : Vietnam Library Net ) .
Pháo Kích Vào Trường Tiểu Học Cai Lậy
Ngày 09/03/1973 , một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường Tiểu Học Cai Lậy , tỉnh Định Tường . Thủ phạm là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly bắn vào trường lúc học sinh đang sắp hàng vào lớp . Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The Death of South Vietnam : An Autopsy ( Xuất bản năm 1986 ) là 34 em chết và 70 bị thương , theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ : 32 tử vong và 55 bị thương .

Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi . Khắp miền Nam , lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn . Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau :

Hỡi Bé thơ ơi , sao tội tình gì Em lại bỏ đi , Em lại bỏ đi !
Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp
Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe
Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến , vội bỏ ra đi .
Tội Ác Bỏ Đói Dân Để Lùa Thanh Niên Vào Bộ Đội
Câu chuyện giữa 2 người tù , một già một trẻ , do Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển « Hoả Lò » ( trang 277 ) . Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh . Quê anh ở Thái Bình , mang tiếng là vựa thóc , là « Quê hương năm tấn » , nhưng đói lắm . Bình quân , mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo , nên anh ta bị đói từ lúc còn bé . Đến 17 tuổi , anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội . Cuộc đối thoại như sau :

-- Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay ?
-- Vâng , được biết trúng tuyển , con mừng hơn mẹ con sống lại . Thế là hết cảnh đói mòn , đói mỏi . Mấy đứa gầy yếu quá bị loại , buồn như cha chết . Có đứa khóc .
-- Hồi đó , chúng mày có biết đi B , chết rất nhiều không ?
-- Chúng con biết chứ . Trai làng bao đứa đã vong mạng . Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh .
-- Chúng mày không sợ chết à ?
-- Chẳng đứa nào sợ cả . Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều . Bố bảo , đi bộ đội , chết chưa thấy đâu , đã thấy no trước mắt . Hai mốt cân gạo , một cân rưỡi thịt , một cân đường , mỗi tháng . Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó , chúng con thèm rỏ rớt , rỏ dãi . Cứ như là giấc mơ ấy . Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan . Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa . Hơn đi thanh niên xung phong nhiều .

Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng Sản luôn luôn mạt sát là bốc lột công nhân . Không cần đi đâu cho xa , bên nước láng giềng Campuchia , tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia Trong Bối Cảnh Chiến Tranh Đông Dương đã diễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945 , khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền . Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết ( trang 361 sđd ) :
- « Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước . Đầu tiên , công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày , tăng lương , nhà thương có bác sĩ với thuốc men đầy đủ , chăm sóc kỹ lưỡng . Lương tiền phát đầy đủ hơn , nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải , giày , xe đạp , vỏ xe đạp … thêm vào đó thực phẩm , thịt heo , thịt bò và vô số nhu yếu khác , bán chịu , bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng , giá rẻ hơn ngoài thị trường 30 % . Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr , trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr » .

Đến đây , người viết có thắc mắc mới điện thoại hỏi tác giả Nguyễn Văn Khậy ( hiện an cư lập nghiệp ở Sydney ) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao ? Tác giả trả lời rằng : « Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí , và thường thì công nhân dư gạo , mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương » .
Những Ngày Tháng Năm Đẹp Của Thế Kỷ
Lần giở lại những trang Hồi Ký của nhạc sĩ Phạm Duy , người đã dinh tê về Hà Nội và sau đó vào Nam năm 1951 , tức là 3 năm trước phong trào Di Cư , nhà soạn nhạc tài ba ấy khi di tản ra nước ngoài mới tỏ ý hối tiếc rằng đã không hề trước tác một bài nhạc nào để ca ngợi thành phố Sài Gòn , nơi ông sống những ngày phong phú nhất đời ông . Xin trích Hồi Ký Phạm Duy , Thời Phân Chia Quốc Cộng ( trang 399 ) :

« Hơn 20 năm sống ở Sài Gòn mà tôi không có một tiếng hát nào cho thành phố nơi tôi sống những ngày phong phú nhất đời mình . Sài Gòn không phải chỉ có con đường Duy Tân cây dài bóng mát để tôi đưa người tình đi học . Tuy cũng có Y Vân « Ghé Bến Sài Gòn » . để thấy Sài Gòn đẹp lắm , Sài Gòn ơi , Sài Gòn ơi ... Và có thêm Hoàng Anh Tuấn cùng với Phạm Đình Chương nhìn mưa Sài Gòn để nhớ tới mưa Hà nội ( bản « Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội » ) ... nhưng nói chung , lũ nhạc sĩ chúng tôi rất vô ơn đối với Sài Gòn » .

Thật vậy , thành phố Sài Gòn đáng được ca ngợi ! Sài Gòn ngày xưa vừa đẹp lại hiền ! Miền Nam trù phú và đầy tình người là mảnh đất lành đáng sống thật ! Và nhạc sĩ Phạm Duy lại viết tiếp lời an ủi :
- « Phải bỏ xứ ra đi , phải sống trong thành phố bị đổi tên , rồi mới hối hận để có khá nhiều nhạc sĩ lưu vong hay ở trong nước hối hả soạn ra sau ngày 30/04/1975 những bài như « Sài Gòn Ơi Vĩnh Biệt » , « Sài Gòn Bây Giờ Buồn Không Em » , « Sài Gòn Vĩnh Biệt Tình Ta » , « Sài Gòn Niềm Nhớ Không Tên » , « Sài Gòn Của Tôi » , « Sài Gòn Ôi Thôi Đã Hết » … Con người là thế đó , có viên ngọc trong tay không biết giữ , mất rồi mới tiếc ngẩn tiếc ngơ ! » .

Và những ngày tháng năm từ khi Cựu Hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh năm 1949 với danh vị Quốc Trưởng , qua Đệ Nhất Cộng Hoà với Tổng Thống Ngô Đình Diệm , và Đệ Nhị Cộng Hoà với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu , cho đến ngày Quốc Hận 30/04/1975 , trong khoảng thời gian đó , chúng ta đếm được Những Ngày Tháng Năm Đẹp Nhất Và Đáng Sống Nhất Của Thế Kỷ 20 !

Chỉ riêng về môn túc cầu , những người ái mộ hẳn rất tự hào với thành tích của Đội Tuyển nhà trước 1975 . Theo lời cựu tuyển thủ Nguyễn Văn Ngôn tức Ngôn 1 trả lời biên tập viên SS của tuần báo Sức Sống tại Little Sài Gòn ( Số Xuân Tân Mùi 1991 ) :
- « Nền túc cầu Việt Nam lớn mạnh nhứt vào năm 1964 . Tôi còn nhớ , trong giải túc cầu thế giới Đội Tuyển VN đã hạ đội Do Thái 2-0 tại Tel Aviv ở vòng loại . Và đến năm 1968 tại Thái Lan , tranh giải khu vực để đại diện Á Châu tham dự Thế Vân Hội , Đội Tuyển VN đã hạ các nước Thái Lan , Đại Hàn , Mã Lai , Nam Dương . Rất tiếc , cũng năm đó vì tình trạng chiến tranh ( Tết Mậu Thân ) đã làm hỏng cơ hội tham dự Giải Thế Vận tại Iran của đoàn tuyển thủ VN ( sau đó đội Đại Hàn đứng thứ nhì bảng thay thế ) . Một thành tích khác cũng lừng lẫy là đoàn cầu VN đã mang về chiếc cúp vô địch Á Châu tranh tại Mã Lai : Đó là giải Merdeka 1966 » .
Việt Nam 50 Năm Trước Và 50 Năm Sau
Không phải như những báo cáo láo của Việt Cộng theo như nhận xét » 3 chữ D : Dại Dốt Dối » của GS Phạm Thiều , bản Thống Kê về tình trạng kinh tế của Việt Nam 50 năm trước và 50 năm sau do học giả Đỗ Thông Minh ở Nhật sưu tầm ( từ Economic Bulletin / Singapore ngày 14/04/2007 trang 738 ) đã trưng dẫn rất chính xác sự huy hoàng về kinh tế của miền đất phương Nam vào thời Đệ Nhất Cộng Hoà so sách với 35 năm sau dưới chế độ XHCN . Bản thống kê về Lợi Tức Đầu Người trong 50 năm qua như sau :

Năm 1956 Năm 2006

Nhật 215 đô - 30000 đô
Đài Loan 121 - 12000
Mã Lai 246 - 4520
Thái Lan 64 - 2450
Indonesia 87 - 1150
Nam VN 144 - VN ( cả nước ) 550

Bản thống kê nói lên sự phát triển kinh tế quá chậm theo kiểu kinh tế thị trường với định hướng XHCN của Việt Nam . Năm 1956 , Việt Nam Cộng hoà của miền Nam hơn nhiều nước . Đến năm 2006 , dưới sự điều hành của Đảng , CHXHCN Việt Nam đứng hạng chót và thua xa các nước lân bang . Than ôi ! Thành tích của những Đỉnh Cao Trí Tuệ Loài Người !

Gần đây nhất , nhân ngày 30/04/2008 , từ Paris , Bùi Tín viết bài Giải Phóng Ư ? Độc Lập Ư ? Bài viết ngắn , lời văn tâm tình thật cảm động , Bùi Tín đã thật sự bước vào cuộc Đại Đoàn Viên Của Dân Tộc và trong tình thương yêu bao la đó , ông thốt lên những lời kêu gọi chân tình :

- « Tôi bỏ hết danh vọng hảo , chức tước phù du , huân chương mai mỉa , tự hổ thẹn từng cao ngạo vô duyên về chuyện vào Dinh Độc Lập sớm , xế trưa ngày 30-4 , vớ vẩn lạc điệu cả , cá nhân lầm lạc , ngộ nhận hết » .
- « Để làm gì cơ chứ ? Để đất nước ra nông nổi này ư ? Độc lập , KHÔNG ! Tự Do , KHÔNG ! Chủ quyền , KHÔNG ! Về mặt nào Việt Nam cũng đứng dưới 100 nước khác ! » .
- « 30/04 năm nay , tự thâm tâm , tôi chỉ có một lời kêu gọi với các bạn bè và đồng chí cũ của tôi , hãy quý‎‎ trọng lòng yêu nước thương dân của chính mình . Bạn hãy tự phục hồi lòng yêu nước thương dân trọn vẹn của mình để cùng mọi người Việt Nam tỉnh táo và tử tế tranh đấu cho một Tổ Quốc Việt Nam thật sự độc lập , thật sự tự do , dựa vững vào Lịch Sử Dân Tộc và Thời Đại » .
Miền Nam Tiến Thật Xa Trên Lộ Trình Xây Dựng Dân Chủ
Vào cuối thập niên 60 , với sự điều hợp của GS Nguyễn Văn Bông cùng một số Dân Biểu Hạ Viện , Miền Nam đã thiết lập được Dự Thảo Quy Chế Đối Lập . Đây là cái mốc thật quan trọng trên lộ trình xây dựng dân chủ Miền Nam đã đạt được . Một Điểm Son rực rỡ đáng được ghi vào lịch sử Dân Tộc , nhất là vào lúc đó Miền Bắc tung hết sức mạnh quân sự và tuyên truyền để đánh chiếm Miền Nam cho kỳ được , không từ nan bất cứ một hành động khủng bố và tuyên truyền xảo quyệt nào . Xin mở ngoặc để viết đôi dòng về GS Nguyễn Văn Bông . Ông sinh năm 1929 tại làng Kiểng Phước thuộc miền duyên hải của tỉnh Gò Công ngày xưa . Ông nội làm nghề thợ bạc , cha làm thợ sửa xe đạp . Ông nhà nghèo nhưng may mắn nhận được học bổng để học trường Phan Thanh Giản Cần Thơ . Rồi ông sang Pháp du học bằng vé tàu hạng chót nằm dưới boong tàu . Đến Pháp , ông vừa làm vừa học , lần lược đậu Tú Tài , Cử Nhân , và đến năm 1960 ông đậu Tiến Sĩ Luật khoa . Ba năm sau , Nguyễn Văn Bông tạo thành tích trong Lịch Sử Sinh Viên Du Học vang danh là Người Việt Nam Đầu Tiên Đậu Bằng Thạc Sĩ Công Pháp Quốc Tế . Ông được mời về nước dạy tại Đại Học Luật Khoa . Đến 1964 , ông được cử vào chức Viện Trưởng Học Viện Quốc Gia Hành Chánh . Ông đã góp phần rất lớn trong việc đào tạo một thế hệ cán bộ hành chánh tài ba cho Đất Nước . Chế độ Miền Nam , với Dự Thảo Quy Chế Đối Lập , đã tiến thật xa trên lộ trình xây dựng dân chủ .

GS Nguyễn Văn Bông , người chiến sĩ tài ba xây dựng dân chủ cho Dân Tộc , đáng buồn thay , Đảng Cộng Sản lại xem là kẻ thù cần phải tiêu diệt ! Chúng đã âm mưu sát hại Giáo Sư 3 lần , đến lần thứ ba mới thành công ! Ngày 10/11/1971 , lúc 12 giờ trưa , Giáo Sư bị Việt Cộng giết bằng chất nổ quăng vào dưới xe của ông khi ông đang trên đường từ Học Viện về nhà . Ngọn lửa thiêng Dân Tộc được thắp sáng từ thời Trưng Triệu xa xưa tạo thành Hồn Thiêng Sông Núi , từ nay với anh linh của GS Nguyễn Văn Bông hoà nhập vào , xin hãy soi đường dẫn lối cho du sinh Việt Nam học thành tài về nước xây dựng nền dân chủ tiến bộ và tránh xa chế độ Cộng Sản độc tài sở trường dùng khủng bố giết người bịt miệng để cai trị . Đến bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007 , Đảng Cộng Sản vẫn còn lúng ta lúng túng với chế độ độc tài đảng trị không chấp nhận đối lập , làm chủ tất cả các báo và đài để giết tự do ngôn luận , thành lập Giáo Hội Quốc Doanh để giết tự do tín ngưỡng , thành lập Nghiệp Đoàn Quốc Doanh đứng về phía Tư Bản nước ngoài để bốc lột công nhân Việt Nam … Bức Màn Sắt , Bức Màn Tre , Bức Tường Ô Nhục Bá Linh vang bóng một thời xa xưa thì nay đã bị dẹp bỏ và vất vào Sọt Rác Lịch Sử rồi . Nhưng Bắc Bộ Phủ của Đảng Cộng Sản Việt Nam , đi ngược chiều lịch sử , lại thiết lập Bức Tường Lửa để ngăn chận thông tin điện tử từ thế giới bên ngoài , và buông thả công an đi khắp nơi để đàn áp Dân Tộc vô cùng thô bạo ! Cứ mãi bịt mắt , bịt tai , bịt miệng Dân Tộc mà cứ tự đề cao là « Cách Mạng » !
Tình Người Của Miền Đất Phương Nam
Người cán bộ văn hoá vận Vũ Hạnh của Đảng Cộng Sản đã có phúc duyên được sống để nằm vùng trọn vẹn ở miền Nam trong những ngày tháng năm đẹp đó . Xin nhắc lại đôi dòng về Vũ Hạnh . Nhà văn sinh năm 1926 tại Thăng Bình , Đà Nẵng , theo Cộng Sản từ năm 1945 , sau hiệp định Genève , ông được phân công nằm vùng ở miền Nam . Ông là tác giả nhiều tác phẩm nghiên cứu như Đọc Lại Truyện Kiều , Tìm Hiểu Văn Nghệ , truyện dài Chất Ngọc , Cú Đấm , vân vân ... nhưng nổi tiếng nhất là quyển Người Việt Cao Quý ẩn dưới bút danh A . Pazzi . Nhiều lần bị chế độ Sài Gòn bắt bỏ tù vì chống lại bằng tác phẩm và hành động . Tuy vậy , Vũ Hạnh cũng được nhiều người giúp đỡ và bảo lãnh như các linh mục Chân Tín và Thanh Lãng . Cả đến văn thi sĩ Hà Thượng Nhân , tức là trung tá Phạm Xuân Ninh , lúc phụ trách ngành tâm lý chiến về các lãnh vực Chính Huấn , Phát Thanh và Báo Chí cũng vì tấm lòng thơ mà tế độ nhiều lần cho Vũ Hạnh . Trong quyển Quê Hương Bạn Hữu Tù Đầy của Trần Dạ Từ , chúng ta được biết thêm về Vũ Hạnh như sau :
- « Vũ Hạnh thời trước , viết phê bình văn nghệ cho báo Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng Sản , rồi nằm trong tờ Điện Tín của nhóm Lý Quý Chung , chuyên viết những chuyện kháng chiến đường rừng . Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng » .
Vũ Hạnh Tác Giả « Bài Mặt Đối Mặt Với Nhân Dân »
Đến năm 1990 , sau 15 năm dưới sự cai trị độc tài của Đảng Cộng Sản , nhà văn Vũ Hạnh có viết một bài rất đặc sắc nhan đề « Mặt Đối Mặt Với Nhân Dân » . Bài đó được dịch ra Pháp ngữ và đăng trên tờ Nouvelle de Moscow , một tờ báo khuynh hữu ở Mạc Tư Khoa . Một phần của bài đó là bản photocopy với chữ viết tay của Vũ Hạnh được đăng tải trong quyển Bút Ký Irina của Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ ( Tập 1 , trang 48 ) . Xin mời quý bạn đọc :
- « Một vài suy nghĩ về con người và xã hội Việt Nam hiện nay . Sau ngày giải phóng 15 năm , nhiều người Việt Nam đánh giá về Đảng lãnh đạo theo hai cách nhìn khác nhau : một là Đảng đã có công tập họp toàn dân chống những kẻ thù xâm lược vô cùng lớn mạnh để giành độc lập , thống nhất cho tổ quốc . Tuy nhiên , về mặt lãnh đạo đất nước xây dựng chủ nghĩa xã hội , Đảng đã thất bại , làm cho đa số dân chúng nghèo đi , chịu nhiều bất công , phiền hà , đất nước thua kém các nước láng diềng từ xưa được xem là chậm tiến nhất vùng Đông Nam Á . Cách thứ hai có vẻ quyết liệt hơn nhiều khi khẳng định rằng không thể tách rời giai đoạn cứu nước với dựng nước , vì giai đoạn đầu là tiền đề cho giai đoạn sau . Sự hi sinh to lớn kéo dài suốt mấy mươi năm để chỉ đem lại nghèo đói , bất công thì hi sinh ấy có ý nghĩa gì ? Bây giờ người ta bắt đầu hoài nghi chủ nghĩa xã hội , hoài nghi học thuyết Mác Lê ... » .

Bài viết phân tích rất sâu sắc và rành rẽ cuộc khủng hoảng không lối thoát ở Việt Nam và quyết liệt đòi hỏi chế độ phải thay đổi thực sự và toàn diện , trong đó có đoạn nói : « Vì sống bằng nguỵ biện , người ta ( tức là Đảng Cộng Sản ) lại dùng nguỵ biện để minh chứng rằng các biểu hiện xấu chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất . Nhưng hiện tượng lập lại mãi cũng là bản chất . Hoặc bảo : đó là những sự suy thoái nhất thời , nhưng cái nhất thời ấy được đo bằng suốt chiều dài chế độ . Một cách giải thích khá quen thuộc khác là do kẻ thù đế quốc phá hoại , nhưng sao lại để kẻ thù phá hoại ? Và sao chúng lại phá hoại dễ dàng như vậy ? » .

Theo dõi phong trào nhân dân các nước Đông Âu nổi lên bằng những cuộc biểu tình ôn hoà , xử dụng quyền Dân Tộc Tự Quyết và thực hiện cuộc Cách Mạng Nhung không đổ máu để xây dựng nền dân chủ và loại trừ chế độ Cộng Sản , nhà văn Vũ Hạnh đã theo quan điểm duy tâm mà cho rằng : « Đó là điều cần phải xảy ra , đó cũng là lẽ nhân quả ở đời » .

Và sau cùng trong đoạn kết nhà văn viết : « Câu trả lời thực sự cho VN không phải ở nơi Liên Xô , TC , hay nước Đông Âu nào khác mà là ở tại VN Và chỉ khi nào những người lãnh đạo VN thấy rõ về xã hội mình và có can đảm sửa đổi những tệ trạng gây nên cho những con người VN bằng những phương thức hoàn toàn phù hợp với người VN , thì chỉ lúc ấy quần chúng mới khỏi phải dùng đến sự thô bạo để giành lấy quyền định đoạt cho số phận mình » .
1a / 1b / 2a / 2b / 3a / 3b / 4a / 4b / 5a / 5b
N 

 


VIII.Vũ Hạnh Chối Bỏ Bài Viết Của Mình


Câu chuyện về nhà văn Vũ Hạnh bắt đầu bằng chuyến viếng thăm thành phố Sài Gòn của Irina Zisman , một phụ nữ Nga có chồng là người Việt Nam . Bà học tiếng Việt ở Mạc Tư Khoa , nói tiếng Việt thật lưu loát và viết văn Việt thật điêu luyện như bất cứ một nhà văn Việt Nam tài ba nào . Trong tác phẩm Bút Ký Irina , bà kể lại rằng trong chuyến viếng thăm Sài Gòn vào cuối tháng 05/1991 ( xin chú ý : tác giả Irina viết là Sài Gòn chớ không viết Thành phố Hồ Chí Minh ! ) , bà được mời đến Hội Nhà Văn và đã gặp Vũ Hạnh ở đấy . Bỏ ngoài chuyện được đãi trái măng cụt và bàn luận về truyện Kiều với Vũ Hạnh , khi ra về , bà có mời Vũ Hạnh lại chỗ bà ở để nói chuyện cho được tự nhiên , nhưng ông gạt đi : « Nếu như vậy , cấp trên sẽ hiểu nhầm » .

Trong một ghi chú của Irina , thì sự hiểu lầm bắt đầu từ một bài viết ký tên Vũ Hạnh đăng trên tờ báo Tin Tức Moscow ( xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Pháp ở thủ đô Liên Xô ) . Điều đáng tiếc là chính Vũ Hạnh đã hiểu nhầm về cái tên Vũ Hạnh như thế ! Về biến cố nầy , Irina viết tiếp : « Tôi nghĩ về các văn sĩ của thời đại chúng ta . Chúng ta , những người chỉ biết đọc lại các tác phẩm của những người xưa . Tôi nghĩ về tấn bi kịch của nhà văn luôn luôn giấu kín suy nghĩ của mình , về các nhà báo viết bài không phải để đăng báo . Về tấn bi kịch của các văn nghệ sĩ đã được cởi trói nhưng vẫn có cấp trên . Và về những cấp trên chuyên môn hiểu nhầm » .

Đó là lời bình rất phớt nhẹ của Irina về việc Vũ Hạnh chối bỏ bài viết của mình , lời phê bình phớt nhẹ đến nổi tưởng chừng như nó không chạm đến ai cả . Nhưng với Nguyễn Ngọc Bích thì không . Trong lời đề Bạt cho quyển Bút Ký Irina ( Tập 1 trang 1600 ) , ông tung ra lời phê rất sâu sát như sau . Xin mời quý bạn đọc kỹ :
- « Một bài viết như vậy , nếu Vũ Hạnh có can đảm nhận lãnh trách nhiệm của mình -- như Chân Tín đã làm , như Nguyễn Ngọc Lan cũng có can đảm xác nhận -- thì ông đã chuộc được phần nào những phản phúc mà ông đã dành cho bạn bè ông khi Cộng Sản vào thành . Đằng này , ngờ đâu sau khi chị Irina đã cất công dịch sang tiếng Nga cho đăng báo Nga thì Vũ Hạnh ở nhà vội phủ nhận mình là tác giả bài báo . Để cho Hà Nội có thể ngụ ý là chị Irina đã bịa đặt ra bài báo , chứ làm gì có một bài báo như vậy ( Thành thử trong Bút Ký , chị đã phải cho in phóng ảnh cả tuồng chữ của Vũ Hạnh để anh khỏi chối được mãi ) . Thì ra , anh không hơn gì nhân vật mô tả trong Ly Thân của Trần Mạnh Hảo , chỉ giỏi nghề đón gió -- và khi thấy gió ngược chiều thì vội vã tháo bỏ hết cả nhân phẩm của mình để lộ nguyên hình là một thằng hèn » .

Chúng ta hẳn biết chỉ có một Vũ Hạnh mà thôi , nào đâu có Vũ Hạnh thứ hai là nhân vật do chị Irina tưởng tượng ra ! Trong photocopy bức thơ của Vũ Hạnh gởi cho chị Irina còn có ghi cả địa chỉ của Vũ Hạnh ở Sài Gòn kia mà , này nhé : 647 Điện Biên Phủ , Q3 . Thành phố Hồ Chí Minh . Trước sau chỉ có một Vũ Hạnh đó mà thôi ! Đó là Vũ Hạnh , đảng viên Việt Cộng nằm vùng ở Sài Gòn trước ngày 30/04/1975 . Đến khi Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam , đến ngày 03/04/1976 , công an Việt Cộng mở chiến dịch hốt gọn các nhà văn , nhà thơ , nhà báo , nghệ sĩ tự do ở Việt Nam cho vào tù và nghe đâu danh sách các văn nghệ sĩ ấy là do Vũ Hạnh thiết lập . Trong hồi ký của Tạ Tỵ , quyển Những KhuônMặt Văn Nghệ Đã Đi Qua Đời Tôi , thì danh sách ấy do Vũ Hạnh cùng thiết lập với Sơn Nam .

Bàn về ngày bi thảm 03/04/1976 , ngày mà sau nầy chính thức trở thành Ngày Văn Nghệ Sĩ Việt Nam , nhà văn kiêm nhà báo Trần Dạ Từ viết : "Trong những trang đen tối nhất của lịch sử văn hoá nhân loại , kể cả thời vua Tần đốt sách chôn học trò ở phương Đông , Nê Rô đốt thành La Mã ở phương Tây , Mao Trạch Đông làm cách mạng văn hoá ở Hoa Lục , sự bách hại nhắm riêng vào giới cầm bút và nghệ sĩ , chưa bao giờ đạt tới mức qui mô như biến cố ngày 03/04/1976 ở Việt Nam , cả về tính cách lẫn thời gian» .

Xin trở lại thời gian Vũ Hạnh nằm vùng dưới chính thể Việt Nam Cộng Hoà , khi được lảnh tiền nhuận bút 120 ngàn đồng ( giá trị bằng 8 cây vàng ) cho một quyển sách , với tiền thù lao xứng đáng như vậy , Vũ Hạnh như là người đang được ăn chiếc bánh thật mà trong lòng cứ chết mê chết mệt đeo đuổi theo chiếc bánh vẻ do Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản rêu rao từ năm 1945 .
Chuyện Văn Nô Phục Vụ Lâm Tặc : Một Chỉ Vàng
Việt Nam Cộng Hoà đang trên đà phát triển theo cùng một nhịp với Đài Loan và Đại Hàn , thì bị bức tử vào ngày 30/04/1975 . Ôi thôi rồi ! Những Ngày Tháng Năm Đẹp của Thế Kỷ 20 ! Công lao tranh đấu ôn hoà của Cựu Hoàng Bảo Đại ( sau là Quốc Trưởng ) để tranh đoạt độc lập từ trong tay Pháp ! Đến Đệ Nhất Cộng Hoà với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Đệ Nhị Cộng Hoà với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu . Quân Dân Cán Chính miền Nam đã can trường chống trả bộ đội Việt Cộng ở ngoài chiến trường mà còn phải lo đón đỡ những đòn đánh lén của nhóm Việt cộng nằm vùng như Vũ Hạnh ở hậu phương ! Rồi còn phải hứng chịu biết bao nhiêu điều thoá mạ trên mặt trận tuyên truyền vu khống của Việt Cộng , bị mang tiếng nào là Việt gian bán nước , bồi Tây , tay sai Mỹ Nguỵ , Thiệu Kỳ ác ôn …

Những Ngày Tháng Năm đẹp của thế kỷ 20 đã sang trang nhưng đã đi vào Lịch Sử như một Điểm Son sáng chiếu để rồi bị thay thế bằng những trang sử đen tối nhất từ đấy cho đến đầu thiên niên kỷ thứ ba và kéo dài cho đến bao giờ ! Trên những trang sử vô cùng đen tối ấy , thử xem ta có thể đọc được đôi ba dòng về cuộc sống của giới văn nghệ sĩ hay không ? Đây , những dòng chữ ảm đạm tác giả Bùi Ngọc Tấn cố gắng và can đảm viết thật rõ nét cho chúng ta được đọc . Trong quyển Viết Về Bạn Bè , tác giả Bùi Ngọc Tấn thố lộ rằng vì chưa viết được về mình thì hãy viết về những bạn văn và những nhếch nhác trần ai của họ . Có ba người bạn văn của tác giả , Đình Kính và Chu Lai là hai nhà văn quân đội và Nguyễn Quang Thân là tác giả nhiều thiên tiểu thuyết một thời làm say mê độc giả ở quốc nội . Trong cảnh nhếch nhác trần ai ấy , ba nhà văn , vì muốn có tiền , chỉ còn cách dùng văn tài của mình để đi viết thuê , tức là làm văn nô , chứ không phải viết cho mình ! Bùi Ngọc Tấn viết :

- « Để có tiền , nói cách khác , để sống còn , thôi thì đành gác lại những trang sách vẫn nghiền ngẫm nung nấu , những tác phẩm sẽ được viết ra bằng tim gan mình . Hãy để lại sau . Để đến bao giờ chưa biết , nhưng trước mắt là kiếm sống . Đình Kính , Chu Lai , Nguyễn Quang Thân đã phải ép mình chấp nhận viết thuê cho viên giám đốc một lâm trường quốc doanh . Dĩ nhiên , họ không thể viết theo ý mình . Họ phải vận dụng ngôn từ , chữ nghĩa , kể cả những mánh lới mang tính lưu manh , để thoả mãn ý muốn của người thuê viết , là biến Rừng Xưa Lá Úa trở thành Rừng Xưa Xanh Lá » .
- « Rừng xưa lá úa . Nhưng những con người đến cùng rừng hôm nay đã thay lá cho rừng . Không phải đất trời , sự vận động của thời tiết , của bốn mùa đã làm nên điều ấy . Mà chính là con người . Con đường mới mở trong rừng đâu phải chỉ làm bằng máy móc . Trước hết , nó được làm bằng trí tuệ , bằng tinh thần trách nhiệm , lòng yêu nước , yêu chủ nghĩa xã hội của những người làm việc âm thầm không cần ai biết đến ... Rừng thay lá . Rừng sống lại . Rừng lại hát khúc ca hùng tráng của rừng » .
- « Những cây bút viết thuê nầy biết rằng họ phải bịa , cho dù phải cúi mặt vì xấu hổ với lương tâm . Nhưng biết làm gì khác hơn khi vợ con , bố mẹ và cả chính mình còn có một thứ nợ đời phải trả . Đó là nợ áo cơm . Bằng mọi giá họ phải đáp ứng đòi hỏi của người thuê là hoàn tất cuốn sách có tên Rừng Xưa Xanh Lá trong thời hạn hai tháng được nuôi ăn , và sau khi hoàn tất được trả công mỗi người đúng một chỉ vàng như đã quy định trong hợp đồng từ lúc khởi đầu » .

Dưới ngòi bút của Bùi Ngọc Tấn thì ba bạn văn của ông phải bẻ cong ngòi bút , không phải để làm bồi bút cho đảng Cộng Sản , mà còn tệ hơn nữa , là làm văn nô để viết thuê cho viên giám đốc lâm trường quốc doanh vốn là phường lâm tặc . Món tiền còm nhuận bút một chỉ vàng trả công cho mỗi một người bạn văn ấy chính là tiền tên thủ trưởng lâm tặc đã phá hoại tài nguyên của đất nước mà tư túi riêng cho mình .

Xin trở lại chuyện nhà văn Vũ Hạnh . Không cần phải chờ đến thiên niên kỷ thứ ba , để ông đọc tác phẩm Viết Về Bạn Bè của Bùi Ngọc Tấn , ông mới biết các nhà văn sống dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa nghèo khổ như thế nào . Theo bài Mặt Đối Mặt Với Nhân Dân của ông viết vào năm 1990 , chỉ sau ngày giải phóng 15 năm , ông đã mở mắt để thấy rõ sự thất bại của Xã Hội Chủ Nghĩa và vì ông là văn sĩ với tâm hồn dễ dàng rung cảm , nên hẳn ông cũng rất thương xót cho số phận hẩm hiu của ba nhà văn xấu số kia phải sống đoạ đầy trong kiếp văn nô . Tôi thiết nghĩ chắc có nhiều độc giả cũng muốn biết số phận của Vũ Hạnh như thế nào dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa , có giống như số phận hẩm hiu khốn khổ của ba bạn văn của Bùi Ngọc Tấn hay không ! ? Thì có khác gì với những văn nghệ sĩ và trí thức Hà Nội đã bỏ thủ đô theo Hồ Chí Minh lên Việt Bắc kháng chiến chống Pháp : kháng chiến thắng lợi , trở về thủ đô Hà Nội để thấy Dân Tộc bị mất tự do dân chủ và nô lệ cho Liên Sô và TC . Họ lại đứng lên tranh đấu bằng ngòi bút của mình trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm . Nhưng họ lại bị đàn áp khủng bố , tù đày , đói rách , khốn khổ đến mức : sự thật đã có những nhà văn viết đêm , không có một tách cà phê để uống ! Đã có những thi sĩ không làm thế nào mua được dăm điếu thuốc lá trong cơn nghiện ! Và đã có một kịch sĩ bán chiếc đồng hồ đeo tay của mình để bồi dưỡng viết cho xong cuốn sách , nhưng in ra không đủ tiền để chuộc chiếc đồng hồ ! Còn Hữu Loan , trong căn nhà nhỏ trong đêm tối , chỉ mơ ước có một ngọn đèn dầu để thức mà viết !

Bây giờ , tôi xin trở lại đề tài Có một Vũ Hạnh hay có hai Vũ Hạnh ? Chắc có nhiều bạn đọc cho rằng Vũ Hạnh thứ nhất đã viết bài phê bình đảng năm 1990 là Vũ Hạnh can đảm . Còn Vũ Hạnh thứ hai là Vũ Hạnh hèn nhát , không có cái đảm lược như Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan , nên đã chối rằng không có viết bài của mình . Đó là Vũ Hạnh hèn như nhân vật trong truyện Ly Thân của Trần Mạnh Hảo mà Nguyễn Ngọc Bích đã phê bình . Nhưng không phải vậy . Người viết xin phép không muốn dùng chữ "hèn" để phê bình Vũ Hạnh và cũng xin ông Nguyễn Ngọc Bích thứ lỗi vì đã không phê bình nhất trí với ông .
Ở Miền Bắc , Ai Cũng Mang Họ « SỢ »
« Tránh voi không xấu mặt nào » cổ nhân ta dạy thế . Trong một chế độ coi rẻ sinh mạng con người và không từ nan bất cứ thủ đoạn nào để tiêu diệt người đối lập , ai ai cũng phải áp dụng triết lý sống như Nguyễn Tuân : « Tao mà còn sống và viết được đến ngày hôm nay là nhờ tao BIẾT SỢ chúng mày ạ ! » , cụ vừa nâng ly rượu vừa nói mà nước mắt chảy ròng ròng ! Còn nhạc sĩ Văn Cao , trước khi lìa đời hai tuần lễ , mới dám nói với một phóng viên ngoại quốc : « Bây giờ tôi đã 73 tuổi , tôi không còn biết sợ gì nữa . Chẳng ai giết tôi được nữa » .

Nhà thơ Chế Lan Viên đã ăn Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh suốt đời . Nhưng đến cuối cuộc đời , bị ăn quá nhiều Bánh Vẽ nên phát ách , ông mới tuôn những dòng thơ phản ứng như sau :

Chưa cần cầm lên nếm , anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn ,
Cầm lên nhấm nháp
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Đêm vui !
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết

Ngay đến người hùng Điện Biên Phủ là đại tướng Võ Nguyên Giáp còn phải ép mình nhẫn nhục thay . Xin nhắc lại chuyện khủng bố do cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ chủ xướng : chỉ trong một đêm , họ sai công an bắt sạch sẽ mấy chục tướng tá trực thuộc bộ Tổng Tham Mưu thân cận của tướng Giáp đem về tra khảo tàn nhẫn bắt nhận tội nói xấu tổng bí thư , mặc dầu những ông sĩ quan nầy có đến ngót nghét 40 tuổi đảng . Vậy mà tướng Giáp không một lời phản đối để binh vực thuộc hạ của mình . Về vụ việc này , tác giả Bùi Tín có hỏi tướng Giáp sao không can thiệp để đòi công bằng cho những người làm dưới quyền ông bị bắt giam oan ức thiệt thòi hàng mấy chục năm ( Trích quyển Hoa Xuyên Tuyết trang 143 ) . Ông trả lời đại ý : có chứ , nhưng không thể làm gì nổi trong cái cơ chế kỳ lạ này , khi ngành tổ chức , ngành an ninh là chúa tể , lộng hành . Nếu không cẩn thận thì tất cả còn bị trù nặng nề và kéo dài hơn nữa , và bản thân ông cũng bị tai hoạ như chơi !

Một đoạn văn của Lạc Nam trong bài Diễn Tiến Hoà Bình ( Bán Tuần Báo Việt Luận , ngày 05/04/2005 ) : « Trong Bộ Chính Trị , người duy nhất biết đọc biết viết là Võ Nguyên Giáp bị kết tội « chống đảng » . Ông là người có uy tín trong quân đội và nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ . Chính Lê Đức Thọ và Lê Duẩn hỏi cung trực tiếp và buộc Võ Nguyên Giáp nhận tội « chống đảng » … Rồi sau đó , mỗi lần có tiếng chuông bấm ngoài cổng , thì cả gia đình Võ Nguyên Giáp đứng tim vì tưởng người ta lại đến bắt chở đi … » .

Đốn ngả hết tay chân bộ hạ của tướng Giáp chưa đủ , phe cánh Lê Duẩn còn hạ nhục ông , bắt ông phải phụ trách việc hạn chế sinh đẻ thuộc công tác kế hoạch hoá gia đình . Vụ việc nầy làm cho ngoài dân gian có câu vè truyền tụng :

« Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em » .

Và một câu vè khác :

« Ngày xưa đả viện công đồn
Ngày nay đại tướng bịt l ... chị em » .

Vì thế có người viết bài rằng » Đại tướng đã thắng Pháp , nhưng thua Đảng » .
Có Một Vũ Hạnh Hay Có Hai Vũ Hạnh
Vì tình trạng đất nước mình như thế cho nên tôi không dùng chữ « hèn » với nhà văn Vũ Hạnh , nhất là thời điểm sau khi chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu và Liên Sô sụp đổ , công an Cộng Sản càng ra sức đàn áp khủng bố tàn bạo độc ác hơn bao giờ hết .

Nhưng thưa quý bạn đọc , để trả lời câu hỏi Có mấy Vũ Hạnh , xin trả lời ngay là có hai Vũ Hạnh :

1 - Vũ Hạnh thứ nhất là Vũ Hạnh nằm vùng được thưởng thức chiếc bánh thật để phá hoại Việt Nam Cộng Hoà ( « nằm vùng » mà lại được ăn bánh thật ! )
2 - Vũ Hạnh thứ hai là Vũ Hạnh Quan Chức Đỏ được ăn cái bánh vẽ to tướng do Bác Hồ và Đảng Cộng Sản ưu ái đút cho trong chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam .

Viết đến đây , tôi chợt nhớ lại chuyện « Con Chó Và Miếng Thịt » trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư mà ngày xưa , trước năm 1945 , học sinh nào cũng có đọc . Nội dung chuyện nầy bàn về việc thả mồi bắt bóng y như câu chuyện bánh thật và bánh vẻ của Vũ Hạnh , cho nên tôi cũng xin sao chép lại để đọc chơi cho vui . Câu chuyện trong sách Giáo Khoa Thư ngày xưa nguyên văn như sau :
- « Một hôm , một con chó vào hàng cơm ngoạm trộm miếng thịt . Người nhà hàng trông thấy , vác gậy đuổi theo . Con chó đâm đầu chạy . Khi chạy đã xa , đến một cái cầu , con chó dừng lại để ăn . Nhìn xuống sông , thấy có một miếnng thịt to hơn miếng thịt đang ngậm trong miệng . Nó liền nhả ngay miếng thịt ấy ra , nhảy xuống sông định lấy miếng thịt ở dưới nước . Nhưng nào có lấy được ! Chẳng qua chỉ là bóng miếng thịt nước chiếu lại mà thôi . Còn miếng thịt , dòng nước cuồn cuộn kéo đi , con chó hết sức đuổi theo cũng không sao lấy lại được nữa .

Ôi ! con chó lấy trộm thịt là có tội , con chó nhả bỏ miếng thịt là khờ dại . Thả mồi bắt bóng , bóng bắt chẳng được , mồi kia không còn , chẳng là đáng tiếc lắm sao ! Người ta ở đời chẳng nên đứng núi này , trông núi nọ , đã được voi , lại còn đòi tiên . Cái gì đã nắm chắc trong tay , ta chớ nên buông ra mà chực những cái hão huyền đâu đâu » .

Người dân ở nông thôn Việt Nam sống gần thiên nhiên cũng có nhận xét tương tự :

Con cá trong lờ dật dờ đôi mắt ,
Con cá ở ngoài lúc lắc chun vô .

Bạn đọc thân mến ơi ! Đó chỉ là chuyện chó và cá , mà sao lại giống y như chuyện Vũ Hạnh và chuyện Dân Tộc Việt Nam mình vô cùng !
Nhận Xét Của Bùi Tín Về Miền Nam
Sau ngày 30/04/1975 , Bùi Tín sống ở Sài Gòn trong 4 năm liền . Cùng với nhiều người từ miền Bắc vào Nam sinh sống , Bùi Tín đã « khám phá » miền Nam , đúng như nó vốn có , chứ không như trước đó được Đảng tuyên truyền . Trong quyển Mây Mù Thế Kỷ , xuất bản ở Paris Mùa Thu 1998 , tác giả Bùi Tín viết ( trang 28 ) : « Chúng tôi dần dần thấy rằng , chế độ chính trị ở miền Nam có những cái dở , cái kém , nhưng dù sao nó cũng có điểm trội hơn miền Bắc , như có tự do kinh doanh , đặc biệt là có tự do báo chí , ngôn luận , có báo tư nhân , có tự do xuống đường , biểu tình , tuần hành , tán phát truyền đơn , có tự do tín ngưỡng … là những điều ở miền Bắc chưa từng có » .

Đó là những quyền căn bản người dân miền Nam đã được hưởng , và nhạc sĩ Phạm Duy còn được thêm » quyền tự do sáng tác » vì chính ở miền đất đẹp phương Nam đó , người Nhạc Sĩ họ Phạm tài ba của thế kỷ , cũng như tất cả các văn nghệ sĩ khác nhất là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn , tất cả đã » sống những ngày phong phú nhất đời mình » . Nhưng sau ngày 30/04/1975 , Đảng đã lấy lại hết , không còn tự do nào cả , và phát cho Cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh !
Tâm Sự Ngậm Ngùi Của Cụ Vũ Đình Huỳnh
Trong quyển hồi ký Hoả Lò , tác giả Nguyễn Chí Thiện có nói về một người làng Vân Đình , cùng quê với cụ nghè Dương Khuê , vào đảng năm 25 tuổi , là bộ đội đã tham dự chiến dịch Biên Giới và Điện Biên . Anh đã « giác ngộ » tương đối sớm , nhưng cũng quá muộn để làm lại cuộc đời . Sau Cải Cách Ruộng Đất , sau vụ Nhân Văn , anh biết mình đã lầm . Khi đất nước thống nhất , anh có dịp đi công tác vào Nam ngay và có nhận xét ( trang 218 sđd ) :
- « Qua vùng đồng bằng sông Cửu Long , tôi thấy tận mắt nông dân dùng cả gạo để nuôi lợn . Quá no đủ . Đầy tình người . Đặt chân tới thành phố Sài Gòn , tôi giật mình . Phồn thịnh quá ! Hạnh phúc quá ! Trẻ con thời ngoan ngoản , lễ phép . Hoá ra tuyên truyền toàn bố láo . Cả một cuộc sống như vậy mà không biết giữ lấy . Thực đáng tiếc , đáng trách » .

Trở ra Hà Nội , anh có dịp gặp lại cụ Vũ Đình Huỳnh . Cụ là người quen cũ vì trong thời kháng chiến , anh đã có gặp cụ vài lần . Đây là lời anh thuật trong lần tái ngộ nầy ( trang 219 sđd ) :
- « Một cụ già đạo mạo , trang trọng . Nét cương nghị , trung thực , hiện rõ trên vẻ mặt ưu tư , buồn buồn . Cụ ngậm ngùi nói với tôi : « Anh bạn ạ , Sài Gòn là thành phố bị chiếm đóng . Không phải là thành phố được giải phóng . Chỉ vài năm thôi , nó sẽ giống Hà Nội . Tôi cả đời đi làm cách mạng , hy sinh tất cả , chỉ mang trong lòng một nguyện ước : đất nước được độc lập , dân tộc được tự do , no ấm . Tôi đã không làm được điều đó . Thực đắc tội với đồng bào » .
Sài Gòn Năm 1979 Dưới Mắt Vũ Thư Hiên
Sau đây là vài câu chuyện phụ hoạ để tô thêm vài nét thê thảm cho Cái Bánh Vẽ Hồ Chí Minh . Trước hết là chuyện Sài Gòn Năm 1979 Dưới Mắt Vũ Thư Hiên . Bị giam cầm 9 năm không xét xử , được thả vào năm 1976 , và đến tháng 12/1979 thì tác giả « Đêm Giữa Ban Ngày » Vũ Thư Hiên vào được Sài Gòn . Vũ Thư Hiên thuật về chuyến đi và nhận xét về thành phố Sài Gòn như sau ( trang 288 sđd ) :

- « Đó là chuyến đi nhớ đời , rất vất vả từ việc xin cấp Thông hành thay cho Chứng minh nhân dân mà tôi chưa có , tới việc mua vé máy bay . Vào tới tận Chợ Bến Thành rồi tôi mới tin là mình không bị cản lại . Cuộc sống ở Sài Gòn khác xa cuộc sống ở miền Bắc , mặc dầu Sài Gòn 1979 đã không còn giống thời nó là « hòn ngọc minh châu trong Á Đông » . Chế độ tem phiếu đã được áp dụng » .
- « Bữa cơm của dân chúng đã phải độn bo bo , chẳng khác gì ở Hà Nội . Nhưng Sài Gòn vẫn sầm uất , vẫn nhộn nhịp , vẫn cố gắng để có cuộc sống riêng , chứ không sống theo chỉ thị . Thành thử nếu gọi cảnh Sài Gòn 1979 là tiêu điều thì không biết gọi cảnh Hà Nội bằng gì cho đúng » .

Theo như câu vè mới phát sinh vào lúc đó « Người Nam nhận họ , Người Bắc nhận hàng » , tình bà con họ hàng thân thương kẻ Nam người Bắc đùm bộc lẫn nhau được nhà văn Vũ Thư Hiên phác hoạ bằng nét chấm phá : « Người Hà Nội tiếp tục vào Sài Gòn kìn kìn khuân ra tivi , tủ lạnh và trăm thứ bà dằn khác » . Nhưng chữ bà dằn anh Vũ Thư Hiên dùng , thì ở trong Nam chúng tôi quen miệng nóihằm bà lằng , và có người còn nói hằm bà lằng xắng cấu cho có vẻ giống đồng bào Người Việt Gốc Hoa .
Sài Gòn Năm 1977 Dưới Mắt Lương Thành Nĩ
Lương Thành Nĩ là người tỉnh Tây Ninh theo đạo Cao Đài , tác giả quyển Thực Trạng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam xuất bản ở California , tháng 01/1995 . Quyển sách dài 400 trang , được bố cục thành 82 « chương chuyện » , mỗi chương là một câu chuyện ngắn , gọn , đầy đủ ấn chứng , rất dễ đọc . Lương Thành Nĩ viết với tâm niệm cao cả rằng ( Trích Lời Tựa , trang 3 sđd ) « Mọi người chúng ta hãy làm một điều gì dù là nho nhỏ , hầu góp phần đừng để cho những kẻ gian trá , vốn đã lừa đảo được gần như mọi người trên khắp Thế Giới trong chiến tranh , không còn se tròn , bóp méo được nữa đối với sự thật và lịch sử … » .

Ở chương IIL nhan đề Be Bờ Cộng Sản , thời điểm sau 1954 , Lương Thành Nĩ nhắc lại câu nói của Hồ Chí Minh ( trang 88 sđd ) : « Ngày nào miền Nam chưa được giải phóng , đồng bào miền Nam còn đói khổ , tôi ăn không ngon ngủ không yên » .

Ngon ! Hồ Chí Minh ngon ! Đúng là lời nói của kẻ tiểu nhân vô lại tự mình tôn vinh là « Cha Già Dân Tộc » rồi được cả « bầy đàn » văn nô tung hô ! Hồ Chí Minh quá gian xảo đã láo khoác vo tròn bóp méo lịch sử ! Vào lúc đó miền Nam nào có đói khổ đâu , chính miền Bắc đang đói khổ mà « Bác » lại không lo . « Bác » chỉ cho dân « Ăn Bánh Vẽ » và lo đem quân vào đánh chiếm miền Nam cho kỳ được ! Hãy xem màn kế tiếp của Vở Bi Hài Kịch Giải Phóng Miền Nam .

Rồi miền Nam được « giải phóng » ngày 30/04/1975 . Lương Thành Nĩ viết tiếp : « Đến 1977 khi có lập loè cởi mở , phương tiện đi đứng đỡ eo hẹp , người từ Bắc ùa vào Nam LÀM KẺ HÀNH KHẤT ăn xin với mức độ không tưởng tượng nổi . Hầu như vào bất cứ một quán ăn hay giải khát nào dù nhỏ hay lớn ở tại Thành phố hay Thị xã , Thị trấn nào cũng có người đến than thở cầu mong giúp đỡ . Nhưng thực khách không phải xót dạ nếu những kẻ ăn xin kia là người có tuổi , già cả , có lẽ bởi quá xa xôi nên các cụ không còn sức khoẻ để đi từ Bắc vào Nam làm hành khất . Mà thực khách chỉ phải xót dạ vì những chị phụ nữ còn trẻ trung , khoẻ mạnh tay bồng con và những anh thanh niên trai tráng , có những người trông thật là khôi ngô , tuấn tú nhưng quần áo thì dơ bẩn nhăn nheo , cử chỉ thẹn thùng , cặp mắt trắng bệt mở lờ đờ , nhìn thấy họ chẳng còn một chút tự tin nào ! » .

Về cái xã hội mà Hồ Chí Minh và Lê Duẩn xây dựng ở miền Bắc từ 1954 đến 1975 , tác giả Lương Thành Nĩ , người dân Tây Ninh đã can đảm đứng lên nói thay Dân Tộc , và đặt câu hỏi về tương lai của Đất Nước : « Nhìn hình ảnh thanh niên của một xã hội chẳng còn niềm tin thì chắc ai cũng biết mức độ sung mãn của cái xã hội ấy như thế nào rồi phải không , thưa quí vị ? ! » .
« Tự Do , Cơm Áo , Hoà Bình » Không Còn Nữa
« Tự Do , Cơm Áo , Hoà Bình » là một Ca khúc được sáng tác trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc Nam Bộ Kháng Chiến . Nhạc sáng tác do anh Nguyễn Văn Thông , một nhạc sĩ vĩ cầm , biệt hiệu Lữ Sinh . Vào lúc đó , anh phụ trách dạy nhạc cho Trại Huấn Luyện Cán Bộ Thanh niên và Thiếu nhi tại địa điểm Cồn Lớn sát bờ biển Thạnh Phú , tỉnh Bến Tre . Một buổi trưa trong trại , nhạc sĩ Lữ Sinh đưa bản nhạc anh vừa viết xong cho Xuân Tước và bảo : « Tao viết nhạc , mầy làm lời đi ! » . Xuân Tước viết trong quyển Hồi K‎‎‎ 60 Nדm Cầm Bתt ( Nhà Xuất Bản Văn Nghệ , trang 31 ) :
- « Thế là tôi ngồi xuống . Anh nâng cây vĩ cầm lên , kéo cho tôi nghe một lần . Thấy hay , tôi bảo anh đàn lại , rồi chỉ trong vòng nửa tiếng đồng hồ sau , chúng tôi đã hoàn tất ca khúc « Tự Do , Cơm Áo , Hoà Bình » .

Xuân Vũ viết tiếp : « Lữ Sinh khoái quá . Ngay hôm sau , anh đem bài hát ra tập cho trại sinh » .

Lời ca của bản nhạc như sau :

Làm sao khắp chúng dân đều tự do ,
Làm sao khắp muôn dân đầy cơm áo ?
Làm sao khắp thiên hạ hưởng hoà bình ?
… … … … … … … … … … … … … … … … …
Vùng lên quyết tranh phần sống ,
Tự do , hạnh phúc kia rồi .
Hoà bình , no ấm chào đón ta ! » .

Thế vì sao « Tự Do , Cơm Áo , Hoà Bình » không còn nữa ? Đến 45 năm sau , câu chuyện mới được tiếp nối do bức thư của Xuân Vũ gởi cho Xuân Tước . Nhắc lại chuyện xưa lúc ở Trại Huấn Luyện Cồn Lớn , Xuân Tước là người điều khiển trại còn Xuân Vũ là một trại sinh thiếu nhi 16 tuổi . Năm 1992 , lúc hai người đều sống đời tỵ nạn trên đất Mỹ , Xuân Vũ chép nguyên cả bài « Tự Do , Cơm Áo , Hoà Bình » gởi cho thầy mình là Xuân Tước với lời chua thêm như sau :
- « Đây là bài hát phổ biến nhất Nam Bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và đã được Hà Nội dùng liên tục hơn 10 năm , đặc biệt làm nhạc hiệu cho buổi phát thanh vào Nam , nhưng không hề nhắc đến tên tác giả . Tồi bại hơn nữa , khi chúng cướp được miền Nam thì không dám phát thanh vì sợ cái mà chúng đòi Sài Gòn phải có thì bây giờ chính người Sài Gòn lại đòi chúng phải có cho họ , tức là Tự Do , Cơm Áo , Hoà Bình » .
Câu Chuyện « Sao Chú Không Chờ ? »
Trong một buổi trà dư tữu hậu ở Sydney , một anh bạn giáo chức đồng nghiệp thuật cho tôi chuyện Sao Chú Không Chờ ? mà đã 30 năm qua rồi tôi vẫn còn nhớ . Anh là người miền Bắc di cư , tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm , và được dạy tại một trường trung học ở Sài Gòn . Anh đang an cư lạc nghiệp thì xảy ra cơn Quốc Nạn 30/04/1975 . Cả miền Nam hốt hoảng tìm cách vượt biên . Anh bạn người Bắc di cư của tôi may mắn có một mối tổ chức vượt biên đáng tin cậy . Đồng thời , anh gặp lại một người anh họ là một cán bộ cao cấp từ Hà Nội chuyển vào . Biết anh sẽ cùng gia đình vượt biên , người anh họ mới khuyên : « Sao chú không chờ một thời gian để xem chúng tôi làm việc ra sao đã . Nếu sau này mà thấy chúng tôi không làm được việc thì chú hãy đi » . Lẽ tất nhiên người bạn di cư của tôi vẫn tâm niệm câu nói trứ danh của TT Nguyễn Văn Thiệu : « Đừng nghe những gì Việt Cộng nói mà hãy nhìn kỹ những gì Việt Cộng làm » , cho nên anh không nghe lời khuyên của người anh họ .

Anh bạn nhà giáo vượt biên thành công . Sau một thời gian ổn định nơi đất khách quê người , thì bốn đứa con của anh đều tốt nghiệp đại học : ba đứa là bác sĩ y khoa và một là nha sĩ . Nhắc lại lời khuyên của người anh họ , anh bạn của tôi cười hóm hỉnh : « Anh ấy bảo mình hãy chờ xem , nếu thấy các ổng không làm được việc , thì đến chừng đó mình hãy đi ! Anh nghĩ coi , có lạ không ! Nếu các ổng không làm được việc , thì các ổng phải đi chứ ! Tại sao tôi phải đi ! Té ra các ổng nghĩ rằng các ổng sẽ cầm quyền mãi mãi . Thôi thì mình đi cho được việc ! » .
Xin Đừng Chôn Tôi Gần Việt Cộng !
Người bạn giáo chức của tôi dẫn cả gia đình đi vượt biên , theo cách nói thời thượng , họ không chấp nhận chế độ nên đã Bỏ Phiếu Bằng Chân . Và có một dạo , ai ai ở Việt Nam cũng nói » nếu cột đèn đi được , thì chúng cũng đi rồi » . Sau ngày Quốc Nạn 30/04/1975 , Dân Tộc đã nếm mùi Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh , nên mới tiếc nhớ Những Ngày Tháng Năm Đẹp Của Thế Kỷ , quãng thời gian kể từ lúc Cựu Hoàng Bảo Đại về nước chấp chánh , qua Đệ Nhất Cộng Hoà với Tổng Thống Ngô Đình Diệm , đến Đệ Nhị Cộng Hoà với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ! Thời vàng son đã qua như giấc mộng đẹp ! Đến thời đen tối sống dưới ách Cộng Sản khiến cho ai ai cũng muốn Bỏ Phiếu Bằng Chân . Riêng về Điệp viên Phạm Xuân Ẩn , người đã đóng góp cho ngành tình báo Việt Cộng , qua đời năm 2002 , ông không Bỏ Phiếu Bằng Chân , ông để lại lời trối : « Xin đừng chôn tôi gần Việt Cộng ! » .

Trong tác phẩm Những Huyền Thoại Và Sự Thật Về Chế Độ Ngô Đình Diệm của Vĩnh Phúc , xuất bản năm 1998 , tác giả có thuật chuyện điệp viên Việt cộng Phạm Xuân Ẩn đã ra tay cứu giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến , cựu giám đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị tại Phủ Tổng Thống . Ông Ẩn biết được địa điểm rước tỵ nạn bằng trực thăng cuối cùng vào đêm 29/04/1975 , mới hối hả lấy xe Renault 4 ngựa của mình chở bác sĩ Tuyến đến nơi vừa kịp lúc .

Trong lần tái bản năm 2006 , tác giả Vĩnh Phúc viết thêm ( trang 516 sđd ) : « Sau này , ông Ẩn sống trong tâm trạng u uất và chán nản . Hẳn ông rất hối hận đã chọn lầm đường , đã đem hết khả năng thời trẻ phục vụ cho một l‎‎ tưởng mà ông đặt lầm chỗ » .
Chuyện 3D Của GS Phạm Thiều
GS Phạm Thiều là một vị giáo sư khả kính , người gốc Hà Tĩnh , dạy chữ nho và toán tại trường Trung học Trương Vĩnh Ký . Ông tham gia kháng chiến với chức Chủ tịch Uỷ Ban Kháng chiến Sài Gòn , rút ra khu từ tháng 09/1945 , tập kết ra Bắc , rồi trở về Nam sau 30/04/1975 . Đến năm 1986 , ông treo cổ tự tử . Ông để lại cho đời Lời Phê Bình 3D ( ba chữ D ) về chế độ do Hồ Chí Minh xây dựng như sau :

« DỐT mà lãnh đạo nên làm dại . DẠI mà muốn thành tích nên báo cáo DỐI .
DẠI , DỐT , DỐI đó là ba điều làm cho các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ , làm cho nước ta đi từ sai lầm này đến sai lầm khác » .

Trong tác phẩm « Những Ngày Qua » , bác sĩ Trần Ngươn Phiêu ghi lại Lời Phê Bình 3D trứ danh nói trên và cho biết cảm tưởng về cái chết đau thương của GS Phạm Thiều như sau ( trang 182 sđd ) :
« Không hiểu có phải vì ông đã chán ngán cái cảnh thoái hoá , tham nhũng của cán bộ Cộng Sản sau 1975 hay vì ông nhận thức được cái sai trái của đường lối chủ nghĩa Cộng Sản của Stalin khiến làm sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa ở Trung Âu , nên ông đã ân hận và treo cổ tự tử » .

Cái chết của GS Phạm Thiều đầy bí ẩn . Nhưng nếu cảm tưởng của Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu về sự tự tử của GS Phạm Thiều là đúng thì chúng ta có thể kết luận rằng : GS Phạm Thiều ân hận vì thấy Dân Tộc bị ăn cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh , Giáo Sư không Bỏ Phiếu Bằng Chân , Giáo Sư đành bỏ phiếu bằng mạng sống của mình !
Lời Phát Biểu Của Nguyễn Hữu Thọ
GS Phạm Thiều bỏ phiếu « không ăn cái Bánh Vẽ Của HCM » bằng chính mạng sống của mình năm 1986 , thì 2 năm sau đó , trong kỳ đại hội của Mặt Trận Tổ Quốc họp ở Sài Gòn ngày 25/09/1988 , nổi lên nhiều tiếng nói phản đối Đảng như « Chính sách kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước không phù hợp với thực tiển tình hình đất nước , thậm chí có khi đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích của quần chúng » , « Đảng thay dân làm chủ » , và « Không lấy dân làm trọng mà lấy Đảng làm trọng » …

Cũng tại đại hội trên , Nguyễn Hữu Thọ , lúc đó đang là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhà Nước , đã vô cùng thất vọng trước tình trạnh dân chủ hình thức , dân chủ bánh vẽ của chế độ mà ông đã nhiều năm góp công xây dựng . Ông phát biểu :
- « Nhân dân ai cũng thích cái bánh thật chứ chẳng ai thích cái bánh vẽ … Khuyết điểm lớn của chúng ta là chưa có dân chủ thật sự … Người dân chưa thật sự chọn lựa được những người lãnh đạo theo sự tín nhiệm của họ » .
Sự Phản Tỉnh Của Jean Paul Sartre
Jean Paul Sartre , triết gia hàng đầu của Pháp , là người đã từng ủng hộ phong trào Cộng Sản Thế Giới rất nhiệt thành . Trong lúc phong trào Cộng Sản lên đến cực thịnh tưởng chừng như sắp chinh phục cả thế giới đến nơi , ông cho rằng những người Chống Cộng là chướng ngại vật ngăn cản bước tiến hoá của nhân loại nên mới gọi họ là « Loài Chó Má » ( tiếng Pháp « Chien » ) . Nhưng rồi nhân loại bàng hoàng khi khối Đông Âu và Liên Xô sụp đổ tan tành như lâu đài xây trên cát , để lại những trang sử vô cùng đen tối trong Lịch Sử loài người . Đến lúc đó , nhà triết gia Cộng Sản Jean Paul Sartre xoay đúng 180 độ , lần nầy ông lại dùng « Loài Chó Má » để gọi những kẻ Thân Cộng ( tiếng Pháp « procommunists » ) !

Bây giờ Jean Paul Sartre gọi những người Thân Cộng là « Loài Chó Má » , chỉ « Thân » thôi mà đã là « Chó Má » rồi , chúng ta không biết ông phải dùng từ gì để gọi những người Cộng Sản chính hiệu , nhất là những tên Việt Cộng . Bây giờ , chúng ta có cần phải viết thêm hay không ? Xin hãy để cho Dân Tộc trả lời ! Riêng người viết chỉ xin gọi họ là những » Kẻ Sáng Đảng Mà Mù Tình Dân Tộc , tức là những Kẻ Hết Lòng Trung Với Đảng mà Vô Cùng Bất Hiếu Với Dân » .
Con Đường « Bác » Đi : Từ Kominternchik … Đến Autocolonialist
Xin trở lại đề tài Vũ Hạnh và Cái Bánh Vẽ . Điều bất hạnh cho Dân Tộc Việt Nam là Cái Bánh Vẽ của Hồ Chí Minh lại quá đẹp , đẹp hơn cái bánh thật ngàn triệu lần , và không phải chỉ có một mình Vũ Hạnh muốn ăn bánh vẽ của Bác mà thôi mà có cả triệu triệu người Việt Nam cũng muốn ăn theo . Ôi ! Cái Bánh Vẽ của Bác ! Nhưng điều đại bất hạnh là trong khi Dân Tộc đang thưởng thức chiếc bánh thật thì Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản gây ra cuộc chiến tranh đánh Dân Tộc dài 30 năm , gây năm , sáu triệu người chết và cả chục triệu người bị thương tật ở hai bên chiến tuyến chỉ để cướp lấy cái bánh thật rồi phát cho Dân Tộc Cái Bánh Vẽ Của Bác . Cái bánh thật chỉ để dành cho Đảng . Ôi ! Cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh , Thiên Đường Xã Hội Chủ Nghĩa Của Thế Giới Đại Đồng !

Đến bây giờ thì cái Bánh Vẽ Của Hồ Chí Minh đã nát ruỗng cả rồi và đã trở thành huyền thoại đau thương ! Không còn ai muốn ăn cái bánh ấy nữa . Dân Tộc cũng không còn Bỏ Phiếu Bằng Chânnữa . Nhưng vì Đảng đã dồn Dân Tộc vào chân tường cho nên Dân Tộc phải đương đầu với Đảng thôi , không còn phương cách nào khác . Trong Mùa Bịt Miệng 2007 , việc Dân Tộc đương đầu với Đảng cũng giống như chuyện Lấy Trứng Chọi Đá , chuyện Châu Chấu Đá Xe , chuyện Đội Đá Vá Trời . Nhưng Dân Tộc bị bịt miệng thì mắt lại sáng suốt vô cùng để thấy rất rõ rằng Con Đường « Bác » Đi chỉ là Con Đường Bi Đát , bởi lẽ « Bác » đã đi theo Cuộc Cách Mạng Đã Bị Phản Bội . Trên Con Đường Bi Đát đó , Hồ Chí Minh đã khởi hành ở điểm Quốc Tế Uỷ Kominternchik để cuối cùng dìu dắt Băng Đảng thành những tên Thực Dân Lô Canh hay Thực Dân Bản Địa Autocolonialists , như Jean Lacouture đã gọi .

Xin mở dấu ngoặc , Jean Lacouture là sử gia Pháp đã một thời hết lòng ủng hộ và ca ngợi Hồ Chí Minh , nhưng sau cùng ông cũng đành hạ bút viết rằng Kẻ Chiến Thắng đã xây dựng được Chế Độ Autocolonialisme , một từ mới do ông chế tác . Theo văn phong của ông , ta có thể hiểu đó là Chế Độ Thực Dân không phải do người Pháp cai trị như ngày xưa mà là Chế Độ Thực Dân Tự Quản hay « Lô Canh » . Có một vài nhà bình luận đã dùng chữ » Nội Xâm » để diễn tả ‎‎ tương tự như vậy . Theo một cách diễn tả rõ ràng hơn , ta có thể nói trong Cuộc Chiến Tranh Của Hồ Chí Minh Đánh Dân Tộc , Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chiến thắng Dân Tộc và đã xâm chiếm Đất Nước làm Thuộc Địa của riêng mình , biến Dân Tộc thành Nô Lệ cho Đảng , và Đảng đã trở thành Thực Dân Lô Canh y hệt như Thực Dân Pháp ngày xưa !

Sử gia Pháp Jean Lacouture không còn ca ngợi Hồ Chí Minh như xưa nữa , cho nên khi ông chế tác danh từ mới Autocolonialisme , tức là Chế Độ Thực Dân Lô Canh , hẳn ông ngụ ý Chế Độ Thực Dân Lô Canh mà Hồ Chí Minh thiết lập cũng không khác gì Chế Độ Thực Dân Pháp thời Pháp Thuộc ngày xưa . Nhưng Dân Tộc Việt Nam thì biết không phải vậy . Chế độ Thực Dân Lô Canh , tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà của Hồ Chí Minh , tức Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa của Lê Duẩn , khi so sánh với Chế Độ Pháp Thuộc ngày xưa thì ĐỘC ÁC , THAM TÀN , BẦN TIỆN , GIAN XẢO , MA GIÁO , QUỶ QUYỆT , KHÁT MÁU hơn gấp nghìn gấp triệu lần .

Đảng Phải Trả Tự Do Nhân Quyền Cho Người Sống , Trả Linh Quyền Cho Người Chết , Và Trả Đất Nước Cho Dân Tộc

Bởi lẽ đó , việc Dân Tộc đương đầu với Đảng trong Mùa Bịt Miệng 2007 tưởng rằng khó mà lại hoá thành dễ vô cùng . Dễ là vì trong hàng ngủ của Đảng Cộng Sản bây giờ , không còn những vị yêu nước thương dân như Cựu Tướng Trần Độ của thuở nào , mà chỉ còn toàn là những Quan Chức Đỏ Cộng Sản rất Sáng Đảng Mà Mù Tình Dân Tộc . Họ cũng tham ô , tàn bạo , khát máu như những Thái Thú Tàu Tô Định , Thoát Hoan , Trương Phụ , Tôn Sĩ Nghị , hay như những tên Pháp xâm lược Henri Rivière , Rigault De Genouilly . Dân Tộc chỉ cần trở về với truyền thống chống ngoại xâm thời Bắc thuộc dài một ngàn năm , hoặc lịch sử một trăm năm chống Giặc Pháp xâm lược là được việc . Truyền Thống Chống Giặc Ngoại Xâm , Sở Trường Của Dân Tộc .

Nhưng thực sự không dễ dàng , công cuộc Dân Tộc đương đầu với Đảng Cộng Sản để dành lấy « Nhân Quyền Cho Người Sống Và Linh Quyền Cho Người Chết » như lời của Hoà Thượng Thích Huyền Quang . Công cuộc Dân Tộc đứng lên để dành Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc và đòi lại Đất Nước cho mình thực sự không dễ dàng bởi lẽ Đảng đã quá ma giáo , quỷ quyệt , và khát máu sau hơn nửa thế kỷ kinh nghiệm độc tài đảng trị . Bây giờ Đảng đã có trong tay vô số công an , quá dư thừa để cho công an mặc thường phục giả làm dân phụ lực với công an mặc sắc phục . Đảng lại quá dư tiền để mướn bọn du đảng đầu trộm đuôi cướp tức là xã hội đen giả làm đầu gấu uy hiếp bằng võ lực những vị tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ , nếu cần thì giết người diệt khẩu , vì thế nên có thêm từ mới là xã hội đỏ . Đảng lại có ngón nghề Bắt Nguội , như vụ Thái Bình Khởi Nghĩa , Đảng chờ đợi cho sự việc tranh đấu lắng dịu và ra lịnh cho công an vào nhà ban đêm bắt những người lãnh đạo đem đi thủ tiêu . Đảng lại « theo thói phụ nữ đánh ghen » dùng ác-xít tạt vào nhà như vụ khủng bố người con gái ông Hoàng Minh Chính , Đảng xử dụng những cách giết người bịt miệng bằng những tai nạn giao thông theo chiêu thức « ném đá dấu tay » , hoặc bằng cách dùng độc dược trộn vào thức ăn cho các tù nhân . Đảng lại có sáng kiến chưa từng thấy trong bất cứ quốc gia dân chủ nào là muốn xoá án tích nên không dùng chứng từ án lịnh mà chỉ dùng khẩu lịnh cho công an trong việc đàn áp các nhà đấu tranh dân chủ dân quyền .

Khi Cựu tướng Trần Độ bị khai trừ ra khỏi đảng và viết Nhật Ký Rồng Rắn , khi cựu Đại tá Bùi Tín và cựu Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Hà Nội Nguyễn Minh Cần trở thành những chiến sĩ kiệt xuất tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ cho Dân Tộc , khi nhà văn Vũ Thư Hiên để hết tâm trí hoàn thành quyển « Đêm Giữa Ban Ngày » để trao cho các thế hệ tương lai , khi nữ sĩ Dương Thu Hương khóc cho Sài Gòn vừa bị mất tên và viết bài « Là Để Ỉa Vào Mặt Kẻ Cầm Quyền » thì cái Đảng Cộng Sản do Hồ Chí Minh thành lập không còn là cái gì cả . Xin lập lại : Cái Đảng Cộng Sản Do Hồ Chí Minh Thành Lập Không Còn Là Cái Gì Cả !
Chủng Loại Homo Sovieticus Trên Đất Việt
Đảng Cộng Sản Việt Nam do Hồ Chí Minh thành lập và xây dựng , trong hơn gần một thế kỷ nay , đã thụt lùi xuống tới mức tàn ác gian xảo đê tiện hèn hạ tận cùng của Loài Người , loài Homo Sovieticus , một Giống Người Mới xuất hiện từ tháng 10/1917 ở Nga . Xin ghi chú : từ ngữ « Homo Sovieticus » rất phổ biến vào thập niên 1980 . Nguyên thuỷ , từ đó dùng để chỉ một chủng loại mới của loài người đột sinh dưới chế độ cai trị khắc nghiệt của Stalin . Chủng loại đó , tức là người dân Nga nghèo khổ , phải mánh mung , lương lẹo , gian trá mới sống còn trong môi trường chính trị của Stalin . Tác giả Aleksandr Zinoviev đã viết quyển Gomo Soveticus được dịch ra tiếng Anh năm 1985 . Ở đây , người viết xin được dùng từ Homo Sovieticus trái ngược với ‎‎ nguyên thuỷ để chỉ những cán bộ , những công an , những cốt cán CCRĐ năm nào , tất cả là những Cây Người Hồ Chí Minh đã trồng trên đất Việt , sau khi đã đào tận gốc trốc tận rễ Trí Phú Địa Hào , thì biến thành những Quan Chức Đỏ , cai trị Đất Nước bằng Luật Rừng Xanh .

Chủng Loại Homo Sovieticus phát sinh từ đất Nga rồi lại bị diệt chủng ngay trên đất nước Nga . Nhưng than ôi ! Những Cây Người Homo Sovieticus ác độc đó do Hồ Chí Minh ( hay Hồ Xít Mao ) mang về vẫn còn tồn tại trên đất Việt thân yêu của chúng ta ! Đó là những kẻ Sáng Đảng Mà Mù Tình Dân Tộc ! Đó là những kẻ Hết Lòng Trung Với Đảng mà VÔ CÙNG BẤT HIẾU VỚI DÂN !
1a / 1b / 2a / 2b / 3a / 3b / 4a / 4b / 5a / 5b
Nhóm Tâm Việt Sydney
Viết tại Sydney , Úc Đại Lợi
Mùa Bịt Miệng 2007

  IX.Những Cây Người Hồ Chí Minh Trồng

Hồ Chí Minh nổi tiếng là đã tuyên bố những lời thật hay . Ngày 02/09/1945 , trước quảng trường Ba Đình , lần đầu tiên xuất hiện trước dân tộc Việt Nam ... Bác đã đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầy những ý tưởng cao đẹp lấy từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của nước Mỹ cùng với Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của cuộc Cách Mạng Pháp năm 1791 .
Lời Quản Di Ngô , Bác Hồ Lặp Lại
Cũng như khi phát biểu trong lớp học tập chánh trị cho hơn 3000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc do Bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13/09/1958 , Hồ Chí Minh đã nói :
- « Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây , vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người » .

Qua ngày hôm sau , báo Nhân Dân đăng câu phát biểu của Bác lên cho cả nước biết , rồi câu đó được biến thành khẩu hiệu treo ở tất cả các trường đại học và trung tiểu học khắp nơi ở miền Bắc . Trong sách báo tuyên truyền của Đảng cũng như trong lòng của những người tôn kính Bác , danh ngôn trên được xem là tư tưởng vĩ đại của Hồ Chí Minh về kế hoạch đào tạo nhân tài cho Đất Nước . Nhưng thật ra , câu trên là lời của Quản Trọng tức Quản Di Ngô thời Xuân Thu bên Tàu khoảng hơn 2000 năm trước . Trong quyển Quản Tử , thiên 3 , nguyên văn câu danh ngôn đó như sau :

Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc
Thập niên chi kế mạc như thụ mộc
Chung thân chi kế mạc như thụ nhân

Hồ Chí Minh cũng bị mang tiếng về tài đạo văn tức là tài ăn cắp văn của người khác làm văn của mình . Nhưng việc đạo văn không phải là chủ đề của chương nầy . Người viết không muốn phạm vào tội kết án « Bác Hồ » đạo văn . Trong lòng người viết , Bác có thể xử dụng và khoe là của chính mình bất cứ danh ngôn nào của những bậc thánh hiền hoặc danh nhân trong sử Việt hay sử thế giới , tỷ như câu nói khảng khái của danh tướng Trần Bình Trọng đời nhà Trần khi bị quân Nguyên bắt và dụ hàng : « Thà làm quỉ nước Nam hơn làm vương đất Bắc » . Nhưng thật bất hạnh cho dân tộc ! Khi Hồ Chí Minh rời Paris như một người lục lục thường tài , đến Mạc Tư Khoa không lâu thì được đề cử vào chức vụ Quốc Tế Uỷ Kominternchik ( năm 1924 ) , cho nên Bác đã phục vụ đắc lực cho Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế để sau này được làm Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Việt Nam và Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà !

Trong niềm tự hào của Dân Tộc , xin mời quý bạn đọc lời tự thuật của cụ Phan Bội Châu về quãng đời niên thiếu của Cụ :
- « Cha tôi thường khách phương xa , làm thầy dạy trẻ . Tôi từ lúc mới sinh cho đến 6 tuổi , dạy dỗ nuôi nấng tự một mình mẹ tôi gánh lấy ... Khi tôi còn bé , mẹ tôi dỗ tôi , nửa câu nói cũng không khinh xuất » .

Khi bậc hiền mẫu như mẹ cụ Phan Bội Châu muốn dạy dỗ con nên người thì nửa câu nói cũngkhông khinh xuất . Còn Chủ Tịch Hồ Chí Minh thì sao , bạn đọc thân mến ơi , vì bản tánh Bác vốn đã dối trá , lại thêm kỹ năng tình báo do KGB đào luyện , Bác đã đóng trọn vai tuồng Cha Già Dân Tộc một cách điêu luyện . Đối với nhân dân tôn sùng Bác , những lời phát biểu , tuyên bố hay dạy dỗ của Bác đều là những lời vàng ngọc trong thời cơ kháng chiến chống Pháp của lịch sử trăm năm có một . Nhưng theo câu vè phổ biến trong thời đại Việt Cộng « Nói Vậy Mà Không Phải Vậy » , khi kiểm chứng lại những điều Bác và Đảng đã tuyên bố đối chiếu với những điều họ đã làm cho Dân Tộc thì thật hoàn toàn trái ngược . Nếu Bác thực hiện đúng những điều Bác đã nói thì thật đại vạn hạnh cho Dân Tộc . Nếu được như thế thì mãi sau nầy vào thập niên 60 , Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu làm gì có dịp nói một câu để đời : « Đừng nghe những gì Cộng Sản nói , mà hãy nhìn những gì Cộng Sản làm ! » .

Bây giờ thì khắp nước ai cũng biết Việt Cộng nói láo như Vẹm ( vẹm là kết tự của VM tức Việt Minh ) , Nguyễn Văn Linh trong giai đoạn cởi mở rồi lại trói buộc nên đã trở thành Nói Và Lờ , còn Hồ Chí Minh thì cứ luôn luôn hô hào đánh ngoại xâm để giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ , nhưng lại thiết lập một chế độ cai trị tàn bạo ác độc quỷ quyệt bỉ ổi nhất trong lịch sử loài người , khiến cho Dân Tộc trở thành nô lệ cho Đảng . Trở lại chủ đề Những Cây Người Của Hồ Chí Minh Trồng , chúng ta cứ ví như khẩu hiệu « Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây , vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người » thật sự là tư tưởng vĩ đại chính từ thiện tâm muốn xây dựng Đất Nước của Bác , chúng ta hãy thử xem Hồ Chí Minh và Đảng đã trồng được những gì . Trước hết , xin mời quý bạn đọc lược qua những cây thảo mộc do Bác ra lịnh trồng . Sau đó , đến phần quan trọng , xin thưởng thức Những Cây Người Hồ Chí Minh Trồng trên đất Việt thân yêu của chúng ta .
Trồng Cây Không Chọn Giống
Câu chuyện trồng cây dưới chế độ ưu việt của Hồ Chí Minh thật giống như chuyện tiếu lâm dở khóc dở cười . Trong thời gian mười năm ( 1982-1992 ) , Hoà Thượng Thích Quảng Độ bị quản thúc ở chùa Long Khánh xã Vũ Đoài , một hôm Hoà Thượng gặp một toán bảy tám cụ ông cụ bà vác cây đến trồng ở hai bên con đường đi vào chùa . Hoà Thượng trò chuyện với các cụ và kể lại như sau :
- « Tôi hỏi các cụ đi đâu thì các cụ cho biết đi trồng cây lấy điểm . Tôi tò mò hỏi các cụ trồng như vậy được bao nhiêu điểm , các cụ cho biết cứ năm cây được một điểm bằng một lạng thóc ... những cây các cụ trồng xong , chỉ ít ngày sau là người ta đã bẻ hoặc nhổ hết vào ban đêm , bởi vậy các em bé chăn trâu cho Hợp tác xã mới làm vè hoan hô các cụ :

« Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín một cây gật gù !
Các cụ cũng chẳng vừa , cũng làm vè phản pháo lại :
Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt gật gù ở đâu ? ! » .

Nghĩa là trong con mắt các cháu thì mười cây còn sống được một cây , nhưng dưới mắt các cụ thì mười cây chết hết cả mười ! Thực ra thì các cụ chỉ trồng chúng xuống để lấy điểm sống qua ngày thôi , còn chúng sống hay chết cũng mặc , các cụ đâu có quan tâm . Còn những người bẻ hoặc nhổ cây đi thì lại nghĩ chúng có lớn lên mình cũng chẳng được dùng , thôi thì nhổ phứt đi cho khuất mắt .

Theo Hoà Thượng Thích Quảng Độ , thì những cây được trồng là bạch đàn , xà cừ , phi lao , và hợp tác xã dùng chúng làm củi đốt , nung gạch , hoặc làm nhà kho . Bàn về chính sách sai lầm trong việc trồng bạch đàn , xin mời quý bạn tham khảo bài viết của một chuyên gia hiếm hoi về môn Dân tộc thực vật học ( ethno-botanique ) , ông Đinh Trọng Hiếu , chuyên gia nghiên cứu Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học Paris và giảng sư Đại Học Paris VII . Ông về nước nhiều lần , có dịp đi thực địa nhiều làng , có làng ở suốt hơn tháng , trải qua chiều sâu của 10 năm theo dõi , quan sát , nghe ngóng , và nhất là sống với những tầng lớp đồng bào bình dân . Ông đã nhận xét và viết như sau ( Trích quyển Hồ Chí Minh , Sự Thật Về Thân Thế Và Sự Nghiệp , tuyển tập nhiều tác giả , trang 219 ) :
- « Tôi đã đứng trên nhiều quả đồi , nhìn Đất Nước đổi thay như vậy , cảm động đến rơi nước mắt . Núi rừng bạt ngàn , trùng điệp vạn dặm , xanh tươi . Tôi cũng đã cúi nhìn từng gốc cây , xem xét từng thớ đất , và hỏi han rất nhiều người . Cảm động đến rơi nước mắt là vì các cụ , đồng bào đã mồ hôi nước mắt gia công vào chuyện trồng cây , mà trồng những 350000 héc-ta san sát , chứ không ít . Nhưng hởi ôi , lại trồng toàn bạch đàn ! Phải nói rõ : rừng bạch đàn là một tai hại . Trồng cây cốt để tái tạo đồi trọc , tránh đất xói mòn , mà bạch đàn được trồng rễ vừa ít ăn sâu lan rộng , tán lại hẹp , lá không che mưa . Lá những loại bạch đàn được trồng , nếu không đủ chất cinéol để cất tinh dầu ( dầu khuynh diệp ) lại quá nhiều chất ấy để tạo mùn cho đất . Cho nên dưới tán bạch đàn cây con khác và cỏ không mọc được , rễ trơ và đất trơ . Lá dùng không được , gỗ cũng lại không dùng được : gỗ bạch đàn dễ vênh , đóng đồ đạc không ai ưa , làm nhà cũng vậy;ca dao ( mới ) có câu :

Thứ nhất là gỗ vàng tâm
Thứ nhì gỗ nghiến , thứ năm ... bạch đàn .

Không có thứ ba , thứ tư gì cả , giáng ngay xuống hàng năm ! ... Bạch đàn trồng như vậy có dùng làm giấy được không ? Cũng không nốt ! Vì thớ gỗ quá ngắn . Chỉ còn dùng làm củi nếu không có thứ gỗ nào khác : khói bạch đàn dễ ám vào cơm ! Hăng hái trồng cây theo lời dạy của cụ Hồ , trồng bạt ngàn bạch đàn , để có những cánh rừng mà nhà báo , nhà địa lý nọ kia đều khen ngợi , nhưng rồi không dùng được vào việc gì , và cũng không giữ được đất , lại chiếm một diện tích quá rộng , lỗi ấy tại ai ? Có phải tại cụ Hồ không ? Người ta đã đổ lỗi cho những nhà nông học TC xúi trẻ ăn cứt gà , nên bây giờ bạch đàn cũ đã trồng từ mấy chục năm nay gọi chung là bạch đàn TC , tạm không trồng nữa , nay trồng một loại cây cũng loại tăng trưởng mau , lá to , gọi là bạch đàn Úc , chưa biết sau này tốt xấu ra sao » .
Dùng Hồng Bỏ Chuyên : Thất Bại Trong Việc Trồng Chuối
Trồng bạch đàn Úc , tức là khuynh diệp Úc , sau nầy xấu tốt ra sao chưa biết , nhưng kế hoạch trồng chuối ở những vùng đồi trọc ở Tây Bắc và Việt Bắc thì thất bại hoàn toàn . Đi tìm nguyên nhân của sự thất bại thì :

« Nguyên nhân chẳng phải sâu đào
Thấy ngay thủ phạm : vàng sao lá cờ » .

( Thơ Nguyễn Chí Thiện )

Ngày nay ai cũng biết Hồ Chí Minh đã xây dựng một chế độ cai trị độc tài đảng trị dựa vào những đảng viên trung kiên xuất thân là bần cố nông thất học , còn hàng ngũ trí thức là mục tiêu hàng đầu bị đàn áp , thường xuyên bị hạ nhục và khủng bố . Về kế hoạch trồng chuối , tác giả Việt Thường trong quyển Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh ( trang 194 ) kể lại câu chuyện như sau :
- « Về chuyên môn nông nghiệp thì dù là kỹ sư nông nghiệp nhưng vẫn phải xin ý kiến về mọi mặt của Hoàng Anh , Bí thư Trung ương Cộng đảng kiêm Phó thủ tướng Chính phủ . Nhân vật này xuất thân là dân nghèo thành thị , nghĩa là chẳng biết nghề nông cũng chẳng biết gì về công , thương hay thủ công nghiệp . Cho nên mới có chuyện Hoàng Anh đã triệu tập một cuộc họp toàn quốc ( tức miền Bắc Việt Nam ) về nông và lâm nghiệp , có đủ mặt chức sắc các tỉnh , thành , khu , các nhà khoa học về nông lâm học và đương nhiên có mặt kỹ sư nông học Nghiêm Xuân Yêm , lúc đó giữ chức Bộ trưởng nông nghiệp . Hoàng Anh phổ biến sáng kiến vĩ đại của ông ta là phủ kín các đồi núi hoang hoá vùng Tây Bắc và Việt Bắc bằng cách trồng chuối . Tiến sĩ lâm học Thái Văn Trừng ( tác giả cuốn sách nổi tiếng Về Hệ Thảm Thực Vật Ở Việt Nam ) đã phát biểu ý kiến rằng cấu tạo bộ rễ của cây chuối không cho nó sống được trên đồi trọc ở Tây Bắc và Việt Bắc . Tất nhiên là kỹ sư nông nghiệp Nghiêm Xuân Yêm , giữ thái độ im lặng , có nghĩa là tuân lệnh của Hoàng Anh . Vì thế , Hoàng Anh đã nổi giận chỉ tay vào mặt tiến sĩ Thái Văn Trừng mắng ở giữa hội nghị , đại ý : « Anh tưởng anh là ai mà làm nguội nhiệt huyết cách mạng dám làm dám nghĩ của đảng của giai cấp vô sản . Chỉ cần có đảng lãnh đạo thì cái gì cũng có thể làm được . Trí thức các anh chỉ là lũ hoang mang , giao động trước các trào lưu cách mạng » .

Sau đó , lệnh trồng chuối của Hoàng Anh được ban hành khắp các tỉnh , các ngành , các giới và đảng đã huy động tiền và nhân công đến các đồi trọc ấy để thi hành . Không kể tiền quyên góp bằng cách cưỡng bức , không kể biết bao dân công được huy động đi sưu , làm không công , cũng như cán bộ , công nhân viên và bộ đội , ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm triệu vào cái sáng kiến quái gở đó của Hoàng Anh . Kết quả là chỉ sau 3 ngày đêm , toàn bộ chuối được trồng chết hết .

Nếu ta biết vào thời gian đó , lương một bác sĩ y khoa mới ra trường là 48 đồng một tháng và sau 2 năm mới tăng được 60 đồng , thì Hoàng Anh đã gây thiệt hại vô cùng to lớn cho công quỹ . Thế mà ông ta vẫn cứ là Bí thư Trung ương kiêm Phó thủ tướng , thôi làm công tác nông nghiệp mà được sang kiêm nhiệm Bộ trưởng bộ Tài Chính ! Còn Tiến sĩ Thái Văn Trừng , tuy lời đề nghị đúng trong phạm vi chuyên môn , nhưng đã bị mắng oan và sau đó , không được một lời tạ lỗi để an ủi .
Chuyện Cây Cộng Sản Và Cỏ Cụ Hồ
Cách trồng cây trong nông nghiệp và lâm học là như vậy , nếu trồng bạch đàn TC không có lợi thì có thể đổi bằng bạch đàn của Úc , nhưng cách trồng người theo lời dạy của « Bác Hồ » còn bi thảm và tác hại khôn lường đến nền văn hoá đạo đức khó có cơ phục hồi . Nhắc lại thời điểm sau hội nghị Genève 20/07/1954 , Hồ Chí Minh và bè đảng từ Việt Bắc kéo về Hà Nội để làm chủ nhân ông trọn cả miền Bắc từ sông Bến Hải trở ra . Họ tha hồ giết người , cướp của , bắt bớ tù đày gây biết bao tội ác và tệ nạn xã hội . Những cây người mà Hồ Chí Minh vừa trồng trên đất Việt được cụ Phan Khôi trong nhóm Nhân Văn dùng lối văn ẩn dụ để viết thành bài Cây Cộng Sản trong tập truyện Nắng Chiều . Đáng lý ra , bây giờ chúng ta đã không biết một tý gì về bài Cây Cộng Sản cụ Phan Khôi viết để châm biếm Đảng nếu không có một vị cứu tinh . Đó là Đoàn Giỏi , một cán bộ trong Nam tập kết , đã giả vờ viết bài đả kích cụ là phản động để phổ biến những nét đại cương của tác phẩm mà Đảng đã cấm không cho xuất bản . Bài đả kích cụ Phan Khôi của Đoàn Giỏi với tựa đề Tư Tưởng Phản Động Trong Sáng Tác Của Phan Khôi nguyên văn như sau ( chỉ xin trích phần phê bình về Cây Cộng Sản ) , xin mời quí bạn thưởng thức văn phong của cụ Phan Khôi trộn lẫn với lối viết lách ( vừa viết vừa lách ) của Đoàn Giỏi :
- « Trở lại bài Cây Cộng Sản , ngay câu đầu , Phan Khôi đã chỉ ngay vào Việt Bắc , quê hương cách mạng : ... có một thứ thực vật nữa cũng như sen Nhật Bản , ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều . Đâu thì tôi chưa thấy , chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có .

Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ , và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang . Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại như rừng , ken kít nhau ( ghi chú của tác giả : ý phá hoại do lịnh Tiêu Thổ Kháng Chiến của Hồ Chí Minh ) . Nơi gọi là Cỏ Bù Xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít , nơi gọi là Cây Cứt Lợn , nơi gọi là Cây Chó Đẻ . Tên đều không nhã tí nào hết , thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt Lợn dại , mà gọi bằng Cây Cộng Sản . Phan Khôi bịa rằng trước kia nước ta không có cây này ( cứt lợn dại ) , người Pháp mang đến trồng ở các đồn điền cà phê , cao su để che đất cho mát gốc .

Không mấy lâu rồi nó mọc đầy cả đồn điền , trừ khử không hết được , nó lan tràn ra ngoài đồn điền . Cái tình trạng ấy bắt đầu có trong những năm 1930-1931 đồng thời với Đông Dương Cộng Sản đang bắt đầu hoạt động , phong trào Cộng Sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy , cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là herbe communiste , đáng lẽ dịch là cỏ Cộng Sản , nhưng nhiều người gọi là cây Cộng Sản . Nó còn một tên nữa rất lạ ...
Phan Khôi bịa ra rằng y gặp một ông già người Thổ
Hỏi ông tên nó là cây gì , ông nói nó là Cỏ Cụ Hồ . Thứ cỏ này trước kia ở đây không có , từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng , thì thấy thứ cỏ ấy mọc lên , không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đồng , người ta không biết tên nó là gì , thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy .

Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt Lợn , cũng gọi là Chó Đẻ , là Bọ Xít , toàn những tên không nhã tí nào hết để gọi nó là Cây Cộng Sản và Cỏ Cụ Hồ ? Cái con người vẫn tự cho là học giả , bản chất phản phúc , con người đã đưa ra thứ triết lý con chó thì phải ăn cứt thì việc mượn tên xấu của một giống cây cỏ , để xỏ xiên nói móc nói chửi cạnh chửi khoé Cộng Sản là cái sở trường của y ! » .

Trên 50 năm đã trôi qua kể từ ngày Phan Khôi sáng tác bài Cây Cộng Sản . Vào thời điểm đó , tức là 1956 , người chiến sĩ lão niên cang cường ấy cùng với hơn 50 văn nghệ sĩ miền Bắc quyết tâm xây dựng Mùa Xuân Hà Nội để mang tự do sáng tác cho văn nghệ và dân chủ cho Dân Tộc . Nhưng Đất Nước thật bất hạnh , Hồ Chí Minh và Đảng lại quyết tâm xây dựng một chính phủ độc tài đảng trị theo chủ thuyết Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông nên đã thẳng tay đàn áp dã man gây nên vụ án Nhân Văn Giai Phẩm ô nhục trong lịch sử .

Những điều Phan Khôi nói về Cỏ Cụ Hồ , Cây Cộng Sản , Cỏ Bù Xít , Cây Cứt Lợn , Cây Chó Đẻ , thật ra là những nhân sự đốn mạt quá hồng mà không chuyên được Hồ Chí Minh trọng dụng chođược việc Đảng mà Phan Khôi quan sát được trong một quãng rất ngắn chỉ 11 năm cầm quyền của Đảng Cộng Sản từ 1945 đến 1956 . Đến thời điểm 1956 , Hồ Chí Minh chỉ mới làm Chủ Tịch Đảng kiêm Chủ Tịch Nước không hơn 2 năm ( kể từ sau hiệp định Genève , Hồ Chí Minh và Đảng làm chủ nhân ông trọn vẹn miền Bắc vĩ tuyến 17 ) và Trần Quốc Hoàn , người Bộ Trưởng Công An đầu tiên của chế độ còn nắm quyền công an thêm 24 năm sau đó . Theo thời gian , Cây Cộng Sản càng đâm chồi nẩy lộc , Cỏ Cộng Sản lan tràn khắp cả Đất Nước phủ kín hết những vùng đất phì nhiêu của trí tuệ và trấn áp sĩ khí của Dân Tộc khiến cho Hoa Tự Do Dân Chủ Nhân Quyền không nẩy mầm được , còn nói chi đến việc đơm bông kết trái !
Những Tên Đao Phủ Của « Cha Già Dân Tộc »
Những Cây Người mà Hồ Chí Minh trồng , những Cỏ Cụ Hồ của cụ Phan Khôi , những Người Không Còn Là Người Nữa Nếu Họ Ôm Chân Đảng của Hoàng Hữu Quýnh ( tác giả quyển Tôi Bỏ Đảng ) , những Bự Giòi của nhà văn nữ Dương Thu Hương ... tất cả những thứ đó đã nắm tay reo hò nhảy múa Sol Đố Mì , chà đạp trên Hồn Thiêng Sông Núi , giày xéo trên Lăng Miếu Đình Chùa di tích lịch sử của tiền nhân , dẫm nát trên xương máu tài sản của Đồng Bào , trên tự do hạnh phúc của Dân Tộc ... tất cả là những Đảng Uỷ và những Công An của Quốc Tế Uỷ Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn Bộ Trưởng Công An Đầu Tiên đào luyện và xử dụng . Sau đây là vài câu chuyện vụn vặt về những Cây Người đó . Xin mời quý bạn xem chúng đã tác oai tác quái như thế nào đối với Đất Nước và Dân Tộc , và đấy chỉ là phần nổi nhỏ nhoi được tiết lộ . Còn phần chìm của Tảng Băng Sơn Tội Ác Cộng Sản vĩ đại xảy ra trong bóng tối như Đêm Giữa Ban Ngày không lời nào diễn tả hết , không giấy bút nào ghi hết cho được , không sử gia nào biên chép lại cho đầy đủ .

Hồ Chí Minh đã chọn Bộ Trưởng Công An dâm dục và tàn ác là Trần Quốc Hoàn ( giữ chức bộ trưởng 27 năm từ 1953 đến 1980 ) , thì phụ hoạ theo phải có những tên đao phủ cai ngục để giam cầm và tàn sát những người mà công an vây bắt . Tác giả Trần Nhu trong quyển « Địa Ngục Sình Lầy » ( trang 111 ) liệt kê những tên đao phủ như Lý Bá Sơ , Tuần Ất , Hãn Đen , Phạm Diến ... Chỉ riêng Lý Bá Sơ , trong thời kỳ diệt Quốc Dân Đảng năm 1945-1946 , đã một tay chỉ huy đội tự vệ hạ sát bằng dao găm mã tấu 4 ngàn người ở dọc bờ sông Dương Úc , Tiên Lãng , ngoại thành Hải Phòng . Y đã được Hồ Chí Minh tặng nhiều bằng khen , và sau này y được chính Hồ Chí Minh cử giữ chức Tổng Giám Đốc Trại giam khu Ba và Tư .

Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn với bút danh Nguyễn Kiên Trung trong quyển Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử có thuật chuyện một đảng uỷ khát máu ở tỉnh Hưng Yên như sau ( trang 63 sđd ) : « Riêng ở Hưng Yên , Học Phi , Chủ tịch Uỷ Ban Hành chính tỉnh , đã công khai hạ lệnh xử tử ít lắm là năm ngàn người , ấy là không kể số người bị thủ tiêu một cách đơn giản ở các phủ , huyện , làng , xóm . Cuộc khủng bố này đã khiến cho tỉnh Hưng yên , trong một năm trời , vắng hẳn bóng những người biết đọc , biết viết . Rồi cũng do đó , tỉnh Hưng Yên sẽ là tỉnh nhiều nhất những người chống VM , không vì chủ nghĩa hay chính trị , mà chỉ vì oán thù trong tang tóc » .
Chuyện Đao Phủ Phùng Thế Tài
Con Bự Giòi khát máu khác của Đảng là Phùng Thế Tài , câu chuyện do tác giả Việt Thường thuật trong quyển « Chuyện Thâm Cung Dưới Triều Đại Hồ Chí Minh » ( trang 66 ) . Vốn là đứa bé chuyên quét chợ và khiên hàng mướn ở chợ Mông Tự tỉnh Vân Nam , Tài lọt vào mắt xanh của Hoàng Văn Hoan và ông dùng Tài làm người bảo vệ . Chính ông đã đề cử Tài vào học trường Quân Sự Hoàng Phố . Tốt nghiệp trường Hoàng Phố , mang cấp bực trung uý của quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng , Tài được chỉ định làm cận vệ cho Hồ Chí Minh . Vì là trung uý đặc vụ của quân Tưởng nên Tài bảo vệ Hồ đi trên đất Tàu rất thuận lợi . Tài thăng tiến nhanh trên đường phục vụ Bác và Đảng , được vào biên chế quân chính quy , lần phong hàm đầu tiên cuối năm 1946 , khi Võ Nguyên Giáp là đại tướng tổng tư lệnh thì Phùng Thế Tài được phong cấp đại tá . Theo tác giả Việt Thường :
- « Máu du đảng cao bồi vẫn vậy , Tài thường xách ba-toong đánh lính và chửi lính . Tài rất ghét lớp lính và sĩ quan có nguồn gốc học trò hoặc tầng lớp trên trong xã hội . Cái mặc cảm đó làm Tài cực kỳ hung hăng , thô bạo với cấp dưới » .

Việt Thường cho rằng Phùng Thế Tài đã không uổng công Hồ Chí Minh tín nhiệm . Trong vụ thanh niên miền Nam tập kết bất mãn vì bị đối xử bất công , chúng đã cướp tỉnh Ninh Bình , bắt giam chủ tịch , bí thư , cùng trưởng ty công an làm con tin . Tướng Tô Ký được lệnh đem quân dàn xếp . Ông đã thuyết phục số thanh niên đó đầu hàng và hứa sẽ khoan hồng cũng như xem xét những khiếu nại của họ . Trên đường về gặp Phùng Thế Tài . Tài ra lịnh đem tất cả số thanh niên nổi loạn đó ra bờ sông Đoan Vĩ ở Phủ Lý bắn chết hết ( trang 69 sđd ) . Tướng Tô Ký khiếu nại lên cấp trên , nhưng Bộ Chính Trị ủng hộ quyết định cứng rắn của Phùng Thế Tài cho nên vị tư lệnh Quân Khu Tây Bắc Tô Ký bị thất sủng và phải ngồi chơi xơi nước . Bây giờ , xét lại vụ việc này , nghi vấn đặt ra là Phùng Thế Tài cấp bực đại tá thấp hơn tướng Tô Ký mà sao lại dám qua mặt thượng cấp . Phải chăng đàng sau đại tá Phùng Thế Tài là ô dù bự của Bác ? Phải chăng Tài đã nhận mật lịnh của Bác ? Nếu đúng như thế thì Hồ Chí Minh chính là người chủ mưu sát hại các thanh niên miền Nam tập kết : Bác đã chơi trò Ném Đá Dấu Tay !

Cuộc Đại Thanh Trừng theo kiểu Killing Field thứ 2 xảy ra trên bờ sông Bạch Hạc ở Việt Trì làm mất mạng gần 200 tân binh gốc Hà Nội . Tên Bự Giòi Phùng Thế Tài cũng là tác giả của vụ tàn sát này . Đó là thời điểm 1970 , vào dịp Tết Nguyên Đán , số tân binh gốc Hà Nội đòi có công bằng trong khi thi hành nghĩa vụ quân sự . Chúng chiếm đoàn tàu hoả và bắt nhân viên trên tàu làm con tin . Phùng Thế Tài nhận lệnh dàn xếp , và một lần nữa , hắn có dịp ra tay chém giết . Hắn dùng trực thăng đổ quân xuống phục kích ở ga Việt Trì tỉnh Vĩnh Phú , dùng loa kêu gọi tân binh xuống sân ga nếu đầu hàng thì sẽ tha tội . Các tân binh quá trẻ , vì dại dột mà làm liều , cảm thấy hối lỗi , xin ra hàng đều bị bắn chết sạch . Khi thuộc cấp kinh hoàng vì số người chết quá nhiều thì Tài đập gậy ba-toong xuống đất và quát ( trang 70 sđd ) :
- « Đây là ý Trung Ương . Khoan hồng con củ c ... ĐM thiếu gì lính mà không bắn cha nó đi cái lũ nứt mắt đã vô kỷ luật này . ĐM thằng nào còn nói nữa tao cũng cho bắn luôn ! » .

Sáu năm sau ngày sát hại 200 thanh thiếu niên Hà Nội , đến 1976 , Phùng Thế Tài được vinh thăng Thiếu Tướng !

Ngon ! Hồ Chí Minh ngon ! ( xin mượn chút văn phong của Lê Mai Lĩnh trong quyển « Đứng Ngồi Không Yên » ) . Không ngon sao được vì Bác ta đã tạo được cho mình hình ảnh Cha Già Dân Tộc nhân từ bác ái , lại còn sang Liên Xô nhờ KGB giải phẩu thẫm mỹ độn má cho đầy , sửa mắt cú vọ thành loan nhản , cấy thêm râu cho đầy đặn , cho có nét đẹp phúc hậu ! ( Trích Chân Tướng Hồ Chí Minh của Cao Thế Dung , trang 106 ) . Thế mà dưới tay Bác toàn là những Cây Người khát máu bắn giết tàn sát không gớm tay , phục vụ rất đắc lực như Trần Quốc Hoàn , Phùng Thế Tài , và Lý Bá Sơ ! Hồ Chí Minh chính là Giáo Chủ sáng lập môn phái Ném Đá Dấu Tay trong lãnh vực chánh trị .
Các Đao Phủ Vô Danh
Anh hùng vô danh thì được dân tộc ngưỡng mộ và được ca tụng như bài thơ Anh Hùng Vô Danh của Đằng Phương Nguyễn Ngọc Huy . Nhưng biết bao nhiêu đao phủ vô danh của Hồ Chí Minh không để lại tăm tích tên tuổi gì trong những ngày đầu kháng chiến khi Hồ Chí Minh phát động bạo trào « Giết Việt Gian » . Rất to lớn như phần băng sơn chìm dưới mặt nước , biết bao nhiêu tội ác của Hồ Chí Minh vẫn còn ẩn tàng trong quên lãng và rất hiếm hoi trong hồi ký của vài tác giả nhân chứng .

Trong quyển « Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu » của Phương Lan Bùi Thế Mỹ phát hành tại Sài Gòn ngày 05/01/1974 , chúng ta tìm lại được dấu tích tàn sát tập thể của Hồ Chí Minh qua bàn tay của các đao phủ vô danh tiểu tốt như sau ( trang 422 sđd ) :

- « Sau cái chết của nhà cách mạng Tạ Thu Thâu , trên con đường vào tử địa , còn lôi cuốn thêm cả trăm gia đình , họ bị « làm cỏ » tận gốc , vì tội ngưỡng mộ thần tượng Tạ Thu Thâu , vì cảm tình , tiếp rước Tạ Thu Thâu tại nhà … » .
- « Thời gian ở Hà Nội , nằm đợi sang Tàu , Thâu thường lên chiến khu Sầm Sơn , tới nhà Hà Tôn Thắng , và làng Đan Phượng , nhà của một người thợ in , thì sau đó cả làng , cả gia đình xa gần tiếp đón , ngưỡng mộ Thâu đều bị giết sạch sành sanh … » .
- « Tại Quảng Ngãi , gia đình chủ nhơn Bungalow là Hồ Đắc Di , và gần chục thanh niên cũng bị thanh toán « sạch cỏ » vì đã chứa chấp và giao thiệp cảm tình với nhà cách mạng Tạ Thu Thâu » .

Tác giả Phương Lan nhận xét rằng trong lịch sử sau nầy ( trang 423 sđd ) , trong giai đoạn khơi mào độc lập , tự do , có lẽ phải viết lên toàn bằng máu , máu của triệu người dân vô tội , chết oan , trong cái chiến hoạ xâm lăng của Cộng Sản … !
Bài Ca Vọng Cổ Có Tên « Nguyễn Tường Tam »
Câu chuyện do GS Nhật Thịnh tường thuật trong tác phẩm viết về nhà văn Nhất Linh . Ở bìa quyển sách là tựa Chân Dung Nhất Linh . Nhưng ở trang trong , tác giả Nhật Thịnh viết thêm » hay Thân Thế Sự Nghiệp Nguyễn Tường Tam » . Nhất Linh nhà văn nổi tiếng nhất trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn tên là Nguyễn Tường Tam , ai cũng biết . Ở miền Nam , vào thời Đệ Nhất Cộng Hoà , các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn được giảng dạy trong chương trình các lớp Trung học Đệ nhất cấp , nên học sinh đều biết như thế : nhà văn Nhất Linh tên là Nguyễn Tường Tam .

Vậy mà có người không biết Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam nên mới có chuyện ( Trích trang 153 sđd ) . Câu chuyện xảy ra vào năm 1949 ở một làng thuộc phủ Vĩnh Tường , tỉnh Vĩnh Yên . Tác giả Nhật Thịnh tham gia kháng chiến và phụ trách huấn luyện lớp cán bộ địch vận . Vào một đêm trăng giữa khoá huấn luyện , sau phần kiểm thảo bài học , đến phần giúp vui tập thể . Một học viên đứng lên tự giới thiệu để ca một bài vọng cổ . Vào thuở đó , điệu hát vọng cổ là món văn nghệ quý hiếm độc đáo . Người học viên giới thiệu bài ca « Nguyễn Tường Tam » do anh sáng tác ! Trong phần nói lối khởi đầu , tác giả trình bày gốc tích của Nguyễn Tường Tam , nào là « dòng dõi phong kiến , tổ tiên đều làm quan » , nào là « đỗ bằng cử nhân nhưng vì tính thích lêu lỏng chơi bời , thực dân không dùng nên sinh ra bất mãn ... » . Sau mấy câu nói lối , bắt sang điệu vọng cổ , anh ta tiếp tục « Nguyễn Tường Tam là tên trùm phản động , tiêu biểu cho giai cấp trí thức tiểu tư sản lạc hậu , thối nát » . Đoạn kết của bài ca là lời hô hào đồng bào đừng nên mắc mưu tuyên truyền của bọn phản động đội lốt cách mạng mà Nguyễn Tường Tam là kẻ cầm đầu . Và sau cùng là lời xưng tụng Hồ Chí Minh và đề cao cuộc cách mạng vô sản .

Khi hát xong , ai nấy đều vỗ tay hoan hô . Bài ca thành công rực rỡ , vì có kẻ lấy viết và sổ tay xin được chép lại . Tác giả Nhật Thịnh cho biết người ca sĩ đã từng là kép hát , sau làm thợ may , và lúc đó là đảng viên dự bị . Sau đó vài hôm , cũng vào một đêm trăng , Nhật Thịnh có dịp đi dạo ngoài cánh đồng với người cán bộ kép hát và bàn luận chuyện văn chương nghệ thuật . Câu chuyện xoay quanh những tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn , nhất là mấy tác phẩm chính của Nhất Linh . Nhật Thịnh kể :
- « Quả nhiên , gã như xuất thần , say sưa , hoa chân múa tay tán thưởng từ nội dung đến văn chương của những tác phẩm như « Gánh Hàng Hoa » , « Nửa Chừng Xuân » , và nhất là « Lạnh Lùng » , « Đoạn Tuyệt » , và « Bướm Trắng » . Gã thao thao bất tuyệt … » .

Trong câu chuyện dưới đêm trăng hôm ấy , gã “nhất trí” với Nhật Thịnh » Nhất Linh và Khái Hưng đã phá bỏ những lạc hậu , xấu xa , giả dối trong chế độ gia đình và xã hội cũ để tạo lập nên một xã hội mới theo một tinh thần mới trong đó con người được giải phóng và tự do hơn » .

Đến khi đó , Nhật Thịnh mới đặt câu hỏi :
- Theo đồng chí thì phá bỏ cái cũ để kiến tạo cái mới cho thích hợp với sự tiến bộ của loài người , như thế có phải là cách mạng không ?

Người cán bộ kép hát , đảng viên dự bị ấy , đáp không suy nghĩ :
- Thế đúng là cách mạng chứ !

Đêm khuya , trăng tàn , đến lúc chia tay , Nhật Thịnh ghé tai gã cán bộ bảo thầm :
- Nhất Linh là Nguyễn Tường Tam đấy , đồng chí có biết không ?

Nhật Thịnh kể tiếp rằng người cán bộ lặng người không đáp . Từ hôm ấy cho đến ngày mãn khoá học , gã trở nên ít nói , thỉnh thoảng nhìn trộm Nhật Thịnh với tất cả vẻ ngượng ngập . Còn tâm trạng Nhật Thịnh thì sao ? Đúng là tâm trạng của một bậc thầy , một bậc giác ngộ chỉ biết thương yêu và tế độ , « không khinh gã cán bộ kép hát mà chỉ thương hại cho hắn là vì hắn đã không hiểu việc hắn làm , không biết hết những điều hắn nói » . Điều gây khổ nạn cho Dân Tộc là những bậc thức giả như Nhật Thịnh thì như sao buổi sáng , mà « bầy đàn » người như gã cán bộ kép hát chạy theo cuộc « Kách Mệnh Khát Máu của Hồ Chí Minh » thì nhiều như lá rụng Mùa Thu ( « bầy đàn » , chữ của tác giả Vũ Thư Hiên trong Đêm Giữa Ban Ngày ) .
Chuyện Các Tổng Bí Thư
Những Cây Người của Bác cũng biệt tài về khoa ăn nói . Hãy xem miệng lưỡi của một vài vị . Trong chuyến công du ở Pháp hồi năm 2000 , trả lời một phóng viên của báo Le Monde , để chứng minh rằng Đảng Cộng Sản Việt Nam là một đảng dân chủ và văn minh , Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu đã trả lời : « Người Cộng Sản Việt Nam không có ăn thịt người » . Câu trả lời của nhân vật số một của Đảng Cộng Sản Việt Nam thật giống hệt chuyện tiếu lâm rẻ tiền khiến cho giới báo chí truyền thông Pháp phải phì cười và ban cho ông cái hổn danh là Pinochet Việt Nam !

Một câu chuyện khác , cũng dính dấp tới một Tổng Bí Thư tiền nhiệm . Vào thời điểm 1991 , khi nhà văn nữ Dương Thu Hương phản tĩnh ( nay sống ở Pháp ) và viết bài « Đảng Phải Biết Ơn Nhân Dân Chứ Không Phải Chỉ Có Dạy Nhân Dân Biết Ơn Đảng » , thì Bộ Chính Trị phát điên lên . Lúc đó , ông Nguyễn Văn Linh là Tổng Bí Thư đã gọi Dương Thu Hương là « Con Đĩ Chống Đảng » và đã ra lịnh bắt giam trong 6 tháng ( trích Việt Nam Cần Đổi Mới Thật Sự của Võ Nhân Trí , trang 135 ) .
Chuyện Nhà Văn Nữ Nhã Ca : Giặc Đến Nhà Đàn Bà Phải Đánh
Nhã Ca , nhà văn nữ hàng đầu của miền Nam đã 2 lần được trao tặng Giải Thưởng Văn Chương cao nhất , cũng bị chửi giống như vậy . Nhã Ca quê ở Huế và bị kẹt ở đấy trong cuộc Tổng Công Kích Tết Mậu Thân ( 1968 ) nên đã chứng kiến sự tàn ác khủng khiếp của Việt Cộng trong thời gian đó . Khi tập truyện ký « Giải Khăn Sô Cho Huế » khởi sự đăng tải trên một nhật báo ở Sài Gòn , đặc công Việt Cộng đã gởi thư đe doạ , buộc nữ sĩ phải ngưng viết , nhưng nữ sĩ không nhượng bộ . Chỉ vì vậy cho nên đến ngày 03/04/1976 , Nhã Ca bị bắt giam và bị kết tội bôi nhọ nhân dân , cản bước tiến của cách mạng . Nhà văn bị công an luân phiên hỏi cung nhiều lần , bị nhục mạ nhiều lần , và đây là một lời chửi đầy nhục mạ ( trích quyển Quê Hương Bạn Hữu Tù Đày của Trần Dạ Từ , trang 187 ) :
- « Chị Nhã Ca . Chị nghe kỹ đây . Thằng Mỹ , thằng Thiệu đang để lại ở Sài Gòn một triệu đĩ điếm . Một chị phụ nữ làm điếm , giỏi lắm chỉ ngủ được vài trăm đàn ông . Hừ . Thằng Khánh , thằng Kỳ bảo mỗi ngòi bút là một sư đoàn . Đánh đỹ ngòi bút như chị , chị ngủ với mấy sư đoàn ? Đàn bà mà viết văn là làm đĩ . Chị biết chưa ? » .

Bị tên công an Việt Cộng thoá mạ bằng lời lẽ thô tục và đê tiện như vậy , nhà văn Nhã Ca nữ kiệt của miền Nam , dù thân xác bị tù đày , vẫn lấy trứng chọi đá , vẫn vùng lên đánh trả để xứng với truyền thống giặc đến nhà đàn bà phải đánh . Xin mời quý bạn xem văn phong và đòn đánh trả của nữ kiệt Nhã Ca : « Bình tỉnh . Tin tưởng . Tập thở cho đều . Con cái sẽ hưởng phần xứng đáng với cha mẹ chúng . Hãy xử sự xứng đáng . Phải thở . Thở đều nữa , trước khi nói . Phải nói thật thong thả , nhỏ nhẹ , lễ phép » .

Nhà văn nữ kiệt của miền Nam đã xử sự thật xứng đáng và tung đòn đánh trả rất đẹp mắt :
- « Thưa anh , tôi chưa biết Bác và Đảng anh minh ra sao . Tôi cũng chưa biết chính sách nhà nước nhân đạo thế nào . Nhưng tôi biết rõ điều này . Anh nghe nhé . Anh là thằng mất dạy . Mất dạy . Mất dạy ... » .

Lời Bàn : Đảng đã lập Đại Học Công An ở thủ đô Hà Nội để đào tạo công an , nếu thật sự vị công an này mất dạy và nếu Đảng sợ công an làm mất lòng dân , thì xin Đảng nên cho cán bộ của mình trở về trường học thêm cho giỏi .

Lời Bàn thứ hai : Với Nhã Ca , tuy giặc đã chiếm trọn miền Nam , nhưng giặc chưa vào nhà bà , lúc đó là thời điểm sau ngày 03/04/1976 , với cái búng tay của bạo lực , Nhã Ca cùng cả trăm văn nghệ sĩ miền Nam bị bắt vào tù . Sau đây là chuyện giặc đã vào nhà và phá nhà một nhà văn nữ ở miền Bắc .
Giặc Vào Phá Nhà Trần Khải Thanh Thuỷ
Ba mươi năm sau đó , ngày 27/10/2006 , tại phường Đống Đa thủ đô Hà Nội , giặc đã thật sự vào nhà và phá nhà của nhà văn nữ Trần Khải Thanh Thuỷ . Vào ngày hôm đó , vào khoảng 6 giờ chiều , vừa đón 2 cô con gái từ trường về nhà , thì nhà văn Thanh Thuỷ thấy ông Tổ Trưởng Dân phố , ông Bí Thư Đảng uỷ , cùng ông Chủ Tịch Phường mò đến . Nhà văn tưởng họ là người tử tế bèn mở cửa mời vào . Nhà văn không ngờ rằng khi họ ngồi chưa ấm chỗ thì cả trăm người gồm thanh niên trai tráng , phụ nữ , cựu chiến binh , thương binh tràn vào nhà . Nhà văn Thanh Thuỷ tường thuật ( phỏng theo bài Trò Chuyện Cùng Anh Lưu Ngọc Bang của chính nhà văn Thanh Thuỷ , VNN Website , đăng lại trên báo Việt Luận ngày 03/11/2007 ) :
- « ... ( họ ) quây kín cửa ra vào , cửa sổ , trèo lên giường , lên xe máy , la ó , đập phá ... tất cả trăm con người nhâu nhâu vào ... đòi tát vỡ mặt em với đủ các ngôn từ , giọng điệu , chửi bới em không tiếc lời , nào con đĩ chống đảng , nào đồ phản dân hại nước , nào bán nước buôn dân , tham tiền , phản động , làm tay sai cho đế quốc Mỹ ... & ... Cả hai vợ chồng em đều bị đánh . Em phải nhận mấy cái tát lật mặt nổ đom đóm mắt của mấy gã lực điền trai tráng ( thực chất là đầu gấu do công an thuê ) , còn ông xã bị đập cả thanh gỗ vào sau vai và lưng , còn bị túm tóc lôi từ trên giường xuống đất khi cố tình che chắn cho vợ ... Họ lấy chùm chìa khoá xe máy , cả chục thằng đi nguyên giày trèo lên giường đòi hành hung em nên giường bị sập , cửa sổ bị chúng dùng gỗ đập nát phần kính , chớp . Phần cánh bằng gỗ bên ngoài hiện tại hở toang hoác ... » .

Hai nữ sĩ Nhã Ca của miền Nam và Trần Khải Thanh Thuỷ của miền Bắc , mỗi người một tình huống khác nhau , xử sự mỗi người một cách , nhưng chỉ một dòng máu Việt , chỉ một trái tim Việt , chỉ một truyền thống Anh Thư Trưng Triệu của dân tộc Việt Nam . Đối diện với cả trăm côn đồ đầu gấu công an trá hình đang lên Cơn Say Đảng và chìm trong Giấc Mê Hồ , đang đập phá hung hăng ( như đấu tố trong CCRĐ ngày nào ) , Trần Khải Thanh Thuỷ không thể dùng ngôn từ đối đáp như Nhã Ca , nên chọn cách trả đòn trong bài viết Trò Chuyện Cùng Anh Lưu Ngọc Bang . Bị Đảng dồn tới đường cùng , nữ sĩ tự ví mình là một cô gái mảnh mai bị cả bè lũ đảng đè ngửa ra ... cưởng bức , kẻ giữ chân , người trói tay , người nhét giẻ vào miệng quyết bắt nữ sĩ phải câm miệng mới thôi . Nữ sĩ không thể dịu dàng bảo Đảng hãy buông vạt váy của mình ra như lời năn nỉ đáng yêu của cô thôn nữ ngày xưa :

« Thôi thôi buông áo em ra
Để em đi bán kẻo hoa em tàn » .

Trong khi Nhã Ca chỉ đánh trả tên công an thẩm vấn : « Anh là thằng mất dạy » , thì Trần Khải Thanh Thuỷ đánh trả đòn bằng lời văn có uy lực như tiếng hét thẳng vào mặt Đảng , một tiếng hét như vang rền khắp Bắc Nam Trung bằng uy lực của cả Dân Tộc , như nói thay cho Dân Tộc :
- « Mày là thằng khốn nạn , đểu giả nhất trên thế giới này . Chính mày làm tan nát ngôi nhà Việt Nam , bắt 3 triệu người phải xa xứ , tha hương , làm 850 nghìn người vùi xác nơi đáy biển , làm 78 trên tổng số 83 triệu người trong nước phải điêu đứng . Chính mày dâng đất , bán biển cho quan thầy Trung Hoa . Chính mày làm cho xã hội Việt Nam điêu tàn , tan nát , con cãi lại cha , trò chống đối thầy , người lương thiện ít hơn kẻ độc ác , gái ngoan ít hơn gái đĩ , điếm hoá đến cả trẻ thơ ... » .
1a / 1b / 2a / 2b / 3a / 3b / 4a / 4b / 5a / 5b
Nhóm Tâm Việt Sydney
Viết tại Sydney , Úc Đại Lợi
Mùa Bịt Miệng 2007

 

 

Giặc Đã Vào Nhà Và Giết Người
Nhà cửa bị phá hoại còn có thể sửa chữa , người bị đánh có thương tích còn có ngày bình phục , cơn khiếp đảm rồi sẽ được xoa dịu và xuôi trôi theo Ngày Trời Tháng Phật và Bạn Hiền khắp nơi , Chị Trần Khải Thanh Thuỷ ơi ! Biệt nghiệp của mỗi chúng ta và cộng nghiệp của Đất Nước còn quá nặng . Ở nơi hải đảo Úc Châu , khi viết hàng chữ này , tôi không ngăn được dòng lệ và xin gởi trọn niềm thương cảm của tôi đến anh chị và hai cháu gái . Xin chị hướng về phương Nam thân yêu , ở tỉnh Đồng Tháp , có một ngôi nhà giặc đã vào , phá hoại và gây án mạng vô cùng thảm thiết , để cùng nhau ôm khóc và cảm thương cho Dân Tộc !

Ngôi nhà đó của ông Nguyễn Văn Bạo , ở ấp Long Hoà , xã Long Thuận , quận Hồng Ngự , tỉnh Đồng Tháp . Ông Bạo là thành viên đoàn Thanh Niên Phật Giáo Hoà Hảo . Theo bản tin của Văn Phòng Phật Giáo Hoà Hảo ở Hoa Kỳ ( Bán Tuần Báo Việt Luận ở Úc Châu đăng lại ngày 15/08/2006 ) , thì ngày 25 tháng 2 năm Bính Tuất , nhà ông Bạo tổ chức tưởng nhớ ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ bị Việt Minh Cộng Sản ám hại ( xin nhắc lại : ngày 16/04/1947 , Việt Minh Cộng Sản mời Đức Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ đi họp và ám hại Ngài ) . Trong lúc họ đang làm lễ thì công an xông vào nhà xô ngã bàn hương án , một công an dùng chân đạp lên ngực bà Nguyễn Thị Gấm , 50 tuổi , em ông Bạo , làm cho bà đứng tim và tắt thở .

Phân biệt 3 tình huống : thứ nhất giặc chưa vào nhà của Nhã Ca , thứ 2 giặc đã vào và phá nhà của Trần Khải Thanh Thuỷ , và tình huống thứ 3 giặc đã vào nhà của ông Nguyễn Văn Bạo và giết em gái ông là bà Nguyễn Thị Gấm , phân biệt như vậy chỉ là sai thôi . Sự thật là Giặc Cộng Sản Đã Vào Ngôi Nhà Việt Nam Từ Thật Lâu Rồi , đến bây giờ thì giặc muốn vào nhà ai thì vào , giặc muốn phá nhà ai thì phá , giặc muốn cướp của ai thì cướp , giặc muốn giết ai thì giết , muốn bỏ tù ai thì bỏ tù , Đảng đã biến cả Đất Nước thành Nhà Tù Khổng Lồ rồi . Các nhà tù nhỏ như trại Thanh Cẩm hay trại Cổng Trời , Đảng chỉ dùng để làm phương tiện gieo khủng bố khi bắt giam những người yêu nước thương dân đấu tranh cho tự do , dân chủ , và nhân quyền .
Cây Người Mai Trung Sơn
Chuyện đời đầy oan nghiệt ! Học sinh Mai Trung Sơn thụ nhận nền học vấn ở ngôi trường Bồ Đề Nguyên Thiều do công sáng lập của Thượng toạ Thích Huyền Quang . Rồi do được bón phân Hồ Chí Minh , mọc lên Cây Người Mai Trung Sơn hung hăng tàn bạo ! Cảnh tang thương biến đổi đến đau lòng đứt ruột . Cơ ngơi Tu viện Nguyên Thiều gồm có trường trung học Bồ Đề , Phật học viện quy tụ 300 tăng sinh , Chánh Điện uy nghiêm giửa rừng bạch đàn thâm u thơ mộng , tượng Phật Thích Ca cao 20 mét , tượng đức Quan Âm bên bờ hồ sen bát ngát , một rừng huệ trắng tinh khiết quanh hồ sen , một hoa viên trăm loại kỳ hoa dị thảo do công đức cúng dường của Phật tử bốn phương , khu trồng xoài tiếp giáp với hàng chục dãy nhà phụ thuộc cho 300 vị tăng sinh làm nơi tu tập và sinh hoạt …

Rồi Cách Mạng của Hồ Chí Minh thành công . Cơ ngơi Tu viện Nguyên Thiều do công sáng lập và khai phá của Thượng toạ Huyền Quang và Phật tử đã biến thành cơ sở của Đảng như trường Chi cục Thống kê Trung ương II , trường Bổ túc Văn Hoá Liên khu V , Xí nghiệp Chế biến 3/2 , Xí nghiệp Chế biến xút . Cách mạng thành công thì Cây Người Mai Trung Sơn do Hồ Chí Minh vun trồng đường đường là Trưởng Công An xã Phước Hiệp , huyện Tuy Phước , tỉnh Nghĩa Bình .

Hết oan nghiệt này lại đến oan nghiệt khác ! Một buổi chiều u ám , Mùa Đông năm 1979 , Công An Trưởng Mai Trung Sơn , chỉ huy một tiểu đội du kích có võ trang , chận đường lục soát và hùng hổ áp tải đuổi Thượng toạ Thích Huyền Quang ra khỏi khu vực Dốc Eo , trên đường vào Tu viện Nguyên Thiều mà nay là cơ sở của Đảng . Mai Trung Sơn lạnh lùng cương quyết từ chối yêu cầu của Hoà Thượng Huyền Quang , dù ngài chỉ muốn vào thăm nơi chốn củ và nhìn thoáng qua trong chốc lát !

Câu chuyện về Mai Trung Sơn trên đây được trích từ bài Tu Viện Nguyên Thiều của tác giả Nguyễn Mạnh An Dân đăng ở nguyệt san Làng Văn ( số 120 , tháng 08/1994 ) . Người viết xin tri ân tác giả Nguyễn Mạnh An Dân , chỉ ba trang ngắn ngủi trong Làng Văn , tác giả đã nêu lên một tệ nạn vô cùng lớn lao của Đất Nước : Đảng Cộng Sản CƯỚP tài sản của Phật Giáo làm của mình ! Tác giả An Dân viết tiếp rằng đường lên Dốc Eo dẫn vào một khu đất đẹp vốn là tư sản của dòng họ Bùi cố cựu . Vào năm 1961 , cư sĩ Bùi Hàng , lúc đó giữ chức chủ tịch xã Phước Hiệp , đã cúng dường khu đất rộng lớn của gia tộc để xây dựng Tu Viện Nguyên Thiều . Đến Mùa Đông 1964 , chiến sự bùng nổ và lan rộng các quận An Nhơn , Tuy Phước tỉnh Bình Định . Dân chúng khắp nơi tìm chỗ an toàn để lánh nạn Cộng Sản . Trường Bồ Đề của Tu Viện , ban ngày là lớp học , ban đêm là chỗ tạm trú cho người dân di tản . Nhưng chốn thiền môn và học đường , Việt Cộng nào có tha ! Một đêm trong mùa loạn đó , chúng kéo về Tu Viện và quăng lựu đạn vào trường Bồ Đề sát hại xã trưởng Phước Hiệp và cũng là một cư sĩ đã hết lòng góp sức xây dựng Tu Viện Nguyên Thiều : cư sĩ Bùi Hàng . Cùng chết với ông là mấy chục thường dân tỵ nạn khác ! Ngôi trường Bồ Đề nguyên thuỷ của Tu Viện hoàn toàn đổ nát !

Thí chủ Bùi Hàng , người cúng dường khu đất thì đã bị Việt Cộng sát hại . Tu Viện Nguyên Thiều do công sáng lập và xây dựng của Hoà Thượng Thích Huyền Quang thì đã bị Việt Cộng chiếm đoạt . Đến bây giờ , nhớ lại lời nói trịnh trọng của Hồ Chí Minh : « Thắng giặc Mỹ , ta sẽ xây dựng bằng mười năm xưa ! » . Than ôi ! Đúng là lời nói của Tên Hề Hồ Chí Minh !
Chuyện Phật Đất Và Phật Gổ
Nhân đây , người viết nhớ lại câu chuyện Phật Khóc của học giả Hoàng Văn Chí , sơ lược như sau . Có hai tượng Phật , một tượng bằng đất và một tượng bằng gổ . Hai vị biết Trời sắp làm cơn lụt lớn . Vị Phật gổ nói với vị Phật đất : « Tôi thương anh quá ! Vì thân anh bằng đất , gặp cơn lụt này , thân anh sẽ rã ra thành đất . Thân tôi bằng gổ , sẽ nổi trên mặt nước , trôi đến vùng đất khác , dân chúng sẽ vớt tôi lên để thờ lại » .

Vị Phật đất cảm thấy buồn , ngẫm nghĩ hồi lâu mới trả lời : « Không đâu anh ạ ! Nghĩ kỹ lại , anh mới khổ hơn tôi . Thân tôi tuy bằng đất , gặp nước sẽ rã ra thành đất . Nhưng dân vùng này là phật tử , khi hết lụt , dân sẽ lấy đất nắn tôi lại thành Phật và thờ tôi lại như xưa . Thân anh sẽ trôi nổi đến vùng đất lạ , rủi gặp vùng không có phật tử , dân không biết anh là ai , anh sẽ sống kiếp lưu đày khổ sở lắm ! » .

Vị Phật gổ nghe đến đấy bỗng khóc ròng .

Kể chuyện Phật đất Phật gổ để ví von với việc lưu đày và việc ở lại quê hương như học giả Hoàng Văn Chí thật là tuyệt vời . Có phải vị Phật đất là Thượng toạ Huyền Quang gặp phúc duyên được ở lại quê nhà ? Còn Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong vai Phật gổ phải sống kiếp lưu đày khổ sở ? Theo chuyện kể của học giả Hoàng Văn Chí thì như vậy : vị Phật gổ Nhất Hạnh vì bị trôi nổi nơi xứ lạ quê người nên mới bật khóc ròng ! Nhưng sự thật không phải vậy ! Việc đời đảo điên điên đảo đến não lòng ! Khóc ròng là vị Phật đất Thích Huyền Quang vì ngài bị lưu đày ngay trên chính quê hương của ngài . Thân xác thì bị lưu đày quản chế , Tu Viện Nguyên Thiều cũng bị cướp đoạt . Còn vị Phật gổ Thích Nhất Hạnh khi thì Làng Mai ở Pháp , lúc thì Lộc Uyển ở Hoa Kỳ , lại nhiều phen « mặc áo gấm về làng » ! Trời làm một cuộc đảo điên ! Mà có phải Trời làm không ? Không ! Không phải Trời làm đâu ! Chính Hồ Chí Minh một tay đã đảo lộn sơn hà để gây ra cuộc tang thương biến đổi đó !
Giặc Trước Cổng Chùa Quang Minh Tự
Như một tích tuồng cải lương lâm ly gay cấn có kẻ ngay người gian , có kẻ thiện người ác , khán giả là cả Dân Tộc , và sân khấu là cổng chùa Quang Minh Tự ở An Giang .

Trong chùa , tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm và 20 tu sĩ khác đang ngồi thiền .

Trước cổng chùa , 80 công an Việt Cộng mặc thường phục bao vây đêm ngày , chờ đêm đến liệng đá phá rối .

Thương đồng đạo bị bao vây bỏ đói , 30 tín đồ PGHH mang gạo và thức ăn , xin phép nhà cầm quyền địa phương vào thăm và tiếp tế , nhưng công an nhất định không cho vào .

Rồi công an xông vào đánh đập các tín đồ , kể cả những em bé gái dưới 14 tuổi , và còng tay ông Trương Văn Thức và ông Nguyễn Châu Láng bắt đưa về ấp Long Hoà , thuộc xã Long Điền A , quận Chợ Mới , An Giang . Được tin khẩn đồng đạo bị áp bức ở quê nhà , Ban Trị Sự Trung Ương PGHH tại Hải Ngoại lập tức thông báo với ông Marc Forino , cố vấn chánh trị toà Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn . Ông Forino cho biết ông rất quan tâm về chuyện nầy và có thông báo với toà Đại Sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội . Bản tin được tường thuật đầy đủ do tuần báo Thời Báo ở Melbourne , ( số 269 ngày 26/11/1902 ) , người viết chỉ xin trích sơ lược cho câu chuyện được ngắn gọn .

Dân Tộc Việt Nam thân thương ơi , câu chuyện trước cổng chùa Quang Minh Tự chỉ có vậy ! Chuyện nhỏ ở thế gian mà người thế gian không biết dàn xếp sao cho êm đẹp ! Nhưng « Trời Cao Có Mắt » , rốt cuộc rồi sẽ « Thiện Ác Đáo Đầu Chung Hữu Báo » ! Viết tới đây , lòng thương cảm trào dâng , người viết đã khóc , cố gắng ngăn mà sao nước mắt cứ mãi tuôn trào . Thương cho các tín đồ PGHH vốn là dân quê chân chất và thương cho Dân Tộc yếu hèn , và lại thương cho một phần nhỏ của Dân Tộc hung tàn ngu muội lầm đường lạc lối ! Xin nguyện cầu Hồn Thiêng Sông Núi hộ trì cho Đại Khối Dân Tộc hoà hợp trong đạo tâm « Ở Hiền Gặp Lành » để nêu cao và làm rạng danh Tình Nghĩa Đồng Bào Một Mẹ Trăm Con của Việt Tộc trên quả địa cầu này !
Tâm Đạo Sáng Trong Cơn Khói Lửa
Giặc Cộng Sản muốn giết ai thì giết , muốn bỏ tù ai thì bỏ tù , đến trẻ em năm sáu tuổi cũng bị bắt bỏ tù ! Trong tác phẩm Dòng Sông Văn Hoá do Tập Hợp Đồng Tâm Úc Châu xuất bản năm 2000 , tác giả Kim Bằng , cựu tù nhân học tập cải tạo ở trại Suối Máu , đã viết về chuyện Hai Chị Em 11 Tuổi Và 6 Tuổi Bị Kết Tội Chống Phá Cách Mạng và chuyện Ba Tâm Đạo Sáng Trong Cơn Khói Lửa , tuy hai mà một , chỉ là một câu chuyện thật bi hùng . Lúc đó là năm 1978 , khi chiến trường Cam-pu-chia sôi động , tác giả Kim Bằng được đưa từ trại Bù Loi về Suối Máu và tại đó , anh đã gặp ba người bạn tù trẻ Nguyễn Văn Mạnh , Vũ Ngọc Văn , và Phạm Văn Tiến , mà anh bảo đã gặp rồi thì khó quên . Câu chuyện như sau ( Trích Dòng Sông Văn Hoá , trang 148 ) :
- « Cả ba anh đã vượt ngục từ một trại tù thuộc tỉnh Phước Bình , không may bị bắt lại và đưa về đồn biên phòng sát biên giới Miên Việt . Vừa tới đồn biên phòng , ba anh bị một trận đòn hội chợ tả tơi hoa lá . Trận đòn hội chợ tạm ngưng khi có hai em nhỏ bị dẫn tới .

Hai em nhỏ đó là hai chị em sống ở vùng kinh tế mới gần đó . Con chị mới chừng 10 hoặc 11 tuổi , đứa em trai 5 , 6 tuổi . Đứa em trai bị lũ trẻ con cán bộ hiếp đáp đánh đập , con chị chạy ra bênh vực . Thế là hai đứa nhỏ bị khép tội chống phá cách mạng , dám chống lại con em cán bộ , chống lại Đảng , chống lại nhân dân . Và bị đưa về đồn biên giới cho bộ đội xử lý » .

Kim Bằng thuật tiếp rằng lũ bộ đội lấy ra mấy cái roi mây lớn và ra lệnh cho ba anh phải đánh hai em bé , phải đánh cho nát đít nếu ba anh muốn khỏi bị đòn . Cả ba anh khảng khái khước từ . Anh Mạnh nói : « Hai đứa bé vô tội , chúng tôi không thể đánh chúng nó một roi . Các anh muốn làm gì chúng tôi thì làm ! » .

Ba vị Tâm Đạo Sáng không khứng vâng lời Cách Mạng , thì bị Đảng trừng phạt ra sao , tác giả Kim Bằng thuật tiếp : « Bọn bộ đội trói ba anh vào ba cột nhà . Từ xa chúng lấy thế chạy tới dùng hết sức bình sinh giáng báng súng vào ngực ba anh . Xương sườn cả ba anh gãy rắc rắc . Một thằng bộ đội lấy cây lồ ô chẻ một đầu cho toã ra , và quất túi bụi vào mặt Vũ Ngọc Văn . Miệng anh Văn biến thành một miếng thịt bày nhày nát bét . Nguyễn Văn Mạnh có bộ râu quai nón khá rậm . Một thằng bộ đội khác tạt một lon xăng lên râu anh và châm lửa đốt . Lửa cháy bừng bừng , mùi da thịt cháy khét lẹt » .

Khi tác giả Kim Bằng gặp ba vị Tâm Đạo Sáng ở trại Suối Máu thì « … vết thương ở những mảnh xương sườn gãy của họ vẫn chưa lành . Trời lạnh , ba anh vẫn nằm rên rỉ . Môi anh Văn vẫn còn vết tích của trận đòn thù » .

Tác giả Kim Bằng nhắc lại lúc còn là một cậu bé 12 tuổi học lớp Nhất trường Nguyễn Du ở Hà Nội , cậu rất thích thơ và thích nhất môn Tập Đọc . Về thơ thì cậu bé Kim Bằng thích nhất bài Anh Hùng Vô Danh của Đằng Phương . Đến kỳ thi Đệ Nhị Lục Cá Nguyệt về môn Tập Đọc , cậu bé Kim Bằng ước ao được thầy cho đọc bài thơ đó . Nhưng cậu không được « trúng tủ » , thầy cho cậu đọc một đoạn trích trong cuốn Ngục Trung Thư của cụ Phan Bội Châu . Tuy vậy , cậu bé Kim Bằng cũng đọc rất xuất sắc , theo lời diễn tả của tác giả sau này : « Nhưng vừa cất tiếng đọc , tôi bị cuốn hút vào những gì cụ Phan viết . Dần dần tôi như muốn uống từng câu cụ viết , nuốt từng lời cụ viết . Máu nóng bừng bừng lên mặt . Tôi sôi nổi , uất ức , phẫn khích , đau xót với những gì cụ viết về những hành động dã man tàn ác của người Pháp thời Pháp thuộc đối với người mình . Tôi vừa đọc vừa khóc , xúc động xen lẫn phẫn khích , nước mắt chảy giàn giụa đầy mặt . Có những lúc nấc lên rồi lại đọc tiếp . Khi đọc hết bài , tôi ngửng đầu lên , tay chùi má . Tôi nhìn xuống lớp . Lạ lùng thay tôi thấy cả chục người bạn học cũng đang khóc như tôi » .

Lời Bàn : Ngục Sĩ Nguyễn Chí Thiện có bài thơ « Một Tay Em Trổ » kêu gọi cả thế giới hãy nhìn vào Ngục Tù Việt Cộng của Hồ Chí Minh :

« Thế giới ơi , ngươi có thể ngờ
Đó là một tù nhân tám tuổi !
Trên bước đường tù tôi rong ruổi
Tôi gặp hàng ngàn em bé như em ! » .

Người tù tám tuổi của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện , có cả hàng ngàn người ! Người tù của tác giả Kim Bằng , chỉ năm , sáu tuổi ! Ngay đứa con của Bác là Nguyễn Tất Trung lúc vừa được vài ba tháng tuổi chưa thôi nôi đã mồ côi mẹ vì người mẹ Nông Thị Xuân đã bị Bác ra lịnh giết rồi ! Lại còn chuyện một cán bộ Việt Cộng móc nối với Nhà Bảo Sanh Từ Dũ ở Sài Gòn lấy thai nhi của những bà mẹ phá thai đem về bằm trộn với bo bo để nuôi heo ! Câu chuyện này cũng do tác giả Kim Bằng ghi chép ( trang 53 ) trong quyển Khơi Lại Nguồn Văn Hoá Nhân Bản , do Bán Tuần Báo Việt Luận ở Úc Châu xuất bản . Như vậy mà Hồ Chí Minh đã sai khiến Trần Dân Tiên ( là chính Bác ) tự ca ngợi mình những lời chỉ đáng vất vào Sọt Rác Lịch Sử : « Đối với nhi đồng tên Bác Hồ là như một người mẹ hiền . Chỉ nhắc đến tên Bác là các em trở nên ngoan ngoản » . Ôi ! Tội Ác của Hồ Chí Minh ! Một chế độ tàn ác vô nhân nhất trong Lịch Sử Loài Người !
Công An Nói : « Miệng Tao Là Pháp Luật »
Sau đây là vài bản tin thông thường được đăng tải trên báo hàng ngày , nhưng nếu góp nhặt lại sẽ thành quyển sử dày ghi chép Tội Ác Của Việt Cộng lưu truyền cho đời sau . Trường hợp nhà luật sư trẻ Lê Chí Quang , tác giả bài viết giá trị Hãy Cảnh Giác Bắc Triều . Ngay tại thủ đô Hà Nội , luật sư Lê Chí Quang bị bắt lên đồn công an xét hỏi về tội liên hệ với Hội Nhân Dân Việt Nam Ủng Hộ Đảng Và Nhà Nước Chống Tham Nhũng ( hội nầy do hai ông Phạm Quế Dương và Trần Khuê xin thành lập này 2/09/2001 ) . Hãy đọc một đoạn trong đơn tố cáo của luật sư Lê Chí Quang về vụ việc này : « Cuộc thẩm vấn chỉ xoay quanh vấn đề Hội Chống Tham Nhũng , nhưng tôi bị giữ tại cơ quan công an 3 giờ . Tôi hết sức bất bình vì thái độ của các công an viên , đặc biệt là anh Tâm . Anh này có thái độ vô cùng xấc xược và vô văn hoá đến mức không tưởng nổi . Lúc thả tôi , Tâm nói :

- Tao tha cho mày vì mày ốm yếu , chứ không tao đã bắt mày rồi . Nhưng tao cấm mày ra khỏi nhà .
- Có văn bản pháp luật nào cấm tôi ra khỏi nhà không ?
- Tao không cần văn bản nào cả .
- Vậy là văn bản miệng à ?
- Đúng . Miệng tao là pháp luật !
- Vậy thì tôi vẫn cứ ra khỏi nhà nếu tôi muốn .
- Tao sẽ bắt mày ngay nếu mày ra khỏi nhà , mày đừng thách tao ! » .

Lời Bàn : Anh công an Tâm ỷ mình là công an nên ăn nói phách lối ngang ngạnh bảo miệng tao là pháp luật . Thật ra chế độ đã cung cấp cho công an đủ phương tiện để đày đoạ Dân Tộc . Ngày 14/04/1997 , Võ Văn Kiệt lúc đó là Thủ Tướng , đã ký Nghị Định 31/CP cho phép quản chế hành chánh ( tức bị ở tù tại gia ) đến 2 năm mà không cần pháp lịnh của toà án . Do nghị định này , nhà nước Cộng Sản đã biến tất cả ngôi nhà của người dân thành nhà tù , biến người chủ nhà thành tù nhân trong chính ngôi nhà của mình , biến Đất Nước Việt Nam thân yêu thành Nhà Tù Khổng Lồ , và xử dụng vô số công an để canh giữ nhà tù khổng lồ đó làm tiêu hao biết bao nhiêu công quỹ là tiền thuế của người dân đóng góp . Trên 40 % kinh phí quốc dân dùng để nuôi công an , vì chúng là lực lượng đàn áp Dân Tộc để bảo vệ Đảng cho nên được chế độ trả lương hậu nhất !
Công An Giả Làm Dân
Một câu chuyện khác giữa công an nguỵ trang làm dân và nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt . Vào cuối năm 1988 , cùng với nhà văn Tiêu Dao Bảo Cự , Bùi Minh Quốc thực hiện một chuyến đi xuyên Việt , từ Đà Lạt , qua các tỉnh miền Trung , ra Hà Nội nhằm vận động trí thức , văn nghệ sĩ đấu tranh đòi tự do dân chủ . Hành động đấu tranh can cường chống bạo quyền Cộng Sản của nhóm Đà Lạt này như tiếp nối truyền thống của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở Hà Nội 22 năm trước , sự việc này làm nhà thơ Bùi Minh Quốc bị khai trừ khỏi Đảng và mất chức Tổng biên tập tờ Langbian . Ông bị Đảng trù dập và nhân sự việc ông Hoàng Minh Chính điều trần trước Hạ Viện Mỹ về tình trạng mất nhân quyền ở Việt Nam , Đảng cho công an giả làm dân thường xuyên chửi vào máy điện thoại di động những lời lẽ thật tục tĩu : « Mày có muốn đi Mỹ với thằng Chính để liếm đít Mỹ tao cấp visa cho ! « hoặc » Thằng Chính bị ăn đòn , mày có kinh không ? Bọn phản bội chúng mày sẽ còn lãnh đủ con ạ ! » .

Lời Bàn : Tên công an này chưa được trau dồi đúng nghiệp vụ như Bác Hồ của hắn . Đã giả làm dân mà lại bảo Bùi Minh Quốc : « Mày muốn đi Mỹ tao cấp visa cho » , dân mà sao có quyền cấp visa . Đúng là miệng lưỡi của nhà nước . Đúng là dấu đầu lòi đuôi ! Ăn vụng không biết chùi mép ! Ném đá mà không biết dấu tay như Bác Hồ của hắn !
Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ
Câu chuyện công an giả làm dân chửi nhà thơ Bùi Minh Quốc trên đây được trích từ Thư NgỏGửi Cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt , của Hà Sĩ Phu tức là phó tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ viết ngày 10/12/2005 và đăng ở Thư Nhà số 28/11 & tháng 12/2005 . Với bút danh Hà Sĩ Phu , Nguyễn Xuân Tụ đã viết nhiều bài bình luận rất nổi tiếng phê phán chủ nghĩa Mác-Lê và chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam như Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ ( 1988 ) , Đôi Điều Suy Nghĩ Của Một Công Dân ( 1993 ) , Chia Tay Ý Thức Hệ ( 1995 ) ... Vì những bài viết đó , Hà Sĩ Phu đã bị Đảng trù dập bằng đủ các cách : tổ chức đụng xe để giựt xách tay , bị kết tội ăn cắp tài liệu bí mật của Nhà Nước , bị giam 8 tháng không xét xử , và sau cùng bị ở tù 2 năm tại nhà tức là bị quản chế hành chánh theo NĐ 31/CP do ông Võ Văn Kiệt ban hành .

Nhân đọc bài Qua Đà Lạt , Thêm Nhớ Trạng Quỳnh của tác giả HND ( Nguyệt san Tin Nhà số 29/08/1997 ) , người viết xin đáp ứng bằng câu chuyện Tấm Biển Chỉ Đường Của Đảng sau đây .

Kiểm điểm các cách hành xử theo luật rừng của Đảng đối với Nguyễn Xuân Tụ , một công dân trí thức ưu tư về tiền đồ của Dân Tộc và muốn đóng góp ý kiến để xây dựng Đất Nước , Nguyễn Xuân Tụ còn bị một đòn đánh trả của Đảng hết sức ấu trĩ , trình độ lớp Một lớp Hai trường làng , theo lối Mày Chửi Tao Thì Tao Chửi Ông Chửi Cha Mầy , hoặc theo lối Hàng Tôm Nguýt Hàng Cá . Vì ông đã viết bài Dắt Tay Nhau Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ , vì Đảng không chấp nhận Tấm Biển Chỉ Đường Của Trí Tuệ đó , cho nên Đảng đã làm một tấm biển chỉ đường khác để trả đủa . Tấm Biển Chỉ Đường Của Đảng chữ màu đỏ trên nền trắng được đặt ở ngay cổng vào khu chúng cư của Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt . Bạn bè của nhà phó tiến sĩ Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ đến thăm ông đều được Đảng chỉ đúng nhà của ông bằng những dòng chữ đỏ màu máu như sau :

Cảnh Giác Phát Hiện
Và Cương Quyết Đấu Tranh Vạch Mặt
Phần Tử Chống Phá Công Cuộc Xây Dựng
Và Phát Triển Đất Nước

Lời Bàn : Đối chiếu hai tấm biển chỉ đường trên đây , hiển nhiên THIỆN ÁC đôi đàng tương phân rõ rệt . Dân tộc biết ngay bên THIỆN là người mang hoài bảo xây dựng và phát triển Đất Nước , người muốn đưa Đất Nước đi lên theo sự hướng dẫn của trí tuệ . Còn phần tử ÁC , vì túi tham không đáy cố bám vào chức vị , nên đã chống phá công cuộc xây dựng và phát triển Đất Nước . Và chúng càng CÙNG HUNG CỰC ÁC vì đã huy động trọn cả bạo lực của công an để đàn áp Dân Tộc và trọn cả truyền thông của báo và đài để xuyên tạc những thành tâm thiện chí của những người yêu nước .

Đảng Cộng Sản Việt Nam giữ đúng truyền thống độc quyền yêu nước và độc quyền quản trị Đất Nước theo cách riêng của mình . Ngày xưa , vì độc quyền yêu nước dối trá nên đang tâm sát hại biết bao nhiêu người yêu nước chân thật . Ngày nay , vì độc quyền quản trị Đất Nước nên đã sinh ra biết bao nhiêu là giòi bọ đục khoét ngân quỹ và tài nguyên của Đất Nước . Vì cai trị bằng công an , vì dùng công an để bảo vệ chế độ , nên công an lộng hành tự cho mình như vua chúa ngày xưa toàn quyền sinh sát trong tay .
Tên Công An Số Một Của Hồ Chí Minh
Hãy xem thủ đoạn và miệng lưởi của tên Công An Số Một Của Hồ Chí Minh , tức là Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn . Trong đời làm bộ trưởng công an dài 27 năm , từ 1953 đến 1980 , Trần Quốc Hoàn là tay được Hồ Chí Minh đào tạo và tín nhiệm , nên hắn được Bác giao nhiệm vụ thủ tiêu cô Nông Thị Xuân . Nhưng trước đó , Bác giao cho hắn nhiệm vụ lo việc ăn ở cho cô và việc chuyên chở cô vào Phủ Chủ Tịch mỗi khi Bác có nhu cầu . Cô gái người Nùng xinh đẹp và bất hạnh tên Xuân có diễm phúc được Bác Hồ yêu đương trong tình nghĩa gối chăn và sanh cho Bác một đứa con trai mà Bác đặt tên là Nguyễn Tất Trung . Nhưng vì ngây thơ non dại nên cô Xuân mới xin Bác nhìn nhận mình là vợ chính thức . Hồ Chí Minh lếu láo bảo cô Xuân rằng : « Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý , nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý , nhất là mấy ông Trường Chinh , Lê Đức Thọ , Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được , nên phải chờ một thời gian nữa » . Cô Xuân tin lời Bác nên chờ một thời gian nữa . Cô chờ không lâu , chờ cho đến khi bị Trần Quốc Hoàn hiếp dâm , đập đầu cô chết , rồi quăng xác ra đường cho xe cán .

Người Việt Nam ai cũng có biết qua truyện Kiều , không nhiều thì ít . Người biết nhiều có khi thuộc lòng cả truyện gồm mấy ngàn câu . Ai biết ít thì cũng biết nhân vật SỞ KHANH trong truyện là người đáng nguyền rủa vì đã lường gạt cô Kiều . Do đó , cái tên sở khanh đã trở thành danh từ thông dụng để gọi bọn đàn ông lưu manh chuyên lường gạt các thiếu nữ ngây thơ trong trắng . Trong truyện Kiều , nhân vật Sở Khanh chỉ tuân theo mưu kế của Tú Bà dụ dỗ nàng Kiều đi theo mình xây tổ uyên ương để rồi lọt vào bẫy của Tú Bà . Vì thế , Thuý Kiều bị Tú Bà bắt lại và bị ép làm gái mãi dâm . Tội của Sở Khanh với nàng Kiều chỉ là vậy . Còn tội của Hồ Chí Minh đối với cô Xuân thì thế nào , xin để cho quý bạn trẻ thẩm xét . Nhưng vì Bác là Cha Già Dân Tộc mà để Bác mang tiếng là sở khanh thì coi không được . Vậy quý bạn cố làm sao cho Bác khỏi mang tiếng sở khanh thì cứ làm ! Bởi lẽ nếu để Bác mang tiếng là sở khanh , thì Bác còn tàn nhẫn và đáng nguyền rủa hơn Sở Khanh trong truyện Kiều gấp trăm gấp nghìn lần !

Chuyện án mạng của cô Xuân được Nguyễn Minh Cần tường thuật thật đầy đủ trong quyển Công Lý Đòi Hỏi . Đây chỉ xin trích lời ăn tiếng nói của Trần Quốc Hoàn khi hắn hiếp dâm cô . Chuyện kể : Hoàn bước nhè nhẹ lên gác , nhếch mép cười một cách xỏ lá , rồi ôm ghì lấy cô Xuân và hôn cô . Cô Xuân xô Hoàn ra và nói : « Không được hỗn , tôi là vợ ông Chủ Tịch nước » . Trần Quốc Hoàn cười một cách nhạo báng và nói : « Tôi biết bà to lắm , nhưng bà phải biết sinh mệnh bà nằm trong tay tôi » . Rồi hắn lại nói tiếp , đoạn này vô cùng quan trọng , xin Dân Tộc Việt Nam lắng nghe cho rõ lời nói của Trần Quốc Hoàn , tên Bộ Trưởng Công An Đầu Tiên Của Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà . Trước khi hắn hiếp dâm cô Xuân , hắn nói :
- « Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt Nam , kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi . Tôi muốn bắt bỏ tù , thủ tiêu đứa nào , tuỳ ý . Và tôi nói cho bà biết ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi » .

Lời phát biểu của Trần Quốc Hoàn trước khi hiếp dâm cô Xuân rất đáng được các sử gia tương lai đào sâu và nghiên cứu . Còn « phong cách » tên bộ trưởng công an thoả mãn thú tánh và diễn tiến cuộc hiếp dâm dã man thế nào , xin các bạn tìm đọc thêm trong quyển Công Lý Đòi Hỏi của tác giả Nguyễn Minh Cần .
Bùi Tín Cập Nhật Hoá Truyện Dài Công An
Vụ hiếp dâm ô nhục đó xảy ra vào khoảng tháng 02/1957 , đến nay 50 năm đã trôi qua . Tiếp nối theo truyền thống của Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn , hai , ba thế hệ công an hậu duệ sau đó đã tàn phá và biến dải giang sơn gấm vóc Việt Nam thành Nhà Tù Khổng Lồ và Địa Ngục Trần Gian . Để cập nhật hoá truyện dài công an , xin trích một đoạn ngắn trong bài Cuộc Sát Hạch Gay Gocủa nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền Bùi Tín , viết từ Paris , Pháp Quốc , ngày 20/01/2007 . Bùi Tín viết :
- « Cho đến hiện nay , dưới sự cai trị của đảng CS , mới có những chuyện kỳ quái là viên cựu sĩ quan công an ở tỉnh Hoà Bình nhét cứt lợn vào mồm người ở là cô Nguyễn Thị Thương , luật sư Bùi Kim Thành bị công an trói và đưa vào bệnh viện tâm thần dù bà vẫn minh mẫn bênh người dân oan , hay thiếu tá công an ác ôn Võ Thị Hiền ở Pleiku ra lệnh cởi truồng Mục Sư Nguyễn Công Chính và đánh hiểm vào hạ bộ ông » .

Bùi Tín tường thuật 3 kỳ công kỳ cục của công an và nói lên tiếng nói bất mãn của mình đồng thuận với Dân Tộc :
- « Chúng ta , toàn dân ta , mọi người thật lòng yêu nước thương dân phải cùng kêu lên : đảng quyền kiểu Stalin và Mao 61 năm , quá đủ rồi ! Tôi không hề bất mãn cá nhân , không hề muốn gây loạn , nhưng lương tâm con người đòi hỏi phải thét lên như thế . Ai là người Việt mà không phẫn nộ trước những sự việc bất nhân tàn bạo đến vậy » .
Bầy Ác Thú Của Hồ Chí Minh
Khổ nạn của Mục Sư Nguyễn Công Chính trong ngày 24/09/2004 được Cơ quan Human Rights Watch tố cáo ( ngày 21/10/2004 ) trước Toà Án Lương Tâm Nhân Loại như sau :
- « Gần đây vào sáng 24/09 vừa qua hơn 200 cảnh sát vũ trang thuộc đơn vị 113 của Việt Nam đã đột nhập bất ngờ tấn công nhà thờ và nơi ở của Mục Sư Nguyễn Công Chính tại tỉnh Kontum . Họ đã tịch thu tài sản , đốt nhà thờ và nhà ở của Mục Sư Chính . Tuy đã chạy trốn nhưng vợ và các con Mục Sư đã bị bắt lên trụ sở quận Vinh Quang từ 0930 sáng đến 1630 chiều . Vợ Mục Sư đã bị đánh vào bụng trong khi mang thai 7 tháng » .

Lời Bàn : Người công an Cộng Sản đã ĐÁNH VÀO BỤNG NGƯỜI MẸ ĐANG MANG THAI 7 THÁNG ! Hắn là người ác ? Hay là người cùng hung cực ác ? Không ! Hắn không phải là người , hắn chính là thú vật , một con thú trong bầy ác thú của Hồ Chí Minh ! Có một nữ tác giả viết quyển Một Ngàn Giọt Lệ Rơi ( đó là tác phẩm « A Thousand Tears Falling » của Yung Krall , nhũ danh Đặng Mỹ Dung ) để diễn tả cảnh phân ly tan vỡ mà gia đình bà phải gánh chịu trong cuộc chiến . Vì Tình Mẫu Tử Thiêng Liêng mà Thượng Đế trao ban cho những bậc Hiền Mẫu của loài người , cúi xin những Bà Mẹ Khắp Nơi Trên Thế Giới hướng tâm về nước Việt Nam đau khổ và cầu nguyện cho Dân Tộc Việt Nam , một Dân Tộc đã đổ cả Triệu Triệu Giọt Lệ Rơi trong suốt thời gian loạn lạc từ năm 1945 cho mãi đến tận bây giờ là Mùa Bịt Miệng 2007 ! Xin Cầu Nguyện Cho Bầy Ác Thú Hồ Chí Minh Sớm Trở Lại Thành Người !
Hoàng Hải Thuỷ Viết Ở Rừng Phong
Viết Ở Rừng Phong , Công Tử Hà Đông tức nhà văn Hoàng Hải Thuỷ nhận xét về Việt Cộng rằng chúng không còn theo chủ nghĩa Cộng Sản , không còn tin theo Mác-Lê nữa , nhưng chúng vẫn giữ những đặc tính của bọn Cộng Sản . Những đặc tính ấy là :

Ngu - Ác - Tham - Bẩn - Đểu

Đó là những đặc tính cần và phải có đầy đủ mới có thể trở thành Tỷ Phú Mỹ Kim tại Việt Nam là một trong 10 nước nghèo nhất và trong 20 nước tham nhũng nhất thế giới . Theo bức điện thư số 39 , đề ngày 09/02/2005 của Câu Lạc Bộ Dân Chủ Việt Nam trích dẫn nguồn tin tuyệt mật được tiết lộ do một quan chức cao cấp của Bộ Công An ( xin được dấu tên ) , thì danh sách các quan chức cao cấp Việt Nam có trương mục từ 500 triệu USD lên đến hơn 2 tỷ USD với nhiều tấn vàng gửi tại ngân hàng Thuỵ Sĩ như sau : Cựu Chủ Tịch nước Lê Đức Anh , Đương kim Bộ Trưởng Quốc Phòng Phạm Văn Trà , Đương kim Thủ Tướng Phan Văn Khải , Cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười , Đương kim Chủ Tịch nước Trần Đức Lương , Đương kim Tổng bí thư Nông Đức Mạnh , Đương kim Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An , Đương kim Phó thủ tướng thường trực Nguyễn Tấn Dũng , Cựu Thứ trưởng Bộ Thương Mãi Mai Văn Dậu , Cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu , Cựu Phó Uỷ Ban Thể Dục Thể Thao Lương Quốc Dũng …

Danh sách còn dài ... nhưng rất tiếc chỉ diễn tả sự tình vào năm 2005 mà không được cập nhật hoá đến 2007 . Bây giờ có ai đặt câu hỏi những Quan Chức Đỏ trên đã buôn bán món hàng gì hay đã làm nghề gì mà giàu đến như thế không ? Chắc không ai muốn tìm câu trả lời , nếu có ai thắc mắc , xin mời đọc câu chuyện sau đây .
Chuyện Một Cô Giáo Yêu Nghề
Nói tới chuyện nghề nghiệp và câu hỏi các Quan Chức Đỏ đã làm nghề gì , người viết mới nhớ lại câu chuyện một cô giáo yêu nghề gặp khổ nạn vì cô đã dạy bài đức dục về Nghề Nghiệp theo đúng Phương Pháp Sư Phạm . Lúc đó vào khoảng 1964 , Việt Cộng thường đắp mô trên đoạn đường từ Cần Giuộc tới Cần Đước , người viết được biệt phái theo Tiểu Đoàn 2 TCLC để giữ an ninh vùng đó . Câu chuyện trên được truyền tụng trong giới giáo chức và phụ huynh học sinh như sau : một cô giáo dạy Lớp Tư trường tiểu học Chợ Trạm , Cần Giuộc , cô yêu nghề mến trẻ và rất tận tuỵ . Một hôm , cô dạy bài đức dục về Nghề Nghiệp . Theo đúng Phương Pháp Sư Phạm , cô giáo bắt đầu bài học bằng câu hỏi gợi ý . Với câu hỏi : « Ba em làm nghề gì ? » , cô lần lượt hỏi vài ba em học sinh . Em thứ nhất trả lời « Ba em làm ruộng » . Em thứ hai trả lời « Ba em làm thợ mộc » . Đến em thứ ba thì em nói « Ba em làm Việt Cộng » . Cô giáo hoảng sợ , không hỏi nữa , và cho học trò chép bài . Vài hôm sau , trong lúc cô giáo đang dạy , thì có 3 , 4 Việt Cộng mang vũ khí vào lớp , bịt mắt cô và giải cô đi , học sinh ngơ ngác nhìn theo , kinh hoàng !

Chúng dẫn cô giáo đi lanh quanh đến nửa đêm mới đến địa điểm Toà Án Nhân Dân . Cô bị kết tội đã làm việc lảnh lương của Mỹ Nguỵ mà còn thêm tội thứ hai là làm gián điệp cho giặc để truy tầm tố cáo những người làm cách mạng . Tội làm gián điệp là tội rất nặng đáng chết nên cô bị nhân dân kết án tử hình . Đảng lại bày trò mị dân : Toà Án Nhân Dân thì kết án tử hình , nhưng Cách Mạng lại khoan hồng , cô giáo được Đảng tha tội vì chỉ mới phạm lần đầu . Sau vụ khủng bố kinh hồn đó , cô giáo được thuyên chuyển về ngôi trường khác an ninh hơn .

Lời Bàn : Xưa nay theo tình tự dân tộc , chúng ta thường liệt kê nghề nghiệp trong xã hội bằng thành ngữ đơn giản như Sĩ Nông Công Thương hay Ngư Tiều Canh Mục . Sự giàu có dư dả được dẫn giải theo nhân sinh quan đại phú do thiên tiểu phú do cần . Nhưng các quan chức đỏ trong triều đại Hồ Chí Minh làm nghề Việt Cộng , và đã thành đại đại phú , điều đó xin được diễn tả bằng phương trình toán học đơn giản như sau :
Quan Chức Đỏ Làm Nghề Việt Cộng = Tỷ Phú Mỹ Kim
Lời Bàn Thứ Hai : Đây thêm một điểm son của chế độ VNCH của miền Nam ! Em bé học lớp Tư trong chuyện kể trên , dù có Ba làm Việt Cộng , vẫn được đi học bình thường trong tình tương thân tương ái của các bạn đồng lớp và được các thầy cô trong trường dạy dỗ tận tâm như những em bé khác . Do đó , ba của em vẫn được yên tâm đi làm Việt Cộng để đánh phá sát hại Dân Tộc . Ở miền Nam vào thuở đó không phải chỉ có một em bé học lớp tư trường Chợ Trạm là có cha làm Việt Cộng đâu , mà là có cả ngàn cả vạn em bé như vậy ! Những chiến sĩ VNCH đổ xương máu ở khắp chiến trường miền Nam ngăn chận Làn Sóng Đỏ để xây dựng một xã hội đầy tình người đẹp như vậy , thật đáng tiếc vô cùng , chúng ta đã thất bại ! Trong sự thất bại vô cùng to lớn đó , chúng ta đành ngậm ngùi với niềm an ủi nhỏ nhoi : Chúng Ta Không Thành Công , Nhưng Chúng Ta Đã Thành Nhân .
Bài Viết Của Dương Thu Hương
Trong bài viết của Dương Thu Hương với tựa đề khá táo bạo Là Để Ỉa Vào Mặt Kẻ Cầm Quyền , nhà văn nữ nói tới một số vụ làm ăn của các Bự Giòi . Con thì ăn cắp một nửa số xi-măng đổ lòng hồ Thuỷ điện Hoà Bình khiến mỗi năm một lần phải mời chuyên viên Hà Lan sang hàn vết nứt , mỗi lần tốn kém hàng trăm triệu USD và các ngân hàng bị huy động chạy nháo nhác như cứu hoả . Con thì mua tàu bãi rác của Hải Quân Nga thải đi sơn quét lại mang về lúc diễn tập sự việc mới đổ bể . Con thì mua tên lửa Nga đã tịt ngòi mang về bắn không nổ , mang tàu trục vớt không được phải thuê dân chài mò lên . Con thì rút ngân quỹ quốc gia cho vợ trổ tài xây sân bay trên đảo tốn hàng tỷ USD , ngày khánh thành cả sân bay , máy bay và phi công bị sập chìm xuống biển vô tăm tích , báo chí không được phép đưa tin , đương nhiên , quốc hội cũng không được báo cáo ... & ...

Trở lại bài viết « Là Để Ỉa Vào Mặt Kẻ Cầm Quyền » , Dương Thu Hương cho biết vào khoảng thời gian đó ( năm 2005 ) , ở Hà Nội có lưu truyền bản photocopie trên đó đăng thứ tự 50 con Giòi hạng một , những con Giòi chủ ngân khoản nhà băng khắp thế giới , nhiều nhất là Mỹ và Thuỵ Sĩ , mức tiền gởi thấp nhất trên 600 triệu USD . Bà viết rằng không đủ giấy và thời gian để liệt kê hết 50 con Giòi cấp 1 , làm sao có thể đủ kiên nhẫn kể những con Giòi cấp 2 và cấp 3 , cho nên bà viết tiếp :
- « Tôi chỉ biết rằng sự tàn nhẫn khốc liệt đang hoành hành trên xứ sở này nơi đám công tử đỏ đánh canh bạc cả trăm nghìn USD , cưỡi máy bay đi chơi gái Hồng Kông như người ta xuống đường đổ rác , trong khi con cái nông dân thất học vì không tiền mua vở , bao nhiêu người chết bệnh vì không tiền chữa , thậm chí có người bị trâu đâm lòi ruột bệnh viện cũng không cứu cấp vì ... không đủ tiền nhập viện ... » .
Câu Chuyện Hai Tấm Biển
Trong niềm đau khổ cùng cực của Dân Tộc , chúng ta , cả Dân Tộc , xin đồng thuận với Bùi Tín trong lời kêu gọi : « Chúng ta , toàn dân ta , mọi người thật lòng yêu nước thương dân phải cùng kêu lên : đảng quyền kiểu Stalin và Mao 61 năm , quá đủ rồi » .

Đảng phải trả Đất Nước lại cho Dân Tộc . Dân Tộc sẽ trả lại Đảng những gì Đảng làm , tỷ như tấm biển chỉ đường chữ màu máu đỏ :

Cảnh Giác Phát Hiện
Và Cương Quyết Đấu Tranh Vạch Mặt
Phần Tử Chống Phá Công Cuộc Xây Dựng
Và Phát Triển Đất Nước

Đó là Tấm Biển Của Đảng mà Đảng đã làm và đặt tại cổng vào khu chung cư của Hà Sĩ Phu ở Đà Lạt . Tấm Biển ấu trỉ của cái Đảng ấu trĩ đó , Dân Tộc sẽ tưng bừng hoàn trả lại cho Đảng để Đảng mang về đặt ở hang Pắc Bó , nơi Hồ Chí Minh cư ngụ ngày xưa với đồi Mác và suối Lênin .

Và Dân Tộc cũng xin làm một tấm biển thứ hai , Tấm Biển Của Dân Tộc , ghi lại nguyên văn lời phát biểu của Trần Quốc Hoàn , Bộ Trưởng Công An Số Một Của Hồ Chí Minh , trước khi hiếp dâm cô Nông Thị Xuân ( Cô là Bồ Nhí của Hồ Chí Minh và đã sanh cho HCM một đứa con trai là Nguyễn Tất Trung ) . Đây Tấm Biển Của Dân Tộc Làm Cho Đảng :

Sinh Mệnh Tất Cả Dân Tộc Việt Nam
Kể Cả Bố Mẹ Anh Chị Nhà Bà
Cũng Nằm Trong Tay Tôi
Tôi Muốn Bắt Bỏ Tù , Thủ Tiêu Đứa Nào , Tuỳ Ý
Và Tôi Nói Cho Bà Biết
Ông Cụ Già Nhà Bà Cũng Không Ngoài Tay Vói Của Tôi
( Danh Ngôn của Trần Quốc Hoàn , Công An Số Một của Hồ Chí Minh )

Sắp xếp lại theo trật tự tiến hoá của nền văn minh nhân loại , và vì Tiền Đồ Của Dân Tộc Việt , hai tấm biển , Tấm Biển Của Đảng và Tấm Biển Của Dân Tộc Làm cho Đảng , cả hai tấm biển đó xin được trang trọng đặt ở hai bên cửa hang để trang trí cho Hang Pắc Bó của Hồ Chí Minh . Và tên tuổi những người đấu tranh dân chủ và nhân quyền cho Dân Tộc như Hà Sĩ Phu Nguyễn Xuân Tụ và biết bao người khác nữa xin được lưu truyền như những điểm son trong sử xanh xứng danh là bậc Sĩ Phu Bắc Hà của miền đất thiêng Nghìn Năm Văn Vật ./.
1a / 1b / 2a / 2b / 3a / 3b / 4a / 4b / 5a / 5b
Nhóm Tâm Việt Sydney
Viết tại Sydney , Úc Đại Lợi
Mùa Bịt Miệng 2007
 

  Nguồn gốc tên của Hồ Chí Minh

Tâm Việt



Tên Hồ Chí Minh là người của Việt nam cách mạng đồng minh hội do Nguyễn Hải Thần sáng lập qua Tàu xin ủng hộ từ Tưởng giới Thạch năm 1942. Đó là một giả thuyết.
Nhưng đa số đều nói tên Hồ Chí Minh là tên mới sau khi bị Tưởng giới Thạch bắt. Điểm vô lý của tài liệu tại Việt Nam sau này nói ông giả là một học giả Trung Quốc già cả khi ở trong tù. Đây là điểm dấu đầu lòi đuôi để nhận vơ tập thơ "Ngục Trung Nhật Ký" của tác giả Tàu, một đảng viên Quốc dân đảng.

* * *
Nguồn gốc tên Hồ Chí Minh
Trong bài nói: "Ngày 13 tháng 8 năm 1942, ông lấy tên Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc với danh nghĩa đại diện của Việt Minh để tranh thủ sự ủng hộ của Trung Hoa Dân quốc thì bị chính quyền địa phương của Trung hoa Dân quốc bắt ngày 29 tháng 8 và giam hơn một năm trời, trải qua khoảng 30 nhà tù." Hình như theo một tài liệu nghiên cứu về "Nhật ký trong tù" thì Bác Hồ lấy tên Hồ Chí Minh sau khi bị bắt? Lại có nguồn nói họ Hồ của bác là họ gốc (hình như theo quan điểm của ông Hồ Hữu Tường? Newone 15:03, ngày 29 tháng 5 năm 2007 (UTC)
Về họ Hồ, xem bài của Trần Quốc Vượng: [10]. Avia (thảo luận) 09:48, ngày 30 tháng 5 năm 2007 (UTC)
Bài này ".. cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử..", trích lời của Trần Quốc Vượng trong bài viết .
Vào cuối tháng 8 năm 1942, ông bị Quốc dân Đảng bắt và ông giả là một học giả Trung Quốc già cả khi ở trong tù. Như vậy, câu Bác Hồ lấy tên Hồ Chí Minh sau khi bị bắt cũng có thể đúng. Casablanca1911 10:17, ngày 30 tháng 5 năm 2007 (UTC)
Vậy đâu là nguồn gốc tên của Chủ tịch Hồ chí Minh — bàn luận không ký tên vừa rồi là của 203.160.1.47 ( Thảo luận: Hồ Chí Minh )

* * *
Hồ chí Minh ( 胡志明) vi.wikipedia.org
Trích Tự điển Hán Việt Thiều Chửu
Hồ
① Yếm cổ, dưới cổ có mảng thịt sa xuống gọi là "hồ". Râu mọc ở đấy gọi là "hồ tu" 胡鬚. Tục viết là 鬍. Râu chòm, râu cằm.
② Cổ họng, nói năng không được rành mạch gọi là "hàm hồ" 含胡. Cũng viết là 含糊. Nói quàng gọi là "hồ thuyết" 胡說, làm càn gọi là "hồ vi" 胡爲 hay "hồ náo" 胡鬧 đều noi cái ý ấy cả.
③ Sao vậy ? dùng làm trợ từ, như "hồ bất" 胡不 sao chẳng ?, "hồ khả" 胡可 sao khá ?, sao được ?, v.v.
④ Rợ Hồ, Thổ phỉ
⑤ Bát hồ, một đồ dùng về việc lễ.
⑥ Một thứ đồ binh hình cong có lưỡi đâm ngang.
⑦ Xa xôi.

Chí 志
① Chí, nơi để tâm vào đấy gọi là "chí". Như "hữu chí cánh thành, có chí tất nên.
Người có khí tiết gọi là "chí sĩ" 志士 nghĩa là tâm có chủ trương, không có a dua theo đời vậy.
② Chuẩn đích.
③ Mũi tên.
④ Ghi chép, cũng như chữ "chí" 誌.

Minh 明
① Sáng, như "minh tinh" 明星 sao sáng, "minh nguyệt" 明月 trăng sáng. Dân tộc đã khai hóa gọi là "văn minh" 文明.
② Sáng suốt, sáng suốt trong sạch, không bị ngoại vật nó che lấp gọi là "minh", như "cao minh" 高明 cao sáng, "minh giám" 明監 soi sáng, "minh sát" 明察 xét rõ, v.v. Tục gọi quan trên là "minh công" 明公 nghĩa là vị quan sáng suốt, là theo nghĩa đó.
③ Phát minh, tỏ rõ, như "phát minh tân lý" 發明新理 phát minh ra lẽ mới, "tự minh tâm khúc" 自明心曲 tự tỏ khúc nhôi (khúc nôi), "minh minh như thử" 明明如此 rành rành như thế, "quang minh lỗi lạc" 光明磊落 sáng sủa dõng dạc, v.v.
④ Mắt sáng, như "táng minh" 喪明 mù mắt, ông Tử Hạ con chết khóc mù mắt, vì thế mới gọi sự con người chết là "táng minh chi thống" 喪明之痛.
⑤ Mới sáng, như "bình minh" 平明 vừa sáng, "minh nhật" 明日 ngày mai, "minh niên" 明年 sang năm v.v.
⑥ Thần minh, như các dùng về người chết gọi là "minh khí" 明器.
⑦ Nhà Minh 明 (1368-1644), Minh Thái tổ 明太祖 là Chu Nguyên Chương 朱元璋 đánh được nhà Nguyên 元 lên làm vua gọi là nhà "Minh".

* * *
Chữ Minh đi với chữ Hồ thành ra mất sáng, cá tính hàm hồ, mông muội, có thêm chữ Chí vào thành ra là mũi tên đâm mù mắt. Hệt như táng minh, mù mắt vậy. Hồ cũng là là binh khí hình cong như lưỡi liềm có cạnh đâm ngang, ngẫu nhiên như thể hình búa đặt ngang cái liềm. Nghĩa khác nữa là Hồ nghi, Hồ khẩu là bị ăn đói.
Chọn Minh thì sáng, còn chọn Hồ thành tối. Vì chọn Hồ nên đảng này có tính hồ nghi, khi đã cướp được nước thì nghi ngờ dân chúng, không cho nhân dân nước đó được tự do nữa.
Nếu chiết tự chữ Minh 明 theo diện tướng thì mắt trái là Nhật 日, mắt phải là Nguyệt 月 gặp Chí 志 là mũi tên thành mù mắt là đúng rồi.
Thường thường, mọi người hay nghe từ "thông minh", nguyên gốc bởi câu "nhĩ mục thông minh, tai thông mắt sáng là vậy.
Hồ cũng là cái Cung. Cái cung gỗ, như "tang hồ" 桑弧 cung dâu, có Chí 志 là mũi tên và Minh 明 là biểu tượng của hai con mắt. Hồ Chí Minh, theo nghĩa đó là kẻ cầm cung nhắm tên bắn vào mắt mặt làm mù nhân dân.
Nếu dịch sang tiếng Anh tên Hồ chí Minh sẽ là Suspicion to Understanding hay Confusion to Clarity
Suspicion (Hồ) to (Chí) Understanding (Minh) or Confusion (Hồ) to (Chí) Clarity (Minh)
Thay vì gọi tên, thiên hạ chỉ gọi họ nên các sự liên hệ sinh hoạt sống với chữ Hồ chỉ có hồ nghi, hồ mị và hồ đồ . Không có chữ Minh trong cuộc sống nữa !
Tự do trọng sự thật, mà sự thật là chữ Minh đã bị chữ Hồ ếm rồi.
Tiếc thay !

Tâm Việt
Khai Trí Minh Tâm, Dân Khôn Nước Thịnh
28/6/2007, bổ túc 4/9/2007
Trích từ: http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=3516

 





Chương 2
Hồ Chí Minh, Kẻ Mang Tên Giả

Viết tại Sydney, Úc Đại Lợi
Mùa Quốc Hận 2007
Nhóm Tâm Việt Sydney

Trong kho tàng truyện Tàu, Tây Du Ký là bộ truyện thật phổ thông, ở Việt Nam hầu như ai cũng có đọc. Truyện kể thầy Tam Tạng cùng ba người đồ đệ là Tôn Hành Giả, Trư Bát Giái, và Sa Tăng hành hương đến miền dất Phật gọi là Tây Trúc để thỉnh kinh Phật đem về Trung Quốc. Đường đi thiên ma bách chiết, lại thêm tiếng đồn thịt thầy Tam Tạng là một món thuốc trường sinh vô cùng quí giá, ai ăn được thì sẽ sống lâu ngàn tuổi, cho nên ma quỉ yêu tinh trên đường thầy đi thỉnh kinh đều muốn đón bắt để ăn thịt. Vì thế cho nên ba người đồ đệ vừa phải lo phụng dưỡng thầy lúc đi đường vừa phải lo đánh đỡ chống trả với bọn yêu tinh để bảo vệ thầy mình.
Trong ba người đệ tử của thầy Tam Tạng có Tôn Hành Giả, pháp danh Ngộ Không, là tài ba hơn cả. Với phép biến hóa thất thập nhị huyền công, Tôn Hành Giả khi thì biến thành con lằng xanh bay vào động yêu tinh để thám thính xem chúng bắt giam thầy mình ở đâu để giải cứu, khi thì biến thành chính thầy mình để dối gạt lũ yêu tinh, khi thì biến thành thức ăn như trái cây để yêu tinh ăn vào bụng và khi đã vào trong bụng của yêu tinh thì lại biến thành Tôn Hành Giả tí hon cầm thiết bảng vung múa đánh đập vào tim gan tì phế thận của yêu tinh và bắt chúng phải thả thầy mình ra. Với nhiều phép mầu như vậy, cho nên Tôn Hành Giả cùng hai sư đệ Trư Bát Giái và Sa Tăng đã hoàn thành sứ mạng đưa Sư Phụ mình đến Tây Trúc và thỉnh được kinh Phật mang về nước an toàn.

Nếu trong truyện Tây Du, nhân vật huyền thoại Tôn Hành Giả pháp danh là Ngộ Không có phép biến hóa mầu nhiệm như vậy để giúp Thầy mình thỉnh kinh hầu quảng bá và phát triển Phật pháp từ bi bác ái, thì trong lịch sử của nước Việt Nam bất hạnh có nhân vật Hồ Chí Minh với tài ba thiên phú tạo ra huyền thoại và cách dùng tên giả đã thành công mang chủ nghĩa Mác Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông để thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam gian xão tham tàn độc ác và hèn hạ nhất trong lịch sử.

Trong lịch sử loài người, Hồ Chí Minh hẳn đoạt giải quán quân về tài dùng tên giả. Tác giả Douglas Pike trong quyển Khẩu Sử Về Người Mỹ ở Việt Nam 1945-1975 (An Oral History Of Americans In Vietnam 1945-1975) trang 95 đã viết Hồ Chí Minh đi khắp nơi với ít nhất 40 tên giả. Tác giả Phạm Quang Trình, đã đọc hết tám ngàn trang của bộ Hồ Chí Minh Toàn Tập đồ sộ và cho biết Hồ Chí Minh đã dùng tới 30 bút hiệu khác nhau (quyển Chiến Đấu, trang 272). Nhưng theo tác giả Minh Võ thì chính Hồ Chí Minh tự nhận rằng việc có hơn một trăm tên giả là điều bình thường vì trong mọi tổ chức gián điệp quốc tế, các tên giả là vỏ bọc, là biện pháp an toàn (trích Hồ Chí Minh, Nhận Định Tổng Hợp, trang 184. Sau đây chúng ta hãy thử xem Hồ Chí Minh đã dùng những tên giả nào và dùng để làm gì?
Tên giả đầu tiên của Hồ Chí Minh là Nguyễn Văn Ba. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1911, sau khi nghỉ dạy ở trường Dục Thanh, ông tìm được một chân phụ bếp trên tàu SS Latouche Tréville của công ty Liên Hiệp Hàng Hải Pháp và ông làm việc trên tàu với cái tên Ba mộc mạc ấy. Tại sao ông không dùng tên thật là Nguyễn Tất Thành để được mang một chút vinh quang về sự đỗ đạt đại khoa của cha mình? Thuở ấy, dù sao ông cũng là một ấm sinh, cha là một vị Phó bảng đã từng giữ chức Tri huyện tuy đã bị sa thải. Phải chăng ông không muốn dùng tên thật vì cho rằng công việc lao động tay chân trên tàu không xứng với dòng dõi khoa bảng của gia đình?
Khi vừa đến Pháp, ông liền viết đơn xin vào học Trường Thuộc Địa ở Paris, nơi đào tạo quan chức phục vụ cho các thuộc địa của Pháp trong đó có Đông Dương. Đơn viết làm 2 bản đề ngày 15-9-1911 gởi cho Tổng Thống Pháp và Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa. Trong đơn xin học nầy, ông đã viết tay một cách nắn nót và ký đề chính tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Nhưng đơn không được chấp thuận, có lẽ vì ông đã phạm một lỗi chính tả (faute d’orthographe) rất sơ đẳng, chứng tỏ trình độ Pháp văn của ông rất thấp kém. Trong đơn, đúng ra phải dùng chữ subsistancekế sinh nhai, thì ông lại viết sai thành chữ substance có nghĩa là chất liệu. Với những vị cao niên từng thân thuộc với nền học vấn Pháp thời Pháp thuộc, thì cái lỗi chính tả Hồ Chí Minh phạm phải là một lỗi rất nặng, giống như khi làm toán mà sai con toán phải bán con trâu vậy. Về cái lỗi chính tả trong đơn xin nhập học nầy, xin có lời dẫn giải thêm như sau.
Nguyên cha của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Huy có quen với cụ Bùi Thức là cha của Bùi Kỷ, trong dịp gặp nhau tại trường thi, lui tới với nhau khi chờ đợi kết quả. Khoa thi Hội 1898, cụ Bùi Thức đỗ tiến sĩ, còn cụ Nguyễn Sinh Huy, đến năm 1901, mới đỗ Phó Bảng. Thi đỗ xong, cụ Sinh Huy đưa con mình là Tất Thành ra Bắc thăm cụ Bùi Thức ở làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ rất giỏi, mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó Bảng, đã học trường Thông Ngôn, và được học bổng sang Pháp học trường Thuộc Địa từ tháng 2 năm 1911. Lúc Nguyễn Tất Thành mang tên Văn Ba đến Pháp, đi thăm cụ Phan Châu Trinh ở Paris, nhân đó đã gặp lại Bùi Kỷ. Có thể tại nhà cụ Phan, Bùi Kỷ đã gợi ý và thảo lá đơn xin nhập học cho Nguyễn Tất Thành chép lại. Vì trình độ Pháp văn còn thấp kém, trông gà hóa cuốc, bản thảo của Bùi Kỷ viết là subsistance mà Nguyễn Tất Thành chép sai thành substance, có thể vì vậy mà đơn không được cứu xét chăng.

Ông vẫn làm việc dưới tàu, rày đây mai đó, khi đi Anh lúc sang Mỹ. Sau đó không lâu, ông viết thư cho Khâm sứ ở Trung Kỳ để xin ban cho cha ông một việc làm như thừa biện ở các bộ hay chức huấn đạo và một thư khác xin Khâm sứ chuyển mandat 15 đồng bạc Đông Dương cho cha mình vì cha ông không thể nhận mandat trực tiếp được. Những bức thơ nầy ông đề tên Paul Thành Paul Tatthanh. Lần nầy, ông lại ghép thêm tên Paul vào tên khai sanh của mình cho có vẻ giống Pháp, vì đấy là mốt rất thời thượng vào thuở đó.

Về tên Nguyễn Ái Quốc thì có nhiều nghi vấn. Trong quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 của tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ (trang 87) thì tờ báo viết bằng chữ Pháp Le Paria có nghĩa là Người Cùng Đinh do Đảng Cộng Sản Pháp xuất vốn và do Nguyễn Thế Truyền hợp tác trông nom. Nguyễn Thế Truyền, người tỉnh Nam Định, có bằng kỷ sư hóa học, ở Pháp rất lâu, có vợ đầm, có hai cô con gái đặt tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị để kỷ niệm tên hai vị nữ anh hùng Việt Nam. Ông là một đảng viên kỳ cựu hơn hết trong Đảng Cộng Sản Pháp (trang 89 sđd). Dù là kỷ sư hóa học, nhưng không dùng bằng cấp sống với nghề nầy, trái lại Truyền lại đi theo con đường chính trị, viết báo hô hào binh vực quyền lợi người dân Việt Nam bị Pháp áp chế. Theo bà Phương Lan Bùi Thế Mỹ (bà viết lại theo lời kể của Tạ Thu Thâu, vì bà cùng nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người đồng hương ở tỉnh Long Xuyên và giữa hai người có giao tình nghĩa huynh nghĩa muội rất đậm đà) thì ban biên tập tờ Le Paria như sau: “Trong nhóm của Truyền, có nhiều cây viết mạnh như Truyền, đồng ký tên chung trong mục xã thuyết là Nguyen Le Patriote tức là Nguyễn Ái Quốc, mà nhiều người cho đó là của một mình Nguyễn Tất Thành, tức là Hồ Chí Minh sau nầy. Nhưng sự thật do nhiều người đảm nhận, thay nhau viết, như Hoàng Quang Giụ, một chiến sĩ làm phụ tá cho Truyền, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự v.v... Nhiều người viết cho một mục chung, chớ chẳng phải bút tự riêng cho một cá nhơn nào cả”.

Tác giả Phạm Quang Trình, trong quyển Chiến Đấu (trang 275), cũng đặt nghi vấn tương tự: “Có điều lạ là trong thời kỳ này, nhiều bút tích ký tên là Nguyễn Ái Quấc (lối nói của người miền Nam) chứ không phải là Quốc như lối nói của người miền Bắc và miền Trung (bản in ghi là Quốc khác với bút tích là Quấc), vậy phải chăng có hai hay một nhóm người dùng tên Nguyễn Ái Quốc mà sau này ông Hồ cố ý cầm nhầm chăng?”

Theo Phương Lan Bùi Thế Mỹ, thì quyển Kết Án Thực Dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Francaise) do Nguyễn Thế Truyền là tác giả bán rất chạy ở Việt Nam như ở Pháp (trang 90 sđd). Phạm Quang Trình cũng đặt nghi vấn về tác giả của bản văn đó như sau: “Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bốc lột của Thực Dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ An Nam. HCMTT/Tập 2 ( tức là quyển Hồ Chí Minh Toàn Tập) viết rằng Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp được in lần đầu năm 1925 ở Paris bằng Pháp ngữ, do Nguyễn Thế Truyền đề tựa”. Tác giả Phạm Quang Trình cho rằng trong thời gian này ông Hồ đang hoạt động ở Nga, và từ lâu, nhiều nhân vật hoạt động cũng như dư luận đều cho rằng tài liệu này do một nhóm người hoạt động ở Pháp, chủ chốt là Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền cùng một số nhân vật khác ký tên chung là Nguyễn Ái Quấc hay Nguyễn Ái Quốc. Khi sang Nga làm việc cho Ban Phương Đông, ông Hồ đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình và sau này cầm nhầm luôn tài liệu đó, tự cho mình là tác giả. Dư luận này đã được nhiều người chú ý và cho là khả tín.

Trong tác phẩm Chân Tướng Hồ Chí Minh (trang 47), Giáo sư Cao Thế Dung cũng nhận xét về sự việc mạo nhận bút danh Nguyễn Ái Quốc như sau: “Nhóm Nguyễn Ái Quốc với cái tên chung xuất hiện trên một số báo như L‘Humanité, Le Libertaire, La Vie Ouvrière cũng đều do Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền viết. Ông Hồ cũng nhìn nhận khả năng tiếng Pháp học trò của ông, nhưng Hồ đã lanh tay lấy tên Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đã nổi tiếng trên báo L‘Humanité của đảng Cộng Sản Pháp và với tên này, Hồ đi vào cộng đồng Cộng Sản và Thiên Tả Pháp. Hồ được Nguyễn Thế Truyền giới thiệu với các đồng chí của ông trong đảng Xã Hội và từ đảng Xã Hội, Hồ qua đảng Cộng Sản Pháp. Sự kiện minh chính rất rõ rệt, không có Luật Sư Phan Văn Trường và Kỹ Sư Nguyễn Thế Truyền thì không có Nguyễn Ái Quốc. Cái danh Nguyễn Ái Quốc và Bản Án Thực Dân Pháp là sản phẩm của Phan và Nguyễn. Ông Hồ chỉ là một thứ chầu rìa văn chương”. Vào thời gian đó, Hồ Chí Minh cũng có dùng bút danh Nguyễn Ố Pháp, vì tính quá khích nầy mà ông bị Jacques Doriot của Đảng Cộng Sản Pháp trách cứ.

Hồ Chí Minh mang giả danh Nguyễn Ái Quốc cũng giống y như trong thơ ngụ ngôn có chuyện cáo đội lốt hùm để vay mượn oai vệ của chúa tể sơn lâm. Cho đến ngày 19-8-1945, khi Đảng Cộng Sản cướp chính quyền ở Hà Nội, thì toàn quốc không ai biết nhân vật Hồ Chí Minh là ai! Chính Cựu Hoàng Bảo Đại lúc đó ở Huế cũng không biết, ngài bèn hỏi Phạm Khắc Hoè. Hoè cũng không biết, bèn đi hỏi Tôn Quang Phiệt và Đào Duy Anh, thì cả 2 vị nầy cũng không biết. Vào lúc đó, Vũ Văn Hiền vừa mới từ Hà Nội về mới cho biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Khi Cựu Hoàng biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì Cựu Hoàng mới nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là Thánh Nguyễn Ái Quốc, thì trẫm sẵn sàng thoái vị ngay” (bài của Phạm Khắc Hoè viết chung trong quyển Chín Chúa Mười Ba Vua , tác giả Tôn Thất Bình, trang 158).
Một nhân chứng ở Hà Nội là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng nhận xét về ý đồ dùng tên giả của Hồ Chí Minh như sau: “Tuy nhiên, xét kỹ thì một người đã mượn họ tên khác đặt vào mình trong một địa vị cao quý nhất của một nước, người ấy ắt có một tâm địa tráo trở. Vì lẽ gì đã phải dấu tên thực với quốc dân, với quốc tế? Những ngày đầu của chính quyền Việt Minh, trên mặt các báo có thấy nói đến tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng dụng ý là úp mở cho biết Hồ Chí Minh ngày nay tức là Nguyễn Ái Quốc trước” (trích Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ trang 327).

Nhưng biệt danh Hồ Chí Minh lại cũng không phải là tên cúng cơm của Bác. Trong quyển Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại, tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (trang 238): “Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà Tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Cụ qua Xiêm đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem sang Tàu cả hai”.

Trong cái chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi Vợ Cụ Hồ Chí Minh Thật và viết tiếp: “Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng Việt Nam, ở Tàu bao nhiêu năm thì bà Khôn Nghi cùng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng Việt Nam ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”

Cụ Hồ Chí Minh thật đó, tức là Hồ Học Lãm, là con của Án Sát Hồ Bá Ôn, người đã hy sinh như một Liệt Sĩ Dân Tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa QDĐ, mang quân hàm trung tá, là thành viên sáng lập VNCMĐMH năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì nhân vật Nguyễn Tất Thành Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che dấu tông tích cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu và xài luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận cộng sản).

Cho đến bây giờ, chúng ta đã biết Hồ Chí Minh thật là Hồ Học Lãm con của Án Sát Hồ Bá Ôn, còn Hồ Chí Minh giả là con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy tên Nguyễn Sinh Cung sau đổi lại là Nguyễn Tất Thành. Biết là biết vậy thôi, nhưng giả đã biến thành thật quá lâu rồi, cho nên ta cứ đọc và hiểu rằng Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Tất Thành, là Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chí Minh, là là là.... biết bao giả danh khác nữa! Cứ xem những tên giả của Hồ Chí Minh như là những phép biến hóa thất thập nhị huyền công của Tôn Ngộ Không để tạo Hồ Chí Minh thành một con người muôn mặt, khi ẩn khi hiện, với hành tung kỳ bí như một nhân vật trong thần thoại. Vì thế cho nên, vào năm 1967 khi Oliver Todd, nhà văn và nhà báo Pháp, gặp Nguyễn Khắc Viện ở Hà Nội, thì Viện khoe với Oliver Todd rằng: “Bác Hồ của chúng tôi là huyền thoại sáng lập huyền thoại”.

Khi nói như vậy, thì Viện chỉ làm bổn phận như một con vẹt lặp lại lời chủ, bởi vì trước đó 5 năm, vào tháng 7 năm 1962, trong cuộc phỏng vấn của Bernard Fall, chính Hồ Chí Minh đã thú nhận rằng mình là “một ông già thường thích thêu dệt một chút huyền thoại cho cuộc đời mình.”

Vào giữa năm 1923, với danh vị đảng viên của Đảng Cộng Sản Pháp và mang tên Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ được đảng cử đi dự Đại Hội V của Đệ Tam Quốc Tế (Komintern) và được cấp 1000 quan làm lộ phí (vào thời đó là một số tiền lớn, một sinh viên có thể sống trong 5 tháng). Sau một thời gian ngắn tạm trú ở Đức, Hồ Chí Minh được tổ chức làm cho một giấy thông hành để đi Mạc Tư Khoa với tên Chen Vang, trong giấy ghi ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.

Đến Mạc Tư Khoa, mang tên là Nguyễn Ái Quốc, ông có đọc một bài diễn văn tại đại hội của Komintern. Sau bài diễn văn, ông được ký giả phỏng vấn và bài phỏng vấn được đăng trên trang nhất của báo kèm với ảnh của ông. Bỗng chốc, ông nổi tiếng lừng lẫy và được bầu vào Chủ Tịch đoàn của Đệ Tam Quốc Tế. Ông trở thành một Kominternchik, một Quốc Tế Ủy, ông đã chấm dứt giai đoạn đào tạo chiến sĩ Quốc Tế Cộng Sản của mình, và đạt được trình độ mà Đệ Tam Quốc Tế có thể phó thác cho ông những nhiệm vụ quan trọng.

Sau khi nhận chức vị Kominternchik, ông Hồ làm việc ở Ban Phương Đông đến mùa thu 1924, rồi được gởi đến Trung Quốc. Đến Quảng Châu, ông không dùng tên Nguyễn Ái Quốc vì muốn che dấu tông tích cộng sản của mình. Đối với Trung Quốc, ông xưng là Lý Thụy (Li Fui); đối với người Việt, ông là Vương Sơn Nhi, hay Lão Vương (thật ra, chữ Thụy chiết tự ra thành ba chữ Vương, Sơn, và Nhi). Khi viết cho tờ Quảng Châu Báo, ông dùng bút danh Trương Nhược Trừng. Trong một báo cáo trước đại hội đại biểu toàn quốc kỳ 2 Trung Quốc Quốc Dân Đảng về vấn đề giáo dục, ông dùng tên giả là Vương Đạt Nhân. Lúc đó chức vụ công khai của ông là thông dịch viên của ông Michael Borodin, cố vấn Nga bên cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng của bác sĩ Tôn Dật Tiên. Ngoài ra, ông phiên dịch và làm phóng viên cho hãng Rosta (tiền thân của Tass) lương 150 đôla một tháng, với tên Nga Nilốpxki (Nilovskii). Thực ra, đó chỉ là bình phong vì ông phải dùng chiêu bài Chủ Nghĩa Dân Tộc để tuyên truyền Chủ Nghĩa Cộng Sản và thành lập các chi bộ cộng sản tại Đông Nam Á.

Mùa thu năm 1928, với tên giả là Đào Cửu, ông xuất hiện lần đầu tiên tại vùng trung bộ nước Xiêm (bây giờ là Thái Lan). Vì chữ cữu là chín (số 9), cho nên có sách chép bí danh của ông lúc đó là Thầu Chín, có sách chép là Cha Chính, và công của ông đối với Đệ Tam Quốc Tế là thành lập đặng Chi Bộ Đảng Cộng Sản Xiêm vào tháng 4 năm 1930 gồm đa số là người Việt và Hoa. Trên đất Xiêm, Hồ Chí Minh cũng dùng một tên giả khác là Mai Pín Thầu.

Tháng giêng 1930, ông về lại Hương Cảng. Với tên Victor Nguyễn Ái Quốc ông nhận nhiệm vụ của Cục Phương Đông thống nhất 3 đảng cộng sản Đông Dương với những cương lĩnh mới, nhưng vẫn duy trì quyết nghị của Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội trong đại hội năm 1929 là dốc toàn lực chống lại Việt Nam Quốc Dân Đảng bằng mọi cách. Cương lĩnh có ghi thêm nguyên văn như sau: “ đối với Quốc Dân Đảng: thứ nhất, phải ra sức tranh thủ lực lượng của Quốc Dân Đảng; thứ hai, tổ chức đảng viên Quốc Dân Đảng vào Hội Phản Đế” (tài liệu nầy trích từ bài Cuộc Khởi Nghĩa Của Việt Nam Quốc Dân Đảng Năm 1930 của ký giả Hai Trang đăng ở Đặc San Việt Quốc, trang 37. Đặc san do Xứ Bộ Úc Châu, Khu Bộ Victoria phát hành).

Từ 1930 đến đầu năm 1933, tại các vùng Thượng Hải, Hương Cảng, Cửu Long, Hạ Môn ông vẫn dùng tên Lão Vương, nhưng khi bị bắt ở Thượng Hải thì ông khai là Tống Văn Sơ hay Đoàn Văn Sơ.

Khi được thả, ông về lại Mạc Tư Khoa. Ngày 16-9-1934, ông nhập học khóa tình báo ngắn hạng 6 tháng của KGB với tư cách là học viên nội trú của đại học Lênin, mang tên giả là Linov với bí số 375. Tại học viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Thuộc Địa, ông lãnh đạo tiểu tổ các học sinh Việt Nam và dùng tên giả là Lin.

Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa về lại Trung Quốc vào cuối năm 1938. Từ đó dến tháng 2-1941, ông hoạt động vùng Diên An, Hành Dương, Quế Lâm, Long Châu, Quí Dương, Trùng Khánh, Côn Minh, Tĩnh Tây và dùng các tên giả P.C.Lin, Hồ Quang (Hu Kwang), Lão Trần, Hoàng Quốc Tuấn. Ông lấy bút danh P.C.Lin để viết những bài gởi về Hà Nội đăng trong báo của Mặt Trận Dân Chủ do Võ Nguyên Giáp phụ trách. Tên giả Hồ Quang, với cấp bực thiếu tá, được dùng lúc ông công tác tại trạm liên lạc của Lộ Quân 8 Trung Cộng ở Quí Dương (tỉnh lị của tỉnh Quí Châu). Với bí danh là ông Trần, Hồ Chí Minh đến Côn Minh do tổ chức liên lạc của Trung Cộng tại địa phương.

Hồ Chí Minh dùng tên giả Hoàng Quốc Tuấn để đảm trách chức chủ tịch Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Ủy Viên Hội tại Tĩnh Tây mà 2 cán bộ chính là Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng) với chủ trương Thân Hoa Kháng Nhật. Vào lúc đó, Trương Bội Công nhận được chi viện của tướng Trương Phát Khuê (tư lệnh Chiến Khu 4 Trung Quốc), ông liền điều động Đội Công Tác Biên Khu Trung-Việt từ Liễu Châu về Tĩnh Tây, sát biên thùy Bắc Việt, để chiêu nạp thanh niên từ Việt Nam trốn sang. Các thanh niên sắc tộc từ Cao Bằng trốn sang đều đầu quân ở Đội Công Tác Biên Khu này. Biết được tình hình này, Hồ Chí Minh với giả danh Hoàng Quốc Tuấn chủ tịch VNDTGPUVH, đề nghị tái hợp tác với Trương Bội Công, và cho người len lỏi vào Đội Công Tác Biên Khu để đón người của Trương Bội Công đưa về huấn luyện theo chương trình riêng của mình. Đến tháng 2-1941, khi Hồ Chí Minh rời Tĩnh Tây về căn cứ Pác Bó ở Cao Bằng thì ông đã có một số cán bộ nhờ mưu lược lợi dụng tổ chức của Trương Bội Công.

Trong thời gian này, Hồ Chí Minh hoạt động khắp vùng rừng núi Việt Bắc với các tên giả Già Thu, Sáu Sán, Ong Ké. Sau đó, Hồ Chí Minh lại sang Trung Quốc và bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp của Nhật. Lần nầy, ông được Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh bảo lảnh nên tướng Trương Phát Khuê mới trả tự do cho ông. Nhờ khả năng tình báo do KGB đào luyện, ông được tướng Trương Phát Khuê tin dùng và cho phục vụ trong tình báo Trung Hoa qua Bộ Tư Lệnh Đệ Tứ Chiến Khu ở Hoa Nam. Rồi từ tình báo của Trung Hoa, ông bắt liên lạc với tình báo Huê Kỳ do Charles Fenn và thiếu tá Archimedes Patti, đặc vụ phụ trách chiến trường Đông Dương của OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA, cơ quan Trung Ương Tình Báo Huê Kỳ. Ông trở thành một trong 25 điệp viên của Charles Fenn với bí danh Lucius bí số 19. Ông được Charles Fenn cung cấp cho 6 khẩu súng lục 38cùng với 120 băng đạn.

Hồ Chí Minh dùng tên giả và bí danh rất nhiều, nhưng cũng có lúc ông viết bài mà không đề tên, cũng không đề là vô danh, mà chỉ để trống mà thôi. Đó là lúc thời cơ chưa thuận lợi, cho nên toàn bộ những bài viết của ông đăng trên 30 số báo Việt Nam Độc Lập từ tháng 8-1941 đến tháng 8-1942 đều không thấy ký tên.

Chúng ta đã lược qua những tên giả và bí danh Hồ Chí Minh đã dùng trong quãng thời gian rất dài từ lúc ông là anh Ba làm phụ bếp dưới tàu để đi Pháp năm 1911 đến lúc ông là Hồ Chí Minh tuyên đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1945 ở Hà Nội. Chỉ có một người tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Tất Thành, nhưng Hồ Chí Minh đã dùng những tên giả để đóng đủ các vai: đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp, Quốc Tế Ủy (cán bộ nòng cốt) của Đệ Tam Quốc Tế, tình báo viên KGB, đảng viên Trung Cộng , sĩ quan phục vụ Trung Hoa Dân Quốc, điệp viên OSS của Huê Kỳ, và sau cùng là Bác Hồ Cha Già Dân Tộc. Dùng tên giả để che dấu tông tích của mình chưa đủ, Hồ Chí Minh còn dùng tên giả để viết sách tự đề cao mình. Đó là quyển Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch với bút danh Trần Dân Tiên, và với bút danh T.Lan ông viết quyển Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện. Lại còn một tên giả khác là Lê Nhân, ông dùng để viết bài giải thích thêm cho thật rõ những lời dạy dỗ của Hồ Chủ Tịch mà chính “Bác” đã viết trước đó.

Dùng tên giả mãi, rồi sau cùng Hồ Chí Minh cũng có lần dùng lại tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Lúc đó là đầu năm 1955, Hồ Chí Minh về Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ và hiệp định Genève. Tổng Cục Hậu Cần tìm được một thiếu nữ xinh đẹp người Nùng ở Cao Bằng tên Nông Thị Xuân (sau đổi thành họ Nguyễn) và đón cô về “phục vụ” cho ông. Đến cuối năm 1956, cô Xuân sinh được một đứa con trai và ông đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Qua cách đặt tên con như vậy, hiển nhiên ông nhìn nhận liên hệ phụ tử, này nhé: cha là Nguyễn Tất Thành thì con là Nguyễn Tất Trung. Trong Tình Tự Dân Tộc, tên hai cha con hợp lại là Trung Thành, thật là có ý nghĩa, thật đẹp vô cùng!

Nhưng sự thực thật phũ phàng, không trung, không thành, không thủy chung gì cả! Sau khi sinh con, cô Xuân ngỏ ý với Bác muốn được ra chính thức. Cô ước muốn được làm mẹ và làm vợ trong một gia đình ấm cúng, với một người chồng yêu thương và bảo bộc mình. Lòng mong ước theo bản tánh thiên nhiên mà bất cứ người phụ nữ nào trong bất cứ xã hội nào cũng mong ước, nhưng niềm mong ước chính đáng đó lại là bản án tử hình của cô. Cô bị lên án tử hình mà cô không biết! Cô phải bị thủ tiêu để Bác được tiếng là Cha Già Dân Tộc suốt đời hy sinh cho đất nước mà không lập gia đình! Tên bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn của Bác nhận lịnh thi hành bản án, thấy cô Xuân quá đẹp nên hắn hiếp dâm cô nhiều lần, rồi đập đầu cô chết và quăng xác ra đường để ngụy tạo thành tai nạn giao thông. Đứa con Nguyễn Tất Trung của Bác vừa được vài tháng tuổi, chưa thôi nôi, thì đã mồ côi mẹ! Trong một chế độ thối tha ghê tởm như vậy mà có một nhạc sĩ văn nô sáng tác bài ca Ai Yêu Bác Hồ Hơn Chúng Em Nhi Đồng? để đầu độc lòng ngây thơ trong trắng của cả thế hệ thiếu nhi!

Về sự việc giết cô Nông Thị Xuân, nếu Hồ Chí Minh im lặng không nói tiếng nào thì thôi! Nhưng khi cô Xuân ngỏ ý muốn được Bác nhìn nhận là vợ chính thức, thì Bác ta lại lếu láo trả lời: “Cô xin như vậy là hợp tình hợp lý, nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được, nên phải chờ một thời gian nữa.” Lời phát biểu của Hồ Chí Minh như vậy, khi ông nại tên những nhân vật trong Bộ Chính Trị để nói với cô Xuân, hiển nhiên là lời Nói Dối Chính Trị. Hồ Chí Minh đã dối trá với Dân Tộc bằng bản Tuyên Ngôn Độc Lập bịp bợm! Ông đã dối trá với cả thế giới bằng các quyển sách ông viết với giả danh Trần Dân Tiên và T.Lan! Đây là trường hợp ông dối trá với một người thiếu nữ ngây thơ hết lòng hết dạ trao thân gởi phận cho ông! Đến bây giờ, người viết dòng chữ này xin cầu mong trong thế hệ tương lai của Dân Tộc, Hồ Chí Minh đừng dối gạt thêm ai nữa!

Cái chết bi thảm của cô Xuân là bằng chứng hùng hồn tố cáo Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử vô cùng gian xão, khát máu và đầy tham vọng. Thầy nào trò nấy: tên bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn của Hồ Chí Minh cũng tàn bạo, đê hèn, ghê tởm không bút mực nào tả xiết. Đồng thời, nó cũng tố cáo chế độ ông lập ra là một chế độ cực kỳ phi nhân và bạo ngược. Khi bị hiếp dâm, cô Xuân chống cự, xô Trần Quốc Hoàn ra và nói: “Không được hổn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”. Trần Quốc Hoàn cười một cách nhạo báng: “Tôi biết bà to lắm, nhưng bà phải biết sinh mạng bà nằm trong tay tôi”. Rồi hắn nói tiếp: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt bỏ tù, thủ tiêu đứa nào, tùy ý. Và tôi nói cho bà biết ông cụ già nhà bà cũng không ngoài tay vói của tôi”. Tên bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn thỏa mãn thú tánh của mình trước rồi sau mới thi hành nghiêm chỉnh lịnh của Bác; hắn tiếp tục giữ chức bộ trưởng công an và phục vụ đắc lực chế độ thêm 23 năm cho đến năm 1980, rồi an nhàn về phục viên đến 1988 mới mãn phần.

Giết cô Xuân vào đầu năm 1957, thì chỉ mấy tháng sau, khoảng cuối năm 1957, Hồ Chí Minh vào thăm trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội. Trong buổi nói chuyện thân mật với sinh viên, Bác ra cái điều thành khẩn: “Bác có hai tật xấu, các cháu không nên bắt chước. Một là hút thuốc. Hai là không lấy vợ”. Câu chuyện Bác Hồ vào thăm sinh viên và khai rằng mình không lấy vợ là do Hoàng Quốc Kỳ thuật lại trong quyển Ma Đầu Hồ Chí Minh (trang 17). Cũng như trong cuộc phỏng vấn của tác giả Bernard Falls vào năm 1967 về câu hỏi “vợ con”, Bác đã trả lời rằng tất cả chỉ là tin đồn sai sự thực.

Chuyện thực giả quá rõ ràng, nhưng những sự việc sau đây là do tưởng tượng của người viết, cũng xin mời quý bạn đọc chơi cho biết. Thời gian thấm thoát thoi đưa, các cháu của Bác Hồ tham dự buổi nói chuyện hôm ấy vào cuối năm 1957 đến bây giờ là thập niên đầu của thiên niên kỷ thứ ba, 50 năm đã trôi qua, chúng đã thành những bậc lão niên thất thập cổ lai hi rồi. Hẳn là có một số cháu đã Sinh Bắc tử Nam hoặc chết rục trong ngục tù cộng sản vì liên can tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Hẳn là có một số cháu ngoan vẫn giữ vững niềm tin Bác Hồ của mình là Cha Già Dân Tộc suốt đời không lấy vợ. Chắc chắn cũng có một số cháu không tin như vậy và lý luận rằng Bác không lấy vợ làm sao Bác có con, vậy chớ Nguyễn Tất Trung là con của ai, nếu cô Xuân không phải là vợ của Bác thì là gì, chẳng lẽ Bác xem cô Xuân là an ủy phụ như đạo quân xâm lược Nhật Bản trong thời Đệ Nhị Thế Chiến xử dụng phụ nữ các nước bị chiếm đóng làm comfort women để giải quyết sinh lý cho binh sĩ lúc xa nhà. Tại sao Bác lại xử tử cô Xuân, so sánh với đạo quân xâm lược Nhật Bản, Bác còn tệ hơn họ vì họ không tàn sát những comfort women của họ.

Tại sao Bác lại ra lịnh thủ tiêu cô Xuân dễ dàng như vậy? Tại sao Bác không có lòng thương hoa tiếc nguyệt như các bậc thi bá thi hào thuở xưa? Có phải vì Bác đã có sẵn những cô Hạ, cô Thu, cô Đông, cô Thanh Minh, cô Đoan Ngọ hay chăng? Câu hỏi đặt chơi cho vui vậy thôi, không ngờ lại đúng! Trong cung đình Hang Pác Bó của Bác biết bao nhiêu chuyện bí mật còn chờ bật mí. Xin mời quý bạn theo dõi câu chuyện do Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh tâm tình với Hoàng Dũng, người phụ tá một thời của ông mà ông rất tin cẩn. Buổi tâm tình đó liên quan đến rất nhiều chuyện bí mật và Hoàng Dũng viết lại thành bài Những Bí Ẩn Về Tân Thủ Tướng Việt Nam (Báo Việt Luận ở Úc Châu đăng lại ngày 31-10-2006). Người viết chỉ xin trích những phần liên quan đến Hồ Chí Minh. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, người Hưng Yên miền Bắc, vào Sài Gòn hoạt động năm 1939 và đã ở miền Nam suốt 50 năm sau đó. Lúc ông giữ chức Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam, ông nhận lịnh của Bộ Chính Trị (lúc đó do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lãnh đạo) phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ Chính Trị. Tại sao phải tìm con gái miền Nam để phục vụ Bác? Do công sưu tầm của nhà văn Sơn Tùng thì từ thuở còn thanh niên, Bác đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam. Sơn Tùng công bố trong bài viết Đi Tìm Út Huệ. Do vậy Bác có ấn tượng và thiện cảm với những người phụ nữ Nam Bộ. Vào lúc đó thì Võ Văn Kiệt là ủy viên Trung Ương Cục được Nguyễn Văn Linh tin dùng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ tìm cho Bác Một Út Huệ Thứ Hai. Theo lời Hoàng Dũng thì vào lúc ông Nguyễn Văn Linh thố lộ những chuyện thâm cung bí sử trong Trung Ương Đảng Cộng Sản thì ông đã về nghỉ, ông trở nên trầm tư và đôi khi sự thất vọng và u uẩn hiện rõ trên nét mặt và trong thái độ của ông. Ông đã vượt qua ngưỡng cửa Cổ lai hy, như vậy không thể cho ông nói thiếu chính xác được và cũng không thể nói ông dèm pha bêu xấu Đảng được.

Tác giả Nguyễn Thuyên trong quyển Bộ Mặt Thật Của Hồ Chí Minh đã liệt kê một danh sách dài những người tình hoặc vợ hờ của Bác như sau (trang 127): “Vợ Tàu, vợ Pháp, vợ Nga ở đâu Hồ Chí Minh có mặt là có nhân tình ở đó. Ngày mới đặt chân đến Pháp đã viết thơ tình cho cô Bourdon - bị cô này từ chối, rồi cặp bồ với Brière. Qua Nga dan díu với cô Véra Vasiliera, khi qua Tàu thì yêu cô Tuyết Cần, cô Tăng Tuyết Minh. Lúc ở Hong Kong thì sống chung với cô Lý Sâm. Trong lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam ai cũng tưởng Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức là Lê Huy Doãn). Nhưng khi Cộng Sản Liên Xô xụp đổ, nhà báo Sophia Quinn Judge đã tìm thấy trong hồ sơ Quốc Tế Cộng Sản ở Mạc Tư Khoa thì trước đó Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Hồ Chí Minh, sau mới lấy Lê Hồng Phong. Về hang Pắc Bó, Hồ Chí Minh lấy một thôn nữ hầu cận “Bác” tên Phá Thị Nùng, sinh được một con trai. Sau đó Phá Thị Nùng bỗng nhiên biến mất không trở lại thôn bản Cao Bắc Lạng nữa.”

Năm 1942, nhiều người Việt tham gia hoạt động chống Pháp tại Liễu Châu, trong số đó có Đỗ Thị Lạc (chị Thuần) theo học lớp truyền tin, rồi trở về Việt Nam hoạt động. Hồ Chí Minh cũng dan díu với chị Thuần có một con. Sau đó chị Thuần cũng không còn thấy xuất hiện.”

Chuyện vợ con của Bác Hồ, viết bao nhiêu cũng không hết được, nếu không thêm vào một chuyện: người ta đồn rằng nữ chiến sĩ Nguyễn Thị Thập là “Bác Gái”.
Trở lại chuyện các cháu của bác Hồ, trong số các cháu ấy, phân loại ra thì có cháu ngoan và cũng có cháu không ngoan. Chỉ riêng về việc Bác Hồ của chúng có vợ hay không, chúng đã chia làm hai nhóm và luôn luôn bất hòa, tranh luận không ngớt, nhóm nào cũng giữ vững lập trường của nhóm mình. Xin các chính trị gia, tư tưởng gia, những nhà giáo dục, những bậc ưu thời mẩn thế hãy tìm dùm một phương cách cho hai nhóm cháu này được nhất trí và đừng tranh luận nữa. Hãy khoan bàn chuyện Hòa Hợp Hòa Giải Dân Tộc. Có những việc nhỏ nhoi về Hồ Chí Minh cần phải bàn và giải quyết trước cái đã!
Câu chuyện tràng giang đại hải về các tên giả của Bác, nói tới đâu cũng không đủ. Còn có 3 tên là Nghe Lỏm, CB, Trần Lực, người viết chưa tìm ra bản văn mà Bác đã ký đề bằng các tên ấy. Nhưng thôi, ngần ấy giả dối gian xảo của Bác cũng tạm đủ để dân tộc biết Bác là thủ phạm đã lường gạt Dân Tộc bằng cách xây dựng Thiên Đàng Xã Hội Chủ Nghĩa Bánh Vẽ, bằng Bản Tuyên Ngôn Độc Lập giả dối, bằng cuộc Cách Mạng Dân Tộc mị dân, xây dựng một xã hội đầy dối trá gian xảo, mồ liệt sĩ giả, nhà tình thương giả, tiền polymer giả, anh hùng tí hon Lê Văn Tám giả (tự đốt mình chạy vào kho đạn của Pháp để kho đạn phát nổ), chiến sĩ Nguyễn Văn Cừ giả (lấy thân mình lấp ổ châu mai), chiến sĩ Phan Đình Giót giả (đã bị thương nhưng vẫn lấy vai mình cho đồng đội tựa trung liên mà bắn máy bay địch), chiến sĩ Bế Văn Đàn giả (lấy thân mình chặn bánh xe đại pháo cho khỏi tuột dốc), bằng cấp giả, thí sinh vào phòng thi công khai dùng phao, các sư cha quốc doanh tu hành giả dối, chiếm đoạt chùa chiềng để làm kinh tài cho Đảng, tham gia chính trị thì được phong chức dân biểu quốc hội còn các nhà sư đạo hạnh và các vị linh mục chân chính thì bị tố cáo là lo làm chánh trị, bầu cử thì theo kiểu Đảng Cử Dân Bầu, quốc hội dân biểu giả không lo việc dân vì dân biểu biến thành Đảng Biểu và quốc hội biến thành Đảng Hội, cán bộ có quyền có chức thì lo tư túi, nhận công trình xây cất thì lo rút ruột, cán bộ tham nhũng bị bắt thì lo chạy án, cán bộ cai quản lâm trường bảo vệ môi sinh thì biến thành lâm tặc, cán bộ muốn làm ăn trái pháp luật thì phải tìm ô dù, đến của công phải biết vấn đề đầu tiên....

Trong truyền thống dân tộc với Luân Thường Đạo Lý Lễ Nghĩa Liêm Sỉ, chúng ta ngậm ngùi thương tiếc những ngày xa xưa khi chúng ta thấm nhuần nếp đạo Tu Tề Trị Bình và lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc. Đạo Làm Người, tức là Nhân Đạo, không phải chỉ là giáo lý riêng của Khổng Giáo mà chính là căn bản đạo đức chung của nhân loại. Ngày hôm nay, trong những quốc gia dân chủ được tự do bầu cử, những chính trị gia khi ra ứng cử, thường trình cho cử tri đoàn biết hình ảnh gia đình êm ấm với cảnh vợ con đề huề hiếu thuận, vì đấy là một lợi điểm dễ chiếm cảm tình của cử tri, vì hình ảnh gia đình êm ấm thuận hòa là hướng tiến hóa của nhân loại, là giấc mơ thơ mộng ngàn đời của loài người.

Trở lại chuyện Hồ Chí Minh với việc giết cô Xuân, cướp đoạt Quyền Sống và Quyền Làm Mẹ của cô cùng với Quyền Được Hưởng Tình Mẫu Tử Thiêng Liêng của con ông, chỉ vì chút hư danh làm Cha Già Dân Tộc, ông đã nhúng tay vào máu và phạm vào tội ác vô cùng kinh tởm để trở thành Người Cha Bất Nhân Người Chồng Bất Nghĩa Trong Lịch Sử Việt Nam. Nhân đây xin nhắc lại lời của đức Mạnh Tử: “Nếu phải giết một người vô tội để lấy hết thiên hạ thì đó cũng là chuyện không nên làm”. Nhưng trong con người duy vật vô thần của Hồ Chí Minh chỉ có toàn Mác Lênin Stalin và Mao, chứ nào đâu có Khổng Mạnh cùng Đức Phật và Đức Chúa, cho nên ông đã đạp đổ Tu Tề còn phép Trị Bình của ông thì không phải do Đạo Nghĩa Pháp Trị mà chỉ áp đặt bằng gươm đao súng đạn sát hại hàng triệu nhân mạng. Bộ máy nghiền của Đảng phát động bởi vô số công an do Hồ Chí Minh và Trần Quốc Hoàn đào luyện đã nghiến nát hết tự do, dân chủ, hạnh phúc và cả sanh mạng của người dân. Dân Tộc bị dìm sâu xuống cùng cực trong nô lệ. Đất Nước thành Nhà Tù Khổng Lồ cho đến nổi nếu cột đèn biết đi thì chúng cũng vượt biên. Con Đường Bác Đi, tức con đường Kách Mệnh chất đầy xương máu của Dân Tộc mà Nguyễn Tất Thành đã dẫm đạp lên để đi để trở thành Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, thì thật quá Bi Đát cho Dân Tộc Việt Nam!

Nhưng cùng tắc biến, biến tắc thông, Trời Đất xoay vần, hết cơn bỉ cực rồi sẽ đến hồi thới lai. Những cánh quạ đen rồi sẽ bay đi. Bầy én xuân sẽ rủ nhau về. Dân tộc sẽ bừng lên làm lại Cuộc Cách Mạng Đạo Nghĩa Pháp Trị. Truyền thuyết Một Mẹ Trăm Con, tinh hoa của Dân Tộc, sẽ như cơn mưa thương yêu thuần hòa thấm nhuần Đất Tổ. Như câu sấm ký đã truyền tụng Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về, Nguyễn Tất Thành ra đi khỏi nước với tên Ba, rồi trở thành Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, vân vân...rồi thành Hồ Chí Minh, sau cùng trở lại thành Nguyễn Tất Thành cha đẻ của Nguyễn Tất Trung. Phần sau của câu sấm ký Giặc đến Bồ Đề thì giặc sẽ tan rồi sẽ ứng nghiệm. Khi giặc tan rồi, Dân Tộc sẽ dời Lăng Bác về hang Pác Bó, nơi có đồi Mác và suối Lê Nin, chỗ ngụ của Bác ngày xưa, để cho Vườn Hoa Ba Đình được thắm tươi và thanh khiết. Hướng về mảnh đất thiêng Nghìn Năm Văn Vật, cái nôi của nền Văn Hóa Việt Tộc, toàn dân sẽ bừng lên nỗi vui mừng đón Mùa Xuân Thăng Long huy hoàng rực rỡ.

No comments:

Post a Comment