VIỆT SỬ KÝ
Ba Sàm chép Sử Việt
Phần 4, Chương 3: Hồ Chủ Tịch bị bắt ở Trung Quốc và những hoạt động của Người
Chương 3
Hồ Chủ Tịch bị bắt ở Trung Quốc và những hoạt động của Người
Việc Hồ Chủ tịch đi Trùng Khánh gặp
Tưởng Giới Thạch là một chủ trương chiến lược rất quan trọng, từ trước
đến nay rất ít người biết, có người biết ít nhiều thì cũng vì lẽ này
hoặc lẽ khác tránh đi không nói, cũng có người lại nói Hồ Chủ tịch đi
Trùng Khánh là cốt để gặp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chứ không
phải dể gặp Tưởng Giới Thạch. Cách suy nghĩ như thế là xuất phát từ chỗ
không thấy rõ sự cần thiết của cách mạng Việt Nam trong lúc đó là phải
có một vị trí quốc tế, cụ thể là phải có sự quan hệ rõ ràng với Trung
Quốc, một nước trong phe Đồng minh chống phát-xít, một nước mà phần lớn
đất đai đã bị Nhật chiếm, đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Nhật và
đang chuẩn bị việc Hoa quân nhập Việt. Hồ Chủ tịch bị bắt ở dọc đường và
giam giữ hơn một năm là việc không ngờ, nhưng với một thái độ chính trị
dúng đắn và những hành động khôn khéo, ở Liễu Châu Hồ Chủ tịch đã tranh
thủ được sự đồng tình của Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, được đưa vào
Ban Chấp hành của Việt Nam cách mạng đồng minh hội và
được đi về qua lại hoàn toàn tự do. Đó chính là điều kiện thuận lợi cho
Hồ Chủ tịch về nước lãnh đạo việc chuẩn bị khởi nghĩa trước Cách mạng
Tháng Tám, và cũng là điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh giữa Việt
Minh-Việt Quốc-Việt Cách sau Cách mạng Tháng Tám mà Việt Minh là kẻ
chiến thắng.
Sự việc có thể tóm tắt vào ba điểm như sau:
- Hồ Chủ tịch bị bắt và cuộc vận động của ta chống việc bắt Hồ Chủ tịch.
- Hồ Chủ tịch tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội.
- Hồ Chủ tịch được tự do về nước.
1. Hồ Chủ tịch bị bắt ở Trung Quốc và cuộc vận động của chúng ta chống việc bắt Hồ Chủ tịch
Việc Hồ Chủ tịch bị bắt ở Trung Quốc
cuối năm 1942 là việc chúng ta đã biết, nhưng chỉ biết qua loa. Đến như
những hoạt động của Người như thế nào để đạt được kết quả chính trị có
lợi cho mình, cho cách mạng thì rất ít người biết. Có người trong lúc đó
được biết một đôi chút về Người, khi viết hồi ký lại huênh hoang thêu
dệt ra một số tình tiết để tỏ vẻ mình là người biết rõ sự việc, là người
được Hồ Chủ tịch tin cậy, dặn dò và giao phó việc này, việc nọ. Thực
ra, thời gian ở Liễu Châu khi chưa tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh
hội, Người chỉ chăm chú rèn luyện thân thể, cặm cụi đọc sách, báo và
dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa, không nói chuyện chính trị và tiếp xúc với
một “nhà chính trị” Việt Nam nào, vì Người cảnh giác đối với các “nhà
chính trị” đó. Sau khi tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội, Người
lại rất chan hòa với mọi người, và yêu cầu mọi người phải thật lòng đoàn
kết trong mục đích chung là chống Nhật cứu nước. Chính vì thái độ đó mà
được Trương Phát Khuê kính nể, tin cậy và cuối cùng để cho được hoàn
toàn tự do. Những sự việc cụ thể mà tôi thuật lại trong mục này là đã
tham khảo những tài liệu gốc của Quốc dân đảng Trung Quốc trong lúc đó
mà gần đây mới sưu tầm được, để chứng minh sự thật một cách rõ ràng,
chắc chắn hơn.
Sự thật là sau hơn một năm lãnh đạo công
tác ở Cao Bằng, Việt Minh đã phát triển rộng khắp trên các tỉnh Việt
Bắc, cuộc chiến tranh chống phát-xít trên thế giới cũng phát triển nhanh
chóng, Hồ Chủ tịch thấy cần phải đi Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch và
bà Tống Khánh Linh, Chủ tịch Phân hội phản xâm lược đồng minh Trung Quốc để đặt mối quan hệ chính thức với phía Trung Quốc, một trong năm nước lớn Đồng minh chống Phát-xít.
Ngày 20-8-1942, anh Lê Quảng Ba đưa Bác
đi từ Pác Bó đến biên giới Trung Quốc, rồi xếp đặt một đồng chí Trung
Quốc đưa Bác đi, còn anh thì lại trở về nước. Khi đến phố Túc Vinh thuộc
chuyên khu Thiên Bảo tỉnh Quảng Tây thì Bác bị bắt.
Bác đi Trùng Khánh với danh nghĩa là đại
biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam đi gặp Tưởng Ủy viên
trưởng để tỏ tòng tôn kính và gặp người phụ trách Phân hội phản xâm lược
đồng minh Trung Quốc để thương lượng công việc chống Nhật. Với danh
nghĩa như vậy, đáng lẽ nước Trung Quốc đang chống Nhật thì phải tiếp đãi
thân mật và hết sức giúp đỡ; nhưng trái lại, đương cục địa phương lại
lấy cớ giầy tờ không hợp lệ, tùy tiện bắt giải đi như một người tù mà
chẳng cần xét hỏi gì cả.
Việc Bác bị bắt ở Túc Vinh ta chưa biết
ngay, mãi đến cuối tháng 10-1942, quần chúng Trung Quốc nhắn cho biết,
thì Tỉnh ủy Cao Bằng mới quyết định một mặt vận động các đoàn thể quần
chúng và kiều bào hải ngoại liên danh viết thư đòi phía Trung Quốc phải
tha ngay nhà cách mạng lão thành Việt Nam đang lãnh đạo phong trào chống
Nhật; một mặt phái anh Hoàng Đình Ròng [7] đến biên giới lấy
danh nghĩa Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam đánh điện cho Tôn
Khoa, Viện trưởng Viện Lập pháp Trung Quốc yêu cầu tha ngay Hồ Chủ tịch.
Bức điện bằng chữ Hán, nội dung như sau:
Kỉnh gửi Tôn Viện trưởng: Đại biểu
của Hội chúng tôi là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ lòng kính
trọng đối với Tưởng Ủy viên trưởng, khi đi qua Tịnh Tây thì bị bắt, kính
xin Ngài điện cho địa phương tha ngay.
Tôn Khoa nhận được điện liền chuyển ngay
cho Ngô Thiết Thành, Bí thư trưởng Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân
đảng Trung Quốc. Ngày 9 tháng 11, Ngô Thiết Thành điện cho Chính phủ
Quảng Tây và Trương Phát Khuê bảo phải xét rõ và thả ngay. Nhưng lúc đó
Bác còn bị giải đi trên quãng đường Đồng Chính – Nam Ninh, nên Chính phủ
Quảng Tây và Trương Phát Khuê vẫn chưa tìm ra manh mối.
Vào khoảng trung tuần tháng 11-1942, tôi
đến Nhượng Bạn gặp các anh Vũ Anh, Bác Vọng, Phạm Văn Đồng đưa vấn đề
ra bàn thì thấy rằng chỉ viết thư và đánh điện cho nhà đương cục Trung
Quốc chắc không có kết quả, cần phải gây thành một dư luận quốc tế thì
mới có sức ép với Quốc dân đảng Trung Quốc. Chúng tôi quyết định viết
thư cho các hãng thông tấn lớn trên thế giới. Bức thư gửi cho Trung ương
Thông tấn xã Trung Quốc tôi viết bằng chữ Hán; bức thư gửi cho các hãng
TASS Liên Xô, UPI Mỹ, Roi-tơ Anh và AFP Pháp thì anh Đồng viết bằng chữ
Pháp. Nội dung bức thư như sau:
“Tiền tuyến Trung – Việt ngày 15-11-1942,
“Gần đây giữa cách mạng Việt Nam với
đương cục Trung Quốc phát sinh một sự hiểu lầm rất nghiêm trọng. Đồng
chí cách mạng Hồ Chí Minh đại biểu Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt
Nam đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ lòng kính trọng đối với Tưởng Ủy viên
trưởng và để bàn công việc với Phân hội phản xâm lược đồng minh Trung
Quốc. Ngày 2 tháng 9 đi đến quãng đường giữa Tịnh Tây và Thiên Bảo bị
đương cục địa phương tùy tiện bắt với lý do là giấy thông hành không hợp
lệ.
“Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt
Nam, do sự hoạt động của đồng chí Hồ Chí Minh, được thành lập từ năm
1941 bao gồm nhiều đoàn thể như Thanh niên, Phụ nữ, Nông dân với hơn hai
mươi vạn hội viên phân bố khắp cả nước, từ Nam kỳ, Trung kỳ cho đến Bắc
kỳ.
“Đồng chí Hồ Chí Minh là người có uy tín
lớn và rất trọng yếu của Phân hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam, nay
bị bắt ở Trung Quốc, đã gây nên một sự bất mãn lớn của những người cách
mạng Việt Nam đối với Trung Quốc. Gần đây nhiều đoàn thể nhân dân Việt
Nam đã gửi thư tới Trùng Khánh nói rõ vấn đề, nhưng cho đến nay đồng chí
Hồ Chí Minh vẫn bị giam giữ. Đề nghị quý Thông tấn xã vận động đương
cục Trung Quốc tha ngay đồng chí Hồ Chí Minh.
“Bức điện này nếu quý Thông tấn xã thấy cần thì có thể công bố.”
Khi các thông tấn xã ở Trùng Khánh nhận
được bức thư này thì Hồ Chủ tịch đã bị giải đến Quế Lâm, nhưng qua một
thời gian mấy tháng, Quế Lâm vẫn không điều tra ra manh mối, nên lại
giải về cho Quân khu bốn ở Liễu Châu để Quân khu bốn xử lý. Quân khu bốn
coi Hồ Chủ tịch là một người tình nghi chính trị, giữ lại chỗ giam giữ
quân nhân, nhưng cung cấp cho ăn uống đầy đủ, được đọc sách bào và không
bắt phải làm khổ công. Tháng 7- 1943, Quân khu bốn quan sát biết là một
nhân vật hoạt động quốc tế, Trương Phát Khuê liền chuyển về Bộ chính
trị Quân khu và giao cho tướng Hầu Chí Minh, phụ trách việc “cảm hóa”.
Đối với Hồ Chủ tịch, Hầu Chí Minh tỏ vẻ
kính nể, thường ngồi cùng ăn uống và trò chuyện rất bình đẳng, nhưng tìm
hiểu về thân phận thì Hồ Chủ tịch cự tuyệt không trả lời. Sau do sự
phát giác của nội tuyến[8] thì mới biết rõ Hồ Chí Minh là Lý Thụy, là Nguyễn Ái Quốc, là Hoàng Quốc Tuấn, là lãnh tụ cộng sản và lãnh tụ Việt Minh.
Tên phản Đảng Trần Báo mách cho đương
cục biết rõ lai lịch của Bác, mục đích là cốt để cho Bác mất hẳn tự do
hoặc bị giết hại thì hắn mới có thể đứng vững. Nhưng không ngờ sau khi
biết rõ thân phận của Bác, Trương Phát Khuê lại càng kính nể và ưu đãi
hơn trước. Trong bản báo cáo của Trương Phát Khuê gửi Trung ương Quốc
dân đảng hồi tháng 1-1944 có đoạn nói: “Hồ Chí Minh từ lúc dời đến Bộ
chính trị Quân khu vẫn được ưu đãi và được cảm hóa với một thái độ kính
nể. Lúc đó Trương Phát Khuê đã có ý định tha Hồ Chủ tịch về Việt Nam. Về
việc này, bọn phái viên của Tưởng ở Liễu Châu tỏ vẻ rất bực tức, nhưng
Trương Phát Khuê vẫn không thay đổi thái độ.
2. Hồ Chủ tịch tham gia Việt Nam cách mạng đồng minh hội
Như ở phần thứ ba đã nói, Quân khu bốn
định lập Hội phản xâm lược đồng minh Việt Nam làm cơ quan lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, lấy Việt Bắc làm căn cứ, lấy chủ nghĩa tam dân làm cơ sở
dựng nước và lập Chính phủ lâm thời Việt Nam để phục vụ việc cho Hoa
quân nhập Việt, là những chủ trương không hợp lý mà chúng ta nhân danh
Việt Minh đã chỉ vạch ra, Quân khu bốn phải gác lại không bàn chuyện lập
Hội phản xâm lược đồng minh nữa. Sau khi hai người Việt Nam Quốc dân
đảng là Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ, được Trùng Khánh làm hậu thuẫn,
từ Côn Minh đến Liễu Châu thì Quân khu bốn chuyển hướng, chuẩn bị thành
lập Việt Nam cách mạng đồng minh hội với ý định hoàn toàn gạt Việt Minh
ra ngoài.
Ngày 1-10-1942, Đại hội thành lập Việt Nam cách mạng đồng minh hội [9] chính
thức khai mạc ở Liễu Châu. Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm
bảy người là: Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế
Tổ, Trần Báo, Nông Kinh Du, Trương Trung Phụng; mà ủy viên thường vụ là
Trương Bội Công, Nguyên Hải Thần, Vũ Hồng Khanh. Xem danh sách thì
Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần có địa vị cao, sự thực thì Vũ Hồng
Khanh, Nghiêm Kế Tổ là người của Trùng Khánh nắm ưu thế.
Mong Việt Cách sẽ trở thành một công cụ
đắc lực cho việc Hoa quân nhập Việt, Trương Phát Khuê bổ nhiệm Hầu Chí
Minh làm Chủ nhiệm Bộ chính trị Quân khu kiêm chức “Đại biểu chỉ đạo
Việt Nam cách mạng đống minh hội”.
Ngày 1-9-1943, Hầu Chí Minh định triệu
tập một cuộc Đại hội Việt Cách để bàn bạc việc chỉnh đốn nội bộ, nhưng
rồi Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nông Kinh Du vẫn
mỗi người một phách, vẫn ngấm ngầm tranh giành, chèn ép nhau nên cuộc
họp không thực hiện được, mãi đến cuối năm 1943, tình hình Việt Cách vẫn
như cũ chẳng có gì thay đổi.
Trương Phát Khuê thấy rõ Hầu Chí Minh là
bất lực, bèn tự mình đứng ra trực tiếp nắm lấy quyền chỉ đạo, đồng thời
chỉ định tướng Tiêu Văn làm phó. Một văn phòng của Đại biểu chỉ đạo
được thành lập do Tiêu Văn làm Chủ nhiệm.
Tiêu Văn trao đổi ý kiến với Hồ Chủ tịch
về việc muốn triệu tập một cuộc đại hội để chỉnh đốn Việt Cách bằng
cách đưa một số người mới vào ban lãnh đạo, trong đó có Hồ Chủ tịch. Hồ
Chủ tịch nói, hiện nay các thành viên của hội Việt Cách đều là người ở
hải ngoại, chưa có đại biểu trong nước; như vậy, gọi là họp đại hội
không ổn, có lẽ chỉ nên gọi là hội nghị đại biểu các đoàn thể của Việt
Cách ở hải ngoại, thì thích hợp hơn. Đến như việc tôi [10] tham
gia Hội Việt Cách như thế nào, thì do Trương Trưởng quan và Tiêu Chủ
nhiệm quyết định. Hồ Chủ tịch cũng đề nghị nếu họp hội nghị thì nên để
Nguyễn Tường Tam tham gia, vì y tuy là người của Đảng Đại Việt thân
Nhật, nhưng là một người có học vấn, nếu được tham gia hội nghị thì sẽ
hết sức cảm ơn Trương Trưởng quan và sẽ có thể tự cải tạo thành một
người trong hàng ngũ chống Nhật.
Được nghe Tiêu Văn báo cáo những ý kiến
trên của Hồ Chủ tịch, Trương Phát Khuê rất tán thưởng và quyết định
triệu tập ngay hội nghị để chỉnh đốn lại bộ máy lãnh đạo của Việt Cách.
Hội nghị đại biểu họp tại Liễu Châu từ
ngày 25 đến ngày 28-3-1944, gồm 15 đại biểu các đoàn thể, trong đó có
đại biểu Hội giải phóng ở Vân Nam là Lê Tùng Sơn vốn đã theo Việt Minh,
đại biểu Biệt động quân ở Nam Ninh là Nguyễn Thanh Đồng cũng là Việt
Minh, đại biểu Đảng Đại Việt là Nguyễn Tường Tam và đại biểu Phân hội
phản xâm lược đồng minh Việt Nam là Hồ Chí Minh.
Những đoàn thể có đại biểu được mời đến tham dự hội nghị lần này, trước kia đều không có chân trong Việt Cách.
Kết quả việc chỉnh đốn lần này là: Trước
kia bảy người trong Ban Chấp hành trung ương có Nguyễn Hải Thần, Vũ
Hồng Khanh, Nông Kinh Du, thì bây giờ ba người này chỉ ở trong Ban giám
sát, ba người mới được thay vào là Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật và Trần
Đình Xuyên. Hồ Chủ tịch và Nguyễn Tường Tam được bầu làm Ủy viên Trung
ương dự khuyết. Sau một thời gian Trần Đình Xuyên bị gạt, Hồ Chủ tịch
được trở thành Ủy viên Trung ương chính thức. Thế là Hồ Chủ tịch đã có
một địa vị vững chắc trong Việt Nam cách mạng đồng minh hội.
3. Hồ Chủ tịch được tự do về nước
Việc cải tổ Việt Cách ở Liễu Châu tiến
hành xong (28-3-1944) một thời gian thì đầu tháng 6-1944, Tiêu Văn đi
Côn Minh để cải tổ Phân hội Việt Cách ở Vân Nam. Kết quả của việc cải tổ
là Ban Chấp hành Phân hội năm người thì ba người là Việt Minh [11] ; Ban thường vụ ba người thì hai người là Việt Minh [12] ; Ban giám sát ba người thì có một người là Việt Minh [13] .
Kết quả đó làm cho Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ hết sức bất mãn và tỏ
thái độ chống đối. Tiêu Văn liền cho bắt ngay Nghiêm Kế Tổ và Vũ Quang
Phẩm đang hoạt động ở Đông Hưng và định cho bắt luôn cả Vũ Hồng Khanh
đang ở Côn Minh với cái tội “vi phạm kỷ luật, chống phá Phân hội Việt
Cách”. Vũ Hồng Khanh được Trùng Khánh che chở nên không bị bắt, nhưng từ
đó về sau bị cấm không được trở lại Liễu Châu nữa.
Ngày 9-8-1944, Hồ Chủ tịch được Trương Phát Khuê để cho hoàn toàn tự do để chuẩn bị việc về nước.
Trước khi về nước Hồ Chủ tịch dự thảo kế
hoạch công tác và một số yêu cầu viện trợ cụ thể đưa Trương Phát Khuê.
Kế hoạch công tác là xây dựng hai căn cứ địa du kích ở dọc biên giới
tương đối gần nhau để có thể dễ bề liên lạc. Hai căn cứ địa cần độ 600
khẩu súng; ngoài ra còn cần 400 khẩu súng nữa để tổ chức một số tiểu
đội, động thì đánh du kích, tĩnh thì làm vũ trang tuyên truyền. Về kinh
phí xin cấp cho hai vạn năm nghìn tiền Đông Dương để chi phí về tiền ăn
trong hai tháng đầu và một số tiền Trung Quốc đủ dùng cho trong lúc đi
đường từ Liễu Châu về đến Việt Nam.
Về phần cá nhân, Hồ Chủ tịch yêu cầu mấy việc như sau:
- Yêu cầu Trương Phát Khuê việt một bức thư gửi các đoàn thể yêu nước Việt Nam.
- Yêu cầu có một thư ủy nhiệm của Trung ương Việt Cách phái Hồ Chủ tịch về nước công tác.
- Yêu cầu cho một bản địa đồ Việt Nam dùng cho quân sự.
- Yêu cầu Trương Phát Khuê cho một chứng minh thư dài hạn để tiện việc đi lại.
- Xin một số tài liệu tuyên truyền như quyển Tội ác giặc Nhật và một số tranh ảnh.
- Xin một khẩu súng nhỏ để tự vệ.
- Xin một số kinh phí cần thiết cho cá nhân trong buổi đầu.
Sau khi nhận được kế hoạch công tác và yêu cầu về cá nhân, Trương Phát Khuê liền cấp cho:
- Một cái hộ chiếu dài hạn để tiện cho việc đi lại, các thứ giấy tờ cần thiết khác và một số thuốc chữa bệnh.
- Bảy vạn sáu nghìn tiền Trung Quốc.
Đến như số kinh phí để xây dựng căn cứ địa và một số tiểu đội du kích thì còn nghiên cứu chưa cung cấp ngay.
Ngày 20 tháng 9 năm 1944, Hồ Chủ tịch cùng 18 cán bộ rời Liễu Châu qua Long Châu, Tịnh Tây, Bình Mãnh về Cao Bằng.
Theo hồi ký của đồng chí Mạc Nhất Phàm [14] ,
thì lúc Bác đến Bình Mãnh sức khỏe không tốt, đồng thời trong nước đang
bị khủng bố nặng, Bác phải bí mật tránh ở nhà anh Lâm Kiến Thông ở Lũng
Y thuộc xã Bình Mãnh. Các đồng chí ở Lũng Y sợ để trong làng dễ bị lộ,
phải làm lán trong rừng để Bác ở và phái mấy đồng chí luân lưu thường
trực săn sóc và bảo vệ Bác một thời gian rồi mới đưa Bác về Pác Bó.
[1]lính gác ở cổng đồn và mấy nơi trọng yếu trong đồn đều do các anh ấy phụ trách bố trí người của mình đứng gác
[2] Có lẽ là Coll Bát (súng ngắn Coll, ổ đạn có 8 viên) chăng? BT
[3] ý nói Hồ Chủ tịch còn bị giữ ở Trung Quốc nên chưa hiểu tình hình quốc tế ra thế nào
[4] tôi ở Lạng Sơn không tham gia
[5] hiện nay có một số tài liệu nói Hội nghị Cao -Bắc- Lạng đã quyết định phát động chiến tranh du kích, nói như thế là không đúng sự thật
[6] tức Vân
[7] Hoàng Đình Giong?
[8] nội tuyến ở đây là tên phản Đảng Trần Báo
[9] gọi tắt là Việt Cách
[10] Hồ Chủ tịch tự xưng
[11] Phạm Việt Tử, Lý Đào, Phạm Minh Sinh
[12] Phạm Việt Tử, Lý Đào
[13] Dương Bảo Sơn
[14] người Quảng Tây vào Việt Nam tham gia cách mạng từ năm 1942 http://vietsuky.wordpress.com/giot-nuoc-trong-bien-ca/phan-4-nhung-nam-thang-truoc-va-sau-cach-mang-thang-tam/phan-4-chuong-3-ho-chu-tich-bi-bat-o-trung-quoc-va-nhung-hoat-dong-cua-nguoi/
[2] Có lẽ là Coll Bát (súng ngắn Coll, ổ đạn có 8 viên) chăng? BT
[3] ý nói Hồ Chủ tịch còn bị giữ ở Trung Quốc nên chưa hiểu tình hình quốc tế ra thế nào
[4] tôi ở Lạng Sơn không tham gia
[5] hiện nay có một số tài liệu nói Hội nghị Cao -Bắc- Lạng đã quyết định phát động chiến tranh du kích, nói như thế là không đúng sự thật
[6] tức Vân
[7] Hoàng Đình Giong?
[8] nội tuyến ở đây là tên phản Đảng Trần Báo
[9] gọi tắt là Việt Cách
[10] Hồ Chủ tịch tự xưng
[11] Phạm Việt Tử, Lý Đào, Phạm Minh Sinh
[12] Phạm Việt Tử, Lý Đào
[13] Dương Bảo Sơn
[14] người Quảng Tây vào Việt Nam tham gia cách mạng từ năm 1942 http://vietsuky.wordpress.com/giot-nuoc-trong-bien-ca/phan-4-nhung-nam-thang-truoc-va-sau-cach-mang-thang-tam/phan-4-chuong-3-ho-chu-tich-bi-bat-o-trung-quoc-va-nhung-hoat-dong-cua-nguoi/
No comments:
Post a Comment