HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Friday 29 June 2012

HỒ CHÍ MINH II * HUYỀN THOẠI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC



CHƯƠNG II


HUYỀN THOẠI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC



Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam viết rằng ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành dùng tên giả là Văn Ba xuống tàu Amiral Latouche-Tréville xin làm phụ bếp. Tất Thành tuyên bố rằng ông ra đi tìm đường cứu nước. (HCM,I)
Trong quyển " Kể Chuyện Về Đời Hoạt Động của Bác Hồ" Trần Dân Tiên tự biện rằng “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta" (HCM, X, 7)..

I. BUỔI RA ĐI

Theo lời Trần Dân Tiên, cậu Ba lên tàu gặp ban giám đốc xin làm phụ bếp. Cậu Ba khó thể làm điều này được. Lúc bấy giờ tại Việt Nam, người trên 18 tuổi phải có căn cước. Cậu Ba có thể có hai căn cước. Một căn cước thật, và một căn cước giả để tiện cho những hành vi mớ ám. Căn cước mang tên Văn Ba là căn cước giả. Căn cước này cấp tại đâu? Có hai ý kiến là cấp tại Saigon hoặc tại Phan Thiết. Phan Thiết có trường Dục Thanh, có hãng Liên Thành, có Trương Gia Mô là bạn của Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng 1922, họ đã đi Trung Quốc, sang dự triển lãm tại Pháp.

 Mặc dầu công ty Liên Thành thành lập mới được một hai năm, trong khoảng 1910,  tại Phan Thiết có lẽ đã  hình thành một tổ chức xã hội đen làm giấy tờ giả, đưa di dân lậu.  Có thể do nơi đây quen biết này nọ mà làm được căn cước giả. Có thể tại đây, công ty Liên Thành móc nối với một tổ chức đưa dân di cư lậu sang châu Âu.Hội nghị về Nguyễn Tất Thành tại Phan Thiết đã theo ý kiến cho rằng căn cước này có thể do quen biết giữa Hồ Tá Bang và viên công sứ Pháp Denier làm tại Phan Thiết (HCM, IX,). Nếu do công sứ cấp thì là căn cước thật, không lẽ quan công sứ Pháp lại làm như thế ư?Hoặc do Hồ Tá Bang mua chuộc nhân viên tòa Công sứ Pháp tại đây?

 Theo thiển kiến, người ta làm điều phi pháp thì hại cho bản thân và gia đình, thành thử không ai dám làm. Thời loạn, pháp luật và đạo đức đồi trụy, con người vì tiền mà làm điều xằng bậy như thời buổi này tại Việt Nam. Lúc bấy giờ, những người như  Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang không dại gì làm việc ấy, nhất là chẳng lợi gì đối với một Tất Thành không xu dính túi. Chúng ta không loại trừ cái tổ chức làm giấy tờ giả, đưa người đi lậu ở Phan Thiết có thể là chân rết của một tổ chức lớn, mà trung tâm có lẽ ở Sàigon, Khánh Hội.
 Mang tên giả, căn cước giả ắt là đi lậu. Đã đi chui, đi lậu thì làm sao chường mặt ra với các nhân viên trong tàu, làm sao có thể làm phụ bếp như lời bác nói! Không lẽ tụi Pháp nó không xét giấy tờ?Không lẽ tụi Pháp đễ dãi hơn công an Việt Cộng sao? 
Bởi vậy, Nguyễn Xuân Tới cho rằng bác đã đi theo đường dây xuất cảnh lậu như một đoạn trong phim xã hội đen:"Một cái giỏ từ trên boong tàu thả xuống, Thành ngồi trên cái giỏ ấy và lập tức được kéo lên" (Nguyễn Xuân Tới. HCM, XVIII).

II. NGUYỄN TẤT THÀNH, DI DÂN LẬU


Cậu Ba đã mô tả công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong hầm rất rét. Nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc thang trong khi tàu tròng trành. ...

Một lần, dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Biển nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rỗ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rỗ rau vào dây sắt để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống biển mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.(HCM, X,)
 Đa số người đi tàu bị say sóng nằm rệp, chỉ có những người quen đi biển thì không sao. Cậu Ba đi biển ngày đầu mà vẫn đi lại bình thường thì thiệt là giỏi.Những tàu nhỏ có thể bị sóng dâng lên cao rồi đổ xuống tàu, còn tàu nhà binh, hoặc tàu chạy đường trường chở khách,  chở hàng mấy nghìn tấn, êm như ru, không bao giờ bị sóng phủ lên. Như vậy thì ai dám đi du lịch? Điều này rõ ràng là bác giàu tưởng tượng. Bác muốn tô vẽ cuộc ra đi gian nan của cậu Ba mà hóa ra nói láo. Dù đi tàu nhỏ có thể bị sóng phủ lên tàu, nhưng nhiệm vụ phụ bếp thì phải ở tầng dưới, là nơi bếp núc. . Làm sao cậu phải bưng các rổ rau, cá, thịt từ kho hàng tức gầm tàu lên boong tàu? Hàng ngày cậu Ba phải đi từ bếp đến hầm, cậu không thể vác những rổ rau vì tàu chòng chành. Cậu phải buộc rổ rau vào dây xích mà kéo đi. Rỗ rau nặng làm sao kéo lên được qua những bậc thang trong tàu? Sóng đổ vào tàu, mọi thứ đều bị kéo xuống biển, làm sao cậu Ba thoát chết? Nhờ phép lạ chăng? 

Trần Dân Tiên tuyên truyền rằng Bác nhân đạo, biết thương người nghèo như đoạn tự thuật sau đây:


Mỗi ngày có một người dọn dẹp đồ đạc. Những người phục vụ, sau khi dọn chỗ khách ăn, phải dọn bát đĩa bỏ tất cả chén bát và thức ăn lẫn lộn vào trong một cái thang điện đưa xuống bếp. Lúc bấy giờ người dọn dẹp phải để đồ đạc riêng một bên, bát đĩa để riêng một bên để người ta đem đi rửa. Khi đến lượt anh Ba, anh làm rất cẩn thận. Đáng lẽ vứt thức ăn thừa vào một cái thùng, đôi khi còn cả phần tư con gà, những miếng bít-tết to tướng v.v. thì anh giữ gìn sạch sẽ và đưa lại cho nhà bếp. Chú ý đến việc này, ông già Ét-cốp–phi–e hỏi anh: "Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào thùng, như những người kia?"
"Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy."(HCM, X)



Chúng ta cần phân biệt làm kinh doanh và từ thiện là hai việc khác nhau. Ở Tây phương không có việc nhà hàng đem đồ ăn cho người nghèo. Việc này đã có những hội đoàn từ thiện phụ trách. Có những nhà thờ lo việc ăn ngủ cho những người nghèo. Chính phủ cũng lo về an sinh xã hội. Ở đâu cũng vậy, nhập gia tùy tục, làm việc cho người phải theo luật lệ của người. Đồ ăn đã đổ vào thùng rác thì dơ dáy, mất vệ sinh, không thể đem rửa sạch rồi bán lại cho khách hàng. Người Âu Mỹ trọng vệ sinh, không như bên ta, gà toi đem chôn còn đào lên để ăn. Nếu luật cấm, mà cậu Ba còn đem vào bếp ắt bị đuổi ngay. Cậu Ba có thực sự làm bồi nhà hàng không, sao chẳng biết luật lệ nhà hàng Âu Mỹ?
Vì Cậu Ba nói dối quá nhiều và sự việc it người biết nay ta lần ra manh mối là chuyện khó. Sau này năm 1922, mật thám Pháp hỏi Bùi Quang Chiêu thì Bùi Quang Chiêu nhận là có gặp cậu Ba trên tàu Amiral Latouche-Tréville. Và trong đơn xin học trường Thuộc Địa, Tất Thành cũng nói mình làm trên tàu này.Tại sao là di dân lậu mà cậu làm việc trên tàu? Có thể là sau khi an ninh kiểm tra xong ,bọn tổ chức đi lậu  cho Tất Thành làm việc với họ. Họ cho cậu làm việc lặt vặt, họ trả cho cậu 10 đồng trong khi bọn họ nhận 100 đồng, 200 khi tàu đến Masrseille..  Cuộc sống của cậu Ba cũng giống cuộc sống của các di dân lậu, khi sang nước ngoài phải làm nô lệ cho các thế lực đen, bị bóc lột, bị đói khổ vì chạy theo ảo vọng " đi Tây"! Do chỉ làm việc lặt vặt ở dưới hầm tàu cho nên cậu chẳng biết gì về việc phụ bếp và những sinh hoạt trên boong tàu.

III. ĐỜI SỐNG DI DÂN BẤT HỢP PHÁP

Cậu Ba là di dân lậu cũng như người Việt bây giờ bán nhà cửa để đi lao động, nhưng sự thật là họ bị các tổ chức buôn người lừa đảo. Điểm tương đồng giữa họ và cậu Ba ngày xưa là nhắm tới Pháp và Anh. Ở Anh, cậu Ba rất khổ. 


Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một việc gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến, ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét. (HCM, X, tr.21)
Ngày nào cậu Ba cũng bỏ một viên gạch vào lò bếp mà không ai biết ư? Lò bếp hầm một ngày thì viên gạch nóng mấy trăm, mấy ngàn độ? Nếu viên gạch đỏ lên thì không tài nào bỏ lên tờ báo mà cầm hay ôm được vì tờ báo sẽ cháy. Và lại nóng như thế, giường nệm sẽ cháy. Người Âu Mỹ sợ cháy, đề phòng lửa rất cẩn mật, sao cậu Ba lại làm như vậy? Khách sạn lẽ nào không có ai vô ra và không thấy cậu Ba làm việc sai trái này? Nếu gạch nóng vừa thôi thì chẳng có tác dụng vào lúc lạnh dưới 20-40 độ âm. Nói và viết như vậy có ích gì? Không lẽ "bác" khoe nghèo ư? Bác là người đi tiên phong trong trường phái Ba Giai Tú Xuất sản sinh ra những chuyện đuốc sống Lê Văn Tám, La Văn Cầu lấp lỗ châu mai...

Có lẽ cậu Ba là di dân lậu, sau khi đến bờ là ở nhà người ta làm gia nhân. Sau này cậu Ba gia nhập các băng đảng, trong đó có đảng Xã hội và đảng Cộng sản, được họ cấp các giấy tờ cần thiết. Còn các lần trước, cậu Ba e đi chui như đoạn văn sau đây của "bác" viết khi "bác" lên tàu Nga:
“Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tàu… không có giấy phép?”
“Đúng, tôi bí mật.”
“Và đồng chí cũng không có giấy tờ gì cả?”
Không.”(HCM X), tr.33)

Luật sư Nguyễn Văn Chức cho biết năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đuợc CS Pháp thuê mướn đi rải truyền đơn. Bị mật thám Pháp truy nã, y được đảng CS Pháp bố trí cho sang Đức, rồi từ Đức đáp xe lửa đi Mạc Tư Khoa. Giấy thông hành của y (số 1829, đề ngày 16/06/1925 đóng dấu toà đại sứ Nga tại Bá Linh) ghi : Chen Wang, sinh ngày 15/01/1895 tại Đông Dương, làm nghề thợ ảnh. (Nguyên văn : Chen Wang né le 15 Janvier 1895 à Indochine, profession : photographe.(HCM, CXXXII)
Dựa vào cộng sản quốc tế, từ đây cậu Ba có giấy tờ đi đó đi đây, sang Mạc Tư Khoa học tập các thủ đoạn tuyên truyền và khủng bố.

 IV. MẶT NẠ YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP

 Đảng cộng sản vẽ nên một Nguyễn Tất Thành yêu nuớc, ghét thực dân Pháp. Trong cuốn Hồ Chủ Tịch, Trường Chinh còn khẳng định : “vì Người phát giác trường học của Pháp chỉ nhằm đào tạo tay sai cho đế quốc, cho nên Người đã bỏ ra đi tìm đường cứu nước”.
Các danh nhân Việt Cộng cũng theo thế mà ca. 

Lịch sử cộng đảng ghi :
 Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.. . Về mục đích ra đi của mình, năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”(HCM I)
Nguyễn Thế Anh, Vũ Ngự Chiêu đã tìm thấy một sự thật não lòng là con người yêu nước Nguyễn Tất Thành đã từng gửi thư xin học trường thuộc địa để mong làm tay sai cho Pháp, chớ không hề có tinh thần chống Pháp. Hai ông đã viết báo và sách trong khoảng 1983- 1990 để nói về việc này, và hai ông đã công bố hai bức thư trên với đầy đủ hình ảnh.
Đây là hai bức thư trong văn khố Pháp, đề ngày 15 tháng 9 năm 1911. Một bức gửi cho Tổng thống Pháp, một bức gửi cho Bộ trưởng  bộ Thuộc địa Pháp.

1. Bức thư gửi tổng thống Pháp:

Marseille le 15 Septembre 1911
Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne.
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Trévile” pour ma substance.Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction.
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam.
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée.
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous docteur ès- lettres). Etudiant Francais, quốc ngữ, caractère chinois.





Dưới đây là bản dịch:

Marseilles
Ngày 15 tháng Chín năm 1911

Thưa Ngài Tổng thống!


Tôi xin hân hạnh yêu cầu Ngài giúp đỡ cho tôi được vào học nội trú tại Trường Thuộc địa.

Hiện nay, để nuôi thân, tôi đang làm việc cho công ty Chargeurs Réunis (Tàu Amiral Latouche – Tréville). Tôi hoàn toàn không còn nguồn lực nào và rất thiết tha muốn có học vấn. Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi được từ học hành.

Quê tôi ở tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Với hy vọng rằng Ngài sẽ phúc đáp theo hướng thuận lợi đề nghị của tôi, tôi xin Ngài Tổng thống nhận sự biết ơn sâu sắc của tôi.


Nguyễn Tất Thành

Sinh tại Vinh, 1892
Con trai của Ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương)
Học sinh tiếng Pháp và chữ nho



2. Bức thư gửi Bộ trưởng bộ Thuộc địa

Marseille le15 Septembre 1911

À Monsieur le Ministre des Colonies

Monsieur le Ministre
J'ai l'honneur de solliciter de votre bienveillance la faveur d'être admis à suivre les cours de l ' École Coloniale comme interne .
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis pour ma substance à soi de l'Amiral Latouche Tréville.
Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m' instruire . Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l' instruction .

Je suis originaire de la province de Nghê-an, en Annam.
En attendant votre réponse que j ' espère favorable, agréez, Monsieur le Ministre , mes plus respectueuses hommages et l ' assurance de ma reconnaissance anticipée .

Nguyễn-tất Thành,
né à Vinh, en 1892 ,fils de Mr Nguyễn sinh Huy, sous docteur es-lettre

Étudiant Francais , quốc ngữ, caractère chinois
(HCM, CXXXV)


Bản dịch 
Marseille ngày 15 tháng chín 1911
Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa
Kính thưa ông Bộ Trưởng ,
Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa.
Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville) .
Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích về học vấn.
Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam .
Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi.
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán. (HCM, CXXXV)




Hai bức thư này có điểm giống nhau cùng bày tỏ lòng mong muốn làm tay sai cho Pháp với lời văn hoa là ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn: (HCM CXX; , HCM XVI)



Vũ Ngự Chiêu trả lời phỏng vấn của Hợp Lưu số 106 năm 2009 như sau: Ðầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.. v... tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers). Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v.. v...) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa và xã hội của luận án Tiến sĩ. 

Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v...). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau
.(HCM, LXXXIV)

William J. Duiker trong tác phẩm của ông cũng xác nhận Lá thư Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc địa (1911).
Hai bức thư này đã được nhiều người biết . Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, Trần Văn Giàu và Trần Bạch Ðằng đã nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Năm 1993, Trần Quốc Vượng cũng hé một chút tia sáng về là đơn của Nguyễn Tất Thành.
Về phía Pháp Mỹ cũng nhiều người như hai sử gia Pháp là Hémery , Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này trước Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu nhưng họ giấu đi vì họ thiên cộng. Họ còn tỏ ra trù dập, ghét bỏ Vũ Ngự Chiêu!
Còn William A. Williams và các người Mỹ khác thì kính trọng HCM, không dám xúc phạm sự thật hiển nhiên và trần truồng mà chà đạp đặc tính khách quan và khoa học của nhà sử học ! (HCM CXXXIV).

Rất buồn đi đọc những hàng trên của Vũ Ngự Chiêu. Nước ta chậm tiến. Chúng ta kém về khoa học kỹ thuật đã đành mà cũng yếu về khoa học nhân văn. Chính người Âu Mỹ dạy ta phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội, trong đó hai điểm quan trọng là khách quan và chính xác. Người Á châu chúng ta đa số trí tuệ kém mà tâm địa gian xảo, tàn ác. Chúng ta bất hạnh tuy sống vào thế kỷ XX mà thật ra vẫn sống trong " thời đại đổ đểu ". Không ngờ người Âu Mỹ cũng vậy! Thực dân Pháp luôn mơ tưởng tái chiếm Nam Kỳ mà người cộng sản Pháp cũng vậy. Cộng sản Á Châu che giấu sự thật mà cộng sản Âu Mỹ cũng vậy. Bà Trần Thị Hồng Sương đã nhận định như sau về J. Paul Sartre một triết gia lớn của nước Pháp và thế giới đã thốt ra những lời tự tố cáo tâm lý gian xảo, hèn nhát của ông và đám cộng sản Pháp sau sự kiện Khrushchev tố cáo tội ác của Stalin như sau:

Đảng CS Liên Xô lần thứ XX lên án “tệ sùng bái cá nhân” cùng với những sai lầm nghiêm trọng của Stalin đã làm sững sờ những người “khuynh tả không cộng sản” còn mơ hồ về những thực tế ở bên kia “bức màn sắt” khiến Sartre bàng hoàng, nhưng Sartre đã làm chuyện sai lầm là muốn che giấu với ngụy biện là sợ những người liên quan chưa đủ tinh thần để tiếp nhận thất bại vỡ mộng đổi đời, trong khi Liên Xô đã công bố cho quốc dân tức là những người dân Liên Xô vốn chịu ảnh hưởng nặng nề hơn bất kỳ ai! Ông Sartre nói: “Phải biết điều gì người ta muốn đến chỗ nào người ta muốn đi, muốn thực hiện những cải cách, không nên công bố rộng, mà phải thực hiện một cách tuần tự”.Theo Sartre, Khrouchtchev đang làm việc sai lầm là phát hiện chân lý cho đám đông chưa sẵn sàng tiếp nhận.(Trần Thị Hồng Sương. HCM, LXXXIV)
Chỉ J. Paul Sartre và đám cộng sản cuồng tín và gian xảo là muốn bưng tai bịt mắt còn dân Việt Nam cụ thể như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm rất phấn khởi khi nghe tin Khrushchev lột mặt nạ Stalin.

Vũ Ngự Chiêu kết luận:
Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v...). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau. (HCM CXXXIV)

Như vậy rõ ràng là ông Nguyễn Tất Thành nhiều lần cầu xin Pháp ban ân cho ông và cha của ông nhưng bị Pháp từ chối.  Tôi thiết nghĩ so sánh Nguyễn Tất Thành với các ông Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn thì trình độ học vấn của anh bồi tàu nhỏ tuổi tất nhiên không bằng những tay trên. Hơn nữa, thân phụ của ông lại là tội phạm, có thành tích đánh chết người thì làm sao mà Pháp chấp thuận cho Nguyễn Tất Thành hưởng ơn huệ học trường Thuộc Địa. Lại nữa, Nguyễn Tất Thành e chưa có bằng tiểu học thì làm sao vào trường Thuộc Địa? Tại Việt Nam, trường Hậu Bổ là dành cho con các quan nhưng cũng đòi hỏi trình độ cao. Tản Đà cũng đã rớt trường Hậu Bổ.
Thực tế trần trụi của cha con Nguyễn Sinh Sắc luôn mong muốn làm quan nhưng Nguyễn Tất Thành bị bác đơn.xin vào trường Thuộc Địa.. Làm quan phục vụ thực dân không được, cuối cùng ông chạy theo cộng sản cũng chỉ vì danh lợi bản thân. Và việc ông "tìm đường cứu nước" chỉ là huyền thoại của thuật tuyên truyền của cộng sản. Từ sự kiện này, chúng ta thấy đảng cộng sản chuyên nghề đánh bóng và tạo hàng giả.


Ngoài hai lá thư trên, còn có những lá thư khác nữa.
Theo Sophie Quinn Judge, tháng 11 năm 1911, anh tìm cách gửi tiền về cho cha của mình từ Clayton . Lá thư mà chúng tôi đề cập ở đoạn trước là lá thư gửi từ New York vào tháng 12 năm 1912. Bức thư đó anh gửi đến toàn quyền Pháp tại Huế giải thích rằng anh muốn gửi một phần lương hàng tháng của mình cho cha nhưng hiện không biết ông đang ở đâu. Anh viết: ”Tôi không biết phải làm thế nào nữa, tôi chỉ hy vọng mong ngài giúp đỡ vì ngài là người quan bảo hộ nhiệt thành với đất nước chúng tôi”  (SOPHIE QUINN JUDGE * THE MISSING YEARS . Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge. Diên Vỹ và Hoài An 191 Diễn đàn www.x‐cafevn.org . tr.39-40)

Sophie Quinn Judge cho biết chuyến dừng chân tại nước Mỹ của Hồ ở New York khi anh còn là một phụ bếp. Thời điểm đó là vào tháng 12 năm 1912, khi anh viết thư cho toàn quyền ở Huế để tìm cách gửi tiền cho cha mình. Mặc dù lá thư được dán tem gửi từ New York, Hồ lại ghi địa chỉ của mình là địa chỉ bưu điện tại Le Havre và nhận mình là một thuỷ thủ . (sđd,38)

Wiliam Duiker và Daniel Hemerycho biết Tất Thành còn gửi thư cho chị là Nguyễn Thi Thanh, thư được lưu trữ theo Công văn Mật số 7ll, ngày 7.5.l920 của Cảnh sát Đông Dương, hiện nằm trong hồ sơ nhan đề “l920”, hôp 364,  Tư liệu Quân đội Viễn chinh Pháp, tại Trung Tâm Hồ sơ Hải ngoại, tỉnh Aix en Provence, Pháp (HCM. CXXXV).

Khuất Văn Nga cho biết có ba lá thư:
1.Ngày 31 tháng 10 năm 1911, Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển giúp số tiền 15 đồng cho cha mà anh không có điều kiện gửi trực tiếp. Số tiền anh Ba dành dụm được khi làm phụ bếp - một cử chỉ rất đáng quan tâm về trách nhiệm và tình cảm thương mến với gia đình.
2- Ngày 05 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của ông Sinh Huy, Tất Thành nói đã gửi cho cha 3 ngân phiếu, nhưng mới chỉ nhận được một lần trả lời.
3- Ngày 16 tháng 4 năm 1915, Nguyễn Tất Thành thông qua Lãnh sự Anh ở Sài Gòn gửi Toàn quyền Đông Dương bức thư của anh tới cha anh là ông Sinh Huy. Chính quyền địa phương đã hỏi bà Thanh, ông Khiêm về tin tức nhưng chỉ biết cha Sinh Huy đã vào Nam từ cuối 1911 đến đầu năm 1912 làm ở đồn điền cao su ở Lộc Ninh, Thủ Dầu Một.(HCM CXXXV)


 Theo Lữ Phương trong tác phẩm "Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh" xuất bản khoảng 2001-2002, thì Nguyễn Tất Thành sau khi gửi bức thư cho tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin học trường Thuộc địa , ông theo tàu thủy lộ trình Marseille trở về Việt Nam , tại Saigon, ông còn gửi thư cho anh là Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm sứ. Với Lữ Phương, ta thấy có ba bức thư:

1. Tại Sài Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Đạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale.  Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ. Và như mọi người có thể đoán, Khâm sứ Trung Kỳ đã trả lời Toàn quyền Đông dương, với lý do bác bỏ như sau: muốn vào Ecole Coloniale phải đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao cấp mới được chọn (6)(HCM, XLII)


Cũng tài liệu trên, Lữ Phương đã đề cập đến việc Tất Thành gửi 15 đồng cho cha nhờ Khâm Sứ tại Huế chuyển giao:
2. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói trên , cùng với việc gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911, Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng (Đông Dương) cho cha, vì cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được . (HCM, XLII)

3.Lữ Phương (theo D. Hémery: Daniel Hémery: “Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil. Ho Chi Minh jusqu’en 1911”Sđd, Tài liệu 9, tr. 134) cho biết ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm sứ Huế báo rằng trong ba cái mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau:

Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao!

Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai”  (HCM, C)


Chúng ta cũng nên chú trọng đến bức thư mà Nguyễn Sinh Khiêm gửi cho Toàn quyền Albert Sarraut  vào tháng 12 năm 1911, sau đó Toàn Quyền chuyển cho Khâm sứ Trung Kỳ  bằng công văn số   263 , rồi Khâm Sứ Pháp tại Trung Kỳ phúc đáp công văn trên bằng công văn số  R28 – 6971 (lưu tại CAOM – Pari) với trả lời như sau:muốn vào Ecole Coloniale phải đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao cấp mới được chọn.(HCM, C).

Trong khi đó bản Thu Trang viết: “Phúc Công văn số 263 chuyển đơn của Nguyễn Sinh Khiêm xin cho em là Nguyễn Tất Thành vào Trường Thuộc địa, xin báo Ngài là ông chủ sự giáo dục Trung Kỳ, được hỏi ý kiến đã cho biết người thanh niên này đã bắt đầu học Trường Quốc học Huế, nay qua làm bồi ở Pháp, có thể tiếp tục học ở một trường tại thuộc địa trước khi có tham vọng trở thành sinh viên ở Pháp”.
Nguồn trích:
- Thu Trang: Nguyễn ái Quốc ở Pari (1917- 1923), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.427- 428.(CXXXV)

Tại sao bản của Lữ Phương viết với nội dung bác bỏ mà tài liệu Thu Trang lại là chấp nhận?
Qua sự kiện trên, chúng ta thấy như sau:

+1.Trước năm 1915, Nguyễn Sinh Khiêm làm việc cho Pháp tại tòa Khâm, Huế chứ không phải chống Pháp và bị tù như tài liệu cộng đảng.Hơn nữa Sinh Khiêm sinh được hai con sao lại bảo là Pháp chính thuốc độc nên vô tự như Sơn Tùng đã viết (CLIII)? Nhiều tài liệu cho biết Nguyễn Sinh Khiêm có nhà tại Hà Nội và Nghệ An chứ không phải là kẻ lang bạt.

+2. Nguyễn Tất Thành đã  nhiều lần gửi thư cho chính quyền Pháp tại Pháp và tại Việt Nam và tòa lãnh sự Anh, như vậy là Nguyễn Tất Thành không trốn tránh, và giấu diếm hành tung.Gửi thư như vậy là có ý thân mật, tin tưởng, cầu cạnh chứ không phải căm thù thực dân, đế quốc nhất là Tất Thành xin học, xin nội trú, với lời lẽ tha thiết xin làm tay sai đắc lực cho Pháp!

+3. Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm Huế ,tại sao Tất Thành không gửi thử và tiền cho anh mà lại gửi cho Lãnh sự Anh và khâm sứ Pháp?  Lá thư gửi cho Sinh Khiêm là viết tại Saigon. Nhiều tài liêu cũng công nhận rằng anh Ba theo tàu của Pháp về Saigon (Lữ Phương, Khiếu Văn Nga) nên mới có thư này. Tại sao Trần Dân Tiên lại nói Văn Ba không muốn về. Có việc gì bất tiện mà Tất Thành phải che đậy, giấu diếm?

Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm sứ tất là ở tòa Khâm. Tại sao không không thư, gửi tiền cho anh mà cho quan tây? Quan tây tất biết hai cái thư của Nguyễn Tất Thành. và hiểu rõ gian ý của Nguyễn Tất Thành và họ sẽ cười cợt một Tất Thành gian mà không khôn ngoan!

Gửi thư như vậy là một mưu kế của kẻ khôn vặt. Vì xin học cho mình, và xin việc cho cha mà không được, nay Nguyễn Tất Thành nhắc đi nhắc lại để xin khéo. Cũng là một cách gợi lòng nhân đạo của các quan Tây mong họ cảm động lòng hiếu thảo và nỗi khốn khổ của Tất Thành mà ban cho Tất Thành và cha của Thành một vài ân huệ..

+4 .Nguyễn Tất Thành thấy lợi thì làm mà không nghĩ đến việc thiên hạ chê cười. Thông thường, gia đình phải liên lạc với nhau. Nếu không liên lạc được với cha thì liên lạc với anh em, chú bác, bạn bè hoặc họ hàng, tại sao lại đem chưyện gia đình, chuyện tiền bạc nói với quan Khâm Sứ, quan Toàn Quyền? Nguyễn Tất Thành muốn trèo đèo ư? Chuyện nhà đem nói với người làng là đã vô duyên, huống hồ lại gửi thư cho quan tây? . Từ 1911 đến 1915, Tất Thành làm trên tàu, chưa tham gia chính trị, không cần trốn tránh, tại sao không gửi thư hỏi thăm cha qua anh em, họ hàng?Tất Thành là người Việt Nam, là dân Nghệ An lại không hiểu rõ văn hóa Việt Nam hay sao? Anh không biết rằng hỏi những câu ngu ngốc như vậy sẽ bị người ta đốp chát mắng cho, đại loại như:

Mày là con sao lại không biết cha mày ở đâu? Mày là đồ bất hiếu! Sao mày không hỏi anh chị mày, chú bác mày? Không lẽ họ hàng nhà mày chết tiệt cả sao mà mày lại đi hỏi tao? Tao đâu có giữ cha mày trong đũng quần của tao mà mày hỏi?

+5. Tại sao trong hồ sơ Tất Thành không ghì đã học trường Quốc Học và làm giáo viên Dục Thanh? Phải chăng hai việc này là xạo nên chẳng dám chưng ra? Nhưng sao dám xưng là sinh viên (Étudiant?) Đấy chẳng qua mập mờ đánh lận con đen gIữa hai chữ " écolier" và
" étudiant"!

+6.Thư của Nguyễn Tất Thành được quan Toàn quyền, Khâm sứ, Lãnh sự nhận, cho điều tra và trả lời. Ngày nay, thư của một người dân làm sao đến tay thủ tướng hay tổng bí thư? Thư gửi lên xã , quận là đã bị xé bỏ rồi. Nếu gửi đến thủ tướng, tổng bí thư thì cũng bị vứt thùng rác vì lãnh đạo còn phải giải quyết bao nhiêu việc quan trọng, đâu có thì giờ giải quyết những chuyện vớ vẩn của bọn dân đen! Không biết chừng, công an sẽ kêu chủ nhân bức thư lên làm việc, và mắng cho tội phản động, hỗn láo. Trong chế độ ta, dân quèn làm sao lại dám trực tiếp gửi thư lãnh đạo. Muốn thắc mắc, xin xỏ gì phải thông qua hệ thống hành chánh từ dưới lên trên, không được gửi thư cho lãnh đạo! Ai xui mày làm điều này?
Xem vậy, ta thấy tư cách và lương tâm của bọn thực dân khá hơn tư cách và lương tâm của " lãnh đạo ta" và " đảng ta".

Tóm lại, trong khoảng 1911 -1915, Nguyễn Tất Thành ra đi ngoại quốc là tìm sinh kế. Những lời cậu Ba nói là đi cứu nước, xin tội cho cha, đi học chỉ là  khoa trương. Việc các ông Nguyễn Thế Anh, Vũ Ngự Chiêu tìm ra hai bức thư của Nguyễn Tất Thành xin  học trường Thuộc Địa đã lột trần huyền thoại tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.





HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ I * THỜI THƠ ẤU, TÊN TUỔI,

 
CHƯƠNG I
THỜI THƠ ẤU, TÊN TUỔI, 
  VÀ GIA TỘC CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH



I. GIA TỘC NGUYỄN TẤT THÀNH

Nguyễn Tất Thành (1890-1969) sau này lấy tên là Hồ Chí Minh. Ông có quê nội ở làng Kim Liên, tục danh là làng Sen, sinh ở quê ngoại là làng Hoàng Trù ( tục gọi là làng Trùa hay làng Chùa). Hai làng này ở gần nhau, cùng xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Làng này nghèo khổ, chuyên làm thuê, làm mướn, dân chuyên đóng khố nên có danh là  làng Đai Khố.Thân phụ của Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Sinh Sắc (1862–1929), là một nho sĩ, đỗ cử nhân khoa hương thí năm 1894, tại trường thi Nghệ An, và năm 1901, đỗ Phó bảng.Thuở nhỏ nhà nghèo, cha mẹ chết sớm, Nguyễn Sinh Sắc phải sống nhờ vào người anh cùng cha khác mẹ, sau đuợc một lão nho tên là Hoàng Xuân Đường đưa về nuôi dạy, sau gả con gái tên là Hoàng Thị Loan, sinh được Nguyễn Thi Thanh (1884-1954) Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950), Nguyễn Sinh Cung (1890-1969),và Nguyễn Sinh Nhuận (1900) (tức Xin) chết sớm. Hai tên Khiêm Cung rất hay nhưng dân địa phương đọc trại thành ra " Khơm Côông tức là Khôông Cơm"!
Sau lúc thi đỗ, Nguyễn Sinh Sắc đổi tên là Nguyễn Sinh Huy , đổi tên hai con trai thành Tất Đạt, Tất Thành.
Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam viết: "Khi còn trẻ, như nhiều người có chí đương thời, ông dùi mài kinh sử, quyết chí đi thi. Nhưng càng học, càng hiểu đời, ông nhận thấy: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ”, nghĩa là “Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn”. Do đó, sau khi đỗ Phó bảng, được trao một chức quan nhỏ, nhưng vốn có tinh thần yêu nước, khẳng khái, ông thường chống đối lại bọn quan trên và thực dân Pháp. Vì vậy, sau một thời gian làm quan, ông bị chúng cách chức và thải hồi. Ông vào Nam Bộ làm thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời.(HCM, I)

Lúc Pháp sang xâm chiếm Việt Nam, một số nhà nho như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng chống Pháp. Một số thi đỗ, không làm quan, một số từ quan theo đuổi con đường cách mạng. Nguyễn  Sinh Sắc đỗ đồng khoa với Phan Chu Trinh nhưng ông vẫn tiếp tục mộng tưởng làm quan chứ không theo con đường tranh đấu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng. Tháng năm, năm 1906, ông mới được vào Huế làm Thừa biện bộ Lễ.  Tài liệu Cộng sản nói rằng năm 1908, dân Trung Kỳ nổi dậy kháng thuế, hai con ông ủng hộ việc kháng thuế nên ông bị thực dân khiển trách. Điều này không đúng vì năm 1909, Nguyễn Sinh Sắc được thăng chức Tri huyện Bình Khê ở Quy Nhơn. Như vậy là ông dược thăng thưởng chứ không bị khiển trách, trừng phạt.
 Tài liệu Cộng sản nói Nguyễn Sinh Huy nói“Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” nhưng ông ra làm quan với triều đình, với thực dân chứ không khinh bỉ quan trường như lời ông nói. Ông theo đuổi hoạn lộ nhưng bất thình lình ông phải từ bỏ vì một tai họa bất ngờ xảy đến. Trong cơn say rượu, ở huyện đường, ngồi xử án, ông sai lính đánh chết một nông dân tên là Tạ Đức Quang. Sở mật thám Pháp sau khi điều tra xong đã kết ông vào tội ngộ sát khi đang say rượu. Hội Ðồng Nhiếp Chánh tại Huế sau đó đã ra quyết định kỷ luật ông: hạ bốn bậc trong ngạch quan lại thời bấy giờ, bị triệu hồi về Huế, rồi cuối cùng là bị sa thải luôn.(HCM,CIV )

Theo Vũ Ngự Chiêu, tài liệu của Pháp vào tháng giêng năm 1910 ghi rằng Nguyễn Sinh Huy bị huyền chức, Vì vậy, ông bị triều đình huyền chức vì tội say rượu và đối xử tàn bạo với dân chúng. Ngày 19 tháng 5, ông bị giam, nhưng đến tháng tám, 1910,ông được tha nhưng bị sa thải  (HCM, LXXXIV;  HCM, XV)

Nguyễn Sinh Sắc là tay nghiện rượu nặng. Đỗ Phó bảng là giỏi mặc dầu ông không có tác phẩm gì hay công đức gì để lại. Rất tiếc ông lại nghiện rượu. Có nhiều loại nghiện ruợu. Có loại say rượu thì ngủ, có loại hay nói năng, có loại la hét, có loại khóc, có loại cười. có loại bạo động. Rất tiếc là Nguyễn Sinh Sắc thuộc loại này nên đã hủy diệt đời ông. Theo Daniel Hémery, khi ở Huế, Nguyễn Sinh Sắc thường say rượu rồi nổi cơn điên, đánh đập con gái là Nguyễn Thị Thanh tàn bạo, khiến bà Thanh phải bỏ Huế mà về Nghệ An (1) Theo lời kể của Bác sĩ Trần Nguyên Phiêu, Nguyễn Sinh Sắc  đã lưu lạc vào Nam và đã có nhiều lần có những cơn say rượu trên đường phố Sài Gòn. Nhà báo Diệp Văn Kỳ đã nhiều phen giúp đỡ khi ông bị khó khăn vì say rượu nơi công cộng. Khi biết được tin ấy, cụ Cử Hoành đã cho người tìm đưa ông về Sa Đéc. Nơi đây, ông Nguyễn Sinh Sắc được giới thiệu đến tá túc ở gia đình một người có hằng sản ở thị xã là ông Võ Tôn Lập.(2)
 Theo Wikipedia và Duiker , Nguyễn Sinh Sắc được bổ làm tri huyện Bình Khê (Quy Nhơn), sau  vì say rượu sai lính đánh người 100 đòn, vài ngày sau, người ấy chết, ông bị trừng phạt về tội lạm dụng quyền thế mà đánh chết người , sau bị thải hồi .(HCM, LXXXIV; HCM,XV))
Theo Wikipedia,  Nguyễn Sinh Sắc bị tội trảm giam hậu, sau có người cứu thoát, chạy vào miền Nam ẩn náu. Hai cha con bí mật gặp nhau ở Saigon trước khi Tất Thành theo tàu Pháp xuất dương. ( Thảo luận Nguyễn Sinh Sắc, HCM, XV).Đây chỉ là những trang tiểu thuyết trinh thám, tô vẽ Nguyễn Sinh Sắc và Tất Thành thành những người hùng phiêu lưu mạo hiểm và bí mật.
Hoàng Tùng cựu đảng viên cao cấp mặc dầu biện hộ cho Nguyễn Sinh Sắc, cũng phải công nhận Nguyễn Sinh Săc phạm tội  ngộ sát.
 Hoàng Tùng viết:
Cụ Nguyễn Sinh Sắc bị thù oán nên bị hại. Tính cụ ngay thẳng, phê phán thẳng thắn những người xấu và làm theo y' mi`nh cho là phải. Bọn quan lại ghét cụ. Nhân có một người bị phạm tội đưa đến, lệ ngày xưa trước khi xử án phải nọc người đó mấy chục roi trước. Chẳng may người phạm tội bị bệnh từ trước nên sau khi bị đánh trả về một thời gian người ta chết"( HOÀNG TÙNG * HỒI KÝ   )

 Sau này, một cán bộ khác, Trần Minh Siêu trong tác phẩm "Những Người Thân Trong Gia Đình Bác Hồ" nêu lên sự thực về vụ án của  Nguyễn Sinh Sắc đã thú nhận rằng ông được Võ Văn Kiệt cho tài liệu và yểm trợ nên ông mới dám viết và xuất bản sách. (HCM, CXXXII).
Các ông này cũng chẳng tốt lành gì, bưng bít mãi, bàn tay không che nổi mặt trời nên mới buông ra mà thôi.


Cộng sản luôn đề cao  "đạo đức bác Hồ", "gia đình "bác Hồ", "gia đình cách mạng" nhưng Trần Quốc Vượng trong tác phẩm " TRONG CÕI" xuất bản tại Mỹ năm 1993 cũng tiết lộ rằng " bác " là con hoang. Nguyễn Sinh Sắc không phải họ Nguyễn, không phải là con của Nguyễn Sinh Nhậm mà là con rơi của Hồ Sĩ Tạo (1834-?), một vị cử nhân người Nghệ An. Lúc trẻ, ông dạy học tại nhà một hào phú tên là Hà Văn Cẩn ở xã Chung Cự. Họ Hà có gái đẹp tên là Hà Thị Hy, ông Hồ Sĩ Tạo đã có vợ con, nhưng hai bên gian díu cùng nhau. Sau nghe tin Hà Thị Hy có bầu thì họ Hồ không trở lại chốn cũ nữa. Để tránh tai tiếng, gia đình họ Hà bèn đem gả cô Hà Thị Hy cho Nguyễn Sinh Nhậm là một người già và nghèo. Đứa trẻ sinh ra là Nguyễn Sinh Sắc.(Chương XV)
 Trong tác phẩm này, Trần Quốc Vượng nói rằng sau này Hồ Sĩ Tạo giúp Nguyễn Sinh Sắc vào học trường Quốc Tử Giám. Học trường Giám hay Hậu bổ thì phải có hai điều kiện, một là con quan lớn, hai là phải học giỏi, phải thi vào. Tản Đà thi rớt trường Hậu bổ.Cũng có tài liệu nói sau khi đỗ cử nhân, Nguyễn Sinh Sắc học trường Hậu Bổ, nhưng điều này sai vì Nguyễn Sinh Nhậm là thường dân, còn Hồ Sĩ Tạo không có giấy tờ chứng nhận là cha thì làm sao xin cho Nguyễn Sinh Sắc vào Quốc Tử Giám hay trường Hậu Bổ. Vả lại, Hồ Sĩ Tạo chỉ làm quan nhỏ, lại sớm hồi hưu cho nên đó chỉ là những suy đoán. Trước khi thi Hội, thi Đình, Nguyễn Sinh Sắc đem vợ con vào Huế chỉ là đi dạy tư hoặc làm việc chứ không phải là học trường Giám. Theo Vũ Ngự Chiêu, trước khi làm quan, Nguyễn Sinh Sắc làm việc cho Bùi Quang Chiêu (LXXXIV)
Trần Quốc Vượng nói "xấu"  gia đình "Bác" nhưng không hiểu sao người ta bỏ qua. Nhưng bài của Trần Quốc Vượng cũng là một cách giải thích tại sao Nguyễn Tất Thành lại lấy tên họ là Hồ Chí Minh.  Sự thật không phải thế, phần sau chúng tôi sẽ nói rõ việc này.
Tài liệu Cộng đảng nói rằng anh chị của cậu Ba là những người yêu nước chống Pháp nên bị Pháp giam cầm (HCM, I)
Tài liệu công an cộng sản ghi rằng Nguyễn Sinh Khiêm sinh năm 1888, bị giam nhiều lần. Ngày 16 -08-1941 thì được ra khỏi nhà giam ở Vinh.  (HCM, CXXXVI)
  
Chúng ta không có nhiều tài liệu về ông Cả và cô Chiêu nên sự việc không rõ ràng. Trong khoảng 1915, thì hai người này đều làm việc cho Pháp. Theo Wikipedia thì bà Nguyễn Thị Thanh làm thư ký trong quân đội Pháp (HCM, III), còn Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm, Huế (Thư gửi Nguyễn Sinh Khiêm. HCM,CXXXV)

Tuy nhiên theo Nguyễn Đắc Xuân thì trong khoảng những năm 20 - 40, Nguyễn Sinh Khiêm sống với vợ con ở thôn Phú Lễ, thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền,  Huế. Đến năm 1940, ông mới về Nghệ An, đóng tuồng, diễn thuyết nên bị bắt giam mấy tháng, sau đó bị buộc về Huế sống để Pháp tiện việc theo dõi ( HCM, CLII).
Nguyễn Sinh Khiêm lại về sống ở Phú Lễ , Quảng Điền, ở nhà vợ, sau buồn việc nhà, bỏ  đi mà qua ở Phong Điền với thầy Lê Văn Miến. Như vậy là ông tự do đi lại chứ không phải là bị an trí.
 
Sơn Tùng được Việt Cộng ca tụng là nhà "Hồ Chí Minh học", viết theo lời kể của bà Bạch Liên Nguyễn Thị Thanh thì sau khi cậu Ba ra đi, bà Thanh và Nguyễn Sinh Khiêm đều bị Pháp bắt giam và tra tấn. Bọn Pháp tiêm thuốc độc vào người ông Cả cho nên ông Cả tuyệt tự, còn bà Thanh bị đặt lên mâm nướng đỏ đốt cháy bộ phận sinh dục nên không lấy chồng được. (HCM, CLIII)
Theo Nguyễn Đắc Xuân ở tài liệu trên, ông Cả lấy hai vợ, sinh con nhưng các con chết yểu chứ không phải là vô sinh. Theo Wikipedia, ông Cả có con gái tên là Marilyn Mai Nguyễn (Nguyễn Sinh Khiêm, HCM,XV) nhưng ta không rõ sau này như thế nào. Ông Cả không phải nghèo.Ông có nhà ở Nghệ An và Huế. (Anh Sơn. Người gắn bó 94 mùa sen ở làng Sen.HCM, XV). Có người nói rằng ông Cả có nhà ở Hà Nội nhưng 1945-1946 ông Hồ không đến thăm. Khoảng 1957, người ta tìm lại nhà cũ của HCM, nhưng nhà cụ Bảng là nhà tranh, nhà lợp lá mía, cho nên chỉ vài năm là hư. Nhà đã bán từ khi cụ Bảng vào Huế năm 1906, do vậy đâu còn nhà cũ mà tìm kiếm để dựng lại nhà cũ cho 
" bác"? Phải chăng họ đoạt nhà của người ta để về dựng lại cho HCM? Còn ông Cả có nhà ở Nghệ An không thì cũng là việc khó tìm hiểu sự thật bởi vì ông Cả bỏ vào Huế từ lâu.
 Nguyễn Sinh Khiêm chết năm 1950 không ai biết lý do. Từ 1946-50, nhiều người bị cộng sản giết. Nếu quả ông Hồ là người Trung Quốc thì đây là việc khả nghi. Còn bà Thanh chết năm 1954 là năm Cải Cách ruộng đất tại Nghệ An, bà bị kết tội địa chủ bóc lột. Dân Hà Nội khinh bỉ "bác" dã man, tàn ác đã theo cộng sản giết chị!Lúc này, ở Hà Nội, Trường Chinh cũng giết cha mẹ. Tuy nhiên cũng có tin đồn ông đã cứu thoát cha mẹ. Thương cha mẹ mà cứu, tại sao lại giết cha mẹ người ta hàng loạt? Dân Hà Nội khinh miệt Hồ Chí Minh và Trường Chinh là hai tên gian ác, bất nhân, bất nghĩa và đại bất hiếu.


Từ việc lớn đến việc nhỏ, cộng sản bao giờ tuyên truyền xuyên tạc sự thật. Người thuộc phe cộng sản dù gian ác cũng xưng tụng là yêu nước, hy sinh, đạo đức, còn kẻ khác dù tốt cũng bị kết tội là tay sai thực dân, phong kiến, phản động, bóc lột.



Theo cách phân loại thành phần xã hội của cộng sản, Nguyễn Sinh Sắc thuộc giai cấp quan lại phong kiến, có nợ máu với nhân dân chứ không phải là người yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng.. . Anh chị của cậu Ba  cũng thuộc thành phần phong kiến, sau này không biết ra sao nhưng trong khoảng 1915 cũng là tay sai của thực dân, đế quốc. Ngay cậu Ba cũng vậy, trong khoảng 1915 đã viết thư năn nỉ thực dân xin vào trường thuộc địa để làm tay sai thực dân. Ai bảo cậu Ba  ra đi tìm đường cứu nước và gia đình cậu Ba là gia đình cách mạng, và đạo đức?


II. VIỆC HỌC CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH

Khoảng 1900, tại Việt Nam có hai  chương trình giáo dục, một là nền giáo dục cũ học Hán học như ngày xưa, và một nền giáo dục mới, học chữ Pháp Quốc Ngữ và chữ Hán. Sau một thời gian bỏ chữ Hán, chuyên tiếng Pháp và Quốc ngữ. Nền giáo dục cũ tồn tại đến năm 1919 là năm thi Hội cuối cùng.
Theo phong tục thời bấy giờ,  các nho sĩ đỗ đạt hay không, chưa làm quan hay không làm quan, thường mở trường dạy học hoặc ngồi dạy tại các tư gia. 
Nền giáo dục tân học của Pháp thường gọi là trường Pháp Việt có ba cấp: tiểu học, trung học và đại học. Chương trình giáo dục mới đang khai sinh cho nên phần lớn học sinh tiểu học lớn tuổi mới bắt đầu học.
Tại các tỉnh lị miền Trung  và miền Bắc đã có các trường tiểu học do Pháp xây dựng và bổ nhiệm thầy giáo. Các trường này dạy Pháp văn, Quốc ngữ và ban đầu dạy Hán văn, sau bỏ Hán văn. Chương trỉnh cấp tiểu học gồm 6 năm:
 Giáo Dục thời Pháp thuộc, bậc Tiểu học được chia làm hai cấp, 6 năm:
(1) Cấp Sơ học gồm các lớp:
-Lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin) hay lớp Năm hoặc lớp Chót,
- Lớp Dự Bị (Cours Preparatoire) hay lớp Tư,
-Lớp Sơ Đẳng (Cours Elementaire) hay lớp Ba

(2) Cấp Tiểu học gồm có:
-Lớp Nhì Năm thứ nhất (Cours Moyen Première Année),
-Lớp Nhì Năm thứ hai (Cours Moyen Deuxième Année)
-Lớp Nhất (Cours Supérieur).
Học xong lớp nhất, học sinh phải thi bằng Tiểu học mới được học lên trường Cao đẳng Tiểu học tức là trường Trung học đệ nhất cấp của VNCH tương đương trường cấp hai của Cộng sản.

Nguyễn Sinh Sắc trước và sau khi đỗ cử nhân,  là ông Đồ Nghệ, chuyên dạy trẻ tư gia. Tục bấy giờ nhà chủ nuôi thầy và con thầy nếu thầy mang con theo. Thường thì thầy mang con theo để có nơi ăn ở và kèm cặp con cái. Vì vậy Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung theo cha kinh qua nhiều phủ huyện và tỉnh.
Theo Lịch sử Cộng đảng,
Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán.Cuối năm 1904, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, khi ông Sắc đến đây dạy học....Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh.

-1906, ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất Thành và anh trai cùng đi theo cha. Vào Huế, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai được cha cho đi học Trường tiểu học Pháp – Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906); lớp sơ đẳng (cours élémentaire, tháng 9-1907).

Tháng 4-1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, ông có bị đuổi học không? Tuy nhiên, tháng 8-1908, Nguyễn Tất Thành, với tên gọi Nguyễn Sinh Côn, vẫn được ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê (Chouquet) tiếp nhận vào học tại trường. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp trung đẳng (lớp nhì) (cours moyen) tại Trường Quốc học Huế.Khoảng tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành rời Trường Quốc học Huế theo cha vào Bình Định, khi ông được bổ nhiệm chức Tri huyện Bình Khê. Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành được cha gửi học tiếp chương trình lớp cao đẳng (lớp nhất – cours supérieur), tại Trường tiểu học Pháp – Việt Quy Nhơn.Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành hoàn thành chương trình tiểu học. Sau khi nghe tin cha bị cách chức Tri huyện Bình Khê, bị triệu hồi về Kinh, anh không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp xuống phía Nam. Trên đường từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành dừng chân ở Phan Thiết. Ở đây anh xin vào làm trợ giáo (moniteur), được giao dậy một số môn, đồng thời phụ trách các hoạt động ngoại khoá của Trường Dục Thanh, một trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành lập năm 1907.(HCM, I)
Như trên đã trình bày, chương trình tiểu học là 6 năm. Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh.

-1906, ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất Thành và anh trai cùng đi theo cha. Vào Huế, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai được cha cho đi học Trường tiểu học Pháp – Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906);
 Vì di chuyển nơi ở, Nguyễn Tất Thành không hoàn tất chương trình dự bị ở Vinh nên khi vào trường Pháp Việt Thừa Thiên,  Nguyễn Tất Thành  phải ở lại lớp. Như vậy, coi như Nguyễn Tất Thành khởi đầu tiểu học tháng 9-1906. Muốn có bằng tiểu học, Nguyễn Tất Thành phải học liên tục và phải thi tiểu học cho đến tháng 9-1912. Nhưng Nguyễn Tất Thành đã ra đi từ tháng 6-1911 cho nên không hoàn tất chương trình tiểu học.
Tài liệu Cộng đảng nói Tất Thành đỗ tiểu học năm 1910, còn Wikipedia nói 1907, tất cả đều không đúng. Nếu nói rằng Tất Thành bị đuổi học vì tham dự biểu tình chống thuế của nông dân miền Trung năm 1908 thì Tất Thành chỉ học bốn năm tiểu học thì làm sao có bằng tiểu học hoặc hoàn tất chương trình tiểu học?
Lại bảo rằng Tất Thành học trường Quốc Học Huế cũng không đúng sự thật vì theo Wikipedia trường Quốc Học Huế khởi thủy là trường Cao đẳng Tiểu học (tức trường Trung học đệ nhất cấp, sau đổi thành trung học đệ nhị cấp, ban Tú tài). Nguyễn Tất Thành không có bằng tiểu học làm sao vào Quốc Học Huế?

Nếu Tất Thành đỗ tiểu học 1910 thì 1908 không thể vào Quốc Học, còn đỗ 1907 thì không cần thiết phải vào học tiểu học Quy Nhơn.
Wikipedia (Tiếng Việt) còn nói Tất Thành năm 1906,  theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba niên khoá 1906 - 1907 lớp nhì, 1907 - 1908 lớp nhất. Trong kỳ thi Primaire (tương đương tốt nghiệp tiểu học) năm 1908 - ông là một trong 10 học trò giỏi nhất của trường Pháp - Việt Đông Ba được thi vượt cấp vào hệ Thành chung trường Quốc Học. Tháng 9 năm 1907, ông vào học lớp Trung học đệ nhị niên tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Cha ông bị triều đình khiển trách vì "hành vi của hai con trai". Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Ông quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình.
Đầu năm 1910, Nguyễn Tất Thành vào đến Phan Thiết. Ông dạy chữ Hán và chữ Quốc ngữ cho học sinh lớp ba và tư tại trường Dục Thanh của Hội Liên Thành."
Trong khi tài liệu đảng nói rõ Nguyễn Tất Thành vào Huế, học trường tiểu học  tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị (cours préparatoire, tháng 9-1906); còn Wikipedia thì nói ông học lớp nhì, như vậy sai số hai  năm vì lớp nhì lúc này có hai lớp là lớp nhì đệ nhất niên và lớp nhì đệ nhị niên. Wikipedia tỏ ra lúng túng . Một đằng họ nói ông đỗ tiểu học cuối 1908, một đằng họ nói tháng 9 năm 1907, ông vào học lớp Trung học đệ nhị niên tại trường Quốc học Huế. Năm 1907 chưa đỗ tiểu học mà vào Quốc Học ư? Dù ông có học Quốc học cũng chỉ được vài tháng, nào có ra gì! Hơn nữa, ông vào Quốc Học, bị đuổi, đổi tên Nguyễn Sinh Côn mà qua mặt được người Pháp ư? Hồi ấy, học sinh ít, tất cả là con cái Nho gia đệ tử, đâu có dễ mà chơi trò gian lận! Hơn nữa gian lận ở đâu, có thể người ta không biết, làm sao gian lận ngay ở trường Quốc Học? Như vậy là người ta cố gắng đeo mặt nạ Quốc Học và chống Pháp cho sang trọng và oai phong chứ thật sự Nguyễn Tất Thành không hội đủ điều kiện học Quốc Học.
Anh em Nguyễn Tất Thành học lớp dự bị tháng 9 năm 1906, đến tháng 9-1909 thì bỏ học, đầu năm 1910 đã vào Phan Thiết, nếu kể ông bị đuổi học năm 1908, như vậy,ông học chỉ được ba năm tiểu học, trình độ chỉ đến lớp ba trường làng!
Trình độ lớp ba, lớp nhì trường làng mà dạy lớp ba, lớp tư ư?Giáo dục thời Pháp thuộc đâu có giống thời Cộng sản, đâu có việc cán bộ không có bằng cấp mà làm hiệu trưởng, mà làm giáo viên đứng lớp? Cũng không có cảnh không thì đỗ, không học trung học mà có bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ?

Khi ông vào Phan Thiết, tài liệu cộng đảng ghi là ông làm "moniteur" là giáo viên thể dục, thể thao" cũng chỉ mấy tháng! 

Xem ra Nguyễn Sinh Sắc là người theo mới. Ông cho con ông theo tân học như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh để làm thầy thông, thầy phán như Tú Xương mai mỉa:
"Sao bằng đi học làm thầy phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò!"
Cùng lứa tuổi với Phan Khôi (1887-1959), Bùi Kỷ (1888-1960), Nguyễn Sĩ Giác (1888-197?) mà người ta đỗ tú tài, cử nhân, tiến sĩ Hán học, cùng lứa tuổi với Phạm Quỳnh (1892-1945, Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936)  người ta trở thành học giả tân học, Nguyễn Tất Thành vì nhà nghèo, vì gia biến mà bỏ dở sự học, đó là điều đáng tiếc.
 
Wikipedia viết:
Khoảng trước tháng 2 năm 1911, ông nghỉ dạy và vào Sài Gòn cũng với sự giúp đỡ của Hội Liên Thành. Tại đây, ông theo học trường Bá Nghệ là trường đào tạo công nhân hàng hải và công nhân chuyên nghiệp cho xưởng Ba Son (bây giờ là trường Cao Đẳng kỹ thuật Cao Thắng), vừa đi bán báo ở khu vực thương cảng để kiếm sống và tìm hiểu đời sống công nhân. Ở đây, ông học được 3 tháng. Sau đó ông quyết định sẽ tìm một công việc trên một con tàu viễn dương để được ra nước ngoài học hỏi tinh hoa của phương Tây và tìm chính sách để cứu nước.


Học trường Bá Nghệ cũng phải mất nhiều năm. Tài liệu này cho biết Nguyễn Tất Thành không kiên trì , học vài tháng thì bỏ. Phải chăng người ta muốn tô vẽ thêm nào là trường Bá Nghệ, nào là Bason cho có mùi giai cấp công nhân tiên tiến, thành phần lãnh đạo. Có tài liệu ghi rằng Tất Thành đậu bằng Thành Chung, học ban Thành Chung. Tài liệu đảng cho biết Tất Thành đỗ bằng Tiểu học năm 1910, phải 1914, ông mới được đi thi bằng Thành Chung, nhưng 1911 ông đã đi làm bồi tàu rồi! Ôi, người ta làm đủ cách để giới thiệu Tất Thành là một trí thức nhưng sự thực học vấn Tất Thành  chỉ đến lớp ba  trường làng mà thôi!


Chúng tôi chỉ nói sự thật của lịch sử. Những người thời quân chủ, tư bản mới chú trọng việc học và bằng cấp, còn cộng sản trọng vô sản, vô học, ai có học là bị khinh miệt, trù dập và giết hại trong chính sách "trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ". Hơn nữa đó là một chính sách căn bản từ Karl Marx vì Karl Marx bảo chỉ có công nhân là giai cấp tiên phong, còn các giai cấp khác như trí thức, tiểu tư sản, nông dân là thành phần lưng chừng, là phản động. Sau này Lenin, Stalin triển khai mà đuổi trí thức Nga, đưa dân vô sản thất học lên nắm quyền. Và sau này, tại Việt Nam, nhiều ông không đi học ngày nào hoặc chưa học lớp ba trường làng mà làm tổng bí thư, chủ tịch, thủ tướng, bộ trưởng, giám đốc. Vậy thì Nguyễn Tất Thành đỗ tiểu học hay không chẳng có gì quan trọng trong tiểu sử lãnh tụ và lịch sử đảng mà phải cố tô vẽ cho thành hình tượng trí thức? Ít học hay vô học là niềm tự hào vì thuộc giai cấp vô sản, giai cấp lãnh đạo, giai cấp tiên tiến theo triết học Mac-xit sao lại phải băn khoăn?  Nếu nhận thấy đó là một điều sai lầm, xấu xa, tủi hổ thì nên thay đổi tận căn bản chứ sao lại chạy theo hình thức chủ nghĩa?


III. NGÀY, NĂM SINH, TÊN HỌ VÀ DANH HIỆU CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH

Các nhà nho ngày xưa một đôi khi cũng đổi tên, còn thường ra ít ai dám đổi họ vì người ta coi đó là một điều bất hiếu, coi khinh tổ tiên, từ bỏ cội nguồn, ngoại trừ việc làm con nuôi hoặc trốn tránh việc truy tầm của nhà nước.  Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông hoạt động chính trị cũng không dùng nhiều lý lịch giả. Nguyễn Tất Thành là người nhiều lý lịch giả nhất thế giới. Ông có cả trăm tên giả. mang nhiều khuôn mặt khác nhau.
Con người Nguyễn Tất Thành là con người trăm tên nghìn mặt. Trước hết là năm sinh của ông. Nguyễn Thế Anh đã viết:

Năm 1911, HCM ghi mình sinh năm 1892. Một báo cáo khác ghi: sinh năm1894. Trong chiếu khán thông hành cấp năm 1923 ghi sinh ngày 15-1-1895. Ngày sinh được coi như chính thức là 19-5-1890.(HCM,XX)


Wikipedia ghi rằng Nguyễn Tất Thành có 5 năm sinh khác nhau.


Theo lý lịch chính thức, Nguyễn Sinh Cung sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, tuy nhiên có những thông tin khác không đồng nhất
Trong đơn xin học Trường hành chính thuộc địa, năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892.
Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894.
Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894.
Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin, vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895.
Theo Sophie Quinn Judge, năm sinh khả dĩ nhất của ông là vào khoảng năm 1892 hoặc 1893 theo lời khai của chị ông (bà Thanh) với cảnh sát Pháp năm 1920 (SPCE 364 Note conf. 711, Hue, 7/05/1920). Sophie Quinn Judge cũng nói rằng ông Hồ năm 1938, ông tự khai lý lịch của mình là sinh năm 1903, khoảng 10 tuổi trẻ hơn so với tuổi thật của mình (SOPHIE QUINN JUDGE * THE MISSING YEARS  .Những năm tháng chưa được biết đến. Diên Vỹ và Hoài An 196 Diễn đàn www.x‐cafevn.org )
Lịch sử Cộng đảng ghi :
Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do – Bình đẳng – Bác ái....
Tuy nhiên, tháng 8-1908, Nguyễn Tất Thành, với tên gọi Nguyễn Sinh Côn, vẫn được ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê (Chouquet) tiếp nhận vào học tại trường. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp trung đẳng (lớp nhì) (cours moyen) tại Trường Quốc học Huế.
Trong thời gian học tại Trường Quốc học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báo Pháp.(HCM I)

Tài liệu trên cũng viết:
Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.. . Về mục đích ra đi của mình, năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng:

“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” (HCM I)

Căn cứ vào câu "“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái…" . ta có thể suy rằng năm học Trường Vinh (1905), Nguyễn Tất Thành đã 13 tuổi. Như vậy, ông sinh năm 1892.Hơn nữa, tài liệu năm 1911 là thời học sinh ghi năm 1892 thì tương đối chính xác hơn thời gian sau 1911 ông ra ngoại quốc phải trốn tránh và thay đổi lý lịch. Tuy nhiên chúng ta cũng không loại trừ trường hợp khai sụt tuổi. Như vậy, ta có thể phỏng đoán năm sinh của ông là trong khoảng 1890-1892.

Ông cũng đội nhiều tên khác nhau. Wikipedia cho biết ông có khoảng 60 tên và bút hiệu khác nhau. Bút hiệu thường dùng
Hồ Chí Minh: Từ tháng 8 năm 1942 đến 2 tháng 9 năm 1969
C.M.Hồ: Dùng tại 3 tài liệu viết từ tháng 7 năm 1945 đến tháng 8 năm 1945.
H.C.M.: Dùng tại 8 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1946 đến tháng 12 năm 1966.
Nguyễn Ái Quốc: Từ năm 1914 đến tháng 8 năm 1942.

Bác Hồ: Dùng tại 119 tài liệu viết từ 27 tháng 10 năm 1946 đến 21 tháng 7 năm 1969.
Chú Nguyễn: Dùng 1 lần tháng 3 năm 1923.
Bút hiệu khác (xếp hạng thứ tự theo bảng chữ cái)
A.G.: Dùng tại 7 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1947 đến tháng 1 năm 1950
A.P.: Dùng 1 lần trong bài "Văn minh Pháp ở Đông Dương" - tạp chí Inpekorr.Tiếng Đức. số 17. 1927.
Bình Sơn: Dùng tại 10 tài liệu viết từ tháng 11 năm 1940 đến tháng 12 năm 1940.
C.B.: Dùng tại 147 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1951 đến tháng 3 tháng 1957 (trên báo Nhân Dân)
C.K.: Dùng tại 9 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1960 đến tháng 3 năm 1960.
Chiến Thắng: Dùng tại 8 tài liệu viết từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 10 năm 1945.
Chiến Sĩ: Dùng tại 128 tài liệu viết từ tháng 3 năm 1945 đến tháng 7 năm 1971.
Din: Dùng tại 3 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1952 đến tháng 7 năm 1953.
Đ.X.: Dùng tại 51 tài liệu viết từ tháng 6 năm 1951 đến tháng 7 năm 1954, (trong chuyên mục "Thường thức chính trị" trên báo Cứu quốc)
H.B: Dùng một lần tại bài "Có phê bình phải có tự phê bình" - Báo Nhân Dân số 488 ngày 4 tháng 7 năm 1955.
HOWANG T.S.: Dùng 1 lần tại Báo cáo trong Đại hội công nhân và nông dân ngày 2 tháng 5 năm 1925 tại Quảng Châu (Trung Quốc).
Hồ:Dùng tại 7 tài liệu từ tháng 5 năm 1945 đến tháng 2 năm 1947.
H.T.: Dùng 1 lần tại bài "Bà Trưng Trắc" đăng trên báo Thanh Niên, số 72 ngày 12 tháng 12 năm 1926.
La Lập: Dùng 1 lần tại báo Nhân Dân số 4530 ngày 1 tháng 9 năm 1966.
Lê Ba: Dùng 1 lần tại bài "Trả lời ông Menxphin thượng nghị sĩ Mỹ" ngày 20 tháng 4 năm 1966 (báo Nhân dân số 4407).

Lê Nhân: Dùng 1 lần tại bài "Thất bại và thành công" - báo Nhân Dân số 117 ngày 19 tháng 8 năm 1949.
Lin: Dùng tại 5 tài liệu viết từ tháng 1 năm 1935 đến tháng 9 năm 1939.
L.T.: Dùng tại 4 tài liệu viết từ tháng 4 năm 1925 đến tháng 5 năm 1954.
Lý Thụy: Dùng tại 2 tài liệu từ ngày 18 tháng 12 năm 1924 đến ngày 6 tháng 1 năm 1926.
N.: Dùng tại 5 tài liệu từ tháng 2 năm 1922 đến tháng 1 năm 1924.

Nilốpki: Dùng tại 6 tài liệu từ tháng 10 năm 1925 đến tháng 3 năm 1926.
P.C.Lin: Dùng tại 8 tài liệu từ tháng 12 năm 1938 đến tháng 7 năm 1939.

T.L.: Dùng tại 80 tài liệu từ tháng 4 nam 1950 đến tháng 6 năm 1969.
T.Lan: Dùng 1 lần viết cuốn Vừa đi đường vừa kể chuyện
Tân Sinh: Dùng 1 lần tháng 1 năm 1948.
Tân Trào:
Thanh Lan:
Thu Giang:
Trần Dân Tiên: Dùng 1 lần viết sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch năm 1948.
Trần Lực: Dùng tại 25 tài liệu từ tháng 3 năm 1949 đến tháng 1 năm 1961.
Trần Thắng Lợi: Dùng 1 lần ngày 18 tháng 1 năm 1949.

Loo Shing Yan: Dùng 1 lần ngày 12 tháng 11 năm 1924 (bản gốc tài liệu đánh máy bằng tiếng Pháp đề: "Loo Shing Yan: - Nữ đảng viên Quốc dân Đảng")

Hoàng Anh Tuấn trong tạp chí Huế viết rằng Hồ Chí Minh có 174 tên và hiệu (HCM, IV). Trên thế giới này đa số con người sống chân thật, làm việc gì cũng đường đường chính chính " đi không thay tên, ngồi không đổi họ", riêng Hồ Chí Minh có nhiều tên họ, nhiều lý lịch, là người mang nhiều mặt nạ, sống một đời bí mật, giấu diếm. Ông là một tên gián điệp, là con người của thế giới bóng tối!

Về gia đình và niên thiếu của Nguyễn Tất Thành, chúng tôi cần nói thêm vài điểm, đính chính những tuyền truyền của Việt Cộng.
+Việt Cộng tuyên truyền rằng cụ Bảng đã giúp đỡ gia đình Phan Bội Châu. Chúng tôi nghĩ rằng điều này không thực. Như dư luận cho biết, gia đình Hồ Sĩ Tạo đã giúp đỡ Nguyn Sinh Sắc cho nên cđã đđạt, còn gia đình họ Nguyễn thì quá nghèo. Chúng ta biết khi cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ, cả tổng chỉ làm cho cụ ngôi nhà lá,  và sau khi thi đỗ, cụ vào Huế, bà vợ sinh con nhưng chết sớm, đứa bé  không sữa đói khát nên anh là Nguyễn Sinh Cung phải bế đi khắp nơi xin sữa. Vì vậy mà đứa bé có tên là Xin. Gia cảnh như thế làm sao có tiền bạc, lương thực giúp gia đình Phan Bi Châu?
+Việt Cộng tuyên truyền Nguyễn Sinh Cung thừa hưởng cái học của cha nên giỏi Hán Văn. Điều này cũng sai. Tản Đà cha chết sớm được anh là Nguyễn Tái Tích nuôi ăn học dù không đỗ cử nhân, tú tài, vẫn là người có danh trên văn đàn. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ xuất thân trong gia đình danh gia vọng tộc, được gia đình cho ăn học cho nên thi đỗ sớm. Còn gia đình Nguyễn Sinh Cung, nghèo, Sinh Cung phải bế em đi xin sữa thì rõ thuộc loại bần cố nông, từ nhỏ phải lo cày cuốc, không được học hành đến nơi đến chốn. 
 Vì nghèo mà có thể vì theo lời các cha cố, cụ Bảng cho con theo Tây học đđược "Tối sâm banh, sáng sữa bò" không quan tâm đến cựu học, cho nên Sinh Cung Pháp văn và Hán văn đều kém, chưa hoàn tất chương trình tiểu học..
Tài liệu tỉnh ủy Nghệ An cho biết lúc hàn vi, ba cha con Nguyễn Sinh Sắc phải cày cuốc lao động, khi có khách phải nghỉ tay tiếp khách, cụ Sinh Sắc than: " Khơm Côông ơi, hôm nay nhà ta không cơm rồi!Đó là một sự thật chi phối con người và cuộc đời Nguyễn Sinh Cung!
+Đđánh bóng lãnh tụ, cộng sản đã viết rằng trong thư và lời nói, các cụ Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu đều ca tụng Nguyễn Ái Quốc. Ngay cĐào Duy Anh có lđã theo lệnh đảng mà viết thế. Có thể cộng sản đã ngụy tạo các bức thư và các lời nói. Các cụ it khi hạ mình với con cháu hay kẻ dưới hàng. Có tin khi Sinh Cung về Nam, gặp cha bị cha vác gy đuổi đánh vì tội bất nhân bất nghĩa với Phan Chu Trinh. Có lẽ khoảng 1920, Sinh Cung đã theo tàu về Saigon nhưng giấu đi không nói cho nên mới có nguồn tin như thế!

 ____
 (1). Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam [Hồ Chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam] , Nxb. Gallimard, Paris, 1990. sđd. tr. 133. Nguyên văn: "...elle ne put supporter longtemps les brutalités de son père qui avait contracté des habitudes d' ivrognerie et la frappait très sou-vent..." Thành Tín, trong sđd. tr. 95 viết: "Ông Nguyễn Sinh Huy vốn nghiện rượu rất nặng khi còn ở Huế, bà Thanh kể rằng hồi ấy cứ lên cơn thèm rượu và say rượu là bà bị ông bố đánh bằng tay và bằng roi rất tàn nhẫn."Trần Gia Phụng. Lột trần huyền thoại Hồ Chí Minh Bài 1.HCM,  LXXII).
 (2).BS.Trần Nguyên Phiêu. Ông thầy Quảng.http://namkyluctinh.org/a-lichsu/tnphieu-mothayquang%5Bn%5D.htm.
KÝ BS. TRẦN NGUYÊN PHIÊU .BKBĐD, số 226 tnáng 7-2012.