DEAR MR. PRESIDENT:
Our VIETNAM people, as early as 1941, stood by the Allies' side and
fought against the Japanese and their associates, the French
colonialists.
From 1941 to 1945 we fought bitterly, sustained by the patriotism, of
our fellow-countrymen and by the promises made by the Allies at YALTA,
SAN FRANCISCO and POTSDAM.
When the Japanese were defeated in August 1945, the whole Vietnam
territory was united under a Provisional Republican Government, which
immediately set out to work. In five months, peace and order were
restored, a democratic republic was established on legal bases, and
adequate help was given to the Allies in the carrying out of their
disarmament mission.
But the French Colonialists, who betrayed in wartime both the Allies and
the Vietnamese, have come back, and are waging on us a murderous and
pitiless war in order reestablish their domination. Their invasion has
extended to South Vietnam and is menacing us in North Vietnam. It would
take volumes to give even an abbreviated report of the crisis and
assassinations they are committing everyday in this fighting area.
This aggression is contrary to all principles of international law and
the pledge made by the Allies during World War II. It is a challenge to
the noble attitude shown before, during, and after the war by the United
States Government and People. It violently contrasts with the firm
stand you have taken in your twelve point declaration, and with the
idealistic loftiness and generosity expressed by your delegates to the
United Nations Assembly, MM. BYRNES, STETTINIUS, AND J.F. DULLES.
The French aggression on a peace-loving people is a direct menace to
world security. It implies the complicity, or at least the connivance of
the Great Democracies. The United Nations ought to keep their words.
They ought to interfere to stop this unjust war, and to show that they
mean to carry out in peacetime the principles for which they fought in
wartime.
Our Vietnamese people, after so many years of spoliation and
devastation, is just beginning its building-up work. It needs security
and freedom, first to achieve internal prosperity and welfare, and later
to bring its small contribution to world-reconstruction.
These security and freedom can only be guaranteed by our independence
from any colonial power, and our free cooperation with all other powers.
It is with this firm conviction that we request of the United Sates as
guardians and champions of World Justice to take a decisive step in
support of our independence.
What we ask has been graciously granted to the Philippines. Like the
Philippines our goal is full independence and full cooperation with the
UNITED SATES. We will do our best to make this independence and
cooperation profitable to the whole world.
I am, Dear Mr. PRESIDENT,
Respectfully Yours,
(Signed) Ho Chi Minh
CHIẾN TRANH VIỆT NAM 1945-1975
ĐÃ CÓ THỂ KHÔNG XẢY RA …
Phan
Văn Hoàng
Trong nửa sau tháng 8-1945, dưới sự lãnh đạo của
Việt Minh, nhân dân Việt Nam tiến hành tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lại
độc lập dân tộc và thống nhất lãnh thổ, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(2-9-1945). Nhưng “nước cộng hòa mới ra đời… phải đối đầu với nhiều thế lực thù
địch và mạnh hơn rất nhiều, trong tay hầu như không có gì cả”[1].
Trước hết
là ý đồ của Pháp muốn chiếm lại Đông Dương để tái lập ách thống trị thực dân.
Nghe tin Nhật đầu hàng, thiếu tướng de Gaulle, chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng
hòa Pháp, cử đô đốc d’Argenlieu và tướng Leclerc sang Sài Gòn làm cao ủy và tổng
chỉ huy quân viễn chinh tại Đông Dương. Ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng vào
trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và một số công sở khác ở Sài Gòn, mở đầu cuộc
chiến tranh tái chiếm thuộc địa
Theo quyết
định của Hội nghị Postdam, Anh và Trung Hoa Dân quốc đưa quân vào phía nam và
phía bắc vĩ tuyến 16 để giải giới và hồi hương quân Nhật.
Anh chủ
trương phục hồi nguyên trạng như trước chiến tranh, thuộc địa của nước nào sẽ
trả lại cho nước ấy, nên tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp trở lại Đông Dương
(đổi lại, Pháp thừa nhận “chủ quyền” của London đối với các thuộc địa cũ của Anh
ở châu Á).
Trung Hoa Dân quốc đưa một số nhà chính trị của
Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc Dân đảng – từng sống lưu vong
trong sự đùm bọc của Trung Hoa trong thời kỳ chiến tranh – về Hà Nội với ý đồ “thành
lập ở Việt Nam một quốc gia “độc lập” nhưng trong thực tế đó là một nước chư hầu
của Trung Hoa”[2].
Về sau, do phải đối phó với nguy cơ nội chiến, Trung Hoa đồng ý rút quân về nước
để quân Pháp tới thay với điều kiện Pháp dành cho Trung Hoa nhiều quyền lợi đáng
kể ở Đông Dương.
Lúc đó,
Liên Xô vừa phải lo hàn gắn các vết thương chiến tranh, vừa phải củng cố liên
minh chính trị – quân sự với các nước Đông Âu trong cuộc chiến tranh lạnh mới
bắt đầu. Do đó Liên Xô không quan tâm gì đến tình hình ở nước Việt Nam xa xôi
cách trở.
Cuối cùng,
chỉ có Mỹ là cường quốc duy nhất trên thế giới có thể giúp Việt Nam ngăn cản
Pháp tái chiếm sau chiến tranh.
“MỤC TIÊU CỦA CHÚNG TÔI LÀ ĐỘC LẬP HOÀN TOÀN VÀ
HỢP TÁC TOÀN DIỆN VỚI MỸ”
- Thư Hồ
Chí Minh gửi Harry S. Truman (Hà Nội, 16-2-1946)
Trong những năm 1942 -1944, tổng thống Mỹ Franklin
D. Roosevelt một mặt tiến hành chiến tranh chống Nhật trên chiến trường châu Á –
Thái Bình Dương, mặt khác chủ trương đặt Đông Dương dưới chế độ ủy trị quốc tế.
Ngẫu nhiên mà chính sách đó của Washington phù hợp với đường lối “đánh Pháp,
đuổi Nhật” của Việt Minh. Hơn nữa, ngày 14-8-1941, trên một chiến hạm bỏ neo
ngoài khơi Newfoundland, Roosevelt cùng thủ tướng Anh Winston Churchill công bố
Hiến chương Đại Tây Dương, tán thành quyền tự trị của mọi dân tộc. Vì vậy, “Hồ
Chí Minh gửi nhiều thông điệp đến tổng thống Roosevelt… nhưng không thông điệp
nào được trả lời… Đầu năm 1945, ông được OSS [cơ quan tình báo của Mỹ, tiền thân
của CIA sau này] tuyển dụng để tổ chức một mạng lưới tình báo ở Đông Dương”[3].
“Với mật danh Lucius, ông đã cung cấp cho OSS những tin tức tình báo về lực
lương Nhật [ở Đông Dương]… Các du kích quân của ông đã cứu thoát 17 phi công Mỹ
bị [Nhật] bắn hạ”[4].
Trong bản
Tuyên ngôn Độc lập đọc ngày 2-9-1945 trước hàng chục vạn người tụ tập tại vườn
hoa Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập ngày
4-7-1776 của Mỹ.
Ba tuần lễ
sau, ngày 23-9, quân Pháp nổ súng ở Sài Gòn, sau đó đánh lấn ra nhiều tỉnh,
thành ở Nam Bộ và nam Trung Bộ. Trong bối cảnh đó, Hồ Chí Minh thay mặt Chính
phủ và nhân dân Việt Nam gửi một loạt thư và điện đến tổng thống và ngoại trưởng
Mỹ, kêu gọi Mỹ can thiệp để chấm dứt các hoạt động quân sự của Pháp.
Trong thư ngày 22-10 gửi ngoại trưởng Mỹ, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh “Cuộc đấu tranh liên tục [của nhân dân Việt Nam] chống lại
người Nhật đã đem lại sự phục hồi nền độc lập dân tộc”, vì vậy, “nền độc lập
hoàn toàn của Việt Nam phải được Liên hợp quốc công nhận”. Trước việc Pháp
bắt đầu “cuộc tiến công xâm lược” từ rạng sáng 23-9, Hồ Chí Minh đề nghị “một ủy
ban điều tra phải được cử tới Nam Việt Nam”[5].
Trong bài
diễn văn đọc nhân Ngày Hải quân (27-10-1945) tại Công viên Trung tâm ở New York,
tổng thống Mỹ Harry S. Truman xác định chính sách đối ngoại của Mỹ gồm 12 điểm
trong đó có các điểm sau :
“(2) Chúng
tôi tin tưởng rằng chủ quyền và quyền tự trị của tất cả những dân tộc bị tước
đoạt bằng bạo lực sẽ được trả lại cho họ
(3)
Chúng tôi sẽ không chấp nhận những thay đổi về lãnh thổ trong bất kỳ bộ phận nào
của thế giới, trừ phi những thay đổi ấy phù hợp với nguyện vọng được tự do phát
biểu của dân tộc có liên quan
(4)
Chúng tôi tin rằng mọi dân tộc đang chuẩn bị để tự trị phải được phép chọn lựa
chính thể của riêng họ bằng sự chọn lựa được chính họ tự do phát biểu, không có
sự can thiệp của bất cứ nguồn gốc bên ngoài nào. Điều đó đúng ở châu Âu, ở châu
Á, ở châu Phi cũng như ở Tây bán cầu (…)
(6) Chúng tôi sẽ từ chối công nhận bất cứ chính
quyền nào bị áp đặt cho một dân tộc bởi bạo lực của một thế lực nước ngoài.
Trong một vài trường hợp, không thể ngăn cản sự áp đặt một chính quyền bằng bạo
lực. Nhưng Mỹ sẽ không công nhận một chính quyền như thế”[6]
v.v…
Chỉ một tuần lễ sau, trên báo Cứu Quốc (cơ
quan của Tổng bộ Việt Minh), Hồ Chí Minh viết: “Nhân dân Việt Nam… rất hoan
nghênh… 12 điểm chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ”, nhất là “năm điểm có quan hệ
mật thiết với các dân tộc nhược tiểu trên thế giới”. Sau khi nhắc lại việc Pháp
đang dùng “võ lực để mưu lập lại cái chế độ nô lệ của họ trên đất Việt Nam”, Hồ
Chí Minh tin “chắc rằng nước Mỹ sẽ làm cho những lời tuyên bố ấy [được] thực
hiện ngay”[7].
Trong một bức điện gửi ngoại trưởng Mỹ, Hồ Chí
Minh ca ngợi “ý tưởng cao quý về lòng khoan dung và nhân đạo thể hiện trong diễn
văn của tổng thống Mỹ”, “bày tỏ niềm hy vọng chân thành rằng tất cả các dân tộc
tự do trên thế giới… sẽ công nhận nền độc lập của nước Cộng hòa [dân chủ] Việt
Nam và đặt dấu chấm hết cho cuộc xung đột giết chóc ở Nam Việt Nam”[8].
Trong thư đề ngày 18-1-1946 gửi Truman, Hồ Chí
Minh một lần nữa “nhiệt liệt hoan nghênh diễn văn ngày 28-10-1945 của Truman
trong đó tổng thống Mỹ đề ra những nguyên tắc tự quyết và bình đẳng về địa vị mà
các Hiến chương Đại Tây Dương và San Francisco đã xác nhận… Nhân danh nhân dân
và Chính phủ Việt Nam, ông yêu cầu Truman can thiệp để có ngay một giải pháp cho
vấn đề Việt Nam. Ông viết: nhân dân Việt Nam tha thiết hi vọng rằng nước Cộng
hòa Mỹ vĩ đại sẽ giúp họ đạt được độc lập hoàn toàn và ủng hộ họ trong công cuộc
tái thiết”[9].
Ngày 16-2, Hồ Chí Minh nhờ nhà ngoại giao Mỹ
Kenneth Landon (đang có mặt tại Hà Nội) chuyển cho Truman một bức thư, tố cáo
“thực dân Pháp… đang tiến hành một cuộc chiến tranh tàn sát và không thương xót
đối với chúng tôi hòng lập lại ách thống trị của họ”. Khẳng định “sự xâm lược
này là một thách thức đối với thái độ đáng kính trọng mà Chính phủ và nhân dân
Hoa Kỳ đã bày tỏ trước, trong và sau chiến tranh. Nó đối chọi với lập trường
vững chắc mà Ngài đã nêu lên trong bản tuyên bố 12 điểm và với tính cao thượng
và khoan dung lý tưởng mà phái đoàn của Ngài… đã bày tỏ trước Đại hội đồng Liên
hợp quốc”, Hồ Chí Minh yêu cầu Mỹ “thực hiện một bước quyết định ủng hộ nền độc
lập của chúng tôi”[10].
Ngày 18-2, trong công hàm gửi Chính phủ Mỹ và
chính phủ các cường quốc khác (Liên Xô, Trung Hoa và Anh), Hồ Chí Minh đề nghị
các nước “thực hiện tất cả những bước đi thích hợp để, bằng sự can thiệp khẩn
cấp, ngăn chặn cuộc đổ máu đang diễn ra ở Nam Việt Nam, đi tới một giải pháp cấp
bách và hợp lý cho vấn đề Đông Dương” và “đưa vấn đề Đông Dương ra trước tổ chức
Liên hiệp quốc”
[11].
Ngày 28-2, đúng vào lúc Chính phủ Trùng Khánh ký
hiệp ước cho phép quân Pháp vào phía bắc vĩ tuyến 16 thay chân quân Trung Hoa,
Hồ Chí Minh gửi cho Truman một bức điện “tha thiết kêu gọi cá nhân Ngài và nhân
dân Mỹ khẩn trương can thiệp nhằm ủng hộ nền độc lập của chúng tôi”[12].
Trong các thư và điện nói trên, Hồ Chí Minh đặt
niềm tin và hi vọng ở người Mỹ mà ông gọi là “những người bảo vệ và chiến đấu
cho công lý thế giới” (guardians and champions of World Justice) – và
khẳng định “mục tiêu của chúng tôi là độc lập hoàn toàn và hợp tác toàn diện
với Hoa Kỳ” (our goal is full independence and full cooperation
with the United States)[13].
Cũng như
Roosevelt trước kia, Truman và các ngoại trưởng của ông không trả lời những
thông điệp của Hồ Chí Minh.
“TRONG MỌI TRƯỜNG HỢP, ĐỐI VỚI ĐÔNG DƯƠNG, CHÍNH
PHỦ CỦA TÔI KHÔNG CHỐNG LẠI VIỆC CHÍNH QUYỀN VÀ QUÂN ĐỘI PHÁP QUAY TRỞ LẠI XỨ
ẤY”
- Harry
S. Truman nói với Charles de Gaulle (Washington, D.C., 24-8-1945)
Khi cuộc
chiến tranh nóng chống Đức quốc xã và phát-xít Nhật chưa ngã ngũ thì mầm mống
của chiến tranh lạnh với Liên Xô đã phát sinh. Mỹ xem Liên Xô là kẻ thù mới, có
thể đe dọa thế lực và quyền lợi của Mỹ trên thế giới.
Bộ ngoại
giao Mỹ và Cơ quan tình báo OSS khuyên tổng thống Roosevelt bỏ chủ
trương “đặt Đông Dương sau chiến tranh dưới chế độ ủy trị quốc tế” – một chủ
trương bị Pháp cực lực phản đối – để lôi kéo Pháp (và các nước Tây Âu khác) về
phe của Mỹ chống lại khối Xô-viết.
Roosevelt
quyết định thay đổi chính sách đối với Đông Dương. Tại Hội nghị các cường quốc
họp tại Dumbarton Oaks gần Washington, D.C. từ 21-8 đến 28-9-1944, “Mỹ đưa ra
một đề nghị mới về cách xử lý các khu vực phụ thuộc [chưa độc lập] sau chiến
tranh. Theo đề nghị đó, chế độ ủy trị chỉ được thành lập trong ba trường hợp:
- Các lãnh
thổ lúc đó đang nằm dưới sự ủy trị của Hội quốc liên;
- Các lãnh
thổ lấy của kẻ thù do chiến tranh;
- Các lãnh thổ tự nguyện đặt dưới hệ thống [ủy
trị] bởi những nhà nước có trách nhiệm cai trị nó”[14].
Đông Dương nằm trong trường hợp thứ ba. Như vậy
“Đông Dương chỉ có thể trở thành xứ ủy trị quốc tế nếu được Pháp cho phép”[15],
điều mà Pháp không đời nào làm. Do đó, không phải “chủ trương ủy trị quốc tế
cùng chết với Roosevelt” như một số tác giả viết; nói đúng hơn, nó đã bị chính
cha đẻ của nó để cho chết khi ông vẫn còn sống.
Nửa thế kỷ sau, nguyên bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ
Robert S. McNamara giải thích: “Mỹ ngầm bằng lòng cho Pháp quay trở lại Đông
Dương vì sợ rằng một sự rạn nứt [trong quan hệ] Mỹ – Pháp sẽ khiến cho việc
ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô ở châu Âu trở nên khó khăn hơn”[16].
Ngày 12-4-1945, Roosevelt qua đời vì xuất huyết
não. “Trong chưa đầy một tháng, chính quyền Truman tuyên bố rõ ràng rằng Mỹ công
nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương và các viên chức cao cấp phụ trách chính
sách đối ngoại của Mỹ không phản đối sự phục hồi quyền lực của Pháp”[17].
Chỉ một tuần lễ sau ngày Hà Nội được giải phóng,
24-8-1945, Truman tiếp kiến tướng de Gaulle tại Nhà Trắng. Tính theo giờ Việt
Nam, đó là ngày 25-8-1945, đúng vào lúc hàng chục vạn người đang xuống đường
trong “một cuộc biểu tình quần chúng mà Sài Gòn chưa từng chứng kiến trước đó”[18],
quyết tâm lật đổ ách thống trị ngoại bang. Một lần nữa, Truman khẳng định với de
Gaulle lập trường của Mỹ: “Trong mọi trường hợp, đối với Đông Dương, chính phủ
tôi không chống lại việc chính quyền và quân đội Pháp quay trở lại xứ ấy”[19].
Truman giải thích: “Từ nay trở đi, sự chống đối giữa thế giới tự do và thế giới
Xô-viết vượt lên trên mọi thứ. Vì vậy điều chủ yếu là tránh những chuyện tranh
cãi giữa các nước [tư bản] với nhau và những xáo động cách mạng, để tất cả những
gì không phải là cộng sản sẽ không trở thành cộng sản”[20].
Mười ngày sau, 2-9-1945, trong khi nhân dân Việt
Nam từ Bắc chí Nam hân hoan cử hành lễ Độc lập, tướng Douglas MacArthur (Mỹ)
khuyên tướng Leclerc (Pháp) khi hai người cùng đến dự lễ ký văn kiện đầu hàng
của Nhật trên chiến hạm Missouri đậu trong vịnh Tokyo (Nhật Bản): “Anh hãy mang
quân sang [Việt Nam], mang thêm nhiều hơn nữa, có khả năng bao nhiêu thì mang
quân sang bấy nhiêu”[21].
Được Mỹ
bật đèn xanh, được Anh giúp đỡ, Pháp tỏ ra hăng hái trong việc mở cuộc chiến
tranh tái chiếm Đông Dương.
Nhưng, như nhận định của giáo sư sử học người Mỹ
George McTurnan Kahin, “nước Pháp sau chiến tranh [thế giới thứ hai] bị tàn phá
nặng nề, không có cả trang bị quân sự lẫn nguồn tài chính, nên không thể tiến
hành một nỗ lực quân sự lớn ở Đông Dương”[22].
Anh cũng gặp khó khăn không kém gì Pháp. Chỉ có Mỹ là nước duy nhất có thể giúp
Pháp.
Trong cuộc hội đàm với de Gaulle cuối tháng 8-1945
nói trên , Truman đồng ý cho Pháp vay dài hạn 650 triệu đô-la[23].
Tháng 5 năm sau, Mỹ xóa món nợ 1 tỉ 800 triệu đô-la mà Pháp đã vay trong thế
chiến, đồng thời cho Pháp vay thêm 500 triệu đô-la thông qua Ngân hàng quốc tế
tái thiết và phát triển IBRD[24].
Mỹ cũng cung cấp cho Pháp một lượng vũ khí hiện
đại[25].
Giữa tháng 3-1946, khi Anh rút quân khỏi miền nam Đông Dương, Truman đồng ý để
cho Anh giao lại cho Pháp nhiều trang bị quân sự trị giá hơn 70 triệu đô-la,
trong đó có khoảng 800 xe quân sự của Mỹ cho Anh thuê và mượn, “lấy cớ rằng
không thể di chuyển các trang bị này” ra khỏi Việt Nam[26].
Mỹ cung cấp cho Pháp 8 tàu chiến để chở Sư đoàn bộ
binh thuộc địa số 9 sang tăng viện cho Sài Gòn[27].
Ngoài ra, “Washington còn cung cấp tiền bạc cho Paris để giúp Pháp mua 75 tàu
chở quân của Mỹ”[28].
Nhà báo Mỹ Harold Isaacs – có mặt trong số những nhà báo Mỹ đầu tiên đến Việt
Nam sau khi chiến tranh kết thúc – tường thuật: “Một loạt tàu của Mỹ, treo cờ
Mỹ, do thủy thủ Mỹ điều khiển. Từ những tàu này, lính Pháp lên bờ, mặc quân phục
do Mỹ sản xuất, mở các cuộc tiến công đầu tiên với vũ khí, xe tăng, xe vận tải
và xe jeep do Mỹ cho thuê, cho mượn”[29].
Nhà sử học Mỹ Joseph Buttinger nhận định: “Việc Mỹ giúp tàu bè chuyên chở khiến
cho Pháp có đủ quân lính tới Sài Gòn để đánh bại cuộc cách mạng trong Nam”[30].
Không chỉ giúp Pháp chiếm miền Nam Việt Nam, Mỹ
còn ủng hộ ý đồ của Pháp chiếm cả miền Bắc. Theo giáo sư Kahin, “ít ra là từ
cuối tháng 9-1945, Mỹ đã kêu gọi Trung Hoa [Dân quốc] để cho Pháp dễ dàng thu
hồi quyền lực [ở miền Bắc]. Lúc đó, [tướng Mỹ Philip E. Gallagher] cam kết sẽ
thúc đẩy [tướng Trung Hoa] Lư Hán giúp Pháp lấy lại quyền kiểm soát nửa phía bắc
của Việt Nam”[31].
Kết quả là Trung Hoa rút quân về nước, nhường chỗ cho quân Pháp vào miền Bắc.
“Quân lính của Leclerc (được chuyên chở, vũ trang và trang bị với số lượng lớn
bằng quân cụ cho thuê – cho mượn của Mỹ) chiếm đóng các thành phố lớn của Việt
Nam[32].
Nhà báo Mỹ Harold Isaacs nhận xét: “Đối với người Việt Nam, điều đó có vẻ như Mỹ
bảo kê cho Pháp tái chiếm [Việt Nam]”[33].
McNamara thừa nhận: “Trong thực tế, trong thập
niên sau đó, chúng ta đã tài trợ hoạt động quân sự của Pháp chống lại lực lượng
của Hồ Chí Minh”[34]
đến độ tiến sĩ Daniel Ellsberg kết luận: chiến tranh Việt Nam “đã là một cuộc
chiến tranh của Mỹ hầu như ngay từ khi bắt đầu: trước hết là chiến tranh Pháp –
Mỹ, cuối cùng là chiến tranh hoàn toàn Mỹ”[35].
HÀNG TRIỆU NGƯỜI – VIỆT NAM, PHÁP, MỸ, HÀN, THÁI
LAN… – ĐÃ CÓ THỂ KHÔNG THIỆT MẠNG VÌ CHIẾN TRANH
Trong bữa cơm tiễn thiếu tá Mỹ Archimedes L.A.
Patti về nước tổ chức tại Bắc Bộ Phủ tối 30-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh “bày
tỏ hi vọng Mỹ sẽ kiềm chế ý đồ thực dân của Pháp. Ông nói rằng nếu Mỹ chỉ cần
dùng ảnh hưởng của mình đối với De Gaulle thì cũng có thể đạt được một thỏa hiệp
tạm thời ở Việt Nam mà trong đó không chỉ riêng Pháp mà tất cả các nước bạn bè
đều có lợi từ nền độc lập của Việt Nam”[36].
Hi vong của Hồ Chí Minh ở “chủ nghĩa chống thực
dân” của Mỹ không được đáp ứng. Mỹ khước từ khát vọng độc lập và tự do của nhân
dân Việt Nam. Ngược lại, họ thỏa mãn yêu sách thực dân của Pháp. Hồ Chí Minh tâm
sự với nhà báo Mỹ Harold Isaacs: “Chúng tôi tiếc rằng Mỹ đã tiếp tế khí giới
cho Pháp giết hại người chúng tôi, phá phách xứ sở chúng tôi”[37].
Gần bốn thập niên sau, luật gia Mỹ Joseph Amter
viết: “Nếu được Mỹ ủng hộ, Hồ Chí Minh có thể đã thành lập ở Việt Nam một
chính phủ tuy cộng sản nhưng vẫn hữu nghị với Mỹ. Là một người có tinh thần dân
tộc mãnh liệt, Hồ Chí Minh không muốn Việt Nam bị (…) bất cứ cường quốc thực dân
nào thống trị. Nếu lúc đó Mỹ ủng hộ Hồ Chí Minh, Mỹ đã có thể tránh được một
cuộc chiến tranh tốn kém và bi thảm ở Việt Nam những năm về sau”[38].
Chiến
tranh Việt Nam không phải là một “định mệnh” không thể tránh được. Chiến tranh
đã có thể không xảy ra, hàng triệu người Việt, người Pháp, người Mỹ, người Hàn,
người Thái Lan… đã có thể không thiệt mạng vì bom đạn.
Ngày nay,
chúng ta nhắc lại chuyện cũ, không phải để tiếc nuối vì đã bỏ lỡ một cơ hội tốt
đẹp cho quan hệ giữa hai nước trong quá khứ, mà nhằm rút ra một bài học hữu ích
cho hiện tại và để tránh những sai lầm tương tự trong tương lai.
TS.
Phan Văn Hoàng
[1]
Harold Isaacs, No Peace for Asia, NXB Doubleday, New York, 1947, tr.
175.
[2]
Philippe Devillers, Histoire du Vietnam de 1940 à 1952, NXB Seuil,
Paris, 1952, tr. 109.
[3]
William J. Duiker, US Containment Policy and the Conflict in Indochina,
Stanford University Press xuất bản, California, 1994, tr. 22, 23.
[4] Báo
Time (Mỹ), ngày 12-9-1969.
[5]
Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập
IV, tr. 68-71.
[6]
Harry S. Truman, Memoirs, tập I: Year of Decisions, NXB The New American
Library, New York, 1955, tr. 589-590.
[7]
Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập IV, tr. 82-83.
[8]
Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập IV, tr. 109.
[9] Bộ
quốc phòng Mỹ, United States – Vietnam Relations 1945-1967, U.S.
Government Printing Office, Washington D.C., 1971, tập I, tr. C-94.
[10]
Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập IV, tr. 176-177.
[11]
Hồ Chí Minh toàn tập, sđd, tập IV, tr. 182.
[12]
Hoàng Anh (Phan Văn Hoàng), “Một tư liệu lịch sử chưa được công bố”, Đặc san
Sài Gòn giải phóng Tết Dương lịch 2006, tr. 8.
[13] Bộ
quốc phòng Mỹ, United States – Vietnam Relations 1945-1967, sđd, tập
I, tr. C-96, 97.
[14]
William J. Duiker, US Containment Policy and the Conflict in Indochina,
sđd, tr. 24.
[15]
William J. Duiker, US Containment Policy and the Conflict in Indochina,
sđd, tr. 24.
[16]
Robert S. McNamara, In Retrospect – The Tragedy and Lessons of Vietnam,
NXB Times Books, New York, 1995, tr. 31.
[17]
George McTurnan Kahin, Intervention – How America Became Involved in
Vietnam, NXB Alfred A. Knopf, New York, 1986, tr. 4.
[18]
Joseph Buttinger, Vietnam, A Dragon Embattled, NXB Praeger, New York,
1967, tập I, tr. 313.
[19]
Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, NXB Plon, Paris, 1959, tập
III, tr. 249-250.
[20]
Charles de Gaulle, sđd, tập III, tr. 245.
[21]
Philippe Devillers, sđd, tr. 150.
[22]
George McTurnan Kahin, sđd, tr. 7.
[23]
Charles de Gaulle, sđd, tập III, tr. 249.
[24]
Serge Berstern và Pierre Milza, Histoire de la France au XXe siècle,
NXB Complexe, Paris, 1991, tập III, tr. 157.
[25]
George McTurnan Kahin, sđd, tr. 8.
[26]
The Pentagon Papers (ấn bản của Thượng nghị sĩ Gravel), NXB Beacon
Press, Boston, 1971, tập I, tr. 18.
[27]
David G. Marr, Vietnam 1945 – The Quest for Power, University of
California Press xuất bản, 1995, tr. 545
[28]
George McTurnan Kahin, sđd, tr. 8.
[29]
Harold Isaacs, No Peace for Asia, sđd, tr. 161.
[30]
Joseph Buttinger, Vietnam, A Dragon Embattled, NXB Praeger, New York,
1967, tập I, tr. 343. Thật ra, cuộc cách mạng trong Nam chỉ gặp khó khăn,
chứ không bị đánh bại.
[31]
George McTurnan Kahin, sđd, tr. 19.
[32]
Archimedes L.A. Patti, Why Vietnam?, University of California Press
xuất bản, 1980, tr. 382.
[33]
Harold Isaacs, No Peace for Asia, sđd, tr. 175.
[34]
Robert S. McNamara, In Retrospect – The Tragedy and Lessons of Vietnam,
sđd, tr. 31.
[35]
Daniel Ellsberg, Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers,
sđd, tr. 255.
[36]
Archimedes L.A. Patti, Why Vietnam?, sđd, tr. 368.
[37]
Báo Cứu Quốc, số 1183, ngày 5-3-1949.
[38]
Joseph A. Amter, Vietnam Verdict, NXB Continium, New York, 1982, tr.
19.
All presidencies feature missed opportunities.
When Ho Chi Minh wrote President Truman
By David Jackson, USA TODAY
Updated 2012-02-28 12:25 PM
On Feb. 28, 1946 -- 66 years ago today -- President Harry Truman received a telegram from an Asian leader who would come to play a major, major role in U.S. foreign policy.
Ho Chi Minh.
Ho asked Truman to help the fledgling Vietnamese nation in its battle with French colonialists.
"I therefore most earnestly appeal to you personally
and to the American people to interfere urgently in support of our
independence and help making the negotiations more in keeping with the
principles of the Atlantic and San Francisco charters," said the
telegram.
The request was ignored.
To be fair, the U.S. also ignored French pleas for help when Vietnam kicked them out of the country in 1954.
But
the U.S. gradually became involved in Vietnam's civil war between
Ho-led communists and pro-U.S, forces, leading to the war that in some
ways still haunts American actions abroad.
The National Archives made the Ho telegram its document of the day for today.
Chap Omatic
GMAP P230, International Politics
Prof. Lee
In the discussion board for the class,
much was made of the decisions the Truman administration made to not meet with
Asian Communist leaders shortly after World War Two. Two specific examples were Ho Chi Minh of Communist Viet Nam, who
at one point approached the United States, and Mao Tse Tung of Communist China,
who also was rebuffed about the time Chiang Kai-Shek was routed from mainland
China. This paper sketches the
circumstances surrounding both attempts at contact, describes some of the
common feeling in the Truman administration that colored the decisions, and
attempts to characterize situations that would have changed those decisions.
Communist China and the Truman Administration
In January 1945, Chou En-Lai and Mao
Tse Tung jointly sent a communiqué from Yenan, offering to travel to the United
States to discuss the future of China.
World War Two was still raging as well as a civil war, and there was a
significant amount of intrigue amongst the different factions inside China as
well as fighting against the Japanese.
The factions inside China broadly narrowed down to the Kuomintang,
Chinese nationalists led by Chiang Kai-Shek, and the Chinese Communists, led
primarily by Mao Tse Tung. Chiang had
already been a presence in the United States.
Both he and his wife were regarded as safe, known quantities despite
their corruption and weak organization.
Mao and Chou, on the other hand, were well known to China hands[1],
but not to Washington hands. When the
U.S. Army General Joseph Stillwell was relieved by General Patrick Hurley as a
result of Chiang’s insistence on a more sympathetic troop commander, the
American mood in China changed from a pragmatic, sympathetic attitude towards
the Communists, to a view that the Communists were too weak and small to be
regarded and just like the Soviets as a threat. As the civil war within China simultaneously was fought along
with the war against the Japanese, the belief of weak Communists spread to the
rest of the United States. U.S. Army
units didn’t fight much alongside the People’s Liberation Army, either;
official Army histories barely mention the presence of the Chinese Communists
in the same theater of operations.[2] Hurley facilitated the derailing of any
potential rapprochement between Chinese Communists and Americans, with the
support of virulent anti-Communists in Congress. Hurley, despite being fired by Truman upon making his
accusations, spearheaded a drive to not only reject Mao but also to ostracize
the American fighters and diplomats in China who predicted the Communist
victory and recommended contact with the Communists.[3]
Details about what actually happened in
the U.S. State Department about China at the end of World War Two were
essentially suppressed until decades later.
The 1944 log was not released to the public until 1967, and the 1946 log
was not released until the year President Nixon visited China.[4] The decisions were considered so sensitive
(especially in the context of “losing China”) that the subject just wasn’t
mentioned for years.
There were other considerations
affecting the issue. The Soviets well
knew that they could more easily acquire industrial aid by stealing it from the
Chinese mainland immediately after the Japanese surrender, and played both
sides to have a more sympathetic government in China. The American worry about the Communist aggression after WWII also
helped to color views of Chinese Communists; COMINTERN efforts to spread
governments friendly to the Soviet Union were assisting more overt efforts all
over the world. To add to the frenzy,
the House Un-American Activities Committee witch hunt had started in full
swing, preventing more experienced views such as those of John Davies or John
Service from carrying the day.
It appears that the timing of the chaos
of the war, the start of the Red scare, the public campaign in favor of Chiang,
the Yalta decision to ignore the Chinese Communists, and the concentration of
American China experts outside the United States all worked together to drive
the decision to rebuff the Communists.
Ho Chi Minh and the Truman Administration
In February of 1946, a telegram from
Ho Chi Minh to President Truman stated, in part:
“I THEREFORE MOST EARNESTLY APPEAL TO YOU PERSONALLY
AND TO THE AMERICAN PEOPLE TO INTERFERE URGENTLY IN SUPPORT OF OUR INDEPENDENCE
AND HELP MAKING THE NEGOTIATIONS MORE IN KEEPING WITH THE PRINCIPLES OF THE
ATLANTIC AND SAN FRANCISCO CHARTERS.”[5]
So
why did this telegram get ignored? A
different view of the world than today that considered Vietnam unworthy of
independent life, a perceived need to support the recently liberated France in
rebuilding to its former state, the limited appeal of Ho to American decision
makers, and no champion for the Vietnamese Communists in the decision making
process swiftly killed any consideration of assistance.
The
French had been requesting American assistance for at least a year
earlier. The same American fighters
involved in China were giving token support to the French, who were trying to
expel the Japanese and Chinese from Vietnam.[6] There was a strong push from the French to
support the French effort, and not much of a push inside the US to support the
Vietnamese. Very few meetings took
place even in Vietnam between the Americans and the North Vietnamese[7]. Clark Clifford, former Special Assistant to
President Truman, recalls Indochina as having been a minor issue compared to
all the other postwar issues at the time.
He later recalled the general feeling in the administration about
Indochina:
“It
was more the attitude that now that the Second World War was over, we would
attempt to help the nations of Western Europe reconstruct. France had owned
Indochina. The reason they'd lost it was due to Japanese aggression. We were, I
believe, attempting to take those steps which would tend to return areas of
that kind to the status quo. I don't recall taking part in any kind of
discussion or policy debate about whether we should assist the French in their
colonial or imperialist attitude. I would be rather surprised if there was much
of a debate in that regard because it seemed to me to be the rather settled
policy that we were attempting
to return conditions to those that had existed prior to the changes that had
taken place in the Second World War as the result of Communist
aggression--Communist or Japanese aggression.”[8]
Other former colonies, such as
Indonesia, got a different reaction within the Truman administration. Other administration officials such as
Frederick Nolting later compared the difference between the Vietnam and
Indonesia questions, concluding that Indonesia’s Sukarno was regarded “rightly
or wrongly” as a nationalist, while Ho was anything but. Nolting also pointed out that the Dutch and
French offices were actually two different organizations within State, and the
offices acted differently in each situation.[9]
The North Vietnamese situation with Ho
Chi Minh is contemporary to the Chinese situation with Chou En-Lai and Mao Tse
Tung, and many of the timing issues discussed previously are germane to
both. For Vietnam, though, there wasn’t
even a group of Americans in North Vietnam who deeply knew the situation, and
not only the Soviets but also the French were intervening in the
situation. Only deeper knowledge of the
situation, a better counter to French pressure on the United States, and a
reassessment of the importance of Vietnamese independence, would have saved Ho
from the 1946 rebuff.
[1] Such as
interactions between Chou, Mao, and Gen. Henry Byroade, as described in
interview by Neil Johnson, oral history transcript, Truman Library, September
1988.
[2] An example
description is in Theresa L. Kraus, China Offensive: The U.S. Army Campaigns
of W.W.II. U.S. Army Center for Military History brochure, September 2000.
[3] Davies, John
Paton, Dragon By The Tail: American, British, Japanese, and Russian
Encounters With China and One Another.
W.W. Norton, New York, 1972.
[4] John
Gitlings, “A Shameful Tale”. Review of Dragon
By The Tail, as cited above. New
York Review of Books, 16 November 1972, pp. 7-12.
[5] Letter from
Ho Chi Minh to President Harry S Truman, 28 Feb 1946. Record Group 226, Office of Strategic Services files, 1919-1948,
United States National Archives and Records Administration.
[6] Philip F.
Dur, "The American Ambassador's Views of French Policies in Indochina,
1946-1949," Proceedings of the Sixth and Seventh Annual Meetings of the
French Colonial Historical Society, 1980- 1981, ed. James J. Cooke (Washington,
DC: University Press of America, 1982)
[7] Dur, ibid.
[8] Interview of
Clark Clifford by Jerry Hess, July 1971, Truman Library, oral history.
[9] Interview of
Frederick Nolting by Richard D. McKinzie, June 1975, Truman Library, oral
history.
Why did President Truman refuse Hos requests for help against the French?
Answer:
President Truman refused
Ho Chi Minh's request for help against the French because Truman viewed
France as a vital ally in the struggle against the spread of communism
in postwar Europe. He also was unwilling to back the Vietminh because
of Ho's Communist Party connections.
All men are created equal. They are endowed by their Creator with certain unalienable Rights; among these are Life, Liberty, and the pursuit of Happiness."
This immortal statement was made in the Declaration of Independence of the United States of America in 1776. In a broader sense, this means: All the peoples on the earth are equal from birth, all the peoples have a right to live, to be happy and free.
The Declaration of the French Revolution made in 1791 on the Rights of Man and the Citizen also states: "All men are born free and with equal rights, and must always remain free and have equal rights." These are undeniable truths.
Nevertheless, for more than eighty years, the French imperialists, abusing the principles of Freedom, Equality, and Fraternity have violated our Fatherland and oppressed our fellow-citizens. They have acted contrary to the ideals of humanity and justice.
In the field of politics, they have deprived our people of every democratic liberty. They have enforced inhuman laws; they have set up three distinct political regimes in the North, the Center and the South of Vietnam in order to wreck our national unity and prevent our people from being united.
They have built more prisons than schools. They have mercilessly slain our patriots; they have drowned our uprisings in rivers of blood.
They have fettered public opinion; they have practiced obscurantism against our people.
To weaken our race they have forced us to use opium and alcohol. In the field of economics, they have fleeced us to the backbone, impoverished our people, and devastated our land.
They have robbed us of our rice fields, our mines, our forests, and our raw materials. They have monopolized the issuing of bank-notes and the export trade. They have invented numerous unjustifiable taxes and reduced our people, especially our peasantry, to a state of extreme poverty.
They have hampered the prospering of our national bourgeoisie; they have mercilessly exploited our workers.
In the autumn of 1940, when the Japanese Fascists violated Indochina's territory to establish new bases in their fight against the Allies, the French imperialists went down on their bended knees and handed over our country to them. Thus, from that date, our people were subjected to the double yoke of the French and the Japanese. Their sufferings and miseries increased. The result was that from the end of last year to the beginning of this year, from Quang Tri province to the North of Vietnam, more than two million of our fellow-citizens died from starvation. On March 9, the French troops were disarmed by the Japanese. The French colonialists either fled or surrendered showing that not only were they incapable of "protecting" us, but that, in the span of five years, they had twice sold our country to the Japanese.
On several occasions before March 9, the Vietminh League urged the French to ally themselves with it against the Japanese. Instead of agreeing to this proposal, the French colonialists so intensified their terrorist activities against the Vietminh members that before fleeing they massacred a great number of our political prisoners detained at Yen Bay and Caobang.
Notwithstanding all this, our fellow-citizens have always manifested toward the French a tolerant and humane attitude. Even after the Japanese putsch of March 1945, the Vietminh League helped many Frenchmen to cross the frontier, rescued some of them from Japanese jails, and protected French lives and property. From the autumn of 1940, our country had in fact ceased to be a French colony and had become a Japanese possession.
After the Japanese had surrendered to the Allies, our whole people rose to regain our national sovereignty and to found the Democratic Republic of Vietnam. The truth is that we have wrested our independence from the Japanese and not from the French.
The French have fled, the Japanese have capitulated, Emperor Bao Dai has abdicated. Our people have broken the chains which for nearly a century have fettered them and have won independence for the Fatherland. Our people at the same time have overthrown the monarchic regime that has reigned supreme for dozens of centuries. In its place has been established the present Democratic Republic.
For these reasons, we, members of the Provisional Government, representing the whole Vietnamese people, declare that from now on we break off all relations of a colonial character with France; we repeal all the international obligation that France has so far subscribed to on behalf of Vietnam and we abolish all the special rights the French have unlawfully acquired in our Fatherland.
The whole Vietnamese people, animated by a common purpose, are determined to fight to the bitter end against any attempt by the French colonialists to reconquer their country.
We are convinced that the Allied nations which at Tehran and San Francisco have acknowledged the principles of self-determination and equality of nations, will not refuse to acknowledge the independence of Vietnam.
A people who have courageously opposed French domination for more than eight years, a people who have fought side by side with the Allies against the Fascists during these last years, such a people must be free and independent. For these reasons, we, members of the Provisional Government of the Democratic Republic of Vietnam, solemnly declare to the world that Vietnam has the right to be a free and independent country--and in fact is so already. The entire Vietnamese people are determined to mobilize all their physical and mental strength, to sacrifice their lives and property in order to safeguard their independence and liberty.
Source:
Ho Chi Minh, Selected Works, 4 vols (Hanoi: Foreign Languages Publishing House, 1960 1962), 3: 17 - 21.
See Porter, pp. 28 - 30.
See Vietnam and America, pp. 26 - 28.
Ho’s Letter to President Truman in September 1945
Ho Chi Minh declared the independence of Vietnam after the Second World
War ended. His declaration began by citing the American Declaration of
Independence. It would not be the last time that Ho sought American
sympathy and support in the next few years.
All men are created equal. They are endowed by their Creator with certain unalienable Rights; among these are Life, Liberty, and the pursuit of Happiness."
This immortal statement was made in the Declaration of Independence of the United States of America in 1776. In a broader sense, this means: All the peoples on the earth are equal from birth, all the peoples have a right to live, to be happy and free.
The Declaration of the French Revolution made in 1791 on the Rights of Man and the Citizen also states: "All men are born free and with equal rights, and must always remain free and have equal rights." These are undeniable truths.
Nevertheless, for more than eighty years, the French imperialists, abusing the principles of Freedom, Equality, and Fraternity have violated our Fatherland and oppressed our fellow-citizens. They have acted contrary to the ideals of humanity and justice.
In the field of politics, they have deprived our people of every democratic liberty. They have enforced inhuman laws; they have set up three distinct political regimes in the North, the Center and the South of Vietnam in order to wreck our national unity and prevent our people from being united.
They have built more prisons than schools. They have mercilessly slain our patriots; they have drowned our uprisings in rivers of blood.
They have fettered public opinion; they have practiced obscurantism against our people.
To weaken our race they have forced us to use opium and alcohol. In the field of economics, they have fleeced us to the backbone, impoverished our people, and devastated our land.
They have robbed us of our rice fields, our mines, our forests, and our raw materials. They have monopolized the issuing of bank-notes and the export trade. They have invented numerous unjustifiable taxes and reduced our people, especially our peasantry, to a state of extreme poverty.
They have hampered the prospering of our national bourgeoisie; they have mercilessly exploited our workers.
In the autumn of 1940, when the Japanese Fascists violated Indochina's territory to establish new bases in their fight against the Allies, the French imperialists went down on their bended knees and handed over our country to them. Thus, from that date, our people were subjected to the double yoke of the French and the Japanese. Their sufferings and miseries increased. The result was that from the end of last year to the beginning of this year, from Quang Tri province to the North of Vietnam, more than two million of our fellow-citizens died from starvation. On March 9, the French troops were disarmed by the Japanese. The French colonialists either fled or surrendered showing that not only were they incapable of "protecting" us, but that, in the span of five years, they had twice sold our country to the Japanese.
On several occasions before March 9, the Vietminh League urged the French to ally themselves with it against the Japanese. Instead of agreeing to this proposal, the French colonialists so intensified their terrorist activities against the Vietminh members that before fleeing they massacred a great number of our political prisoners detained at Yen Bay and Caobang.
Notwithstanding all this, our fellow-citizens have always manifested toward the French a tolerant and humane attitude. Even after the Japanese putsch of March 1945, the Vietminh League helped many Frenchmen to cross the frontier, rescued some of them from Japanese jails, and protected French lives and property. From the autumn of 1940, our country had in fact ceased to be a French colony and had become a Japanese possession.
After the Japanese had surrendered to the Allies, our whole people rose to regain our national sovereignty and to found the Democratic Republic of Vietnam. The truth is that we have wrested our independence from the Japanese and not from the French.
The French have fled, the Japanese have capitulated, Emperor Bao Dai has abdicated. Our people have broken the chains which for nearly a century have fettered them and have won independence for the Fatherland. Our people at the same time have overthrown the monarchic regime that has reigned supreme for dozens of centuries. In its place has been established the present Democratic Republic.
For these reasons, we, members of the Provisional Government, representing the whole Vietnamese people, declare that from now on we break off all relations of a colonial character with France; we repeal all the international obligation that France has so far subscribed to on behalf of Vietnam and we abolish all the special rights the French have unlawfully acquired in our Fatherland.
The whole Vietnamese people, animated by a common purpose, are determined to fight to the bitter end against any attempt by the French colonialists to reconquer their country.
We are convinced that the Allied nations which at Tehran and San Francisco have acknowledged the principles of self-determination and equality of nations, will not refuse to acknowledge the independence of Vietnam.
A people who have courageously opposed French domination for more than eight years, a people who have fought side by side with the Allies against the Fascists during these last years, such a people must be free and independent. For these reasons, we, members of the Provisional Government of the Democratic Republic of Vietnam, solemnly declare to the world that Vietnam has the right to be a free and independent country--and in fact is so already. The entire Vietnamese people are determined to mobilize all their physical and mental strength, to sacrifice their lives and property in order to safeguard their independence and liberty.
Source:
Ho Chi Minh, Selected Works, 4 vols (Hanoi: Foreign Languages Publishing House, 1960 1962), 3: 17 - 21.
See Porter, pp. 28 - 30.
See Vietnam and America, pp. 26 - 28.
No comments:
Post a Comment