Nhà văn Sơn Tùng
và người yêu Nguyễn Tất Thành -
Thiên Sơn
và người yêu Nguyễn Tất Thành -
Thiên Sơn
Chủ nhật, 05 Tháng 12 2010 15:04
Email
In
PDF.
Hôm ấy, nhà văn Sơn Tùng bị vết thương hành hạ, những mảnh đạn
trong đầu cựa quậy, các vết thương lại rỉ máu. Ông phải nằm dưỡng sức
ngay trên tấm phản, cạnh những giá sách có hàng ngàn cuốn sách về văn
hoá đông tây, kim cổ.Tôi ngồi bên, cầm lấy bàn tay mà các ngón đã co
quắp lại vì mảnh đạn kẻ thù, lắng từng tiếng ông đều đều, thủ thỉ:
- Bác đã chuẩn bị đầy đủ tư liệu… Cố gắng để chống lại vết thương hoành
hành và viết cho bằng được tiểu thuyết “ Bông Huệ trắng”…
Giọng ông như từ xa vắng dội về. Đôi mắt ông hướng vào trong, mạch
hồi tưởng thức dậy cái chuỗi ngày ngót 60 năm về trước: Hồi ấy ông công
tác tại Tỉnh đoàn Nghệ An, thường đến gặp bà Nguyễn Thị Thanh và ông
Nguyễn Sinh Khiêm (chị gái và anh trai Bác Hồ) để tìm hiểu tư liệu.
Lúc đầu còn chưa biết gì về hoàn cảnh gia đình của Bác, nên hỏi mon
men từ ông nội bà nội, sang ông bà ngoại và những bước thăng trầm của
gia đình Bác Hồ trong tuổi ấu thơ cũng như những mối quan hệ để từ đó
hình dung về mạch nguồn đã tạo nên nhân cách và thiên tư của Người.
* * *
Có một điều băn khoăn từ rất lâu, khi đã trở nên gần gũi và được
tin cậy, chọn một thời điểm thích hợp, nhà văn Sơn Tùng hỏi bà Nguyễn
Thị Thanh:
- O ơi, cháu có điều này xin được hỏi O, mong o hiểu … cháu muốn được
thấu rõ những điều…
Bà Thanh tiếp lời:
- Cháu cứ hỏi, không phải e ngại, miễn là điều đó có thể nói được với
cháu thì O sẽ nói .
Sau phút do dự, nhà văn thổ lộ điều tâm sự của mình:
- Cháu biết điều này không dễ gì… Nhất là lại hỏi với người bề trên…
Nhưng mong O xá lỗi và cho cháu biết… Tại sao ba chị em O lại đều không
xây dựng gia đình? Có gì ẩn khuất sau chuyện này không hả O?
Bà Thanh quay nhìn ra khu vườn xanh. Ngọn gió chiều lao xao trên
tàu lá. Đôi mắt bà trở nên hoang vắng. Bà im lặng. Một niềm im lặng thẳm
sâu mà như nói lên biết bao điều. Lúc sau bà cất giọng trầm, nén bên
trong những rung cảm mãnh liệt:
- Hoàn cảnh nhà O… – Bà Thanh kìm một tiếng thở dài – Biết bao gian khó
hiểm nghèo… Có nói ra cháu chưa chắc đã hình dung hết được… Cậu Thành
thì đi xuất dương tìm con đường cứu nước. O và cậu Khiêm bị đi đày. Cậu
Khiêm bị thực dân Pháp tra tấn dã man và tìm cách triệt nòi giống bằng
cách tiêm thuốc… Khi ra tù thì tuổi đã cao, có những nỗi niềm u uẩn…
Bà Thanh như nghẹn lại, mắt ứa lệ:
- O đã già, không dễ gì ngồi nói lại những chuyện này với một người trẻ
tuổi như cháu. Nhưng biết cháu là một người có thể thấu hiểu thì o mới
nói- Cũng như cậu Khiêm, O cũng bị kẻ thù tra tấn dã man. Cháu có tưởng
tượng được không? Chúng nung đỏ chiếc mâm đồng… Một chiếc mâm đồng nung
đỏ mà chúng bắt O ngồi lên đó… Một nỗi đau đớn đến tận cùng xuyên sâu từ
da thịt vào xương tủy… Nhiều ngày sau đó O không đi lại được… Vết bỏng
đã làm biến dạng cả cơ thể, xoắn vặn cả tâm hồn O. Vậy thì, làm sao O có
thể có gia đình được nữa…
Nhà văn Sơn Tùng lặng lẽ nhìn người chị gái của Bác Hồ. Dường như O
Thanh vừa trải qua một cơn rùng mình. Chẳng biết nói gì hơn, ông kiên
nhẫn đợi cho đến lúc bà Thanh bình tâm trở lại, giọng bà vẫn trầm trầm
nhưng đã qua cơn ức nghẹn dần trở nên man mác:
- Tuổi xuân của O suy nghĩ về công việc cứu nước. Noi gương cụ Phan Bội
Châu bỏ gia đình mà đi bôn ba hải ngoại… Hồi ấy O cũng có những đám hỏi.
Cha O cũng đánh tiếng… Có một đám bên Hà Tĩnh… Người ta đã mang lễ vật
đến… Nhưng O đội mâm đi trả. Một thời gian sau, cha O bị huyền chức đi
luôn vào xứ Nam kỳ. Cậu Khiêm sau một thời gian hoạt động thì bị bắt…
Cậu Thành gác việc riêng lại để lo cứu nước. Khi cậu đi xuất dương O
không biết. Chỉ biết trước đó cậu đã vào Phan Thiết, dạy ở Trường Dục
Thanh, chỗ ông Hồ Tá Bang- người thân thiết của cha O hồi ở Huế.
Hồ Tá Bang làm ký lục tại Phan Thiết, đồng thời là sáng lập viên
công ty nước mắm Liên Thành và Trường Dục Thanh. Trường Dục Thanh có
nhiều thầy giáo là người khoa bảng có tư tưởng tiến bộ.
Cậu Khiêm ra tù năm 1920, và O đến năm 1922 cũng mới được ra, nhưng
cả hai chị em đều bị quản thúc. Tin tức về những người thân trong gia
đình đều bặt hết.
Mãi đến năm Kỷ Tỵ 1929, O đang bị quản thúc ở Kim Luông thì nhận
được giây thép (bức điện) của gia đình cụ Hồ Tá Bang từ Sài Gòn ra, báo
cho biết cha O đã qua đời tại xã Hoà An, Huyện Cao Lãnh, Sa Đéc. Và thế
là O lo liệu vượt mọi khó khăn để vào hộ tang cha.
Hồi ấy vào Nam cũng giống như đi sang một nước khác. Không biết bao
nhiêu là khó khăn chồng chất. Khi O vào đến nhà số 3, đường Ông Đốc
Phương, có người của cụ Hồ Tá Bang dẫn O lên Gò Vấp.
Đó là một vùng mênh mông và hoang vu, trại cày của cụ Diệp Văn
Cương (cha của nhà báo Diệp Văn Kỳ). Người ở đây nói hãy đợi Lê Thị Huệ
lên dẫn O xuống Cao Lãnh. O muốn tự đi nhưng mọi người không đồng ý. O
hỏi:
- Huệ nào?
Thì được trả lời: Đó là học trò của cụ phó bảng Sắc từ thời ở Huế.
Sau đó thì Lê Thị Huệ lên đưa O xuống mộ cha. Huệ kém cậu Thành vài
tuổi. Gặp O, Huệ khóc. Lúc đó Huệ để tang cho cha O. O ở lại đó cho đến
49 ngày, tạ ơn những người lo tang cho cha O (phần nhiều trong số họ là
học trò của cha O).
Trong thời gian đó, trò chuyện với Huệ, chị em hiểu nhau, và O mới
biết Huệ là người thương của cậu Thành. Hai người đã có một tuổi thơ gắn
bó từ hồi ở Huế. Cha Huệ làm bên bộ Công. Huệ mất mẹ. Thành cũng mồ côi
mẹ. Cha O thì không tục huyền. Cha Huệ sau tục huyền với một người phụ
nữ Huế, bà ta đanh đá, cảnh nhà không vui.
Khi vua Thành Thái bị đi đày, các quan dưới triều Thành Thái đều bị
thuyên chuyển. Cha O vào Bình Khê, rồi vào lục tỉnh. Cha Huệ cũng bị
thuyên chuyển, thế là Huệ với cậu Thành xa nhau…
Khi từ Phan Thiết vào Sài Gòn cậu Thành có gặp lại Huệ…
Huệ cũng cho biết, một lần cậu Thành có thư về. Thầy (cha O) gọi
Huệ đến và cho biết. Khi đó cha O đang ở chùa, cắt thuốc giúp dân, một
thời gian sau mới xuống hẳn Cao Lãnh.
Sau những lần trò chuyện, cuối cùng O dò hỏi xem Huệ sẽ tính liệu
thế nào khi cậu Thành thì biền biệt bên trời Tây. Huệ nói với O, không
giấu được xúc động: “ Có khi em đợi… Không đợi được thì em sẽ vào chùa…”
.
O nắm lấy bàn tay Huệ không nói được gì. Sau đó thì O trở ra Bắc.
Từ đó, O không còn gặp lại Huệ nữa. Mọi chuyện sau này ra sao O không
được rõ…
Bà Thanh nhấn từng tiếng:
- Sau này yên hàn, nam bắc thông thương, cháu còn trẻ, nếu có dịp vào
đàng trong, vào chỗ mộ cha O thì có thể lần ra được…
* * *
Chiến tranh liên miên. Cuộc sống bộn bề công việc trên các nẻo
đường công tác. Năm 1967, đang làm phóng viên mặt trận dẫn đầu một tổ
phóng viên cắm từ Thanh Hoá, Nghệ An đến Quảng Bình, Vĩnh Linh… ông (Sơn
Tùng) được điều động lên Hà Giang để tổ chức mạng thông tín viên cho
báo Tiền Phong và vận động bà con ở đây bỏ hút thuốc phiện.
Công việc đang tiến triển tốt thì ông lại được gọi về Hà Nội giao
nhiệm vụ vào Nam lập báo Thanh niên giải phóng. Giữa lúc ấy ông nhận
được tin bom Mỹ đánh vào cầu Giát, nơi vợ con ông đang sinh sống cả gia
đình phải sơ tán, nhà cửa xóm làng tan hoang và tin em trai ruột của ông
là Bùi Sơn Thanh hy sinh ở chiến trường Do Hải, Quảng Trị.
Vậy mà không một chút lưỡng lự, ông nhận nhiệm vụ và gấp rút chuẩn
bị lên đường đi B.
Ngoài việc thực hiện những nhiệm vụ được giao, trong ông còn có một
dự định không hé hở với một ai: Vào Nam, khi có cơ hội, sẽ tìm cho được
Lê Thị Huệ và tìm hiểu thêm về những ẩn tích thời tuổi trẻ của Bác Hồ.
Đi bộ gần sáu tháng vượt Trường Sơn ông vào đến Nam Bộ. Báo Thanh
niên giải phóng đóng ở Tây Ninh. Chiến tranh ác liệt, chưa có điều kiện
xuống được Cao Lãnh. Một hôm có anh Lâm Văn Tẩy phụ trách Đoàn TNND Cách
mạng từ Cao Lãnh lên, ông hỏi chuyện…
Anh Tẩy cho biết: Mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc trước đây ở miếu Trời Sanh.
Lính Sài Gòn định phá, nhưng hàng trăm người vây xung quanh mộ cụ
Nguyễn Sinh Sắc, ngăn chặn hành động độc ác vô tri của chúng.
Một cuộc xô xát lớn xảy ra, 71 người đã bị thương nhưng tinh thần
đấu tranh của người dân mỗi lúc một cao, cuối cùng chúng đành phải rút
lui.
Năm 1971 nhà văn Sơn Tùng bị thương nặng, phải cáng ra miền Bắc.
Ngoài nỗi buồn vì mang thương tật, mất 81% sức khoẻ, 3 mảnh đạn còn nằm
trong hộp sọ, mắt chỉ còn 1 phần 10, hai bàn tay chỉ còn 3 ngón không co
quắp và nhiều vết thương khác, trong lòng nhà văn Sơn Tùng có một nỗi
buồn khác là việc tìm kiếm Lê Thị Huệ và những khát vọng sáng tác từ lâu
ôm ấp càng trở nên xa vời hơn.
Nhưng ý chí đã giúp ông vượt qua thử thách ngặt nghèo nhất. Năm
1972, sau khi xin rút ngắn thời gian chữa bệnh từ Trung Quốc trở về, ông
rèn luyện kiên trì và dần dần khắc phục tàn phế, dấn thân vào sáng tác.
Tháng chạp năm ấy, B52 đánh vào Khâm Thiên ông vẫn xông xáo, không
quản nguy nan, là một trong những người đầu tiên đến tận hiện trường
viết bài như lúc còn ở ngoài mặt trận.
* * *
Giải phóng Sài Gòn, giữa lúc mọi việc đang bề bộn, đầy bất trắc,
ông xin giấy giới thiệu của Bộ Văn hoá, bán cả đồ dùng riêng tư để có
tiền trở lại miền Nam tìm tư liệu về Bác Hồ, về cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà
Lê Thị Huệ.
Vào đến Cao Lãnh, nhà văn Sơn Tùng trú tại nhà ông Nguyễn Thành
Mậu, Chủ tịch UBMT Giải phóng Tỉnh Sa Đéc, em ruột ông Nguyễn Thành Tây-
một học trò của Nguyễn Tất Thành hồi còn ở Phan Thiết. Biết nhà văn vào
tìm tư liệu về cụ Sắc, mọi người ai cũng hết sức vui mừng và yêu quý.
Từ những đầu mối mà ông Nguyễn Thành Mậu cho biết, nhà văn Sơn Tùng
quay về Sài Gòn, tìm đến số 58C phố Cao Thắng, nhà của dược sư Hồ Tường
Vân- Tổng thư ký Hội chữ thập đỏ của miền Nam, con gái cụ Hồ Tá Bang.
Sau đó tìm đến nhà 52 phố Bàn Cờ, nhà của bà Hồ Thị Liệt, chị gái
của bà Hồ Tường Vân. Dược sư Hồ Tường Vân và bà Hồ Thị Liệt cho nhà văn
biết thêm nhiều điều về bà Lê Thị Huệ.
Sau đó nhà văn Sơn Tùng tìm được nhà người cháu của bà Huệ và được
đưa đến gặp bà Lê Thị Huệ trong một ngôi chùa cách Sài Gòn khá xa, trên
đường đi Vũng Tàu.
Lúc đầu bà Huệ từ chối. Bà nói:
- Tôi làm sao có quan hệ với gia đình cụ Hồ được… Khéo người ta lại bảo
tôi thấy sang bắt quàng làm họ…
Nhưng nhà văn Sơn Tùng vẫn rất kiên nhẫn thuyết phục. Ông tặng bà
Huệ cuốn sách của mình viết về Bác Hồ có tên Nhớ nguồn do NXB phụ nữ vừa
ấn hành và ảnh nhà văn được chụp cùng với Bác Hồ cũng như trình bày
niềm mong ước gặp bà từ khi được O Nguyễn Thị Thanh kể hồi năm 1948.
Sau một khoảng lặng, nét mặt bà Huệ thay đổi. Bà trở nên thân tình
hơn:
- Ông đã nói vậy và qua những gì tôi biết và cảm nhận về ông, tôi tin
ông nói thật. Chắc ông cũng hiểu, có những kẻ xưng là người này người nọ
nhưng sự thật thì không phải… Bây giờ tôi hỏi ông, xin ông cho tôi
biết… Cụ Hồ đã qua đời thật hay chưa? Hay có chuyện gì …?
Bà Huệ lặng lại giây lát, gương mặt không giấu sự xúc động. Nhà văn
Sơn Tùng không hiểu điều gì đang diễn ra trong tâm cảm của Bà Lê Thị
Huệ. Chắc phải có một chuyện gì… một chuyện gì đây… khiến bà nghi ngờ…
Không phải đợi lâu, bên tai nhà văn giọng bà Huệ lại rành rọt:
- Khi anh Diệp Văn Kỳ nhận được thư cụ Hồ mời qua anh Hồ Tá Khanh (con
cụ Hồ Tá Bang), anh Kỳ lại là bạn thân của Nguyễn Tất Thành… Vậy mà, anh
Kỳ ra đến Lái Thiêu thì bị bắn chết. Từ đó, mất luôn mọi liên lạc với
cụ Hồ.
Bà Huệ nhấn từng tiếng:
- Nói thật, tôi rất sợ liên quan đến chính trị. Tôi sợ ông đi thử nhân
tâm. Với lại, có những điều đáng suy nghĩ lắm, sao có nhiều người tự
xưng là người cách mạng, giải phóng mới có mấy tháng mà đã tranh nhau
nơi ở… đã đối xử với nhau thiếu tình nghĩa con người…
Nhà văn Sơn Tùng thưa với bà Huệ:
- Cụ là một người tu hành, chắc cụ thấu hiểu rằng người đi tu rất nhiều,
nhưng không phải ai cũng có thể thành Phật… Trong đội ngũ những người
của cụ Hồ cũng có người thế này, thế khác…
Bà Huệ cười. Một nụ cười khô héo:
- Ông nói vậy, tôi cũng biết vậy. Qua những gì ông nói, tôi nhận thấy
ông gần gũi với nhiều người trong gia đình cụ Hồ. Ông thực lòng muốn
biết thì tôi nói để ông hiểu được cụ Hồ thời đó… – Giọng bà Huệ trở nên
âm trầm, ẩn tàng bên trong niềm rung động thiêng liêng, nỗi xao xuyến
mênh mông – Nguyễn Tất Thành là một thần tượng của tôi thời trẻ.
Cũng như Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga… Cảnh ngộ chúng tôi đều
mất mẹ… Qua những năm tháng sống gần nhau từ hồi ở Huế… có những kỷ niệm
vô cùng đẹp đẽ… Chắc ông cũng hiểu rằng, Nguyễn Tất Thành phải có một
cái gì đó thì tôi mới có thể chờ đợi và tôn thờ suốt cả cuộc đời mình…
Đôi mắt bà Lê Thị Huệ gợn lên một ánh buồn da diết.
- Sau này, khi anh Thành đi rồi… Tuổi trẻ của tôi u ám buồn và ngập chìm
thương nhớ. Tôi mong ngóng chờ đợi một con người ở tận bên kia trái
đất. Không gì có thể tả được cái nỗi lòng ngày ấy… Thỉnh thoảng anh Diệp
Văn Kỳ gặp tôi có nói cậu Thành vẫn hoạt động bên Paris…
Bà Huệ lại lặng đi. Đợi lúc bà bình tâm trở lại, trước lúc chia
tay, nhà văn Sơn Tùng thưa với bà:
- Từ những gì cụ nói hôm nay, cháu xin cụ được viết thành bài báo…
Bà Lê Thị Huệ nhìn thẳng vào nhà văn, vẫn giọng nhỏ nhẹ nhưng rành
rọt:
- Không nên! Sau này tôi qua đời, ông có viết gì thì viết, nhưng đừng để
người thời nay và cả sau này hiểu sai về chúng tôi ngày đó… Còn bây giờ
thì không nên…
- Nhưng thưa cụ, cháu nghĩ, tình cảm của cụ với Nguyễn Tất Thành là một
câu chuyện đẹp đẽ. Nguyễn Tất Thành vì việc Nước mà phải gác lại tình
riêng, bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm cho bằng được con đường giải
phóng dân tộc.
Khi giành được Nước rồi, vẫn không xây dựng gia đình… Đến tận phút
cuối cùng của cuộc đời cao cả ấy vẫn luôn nghĩ về miền Nam ruột thịt…
Còn cụ, cụ vẫn giữ trọn vẹn mối tình trong trắng của mình qua bao thăng
trầm của đời người, bao biến thiên của thời thế… Đó là một tấm gương lớn
để giáo dục thanh niên, giáo dục con cháu ta cho mãi về sau…
Bà Huệ lắng nghe rồi lại từ tốn cất lời:
- Ông nói cũng phải, nhưng ông mới nói những điều thuận. Mà đời thì đâu
chỉ có những cái thuận… Nếu ông viết, người ta sẽ nói là tôi điên. Một
bà già sắp chết, đã đi tu để quên hết chuyện đời… Vậy mà bây giờ thấy
người của Giải phóng đến lại còn kể về mối tình đầu để kiếm chác…
Sau buổi chia tay ấy với bà Huệ nhà văn Sơn Tùng giữ mãi lời
nguyền: Sẽ không viết gì về mối tình này khi cụ đang còn sống.
***
Năm 1980 cụ Lê Thị Huệ qua đời. Năm 1981 Nhà văn Sơn Tùng bắt tay
vào viết tiểu thuyết “Búp sen xanh” về thời tuổi trẻ của Bác Hồ. Trong
tiểu thuyết này có nhân vật út Huệ và mối tình trong trắng không cất nên
lời.
Cuốn sách này đến nay trở thành một trong những tiểu thuyết có
lượng ấn hành lớn nhất ở nước ta với hơn nửa triệu bản. Tuy nhiên thời
kỳ đó, có những quan điểm khác nhau về nhân vật út Huệ…
Thủ tướng Phạm Văn Đồng sau khi đọc xong “Búp sen xanh” đã mời nhà
văn Sơn Tùng lên trò chuyện thân mật. Thủ tướng có hỏi về nhân vật út
Huệ…
Và chính Thủ tướng đích thân viết lời tựa cho “Búp sen xanh” khi
tái bản lần thứ nhất. Tuy nhiên, vì những lý do tế nhị, đầu năm 2005 lời
tựa này mới được công bố. Trong lời tựa có đoạn: “Cuốn sách “Búp sen
xanh” nêu lên một vấn đề: ở đây tiểu thuyết và lịch sử có thể gặp nhau
không? Vấn đề này các đồng chí hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ
thuật và nói chung tất cả chúng ta cần suy nghĩ để có thái độ. Song ở
đây cũng vậy, lời nói có trọng lượng rất lớn thuộc về người đọc, nghĩa
là nhân dân”.
Nhà văn Sơn Tùng cho biết, những gì trong “Búp sen xanh” chỉ là sự
hé mở một phần… Đó là lý do tại sao ông còn phải viết cuốn “Bông Huệ
trắng”. Cuốn sách sẽ là một bản tình ca vô cùng trong trắng và thiêng
liêng về mối tình của một con người đã nguyện dành suốt cả cuộc đời mình
chờ đợi một thần tượng đã có sức toả sáng, lay động đến tận cùng tâm
hồn mình. Người đó là Lê Thị Huệ…
Thiên Sơn (Nguồn
NguyenTrongTao.org)
http://nguyenduyxuan.net/t-liu/nhan-vt-s-kin/712-nha-vn-sn-tung-va-ngi-yeu-nguyn-tt-thanh-thien-sn
jeudi
8 septembre 2011
Nguyễn Tất Thành làm đơn xin vào học trường Thuộc địa là một “thông báo”
về nước ?
Một ngày giáp Tết. Rét xuyên xương. Một cán bộ của Trung tâm Dịch vụ báo
chí của Bộ Ngoại giao đến gặp, đề nghị tôi tiếp ông J.Edward Milner,
một nhà báo, nhà đạo diễn và quay phim của Hãng ACACIA và Hãng Truyền
hình Channel Four Television của nước Anh. Vị cán bộ ngoại giao cho
biết: "Ông ta đang ấp ủ đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh".
Từ ngày bị thương nặng ở mặt trận trở về, tôi rất ngại ngùng khi phải
tiếp xúc với những người lạ vì đã bị mất nhiều thứ… mất cả cái ứng xử
nhạy bén, cái giao tiếp linh hoạt do cơ thể không còn lành lặn!
Nhưng đối với các vị khách nhà văn, nhà báo từ nước ngoài đến Việt Nam
tìm hiểu về đất nước, về con người, về Bác Hồ… tôi không thể từ chối gặp
được.
Ông J.E.Milner bước vào phòng với cái bắt tay trân trọng, lịch thiệp,
nhưng ông hơi ngỡ ngàng vì bàn tay tôi không còn nguyên vẹn và ông phải
vất vả xếp đôi chân dài của mình để ngồi bệt xuống cái chiếu dưới sàn
nhà! Ông cười với một cử chỉ bạt thiệp và giọng nói có màu ấm:
- Tôi đang tập ngồi kiểu này.
- Tính nhẫn nại của người phương Đông có từ trong cách ngồi. Ngồi kiểu
này là vững chắc nhất, ngồi được lâu, thưa ngài.
Ông J.E.Milner ứng đáp rất nhà báo:
- Ngồi trên ghế có khi ngã vì ghế mọt.
Thế là chủ khách cùng cười, hội nhập. Tôi mời ông nâng chén:
- Ngài là khách từ một vương quốc rượu ngon, xin ngài nhấp với tôi ly
rượu gạo của xứ sở nền văn minh lúa nước.
Ông J.E.Milner cạn chén:
- Tuổi thọ của rượu bằng tuổi thọ của loài người. Rượu cất bằng ngũ cốc
là ngon, bằng gạo lại càng ngon, thưa ngài.
Qua những phút khởi đầu, ông J.E.Milner vào việc:
- Được biết ngài là một ký giả, một nhà văn đã viết nhiều sách và nhiều
bài về Chủ tịch Hồ Chí Minh, được nhiều giới bạn đọc mến mộ. Hiện nay có
người nói rằng: Cụ Hồ lúc còn là chàng trai Nguyễn Tất Thành phải đến
cảng Nhà Rồng làm phu khuân vác, làm bồi tàu viễn dương để kiếm sống…
Gặp thế cuộc, Tất Thành mới tham gia hoạt động chính trị ở Paris với tên
gọi Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng và trở thành lãnh tụ của phong trào đấu
tranh chống đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc. Ngài có luận cứ gì
khác để khẳng định Hồ Chí Minh – người yêu nước từ thời mang tên Nguyễn
Tất Thành?
Ông J.E.Milner nhìn tôi vẻ thăm dò… sau lúc nêu câu hỏi. Tôi vui vẻ:
- Thưa ngài, sách Khế ước xã hội của triết gia đại văn hào J.J.Rousseau
ra đời từ 1762. Ở nước chúng tôi gần đây mới dịch ra tiếng Việt được
trọn quyển (Dịch giả, nhà sử học Hoàng Thanh Đạm). Tôi rất thấm thía một
điều trong sách ấy: "…Những tâm hồn thấp kém không thể hiểu thấu các
bậc vĩ nhân, cũng như kẻ nô lệ nhe răng cười khi nghe hai tiếng tự do".
Có thể một ác ý của sự thiên kiến, cũng có thể do không có được những cứ
liệu chuẩn xác về quá trình hình thành của một nhân cách mà hiểu sai
lệch về nhân vật lịch sử… Còn Chủ tịch Hồ Chí Minh của chúng tôi là một
nhà yêu nước từ thuở còn nằm trong bào thai của mẹ. Thật vậy, mẫu thân
của Người lúc gánh gạo đi tiếp tế cho nghĩa quân Phan Đình Phùng chống
giặc Pháp thì bụng bà đang mang thai, khi đứa bé ra đời được mang tên
"lót nôi" Nguyễn Sinh Côn thì được bú dòng sữa, được uống lời ru của
người mẹ yêu nước, căm thù giặc Pháp về đốt làng, giết người, cướp của.
Tuổi lên năm, lên mười, Nguyễn Sinh Côn đã được nghe cha đàm đạo việc
nước, việc nhà với các nhà đại cách mạng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế… Ngày Nguyễn Tất Thành đang ngồi trên ghế
trường Quốc học Huế, là con quan Thừa biện Bộ lễ, Nguyễn Tất Thành đã
đứng vào hàng ngũ những người cùng khổ trong làng quê đấu tranh đòi giảm
thuế, bỏ sưu, chống đàn áp bóc lột (1908). Mật thám Trung Kỳ truy nã,
Nguyễn Tất Thành phải bỏ học trốn vào cực Nam Trung Kỳ. Một nhà có bốn
cha con thì cả bốn người đều bị ghi "sổ đen" của mật thám Trung Kỳ:
Nguyễn Sinh Sắc A. 3760; Nguyễn Thị Thanh A.1166; Nguyễn Tất Đạt A.3781;
Nguyễn Tất Thành A.3607.
Đó là "Những phần tử nguy hiểm cho nền cai trị của chính phủ bảo hộ".
Nói rằng Nguyễn Tất Thành không có công ăn việc làm… "phải đi làm phu
khuân vác". Thiết tưởng thân mẫu của Nguyễn Tất Thành là con một gia
thế. Cụ tú Hoàng Xuân Đường giàu chữ giàu của cải để nuôi con gái đèn
sách hơn mười năm, khi kết duyên với thân phụ của Nguyễn Tất Thành thì
bà mới nghỉ việc học. Thân phụ của Nguyễn Tất Thành được ông bà cụ Tú
nuôi ăn học từ nhỏ, thi đỗ cử nhân, gả con gái cho và nuôi tiếp chàng rể
ăn học, thi đỗ Phó bảng, phải ba lần cụ Tú bán ruộng cho chàng rể sắm
"lều chõng", lộ phí thi Hương trường Nghệ, thi hội tận kinh đô Huế. Rồi
thân phụ của Tất Thành làm quan Thừa biện Bộ lễ triều vua Thành Thái,
làm quan huyện Bình Khê triều vua Duy Tân. Thế thì, Nguyễn Tất Thành là
"cậu ấm", con quan, đang dạy học tại trường Dục Thanh, Phan Thiết, tỉnh
Bình Thuận, thầy giáo Thành đang "ngồi cùng chiếu nhà giáo" với các bậc
thầy danh tiếng: Hồ Tá Bang, Trần Lê Chất, Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý
Anh, Nguyễn Hiệt Chi, Robert Hải, Ngô Văn Nhượng… Nguyễn Tất Thành đã
hoàn thiện một nhân cách thanh niên trí thức yêu nước cháy bỏng tâm hồn
trước thảm cảnh nước mất: Hai vua Hàm Nghi, Thành Thái bị đế quốc Pháp
bắt đi đày biệt xứ, hàng trăm ông nghè, ông cử, ông tú yêu nước bất
khuất bị giam chật nhà ngục Côn Lôn, cha làm quan huyện Bình Khê bị
triều đình Huế triệu hồi về kinh đô hạ ngục ngày 19/5/1910… Nguyễn Tất
Thành quyết dấn thân vào con đường "năm châu bốn bể" để tìm cho được cái
phương cách mà trở về giúp dân, cứu nước…
- Thưa ngài, trong cuốn sách "Hồ Chí Minh L'Indochine au Vietnam", ông
Daniel Mémery công bố một tờ đơn của Nguyễn Tất Thành gửi Tổng thống
nước Cộng hòa Pháp, xin được vào học trường Thuộc địa tại Paris, ngài có
suy nghĩ gì về lá đơn xin được học trường Thuộc địa của Nguyễn Tất
Thành?
- Cho tôi được hỏi ngài một chi tiết nhỏ.
- Xin mời ngài hỏi.
- Ngài có nhận xét gì về chữ viết, về trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Tất
Thành qua lá đơn bằng Pháp ngữ ấy?
- Chữ viết tuyệt đẹp, lời chuẩn, diễn đạt mạch lạc, rõ ràng. Chứng tỏ sự
học của Nguyễn Tất Thành chuyên cần và tài hoa.
- Như ngài thấy ở lá đơn của Nguyễn Tất Thành viết tại: "Marseille le 15
Septembre 1911″. Dấu triện đỏ hình bầu dục đóng trên lá đơn ngày "20 –
Septembre 1911″. Vậy là Nguyễn Tất Thành rời cảng Nhà Rồng ngày 5/6/1911
với tên gọi Văn Ba (không phải là anh Ba) nghĩa là vượt qua muôn trùng
sóng cả để nghe và hiểu, mà biết… Lần đầu tiên Nguyễn Tất Thành đến nước
Pháp in bước chân ban đầu xuống thành phố Marseille. Từ thành phố này,
Thành làm đơn xin học trường Thuộc địa với một chủ đích khác chứ không
phải "đi du học". Nếu Thành học với lý tưởng ra làm công chức, làm quan
để có vợ đẹp, nhà lầu, xe hơi thì Nguyễn Tất Thành đã chịu làm "tờ thú"
với khâm sứ Trung Kỳ lúc anh tham gia cuộc đấu tranh của nông dân Thừa
Thiên – Huế 1908, sẽ được tiếp tục học và thi tốt nghiệp năm sau đó.
Thành biết rất rõ mục đích của trường Thuộc địa Paris là đào tạo ra các
ông quan cai trị cho các xứ thuộc địa, tiêu chuẩn hàng đầu phải là con
quan từ Nhị phẩm trở lên và trung thành tuyệt đối với mẫu quốc Pháp mới
được tuyển vào trường này. Thầy học của Thành là cụ Lê Văn Miến, một
trong ba người Việt Nam đầu tiên sang Paris học trường Thuộc địa. Ông
Hoàng Trọng Phu, ông Thân Trọng Huề học trường này trở về làm quan rất
to, riêng cụ Lê Văn Miến, học xong lại xin học tiếp trường mỹ thuật
Paris rồi về dạy học và vẽ tranh sơn dầu.
Nguyễn Tất Thành làm đơn xin vào học trường Thuộc địa là một "thông báo"
về nước – Nguyễn Tất Thành con Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã có mặt tại
nước Pháp "mẫu quốc của dân An Nam!". Cho nên, bỏ vào thùng thư tại
Marseille đơn xin học trường Thuộc địa Paris, Nguyễn Tất Thành xuống tàu
đi tiếp đến Havre. Các bạn cùng chuyến với Thành tiếp tục phục vụ trên
tàu quay trở về Đông Dương… Thành ở lại Havre ít lâu rồi xuống tàu viễn
dương khác để "đi xem các nước" và anh đã xuyên qua các đại dương, ghé
các bến bờ: Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Algéria, Tunisie, Libye, các cửa
biển Đông Phi, đến Cônggô, sang Anh quốc, sang Mỹ quốc, xuống Nam Mỹ,
đến tận Granđe de Ile de terre de feu, xuyên sang Port Elizabeth xuống
Sydney, Australia… Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành trở lại London và
dừng chân tại đây một thời gian lâu. Qua bao năm tháng ấy, Nguyễn Tất
Thành chẳng hề quan tâm đến cái đơn xin học trường Thuộc địa.
Ông J.E.Milner lại đặt tiếp một câu hỏi rất "kẹt" cho tôi:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh được Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa (UNESCO)
của Liên hiệp quốc tôn vinh trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của
Người: "Vị anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hóa kiệt xuất
(…heros de la libération nationale et éminent homme de culture…), một
biểu tượng kiệt xuất và quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội (…éminent symbole de I'affirmation nationnale, a
consacre toute sa vie à la libération nationale de peuple Vietnamien,
contribuant à la lutte commune des peuples pour la paix, I'indépendan
nationale, la démocratie et le progrès social…). Tại sao trong bản Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có một điều tôi cảm nhận như "trái
ngược" với cái đức lớn của Người, đó là "…phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các
Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác"… Chẳng lẽ Hồ Chí Minh
quên đi gặp các vị anh hùng dân tộc tiền bối của mình?
- Tôi chân thành cảm tạ ngài đã cho tôi một lời thẩm luận rất có ý nghĩa
và lý thú. Với sự lãnh hội của tôi về vấn đề này thì, Chủ tịch Hồ Chí
Minh rất nhuần nhuyễn học thuyết Đại Đồng trước khi tiếp nhận học thuyết
Mác – Lênin. Người thấy trong học thuyết của các vị Các Mác, Lênin có
những vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu… Mà lúc sinh thời Hồ Chí Minh
không gặp được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin, cho nên phải "đi
gặp các cụ" ở thế giới bên kia. Còn các anh hùng dân tộc tiền bối, Hồ
Chí Minh không thấy có điều gì phải "chất vấn" nữa…
Nhà báo, nghệ sĩ điện ảnh J.E.Milner nâng chén rượu.
- Vậy là… có những "ẩn tích Hồ Chí Minh", phải đi tìm như Người đã từng
đi vào mọi cuộc đời trên khắp hành tinh của chúng ta… Chúng ta chúc mừng
Bác Hồ của bạn, và Bác Hồ của chúng ta – Người hằng sống.
Đặt chén xuống, ông nói giọng tha thiết:
- Tôi đã làm một bộ phim về Việt Nam và đã tặng Bộ Ngoại giao Việt Nam
trong chuyến thăm Việt Nam lần này. Bộ phim Việt Nam của tôi ra không
gặp thời điểm lịch sử, ít được hoan nghênh. Nhưng dòng chảy của lịch sử
không bao giờ dừng lại… Cho nên, tôi sẽ tiếp tục làm một bộ phim về Hồ
Chí Minh. Với tình đồng nghiệp, tôi xin bạn cho tôi được hỏi một lời về
nghề nghiệp: Là nhà văn, bạn tiếp nhận điều gì sáng nhất của tư tưởng Hồ
Chí Minh cho sáng tác của mình?
- Tôi luôn luôn nhớ lời của Người: "Chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng sáng
tác của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống. Còn nếu nhà văn quên điều đó
nhân dân cũng sẽ quên anh ta"…
Con chim cu gáy tự do trên giá sách mở tiếng gáy trưa đồng nội… Mười một
giờ. Gặp bữa cơm trưa của gia đình, theo tập tục của Việt Nam và nếp
nhà, vợ tôi thành tâm mời vị khách quý từ "viễn quốc" tới cùng ăn bữa
cơm đạm bạc với gia đình. Ông J.E.Milner cảm động và ngỡ ngàng giây lát:
- Thưa… bà! Tôi được một vinh hạnh bất ngờ! Đến Việt Nam nhiều lần, lần
này tôi mới gặp sự ước mong được ăn một bữa cơm gia đình người Việt Nam.
Tôi chân thành cảm tạ lòng hiếu khách của ông bà dành cho tôi. Nhưng
tôi lại chưa được cái may mắn hưởng bữa cơm gia đình của một nhà văn
Việt Nam. Bởi tôi đã có hẹn dự tiệc của một cơ quan mời 12 giờ hôm nay.
Chúng ta còn có dịp tái ngộ, tôi sẽ được như thành ngữ Việt Nam "Cùng
đồng bàn đồng bát" với ông bà… Vì tôi sẽ còn làm một bộ phim về Chủ tịch
Hồ Chí Minh.
Chúng tôi chia tay ông J.E.Milner trong tiếng vang cu gáy mênh mang
thành phố vào xuân!
Sơn Tùng
http://namdigidoc.blogspot.ca/2011/09/nguyen-tat-thanh-lam-on-xin-vao-hoc.htm
Nghiên cứu Bác Hồ, nhớ về Sơn Tùng – nhà Hồ Chí Minh học thực thụ
GS.TS MẠCH QUANG THẮNG
“Các chú đừng vẽ rắn thêm chân”, đó là câu Bác Hồ thường nói với những
người sống gần Bác khi những người đó miêu tả, đánh giá, nhận định về
một người hay một việc nào đấy. Ngay cả việc Bác Hồ thấy người khác nói,
viết về mình, nặn tượng, vẽ tranh về mình, Bác cũng rất ngại, và thường
là Bác khuyên người ta đừng có làm điều đó.
Thời còn là sinh viên ở trong ký túc xá của đất Mễ Trì (Hà Nội), nơi mà
các lớp học trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và
hải quân của Mỹ mới từ nơi sơ tán trở về (năm 1970), có một đêm các lớp
sinh viên chúng tôi đã được nghe ông Hoài Thanh, một nhà thơ có tiếng
cũng là một cây bút phê bình văn học sắc sảo, nói chuyện về thơ Hồ Chí
Minh, có nghệ sĩ Kim Cúc ngâm thơ “minh hoạ”. Tôi nhớ rất đậm lời ông
Hoài Thanh bình rằng: “Thơ Bác hay vì đó là thơ Bác”. Có lần, trong đêm,
Bác nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, có buổi nghe thấy ông Hoài Thanh bình
thơ của Bác. Một hôm, tình cờ gặp Hoài Thanh trong một hội nghị, Bác nói
vui với Hoài Thanh rằng, thơ của Bác không hay đến thế; những ý tứ mà
Hoài Thanh bình ở trong Đài, thì khi làm thơ, chính bản thân Bác không
nghĩ đến.
Hồ Chí Minh không nhận mình là nhà thơ. Lúc trong tù của Tưởng Giới
Thạch ở Trung Quốc, năm 1942, Bác tâm sự thể hiện trong bài thứ hai, tập
Ngục trung nhật ký:
Khai quyển
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi,
Nhân vị tù trung vô sở vi;
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật,
Thả ngâm thả đãi tự do thì.
Nam Trân dịch:
Mở đầu tập nhật ký
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuyây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Còn trong cuộc sống hằng ngày, kể cả khi làm Chủ tịch nước, Bác làm thơ
để giãi bày, để kêu gọi mọi người trong các phong trào thi đua yêu nước.
Bác khiêm tốn đã đành, nhưng Bác sợ người ta “vẽ” sai mình, mà đó chính
là điều quan trọng nhất.
Sự thật là những điều ai cũng có thể thấy rõ trong cuộc sống. Nhưng,
không ít những sự thật bị che dấu, che lấp, bị nằm lẫn trong vô vàn cái
sự rối cuộc đời. Có khi sự thật đã trở thành một thứ “trầm tích” mà nếu
muốn biết rõ, hiểu rõ thì phải khai nó lên. Khác và đối lập với sự thật
là những điều giả dối, xuyên tạc.
Người ta hay gây nhiễu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu nhiều nhất.
Ngày 3-11-1946, ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh trai của Hồ Chí Minh đến thăm
em, nhân lúc vui vẻ có hỏi em mình: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia
đình riêng của chú ra sao?”. Hồ Chí Minh trả lời hóm hỉnh: “Cảm ơn anh,
em chưa bao giờ dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì
thì thôi. Em không phải là người tu hành nhưng vì việc nước quên việc
nhà”[1].
Tháng 1 năm 1947, Bác Hồ viết trong bức thư chia buồn khi được tin con
trai bác sĩ Vũ Đình Tụng, người theo đạo Thiên Chúa, oanh liệt hy sinh
cho Tổ quốc: “Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con
cái. Nước Việt Nam là gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là
con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột.
Nhưng cháu và anh em thanh niên khác dũng cảm hy sinh để giữ gìn đất
nước. Thế là họ đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi. Họ chết cho
Tổ quốc sống mãi; vật chất họ mất nhưng tinh thần họ vẫn luôn luôn sống
với non sông Việt Nam. Họ là con thảo của Đức Chúa, họ đã thực hiện cái
khẩu hiệu: Thượng đế và Tổ quốc”[2].
Ngày 16-7-1947, trả lời câu hỏi thứ mười của một nhà báo nước ngoài, Hồ
Chí Minh nói: “Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp
một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt
Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ
nữ Việt Nam là chị em của tôi. Tôi chỉ có một điều ham muốn là làm cho
Tổ quốc tôi được độc lập, thống nhất, dân chủ. Bao giờ đạt được mục
đích đó, tôi sẽ trở về làm một người công dân du sơn ngoạn thủy, đọc
sách làm vườn”[3].
Năm 1948, cũng trong thời kháng Pháp, trong cơ quan Phủ Chủ tịch ở chiến
khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh là người hay khơi các trò chơi sau giờ làm
việc. Có khi đó là một buổi tối lửa trại, tự diễn tuồng, chèo, kịch tại
chỗ, có cả hoạt náo viên, có khi là họa thơ, đối thơ, v.v. Trong những
buổi vui vẻ như vậy, nhiều người đề nghị Hồ Chí Minh lấy vợ. Có lần Bác
nói: “Các chú hỏi bao giờ Bác lấy vợ, phải không? Có hỏi thì có trả lời
nhé: Không lâu nữa đâu! Bao giờ dân ta toàn thắng, Bắc – Nam sum họp một
nhà!”[4]. Còn Phan Anh, khi thấy sức khoẻ của Hồ Chí Minh có phần giảm
sút trong những ngày gian khổ tại An toàn khu (ATK) năm 1948 lúc Hồ Chí
Minh 58 tuổi, có đề nghị Bác lập gia đình để có người thân thương hằng
ngày săn sóc, thì Bác thủng thẳng nói: “Ông bảo thế tôi không phải là
con người à? Tôi sống như mọi người mà. Có phải thần, thánh gì đâu Nhưng
ông thấy đấy: việc nước bề bộn như vậy!”[5].
Người ta có quyền không tin những điều trên đây do chính bản thân Hồ Chí
Minh viết và nói. Nhưng, ai và những tài liệu nào xác đáng để chứng
minh rằng Hồ Chí Minh có vợ, có con? Không, không có tài liệu nào thuyết
phục người đọc được cả.
Tôi bày tỏ quan điểm của tôi rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ, có con hay
không có vợ, không có con thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức
của Bác cả. Nếu Bác có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với
những gì Bác đã cống hiến cho đất nước, tôi vẫn nhận định được rằng: Hồ
Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu
của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ
có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người
hoàn chỉnh, không phải là phản tự nhiên. Cũng chính vì thế mà chúng ta
hay nói người vợ hay người chồng chính là một nửa bên kia của nhau. Hồ
Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời
mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy Bác
khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó.
Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Bác không thể giấu được trong ngần ấy
năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con
người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam của Bác và cả ở trên thế giới.
Người bình thường đã khó giấu, huống hồ Bác lại là một người nổi tiếng,
Bác là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn. Tục ngữ
Việt Nam có câu: “Cái kim trong bọc lâu ngày rồi sẽ lòi ra”. Đã rất lâu
ngày, nhưng cái bọc không thấy lòi ra một cái kim nào cả. Làm gì có cái
kim nào.
Sơn Tùng là người rất rành và rất đúng đắn về việc nghiên cứu Hồ Chí
Minh. Sơn Tùng là nhà viết văn, nhà báo, nhà thơ. Ông đã có thơ mà Nhạc
sĩ Lê Việt Hoà đã phổ nhạc (bài Gửi em chiếc nón bài thơ). Nhưng điều
này thì không phải ai cũng biết: cả cuộc đời ông nghiên cứu Hồ Chí Minh
một cách say mê, nghiêm túc, chỉn chu, đầy bản lĩnh. Sơn Tùng đi nhiều,
viết nhiều, mà đề tài dường như chuyên sâu nhất là về Hồ Chí Minh, mà
tác phẩm nổi tiếng nhất, có tiếng vang nhất của ông là Búp sen xanh đến
nay đã tái bản hơn 30 lần, được dịch ra nhiều thứ tiếng (Tác phẩm này có
lúc bị “đánh” một cách phũ phàng, vô lối).
Sơn Tùng lao động, tìm hiểu vấn đề một cách say sưa, tận tụy với công
việc, cày sâu, cuốc bẫm, thâm canh trên mảng đề tài Hồ Chí Minh. Điều
đáng ngạc nhiên là ông là một thương binh nặng nhất trong thang bậc xếp
hạng hiện nay ở nước ta (hạng 1/4), hiện vẫn còn mảnh đạn ở trong đầu,
vết thương vẫn còn hành hạ ông. Mấy buổi chiều mới chớm hạ năm 2007, lần
theo cái ngõ nhỏ ồn ã, gập ghềnh, lổn nhổn đầy ổ gà, tôi đến thăm Sơn
Tùng và nhân đó ngỏ ý mời ông đến trao đổi ý kiến chung quanh vấn đề
nghiên cứu Hồ Chí Minh cho nhóm nghiên cứu của tôi ở Học viện Chính trị –
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, nhưng thấy ái ngại quá cho ông. Những
ngày đó, thi thoảng Sơn Tùng vẫn bị máu rỉ từ tai ra.
Thường thì những buổi chiều trong căn hộ xinh nhỏ của Sơn Tùng mà ông
gọi là Chiếu Văn ở trên gác hai chung cư ngõ Văn Chương chật hẹp, bất cứ
mùa hè nóng bỏng hay mùa đông buốt giá, vẫn thế, vẫn hiện một con người
nhỏ thó, đầy nghị lực, ngồi tiếp khách theo lối thiền, không bàn, không
ghế mà ngồi bệt xuống sàn gỗ. Tiếng con chim cu gáy sống tự do không
lồng như một thành viên trong gia đình Sơn Tùng, nó hay đứng trên giá
sách cất tiếng gù chào mỗi khi có khách đến nhà, thật vui, mà ông gọi đó
là “tiếng vàng cu gáy mênh mang thành phố vào Xuân” (Rất tiếc, mèo đã
bắt trong một lúc chủ nhà sơ sẩy). Sơn Tùng và gia đình ông sống một
cuộc sống đạm bạc. Hằng ngày, Sơn Tùng vẫn thiền như là một phương thuốc
cực kỳ hiệu nghiệm cho cuộc sống.
Bởi vậy, đến nay, Sơn Tùng đã hơn 80 tuổi nhưng vẫn minh mẫn, vẫn viết
đều. Trong những buổi chiều tà mùa đông trước đó, vào những năm cuối thế
kỷ XX, trong tiếng gió bấc rít dài từng cơn đập vào cánh cửa tầng hai
khu chung cư cổ lâu ngày thiếu sự trung tu có vẻ ọp ẹp, trong cái màn
mưa phùn như bụi giăng đầy ngõ nhỏ Văn Chương của phố Khâm Thiên (Hà
Nội), Sơn Tùng nói cho tôi những điều sâu lắng về Hồ Chí Minh. Ông nói
chậm rãi, khúc triết, mắt của người thương binh chống Mỹ ấy nhìn xa xăm
như rọi thấu vào quá khứ, lôi nó trở về với cuộc sống ồn ã chốn thị
thành ngõ nhỏ nơi gia đình ông đang ở. Giọng Diễn Châu xứ Nghệ gốc của
Sơn Tùng không lẫn vào đâu được, phảng phất âm điệu của miền bắc phát ra
ở xứ Nghệ. Không biết cái âm điệu ngôn ngữ ấy gốc là từ bắc vào hay lại
chính từ gốc Diễn Châu lan ra bắc? Chưa biết chừng.
Qua nhiều buổi tôi nghe ông nói hoặc tôi hóng chuyện ông nói với người
khác tại căn hộ nhỏ của ông, thì ra, có ba điều tôi ngỡ ngàng.
Thứ nhất, trong các tác phẩm của Sơn Tùng, dù là bài báo, là tiểu
thuyết, là ký, v.v. thì đều từ cái nền nghiên cứu khoa học của ông mà
ra. Ông nghiên cứu theo kiểu riêng của ông, tỷ mỉ, cẩn trọng, theo
phương pháp khoa học, có đối chiếu, có kiểm định. Có nhiều sự kiện, Sơn
Tùng đến tận nơi nghiên cứu, xem xét, kiểm định, đối chiếu, có những lúc
khó khăn hoặc vết thương tái phát không tự mình đi được thì phu nhân
của ông đưa đi. Sơn Tùng chính là nhà Hồ Chí Minh học thực thụ. Ông biểu
đạt những kết quả nghiên cứu của ông về Hồ Chí Minh cho bàn dân thiên
hạ biết theo cách riêng của ông, và chỉ mình ông, độc nhất vô nhị, mới
có có cái cách đó.
Thứ hai, gia đình Sơn Tùng có quan hệ họ hàng với Hồ Chí Minh. Bà nội
Sơn Tùng (Cụ Hà Thị Tự), là cháu họ bà nội Hồ Chí Minh (Cụ Hà Thị Hy).
Em trai ông nội của Sơn Tùng đỗ tú tài cùng khoa với em trai ông ngoại
Hồ Chí Minh. Đã từ lâu, từ trong kháng chiến chống Pháp 9 năm, Sơn Tùng
đã có ý thức tìm hiểu, nghiên cứu về gia đình họ tộc Hồ Chí Minh, đã đến
Kim Liên nhiều lần hầu chuyện và được chị, anh của Hồ Chí Minh là bà
Nguyễn Thị Thanh và ông Nguyễn Sinh Khiêm hết sức tin cậy. Điều này thì
Giáo sư Phan Ngọc đã viết trong mấy trang đầu cuốn Hoa râm bụt của Sơn
Tùng lần xuất bản của Nhà xuất bản Thông tấn năm 2007.
Thứ ba, bên trong và đằng sau những trang ký, những tiểu thuyết, những
bài báo của ông là ngồn ngộn những tư liệu về Hồ Chí Minh mà Sơn Tùng đã
mã hoá theo cách riêng của mình. Ở Sơn Tùng, có sự tổng hoà tư chất của
một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, nhà viết kịch bản văn học và, tôi nhấn
mạnh, nhà khoa học cộng với tình cảm của một chiến sĩ kháng chiến bảo vệ
nền độc lập, tự do của Tổ quốc theo tiếng gọi của Hồ Chí Minh cũng như ý
thức trách nhiệm của một công dân, một kẻ sĩ thời đổi mới.
Sơn Tùng có nhiều tài liệu về người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh, và
bản thân Hồ Chí Minh cũng đem lòng yêu người con gái đó. Tôi cho rằng,
trong cuộc đời Hồ Chí Minh có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai
trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong
nhã, lại là con của một người đỗ đại khoa (Phó bảng), con quan, con nhà
gia giáo mà không rung động trước phái đẹp, mà lại không yêu một người
con gái nào đó, cũng như không có người con gái nào yêu mình, mới là sự
lạ. Nhưng Sơn Tùng khẳng định một cách chắc chắn, có cơ sở, rằng Hồ Chí
Minh chưa bao giờ có vợ con.
Đã có không ít người cho rằng, Hồ Chí Minh có một người vợ là người
Pháp, một là người Đức, một là người Nga, hai bà là người Trung Quốc,
hai người vợ Việt Nam, v.v. Và, đương nhiên câu chuyện và danh sách vợ
con của Hồ Chí Minh, theo họ, chưa dừng lại ở đó. Ngay cả nhà nghiên
cứu, giáo sư Hoàng Tranh (Học viện Khoa học xã hội Quảng Tây – Trung
Quốc hiện đã nghỉ hưu) cũng đã có bài viết tương đối dài đăng trong Tạp
chí Đông Nam Á Tung hoành, số 11-2001 (Trung Quốc) đề cập về cuộc sống
chồng – vợ Hồ Chí Minh – Tăng Tuyết Minh (người Trung Quốc). Nhưng, tôi
đã đọc rất kỹ bài viết của Hoàng Tranh thì thấy rằng, lập luận và những
chứng cớ mà ông nêu ra không có sức thuyết phục. Mấy cuốn sách, bài báo
của một số người ngoài nước chẳng rõ thật hư ra sao về vấn đề này, lại
viết theo Hoàng Tranh.
Hồ Chí Minh là người hoạt động bí mật nhiều năm trời, cho nên không phải
những gì mà tài liệu viết về Hồ Chí Minh đều là đúng sự thật, mặc dù đó
là những tài liệu báo cáo chính thức, tài liệu lưu trữ trong kho lưu
trữ của Liên bang Nga từ năm 1992 (tiếp nối Lưu trữ của Đảng Cộng sản
Liên Xô, tại phông Lịch sử Chính trị-xã hội). Vì một số người không đặt
vào hoàn cảnh đó khi nghiên cứu, cho nên mới dựa vào tài liệu báo cáo
của Đại hội I Đảng Cộng sản Đông Dương và tài liệu lưu trữ ở Liên bang
Nga để nhận định không đúng rằng, Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai
là vợ chồng.
Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt
“tình ái” của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Bác, cho rằng Hồ Chí Minh
chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh
giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí
Minh chỉ coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói
dối, v.v. Tôi nghĩ rằng, nếu Hồ Chí Minh có đến 7 bà vợ và nhiều con
như thế thì khi Việt Nam đang có chiến tranh ác liệt như vậy thì nhiều
bà vợ chưa đến đất nước chồng mình đã đành, nhưng khi Việt Nam đã hoà
bình rồi, khi Hồ Chí Minh đã nằm yên bình trong Lăng ở Ba Đình – Hà Nội
rồi nhưng vẫn không có bà vợ nào (nếu còn sống), con cái nào của Hồ Chí
Minh đến thăm. Làm gì có! Nhiều người cứ úp úp mở mở, viết và nói cứ lấp
la lấp lửng làm ly kỳ hóa cái chuyện vợ con của Hồ Chí Minh.
Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi đàm đạo với ông về chuyện này. Ông “lý sự”
rằng, các ông Trường-Chinh, Phạm Văn Đồng nhà có mấy đời đội mũ cánh
chuồn mà khâm phục cái tâm, cái đức của Hồ Chí Minh và được cảm hoá từ
nhân cách Hồ Chí Minh thì không phải chuyện vừa; giả sử Hồ Chí Minh là
người cứ lăng nhăng, lít nhít về chuyện tình ái thì các ông ấy cạch,
không bao giờ đi theo Hồ Chí Minh. Cổ nhân trên thế giới đã nói: Rendez à
César ce qui est à César (Hãy trả lại cho Xêda những cái gì thuộc về
Xêda). Sự thật bao giờ cũng là sự thật.
Tôi thực sự thích thú cái cách nghiên cứu và thể hiện về Bác Hồ trong
các tác phẩm của Sơn Tùng, một cách thể hiện đúng, sâu đậm về tình cảm
nhưng không có gì là “thần thánh hoá”.
Việc giải thích điều này có cái khó của nó. Ý dân và lòng dân thì đã
phong thánh cho Hồ Chí Minh một cách tự nhiên rồi. Sơn Tùng đã viết
trong tác phẩm Hoa râm bụt của mình (xuất bản nhiều lần, lần gần đây
nhất là Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2007) ở bài “Một bài học làm người”,
trang 388: các cụ đồ Nho năm 1947 ở quê Sơn Tùng (Diễn Châu, Nghệ An)
luận về đôi mắt Hồ Chí Minh rằng, “Mắt Cụ Hồ là thiên nhãn, là lưỡng mục
trùng đồng đích thị thánh nhân. Thánh nhân chứ không phải thánh thần”.
Các cụ nói rằng, Thánh Gióng trong huyền thoại nhưng mang đầy đủ đức
tính Con người. Con người hoàn thiện đều thành thánh. Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Đại Vương là bậc nhân tướng, văn võ song toàn, lúc sống ngài
cứu nước hộ dân, khi thác ngài hiển thánh. Đó là đức Thánh Trần, là
thánh nhân. Ngày nay, Hồ Chí Minh là vị thánh sống. Dân mình mới thấm
thía hơn ai hết nỗi nhục của cái kiếp làm thân trâu ngựa. Dân phong
thánh cho người thực sự cứu nước, thương dân chứ đâu phải vua chúa! Vua
chúa chỉ nhớ đến dân khi có giặc ngoại xâm, vua chúa thương dân thì ít
thấy…
Tôi đồng ý với Sơn Tùng khi ông viết lại lời các cụ đồ Nho trên đây và
lời cảm bình của chính bản thân ông. Đọc hồi ký của một số chính khách,
một số nhà hoạt động chính trị, xã hội ở nước ngoài, thấy có một số nhận
định liên quan đến Hồ Chí Minh về mặt này. Nhưng, giữa vấn đề dân phong
thánh cho Hồ Chí Minh hoặc một số người cho là Hồ Chí Minh là ông thánh
với vấn đề trong nghiên cứu tránh việc thần thánh hoá Hồ Chí Minh là
hai chuyện khác nhau.
Thường thì ở đời, ngợi ca thì dễ, chê bai thì khó, vì chê là khó lọt cái
lỗ tai con người lắm. Khen đúng, chê đúng mới là điều cần làm. Khi đã
thiên lệch, thì có khi người ta khen hết lời, dùng những tính từ đẹp
nhất, dùng đại ngôn để gán cho một người nào đó mà mình muốn khen. Cũng
có khi thiên lệch thì lúc chê, người ta chê hết lời, bôi đen, nói xấu từ
đầu tới chân. Sự thật là tiêu chuẩn cao nhất mà nhà khoa học nói chung
cũng như nhà sử học nói riêng phải tôn trọng. Trình bày đúng sự thật như
con người Hồ Chí Minh vốn có thì không dễ dàng một chút nào. Trong việc
này, tôi không bàn đến người nghiên cứu có trong tay số lượng và chất
lượng các tài liệu cần thiết, là bột để “gột nên hồ”, tuy rằng điều này
là thực sự cần thiết mà thiếu nó thì nhà khoa học không thể dựng lại
được một bức tranh toàn cảnh đúng như nó có. Cái phần quan trọng không
kém là nhà khoa học không được tô hồng hay bôi đen sự thật. Đây chính là
tư cách đích thực của nhà khoa học mà nếu vi phạm thì người đó không
còn là nhà khoa học nữa.
Bản chất của cả hai khuynh hướng tô hồng hay bôi đen chỉ là một: đó là
sự bóp méo, sự làm sai lệch sự thật lịch sử. Không phải là việc bôi đen
có hại hơn việc tô hồng, mà cả hai đều có hại như nhau. Đừng tưởng bất
cứ sự ngợi ca nào đều là cộng vào cho Hồ Chí Minh. Sự ngợi ca không có
cơ sở chắc chắn, không khoa học, mà tôi gọi đó là sự tô hồng, thì, như
đã viết theo lời của ông Việt Phương , đều trừ đi chứ không thể nào là
cộng vào cho Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đi vào đời sống tâm linh của nhân dân Việt Nam là bởi cái
nhân, cái nghĩa, cái trí, cái dũng, cái liêm, cái tín của Bác đã cảm hoá
được ý thức văn hoá đa thần của nhiều người Việt Nam. Người ta tôn thờ
Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh Hồ Chí Minh để thờ, lập
đền thờ…là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt
Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là “văn hoá đền”, văn hoá tâm linh. Đó là sự
tự cảm từ mỗi con tim mỗi người, là ý thức cộng đồng với những người đã
khuất, mong người đã khuất đi theo người đang sống, chở che, răn dạy
những người đang sống.
Hồ Chí Minh đi vào lòng người dân không thần bí, không huyền thoại, tuy
rằng, nhiều câu chuyện kể về Bác có vẻ đượm màu huyền thoại. Hồ Chí Minh
hiện hữu như một nhân vật cùng với hiện tại, khi mà con người ta sống,
để người ta cầu mong và hành động như mình, vì những điều thánh thiện.
Trong nghiên cứu Hồ Chí Minh, điều thích hợp hơn cả là tuân thủ nguyên
tắc lịch sử – cụ thể, là xem xét một cách toàn diện các mối liên hệ lịch
sử cơ bản. Phải xem xét Hồ Chí Minh trong một chỗ đứng cụ thể và sự
phát triển của các quan điểm của Người ra sao. Một điều chắc chắn là Hồ
Chí Minh là một thực thể trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định.
Hồ Chí Minh bị thực tế lịch sử chế định, và chính bản thân Bác cũng chế
định lại lịch sử. Hồ Chí Minh có những thành công trong cuộc sống nhưng
Bác cũng có những điểm không thành công, những hạn chế chủ quan. Đúng là
nhân vô thập toàn. Bởi vì chính bản thân Bác cũng quan niệm: người đời
ai cũng có khuyết điểm cả, không nhiều thì ít, không lớn thì bé; trừ khi
người ta nằm trong bụng mẹ và cái lúc người ta nằm trong quan tài, còn
lại trong cuộc đời mọi người đều có khuyết điểm.
Thần thánh là những “nhân vật” không có thực, nếu có thì từ con người có
thực nào đó, người ta đã làm cho linh thiêng con người đó lên (tâm linh
hoá), con người đã khái quát, trừu tượng hoá theo cảm nhận riêng. Nếu
thần thánh hoá Hồ Chí Minh trong nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp của Bác
thì rất dễ biến những lời nói, những quan điểm của Bác thành những công
thức định sẵn, xơ cứng, như giáo lý nào đấy- điều mà Hồ Chí Minh rất kỵ
và đã không ít lần nhắc nhở là: đối với bất kỳ điều gì, của ai, của nước
nào, cũng phải sáng tạo, phát triển, vận dụng cho phù hợp với từng lúc,
từng nơi. Thần thánh hoá là lối nghiên cứu dễ dãi nhất và dẫn đến sai
lầm lớn nhất.
Cái điều mà nhiều người đã viết Hồ Chí Minh là vĩ đại, là thiên tài, là
lỗi lạc, là kiệt xuất (4 cặp từ) hoá ra nhiều khi lại biểu đạt trong
những hành động rất bình dị nhưng cũng đầy cảm động mà Bác đã làm.
Đó là cử chỉ đi dém chăn cho bộ đội ngoài mặt trận để bộ đội có giấc ngủ
ngon trong đêm đông.
Đó là nỗi nhớ thương đối với đoàn dân công đêm phải ngủ ngoài rừng.
Đó là những bữa nhịn ăn để dành gạo cứu những người đang đói khi nước
nhà mới giành được độc lập.
Đó là những bức thư chia buồn, động viên, những buổi đi thăm các thương
binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước.
Đó là những buổi lội ruộng cấy lúa bằng máy cấy thí nghiệm, những buổi
tát nước gầu dai, đạp nước gầu guồng chống hạn.
Đó là những buổi cùng bà con ngư dân Thanh Hoá kéo rùng đánh cá nhân dịp
đi nghỉ ở biển Sầm Sơn.
Đó là những buổi lội ruộng thăm bà con nông dân, lấy gang tay ước đo rễ
cây lúa.
Đó là những buổi trầm ngâm làm thơ khi trăng vào cửa sổ.
Đó là hình ảnh Bác cầm bó hoa hoặc một bông hoa tặng cho cháu gái và cho
khách nước ngoài.
Đó là hình ảnh Bác chẻ củi, hình ảnh vác cuốc đi tăng gia sản xuất.
Đó là hình ảnh Bác đang gõ máy chữ tuôn ra những dòng chữ phục vụ cho
quốc kế dân sinh.
Đó là dáng Hồ Chí Minh cưỡi ngựa hiền, con ngựa do đích thân ông Vi Văn
Định chọn cho, thoăn thoắt đi công tác ở chiến khu Việt Bắc.
Đó là hình ảnh Hồ Chí Minh đi bài quyền giản lược, những buổi Hồ Chí
Minh tập võ thuật cùng anh em cảnh vệ.
Đó là những buổi Hồ Chí Minh đánh bóng chuyền với anh em cơ quan, mà anh
em hay đùa ông bằng cách cứ được bóng là bỏ nhỏ tới vị trí Bác đang
đứng làm cho Bác cứ loay hoay hoài trong sân bóng.
Đó là hình dáng Hồ Chí Minh lịch thiệp, hào hoa, rất “tây”, nhanh nhẹn
“vít cổ” những người bạn nước ngoài để ôm hôn thắm thiết.
Đó là lần Hồ Chí Minh cầm gậy chỉ bản đồ chiến sự.
Đó là dáng hạc của Hồ Chí Minh đích thân đi Chiến dịch Biên Giới năm
1950.
Đó là ánh mắt bừng sáng của Hồ Chí Minh khi tiếp các cháu thiếu niên,
nhi đồng.
Đó là dáng “nhạc trưởng” Hồ Chí Minh hiền hoà cầm đũa chỉ huy dàn nhạc
bài “Kết đoàn” ở vườn Bách thảo (Hà Nội) năm 1960.
Đó là hình Hồ Chí Minh ngồi khoan thai, đĩnh đạc chủ trì cuộc họp của Bộ
Chính trị Trung ương Đảng.
Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời
kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Đó là cái nheo mắt nhìn về phương nam xa xôi, là nỗi suy tư, trăn trở
của Hồ Chí Minh về miền Nam, Bác tự nhận mình là người chưa làm tròn
nhiệm vụ đối với đồng bào miền Nam, “đi đến nơi nhưng về chưa đến chốn”.
Đó là niềm rạng rỡ trong ánh mắt, nét mặt của Hồ Chí Minh khi nhận được
tin chiến thắng miền Nam.
Vân vân và vân vân.
Tôi cảm thấy rằng, viết về Hồ Chí Minh cũng dễ mà cũng khó. Dễ là bởi vì
những điều Hồ Chí Minh sống và làm việc, những điều Hồ Chí Minh nói và
viết là những lời lẽ của bình dân. Khó là bởi vì, cuộc đời Hồ Chí Minh
chính là phản ánh những điều cao cả qua những cái bình dị. Hồ Chí Minh
như mọi người chúng ta mà thôi, nhưng cũng khác chúng ta bởi vì Bác làm
được tất cả những điều bình dị mà cao cả ấy một cách tự nhiên, hầu như
dễ dàng như hít thở khí trời, như sinh ra là để làm những điều như vậy.
Hồ Chí Minh là con người bằng xương bằng thịt ở ngay trước mắt chúng ta,
ở trong tâm khảm của mỗi người Việt Nam yêu nước, chứ không phải là
điều tưởng tượng, không phải thánh thần quanh quất đâu đây.
Một số người nước ngoài, trong đó có cả nhà khoa học và nhà bình luận
chính trị, không hiểu được hết tấm lòng người dân Việt Nam yêu nước đối
với Hồ Chí Minh. Do đó, trong một số bài viết, trong một số sách của họ
viết về Việt Nam, viết về Hồ Chí Minh, có lúc họ thiên về cái ý là ở
Việt Nam có sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh. Hiểu sùng bái cá nhân là hiểu
theo nghĩa xấu, như ở trên thế giới đã có một số người được sùng bái cá
nhân như vậy, rồi thì cuộc đời của họ về sau chẳng ra làm sao cả. Đối
với Hồ Chí Minh ở Việt Nam, tuyệt nhiên không có tệ sùng bái cá nhân,
không có sự thúc ép của bất kỳ tổ chức nào, mà đó là sự tự thôi thúc của
bao con tim, khối óc của đồng bào của mình mà Hồ Chí Minh đã gắn bó.
Lòng người khó đo. Đúng như thế. Chẳng có cái thước nào đo được lòng
người. Nhưng tấm lòng của nhân dân Việt Nam đối với Hồ Chí Minh thì đã
được thử thách qua bao nhiêu năm tháng của cuộc đời, có thể đo được một
cách rõ ràng. Vì thế, Hồ Chí Minh đã đi vào cõi bất tử. Nói thế cho có
văn có vẻ, nhưng nôm na thì hình ảnh Hồ Chí Minh có trong tấm lòng của
những người Việt Nam yêu nước qua các thế hệ kế tiếp nhau. Đặc biệt, Hồ
Chí Minh – cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong của Bác —
đã trở thành giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam. Mà khi đã trở thành
giá trị văn hoá thì chúng thẩm thấu và truyền một cách tự nhiên theo
chiều dài sự phát triển của dân tộc. Hơn thế, những giá trị văn hoá đó
được bảo tồn và phát huy thêm qua bao nhiêu năm tháng như dòng sữa mẹ
nuôi con người ta lớn lên.
Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hoá trong tài sản văn hoá của dân
tộc. Giá trị đó là bất diệt vì nó có ích, nó thẩm thấu, nâng cao nền văn
hoá Việt Nam cả trong tương lai.
Đã nhiều lần đọc tác phẩm của Sơn Tùng, đã nhiều lần hầu chuyện Sơn
Tùng, tôi đã cảm được những điều trên đây mà Sơn Tùng đã phổ cho tôi.
Mong Sơn Tùng mạnh khoẻ, nói và viết cho đời nhiều tác phẩm hơn nữa.
[1] Theo Bá Ngọc, Trần Minh Siêu: Chuyện kể bên mộ bà Hoàng Thị Loan,
Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2007, tr. 74. [2] Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.
5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 40.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, T. 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr. 171-172.
[4] Theo Vũ Đình Hoè: Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh, Nxb Văn hoá
Thông tin, Trung tâm Văn hoá Đông Tây, Hà Nội, 2001, tr. 151.
[5] Như trên.
Like
Be the first to like this.
Bài này được đăng lúc 18:11 ngày Chủ Nhật, 03 Tháng Một 2010 trong mục
Chuyên mục tổng hợp, Diễn đàn "Hồ Chí Minh học", Đánh giá - Nghiên cứu.
Bạn có thể theo dõi phản hồi của bài này với dòng phản hồi RSS 2.0. Bạn
có thể gửi phản hồi, hoặc trackback từ trang web của bạn.
Post navigation
« Previous Post Next Post »
2 Responses to Nghiên cứu Bác Hồ, nhớ về Sơn Tùng – nhà Hồ Chí Minh học
thực thụ
H.A nói:
29/05/2010 lúc 08:57
Em đã nghe Thầy giảng nhiều lần những bài giảng khoa học và đầy tính
thuyết phục, cảm động về Hồ Chí Minh học.
Hôm nay đọc bài viết này của Thầy em lại được trang bị thêm những
phương pháp mới, những kiến thức hay để tiếp bước trên những con đường
các Thầy đã chọn.
Em cảm ơn Thầy và kính chúc Thầy mạnh khoẻ!
Trả lời
khắc nguyễn nói:
24/03/2011 lúc 01:20
trò đọc búp sen xanh của thày Sơn Tùng từ khi còn lớp 8. Hồi đó trò
được mượn thư viện trường – trò là học sinh vùng cao Hà Giang. Đến nay
trò đã trưởng thành. Những câu chữ trong Búp sen xanh trò đã thuộc. trò
đọc có lẽ trên dưới 20 lần truyện này. bất luận nguyễn tất thành là ai
thì hình tượng người thanh niên này chính là tấm gương để trò vươn lên
làm người. nếu ai đó bảo sách làm thay đổi số phận con người thì đó phải
là búp sen sanh. trò từ một học sinh yếu kém, con nhà nông dân, bố mẹ
mất sớm, nay trò đã thành một tiến sỹ. trò vươn lên từ con số 0. và làm
lụng như một người nông dân, tư duy như một nhà khoa học để đánh đổi số
phận.đúng là tiền từ hai bàn tay khối óc của ta mà thành. kính chuc thày
sơn tùng khỏe.
%E1%BB%8Dc-th%E1%BB%B1c-th%E1%BB%A5/l
Có người cho rằng, tác giả cố ý gài bẫy tờ báo và hệ thống kiểm duyệt của Đảng, và đảng đã bị lỡm mà không biết.
Dù sao thì cũng đáng hoan nghênh tờ báo này, và nhất là đáng hoan nghênh tác giả Bắc Hà đã dùng biện pháp “ý ngôn tại ngoại” để người đọc tìm hiểu và thấy rõ hơn về một nhân vật được đảng dựng lên, lợi dụng ngay cả khi đã lìa đời gần nửa thế kỷ vẫn không được yên.
Tóm lại, hoặc là tội nghiệp cho tờ báo và tác giả, nếu sự ngu làm mờ mất lý trí, hoặc đáng hoan nghênh, nếu tác giả muốn nói ra một sự thật.
Nhưng điều đã được khẳng định là: Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại, một câu chuyện viển vông, huyễn hoặc và không hề có thật.
Không khảo mà xưng, tờ Quân đội Nhân dân của Quân ủy Trung ương (Tức là của Đảng phụ trách Quân đội) trong bài viết “Không bao giờ đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh” trên mục “Chính luận” đã thừa nhận rằng: “Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, những kỳ tích của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức của Người, đã thật sự là một huyền thoại trong tâm thức của nhân dân ta và bè bạn quốc tế”.
Không chỉ có thế, tờ báo nhiều lần nhắc lại: “…đã không đáp ứng được cái mà chúng mong đợi, tức là trừ khử được cái huyền thoại về Hồ Chí Minh…” rồi thì: “Các thế lực thù địch dù có quỷ quyệt, thâm độc đến đâu cũng không thể đánh đổ được huyền thoại đó, là vì Huyền thoại Hồ Chí Minh là thành quả vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX”. (Ở đây nên nhớ rằng chữ dân tộc Việt Nam mà đảng dùng là để chỉ Đảng CSVN như cách đánh tráo khái niệm ngôn ngữ xưa nay của đảng).
Trong bài viết này, tờ Quân đội nhân dân đã nhiều lần khẳng định Hồ Chí Minh là câu chuyện huyền thoại. Sự khẳng định này được tờ báo QĐND đăng chính thức, không hề trong “ngoặc kép” hoặc bất cứ giải thích nào khác, mà đó là từ dùng để khẳng định có tính chất chắc chắn.
Vậy, “Huyền thoại” là gì?
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Huyền thoại” là: Câu chuyện huyền hoặc hay dũng cảm của thời xa xưa và huyền hoặc là điều viển vông, không có thực.
Như vậy, theo đúng nghĩa Tiếng Việt thì “Huyền thoại Hồ Chí Minh” là câu chuyện huyễn hoặc, viển vông không có thực về một nhân vật gọi là Hồ Chí Minh. Điều đáng nói là cái huyền thoại này không phải do bất cứ thế lực thù địch chống phá bên ngoài hay bên trong nào tạo ra, mà chính tờ Quân đội Nhân dân đã công khai xác nhận.
Hồ Chí Minh chỉ là “Huyền thoại”, nghĩa là câu chuyện huyền hoặc, viển vông, không có thực về một nhân vật là Hồ Chí Minh.
Suy cho cùng, thì điều tờ QĐND khẳng định trên đây về Hồ Chí Minh cũng không có gì sai, chỉ có điều là sau mấy chục năm Đảng CSVN đã cố công nhào nặn, thông tin một chiều tạo nên thần thánh và đặc biệt là muốn dùng việc thần thánh hóa ông Hồ Chí Minh làm thành một chiếc bình phong che đậy đằng sau đó là một chế độ độc tài, độc trị, tham nhũng và phản động, phản dân hại nước như đã từng thấy xưa nay và nhất là đang thực tế thấy hiện nay.
Vì sao Hồ Chí Minh là một huyền thoại?
Theo cách nghĩ đơn giản và cụ thể của người Việt Nam, chúng ta phân tích một vài yếu tố để khẳng định điều này như sau:
Một con người, được xác định bởi tên, tuổi, ngày sinh, ngày mất, họ hàng, dòng tộc, vợ con, sự nghiệp,… đó là những yếu tố để xác định một con người cụ thể. Nhìn vào bản lý lịch của mỗi người, chúng ta đều thấy rõ điều này. Thiếu đi một trong những yếu tố như: Tên, ngày sinh, tên cha mẹ, quê quán, ngày mất, ông bà, dòng họ… thì chưa thể xác định cụ thể đó là con người nào.
Với ông Hồ Chí Minh, những yếu tố này đều là một sự lấp lửng và hoàn toàn không được Đảng, nhà nước làm sáng tỏ xưa nay. Đụng đến vấn đề đó chỉ là một sự mập mờ khó hiểu. Vì sao vậy?
Nhiều tài liệu sưu tầm và nhiều tư liệu lịch sử đã khẳng định về ông Hồ Chí Minh với những yếu tố như sau:
- Tên: Không đúng, theo văn bản Đảng cho biết thì ông ra đời và lớn lên là họ Nguyễn, ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Vậy nhưng, nhiều tư liệu lịch sử lại phát hiện ra rằng ông là người họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Điều này Đảng cố giấu, thì họ hàng nhà ông lấy làm hãnh diện lại khoe ra và đạp đổ công lao giấu diếm của Đảng.
- Tuổi: Không đúng, theo văn bản của Đảng và nhà nước, ông Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890. Thế nhưng nhiều tài liệu chứng minh rằng ngày sinh này hoàn toàn không đúng, năm sinh càng không. Một lá đơn của ông xin vào học trường Thuộc địa của Pháp – Một ngôi trường đã sản sinh ra rất nhiều những tay sai bậc thầy cho Thực dân Pháp – thì ông tự xác định ông sinh năm 1892.
- Gia đình, dòng họ: Không đúng, theo những gì Đảng và nhà nước tuyên truyền, thì ông Hồ Chí Minh quê ở làng Kim Liên, Nam Đàn. Thế nhưng nhiều tư liệu đã chứng minh rất rõ rằng ông lại có Họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Chính vì thế, chưa bao giờ Đảng và nhà nước dám nói đến ông nội Hồ Chí Minh là ai. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mẹ ông Nguyễn Sinh Sắc đã mang hoang thai từ một thầy đồ nho ở Quỳnh Lưu, còn ông nội Nguyễn Sinh Nhậm ở Kim Liên, chỉ là người tô son, trát phấn lên bào thai Nguyễn Sinh Sắc khi bà được gả làm thiếp cho ông nông dân này mà thôi. Điều này được chứng minh bằng việc gần đây, có một video được đưa lên mạng về việc con cháu của vợ hai ông Nguyễn Sinh Sắc về Quỳnh Lưu để nhận họ hàng.
Vậy thì những điều ghi vào lý lịch ông Hồ Chí Minh đâu có phải như đảng đã nói, đây là sự mập mờ tiếp theo.
- Sự nghiệp: Theo đảng vẽ ra, thì ông Hồ Chí Minh đã “ra đi tìm đường cứu nước”. Thế nhưng, lá đơn xin học trường Thuộc địa Pháp, hoàn cảnh ông khi ra đi làm bồi bếp trên tàu sang Pháp lại cho thấy rằng ông đi vì hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn. Nếu không trong hoàn cảnh cha nát rượu và bị án, mẹ chết và anh em tứ tán, thì con đường “đi tìm đường cứu nước” của ông Hồ sẽ đến đâu? Chưa nói là thực tế, cái cứu nước đó thực chất là đưa Việt Nam trở thành một mắt xích trong phong trào Cộng sản quốc tế.
Thậm chí, đảng còn nói rằng ông Hồ Chí Minh là Danh nhân Văn hóa thế giới được Unesco công nhận, nhưng thực tế điều này chỉ là sự dựng chuyện, bịa đặt mà không có thực.
- Vợ con: Cũng theo những tài liệu Đảng tuyên truyền, thì ông Hồ Chí Minh không vợ, không con, không có gia đình… để chuyên tâm lo việc nước.
Vậy nhưng, nhiều tài liệu, những nhân chứng sống đã chỉ rõ rằng ông có vợ và thậm chí là nhiều vợ. Những lời chứng minh của những người từng cùng sống, cùng làm việc và cả những nhà nghiên cứu lịch sử đã khẳng định điều này. Việc ông có vợ cũng là điều bình thường nhưng dưới cái nhìn và nhất là để dựng lên “huyền thoại” đảng ta đã cố công bóp méo và giấu nhẹm.
Vậy đó đâu phải là sự thật?
- Ngày chết: Không đúng, ngày ông Hồ Chí Minh mới chết, đảng và nhà nước công bố ngày ông chết, ngày để con cháu cúng giỗ ông là ngày 3/9/1969. Vậy rồi mấy chục năm sau đảng mới công bố lại rằng ông chết ngày 2/9/1969.
- Di chúc: Cũng khi ông Hồ Chí Minh chết, Đảng cho công bố cái gọi là Di chúc theo ý đảng, đến một lúc nào đó, thấy nó không còn có lợi, đảng mới công bố rằng đó là di chúc dởm và công bố lại bản khác. Bản này cũng chưa hẳn đã là di chúc thật của ông nốt.
Với một con người, mà tất cả mọi thông tin liên quan để xác định con người đó đều là sự giả dối và mập mờ, sai trái thì làm sao có thể xác định rằng đó là một con người thật mà không là huyền thoại, không là huyễn hoặc, là viển vông và không có thực.
Điều đáng hoan nghênh ở tờ Quân đội Nhân dân và tác giả Bắc Hà
Tờ Quân đội Nhân dân, thực chất đã rất hiểu những điều đã phân tích trên đây, nhưng dưới sự kiểm duyệt gắt gao của hệ thống Đảng với báo chí thì chính tác giả bài viết đã nhân cơ hội này khẳng định cho nhân dân, các chiến sĩ, tướng lĩnh quân đội hiểu về nhân vật được Đảng dựng lên để làm bình phong, làm cái phao cứu Đảng đang chết chìm trong làn sóng lòng dân rằng đó chỉ là một huyền thoại và là điều không có thực.
Cũng có người cho rằng, đây là cái sự ngu của một phóng viên của Đảng, nịnh không biết nịnh, bơm lại bơm quá đà làm phụt ra sự thối tha của Đảng trong trường hợp này. Nhưng dù sao, thì cũng là một sự thật được nói ra.
Cũng có người cho rằng, tác giả cố ý gài bẫy tờ báo và hệ thống kiểm duyệt của Đảng, và đảng đã bị lỡm mà không biết.
Dù sao thì cũng đáng hoan nghênh tờ báo này, và nhất là đáng hoan nghênh tác giả Bắc Hà đã dùng biện pháp “ý ngôn tại ngoại” để người đọc tìm hiểu và thấy rõ hơn về một nhân vật được đảng dựng lên, lợi dụng ngay cả khi đã lìa đời gần nửa thế kỷ vẫn không được yên.
Tóm lại, hoặc là tội nghiệp cho tờ báo và tác giả, nếu sự ngu làm mờ mất lý trí, hoặc đáng hoan nghênh, nếu tác giả muốn nói ra một sự thật.
Nhưng điều đã được khẳng định là: Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại, một câu chuyện viển vông, huyễn hoặc và không hề có thật.
Vì thế, đúng như khẳng định của tờ QĐND là “Không bao giờ đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh”, bởi đó chỉ là câu chuyện huyễn hoặc và không có thật, thì làm sao có thể đánh đổ? Nhưng, điều khẳng định là sự huyễn hoặc đã ngày càng mất thiêng.
Hà Minh Tâm
Kính thưa thầy Hiệu Trưởng
Kính thưa các thầy, các cô giáo
Trường cán bộ quản lý giáo dục đào tạo của cơ quan giáo dục, bất luận thời nào đi nữa, thì giáo dục vẫn là nền tảng quan trọng. Vì, không tôn sư thì không thể có Đạo được. Dù phong kiến, đế quốc, tư bản, xã hội chủ nghĩa đi nữa…nếu không trọng thầy, không yêu thầy học (muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy), là không phải đạo. Vì vậy, nói đến giáo dục, đã không có thì đành vậy, còn đã là có chữ thì phải biết ơn thầy. Làm đến ông vương, ông tướng cũng phải qua thầy học, làm nhà văn đi nữa thì trước hết phải yêu từ cô giáo vỡ lòng dạy mình từ buổi thiếu niên đến thầy dạy tiểu học, rồi phổ thông lại lên đại học…
Vừa qua thời tiết chuyển đổi đột ngột, ít khi nào sang tháng tư, qua tháng ba, thanh minh rồi, mà Hà Nội thời tiết 16 độ, cái thời tiết nó rất găng, như ngày hôm qua tôi tưởng không đến được nhưng vì đã nhận lời thầy Huấn từ mấy tuần trước. Sáng nay thầy Huấn đến cũng biết tôi đang nằm ngoạ thiền chứ không tọa thiền thì sáng nào tôi cũng làm, 2h sáng tôi ngồi thiền, 3h rưỡi sáng tắm nước nóng, dậy đọc sách, đến 5h nằm thiền điều trị vết thương sọ não.
Hai hôm nay tôi không ăn, hôm qua, do thời tiết đã đành, lại nữa có mấy cái hội nghị 11, 11b, rồi 12… mới bế mạc hôm qua. Thế thì những vấn đề này nó gắn liền với sự tồn tại, sự sống còn của đất nước. Vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930, làm nên những sự nghiệp rất lớn, trước hết là sự nghiệp cứu nước. Ba mươi năm chiến tranh, không ai muốn điều ấy làm gì. Người ta muốn làm nhà khoa học, làm nhà giáo… không ai muốn làm người anh hùng trong chiến tranh. Làm người anh hùng trong chiến tranh thì hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống. Đó là cái bất đắc dĩ của dân tộc.
Nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng nổi so với trước đây, nhân cách nhiều người cộng sản không còn. Nhân cách không còn, vì tham nhũng đến mức không thể chấp nhận.
Tuy nhiên, sự nghiệp của Đảng ta vẫn chói lọi thôi; nhân dân thì vĩ đại, nhưng những người có trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân không giữ được nhân cách. Họ đem cái tham nhũng làm hại cho toàn Đảng, cho nhân dân ta. Mặc dù vậy, vị thế của dân tộc Việt Nam vẫn đứng ở vị trí lớn. Dù nó là nước nhỏ, nước nghèo, còn sự thực thì dân tộc ta, nhân dân ta, cái hưởng thụ về văn hoá, về tinh thần của dân ta so với các nước Đông Nam Á, với khu vực của ta, là cao. Vì ngay bây giờ ở Đại học Tổng hợp có cả đoàn sinh viên do ba giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang ta để nghiêm cứu về Bác Hồ. Đoàn ở đây độ ba tháng, nay mới được tháng rưỡi, đã đi Tân Trào, Pắc Bó về. Đoàn gồm những sinh viên xuất sắc về sử Việt Nam và ba giáo sư đem theo cả gia đình con cái. Họ có mời tôi cùng đi nhưng vì sức khoẻ tôi không đi được.
Vấn đề trong mấy hội nghị trên là phe phái, phe cánh, mất đoàn kết trong lãnh đạo cao nhất. Như trước đây tôi có dịp nói được một phần sự hình thành nhân cách của Bác Hồ. Nói đến cái đó là trong cái nội gia đình của Bác. Nhân cách của con người ra đời, trước hết phải là gia đình, bước vào đời phát triển như thế nào bao giờ cũng bắt đầu từ gia đình, trường học. Nói trường học là có cả xã hội, có làng xóm quê hương. Tôi cố gắng nói một ý như vậy, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sức khoẻ. Nhưng trước hết tôi dành một số thời gian để nói về Đại hội 9 sắp tới đây.
Ngày 19 tháng 4 nay, ra Đại hội chỉ để quay phim, chụp ảnh, chứ mọi việc nó đã như bước một ở hội nghị Trung ương 12, hôm nay Trung ương nghỉ.
Tôi viết về đề tài Bác Hồ và danh nhân cách mạng rất quan tâm đến vấn đề từng con người có trách nhiệm đến vận mệnh quốc gia, từng sự kiện của đất nước thì Đại hội Đảng là một sự kiện lớn.
Ít nhiều thì tôi vẫn nhớ đến cái đại hội Đảng IV cuối năm 1976, hôm nay nhắc đến Đại hội IV năm 1976. Đại hội kết thúc chiến tranh 30 năm với nhiều hy vọng và chờ đợi bao nhiêu năm sau khi đuổi được đế quốc rồi, nhân dân sẽ trở lại cuộc sống yên bình, dù đói cơm rách áo đi nữa, thì cái vinh quang là của những con người chiến đấu vì dân tộc suốt bao nhiêu năm. Nhân dân có thể vẫn còn đói vì phải khôi phục kinh tế, khó mà no được, nhưng thể hiện được Nam, Bắc một nhà, hoà hợp dân tộc. Thắng là thắng đế quốc thắng ngoại xâm, chứ không có chuyện Bắc thắng Nam, Nam thắng Bắc. Một bà mẹ thờ cả hai sắc lính của hai con vì đất nước chia hai miền. Có cuộc xung đột ấy thì bà mẹ miền Nam thờ con là lính giải phóng và thờ cả người con ngã xuống nếu là lính quốc gia đi nữa, thì đó là cái nhất thời trong cái biến cố của dân tộc. Còn lòng mẹ cụ thể trong nhà phải có như bất cứ người Việt Nam nào trong hoàn cảnh đó.
Ông cha ta xưa đã có như vậy. Đánh xong giặc Nguyên thì Trần Nhân Tông đốt tất cả các văn bản là những gì có liên quan đến con người chia rẽ. Đốt để phục hồi lại cái hoà hợp dân tộc. Ai đã từng ra gươm chống lại dân tộc đến giờ phút ấy bỏ …Trần Hưng Đạo về Kiếp Bạc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, giao lại tất cả cho lớp người trẻ. Đội quân vinh quang trong chống xâm lăng sự nghiệp đến đó xong chỉ để lại người con rể của Hoàng triều là Phạm Ngũ Lão giúp vua giữ lấy cái truyền thống nề nếp từ trước. Nếu để Trần Hưng Đạo lại, vậy Trần Quang Khải thì sao, để ông con rể nhà Trần thì tiệu hơn, không có con ông này, con ông kia. Ông cha ta xưa đã làm như thế.
Nhưng ở đại hội 4 của ta thì khác đi, mười năm sai lầm làm kinh tế, không có áo may ô mà mặc. Họp chi bộ đem ra bình ai bắt thăm áo may ô hay săm xe đạp…Có khó khăn sau chiến tranh là dễ hiểu, nhưng người lãnh đạo phải nhìn thấy vấn đề. Tất cả vì Tổ quốc vì nhân dân, sau bao nhiêu năm kiệt quệ như thế này thì đoàn kết một lòng, kêu gọi sự giúp đỡ của các nước bạn và thế giới. Và mỗi người lãnh đạo phải sống như nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân. Đây lại không như thế, chúng tôi là những người chiến đấu ở miền Nam, tôi ngã xuống ở miền Đông Nam bộ, ở gần ông Nguyễn Hữu Thọ.
Ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận, đi dưới lá cờ nửa đỏ nửa xanh, lá cờ mặt trận nhưng nó vẫn mang cái hồn Tổ quốc bị chia cắt, chia đôi. Tấm gương của ông Nguyễn Hữu Thọ lớn lắm, một trí thức lớn. Và những người như Huỳnh Tấn Phát, nhà giáo Nguyễn Văn Đoá… chúng tôi đề nghị những người đó vào Trung ương. Trung ương Đảng ta là Đảng trí tuệ thì đưa những người trí tuệ ấy vào là xứng đáng. Nguyện vọng như vậy nhưng không được. Rồi đề nghị đưa lá cờ nửa đỏ nửa xanh vào bảo tàng thiêng liêng, bảo tàng lịch sử, nhưng cái bài học lịch sử ở Đại hội 9 này bây giờ nó mới vỡ ra. Họ chen vào Trung ương, để mà phá, xin lỗi, là những người vô học vào nắm chức quyền cao để mê hoặc nhân dân.
Năm 1960 kỷ niệm đảng ta 30 năm, Bác Hồ nói giữa nhà Hát lớn: Đảng ta là Đảng trí tuệ, Đảng văn minh rồi. Nói như thế tức là Đảng đã thấy rất dễ đi vào “giai cấp” hẹp hòi. Bây giờ họ sai lầm đến mức nói đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, có đi theo Bác đâu, Bác Hồ là: Đảng lao động, lao động trí óc, lao động chân tay, Nước ta là: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Trước hết là Dân Chủ, còn xã hội chủ nghĩa là ước mơ, còn lâu lắm. Đức phật là: đưa con người trở về với sự công bằng, sự nhân ái mà đến nay đã 2600 năm chưa thực hiện được. Vậy mà làm sao hôm nay bỗng chốc trong vòng năm bảy chục năm đưa lại cái xã hội Cộng Sản có ngay được (?). Đó là lý tưởng, là ước mơ…Loài người đi hàng vạn năm rồi, làm sao lại có một thể chế có thể thay đổi tất cả chỉ trong vòng mấy chục năm thôi! Không phải.
Thế rồi, từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà lại đổi thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa, rồi Đảng Lao Động thành Đảng Cộng Sản…những cái mà Bác Hồ đã đặt ra thì người ta xoá bỏ. Và năm đó họ định sau Đại hội 5 sẽ rời thủ đô vào Đắc Lắc. Dự kiến đó là của ông Lê Duẩn đã nói ở Vũng Tàu trong cuộc họp các cán bộ mở rộng. Nếu chuyện đó đã rồi thì ngày nay làm gì có kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long sắp tới. Có phải cứ muốn chọn chỗ cho đế đô ở đâu thì chọn. Không phải ! Nó là cả bao nhiêu yếu tố hợp thành, hội tụ lại. Từ trong hang động Hoa Lư chuyển ra giữa đồng bằng sông Hồng này, đất Thăng Long này, là cả một hình thành, trưởng thành của dân tộc. Từ chỗ vua ở hang động, vua Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên cái thế “Voi quỳ Hổ đứng”, cả cái Tam Đảo, cả cái Ba Vì chầu về đất thiêng, từ đông bắc Côn Sơn đều quay về đây cả. Thế mà định dời bỏ cái Hà Nội, cái Thăng Long như không. Không được! Rồi bỏ luôn quốc ca, may sao dân đấu tranh mãi mới giữ được cái Quốc ca. Người ta nói Quốc ca cũ không đủ tầm vóc Xã hội chủ nghĩa thì bỏ. Quốc ca là của hàng triệu con người. Thi mãi và chi rất tốn tiền mà chọn được 17 bài nhưng hát không ai chịu nghe cả. Cuối cùng lại trở lại bài “Tiến quân ca” của Văn Cao. Hồi đó người ta hiểu lầm, có lẽ ông Văn Cao “Nhân văn Giai phẩm” nên họ bỏ quốc ca, không phải! Ông Văn Cao không phải là cái lí do, mà vấn đề là ở chỗ họ muốn làm lãnh tụ, muốn đưa ra học thuyết, muốn vượt lên tất cả…Cụ Hồ là lạc hậu, là nho giáo, cỗ xe nho giáo ấy đã hết thời, miệng ông lãnh đạo nói thế.
Từ ông Tổng tư lệnh, Đại tướng phong ngày 28-5-1948 tại rừng Tuyên Quang, mà cả Quốc hội, Chính phủ phong Đại tướng đầu tiên cho một người trí thức, cử nhân luật, cử nhân kinh tế giỏi, là Chủ tịch Hội nhà báo năm 1937 là Võ Nguyên Giáp…đến phong trung tướng cho một ông giang hồ tứ chiêng, giang hồ tứ chiêng là lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Cái giang hồ của ông Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình là thế, mà Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Bình vào Nam lúc đó chưa phải là đảng viên, ông Bình xúc động quá nói:
- Thưa Bác, tôi chưa phải là đảng viên cộng sản, tôi vốn là đảng viên Quốc dân đảng, đi ra Côn Đảo bị giam chung với Trần Huy Liệu rồi chuyển sang và đi theo đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Bác giao cho tôi vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mà tôi chưa phải là đảng viên.
Bác Hồ nói với Nguyễn Bình:
- Tổ quốc trên hết! đảng viên ư? Tổ quốc trên hết. Đất lửa miền Nam chỉ có chú vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mới tập hợp được các giáo phái.
Bấy giờ Nguyễn Bình vào Nam làm liên khu trưởng, Quân khu trưởng nhưng chưa phải đảng viên. Cho đến ngày 28-5-1948 ông được phong Trung tướng.
Bác sử dụng người có tài vào địa hạt nào, công tác nào là phát huy được cái đó. Nguyễn Bình tập hợp được nhiều giáo phái, thì đến hết năm 1947, Bác đánh một cái điện cho Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên. Thế là Bảy Viễn kéo tất cả quân của ông ta ở rừng Sác đi theo Nguyễn Bình, nhập vào đại quân. Sau đó “có người” phá, chia rẽ giữa Bảy Viễn với Nguyễn Bình nên Bảy Viễn quay vào Sài Gòn nhận thiếu tướng của quân đội Pháp và tuyên bố: Nhận thiếu tướng nhưng không bao giờ đi đánh trận nữa mà ra làm khai thác gỗ. Những người đàn em của Bảy Viễn hỏi ông là: Không đi đánh nữa thì đàn em bao giờ được lên? Bảy Viễn nói: ta lỡ bước, ta đã hiểu Cụ Hồ nhưng không đi trọn được con đường của Cụ Hồ là vì “cán bộ” họ chia rẽ ta với Nguyễn Bình. Và ông ở vậy cho đến thời Ngô Đình Diệm lên diệt giáo phái thì ông mới sang Pháp. Tức là con đường Bác Hồ là con đường thu vén tất cả dân tộc vào, chứ không có giai cấp, không đặt giai cấp lên trên dân tộc, xã hội có giai cấp nhưng không đặt giai cấp lên trên dân tộc.
Đầu tiên khi về Pắc Bó, Bác nói với ông Đồng, ông Giáp, ông Lê Quảng Ba, ông Chu Văn Tấn, lúc đó, các ông gần gũi Bác, và cả ông Trường Chinh nữa, là “Gác cái khẩu hiệu giai cấp lại, bây giờ là vấn đề dân tộc, dân tộc không giải phóng được thì ngàn đời không thể giải phóng được giai cấp. Nhân dân ta là một khi Tổ Quốc lâm nguy thì ông địa chủ đến người cố nông, đều một lòng chống giặc, vì thế là vấn đề dân tộc giải phóng”. Thế nhưng Đại hội 4 chúng ta, thì nó trật từ cái này. Nếu nói là làm theo di chúc của Bác, không nói cái gì xa, Di chúc Bác để lại là phải chuẩn bị khi giải phóng Miền Nam. Cho nên trong Di chúc của Bác có câu:
- Cuộc kháng chiến chỗng Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa.
Các ông ấy lại đem bỏ cụm từ “mấy năm nữa” đi, cho là “còn kéo dài”. Lúc đó, trong bộ chính trị tất nhiên có người đưa ra, nhưng được Bộ chính trị thông qua: – Có khi Bác chủ quan. “mấy năm nữa” chắc gì?
Năm 1941, khi Bác về Pắc Bó có bài ca lịch sử kể từ đời Hồng Bàng đến các vua Hùng cho đến các đời vua… và cuối cùng nói “năm 1945 thì cách mạng hoàn thành”. Lúc đó có người tưởng Bác nói thế để động viên, không phải. Đến năm 1960 Bác ghi là “15 năm nữa sự nghiệp thống nhất hoàn thành”, vậy nên khi viết Di chúc Bác nói: -“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa”, và thực tiễn xảy ra đúng là “mấy năm nữa”, nhưng lúc đó Bộ chính trị bỏ cụm từ: “mấy năm nữa”?!
Trong Nam thì phải lo kinh tế từ bây giờ, tức là lo công ăn việc làm, ngoài Bắc này thế nào trong ấy cũng phải như thế. Trước hết, sau khi kết thúc chiến tranh, việc đầu tiên là khôi phục kinh tế, tranh thủ sự viện trợ của bạn bè, nâng cao từng bước, chưa vội làm ăn lớn. Nhưng ta lại đề ra 15 năm nữa phải đuổi kịp Liên Xô, 20 năm năm nữa đuổi kịp Mỹ. Kịp cái gì? Nói cho oai thôi chứ một dân tộc 30 năm bao nhiêu lực lượng trẻ, khoẻ ra mặt trận, bao làng mạc, thành phố bị san bằng mà làm sao đề ra 15 năm vượt Liên Xô, 20 năm đuổi kịp Mỹ…thì xa lạ quá…
Mà Bác Hồ đã dặn rồi:- Ta đánh Mỹ là cái thế phải đánh, bởi vì Mỹ không từ bỏ ý chí xâm lược, ta phải đánh, đánh xong thì bắt tay với họ. Bác cố tránh để không xảy ra cuộc chiến tranh với Mỹ. Bác cho người viết thư cho Ngô Đinh Diệm. Lúc đó có hội nghị ba nước Đông Dương ở Phnôm Pênh, Bác định đến đó…có thể gặp Ngô Đình Diệm nhưng lúc đó Cabốtlốt thấy tình hình đó nó đảo chính ngay, diệt hai anh em Ngô Đình Diệm. Bây giờ nhiều đồng chí ở Miền Bắc còn nhớ Bác nói: – ông Diệm có cách yêu nước của ông ấy, đừng có gọi bằng thằng, người ta có tuổi rồi. Cách nhìn của Bác như vậy, sau này có học trò của Bác lầm tưởng rằng Bác nho giáo dĩ hoà vi quí, đâu có phải! Truyền thống của dân tộc ta là như vậy.
Trong Đại Hội 4 hạ tên nước, thay tên Đảng, nêu lên trong 5 năm nữa thì có tivi, có tủ lạnh cho nông dân. Những năm đầu tiên thấy được đời sống có nâng lên nhưng không …(đoạn này bị mất) 500 huyện là 500 pháo đài kinh tế, quân sự, dồn làng lại…Lúc đó cũng có nhiều đồng chí kiến nghị, đề nghị gặp Tổng bí thư Lê Duẩn, nói:
- Thưa đồng chí, xóm làng Việt Nam hình thành những cái làng văn hoá có từ hàng nghìn năm, có làng ít thì 300, 500 năm mà nay xoá những cái làng văn hoá cổ như thế thì mất hết. Văn hoá Việt Nam là văn hoá làng xã.
Xin lỗi, ông Lê Duẩn nói: Ngu, Ngu.
Thế là giáo sư Lê Văn Thiêm lủi thủi ra về. Còn giáo sư Trần Đức Thảo mắt thì cận, cả đời ông không đi đâu. Ông là nhà triết học, cả nhà toàn sách là sách, ông viết được cái gì thì đưa cho cụ Đồng đưa ra đăng báo ở nước ngoài (ông chỉ nói được thôi chứ không viết được bằng tiếng Việt nên công trình của ông là bằng tiếng Pháp). Ông được ông Duẩn mời lên để hỏi ý kiến, ông nói thẳng, nói thật ý kiến của ông, thì đuổi ông. Một ông mắt cận (là Trần Đức Thảo) ra đứng giữa đường Hoàng Diệu mà không biết đi đường nào là Phan Đình Phùng hay đi Điện Biên Phủ.
Nói lại (những chuyện này) để các thầy các cô biết và nhắc lại cái bài học lịch sử khi người đứng đầu mà sai lầm thì nguy lắm, sai một ly đi một dặm. Sai của ta nó ở trong trường thôi; sai của người đứng đầu của dân tộc thì nó sẽ đẩy lùi phải mất mười năm. Từ 1976 đến 1986. Đấy ! Phải đi đến Đại Hội đổi mới, bước đi phải thế nào, thế nào… sau Đại hội 6 thì đổi mới đấy nhưng chưa giải quyết được vấn đề. Vấn đề là con người lãnh đạo. Hôm nay thì nó như thế nào…xin thông tin cho các thầy các cô biết, sau ngày 19,20, Đại hội 9 công khai rồi ta cũng biết thôi, nhưng biết thì ta cũng chỉ biết vậy, còn bên trong của nó thì chưa nói hết được.
Hội nghị Trung ương 11,11b, gần đây 12 mới xong hôm qua, diễn ra sôi động quá.
Ở hội nghị 11a thì các cố vấn quyết định thi hành kỷ luật Tổng bí thư và kiên quyết cách chức trước thềm Đại hội 9. Về phía Tổng bí thư thì kiên quyết phản công lại cố vấn. Đó là nguy cơ chứ! Hôm nay thì giải toả được rồi, nhưng nay nó lại như thế thì con cái nó sợ vô cùng chứ!. Sợ vì đất nước đang đứng trong một tình thế bất ổn, trong khi Tây Nguyên thì như vậy.
Nhưng trước hết ta “Tiên trách kỷ…”. Cửa ngõ Tây Nguyên như vậy, sau khi giải phóng miền Nam thì ông nào cũng trở về ở thành phố, thỉnh thoảng lên nói vài câu rồi vội vàng về để tắm bình nước nóng lạnh, chứ có ai ở với đồng bào đóng khố, khổ…nên không ai ở đó với họ. Rồi đi lấy đất đai của họ bán cho các nhà kinh doanh, mua rẻ đất của họ, bán đắt cho các nhà kinh doanh lậpôtrang trại. Như vậy, họ thấy đất đai của cha ông họ mất dần đi, không còn như thời chống Mỹ.
Vừa rồi ông Nguyên Ngọc, tác giả “Đất nước đứng lên”. Ông có làm một công trình điều tra cơ bản về Tây Nguyên, mà ông làm từ 1999, 16 trang, một tiếng kêu về Tây Nguyên. Có những nhà văn họ nghiêm cứu đi thẳng vào một vấn đề lớn như vậy mà không nghe. Bây giờ xảy ra rồi mới hỏi: -À, ông Nguyên Ngọc nói hay, thì còn gì nữa? Khi thấy hay thì việc đã rồi. Tất nhiên có bàn tay bên ngoài, nhưng không kín trên thì không bền dưới, trong không ấm thì ngoài không êm. Tôi đã nói câu này với ông Đỗ Mười, có cả ông Nguyễn Đức Bình là giáo sư (tuy gọi là giáo sư đó, nhưng người ta nói giáo sư gì mà chẳng có công trình nào cả, nhưng ông Nguyễn Đức Bình là uỷ viên Bộ chính trị…). tối nói tại số 4 Nguyễn Cảnh Chân, văn phòng tổng bí thư ngày 14/12/1994. Tôi nói rằng:
Tổng bí thư mà để người ta “đánh” tôi, người ta bảo tôi là người xuyên tạc Bác Hồ. Tôi xin với Trung ương cho tranh luận công khai trên báo Nhân Dân và các phương tiện thông tin. Tôi đưa tư liệu của tôi, tôi nói Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà quan, tôi đưa tư liệu nhà quan. Còn các nhà nghiêm cứu Hồ Chí Minh học thì nói Bác Hồ sinh ra trong gia đình bần cố nông, thì đưa tư liệu bần cố nông ra, để người đọc phân định. Nói tôi lợi dụng đề tài Bác Hồ để hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ có người yêu là hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp Bác Hồ, Bác Hồ là người của giai cấp…
Ông tổng bí thư mời tôi lên ngày 14/12/1994, tôi đề nghị một phương án là cho đăng công khai lên báo bằng văn bản, bằng tư liệu, chứ đừng lý luận chung chung. Ông nói cụ Hồ thế này…tôi bảo cụ Hồ thế này…tất nhiên bây giờ ta phải tôn trọng cái hiện tại nhưng đứng về góc độ nghiêm cứu vĩ nhân thì ta nên xem xét lại. Sự thật tôi đưa ra ngày (sinh của Bác) này là tôi có lá số Tử vi, các cụ để lại giấy thời đó, mực thời đó. Bây giờ mà cứ ép tôi là buộc tôi phải đưa ra nước ngoài. Tôi không phải loại người dùng nước ngoài để ép bên trong. Không. Tôi không phải là loại người đó. Bố mẹ con cái có việc gì thì nói trong nhà, chứ không phải chạy sang hàng xóm chửi đổng về. Tôi không thích cái đó. Nhân lúc đó tôi mới nói với đồng chí Đỗ Mười là phải “kín trên bền dưới”. Tôi đã nói ở trường Chí Linh (Hải Dương) ngày 20/11/1990, ngày nhà giáo, là trong Bộ chính trị ta chỉ có vài người đếm trên đầu ngón tay là không đụng đến đồng tiền bát gạo của dân, mà tôi nói trước Đại Hội 7, còn tất cả là tham nhũng hết. Có người đề nghị bắt tôi, tôi nói bắt cũng được, không sao cả, tôi nói vì sự sống còn của dân tộc, của Đảng. Tôi nói là có căn cứ, có tài liệu, không vu khống ai cả, nếu vu khống thì lôi vào tù. Tôi nói “trong ấm ngoài êm” đây không phải là chuyện gia đình nữa, mà là chuyện đất nước, trong không ấm thì ngoài không êm. Nội bộ trong vương triều mà lục đục thì nổi lửa biên cương ngay.
Ví dụ như trong chúng ta đây này, bọn tham nhũng, bọn cơ hội thì Trung ương bợ đỡ, còn anh em trí thức, các nhà khoa học thì đồng lương thấp đến như thế này…đối xử như thế này…Tôi có bảng thống kê đây, tôi là nhà văn, hiện nay những nhà văn cơ hội thì được sống sướng thế này…còn nhà văn này…nhà văn này…bốn thế hệ ở trong một cái buồng 18m vuông, như là nhà văn Siêu Hải, nhà văn Mạc Phi, nhà văn Minh Giang…hàng loạt, họ toàn tham gia đi trước cách mạng và kháng chiến cả, toàn trí thức cả, học Albert Sarraut có, học trường Bưởi có mà bây giờ như thế này…bốn thế hệ ở trong một cái nhà như thế…Nhưng sau đó, nói đáng tội thì nhà văn Siêu Hải, được phân nhà. Ông năm nay cũng gần 80 tuổi rồi, ông ở 66 Hàng Chiếu có 18m vuông mà ở gác ba, 9 người, một ông đại tá pháo binh. Lúc đó ông Đỗ Mười mới nói với với ông Lê Khả Phiêu (bấy giờ thường trực Bộ chính trị) giải quyết cho ông cái nhà ở Nghĩa Tân. Còn ông Mạc Phi, chuyên gia Tây Bắc, chưa kịp giải quyết cái nhà cho ông thì ông đã chết mất rồi. Ngày 19 tháng 5 này là giỗ 5 năm ông Mạc Phi. Ông bị quy là “Nhân văn giai phẩm” bị đầy lên Tây Bắc rồi không về nữa, ở lại trên đó nghiêm cứu về văn hoá Thái, viết tiểu thuyết. Ông thì “nghiện” tiếng pháp nên đọc toàn bằng tiếng Pháp, ở dưới này gửi báo Europe lên cho ông đọc thì theo dõi ông và nghi ông là việt gian thực sự rồi. Đến khi Bác Hồ lên thăm Tây Bắc, có Đại Tướng tư lệnh Võ Nguyên Giáp lên, thì ở cơ quan “phân công” ông lên Mường Tè. Ông nghe đài đưa tin Bác lên thăm Tây Bắc, ông phàn nàn ông không được ở nhà để đón Bác.
Có ông anh em cọc chèo với ông mới nói nhỏ cho ông biết Bác lên thăm Tây Bắc, để đảm bảo “an toàn” (cho Bác) người ta điều chú lên đó. Bác về rồi mới cho ông trở lại. Tất nhiên sau này ông cũng được giải oan nhưng có những sai lầm đến như vậy.
Tôi nói từ Đại hội 4, sau kết thúc chiến tranh ta sai về đướng lối dẫn đến tình trạng này kéo dài cho đến Đại hội 6. Đại hội 6 lúc đó ông Lê Đức Thọ muốn làm tổng bí thư, không ai nói, nhưng tất cả mọi người đều biết rõ ông ấy là ai. Lúc đó, cụ Trường Chinh đi Liên Xô về rồi, ông Lê Đức Thọ gọi ông Vũ Quang (lúc đó là trưởng ban đối ngoại trung ương, nguyên bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn), nói:
Báo cáo lại tình hình ông Trường Chinh trao đổi với bên kia thế nào?
Ông Vũ Quang nói:
- Tôi là thành viên của đoàn, đi phục vụ Tổng bí thư, báo cáo cái gì với ai phải được Tổng bí thư cho phép. Đồng chí là Uỷ viên Bộ chính trị phụ trách tổ chức thì các đồng chí làm việc với nhau, tôi là thành viên của đoàn, chỉ là uỷ viên Trung ương phụ trách đối ngoại, báo cáo như thế này là phạm kỷ luật.
Ông Thọ lại gọi đến Nguyễn Khánh, lúc đó Nguyễn Khánh là Chánh văn phòng trung ương Đảng. Khi đồng chí Trường Chinh xem danh sách dự kiến bầu Trung ương thì thấy gạt Vũ Quang ra. Ông nói:
- Đảng chủ trương trẻ hoá lãnh đạo, tại sao Vũ Quang trẻ như thế này lại gạt ra?
Ông Thọ nói: – Vũ Quang có vấn đề, người ta đang tố cáo!!!
Trước tình hình lúc này, cụ Trường Chinh ở lại làm Tổng Bí thư, ông Duẩn mất rồi. Mà đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, thì cụ Đồng làm chủ tịch nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ làm Thủ tướng. Ông Thọ rất sợ lộ cả quá trình của ông âm mưu. Nói để ta biết, hậu quả của nó đến cả Đại hội 9 này đã ra văn bản rồi.
Ai cũng biết ông Giáp, cử nhân luật kinh tế, năm kết thúc chiến tranh ông mới 64,65 tuổi thôi. Ông đã từng chỉ huy trong chiến tranh, đã tổ chức lực lượng. Ông biết thế nào là “mũi nhọn”, thì ông bị bịt lại. Lúc bấygiờ ông Tạ Quang Bửu còn sống, ông có viết bài báo Tổ quốc “Những mũi nhọn là đồng chí Võ Nguyên Giáp, phó thủ tướng phụ trách khoa học kỹ thuật. Viết bài đó là hơi sớm, thì tất nhiên cuối cùng ông Bửu bị (ông Thọ) gạt đi. Thế là đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Phạm Văn Đồng, các ông làm sao mà biết được ý đồ của họ? Từ đó dẫn đến chuyện “cố vấn”. Trong điều lệ Đảng chưa bao giờ có chuyện cố vấn. Đại hội 6 này, ông Thọ biết ông không được nữa rồi, ông mới đặt ra chức cố vấn. Các đồng chí đọc cuốn “Những kỷ niệm về Lê Đức Thọ”, mới xuất bản nhân dịp giỗ ông ấy, đồng chí Nguyễn Đức Tâm viết bài trong cuốn này. Ông tâm viết :- Tại sao trong Đại hội 6 lại chọn ông Nguyễn Văn Linh lúc đó chưa là Uỷ viên Bộ chính trị (ông là uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 4 nhưng mà bị gạt ra), còn khi được chọn làm Tổng bí thư thì ông chỉ là Uỷ viên Trung ương. Ông Nguyễn Đức Tâm nói công khai trong sách đó. Tức là Thọ biết mình không được nữa thì chọn một người mà ai cũng chấp nhận được là ông Linh. Thế là ông ấy đặt ra chức “cố vấn” để ông ấy cùng được ở trong với ông Trường Chinh và ông Phạm Văn Đồng. Và họ đưa ra cái văn bản Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp ở Đông Dương…ghê gớm quá!
Một ông Tổng tư lệnh đánh xong giặc rồi, hiện nay đất nước thanh bình lại tạo dựng là con nuôi mật thám! Họ làm như thế thì lòng tin nào còn? Ông Giáp đâu có phải như thế! Ông thống soái toàn bộ tướng lĩnh, làm việc với toàn những người sống bằng lương tâm, sống bằng danh dự chứ, sao lại con nuôi mật thám được. Đâu có phải cái chức nhỏ, đây là Tổng tư lệnh đánh thắng ba tên đế quốc. Ông Maxim, một trong những người trong toán “Con nai”, đội quân Việt – Mỹ năm 1945, ở với Bác Hồ, năm nay ông đã 89 tuổi rồi. Ông xin trở lại Tân Trào trước khi chết. Đưa đoàn này đi là bà Trần Thị Minh Châu, đại tá cựu chiến binh Kim Son, ông Giáp cũng trực tiếp cchỉ đạo đội quân ấy. Đánh xong Nhật, rồi Pháp, rồi Mỹ, nay lại dựng lên chuyện ông Giáp là con nuôi mật thám Tây, lại bảo:
- Con nuôi mật thám nên mới học trường Albert Sarraut, chứ con nhà nghèo ở tận Quảng Bình làm sao vào được trường Albert Sarraut?
Ông Giáp lúc đó học Albert Sarraut, nói chuẩn bị chọn ông sang Pháp vì ông học giỏi quá. Nhưng ông đi làm cách mạng từ 14,15 tuổi. Vợ ông Giáp là tiến sỹ Nguyễn Thị Quang Thái, bị tra tấn chết ở nhà tù Hoả Lò. Chị vợ là Nguyễn Thị Minh Khai, bị chém ở Hóc Môn. Thân sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm bị Pháp tra tấn chết ở nhà lao Phủ Thừa, thi hài cụ bị vứt ra ngoài, một ông Hoàng, cháu nội vua Thành Thái là Mệ Hiền lượm thi hài cụ Võ Quang Nghiêm đi chôn, đánh dấu lại để giữ mộ thân sinh Võ Nguyên Giáp, cho đến giải phóng miền Nam gia đình mới đi tìm mộ được.
…(đoạn này nghe không rõ) Ban chấp hành Trung ương tán thành đều bị bác bỏ. Đó là tháng 10-1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú làm đường lối (Hội nghị này chưa thông qua được luận cương). Bác Hồ bị đẩy lùi vào bên trong. Năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp ở Ma – Cao, một lần nữa Hà-Huy-Tập là Tổng bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Mãi đến năm 1941, Bác Hồ về nước cho đến năm 1951 Đại hội 2 lại bị cái “thiểu số phục tùng đa số”, lấy “tư tưởng Mao” vào điều lệ nên đến năm 1951 cụ Hồ lại bị “khoá”. Bởi vì Hồ Chủ tịch chỉ còn là Chủ tịch Ban chấp hành chứ không còn là Chủ tịch Đảng. Bác quyết điều gì không còn nữa mà phải được Ban chấp hành thông qua.
Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ về Pắc Bó, thành lập mặt trận Việt Minh, làm được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Đảng ngày ngày 11-10-1945, giải tán Đảng cộng sản Đông Dương , sau này thành lập Đảng lao động thì Lào trả về Lào, Miên trả về Miên, không có liên bang gì ở chỗ này. Mỗi dân tộc có quá trình hình thành riêng của nó, còn viện trợ quốc tế với nhau thì bình đẳng, chứ để nước lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó, cụ Hồ đã nhìn thấy vấn đề như thế, bây giờ nhìn vào tình hình nào là sắc tộc, nào là tôn giáo…cụ Hồ không có đặt vấn đề liên bang, Miên là Miên, Lào là Lào, Ta là Ta. Đến năm 1951, cụ Hồ chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành, mới nghe qua thì không thấy rõ, trước cụ Hồ là chủ tịch Đảng, mà chủ tịch Đảng thì khác Chủ tịch Ban chấp hành. Ví dụ trong việc Bác ký hiệp ước sơ bộ 6-3-1946 không cần triệu tập Ban chấp hành, Bác quyết định ký. Lúc đó, Bác chỉ sửa đổi hai chữ. Một bên, Bác là “Việt Nam độc lập” một bên Saiterny (là đại diện CH Pháp) là “Việt Nam tự trị”. Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác đánh thức Bí thư là ông Vũ Đình Huỳnh dậy, bảo là đã tìm được lối thoát, đi báo ông Hoàng Minh Giám chuẩn bị để ký. Bác chọn được một chữ mà hai bên đều chấp nhận được, đó là “Nước Việt Nam tự do”. Pháp rất sợ “độc lập” vì cả châu Phi họ sẽ đòi độc lập, cho nên nó chỉ muốn “Việt Nam tự trị” thôi. Bác bảo Tự trị là không được, độc lập thì Pháp không chịu nên chọn “Nước Việt Nam tự do” (Có chính phủ riêng, có quân đội riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng tên nước là “Việt Nam tự do” thế thì Sain Terny ký ngay ngày 6 tháng 3 (1946). Trước tình hình ấy mà chờ triệu tập Ban chấp hành để quyết định thì chết, bao giờ mới triệu tập kịp, mỗi người một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa “tư tưởng Mao” vào điều lệ, ghi là “Học thuyết Mác Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh; thì bác Hồ nói:
-Thôi, các ông ấy là đủ cả rồi, Mác – Lênin – Stalin – Mao Trạch Đông…là đủ rồi, còn cái “tác phong Hồ Chí Minh” thì miễn cho…
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói “Tôi không có tư tưởng à”. Lúc đó cũng chưa có nói đạo đức, mà chỉ nói Bác là “tác phong cần kiệm liêm chính”, giản dị thế thôi, chứ Bác không có lý luận.
Điều lệ ghi: “Thiểu số phục tùng đa số”. Bác Hồ ra họp chấp hành thì suốt đời bao giờ cũng “thiểu số”, mà thiểu số thì phải “phục tùng đa số” đó là “cái khoá”. Vậy là Bác Hồ chỉ được làm những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác không có chủ trương nữa, Về cải cách ruộng đất thì Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách ruộng đất kiểu này, mà Bác đã cho ra Sắc lệnh giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả các đồng chí lúc đó lòng dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ, nhưng lại tôn sùng ông Mao là “nhà lý luận Trung Quốc”, là cái mẫu của Châu Á” đem bê vào (điều lệ). Các đồng chí với lấy cái “mẫu” của Trung Quốc vào nên mới đưa ra đưa vào điều lệ Đảng như thế, và phải làm “thổ cải”. Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng đất, Bác chỉ “trưng thu, trưng mua, hiến điền” chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó mấy đồng chí trong Bộ chính trị, đặc biệt là đồng chí Trương Chinh (tấm lòng đồng chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế) nhưng quan điểm của đồng chí Trường Chinh là: -Không phát động nông dân thì nông dân cứ chịu ơn địa chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên. Khi ra biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là “thiểu số”. Cụ Vũ Đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền trưng thu, trưng mua rộng đất chia cho nông dân…
Xin nói về một bài của một đồng chí ký là “HT”, viết về những nỗi đau của Hồ Chủ Tịch, hiện nay lưu hành ở Hà Nội, cách đây mấy tháng rồi. Đầu bài ông đề là “10 nỗi đau của Hồ Chủ Tịch” nhưng trong bài đó ông (HT) giấu đi 2 cái đau, chỉ viết 8 cái thôi. Ông HT là trong Ban Bí thư trung ương Đảng, là nhà lý luận, là Trưởng ban Tuyên huấn, là Tổng biên tập báo Nhân dân lâu nhất, Chủ tịch Hội nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng: anh Ba (Duẩn) mới là nhà lý luận, còn Bác Hồ chỉ là yêu nước thôi. Cho đến bây giờ ông mới tỉnh ra. Trước đây ông viết cuốn “Từ tư duy văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ Chí Minh”, in xong thì bị tịch thu không tuyên bố nhưng sách bị tịch thu, bị đốt hết. Anh (HT) có đem đến cho tôi một cuốn, anh nói: sách của tôi bị đốt, sách của anh viết lại tái bản lần thứ 8, là may đó. Khi tôi ra cuốn này bị thu mất rồi, còn giữ được một cuốn đem cho ông…Ông là người hiểu biết như thế, lý luận như thế và một thời ông cũng là ghê lắm chứ, vậy mà có lúc ông nói:
-Thôi, cắt cái “mũ phớt” đi được rồi, (tức là ông Giáp đứng trước hàng quân đội cái mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo không được đăng ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì “trên” chỉ thị như thế cho nên ông nói “cắt cái mũ phớt đi”. Có lúc ông cũng lầm, nhưng lúc tỉnh ngộ ra thấy được sự thật thì ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ, những chỉ viết có 8 cái, còn hai cái không thấy đưa ra. Dân ta thì không biết, nay ông kể ra thì ông cũng ngoài 80 tuổi rồi. Ông nào cũng viết để lại, không in được thì cũng để lại cho các nhà nghiêm cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về những sự thật được nói ra từ trong tim người ta.
Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: năm 1967 Bộ chính trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để thông qua việc tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương tổng tiến công nổi dậy, Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ngay. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy, nhưng bị thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở Hungari. Nhưng sắp đến tết (Mậu Thân) rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này…đến giờ này…trên bầu trời ta từ hướng này…phương vị này…tuyệt đối là không nổ súng. Thời đó là đang chiến tranh, vào giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà Nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, (Bác ngồi sau hút thuốc):
- Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây ạ?
- Quan sát lại đi. Ông Vũ Kỳ nói.
- Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được, người lái nói.
Máy bay lượn 2 vòng không dám xuống, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn…
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái) chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại nhưng, dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn “tín hiệu chệch”, dưới vẫn cứ để thế, không sửa. Vòng một vòng và máy bay chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái, Bác vẫn ngồi tĩnh tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
An toàn rồi, anh ơi (Mừng quá – Nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy)
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ra đón, một lúc thủ tướng Phạm Văn Đồng, chỉ có thế thôi, còn không ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi, việc đầu tiên Bác gọi điện sang Bộ quốc phòng hỏi:
Tục lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà, thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà chúc tết đồng chí Võ Nguyên Giáp đang chữa bệnh ở Hungari chưa?
Anh em mình thường trao đổi cái tin này đã đưa ra được chưa? Tôi cho rằng đưa được, đến năm 98 rồi, nên đưa ra (tin này) vì sắp hết thế kỷ (20) rồi, ai hiểu thế nào thì hiểu, còn thì nên đưa ra nhưng đừng bình gì cả. Đừng đưa đăng một tờ báo mà phải đưa tin trên ba tờ báo, vì một tờ sẽ bị “đánh chết” ngay. Đúng thế! Khi cả ba tờ báo đăng bài đó, thì các ông trong Bộ Chính trị mời ông Vũ Kỳ lên hỏi:
Anh Kỳ nói: Tôi chỉ kể chuyện đi của Bác mà hồi ký của tôi viết về Bác.
Thế rồi “họ” cũng thôi. Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn, đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang viết cuốn “Bác Hồ là người cô đơn nhưng không cô độc”. Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ yếu là nói quan điểm của Bác bị “cô đơn” từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời, quan điểm của Bác luôn luôn thiểu số. Diễn ra trong tình hình hiện nay là vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo. Quan điểm của Hồ Chí Minh từ đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ không phải là đấu tranh giai cấp chuyên chính vô sản, cái “thiểu số” ấy đi suốt cuộc đời Bác. Đến được ngày hôm nay quan điểm đó của Bác càng ngày càng rõ ra là rất mừng. Điều đó nói rằng mọi khoa học nó ra đời không bao giờ dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội. …(Đoạn này nghe không rõ) Nói ra như thế để thấy rằng Bác Hồ càng ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá trình Bác cô đơn. Nhưng lúc nào “người ta” thấy “lợi” thì “người ta” nói là của Bác Hồ chứ “người ta” không làm theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến thăm khi di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ trách khu di tích đưa lên một chồng sách Mác-Lênin đặt lên giường bệnh của Bác, nói trước khi qua đời Bác đọc những sách này. Người ta tưởng làm như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn Nga này quý Bác Hồ, không phải! dòng di sản Bác Hồ chất Mác-Lênin có mức độ thôi. Người thường nói những câu của dân gian, của dân tộc, cho nên có người bảo Bác Hồ không có lý luận. Bác toàn nói ca dao, tục ngữ, trích Kiều, trích Chinh phụ ngâm, trích những câu của Mạnh Tử, Khổng Tử, Lão tử mà còn giá trị với thời đại. Trích câu của Phật, của Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông Putin đến thăm nơi Bác ở sinh thời thì người ta đem một chồng sách như thế, nhưng ông Putin ghi sổ (lưu niệm lại) không nói gì đến chuyện này, mà nói:
-Hồ Chí Minh, người thầy của dân tộc Việt Nam (mà không nói Chủ tịch nước). Người đã để lại trong trí nhớ nhân loại, rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen với cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói “làm quen với cuộc sống cửa Người”? Vì trên vị trí (Tổng thống) này nhìn tấm gương của Hồ Chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa cách dân, sống giản dị, Mà chính ông nói là khôi phục lại một nước Nga, một nước Nga yêu nước, truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên Xô ngày xưa những người ấy không phải không có tấm lòng, nhưng đem xoá sạch đi thì đó là người không có đầu óc. Đáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa sách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi lâm chung, đây lại làm một chồng sách “toàn Lênin”. Cụ nằm trên giường bệnh ốm thì làm sao đọc được các sách đó. Nếu để một cuốn Kiều thì không ai cãi được, hoặc để một tập thơ của Puskin, sách của L. Tônxtoi, của Victor Huygo, Sếch-pia, vì Bác thuộc thơ Puskin, và thuộc thơ tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ còn thuộc Victor Huygo, tôi là học trò nhỏ của Leptônstôi…Bác Hồ của chúng ta ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế, muốn nhận ra Bác thì phải nghiêm cứu lại các sự thực của lịch sử.Trước đây, tôi đã nói về cái nôi sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn, một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng không có nhiều.
Ta đọc sách, ta đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cứu, tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thủa thiếu thời thì con người ấy cũng bị hạn chế, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam Bộ, cụ Phan Thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi hương là phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường thi hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sỹ, các ông quan (xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói “quan” là phong kiến, quan là xấu, ở Chí Linh tôi nói thế mà suýt bị bắt).
Nói các quan “xấu” như thế sao lại truyền giòng nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm được!? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác-các ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vâỵ. Ở nhà cái ông giàu nhất nước, mà xưa nay chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng, là thân sinh Nguyễn Du và Nguyễn Du. Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp những cái (văn hoá cội ngồn) này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiêm cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiêm cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôicuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.
Ba bài thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh, mới đi hoạt động Đoàn thanh niên cứu quốc (chưa phải Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin, thì cụ nói thế này:
Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó “thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào nhà tù 1914, sau bác chống lại thì 1918 nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào Nhữ Tuyên, con trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không nữa thì đốt, đừng giao..cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào…về họ Nguyễn thì thế nào…và ngày chú Thành mở nước độc lập thì là Hồ Chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn là vì sao? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên dèo ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “Ba ông phỗng” năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại: Hôm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng (xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành mới lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều dầy dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 em bác.
(Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi)
Bác hỏi:- Mẹ, tại sao đêm bà lại khóc?
Về sau mới biết tâm sự của bà thế này: lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho con rể vào kinh đô học: bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc bán 5 sào ruộng cho con rể vào kinh đô học, vì “chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ ra chữ” bán ruộng cho con đi học, có chữ về thì cái chữ nó lại đẻ ra ruộng. Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất, nên không có gì mà khóc cả. Khóc là vì bà không có con trai. Ông tú thì mất rồi, con rể coi như con trai, con gái là chỗ dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi, (vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào huế, còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu).
Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống trở thành người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ông qua thời đó đều là Tiến sĩ, là Hoàng giáp, là Đình nguyên, ít ra là Cử nhân. Đúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái “chiếu văn”, các ông quản trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp: Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví “trèo truông mới biết truông cao” là nghĩa nó ra làm sao? Có được bao nhiêu nước để gọi là biển. Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên: “Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác con là anh mà chẳng vui chi cả”. Chú thì được cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông minh hơn anh. Rồi cụ Khiêm nói: mà chú ấy thông minh hơn bác thật…?
Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:
-Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn” này:
“Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con”
Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:
Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:
Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.
Rồi bác Khiêm lại nói:- Lúc đó bác cũng chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Cụ Khiêm nói, anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân, chú Thành lại chạy nhảy, rồi nói:
Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế? Cha bác nói:
Không phải ao đâu con ơi, đó là biển đấy chứ.
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn tức là Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại hỏi:
Cha ơi, tại sao bò nó lại lội trên biển? Cha bác cười bảo:
Không phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ.
“Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự, mà cũng là tâm trạng: – Cháu ạ, con người ta có số mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường, cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước chứ vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng đây lại nói là “em nhìn thấy trước anh, anh trông thấy sau”, cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh. Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được cái đó “ta lớn mau mau, vượt qua áo lớn”. Cái khẩu khí ấy là cái “ứng mệnh” nên suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!…
Cụ Khiêm nói với tôi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo Văn nghệ số Tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị Đại hội 5. “Búp sen xanh” chưa ra, tôi mới đưa hai bài thơ này và viết lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn Sinh Khiêm. Khi đó nhà văn Nguyễn Văn Bổng là Tổng biên tập báo Văn nghệ trước khi đăng mới đến hỏi tôi:
Có chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm hai bài thơ, trẻ con thì trẻ con thật nhưng rất trí tuệ; – Tôi nói:
Anh cứ đăng đi, có chi tôi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra thì người đến gặp tôi là bác Khương Hữu Dụng, nhà thơ nổi tiếng về thơ Đường, bác rất giỏi, bác năm nay 95 tuổi đang sống (Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương Hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà giáo, bác dạy học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng Tháng 8 bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng Dân chủ cụ Hùnh Thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
Tôi mới được đọc hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà mình cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào đây không?
- Chết, ai lại làm cái việc này thưa bác? – Tôi nói.
(Ta phạm sai lầm là khi viết cái điển hình chăn nuôi để phong anh hùng, chiến sĩ thi đua thì thường mượn lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến, toàn “tạo” thêm thành tích ba lăng nhăng. Còn đây là viết về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình thêm là mình có tội. Còn nếu của tôi thì tôi thành tác giả, việc gì mà nói là của Cụ Hồ). Cụ Dụng lại cười tươi, nói:
-Đọc xong mình sợ quá. Trần Đăng Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì không có mấy, thời đó làm gì có báo chí như vậy. Thông minh như Trần Đăng Khoa tưởng tượng “cành lá dừa như cái lược chải trên trời”, “quả na chín là quả na mở mắt”, “gà gọi mặt trời lên”… Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng lớn quá.
Sau này đưa vào cuốn “Búp Sen Xanh” thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời tôi lên làm việc, Thủ tướng có hỏi về hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10-4-1982, lúc đó đã kết thúc Đại hội 5, bác Phạm Văn Đồng nói như thế này:
Tôi có mấy điều để nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ kể với tôi, vì tôi sống có một mình… thỉnh thoảng ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác. Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng chí lại biết những chuyện này? Đồng chí cũng không phải là thư ký của Bác, đồng chí là nhà báo, thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có trường hợp cô út Huệ là người tiễn Bác xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không nói, còn bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại tìm được?
Bác Đồng mời tôi lên thì bao giờ tôi cũng có cái “thủ thân”, được khen thì tốt, nhưng khi bị hỏi thì sẵn sàng có cái “thủ thân” mà chìa ra. Tôi mang cả cuốn “Tất Đạt tự ngôn” đi theo, tôi nói:
-Cụ Khiên giao cho tôi tháng 6-1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai bài thơ này, (tôi chìa ra thì bác Đồng bảo tôi), đồng chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế này, vì không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị ruột của Bác. Đồng chí lại có cái duyên may được gặp các anh chị Bác Hồ, lại được các cụ tin cậy giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thường kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.
Sau tôi phải nói thật với bác Đồng: ông Bùi Xuân Phong xưa là bạn của cụ Hoàng Xuân Hành (chú ruột, mẹ Bác Hồ), cùng đi với cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết đâu. Cụ Bùi Xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ Hoàng Hoa Thám nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ tú Bùi. Nói điều đó là để bác (Đồng) tin được. Bác Đồng lại nói:
- Tôi hỏi đồng chí như thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang tôi cứ bâng khuâng, giá mà biết trước cái này thì Bác còn sống mà nhắc lại chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “đi mất rồi”! Có khi nào mà cái tuổi lên 5 mà cấu trúc được bài thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được giữa cái “tĩnh” với cái “động”, tư duy này tư duy “Dịch lý”.
Bác Đồng là người giỏi Dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của gia đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ vì toàn là những ông đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng nhiều người làm quan, như thế “họ” sợ mất lập trường nên không dám quay rõ. Bác Đồng là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên mới thấu hiểu được “cái động”, “cái tĩnh” trong bài thơ của Bác Hồ.
Rõ ràng cái gì thuộc về thiên nhiên tạo đều “tĩnh”, cái gì thuộc về con người là “động”. “Núi cõng con đường mòn”, Cha thì cõng theo con”, “Đường bám lỳ lưng núi” là tĩnh, “con tập chạy lon ton” là động. Thơ có thể là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu, đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn này hơi lạ, Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù cha nói đó là biển, mà vẫn cứ: “Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn”. Thế thì có lý trí gì không? Không chỉ là xúc cảm xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi năm châu bốn biển: Lịch sử nay đã cho thấy Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc không. Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển, theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn châu thôi. Tôi nói:
Thưa, Bác Hồ đến Sitnây tháng 11-1913, đi với cụ Đào Nhật Vinh, hiện nay cụ Vinh ở số nhà 13 đường Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành.
Tôi nói với Bác Đồng năm đó cụ Đào Nhật Vinh đang sống. Sau giải phóng miền Nam, tôi vào Sài Gòn sưu tầm tài liệu về Bác Hồ thì Dược sư Hồ Thị Tường Vân, con gái cụ Hồ Tá Bang giới thiệu gặp cụ Đào Nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định, xuống tàu năm 1912 (Bác Hồ năm 1911), cụ Đào Nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ, Achentina, sau này gặp (Bác) ở Đaka, Sênêgan, đến đầu năm 1917 gặp lại Nguyễn Tất Thành cuối đại chiến thứ nhất, Vì sau đó ông không đi tàu nữa mà lên Boócđô, lấy vợ đầm,… Sau này ông lại lấy một bà Việt Nam. Nếu cụ (Vinh) kể không thì không ổn, không đủ để tin số ảnh cụ chụp với Bác Hồ năm 1946 ở Pari khi Bác là thượng khách thăm chính thức nước Pháp (lúc đó cụ đang ở Pháp mở Hotel ở Boócđô).
Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp một số tư liệu với bác Đồng. Bởi vì viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên cứu về Bác đi đến tận nơi tận chốn Bác sống, hoạt động để tìm tòi tra cứu cả, báo chí nước ngoài họ viết thế nào thì ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết thật sự đi lần theo dấu viết Bác. Đã có ông nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy phép thôi, còn đi đến đâu ông nhờ đồng bào, mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả. Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta với nhà nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên Báo Nhân Dân đi sang hội nghị Pari với Lê Đức Thọ, nhân tiện ở đó nghiên cứu (về Bác) ở Pháp, rồi sanh Anh, thế thôi; chứ thực sự để hẳn người nghiên cứu về Bác Hồ thì không có. Vì vậy, nó cứ thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục gửi về rất nhiều (tư liệu).
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà cả một quá trình, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định của bác.
-Tôi nghe đồng chí bị thương ở mặt trận bề, khó khăn lắm!? Anh em xuống nhà (anh) nói đồng chí ở chật chội lắm! Tôi có trao đổi với anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để đồng chí đỡ vất vả…
-Thưa Thủ tướng, cảm ơn Thủ tướng. Bây giờ Thủ tướng cho tôi căn hộ, Thủ tướng mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ trung làm được công việc đột xuất mà Thủ tướng thưởng thì không ai nói. Thủ tướng là người lãnh trọng trách lo cho cả đất nước. Một người đột xuất như Đặng Thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc được giải thưởng Sôpanh, người châu Á đầu tiên được giải, thì Thủ tướng cho một căn hộ, để Đặng Thái Sơn đón bố là Đặng Đình Hưng về ở, anh Hưng bị cái án “Nhân Vân Giai phẩm”, bây giờ khổ quá, nay con ông làm được cái việc vinh quang đó. Thủ tướng cho một căn nhà. Ai cũng quý cả, quý tấm lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo của người con đối với cha, như thế là đẹp.
Tôi là người tham gia cách mạng sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa. Nay trở về, đòi không được. Thuê một chỗ khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó…thì to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện. Nhà tôi đòi không được, giờ tôi lại lên đây, tôi không xin (nhà) mà Thủ tướng cho một xuất ở thì tôi mang tiếng, Thủ tướng cũng mang tiếng: Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì mang tiếng “ban phát” cho cá nhân người này người kia: còn tôi thì mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi “để xin nhà”. Dân ta thường nói “Ăn mày nhà quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực lòng với bác Đồng như thế nên bác rất quý. (Nay thấy anh Trần Tam Giáp, thư ký bác Đồng viết bài để đăng báo Nhân dân ngày giỗ năm Cụ “ra đi”, anh có nhắc đến chi tiết này).
Như thế là đến như bác Phạm Văn Đồng ở gần Bác, một trong những người gần gũi nhất của Bác Hồ như bác Võ Nguyên Giáp, bác Trường Chinh…xưa người ta nói “Tứ trụ” là vậy! Nhưng thời niên thiếu của Bác thì không có điều kiện để tìm hiểu để biết được. Còn tôi có duyên may trong quá trình đi khai khác để sau này viết, trước chỉ nghĩ ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng sau khi đã có cái “vốn” mới nghĩ đến chuyện “đi buôn xa buôn gần” viết cái này cái khác.
Như thế là tuổi nhỏ Bác Hồ đã được khai tâm chữ nho rồi. Trong nhà bà ngoại và mẹ khai tâm cho Bác lúc 3 tuổi; 5 tuổi thực sự học chữ nho. Có người nói Bác học ít là ngộ nhận, không phải. Vào đến Huế, ông Nguyễn Sinh Sắc tạo ra một cái “chiếu” trí thức, gọi là các văn nhân thời đó, từ Đào Tấn đến Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Nguyên Cẩn…đều đến nhà này. Sau này là Phan Văn San tức Phan Bội Châu, vào Huế gặp cái “chiếu” của ông Nguyễn Sinh Sắc ở trong ngõ Đông Ba. Tại sao viết về Bác người ta lại “ngại” viết về cái này lắm ? vì toàn là các gương mặt phong kiến, quan lại cả. “Họ” tưởng rằng Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu Mác Lênin”, thực ra Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu quan trường” như thế này thì “giảm” mất cái giá trị nháy nháy của Bác đi. Cái này các giới nghiên cứu Việt Nam cần làm rõ Bác Hồ là con đẻ của Việt Nam, còn Mác Lênin có đến với Bác là một cái vô cùng quan trọng , nhưng là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là “nền tảng” được, nền tảng là “Văn hoá Đại Việt”, văn hoá Việt Nam đi từ nàng Âu Cơ. Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, trăm con, có miền ngược miền xuôi…Còn Mác là sản phẩm của thế kỷ 18,19 dưới ánh sáng của Châu Âu ông vĩ đại ở thời đó, nhưng vĩ đại đến mức nào đó…chứ cái này năm 1924 Bác đã viết rất rõ:
“Học thuyết Mác là học thuyết của Châu Âu mà Châu Âu chưa phải là cả thế giới. Vì Mác không có điều kiện để nghiên cứu văn hoá phương Đông và lịch sử phương Đông, chúng ta có quyền bổ sung cho học thuyết Mác bằng văn hoá và lịch sử phương Đông”
Đây là tôi nói lại ý của Bác. Những điều ấy Bác viết từ năm 1924 lại cho là “hỗn”, là “đại xét lại” rồi còn gì nữa! Mác thì nói về giai cấp vô sản và tư bản, còn Bác thì Bác đi tìm vấn đề giải phóng dân tộc. Còn đây là vấn đề của Châu Âu phát triển chủ nghĩa tư bản thì phải đánh đổ tư bản để giải phóng vô sản. Bác thì khác, có vấn đề giai cấp đấy, nhưng không phải giai cấp như ở châu Âu. Văn hoá của Bác không được đưa ra suốt bao nhiêu năm, bây giờ đã được đưa vào “Toàn tập” rồi (in lần thứ 2)
Con người có tư tưởng như vậy thì cái nôi phải như thế nào? Hồi nhỏ Bác đã gặp và chịu ảnh hưởng những gương sáng nào, diện mạo nào?
Trên “chiếu văn” của Nguyễn Sinh Sắc nào là Đào Tấn, tổng đốc An Tĩnh sau về làm thượng thư Bộ Công, rồi thượng thư Bộ Hình, rồi đến Nguyễn Thượng Hiền. Nếu quên nói vị hiền tài này là tôi có lỗi với Bác, là không đầy đủ sự hình thành nhân cách của Bác. Rồi cụ Cao Xuân Dục – một ân nhân của ông Sắc, cụ Đặng Nguyên Cẩn đốc học, thân sinh cụ Đặng Thai Mai, cụ Ngô Đức Kế…Cái “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc năm 1896, 1897, 1898, 1899…từng ấy năm là nơi hội tụ khá đầy đủ các nhà khoa bảng lớn ở đất nước ta, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Phong người Yên Mã, huyện Yên Thành, Nghệ An (đỗ cùng khoa với Phan Đình Phùng)
Những người đó đi đến “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc thì cậu bé Nguyễn Sinh Cung (còn gọi là Côn) hầu trà hầu nước cha tiếp những vị khách này thì chịu ảnh hưởng khá lớn, lại chứng kiến việc vua Thành Thái bị đi đày. Ông Khiêm có kể lại câu chuyện mà sau tôi dựng lại trong phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”, viết trong “Búp sen Xanh” tái hiện lại.
——-
(Tác giả chú thích cho đoạn trên)“Cụ nguyễn Thượng Hiền là hoàng giáp tiến sĩ, người Liên Bạt, Hà Đông, đỗ đầu khoa 1895, vừa đỗ xong thì có chính biến: vua Hàm Nghi “xuất bôn” đánh đồn Mang Cá thất bại thì Tôn Thất Thuyết đưa vua đi, sau đó ông Đồng Khánh lên không thừa nhận khoa thi này, tổ chức thi lại, ông lại đỗ hoàng giáp tiến sĩ lần thứ hai. Lúc này cụ ở Quốc Tử Giám (trong Huế) là Biên tu Quốc sứ quán.
Trần Đình Phong dạy học, học trò là những nhà khoa bảng như Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cần…khi ông vào nam làm đốc học ở xứ Quảng học trò của ông là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phạm Liệu, Trần Quý Cáp. Một ông tiến sĩ mà dạy học trò tạo nên những nhà khoa học lớn như vậy. Chúng ta chỉ nhớ Chu Văn An thôi mà quên mất Trần Đình Phong cũng đỗ tiến sĩ với Phan Đình Phùng năm 1878.
Phim làm xong rồi, trong giới điện ảnh họ “đánh nhau”, tôi ở giữa là người viết kịch bản, tác giả kịch bản 4.558.000đ, đạo diễn chính 4 triệu, diễn viên chính Thu Hà đóng vai út Huệ 2 triệu. Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ 2 triệu, ông Tuấn quay phim chính 2 triệu. Làm xong phim rồi, ký hợp đồng rồi, mỗi tỉnh mua mấy bản, bên Pháp mua mấy bản, tính toán cả rồi. Bộ chính trị duyệt rồi đưa lên FAFIM. Cục Điện ảnh “đánh nhau”, “đánh” đến nỗi mà tiền tráng phim này ở Băng Cốc (lúc đó ta chưa tráng được phim màu) chỉ lấy được mấy bản để chiếu, còn vẫn để ở bên Băng cốc. Nói thế để thấy rằng phim Bác Hồ gian truân lắm. Diệp Minh Châu tạo một tượng Bác Hồ bằng đá nguyên khối và đã tạc xong rồi, định dựng tượng Bác Hồ với mấy đứa trẻ nhỏ thế thôi. Không hiểu nổi công trình làm về Bác tại sao lại khó đến thế.
——
Căn cứ vào lời kể của ông Khiêm , bà Thanh, (tôi) tra lại cái gốc vấn đề. Biết bao nhiêu người kể cho tôi nghe, sau khi vừa giải phóng xong, đi đến đâu …(mất một đoạn ngắn nghe không rõ) chỉ đưa cái thần của nó thôi:
Nhân dân nô lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?
Thế là các anh phê ngay:- Tại sao lại đề cao Thành Thái như thế này? Thành Thái ngồi trên ngai vua làm chi có chuyện thương dân như thế này?
Khi chìa bản gốc ra, tôi nói: – Nếu thực sự yêu ông cha, quý trọng ông cha thì những bài thơ này (còn) phải đưa vào dạy trong trường nữa chứ!
Từ đó tôi không đưa bài thơ này ra nữa vì có người còn nói thơ này của Triều tiên, có người lại nói bài thơ này thơ Đường chứ đâu phải thơ của Thành Thái. Vừa rồi trường Quốc học Huế đã công bố chính thức bài thơ đó của vua Thành Thái. Còn khi tôi đưa ra thì người ta nói ông Sơn Tùng mượn bài thơ nổi tiếng bên Hàn Quốc (ông nói là Hàn Quốc chứ không nói Triều tiên), khổ thế!
Ông Khiêm kể tiếp: – Buổi sáng hôm đó cha bác ngồi trước linh sàng khói hương nghi ngút không vào Đại nội để chầu. Mọi khi ăn sáng một bát cháo hoa rồi vào nhà Tả Vu chầu vua, nhưng hôm đó đi ra đi vào không thấy cha chầu, chú Thành mới hỏi:
Thưa cha, hôm nay cha không vào tả Vu để chầu?
Lúc đó ông Sắc làm thừa biên Bộ lễ, thì “người ta” nói: – Tại sao cha Bác Hồ lại làm thừa biên Bộ Lễ của triều Nguyễn bán nước thế này (hồi đó không được nói, còn bây giờ thì nói thoải mái).
Nồi cháo, ba cha con ăn sáng, vẫn để đó, cha cứ ngồi thắp hương, hỏi thì cha nói:
- Vua đã bị bắt giam ở nhà Thái y rồi. Ông Khiêm mới hỏi:
- Thế có biến trong triều hở cha? Cha nói:
- Không có biến chi cả, toà Khâm sứ nó bắt vua:
—–
(Tác giả chú thích)“Ông vua Thành Thái, con vua Dục Đức, lên ngôi mới có 10 tuổi. Ông lên ngôi 1889, khi ra Bắc Hà 1902 lúc đó mới vượt tuổi thiếu niên. Đi trên cái long xa, lần đầu tiên rời khỏi kinh đô Huế ra Bắc Hà dự lễ khánh thánh cầu Doumer (cầu Long Biên). Đi dọc đường thấy dân chết đói, ăn xin mà cảm xúc làm bài thơ ấy.
——
Thế thì bây giờ ta đọc lại bài thơ của vua Thành Thái làm khi ra Bắc mà bác Khiêm thuộc từ đó được bác chép lại, chữ của Bác, Bác mất đi rồi thì cháu còn bút tích. Bút tích của cụ Khiêm chữ nho rất đẹp. Khi phát ngôn nhân của đoàn ta ở hội nghị Pari nghe được bài thơ này thì giật mình: Mình là dòng dõi Tôn nhất mà không biết (đó là ông Nguyễn Minh Vỹ).
Hôm ở Câu lạc bộ Thăng Long, tôi nói vui: – Thưa các bác, đây toàn là “quan đại thần” cả, nào là Bộ Chính trị, nào là Bộ trưởng…nhưng tôi hỏi bây giờ ai trong lãnh đạo Đảng còn nhớ thương dân bằng ông vua này?
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
(Quan võ, quan văn họ chỉ sung sướng với bộ cẩm bào, lấy làm hãnh diện sang trọng với bộ áo. Ta đây làm vua ở ngôi thiên tử mà cô đơn, không ai hiểu ta. Uống ba chén rượu trong hoàng cung như uống máu quần chúng nhân dân. Uống một chén trà tiến vào cung vua như uống mồ hôi trăm họ).
Một ông vua ngồi trong cung ăn ngon, mặc đẹp mà thấy đau xót vì dân cực khổ, nói nôm na như vậy, thế thì ta không học vị vua yêu nước, thương dân này thì học ai? Học cha ông học ngay đây này, thanh liêm thì học ở đây, ở thế kỷ 20 này.
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
(Nước mưa trên trời kia phải chăng nước mắt của trời cũng như nước mắt của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong hoàng cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy nhiêu)…Ghê gớm quá! Thấy trời mưa mà như thấy nước mắt của dân đổ xuống! Bây giờ bọn tham nhũng không còn biết xấu hổ với cha ông.
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Cái việc mất nước nguyên nhân thế nào lúc này ta thôi bàn, phải bàn cái chỗ này: tìm con người cứu nước thì ai đây, phó cho ai đây!)
Vậy Nguyễn Tất Thành không ảnh hưởng ở những người này thì ảnh hướng ở đâu?
Cha làm quan trong triều, buổi sáng đó không ăn sáng mà ngồi trước nén hương, vì thấy vua bị bắt, chánh khâm sứ Trung kỳ nó bắt. Lệnh bên kia tố cáo đó là “có âm ưu lật đổ” do Trương Như Cương là ông cậu, em mẹ vua, tố cáo. Nỗi đau như thế mà ta không đem cho anh em đồng chí đồng bào biết để mà học. Đây là nhân cách làm vua, nhân cách làm tướng, nhân cách làm thầy. Học là học ở đấy chứ đâu. Tôi cho rằng ta rời bỏ cha ông, rời bỏ cái văn hoá dân tộc là không đúng, tất nhiên ta không dân tộc hẹp hòi, phải học cái tinh hoa của nhân loài, của dân tộc khác, nhưng học cái tinh hoa thôi, cái gì hợp thì ta học. Chính Bác Hồ là con đẻ của văn hoá dân tộc, đi ra thiên hạ, nằm gai nếm mật, đến nơi này nơi kia để khảo sát.
Về điều này tôi nói với đồng chí Tố Hữu lúc đó là Trưởng ban tuyên giáo, Uỷ viên Bộ chính trị…khi duyệt kịch bản phim của tôi ông bảo cái phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn” lúc bấy giờ lấy tên là “Con đường năm ấy” là để khẳng định con đường của Bác Hồ, tôi nói:
- Bác Hồ là hệ quả của văn hoá dân tộc, là truyền thống yêu nước, chứ không phải là Mác Lênin. Mác Lênin nền tảng từ đầu, mà là một mảng phần sau. Ông Tố Hữu nói:
- Không, không, giai đoạn này tôi không thích ca ngợi, giai đoạn Nguyễn Tất Thành chẳng là cái gì cả, giai cấp vô sản giác ngộ thì mới đến được chủ nghiã Mác Lênin, đó là lượng thành chất…
Hôm đó cả anh Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ văn hoá, Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật quốc gia, đã duyệt (phim) rồi lên xin ý kiến ông Tố Hữu; anh Vũ Năng An giám đốc xưởng phim truyện, anh Hải Ninh là đạo diễn; anh Đào Xuân Tùng, đồng tác giả kịch bản “Con đường năm ấy” và nhà văn Hoàng Tích Chí ngồi nghe anh Lành nói thế…
Ông Tố Hữu còn nhấn từng tiếng:
- Phải sang Pháp, giai đoạn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhờ giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho mới trưởng thành. Chỉ có Nguyễn Ái Quốc, chứ còn Phan Chu Trinh ở bên ấy bao nhiêu năm có biết gì đâu? Rồi Phan Văn Trường cũng ở Pháp rất lâu mà có biết gì đâu? Chỉ có giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho (Nguyễn Ái Quốc)…còn giai đoạn Nguyễn Tất Thành chưa là cái gì cả!
- Kính thưa anh – tôi nói: – một thanh niên 20 tuổi đẹp trai như thế, con quan thừa biện Bộ lễ, nho học có, tây học có, học troisieme annéc Quốc học Huế, học chữ nho người ta gọi là “kiêm bị”, có thể đi thi được, nếu lấy cô vợ đẹp được quá đi chứ! Tại sao Nguyễn Tất Thành bỏ tất cả để ra đi? Bài học ấy lớn quá. Ngay trong tâm hồn Nguyễn Ái Quốc có cả sự hoàn chỉnh nhân cách phương Đông để đi đối thoại với phương Tây. Nếu không biết gì khi sang bên kia thấy gì cũng vơ cả, như thế thì hỏng. Nguyễn Tất Thành ra đi thì cô út Huệ ở lại, cô là con quan Bộ Công Lê Quang Hưng, Nguyễn Tất Thành bỏ cả cái tình cảm, tình yêu này mà đi vào nghĩa lớn, thì đó là bài học.
Khó là như thế, bây giờ tìm hiểu Bác Hồ, lịch sử của Bác là con đẻ của dân tộc này, kết hợp với mọi cái, tìm lượm được mọi cái hay ở bên ngoài. Ở bên Mỹ hiện nay có mấy cuốn sách viết về Bác, nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu, nhất là Lady Borton, bà hiện đang ở Khách sạn La Thành, bà nói tiếng Việt như anh em mình, bà chuyên nghiêm cứu Bác Hồ thời ở Mỹ.
Như vậy, Bác Hồ vào Huế là để học thêm được cái gì ở Huế ở tuổi thơ ấy? Đó là cái nôi văn hoá của dân tộc hội tụ ở Huế. Huế là văn hoá bản địa của kinh đô, đặc biệt các diện mạo đại khoa vào trong Huế. Một con người như cụ Cao Xuân Dục, (đến nay hai lần tôi đề nghị với Nghệ An mà chưa đặt cái tên đường cho cụ), tất cả các bộ sách Sử và văn hoá ở triều đình Huế có đến bây giờ được sắp thành văn bản là do ông. Cụ Cao Xuân Dục là ông quan từng làm tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, sau xuống dưới này, cùng Hoàng Cao Khải.
Dân ta công bằng lạ lùng, đây không phải là quy định trong sách đâu. Ông Hoàng Cao Khải lúc đó phải điều cả cụ Cao Xuân Dục đi dẹp Bãi Sậy.
Cả hai ông cùng đi dẹp Bãi Sậy nhưng cụ Cao Xuân Dục không bị mang tiếng là Việt gian mà Hoàng Cao Khải mang tiếng đại Việt gian. Làm quan nhân nghĩa rất khó, nhất là ẩn tại triều.
Những bài học của ông cha ta lớn như thế mà nó còn có quan hệ xung quanh diện mạo Hồ Chí Minh đều ảnh hưởng từ những cái này. Ông Đào Tấn cũng vậy, làm tống đốc An Tĩnh mà khởi nghĩa Phan Đình Phùng, phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp khởi nghĩa Phan Đình Phùng, đàn áp phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp, trái lại còn dựng được vở tuồng “Hộ thành” ca ngợi Phan Đình Phùng, ông ngầm giúp đỡ khở nghĩa Phan Đình Phùng, ngầm giúp đỡ phong trào Phan Bội Châu. Cao Xuân Dục cũng vậy, ông xuống Bãi Sậy mà không đàn áp, nên ông không mang tiếng đàn áp mà trở thành một nhà văn hoá.
Tất cả sách Sử từ xưa để lại đều là ở cụ Tổng tài Quốc sử quán, cụ đỗ cử nhân, đồng khoa với cụ Phan Đình Phùng, nhưng đại khoa cụ không đỗ. Đầu thế kỷ (20) này cụ vừa là Tổng tài Quốc sử Quán vừa là thượng thư Bộ Học, vừa là tế tửu Quốc tử giám, vừa là Đông các Đại Học sĩ tứ trụ triều đình. Cụ về hưu năm 1923 nhưng vẫn là nhà văn hoá, con của cụ là Cao Xuân Tiếu, cháu nội Cao Xuân Huy nhà lão học lớn nhất nước ta hiện nay, nhất là Cao Xuân Hạo. Một gia thế như thế đều có quan hệ với gia đình cụ Sắc.
——-
(Tác giả chú thích)“Cụ Hoàng cao Khải lúc đó là ông quan lớn nhất nước ta, được phong phó vương ở Bắc cụ Cao Xuân Dục làm tờ Thiên vô nhị thật, quốc vô nhị vương, trời chỉ có một mặt trời, nước chỉ có 1 vua, chứ sao lại hai vua. Sau khi áp Bãi Sậy Hoàng Cao Khải được vương Quân công.”
——–
Nguyễn Sinh Sắc được học là nhờ hồi đó được hưởng một suất khuyến học. Cụ Cao Xuân Dục để ra một số ruộng khá lớn để lấy hoa lợi giúp cho học sinh nghèo. Ông Sắc được nhận số tiền khích lệ đó, đồng thời được vào Quốc Tử Giám cũng là nhờ cụ Cao Xuân Dục. Nếu nghiên cứu Bác Hồ mà không nghiên cứu những khía cạnh này thì nó mất cội nguồn nhân nghĩa. Cội nguồn nhân nghĩa ở gia đình Bác Hồ đứng được ở Huế, sống được ở Huế và tiếp cận được những vấn đề văn hoá…đều là nhờ cụ Cao Xuân Dục, cụ có những ân nghĩa đối với thân sinh Bác Hồ.
Như vậy (nghiên cứu) lịch sử phải công bằng, phải đi tìm những cái từ cội nguồn. Nói như thế để các thầy các cô sau này nghiên cứu về Bác Hồ cần nghiên cứu bổ sung thêm, hoàn chỉnh thêm. Con người anh hùng dân tộc được sự nuôi dưỡng qua nhiều bước đường, qua nhiều thời kỳ mới nên con người đó, chứ không phải tự dưng nó đến. Thế thì ông Cao Xuân Tiếu mua ngôi nhà của lính “khố vàng” cho ông Nguyễn Sinh Sắc để ông Sắc đưa vợ con vào ở. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Thứ hai là: khi bà Sắc chết rồi ông Sắc chưa đỗ đại khoa (đến 1901 khoa Tân Sửu ông mới đỗ). Trong khi còn tang vợ vừa mới qua đời, con trai út vừa mới chết, ông Sắc cùng ông Phan Chu Trinh cả hai ông đều bị đánh hỏng trong khoa thi này. May sao cụ Cao Xuân Dục là Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thí khoa Tân Sửu (1901), khi phúc khảo lại toàn bộ thì thấy có hai bài của hai ông Phan Chu Trinh và Nguyễn Sinh Huy (lúc này ông Sắc đổi tên là Huy). Cụ Cao Xuân Dục nói:
- Chết, những bài này mà đánh hỏng thì hậu thế người ta nói thi cử không công bằng.
Ông làm tờ trình lên Bộ học và lúc đó cụ Đào Tấn cũng góp phần tâu lên vua Thành Thái xét lại hai vị sĩ tử này. Hai sĩ tử này xét về văn bài phải là hàng đầu bảng mà bây giờ đánh hỏng là không được. Lúc bấy giờ có hai phái: – phái Nguyễn Thân muốn đánh hỏng, nói là hai ông này phê phán nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, là “khinh ngôn”. – phái nữa là Đào Tấn nhận xét thi cử là để chọn những hiền tài, đánh hỏng những người thế này thì hậu thế người ta khinh lại. Sau cả hai phái đều lấy lại nhưng dung hoà là không lấy tiến sĩ nữa mà lấy phó bảng, nên hai ông đều là phó bảng. Đời vua Thành Thái, khoa thi này có 9 tiến sĩ, 11 phó bảng, lấy thêm 2 phó bảng thì cụ Phan Chu Trinh bị đội bảng thứ 13, cụ Sắc thứ 11.
——-
(Tác giả chú thích)“Vào học Quốc Tử Giám là quan đại thần, mà ông Sắc chỉ là con một người bình thường. Cụ Cao Xuân Dục phải nhận cho vì lúc đó cụ đang là thượng thư Bộ Học và là Tế tửu Quốc Tử Giám.
Khi vào Huế cụ Sắc túng thiếu. Con trai cụ Cao Xuân Dục là Cao Xuân Tiếu (đi thi cùng khoa với cụ Sắc) đỗ cử nhân, sau đó đỗ phó bảng, cụ Sắc không đậu, khoá sau mới đỗ. Hai người là bạn học của nhau, cụ Cao Xuân Tiếu mới mua một ngôi nhà ở ngõ Đông ba của một lính “khố vàng” về hưu ở An cựu để ông Sắc đưa vợ con vào đây. (Búp Sen Xanh tôi không đưa đoạn này vào, sợ mang ơn triều Nguyễn quá nặng, chỉ cho tôi nói là nhà ông lính “khố vàng” thôi)
——-
Nói như thế thấy rằng cụ Cao Xuân Dục có mối liên quan hệ tình cảm sâu sắc với gia đình Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, rất nhiều tình tiết như thế. Sau khi đỗ đại khoa thì vua Thành Thái ban “ân tứ vinh quy”, ban áo mão để đi dự tiệc vườn Thượng uyển được “kén vợ”, chọn một cô nào thì tuỳ ý. Nguyễn Sinh Sắc được cụ Cao Xuân Dục định gả con gái yêu của cụ là Cao Thị Trâm làm vợ kế để giúp cho các cháu đang thơ như thế này, mà đứa nào cũng học giỏi, ngoan, nên cụ mời Nguyễn Sinh Sắc đến tư dinh, ông nói trước để khi ông Sắc chọn (vợ) sẽ lấy Cao Thị Trâm, con quan đại thần. Cụ nói: – Tôi muốn giúp anh người hiền đức mà “thất nội trợ…”
Ông Sắc bèn phủ phục xuống nói: – Con xin tạ ơn Cụ lớn và xin Cụ lớn miễn cho con việc này, là vì con được như hôm nay là nhờ cha mẹ vợ, gia đình vợ, bây giờ vợ mất rồi, con rể đỗ đại khoa, vinh quy bái tổ mà lại nằm trên cáng và một võng người con gái khác cùng về theo thì điều này đau đớn cho mẹ vợ của con. Vậy xin quan lớn, miễn cho con, chứ không phải con chê , chê là không phải, là xúc phạm… nên con xin tạ cái ơn hải hà này.
Đó là nhân cách một quan đại thần, nhất phẩm triều đình muốn chọn người tài để gả con gái cho, mà con gái thì mới 18 tuổi, trong khi ông tân khoa đã 3 con rồi, có tài, để giúp “nâng khăn sửa túi” cho ông (Sắc) này, giúp ông nuôi con, dựng nghiệp. Tôi nói phụ thêm về điều này. Cụ Cao Xuân Dục gả con gái cho vị Hoàng giáp Tiến sĩ Đặng Văn Thuỵ (cụ Đặng Văn Thuỵ là thân phụ của hai phó bảng Đặng Văn Oánh, Đặng Văn Hướng), gả con gái cho phó bảng Hoàng Tăng Bí, thân sinh ông Hoàng Minh Giám; gả con gái cho phó bảng Lê Xuân Mai làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An…
Khi tôi tìm vào nhà cụ Hồ Tá Bang (người sáng lập trường Dục Thanh), nhiều người kể lại, Nguyễn Tất Thành ngày xưa còn trai trẻ mà đã để được trong trí nhớ mọi người đương thời những ấn tượng tốt đẹp, không dễ đâu. Chứ không phải lên đến lãnh tụ người ta mới quý. Người ta quý Bác Hồ đi cứu nước, cứu dân là bước sau này, còn trước hết, khi Bác còn là một cậu học trò đã có nhân cách học trò, làm thày giáo có đức độ người thày. Là cậu bé khi làm thơ đã có cái gì manh nha biểu hiện ở con người ấy, đứa bé ấy đã biểu hiện những đức tính đẹp, đức tính đẹp đó cũng biểu hiện những truyền thống nho gia trong gia đình, trong quê hương, trong thầy học vv… đã tác thành từ buổi ban đầu của những con người thời còn trẻ như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm, nhất là Nguyễn Tất Thành.
Tôi “đi tìm” Bác Hồ là tìm ở những khía cạnh này, không phải “tìm” Bác Hồ trên con đường Mác Lê nin, cái đó là sau, đó là bước quan trọng nhưng là thứ hai. Cái cốt cách con người sau trở thành diện mạo tiêu biểu cho nên văn hoá dân tộc là chính cái ấy, là ở những khía cạnh này, trong gia đình, trong bạn bè của cha, của người thầy…tất cả giai đoạn ở Huế này rất quan trọng. Và chính điều ấy lại biểu hiện một khía cạnh nữa là sau khi ông Sắc trở về quê, chăm sóc mẹ vợ, thì có “trát” của Đô sát viện (như Ban tổ chức bây giờ, các quan được cử đi đâu là do Đô sát viên cử) mời Nguyễn Sinh Sắc vào làm quan ở Bộ Lễ. Vì mẹ vợ không có con trai, nuôi con rể ăn học, nay ở một mình, nên ông xin ở lại chăm sóc mẹ vợ. Ông Sắc đưa các con đi khắp nơi, các vùng quê có dấu ấn sâu đậm vừa xẩy ra ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi thực dân Pháp tàn sát trong các cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Văn Thân, Đông Du…Thế thì Bác Hồ hồi nhỏ được cụ Sắc đưa đi khắp vùng Nghệ Tĩnh, ra đến tận Quỳnh Đôi, đất gốc của họ Hồ.
Ông Khiêm kể chuyện như sau:
- Cha Bác ở xóm Du Đồng mấy tháng, gần dinh cụ Thượng, sau gọi là cụ Quận (tức quận công Hoàng Cao Khải, như ấp Thái Hà) và tôi có đến gặp cụ Lê Thước, hỏi thì cụ Thước kể:
- Hôm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành cái dinh thự của cụ Quận công, có mời các quan sở tại đầu tỉnh cho đến các quan huyện. Trên cái sân lớn, ngoài có tường hoa, đám trẻ con cứ nhìn qua khe tường thấy các quan trong sân toàn uống rượu tây, thì cái đám học trò, cái đám trẻ đó (như cụ Khiêm kể lại – trẻ nhưng toàn học trò chữ nho, nào là Phạm Gia Cần, Lê Thước, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm), thấy các quan trong đó đọc thơ, bình thơ để mừng quan Quận công mới xây dựng xong dinh thự. Đặc biệt có một cái bể cạn rất lớn trong đó có núi non bộ, cây si tính đến trăm tuổi, có ba ông lão nho nhỏ. Các quan bình thơ trong sân, đám học trò đứng ngoài nói to một câu “Các quan làm thơ dở quá!”
Nghe thế, ông Hoàng Trọng Phu ra quát lũ trẻ, thì một số bỏ chạy (cụ Khiêm, cụ Thước, cụ Cần đều kể như thế), chú Thành chạy nhưng chậm thôi. Lúc đó cụ Hoàng Cao Khải mới ra, nói:
- Thôi, đừng doạ nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui lớn, các cháu đến mà đuổi thì dân làng người ta cười. Các cháu nói gì thì nói, nhà mình có tiệc mà nạt các cháu không được. Rồi cụ nói tiếp: – Cháu nào khi nãy chê thơ của các quan thì bây giờ đọc cho các quan nghe một bài thơ, ông thưởng.
(Ông Hoàng Trọng Phu trẻ thì nạt, còn cụ Hoàng Cao Khải già thì mời các cháu vào) Đám trẻ độ chục đứa mới quay lại, Cụ Hoàng nói tiếp.
Cháu nào khi nãy chê thơ các quan, bây giờ vào đọc bài thơ, dù có dở ông cũng thưởng, vào đây.
—-
(Tác giả chú thích) Ấp Thái Hà lấy cái tên Hà Tĩnh đặt cho ấp ở Hà Nội. Ông Hoàng Cao Khải có xây dựng một dinh thự ở quê giống cái ấp ở Thái Hà ở Hà Nội.
Cụ Lê Thước đỗ giải nguyên Hán học khoa cuối cùng 1918, sau học Cao đẳng sư phạm là thầy học của lớp người như Tôn Quang Phiệt là bạn học cùng tuổi với Bác Hồ, sau cụ Thước về Viện Văn học.
Cụ Hoàng Cao Khải là tuần phủ Hưng Yên. Hoàng Trọng Phu là con Hoàng Cao Khải, lúc đó ở Tây mới về, cùng trường thuộc địa với Thân Trọng Huế, Lê Văn Miến, ba người này là ba con quan đại thần được chọn đi học trường thuộc địa ở bên Pháp, học xong thì Lê Văn Miến ở lại học thêm hội hoạ, còn Thâu Trọng Huế về. Sau này H.T.Phu là tổng đốc Hà Đông (Đại sứ quán Trung Quốc hiện nay là nhà của ông Hoàng Trọng Phu, còn trường Tuyên giáo bây giờ là ấp cụ Hoàng Cao Khải).
–
Các quan thấy đám trẻ thì cũng chạy ra. Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ba ông phỗng ở trên núi non bộ, nói:
Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này, nếu có sai thì cụ đừng phạt cháu.
Cụ Quận nói: Cháu cứ đọc đi, ông không phạt cháu đâu
“Kìa ba ông lão bé con con”
(Mọi người cười, “ba ông lão” lại “bé con con” thế mới ngộ nghĩnh)
“Biết có tình gì với nước non”
(Các quan cũng chưa thấy gì cả, nghe xong hai câu thơ không ai nói với ai, tất cả đều im lặng)
“Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn ?”
Ông Hoàng Trọng Phu nói: – Thằng này hỗn, con ai đấy?
Cụ Hoàng Cao Khải mới hỏi: – Thế cháu con ai?
Nguyễn Tất Thành chưa kịp trả lời, thì Lê Thước nói:
Bẩm Cụ Quận, đây là con thầy Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc bên Ngệ An sang đây.
Cụ Hoàng Cao Khải đỗ cử nhân, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ đại khoa cùng với cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Khải mới nói: – “Hổ phụ sinh hổ tử”, rồi cụ chống gậy đi vào. Còn Hoàng Trọng Phu thì nói: Cái tay này nó lớn lên nó sẽ làm loạn (chuyện này cụ Khiêm kể cho tôi nghe năm 1950, sau ngày giải phóng miền Bắc, năm 1957 tôi đi gặp cụ Lê Thước, cụ Phạm Gia Cần để đối chiếu).
Khi có bài thơ trong tay rồi, tôi thấy trong bài đó có cái gì hơi hướng tứ thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Khi đó tôi đang công tác ở Đại học Nhân dân, đem trao đổi với các thầy cô tôi nói cái này như thơ Nguyễn Khuyến. Thời bấy giờ người nghiên cứu thơ Nguyễn Khuyến nhiều để đi nói chuyện là nhà thơ Xuân Diệu. Tôi đến hỏi thì Xuân Diệu nói cụ Nguyễn Khuyến có một bài thơ “ba ông phỗng” nhưng hoàn toàn khác. Cụ Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên nhưng cụ bất hợp tác với Pháp. Cụ chỉ nhận làm quan Toản tu Quốc sứ quán rồi cáo quan về làng. Triều đình mời cụ ra làm Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Cụ từ chối. Nhưng sợ mang tiếng không hợp tác với Pháp nên cụ nhận làm “gia sư” cho gia đình cụ Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Cụ Hoàng Cao Khải cũng muốn mời được ông Tam nguyên về dạy học cho con cháu mình thì cũng sang.
—–
(Tác giả chú thích) Cụ Lê Thước nói cái gậy mà cụ Hoàng Cao Khải chống, hội chợ Pari có 3 cái thì toàn quyền Pasquier mua cái gậy tặng cho Hoàng Cao Khải sau khi dẹp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy Nguyễn Thiện Thuật, trên đầu con rắn ở cái gậy có gắn viên kim cương.
——
Cụ Nguyễn Khuyến ở trong nhà một thời gian thì cũng yên tâm, sau đó về cái đất Bình Lục (Hà Nam) của mình cũng đỡ bị chúng theo dõi. Bấy giờ cụ Hoàng Cao Khải muốn có một bài thơ tức cảnh hoặc tự sự của cụ Nguyễn Khuyến để làm kỷ niệm và cũng là cái sang được cụ Tam Nguyên tặng thơ.
“Ông đứng là chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy
Non nước đầy vơi có biết không”
Cũng bốn câu, cũng ba ông phỗng và cái núi non bộ ngoài này với trong kia là một mẫu hình làm ra. Sau khi sưu tầm hai bài thơ đó, thì thấy đúng thơ là người, mà con người của thời đại nào ra thời đại ấy, có khác. Đây ta nói về những nhân cách. Cụ Tam Nguyên có cái nỗi đau buồn của cụ là mất nước, nhưng thế hệ của mình là bất lực “trơ trơ như đá vững như đồng”, nhìn cái thế lực thực dân lúc đó như cái trụ đá rất cao lớn, toàn đá tảng…sự tồn tại, sự bền vững xây trước dinh Hoàng Cao Khải. Còn Nguyễn Tất Thành thì đặt ra câu hỏi:
“Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn ?”
Nó khác, nó có hùng khí: “Trương mắt làm chi ngồi mãi đó! Hỏi xem non nước mất hay còn?”
Tôi nói vui với các đồng chí lãnh đạo của ta, 65 tuổi là nên về đi thôi, anh sẽ bất lực trước các hiện thực, sự sôi động của thời đại, cái tuổi 70, 60 khi suy nghĩ mạnh thì huyết áp bốc lên có làm gì được nữa đâu, rồi ba cái thầy quân sư quạt mo nó nói dài dài thì vâng, cứ gật… Thôi tuổi 70 thì lực bất tòng tâm, trừ trường hợp đặc biệt rèn luyện lắm thì mới được như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm nay 90 tuổi mà vẫn thông minh đến thế, minh mẫn đến thế, cái kết luận trong buổi bế mạc hội nghị trung ương 11 của đồng chí Lê Khả Phiêu là trong thư của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Thư của đồng chí Nguyễn Đức Tâm như thế… thư của ba vị tướng như thế… thư của nhóm các ông tướng Chu Huy Mẫn, Nguyễn Quyết làm như thế thì ông Giáp viết rất chiến lược, rất sát. Thư của ông (Giáp) như thế này; tôi đọc gần như nguyên văn:
“Kính thưa Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và các đồng chí cố vấn.
Tôi bị dị ứng thời tiết cho nên phải vào Nam (chữa dị ứng theo tôi tự hiểu hai nghĩa, một là dị ứng thời tiết bị rôm sảy, còn “dị ứng” nữa ngoài này nó nhiều chuyện bầy hầy; rồi người này người nọ chạy đến hỏi này khác rồi lợi dụng tiếng cụ nói nó sinh phiền, cho nên cụ vào Sài Gòn cụ ở). Nhưng thấy tình hình không bình thường, vô cùng nguy hiểm là sự chia rẽ của cấp cao Trung ương ta. Sinh thời, Hồ Chí Minh, Người luôn luôn nhắc một điều là phải đoàn kết, muốn đoàn kết thì phải phê bình tự phê bình thật mạnh. Và đứng trước nguy cơ tham nhũng như thế này, tình hình bên ngoài thế này mà mất đoàn kết, mỗi đồng chí có trách nhiệm không tự phê bình một cách kiên quyết, trong sáng, mà phê bình trên tình anh em đồng chí…
Tết vừa rồi, đồng chí Đỗ Mười có đến thăm tôi. Đồng chí Đỗ Mười có nói tình hình sức khoẻ, muốn nghỉ cố vấn. Tôi hoàn toàn nhất trí vì Đảng ta đã trưởng thành và các đồng chí lãnh đạo kế nghiệp đã trưởng thành không cần cố vấn, thì đồng chí Đỗ Mười lại nói có đọc ở Lênin một vấn đề là Đảng nên có một Ban kiểm soát bên cạnh Ban chấp hành trung ương do Đại hội bầu ra để giám sát. Tôi nói với đồng chí Đỗ Mười thế này: Đảng ta không cần bầu ra một Ban giám sát như vậy. Nếu như thế, Đảng sẽ có hai đầu thì nguy hiểm. Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội, như thế là rất sáng suốt.
Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai tôi xem các hoạt động vừa đây như là khuynh đảo của một cá nhân, hoạt động như là đảo chính trong Đảng, tôi đề nghị Trung ương phải kiểm điểm thật nghiêm khắc và làm rõ vấn đề này.
Xuống đoạn dưới viết: “Đại hội 9 này là Đại hội gì? Đề nghị Trung ương “Dân chủ” là trên hết, “trí tuệ” thứ hai, “đổi mới” thứ ba, “đoàn kết” thứ tư, bốn điểm…
Hôm nay thấy thông báo bế mạc hội nghị lấy bốn điểm này.
Không dân chủ thì làm sao mà đấu tranh vạch ra được cái lỗi này, có dân chủ thì mới đấu tranh chống tham nhũng, chỉnh đốn Đảng mới ra trò chứ, không dân chủ thì cũng không đưa trí tuệ vào được. Dân chủ, trí tuệ… muốn trí thì phải đưa người có học hành vào, thời buổi internet mà không biết tiếng Anh thì làm sao được. Ai đời người lãnh đạo vào phòng máy vi tính lại hỏi: “làm gì mà nhiều vô tuyến thế này”. Đau khổ cho người lãnh đạo thế chứ. Như thế thì làm sao tiếp nhận tất cả trí tuệ ở internet vào được? Mà cách đây mấy năm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc Đảng ta phải lo ngay việc giáo dục đào tạo tin học. Năm em đi thi tin học quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ về mang lại vinh quang cho đất nước, nước mình đi vào tin học muộn màng như vậy mà các em nó giỏi như thế thì không ai nói đến. Bộ giáo dục không nói, Tổng bí thư không nói, bóng đá thì rùm beng lên, bóng đá vinh quang, đón tiếp đề cao… nhưng tại sao tin học các cháu nó đem vinh quang về như thế mà…gọi điện thoại cho Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, cho cái xe đón 5 cháu… Thời nay không có trí tuệ thì làm gì được. Bây giờ phải biết nhiều sinh ngữ tiếp nhận được cái bên ngoài, họ có nói bằng tiếng Việt đâu mà nghe? Vậy là Dân chủ, trí tuệ, Đổi mới, Đoàn kết…90 tuổi mà sáng suốt như thế. Nay cụ ra đây rồi, vì đại hội sắp khai mạc, ra rồi nhưng cụ nằm ở viện, ở nhà thì người ta đến, đến thì sinh chuyện. Thế mà “người ta” đã tung đồng chi Võ Nguyên Giáp đã tổ chức một cuộc họp Quân uỷ Trung ương phê phán cái này cái khác. Không! Ông có còn làm việc gì ở Quân uỷ Trung ương đâu! Quân uỷ trung ương có phải của Ông (Giáp) như trước nữa đâu, nhưng họ lấy đó làm cái cớ, để làm cái bảo chứng, cái độ tin cậy. Ông đã bị người ta dựng ra bao nhiêu chuyện rồi, ở Đại hội VII người ta dựng ra cả một bộ hồ sơ mà đồng chí Nguyễn Đức Tâm đọc trên 30 trang “đồng chí Giáp hoạt động lật đổ…
Như vậy, là thấy chuyện đấu tranh trong Đảng ta mấy chục năm qua là như vậy. Bác Hồ chúng ta đi trên con đường từ thuỷ chung là Nước được độc lập. Dân thì ai cũng có cơm ăn áo mặc, được no ấm, còn tất cả mọi thứ chỉ là phương tiện, chứ còn mục đích của Bác Hồ là nước độc lập, Dân thì hạnh phúc ấm no, cho nên trong Di chúc Bác nói mong muốn suốt đời tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, như vậy là suốt đời không có gì quý hơn Độc lập tự do. Nước độc lập mà Dân không có cơm ăn áo mặc thì Độc lập ấy cũng là vô nghĩa.
…(Bị mất một đoạn ngắn) Khi Cụ Hồ về tới Pác-Bó thì nói với đồng chí Nguyễn Lương Bằng là tìm cho báo Thanh Nghị. Thế mà sau Đại hội III có người nói “có triết học Mác-Lê-Nin” không cần bộ tư pháp, bỏ Bộ Tư pháp. Mới rồi khôi phục lại Bộ Tư pháp đó chứ. Cái gì Cụ Hồ đề ra thì bị xoá gần hết. Nhà trí thức lớn không bao giờ kêu ca gì. Còn có người nói ông Nguyễn Khắc Viện là tay sai của Pháp về, ai như ông Viện? Hôm xét giải thưởng cho ông Trần Đức Thảo, cả hội Khoa học không ai đọc được cái gì của ông Thảo vì ông viết bằng tiếng Pháp. Bấy giờ giáo sư Phan Ngọc đọc bài giải trình về Thầy Đào Duy Anh, Giáo sư Trần Đức Thảo. Khi đọc xong, cả hội trường đứng dậy, bấy giờ nhiều người mới hiểu ông Trần Đức Thảo lớn đến thế. Nhưng bài ông Ngọc có câu làm cho một số nhà lãnh đạo bực mình “Việc Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho Giáo sư Trần Đức Thảo, nó cũng làm sang cho cái giải thưởng này, nếu còn người đứng lên nhận thì cái giải thưởng ấy thêm giá trị, nhưng tôi thấy một nỗi rằng: có giải thưởng vậy ai là người nhận đây? Không có ai cả, vì ông đã nằm dưới mồ rồi. “Nó gần giống như thế kỷ 15, khi đức Lê Thánh Tông khôi phục cho Nguyễn Trãi, làm cái lễ trở về Nhị Khê gần Quán Gánh để minh oan cho Nguyễn Trãi trước dân làng, khi ông Thượng thư Bộ Lễ đọc xong chiếu giải oan thì nói thêm một câu rằng: minh oan được cho họ Nguyễn, nỗi oan khốc này đối với quan Hành khiển đã một thời “Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần” bây giờ quay mặt lại thì không còn ai để nhận cái chiếu vua giải oan này nữa, vì tru di tam tộc mất rồi. Mong sao lịch sử đừng bao giờ lặp lại! Nỗi đau trong lịch sử nó ghê gớm thế. Suýt nữa thì ta lại phạm lại lần nữa đối với ông Tổng Tư lệnh, ai lại nói con nuôi mật thám mà lại chui vào làm Tổng Tư lệnh của một quân đội dẹp xong mấy đế quốc siêu cường. Trước đó đã chuẩn bị một cái đảo để đi đầy! Việc đó suýt diễn ra trong thập kỷ 60. May sao, lúc đó Cụ Hồ còn sống; cụ nói: “Tôi còn sống, không ai thay được Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp! Họ gán cho ông Giáp là “trùm xét lại”. Việc động trời này nhiều người đã biết.
Đọc 10 nỗi đau của Bác Hồ, trong đó đồng chí Hoàng Tùng viết về cải cách ruộng đất bắn bà Nguyễn Thị Năm như thể bắn vào quan điểm Cụ Hồ, vì Cụ Hồ không chủ trương cải cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước có cái đặc thù thì đánh như thế nào? chứ không thể đánh như Tàu được. Vì khi cách mạng mới thành công, cả Trung đoàn ăn cơm trong nhà bà Nguyễn Thị Năm. Con trai bà là chỉ huy Trung đoàn. Thế mà ông cán bộ của ta đi Trung Quốc mang “tư tưởng Mao” về, chủ trương bắn ngay bà Nguyễn Thị Năm. Bác Hồ nói: Cách mạng này nó bạc bẽo quá, gia đình này đã bỏ thóc gạo nuôi hàng Trung đoàn từ thời cách mạng còn hàn vi. Nay cách mạng đã lớn mạnh lại bắn người ta thì bạc bẽo quá. Bát cơm siếu mẫu ở đâu? Sau đó còn nghe cố vấn nước bạn lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong quân đội gồm phần lớn trí thức tiểu tư sản trong đó có hàng tướng lĩnh để chỉnh đốn tổ chức.
Bác Hồ bảo: phải đốt ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ thì còn đâu để lên Điện Biên bây giờ. Lúc đó CCRD như thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ trong quân đội thì trời đất nào? Nói như thế để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta phải thấy trong cái bể sản xuất nhỏ, trong một nước chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì nó dễ cực đoan lắm. Không lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần đân tộc làm nhãn quan mà lấy giai cấp, lấy cái thù hận làm nhãn quan để đánh đổ người này, người kia thì nguy. Ông Hoàng Tùng viết, kể lại có lúc Bác Hồ khóc vì lúc bấy giờ ông phụ trách tuyên huấn, phụ trách báo Nhân dân nên rất gần Bác Hồ, ông H.T kể lại Bác Hồ hỏi sao CCRD lại bắn vào người đàn bà? Người đàn bà Việt Nam khác với đàn bà Trung Quốc. Người đàn bà Việt Nam thì cứu nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi chồng nuôi con để tham gia kháng chiến cứu nước. Có người lại nói: Hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn người. Cho nông dân đấu tố để vùng lên, nếu không thì nông dân hàm ơn địa chủ suốt đời! Cho nên nghiên cứu về Bác Hồ thì thấy Bác Hồ có nỗi cô đơn về quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Trước mặt mình đang có kẻ thù xâm lược như thế này. Độc lập dân tộc là cái bất biến, cho nên phải ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ là đế quốc xâm lược cho nên có những vấn đề phải lùi một chút. Trong Di chúc Bác có nói khi kết thúc chiến tranh việc đầu tiên là phải chỉnh đốn lại Đảng chứ không phải để đến 30 năm mới làm. Trước khi viết Di chúc, Bác xuống Côn Sơn, đọc bia Nguyễn Trãi, Người nghiêng đầu vào bia, ôm lấy cái bia Nguyễn Trãi. Điều đó đủ nói lên Bác với nỗi đau Nguyễn Trãi! Các nhà nghiên cứu giỏi, bắt cái thần vào ảnh này, tại sao ngày rằm tháng 1 năm 1965 Bác Hồ đọc bia Nguyễn Trãi vì Nguyễn Trãi để lại nỗi oan 500 năm trước, coi chừng khi kết thúc chiến tranh này đừng để lặp lại nỗi oan này! Trong chiến tranh thì cái mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc phải lùi lại. Rồi ngày 10/5/1956, Bác bắt đầu viết Di chúc, đầu năm thì ôm lấy bia Nguyễn Trãi ở Côn Sơn rồi lên động Thanh Hư để nhận cảm cái khí thiêng của dân tộc. Cái nguyên khí của đất trời con người ấy đã cảm thấy cái chuyển động trong cơ thể không còn có thể sống lâu được nữa. Rồi người sang Trung Quốc, đúng ngày 19/5/1965 Bác về quê hương Khổng Tử giữa lúc Mao đang phê Lâm, phê Khổng, giữa lúc Trung Quốc đang làm đại cách mạng văn hoá, đập cả trường Đại học Thanh Hoa. Vậy mà, Bác Hồ cùng với cụ Đổng Tất Vũ, phó chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (người ngoài Đảng như cụ Phan Kế Toại của ta) đi lên quê hương Khổng Tử, nằm ngủ tại đây một đêm, thắp hương cho Khổng Tử. Các nhà lý luận không giải thích xem tại sao cụ không sang Liên Xô, sang Đức để thắp hương mộ cụ Mác mà lại đến thắp hương cho Khổng Tử? Giữa lúc Trung Quốc đang đánh đổ Khổng Tử. Cái triết học phương Đông, đặc biệt là Việt Nam nó thâm thúy thế đấy.
Cụ Hồ của chúng ta là vậy không trích đoạn này đoạn khác của các triết gia mà nói dễ hiểu, cái tầng ngữ nghĩa thì luận nó ra. Cụ về thì có làm bài thơ để thắp hương cho ông Khổng Tử 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng báo 1969 khi Người ra đi, thì đến năm 1989 tức là 20 năm sau thấy không ai đả động gì đến Di chúc của Bác cả. Đồng chí Vũ Kỳ mới chép ra trong hồi ký: “Bác Hồ viết Di chúc”. Đặc biệt là Bác dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng, miễn thuế cho nông dân và vấn đề hoả táng cho Bác để giải thoát cho Người về với trời đất chứ giữ lại trong lăng là ngoài ý nghĩ của Bác. Việt Nam ta không để lăng tẩm lại đế đô, vua băng hà thì đưa về quê như 8 vua Lý thì về Bắc Ninh, các vua Lê thì về Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc Tổ Quốc. Bác Hồ không dặn để lại ở Ba Đình. Bác khai sinh VNDCCH tại Ba Đình, Bác hoá thân cũng đúng vào cái ngày ấy nhưng Di chúc thì hoả táng, sau này có nhiều điện thì điện táng để giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nông dân. Còn tro cốt phân chia ra làm 3 cho Bắc, Trung, Nam bà con để một nơi nào đó để tiện việc trồng cây lưu niệm, Bác đã xem mộ cho Bác rồi, tức là Đá Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi Tản Viên là một trong 4 ông thánh “tứ bất tử”. Bây giờ có ông nào đó lại chủ trương xây một cái đền thờ bằng đá rất đẹp trên đó để thờ Bác. Lập đền thờ Bác trên núi Tản Viên là sai ý Bác. Dân sẽ có ý kiến là Cụ Hồ không khiêm tốn làm đền trên núi Cha, núi Mẹ là núi Mẫu ở bến này. Chính nơi Bác đã tìm là cái hang ở Đá Chông, dưới chân núi Đức Tản Viên. Thời chiến tranh Bác làm việc ở đây, Bác còn dặn là lấy thép không rỉ để chống rết, chống rắn nó vào, sau khi hoả táng thì lấy một phần tro cốt về đây. Chỗ này ta có thể để một hướng cho người đến viếng Bác thì thắp hương rồi trồng cây lưu niệm. Thế là Di chúc để lại cũng không được thực hiện. Thế gian có chuyện cha để lại Di chúc cho các con thì các con không những không thực hiện mà đánh nhau để chia của…Thế mà hôm nay, Di chúc dặn phải “giữ đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt người” thì học trò – còn gọi là học trò xuất sắc cả, mà phe cánh cả. Nguyện vọng của Bác là Việt Nam Hoà bình như vậy. Hoà bình là muôn đời. Cái trong Bình Ngô Đại cáo như các thầy, các cô đã giảng bài như vậy. Nước Hoà bình, Độc lập, Thống nhất Độc lập đi đôi với dân chủ và giàu mạnh chứ không dặn là XHCN. Xã hội chủ nghĩa là cái mơ ước. Hồi đó có đồng chí trong Thường vụ Trung ương muốn Bác sửa: Việt Nam Hoà bình, Thống nhất Độc Lập, Dân chủ, Phú cường, Bác bảo phú cường là từ Hán Việt. Nên nói giàu mạnh, tức là dân giàu nước mạnh.
Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hoá có gặp cụ Lê Thước, GS. Cao Xuân Huy, G S. Nguyễn Mạnh Tường, GS. Đào Duy Anh lúc đó tản cư theo trường về Thanh Hoá. Bác vào Thanh Hoá ngày 20/2/1947, phê bình Tỉnh uỷ Thanh Hoá mất đoàn kết, cách mạng chưa gì đã tranh công tranh phần. Họp Tỉnh uỷ, Uỷ ban xong thì tiếp đó Bác gặp các trí thức. Cụ Lê Thước thay mặt anh em đứng dậy nói: Thưa Bác…Bác Hồ nói ngay: Chúng ta đồng lứa, Bác để cho thanh niên gọi. Giáo sư Lê Thước đồng tuổi, lại cùng quê với Bác, bèn nói: Thưa cụ, anh em chúng tôi đây xin Cụ giải thích cho một điều: Chế độ CHDC, XHCN, Dân chủ mới, vậy chế độ gọi là gì cho đúng?
Bác cười và nói: Xin các Cụ chúng ta đừng lệ thuộc gì vào mấy cái danh từ. Ta hãy coi đây là nước Dân chủ mới. Vì bên Tây đã có Dân chủ từ năm 1789 rồi, 1776 bên Mỹ, bên Anh còn trước nữa nhưng đến bây giờ chưa thực sự có một xã hội dân chủ có công bằng. Cụ thể là nước ta bây giờ là nước Dân chủ kiểu mới, tôi nói thí dụ như Thanh Hoá đây là đất văn vật mà hiện nay ở miền xuôi 80 đến 85 phần trăm, miền núi đến 95 phần trăm dân mù chữ. Đấy, cách mạng ta tiếp thu một cái gia tài kiệt quệ sau 80 năm bị Pháp đô hộ thế thì bây giờ chúng ta làm sao cho ai cũng biết đọc, biết viết và trung học, đại học trên cái nền của toàn dân biết chữ. Còn nhà bị đói nghèo thì xoá được đói nghèo, để có ăn, nhà có ăn rồi thì đến no đủ, nhà no đủ rồi thì đến giàu có, nhà giàu có rồi giàu nữa. Còn nói XHCN hay CSCN ta chưa quan tâm. Nội dung của chế độ ta phấn đấu bằng được như trên. Bây giờ ta lại nói 10,15 năm nữa bằng Liên Xô, bằng Mỹ thì sao bằng được. Ảo tưởng như thế, hão huyền như thế không thể thực hiện được thì đổ vỡ chứ! Khi đuổi giặc xong, hy sinh hàng triệu người mà cuối cùng không có cái bát ăn, trong khi đó một số nước trong khu vực không đánh giặc như ta mà có độc lập, có người suy ra cái này. Họ quên một điều rằng nếu như không có người đi hàng đầu trong việc chống đế quốc thực dân, làm tà cái ý chí xâm lược, làm bá chủ thế giới của nó. Muốn có bình đẳng cho các dân tộc thì có dân tộc phải hy sinh. Hồi chiến tranh, ở miền Nam cứ đến chiều thì sợ nhất cái dàn pháo Tân Tây Lan, tức là cấp tập đại pháo của Tân Tây Lan, Thái Lan, Nam Triều Tiên. Tất cả các nước hùa vào với Mỹ. Các nước đó được Mỹ dùng làm hậu cần tại chỗ, đợt đầu thì nó đưa từ bên Mỹ (Honolulu) sang, sau này tất cả sản xuất phục vụ chiến tranh là các nước khu vực này. Năm rồi tôi có bài viết Bác Hồ có 7 thư gửi Tổng thống Truman để công nhận cho độc lập của nước ta, để tránh một cuộc chiến tranh, thế mà có người không hiểu gì cả lại nói Cụ Hồ thích được dân tộc anh hùng, để cho dân mình khổ, nói vậy là không phải. Khi Cụ ở Luân Đôn, Cụ ra nghĩa trang Hây – ghết đặt một bó hoa lên mộ cụ Mác, chiêm ngưỡng một thiên tài có một chủ nghĩa cứu cánh để tham khảo, giải quyết vấn đề độc lập dân tộc của nước mình, chứ không phải là quyết định. Thế cho nên những năm Cụ ở Quốc Tế Cộng sản rất cô đơn, đưa ra mấy cái luận điểm về giải phóng dân tộc thì bị cô lập. Khi đầu định giao về Phương Đông từ Mạc Tư Khoa mà sang Trung Quốc chỉ được cấp kinh phí đi đường một chuyến sang Quảng Châu năm 1924, đấy là lần duy nhất. Còn chỉ tự nuôi lấy mình, nuôi lấy đội ngũ cán bộ cách mạng. Cho đến 1927 về lại Mạc Tư Khoa, năm 1928 lại đẩy đi khỏi Mạc Tư Khoa không muốn để Nguyễn Ái Quốc ở lại Mạc Tư Khoa, sợ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc sẽ ảnh hưởng đến đại biểu của các dân tộc dự đại hội OTC. Về Thái Lan xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt Kiều rồi sang Trung Quốc để hợp nhất 3 đảng cộng sản trong nước thành Đảng cộng sản Việt Nam. Bác chủ trương đoàn kết các giai tầng xã hội, không phân biệt giai cấp. Đó là Đảng Bác Hồ sáng lập ngày 3/2/1930. Nhưng 11/4, Đệ tam quốc tế phái ngay đồng chí Trần Phú về nước, mang theo một bản phác thảo đề cương do ông Míp, Viện trưởng Viện các vấn đề dân tộc của quốc tế cộng sản bằng tiếng Nga để đồng chí Trần Phú bổ sung thêm phần khảo sát phong trào trong nước viết bằng văn bản gọi là luận cương tháng 10 của Trần Phú, bỏ các văn kiện của Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng như: Chính cương vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt, tên mà Bác Hồ đặt ra lúc thành lập Đảng! Bỏ Bí thư đầu tiên là Trịnh Đình Cửu, còn gọi là Cửu kính trắng, một trí thức ở Hà Nội. Vợ ông là bà Lệ, một lão thành cách mạng hiện nay hơn 95 tuổi, đang sống trong một ngôi nhà ở Hồ Tây. Khi Đảng của Bác Hồ được thành lập bị bỏ, tháng 10 họp không có Nguyễn Ái Quốc, đặt lại tên Đảng là Đảng cộng sản Đông Dương, tất cả mọi người phải đi vô sản hoá. Trong dự thảo Luận cương của đồng chí Trần Phú (chưa được Hội nghị này thông qua) các nhà sĩ phu yêu nước thì gọi là bọn Huỳnh Thúc Kháng, những trí thức yêu nước thì gọi là bọn Nguyễn An Ninh…Tôi không dám nói bịa trước anh linh của một nhà ái quốc, các ý trên đã ghi trong Luận cương của đồng chí Trần Phú. Đó là tả khuynh ấu trĩ của một thời sai lầm về quan điểm như vậy. Chúng ta nhìn rõ cái sai, nhưng chúng ta vẫn kính ái đồng chí Trần Phú, một nhà yêu nước của dân tộc ta. Với Bác Hồ thì ngược lại, năm 1945 Bác ôm lấy cụ Huỳnh Thúc Kháng mới từ Quảng Nam ra và nói: Cụ ra đây là “an dân lạc quốc”. Ta lục lại lịch sử như thế để mà thấy cái gì cứ rập khuôn theo nước ngoài là chết, không độc lập là chết, xa rời dân tộc là thất bại, chứ ta không biệt phái. Đây ta không phải biệt phái mà ta nói thế, mà nói cái chỗ anh xa rời dân tộc… Cho đến tháng 8 năm 1935 Đại hội thứ nhất tại Ma Cao, đồng chí Hà huy Tập viết một văn bản đề nghị Đệ tam Quốc Tế thi hành kỷ luật đồng chi Nguyễn Ái Quốc.
Bác Hồ suốt đời chỉ muốn cho dân tộc độc lập, nhân dân no ấm. Khi giành được độc lập rồi thì Bác chỉ mơ ước làm sao cho đất nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và khi chết rồi (Bác) vẫn để câu này ở trong Di chúc. Nếu đi theo con đường Bác Hồ thì lấy từ cái này, ta đừng vội dăm ba năm, năm mười năm để vượt ai, không nên! Mà làm cho dân nghèo có…ăn rồi no đủ, no đủ rồi giàu có, giàu có rồi giàu nữa…cứ thế mà làm . Mọi người đều trong sạch, dân no đến đâu mình no đến đấy. Bây giờ một cái nhà của cơ quan huyện uỷ mà 700 triệu thì để làm bao nhiêu trường học.
Hôm nay nói với các thầy các cô thì tin rằng Đại hội 9 sẽ mở ra mới hơn, dân chủ trong Đảng, nó đã chỉ ra những con người cơ hội chui vào Đảng khuynh đảo một thời, làm cho Đảng ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác Hồ thành lập Đảng, cũng như bao lớp người đi tìm con đường độc lập cho dân tộc, no ấm cho nhân dân, nước phải độc lập , dân phải no ấm, no ấm rồi thì được học, học ít rồi học nhiều nữa, cả dân tộc đều trí tuệ. Đã có nền văn hoá rồi thì dân tộc phải được học những vấn đề của thời đại. Đến Đại hội 9 này mới thấy, còn các Đại hội trước chưa thấy, bế tắc. Lần đầu tiên dân ta được tham gia ý kiến, dù là thực hiện hay không thực hiện nhưng trên đài, trên báo có đưa ý kiến của dân, của người này người khác, tuy chưa dám đưa hết.
Bên cạnh phòng họp (Đại hội) có phòng tập hợp thư từ tố cáo của đảng viên, cán bộ, nhân viên. Có đồng chí nhận thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng chí làm chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ông nào giao cho ông ấy, còn bản gốc thì lưu lại. Sai đúng thế nào chưa biết, ông này ông nọ có từng cái thư tố cáo thì nhận lấy. Một trăm ông uỷ viên trung ương là được phát cả, còn có phát cho đại biểu Đại hội thì không biết. Trong những thư đó thì chỉ có mấy ông không có tố cáo, có cả danh sách gửi tiền nước ngoài, sợ quá! Còn làm ăn thì phải có nhà một tầng, hai ba tầng khang trang, bằng đồng tiền lao động, bằng trí tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chặn cái này, ăn chặn cái kia…
Hôm họp Trung ương; một đồng chí cố vấn đứng dậy, bước ra nói: Tôi cũng không ngờ cuộc đời hoạt động đến hôm nay nó lại xảy ra đến mức thảm hại như thế này…(tức là người ta đấu cho). Một trong ba ông cố vấn than vãn như thế. Anh nhận ra thảm hại thì bây giờ đã hơn 80 tuổi rồi. Lời nói tự nó vô nghĩa, nhưng ít ra thì anh cũng thấy, anh tưởng (anh) có quyền, có lực thì có vinh quang…không có! Đó là cái nhục đó. Cái vinh và nhục, nó nhục ngay trên cai “ghế” của vinh; không phải trên cái ghế cao thì nó vinh đâu. Tuỳ ở anh cống hiến cho nhân dân, cho đất nước…To mấy thì to, anh đừng tưởng ngồi cao bao nhiêu thì vinh bấy nhiêu…đâu phải? Anh tưởng (anh) là tổng bí thư, là uỷ viên bộ chính trị là ghê gớm lắm…? Vừa bước ra khỏi cái ghế là cái nhục nó đổ xuống đầu anh ngay. Một người như nhạc sĩ Văn Cao, khi nằm xuống, hàng nghìn vong hoa và trướng, nhân dân cả nước khóc ông, vĩnh biệt ông, bởi lẽ không một người nào lại không hơn một lần đứng nghiêm chào cờ Tổ quốc, hát quốc ca! Biết bao thế hệ hát những ca khúc của Văn Cao: Thiên thai, Suối mơ, Đàn chim Việt; Làng tôi; Sông Lô; Thăng Long; Hành khúc tiến về Hà Nội; ca ngợi Hồ Chủ Tịch…Trong dòng người viếng Ông, đưa Ông về nơi an nghỉ đời đời, có đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đến người đạp xích lô, người quét rác đường phố Thủ đô Hà Nội. Mộ ông ở Mai Dịch những ngày sau rượu trắng người ta để trên mộ ông.
Vậy “cái quan định luận” nằm xuống thì cái mồ anh thế nào?
Trịnh Công Sơn không có chức tước gì cả, nằm xuống…một nghìn năm trăm vòng hoa trắng (ông không có vợ) cái đó làm ta suy nghĩ chứ. Đến khi bà Khánh Ly, một ca sĩ, vừa khóc vừa nói qua sóng đài BBC:
Ông Trịnh Công Sơn là nửa cuộc đời tôi. Tôi là một ca sĩ không tên tuổi nhưng nhờ nhạc Trịnh Công Sơn mà cả Sài Gòn biết đến tôi và sau này bao nhiêu người biết đến tôi là Khánh Ly.
Trịnh Công Sơn không đi với tôi, người ta cứ tưởng tôi là người yêu, có thể là vợ, nhưng không! Ông Trịnh Công Sơn không của riêng ai cả. Ông là người của quê hương, sinh ra ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát cho quê hương, và khi đất nước có biến cố người ta nghĩ Trịnh Công Sơn sẽ đi với tôi, nhưng không, Trịnh Công Sơn người của quê hương và ở với quê hương. Có người lầm tưởng ông theo cộng sản sau năm 75. Không, ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo quê hương. Vì vậy, khi ông sang Pháp, ông không dám đi đâu cả, ông ở trong một quán Việt Nam ở Pari, vì có kẻ muốn giết ông, coi ông là phản bội. Nhưng tôi biết Trịnh Công Sơn là người của quê hương, không bao giờ ông sang một nước khác nói là quê hương thứ hai của mình. Hôm nay tôi khóc ông là vì nếu không có ông thì cũng không có tôi. Nhưng mà người như tôi cũng không lôi kéo được ông đi. Đến khi ông sang thăm nước Pháp, hai người ngồi với nhau, uống với nhau ly cà phê trong quán Việt Nam, hai người cùng khóc nhớ lại những đêm mưa Sài Gòn, chiến tranh trùm khắp quê hương “hát cho đồng bào nghe”, “dậy mà đi đồng bào ơi”.
Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất quê hương, đó là Trịnh Công Sơn của quê hương, ông không có riêng tư gì hết. Một nghệ sĩ, chỉ đi hát mà để niềm thương tiếc trong lòng nhiều người. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn đọc điếu văn trước mộ Trịnh Công Sơn.
Nhắc lại 1.500 vòng hoa trắng, người đi tiễn biệt Trịnh Công Sơn toàn đi bằng xe gắn máy, nườm nượp suốt từ thành phố đến nghĩa trang và rất đặc biệt trong đám tang này có Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiễn đưa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi thấm thía một bài học: “Chức tước nó làm lợi ích cho nhân dân người ta quý. Làm người thày thuốc chữa được bệnh cho nhân dân đó là hạnh phúc. Người thầy giáo truyền kiến thức, học vấn cho học trò, người cán bộ hoạt động trên địa hạt công tác của mình…làm được việc có ích, nhà văn viết những trang sách không xu thời, không bóp méo sự thật, không dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những trang sách đó người đời ghi nhận.
Lời cảm ơn của nhà trường:
Thưa nhà văn Sơn Tùng.
Hôm nay là buổi học cuối cùng của khoá 40 lớp “Đào tạo cán bộ quản lý ngành giáo dục” và là buổi sinh hoạt cuối cùng khoá học trên hội trường.
Cũng như người đạo diễn của một vở kịch, màn cuối cùng trước khi màn khép lại bao giờ cũng là màn xúc động nhất, hay nhất và gây ấn tượng.
Hôm nay, để có món quà chia tay các đồng chí trước khi ra về, nhà văn Sơn Tùng, chuyên gia nghiêm cứu về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, được mệnh danh “Nhà Hồ Chí Minh Học” đến nói chuyện với chúng ta về “Chân Dung Một Người” mà tên tuổi của Người gắn liền với tinh hoa và khí phách dân tộc. Sự nghiệp của người gắn liền với quá khứ đau thương và lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, và thực tế ý tưởng của tôi được nhà văn đáp lại bằng những mẩu chuyện của nhà văn hôm nay, tôi xin đưa ra một suy nghĩ:
Đã đến lúc sự thật phải trả về cho Sự Thật, Lịch Sử trả về cho Lịch Sử với giá trị nguyên bản đích thực của nó, dẫu có biết rằng Sự Thật nói ra có sù sì…nhưng vẫn có giá trị hơn rất nhiều so với lời nói nhận định sai lạc, giả dối, giá lạnh, không có hồn, nhưng sự thật đó quang minh chính đại phù hợp lý tưởng con người và đặc biệt Sự Thật do phù hợp với Lương Tâm của chúng ta.
Giờ chia tay với nhà văn SơnTùng đã đến , xin thay mặt anh em thành tâm chúc nhà văn và gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc, sống thanh thản với một cuộc sống vật chất còn nghèo khó.
Mong nhà văn ghi nhận cho một điều, đối với anh em chúng tôi những giá trị tinh thần mà nhà văn đã đem đến cho chúng tôi trong khóa học này luôn khắc sâu trong tâm trí chúng tôi.
Trước khi ra về, một lần nữa xin cảm ơn.
(Thời điểm Đại hội IX sắp khai mạc)
Nói chuyện với đồng chí đại tá Cao Nham:
1. Đầu năm 2001 tôi có dịp gặp và nói chuyện với Đại tá CCB Cao Nham tại Nam Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết tôi không thể quyên, theo lời kể của đ/c Cao Nham về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, ông Lê Duẩn nói với Bác Hồ: Đề nghị Bác để tôi đánh trận này nếu không thắng tôi xin từ chức Tổng bí thư nhưng với điều kiện Bác phải cách chức Võ Nguyên Giáp (? Không nói lý do).
Vào trận đánh kết quả không như ý ông Duẩn. Đến đợt 2 ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề nghị trên, kết quả cũng không đạt như ý ông. Tiếp đến đợt 3, một lần nữa ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị trên, nhưng kết quả cũng không hơn gì các đợt trước.
Vậy là cả 3 đợt của Tổng tiến công và Nổi dậy như ông Duẩn chủ trương không đạt theo ý định của ông, đương nhiên là ông phải “từ chức” như ông tự xác định với Bác chứ, “quá tam” mà, nhưng không thấy ông tỏ thái độ nào cả (trong câu chuyện của đồng chí Cao Nham).
Tuy nhiên (có thể theo tôi hiểu) Bác Hồ cũng không muốn có sự xáo trộn nhân sự xảy ra khi sự nghệp giải phóng miền Nam chưa hoàn thành nên Bác bản chú cứ làm Tổng bí thư vì chú có uy tín với đồng bào miền Nam. Còn chú Giáp giỏi quân sự thì cứ để chú ấy làm Bộ trưởng Quốc phòng.
2. Về chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành, nhưng thiểu số phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng vì lợi ích của cách mạng không để tổn thất cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn đề hỏi ông Giáp: – Có cách nào làm giảm nhẹ thiệt hại? Ông Giáp nói:- Chỉ còn cách đánh các căn cứ gần giới tuyến để kéo bớt lực lượng địch ra ngoài này.
Vì thế ta mới thấy có các trận đánh ác liệt dọc đường 9: Côn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, A Sẩu, A Lưới…Địch phải kéo ra 4 sư đoàn đối phó ở ngoài này, và tổng thống Giôn xơn đã có một câu tuyên bố phải tử thủ với Khe Sanh, chính vào lúc đó.
3. Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn dám đề nghị với Bác sự tự khẳng định: Nếu không thắng thì (tôi) xin từ chức?
Câu hỏi này có thể được giải đáp với mẩu chuyện của ông Mười Hương như sau:
Năm 1968, khi tôi còn công tác ở K.68 (Bộ CA) (tôi về Bộ CA tháng 8/1966, sau khi tốt nghiệp Đại học ngoại giao). Ông Mười Hương là Cục trưởng (thay ông Nguyễn Thế Tùng về hưu). Lúc đó cơ quan còn đang ở Quan Nhân, sơ tán cách Hà Nội 30Km, ông Mười Hương nói chuyện với cán bộ P.5 (K.68) có tổ công tác của tôi, ông nói: – ý định của ta trong cuộc TTC-ND Tết Mậu Thân (1968) là: chiếm đài phát thanh Sài Gòn, đánh sứ quán Mỹ bắt Matin, đánh dinh Độc lập bắt Nguyễn Văn Thiệu, để chúng tuyên bố đầu hàng trên đài Phát thanh Sài Gòn.
Nhưng trận đánh diễn ra không suôn sẻ như ý muốn của ông (Duẩn), vì đại sứ Matin khi đó ở cách sứ quán 200m, còn tổng thống Thiệu thì về Cần thơ ăn tết, do không nắm sát tình hình đó nên không bắt được chúng (theo lời kể của ông Mười Hương). Vì thế nên mới có đợt 1, đợt 2, rồi đợt 3 là bởi vì sau khi chiếm được đài phát thanh Sài Gòn từ đợt 1 rồi, nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy chờ bắt hai tên kia nên mới sinh ra có đợt 2 nhưng cũng không tóm được Matin và Thiệu, nên lực lượng chiếm đài phát thanh vẫn cứ phải cố thủ để chờ tiếp đợt 3 (xem sao). Và kết quả thì ai cũng đã biết.
Ông Mười Hương nói tiếp: Năm 1967 Bác có ý vào Nam bằng đi bộ, Bộ chính trị không đồng ý vì tuổi tác sức khoẻ của Bác (có lẽ chỗ này trùng với câu truyện ông Sơn Tùng nói về hội nghị 3 nước Đông Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy giờ). Nên ta cố ý giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68, chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào Nam theo nguyện vọng của Bác. (Câu chuyện này chính xác đến đâu thì tôi không rõ, nhưng đấy là câu chuyện của ông Mười Hương nói ở P.5 chúng tôi năm đó).
Đến đợt 3 cũng không bắt được Matin và Thiệu thì cơ hội “bất ngờ” không còn nữa và địch phản công lại, thế là chủ trương TTC và ND nhằm mục đích tối thượng không đạt được, tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với ta ở Paris.
4. Về cuộc đàm phán Mỹ – Việt ở Paris ta đã chuẩn bị từ năm 1963, khi tôi còn đang học khoá 3 Khoa đối ngoại của trường Kinh Tài.
Trong buổi nói chuyện với sinh viên ngoại giao khoá đó, sinh viên nêu câu hỏi với Bộ trưởng Xuân Thuỷ về tình hình chiến sự và đàm phán sẽ diễn ra theo hướng nào và triển vọng, thì ông Xuân Thuỷ nói: – Cuộc chiến diễn ra ác liệt thế nào thì ta đã biết, còn về đàm phán thì cũng vì thế mà ta đã xác định thế này, rồi ông đọc hai câu thơ (ông Xuân Thuỷ, Bộ trưởng Ngoại giao, là nhà báo, và cũng là nhà thơ):
“Đàm đàm đánh đánh đàm đánh đánh
Đánh đánh đàm đàm đánh đàm đàm”
Rồi ông giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn ra cù nhầy kiểu như thế, mà đúng là thế thật. Hội nghị Pari kéo dài suốt từ năm sau tết Mậu Thân 1968 cho đến đầu năm 1973 (5 năm).
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ông Xuân Thuỷ được rút khỏi chức Bộ trưởng ngoại giao để làm trưởng đoàn đàm phán ở Pari. Ông Nguyễn Duy Trinh lên làm Bộ trưởng ngoại giao từ đó.
Dưới đây là mẩu chuyện nhỏ về ông Hà Văn Lâu. Bác Hồ mời ông Hà Văn Lâu đến giao nhiệm vụ. Ông Hà Văn Lâu hỏi Bác về công tác sắp được giao, thì Bác nói:
Tên chú thế nào thì công tác của chú cũng thế.
Đó chính là Hội nghị Pari là nơi ông Hà Văn Lâu công tác lâu năm ở đoàn đàm phán của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm.
Câu chuyện tôi được nghe kể lại:
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng có hỏi Cụ Hồ:
Bây giờ đạo đức dạy (học) cái gì?
Cụ Hồ nói:
Cần – Kiệm – Liêm – Chính.
Chắc là ông Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới tất cả vì khi đó cũng đang có phong trào vận động xây dựng đời sống mới thì dạy đạo đức cũng phải là “đạo đức mới” (Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa như bây giờ), nên ông Tưởng mới nói:
Cái (đạo đức) đó cổ quá.
Thì Cụ Hồ trả lời như thế này với ông Tưởng:
-“Thế thì ngô, lúa có từ bao giờ?”
(mất một đoạn) …có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức “Cần – Kiệm – Liêm – Chính” là 4 đức tính thuộc về đạo đức nhân văn đã đưa xã hội tiến bộ và phát triển không ngừng đến ngày nay, và như vậy thì nó cũng không bao giờ cũ, không bao giờ cổ, cũng như ngô, lúa chúng ta ăn có từ thượng cổ đến nay nó đang nuôi chúng ta.
Xã hội loài người mà xa rời 4 đức tính đó thì chắc ai cũng hiểu là thế nào rồi.
Đó là ý nghĩa của một trong những câu thành ngữ cổ xưa “còn giá trị với thời đại” như nhà văn Tùng Sơn nói ở trường đào tạo cán bộ quản lý của ngành giáo dục ngày 11 tháng 4 năm 2001.
Trích một số thư mới đây của CCB Trần Nhật Độ, nguyên Chính uỷ Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công (Khu tập thể Nam Đồng – Đống Đa – Hà Nội).
Sau khi nhận xét đánh giá công lao cống hiến vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước nhà của một số đồng chí lãnh đạo kể cả khuyết diểm thiếu sót, thư đã viết.
+ Mậu Thân 1968, mọi người không đồng tình đánh đợt 2,3. Vốn không phải thời cơ phút huy vai trò của chủ lực, lại không còn điều kiện phát triển tiến công mà tổng khởi nghĩa thì ngay từ đầu đã không khuấy lên được.
+ Việc thành lập Quân đoàn, cuối 1970 anh Văn đã đề ra, nhưng bị bác; bị thiểu số. Năm 1971 trong chiến dịch Trị Thiên cũng vậy. Đến năm 1973 (tháng 10) mới có Quân đoàn 1, sau đó là Quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm sư đoàn là cấp số cộng, mà Quân đoàn là cấp số nhân.
+ Chiến dịch Trị Thiên năm 1972, nếu giữ nguyên ý kiến anh Văn lấy lại Trị Thiên làm hướng chủ yếu thì sẽ có cánh vu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả chiến dịch sẽ khác xa…
+ Đánh CPC, anh Văn cho rằng chỉ nên đánh đến Sông Mê Kông, dừng lại và kéo Sihanuk về để cách mạng bạn tự phát triển, tự giải phóng. Ta không mang tiếng, không sa lầy, không bị cô lập…
+ Trong các cuộc nói chuyện với đồng bào, cán bộ, không ít lần đồng chí Lê Duẩn đã có lời phê phán, phản bác Bác Hồ và có ý vượt trội lên. Ví dụ như nói:
“Giáp thì sợ Mỹ. Bác thì sợ Trung Quốc. Bác không sát thực tế, Bác không có điều kiện nghiên cứu lý luận cơ bản. Tôi đây, tôi nghiên cứu rất nhiều lý luận cơ bản. Bác chịu ảnh hưởng nho giáo, Khổng Tử… thậm chí có những lần Bác đã đến hồi lẩm cẩm”.
(mất một đoạn) … “Thời thắng Mỹ” dưới bút danh Thép Mới. Quy hoạch 36 bài sẽ đưa ra kết luận “Thời thắng Mỹ” là thời đại gì? Đã đăng được 16 bài trên báo Nhân dân. Do làn sóng phản ứng của đảng viên, cán bộ nhân dân, buộc phải đình chỉ không được đăng tiếp nữa. Song với 16 bài đã đăng, tác giả và Báo Nhân dân đã kịp chấm dứt và cắt ngang thời đại Hồ Chí Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ Chí Minh ở đây với hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là chống phong kiến thì chậm tiến hành cải cách ruộng đất. Đối với chế độ xâm lược thì hiệp định Giơ-ne-vơ là thoả hiệp với địch, là ảo tưởng, là ngăn cản nhân dân Việt Nam, Lào, Camphuchia giành thắng lợi hoàn toàn…
+ Cũng trên báo Nhân dân, bài báo giới thiệu tác phẩm “Bức thư vào Nam” của đồng chí Lê Duẩn, đã tôn xưng đồng chí Lê Duẩn là “tổng công trình sư của đường lối đánh Mỹ và Tổng tư lệnh trên thực tế” chỉ một câu gắn gọn gồm vẻn vẹn 16 từ, bài báo đã đồng thời phủ định hai nhân vật lịch sử trọng yếu là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là đại biểu cho ý chí và khí phách của toàn dân tộc, là người thiết kế đường lối đánh Mỹ đã được manh nha từ chiến thắng Điện Biên Phủ, từ Hộinghị Giơ-ne-vơ. Võ Nguyên Giáp là Bí thư Quân uỷ Trung ương và Tổng tư lệnh không thể là danh nghĩa (có văn bản chính thức của Trug ương) mà là thực quyền chỉ huy chiến đấu và hoạt động…
+ Nghị quyết 15 năm 1959 là do Bộ Chính trị phân công Võ Nguyên Giáp khởi thảo với sự chấp bút của Hoàng Tùng và Trần Quang Huy tại Đồ Sơn…
+ Sau khi nước nhà thống nhất, nếu chấp nhận ý kiến của ông (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) về xây dựng kinh tế là: trước hết phải để thời gian khôi phục rồi mới tính đến phát triển, và phải đặt nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; thì chắc chắn là hạn chế được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy giờ, dẫn đến khủng hoảng đời sống.
(Một số chuyện kể trong phụ lục này (tuy chưa đầy đủ) để minh chứng rằng nhà văn Sơn Tùng đã nói đúng).
–
* Nội dung trên đây được Ba Sàm đánh máy lại từ một tài liệu photocopy, đã được đăng trên blog BS hai năm trước, bị tin tặc xóa, nay đăng lại (14/9/2011).
Xem thêm
Phỏng vấn chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 6/ 1964
<iframe width="480" height="360" src="http://www.youtube.com/embed/onhVOcVGHds" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Nguồn clip: Viện lưu trữ quốc gia Pháp INA Edit sub: Merika Chia sẻ bởi một thành viên Vozforums.com Chưa rõ người dịch. Hoàng Kim chọn bài từ: http://www.youtube.com/watch?v=onhVOcVGHds&feature=b-vrec)
Trở về trang chính
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC
(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)
HỌC MỖI NGÀY
(Những bài tuyển chọn về văn hóa giáo dục
lịch sử, thơ văn)
Nhãn:
Sơn Tùng kể chuyện Hồ Chí Mi
ÔNG NGUYỄN SINH KHIÊM KHI Ở TẠI PHÚ LỄ
Sau năm 1975, trong khi đi sưu tập tư liệu về thời niên thiếu của Bác
Hồ, tôi được nghe ông Nguyễn Ngọc Bang (một cơ sở cách mạng ở Huế thời
chống Pháp) quê ở làng Phú Lễ, kể chuyện ông Nguyễn Sinh Khiêm - bào
huynh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từng có vợ và có con ở quê ông. Qua xác
minh, tôi thấy những chuyện đó có thật.
Tác giả và bà Nguyễn Thị Chanh.
Làng Phú Lễ (thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, TT - Huế) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2km, cách phía bắc trung tâm Huế 20km. Về Phú Lễ tôi được gặp bà Nguyễn Thị Chanh là cháu bên ngoại của vợ đồng chí Lâm Mộng Quang, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà vợ ông Cả Khiêm. Bà Chanh tuy đã trên 80 tuổi nhưng còn khoẻ mạnh, minh mẫn, trí nhớ rất tốt.
Bà Chanh cho biết vào cuối những năm hai mươi, cụ Phan Bội Châu mở tại nhà riêng trên đỉnh dốc Bến Ngự một lớp học. Ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Chanh) từ Phú Lễ đem người em là Nguyễn Hữu Quế vào học và sau đó ông có nhiều dịp lui tới thăm viếng cụ Phan. Dưới mái tranh nhà cụ Phan, ông Ấm đã gặp ông Cả Nguyễn Sinh Khiêm nhiều lần.
Có lẽ do những lần gặp gỡ ấy, hai người quen nhau. Năm 1929, ông Cả về Phú Lễ vừa làm thầy thuốc vừa tìm nơi "an trí" liền được ông Ấm mời lưu lại trong nhà bên chợ Phú Lễ.
Biết ông Cả về ở Phú Lễ, cụ Phan Bội Châu bảo ông Ấm:
- "Có ai ngó được, chú cưới cho Cả Khiêm một người để giữ chân anh ta lại!".
Từ nhà ông Ấm, ông Cả được mời sang thăm mạch bốc thuốc cho bà Nguyễn Thị Giáng ở ngôi nhà rường bán hàng xén, chỉ cách nhà ông Ấm vài căn. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may ông chồng qua đời, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang hoài vẫn không khỏi. May sao bà được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy ông Cả không nhận.
Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh.
Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại trong nhà bà Giáng cả tuần lễ để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên luôn. Ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Buồn tình, tháng 2.1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.
Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Bọn thực dân nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp, chúng bắt giam ông mấy tháng.
Qua năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông.
Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến.
Ông Lê Văn Yên, con trai thứ của cụ Lê Văn Miến kể rằng:
- "Từ đầu năm 1943 thầy tôi đưa gia đình về Phò Trạch ở trong một ngôi nhà do lòng hảo tâm của học sinh cũ của thầy tôi mua tặng. Trong những năm ấy ông Cả Khiêm an trí ở Phú Lễ hay ra thăm thầy tôi, đôi khi ông ở lại trong nhà hàng tuần lễ. Trong những ngày ấy ông Cả hay ngồi đàm đạo với thầy tôi, kể lại những kỷ niệm hai anh em Đạt Thành học với thầy tôi tại Trường Quốc học Huế. Khi thầy tôi mất (6.6.1943) có hai người học trò đứng chịu tang: Người thứ nhất là ông Nguyễn Trác đại diện cho học sinh Quốc Tử Giám, thứ hai là ông Cả Khiêm /Nguyễn Tất Đạt đại diện cho học sinh Quốc học".
Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp (9.3.1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó ông Ấm Hoàng và ông Cả Khiêm hay bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng minh, đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng minh vào trung tuần tháng 8.1945.
Đến ngày 23.8.1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Huế. Ông Cả cùng với dân chúng hân hoan vô cùng. Ông ra sức vận động thanh niên tham gia cách mạng. Khi biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công, chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông, ông sung sướng vô cùng.
Đầu năm 1946, ông dắt hai người thanh niên là Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo (cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông mất ở quê nhà vào cuối năm 1950.
Bàn thờ đặt tại nhà ông Nguyễn Tăng Thông và bà Nguyễn Thị Chanh thờ ông nội, cha và các bác của bà Nguyễn Thị Giáng.
Được ông chăm sóc, dạy dỗ hai anh Hà Hữu Thừa và Nguyễn Hữu Tạo rất trưởng thành. Nguyễn Hữu Tạo hoạt động tình báo, sau bị bắt, bị giam đến chết ở Chín hầm của Ngô Đình Cẩn. Hà Hữu Thừa phục vụ trong quân đội, năm 1992 về hưu với quân hàm đại tá.
Bà Nguyễn Thị Giáng có được 16 năm (1930-1946) làm vợ ông Cả Khiêm. Bà có với ông 3 người con, tiếc là không nuôi được một người nào. Người con riêng của bà theo kháng chiến mất liên lạc. Ông Cả Khiêm thì về. Một mình bà ở lại Phú Lễ vò võ chờ chồng, trông con. Đến năm 1960 bà qua đời.
So với thời ông Cả ở, cảnh quan Phú Lễ ngày nay rất khác xưa. Con đường làng men sông Bồ bị sụt lở nhiều đoạn. Cái xóm nhà bên sông trước chợ mà ông hay lui tới đã trôi mất từ lâu. Chợ Phú Lễ bỏ hoang. Vị trí nền móng ngôi nhà ông Ấm Hoàng - nơi ông Cả Khiêm về tá túc một thời gian vẫn còn, nhưng đã đổi chủ nhiều lần.
Ngôi nhà rường của bà Nguyễn Thị Giáng - nơi ba người con của ông Cả Khiêm ra đời đã sửa chữa nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ được bóng dáng cũ. Sau ngày bà Giáng qua đời (1960), ngôi nhà được bán cho ông Bốn, sau năm 1975, ông Bốn bán lại cho gia đình ông Đặng Thông Chánh.
Mộ của bà Giáng và ba người con ông Cả Khiêm chôn trong nghĩa địa họ Nguyễn Tăng nằm phía sau Trường THCS Phú Lễ bên đường ôtô An Lỗ - Sịa. Nghĩa địa rộng ba sào, họ Nguyễn Tăng dành làm nơi an nghỉ của con cháu trong họ. Tiếc thay, sau 1975, người khác họ xin địa phương vào đào bới chôn cất lung tung. Vì thế ba ngôi mộ của ba người con ông Cả đều bị mất dấu. Đại tá Hà Hữu Thừa nhiều lần về quê ngoại tìm mộ của ba người em cùng mẹ với mình nhưng đành bất lực. May sao, mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - mẹ ông, vẫn còn nguyên vẹn. Ông sửa sang mộ mẹ và dựng tấm bia khắc mấy chữ:"Mộ bà Nguyễn Thị Giáng, 1897-1960, kỵ 9.9 âm lịch. Con Hà Hữu Thừa phụng lập".
Ông Cả Khiêm đã xa Phú Lễ gần 60 năm. Ở Phú Lễ ngày nay không còn mấy người thân quen biết ông. Tuy nhiên, chuyện ông Cả về làm thuốc rồi làm rể ở Phú Lễ giống như chuyện đời xưa. Mỗi lần dân làng có dịp đề cập đến gia đình của Bác Hồ, người ta lại nhắc đến ông Cả, nhắc đến một ông thầy thuốc mặc bộ đồ nâu, đội nón lá 17 vành quá cỡ, thích uống rượu, thích đọc sách, thích câu cá, tốt bụng, khi nào cũng vui vẻ với mọi người.
Ba người con ông mất sớm, mộ phần chưa tìm ra dấu tích, nhưng chắc chắn ba cái hài cốt mang dòng máu Nguyễn Sinh/ Nguyễn Tất ấy đã tan hoà vào đất Phú Lễ. Lưu niệm sâu lắng nhất của ông Cả ở đây có lẽ là mảnh đất có xương thịt của ba người con ông và ngôi mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - vợ ông.
Trước đây, người ta quan niệm Huế là quê hương thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay ta có thể nói thêm "Thừa Thiên - Huế cũng là quê hương thứ hai của gia đình Bác Hồ".
Theo Nguyễn Đắc Xuân
Tác giả và bà Nguyễn Thị Chanh.
Làng Phú Lễ (thuộc xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, TT - Huế) nằm bên bờ bắc sông Bồ, cách phía đông chợ An Lỗ chừng 2km, cách phía bắc trung tâm Huế 20km. Về Phú Lễ tôi được gặp bà Nguyễn Thị Chanh là cháu bên ngoại của vợ đồng chí Lâm Mộng Quang, em con chú ruột của bà Nguyễn Thị Cúc - vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, chị dâu của bà vợ cựu Đại sứ Hà Văn Lâu và cũng là chị dâu của bà vợ ông Cả Khiêm. Bà Chanh tuy đã trên 80 tuổi nhưng còn khoẻ mạnh, minh mẫn, trí nhớ rất tốt.
Bà Chanh cho biết vào cuối những năm hai mươi, cụ Phan Bội Châu mở tại nhà riêng trên đỉnh dốc Bến Ngự một lớp học. Ông Ấm Hoàng (bác ruột của bà Chanh) từ Phú Lễ đem người em là Nguyễn Hữu Quế vào học và sau đó ông có nhiều dịp lui tới thăm viếng cụ Phan. Dưới mái tranh nhà cụ Phan, ông Ấm đã gặp ông Cả Nguyễn Sinh Khiêm nhiều lần.
Có lẽ do những lần gặp gỡ ấy, hai người quen nhau. Năm 1929, ông Cả về Phú Lễ vừa làm thầy thuốc vừa tìm nơi "an trí" liền được ông Ấm mời lưu lại trong nhà bên chợ Phú Lễ.
Biết ông Cả về ở Phú Lễ, cụ Phan Bội Châu bảo ông Ấm:
- "Có ai ngó được, chú cưới cho Cả Khiêm một người để giữ chân anh ta lại!".
Từ nhà ông Ấm, ông Cả được mời sang thăm mạch bốc thuốc cho bà Nguyễn Thị Giáng ở ngôi nhà rường bán hàng xén, chỉ cách nhà ông Ấm vài căn. Bà Giáng đã có một đời chồng người họ Hà làng Phú Ốc. Không may ông chồng qua đời, để lại cho bà một người con trai còn đi chập chững. Từ ngày chồng chết, bà Giáng hay đau ốm, thuốc thang hoài vẫn không khỏi. May sao bà được ông Cả Khiêm chữa cho lành bệnh. Bà gởi tiền thầy ông Cả không nhận.
Sau ngày bà Giáng mãn tang chồng (1930), ông Cả Khiêm đến ăn ở với bà Giáng. Cậu bé con trai của bà là Hà Hữu Thừa được ông Cả thương yêu dạy dỗ như con đẻ. Cuối năm 1933, bà Giáng có với ông một người con gái, đặt tên là Nguyễn Thị Cao. Cao lên 3 tuổi thì mất vì bệnh.
Năm 1937, bà Giáng sinh tiếp người con gái thứ hai Nguyễn Thị Ba. Đang ở Huế, được tin có cháu gọi bằng cô, bà Nguyễn Thị Thanh - chị ruột ông Cả, về Phú Lễ thăm và ở lại trong nhà bà Giáng cả tuần lễ để chăm sóc cháu. Đến đầu năm 1940, bé Ba mắc bệnh và qua đời. Ông Cả thương con muốn phát điên luôn. Ông làm thầy thuốc mà không cứu được con. Buồn tình, tháng 2.1940, ông tạm biệt bà Giáng về lại Nghệ An.
Về quê, ông cho rằng nơi táng thân mẫu ông trong vườn nhà ở Kim Liên không tốt nên ông cải táng lên núi Đại Huệ. Sau đó ông lên Vinh tổ chức diễn tuồng Trưng Nữ Vương do cụ Phan Bội Châu soạn, rồi lại mở lớp dạy võ cho thanh niên. Bọn thực dân nghi ông tập hợp thanh niên để hoạt động chống Pháp, chúng bắt giam ông mấy tháng.
Qua năm 1941, ông bị buộc phải trở lại Huế để Pháp dễ bề theo dõi ông.
Năm 1943, bà Giáng lại sinh cho ông cậu con trai đặt tên là Nguyễn Tất Thông. Và cũng chỉ nuôi được 6 tháng rồi cậu bé cũng mất. Đau khổ vì chuyện mất con lần thứ ba, ông Cả lại bỏ nhà ra đi. Lần này ông ra Phong Điền với thầy Lê Văn Miến.
Ông Lê Văn Yên, con trai thứ của cụ Lê Văn Miến kể rằng:
- "Từ đầu năm 1943 thầy tôi đưa gia đình về Phò Trạch ở trong một ngôi nhà do lòng hảo tâm của học sinh cũ của thầy tôi mua tặng. Trong những năm ấy ông Cả Khiêm an trí ở Phú Lễ hay ra thăm thầy tôi, đôi khi ông ở lại trong nhà hàng tuần lễ. Trong những ngày ấy ông Cả hay ngồi đàm đạo với thầy tôi, kể lại những kỷ niệm hai anh em Đạt Thành học với thầy tôi tại Trường Quốc học Huế. Khi thầy tôi mất (6.6.1943) có hai người học trò đứng chịu tang: Người thứ nhất là ông Nguyễn Trác đại diện cho học sinh Quốc Tử Giám, thứ hai là ông Cả Khiêm /Nguyễn Tất Đạt đại diện cho học sinh Quốc học".
Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp (9.3.1945), lính Nhật rải ra đóng đồn giữ các cầu trên quốc lộ 1. Lính Nhật gác cầu An Lỗ hay về chợ Phú Lễ mua thực phẩm. Nhân đó ông Ấm Hoàng và ông Cả Khiêm hay bút đàm với người Nhật để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Nhật và Đồng minh, đặc biệt là với quân đội Liên Xô. Nhờ thế mà các ông sớm biết được cái tin Nhật đầu hàng quân đội Đồng minh vào trung tuần tháng 8.1945.
Đến ngày 23.8.1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Huế. Ông Cả cùng với dân chúng hân hoan vô cùng. Ông ra sức vận động thanh niên tham gia cách mạng. Khi biết được Chủ tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo cách mạng thành công, chính là Nguyễn Ái Quốc em trai ông, ông sung sướng vô cùng.
Đầu năm 1946, ông dắt hai người thanh niên là Hà Hữu Thừa (con trai của vợ ông) và Nguyễn Hữu Tạo (cháu ông Ấm Hoàng) đi tàu hoả ra Hà Nội thăm người em làm Chủ tịch Nước. Sau chuyến thăm viếng đó, ông cho hai thanh niên trở lại Huế ăn Tết Bính Tuất và tham gia công tác cách mạng, còn ông thì ghé về thăm quê. Không ngờ cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, ông không còn cơ hội để trở lại Phú Lễ với bà Giáng nữa. Ông mất ở quê nhà vào cuối năm 1950.
Bàn thờ đặt tại nhà ông Nguyễn Tăng Thông và bà Nguyễn Thị Chanh thờ ông nội, cha và các bác của bà Nguyễn Thị Giáng.
Được ông chăm sóc, dạy dỗ hai anh Hà Hữu Thừa và Nguyễn Hữu Tạo rất trưởng thành. Nguyễn Hữu Tạo hoạt động tình báo, sau bị bắt, bị giam đến chết ở Chín hầm của Ngô Đình Cẩn. Hà Hữu Thừa phục vụ trong quân đội, năm 1992 về hưu với quân hàm đại tá.
Bà Nguyễn Thị Giáng có được 16 năm (1930-1946) làm vợ ông Cả Khiêm. Bà có với ông 3 người con, tiếc là không nuôi được một người nào. Người con riêng của bà theo kháng chiến mất liên lạc. Ông Cả Khiêm thì về. Một mình bà ở lại Phú Lễ vò võ chờ chồng, trông con. Đến năm 1960 bà qua đời.
So với thời ông Cả ở, cảnh quan Phú Lễ ngày nay rất khác xưa. Con đường làng men sông Bồ bị sụt lở nhiều đoạn. Cái xóm nhà bên sông trước chợ mà ông hay lui tới đã trôi mất từ lâu. Chợ Phú Lễ bỏ hoang. Vị trí nền móng ngôi nhà ông Ấm Hoàng - nơi ông Cả Khiêm về tá túc một thời gian vẫn còn, nhưng đã đổi chủ nhiều lần.
Ngôi nhà rường của bà Nguyễn Thị Giáng - nơi ba người con của ông Cả Khiêm ra đời đã sửa chữa nhiều lần nhưng cơ bản vẫn giữ được bóng dáng cũ. Sau ngày bà Giáng qua đời (1960), ngôi nhà được bán cho ông Bốn, sau năm 1975, ông Bốn bán lại cho gia đình ông Đặng Thông Chánh.
Mộ của bà Giáng và ba người con ông Cả Khiêm chôn trong nghĩa địa họ Nguyễn Tăng nằm phía sau Trường THCS Phú Lễ bên đường ôtô An Lỗ - Sịa. Nghĩa địa rộng ba sào, họ Nguyễn Tăng dành làm nơi an nghỉ của con cháu trong họ. Tiếc thay, sau 1975, người khác họ xin địa phương vào đào bới chôn cất lung tung. Vì thế ba ngôi mộ của ba người con ông Cả đều bị mất dấu. Đại tá Hà Hữu Thừa nhiều lần về quê ngoại tìm mộ của ba người em cùng mẹ với mình nhưng đành bất lực. May sao, mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - mẹ ông, vẫn còn nguyên vẹn. Ông sửa sang mộ mẹ và dựng tấm bia khắc mấy chữ:"Mộ bà Nguyễn Thị Giáng, 1897-1960, kỵ 9.9 âm lịch. Con Hà Hữu Thừa phụng lập".
Ông Cả Khiêm đã xa Phú Lễ gần 60 năm. Ở Phú Lễ ngày nay không còn mấy người thân quen biết ông. Tuy nhiên, chuyện ông Cả về làm thuốc rồi làm rể ở Phú Lễ giống như chuyện đời xưa. Mỗi lần dân làng có dịp đề cập đến gia đình của Bác Hồ, người ta lại nhắc đến ông Cả, nhắc đến một ông thầy thuốc mặc bộ đồ nâu, đội nón lá 17 vành quá cỡ, thích uống rượu, thích đọc sách, thích câu cá, tốt bụng, khi nào cũng vui vẻ với mọi người.
Ba người con ông mất sớm, mộ phần chưa tìm ra dấu tích, nhưng chắc chắn ba cái hài cốt mang dòng máu Nguyễn Sinh/ Nguyễn Tất ấy đã tan hoà vào đất Phú Lễ. Lưu niệm sâu lắng nhất của ông Cả ở đây có lẽ là mảnh đất có xương thịt của ba người con ông và ngôi mộ của bà Nguyễn Thị Giáng - vợ ông.
Trước đây, người ta quan niệm Huế là quê hương thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày nay ta có thể nói thêm "Thừa Thiên - Huế cũng là quê hương thứ hai của gia đình Bác Hồ".
Theo Nguyễn Đắc Xuân
Posted on June 4, 2011
Có người cho rằng, tác giả cố ý gài bẫy tờ báo và hệ thống kiểm duyệt của Đảng, và đảng đã bị lỡm mà không biết.
Dù sao thì cũng đáng hoan nghênh tờ báo này, và nhất là đáng hoan nghênh tác giả Bắc Hà đã dùng biện pháp “ý ngôn tại ngoại” để người đọc tìm hiểu và thấy rõ hơn về một nhân vật được đảng dựng lên, lợi dụng ngay cả khi đã lìa đời gần nửa thế kỷ vẫn không được yên.
Tóm lại, hoặc là tội nghiệp cho tờ báo và tác giả, nếu sự ngu làm mờ mất lý trí, hoặc đáng hoan nghênh, nếu tác giả muốn nói ra một sự thật.
Nhưng điều đã được khẳng định là: Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại, một câu chuyện viển vông, huyễn hoặc và không hề có thật.
Không khảo mà xưng, tờ Quân đội Nhân dân của Quân ủy Trung ương (Tức là của Đảng phụ trách Quân đội) trong bài viết “Không bao giờ đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh” trên mục “Chính luận” đã thừa nhận rằng: “Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, những kỳ tích của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp, đạo đức của Người, đã thật sự là một huyền thoại trong tâm thức của nhân dân ta và bè bạn quốc tế”.
Không chỉ có thế, tờ báo nhiều lần nhắc lại: “…đã không đáp ứng được cái mà chúng mong đợi, tức là trừ khử được cái huyền thoại về Hồ Chí Minh…” rồi thì: “Các thế lực thù địch dù có quỷ quyệt, thâm độc đến đâu cũng không thể đánh đổ được huyền thoại đó, là vì Huyền thoại Hồ Chí Minh là thành quả vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX”. (Ở đây nên nhớ rằng chữ dân tộc Việt Nam mà đảng dùng là để chỉ Đảng CSVN như cách đánh tráo khái niệm ngôn ngữ xưa nay của đảng).
Trong bài viết này, tờ Quân đội nhân dân đã nhiều lần khẳng định Hồ Chí Minh là câu chuyện huyền thoại. Sự khẳng định này được tờ báo QĐND đăng chính thức, không hề trong “ngoặc kép” hoặc bất cứ giải thích nào khác, mà đó là từ dùng để khẳng định có tính chất chắc chắn.
Vậy, “Huyền thoại” là gì?
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “Huyền thoại” là: Câu chuyện huyền hoặc hay dũng cảm của thời xa xưa và huyền hoặc là điều viển vông, không có thực.
Như vậy, theo đúng nghĩa Tiếng Việt thì “Huyền thoại Hồ Chí Minh” là câu chuyện huyễn hoặc, viển vông không có thực về một nhân vật gọi là Hồ Chí Minh. Điều đáng nói là cái huyền thoại này không phải do bất cứ thế lực thù địch chống phá bên ngoài hay bên trong nào tạo ra, mà chính tờ Quân đội Nhân dân đã công khai xác nhận.
Hồ Chí Minh chỉ là “Huyền thoại”, nghĩa là câu chuyện huyền hoặc, viển vông, không có thực về một nhân vật là Hồ Chí Minh.
Suy cho cùng, thì điều tờ QĐND khẳng định trên đây về Hồ Chí Minh cũng không có gì sai, chỉ có điều là sau mấy chục năm Đảng CSVN đã cố công nhào nặn, thông tin một chiều tạo nên thần thánh và đặc biệt là muốn dùng việc thần thánh hóa ông Hồ Chí Minh làm thành một chiếc bình phong che đậy đằng sau đó là một chế độ độc tài, độc trị, tham nhũng và phản động, phản dân hại nước như đã từng thấy xưa nay và nhất là đang thực tế thấy hiện nay.
Vì sao Hồ Chí Minh là một huyền thoại?
Theo cách nghĩ đơn giản và cụ thể của người Việt Nam, chúng ta phân tích một vài yếu tố để khẳng định điều này như sau:
Một con người, được xác định bởi tên, tuổi, ngày sinh, ngày mất, họ hàng, dòng tộc, vợ con, sự nghiệp,… đó là những yếu tố để xác định một con người cụ thể. Nhìn vào bản lý lịch của mỗi người, chúng ta đều thấy rõ điều này. Thiếu đi một trong những yếu tố như: Tên, ngày sinh, tên cha mẹ, quê quán, ngày mất, ông bà, dòng họ… thì chưa thể xác định cụ thể đó là con người nào.
Với ông Hồ Chí Minh, những yếu tố này đều là một sự lấp lửng và hoàn toàn không được Đảng, nhà nước làm sáng tỏ xưa nay. Đụng đến vấn đề đó chỉ là một sự mập mờ khó hiểu. Vì sao vậy?
Nhiều tài liệu sưu tầm và nhiều tư liệu lịch sử đã khẳng định về ông Hồ Chí Minh với những yếu tố như sau:
- Tên: Không đúng, theo văn bản Đảng cho biết thì ông ra đời và lớn lên là họ Nguyễn, ở làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Vậy nhưng, nhiều tư liệu lịch sử lại phát hiện ra rằng ông là người họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Điều này Đảng cố giấu, thì họ hàng nhà ông lấy làm hãnh diện lại khoe ra và đạp đổ công lao giấu diếm của Đảng.
- Tuổi: Không đúng, theo văn bản của Đảng và nhà nước, ông Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890. Thế nhưng nhiều tài liệu chứng minh rằng ngày sinh này hoàn toàn không đúng, năm sinh càng không. Một lá đơn của ông xin vào học trường Thuộc địa của Pháp – Một ngôi trường đã sản sinh ra rất nhiều những tay sai bậc thầy cho Thực dân Pháp – thì ông tự xác định ông sinh năm 1892.
- Gia đình, dòng họ: Không đúng, theo những gì Đảng và nhà nước tuyên truyền, thì ông Hồ Chí Minh quê ở làng Kim Liên, Nam Đàn. Thế nhưng nhiều tư liệu đã chứng minh rất rõ rằng ông lại có Họ Hồ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Chính vì thế, chưa bao giờ Đảng và nhà nước dám nói đến ông nội Hồ Chí Minh là ai. Nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mẹ ông Nguyễn Sinh Sắc đã mang hoang thai từ một thầy đồ nho ở Quỳnh Lưu, còn ông nội Nguyễn Sinh Nhậm ở Kim Liên, chỉ là người tô son, trát phấn lên bào thai Nguyễn Sinh Sắc khi bà được gả làm thiếp cho ông nông dân này mà thôi. Điều này được chứng minh bằng việc gần đây, có một video được đưa lên mạng về việc con cháu của vợ hai ông Nguyễn Sinh Sắc về Quỳnh Lưu để nhận họ hàng.
Vậy thì những điều ghi vào lý lịch ông Hồ Chí Minh đâu có phải như đảng đã nói, đây là sự mập mờ tiếp theo.
- Sự nghiệp: Theo đảng vẽ ra, thì ông Hồ Chí Minh đã “ra đi tìm đường cứu nước”. Thế nhưng, lá đơn xin học trường Thuộc địa Pháp, hoàn cảnh ông khi ra đi làm bồi bếp trên tàu sang Pháp lại cho thấy rằng ông đi vì hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn. Nếu không trong hoàn cảnh cha nát rượu và bị án, mẹ chết và anh em tứ tán, thì con đường “đi tìm đường cứu nước” của ông Hồ sẽ đến đâu? Chưa nói là thực tế, cái cứu nước đó thực chất là đưa Việt Nam trở thành một mắt xích trong phong trào Cộng sản quốc tế.
Thậm chí, đảng còn nói rằng ông Hồ Chí Minh là Danh nhân Văn hóa thế giới được Unesco công nhận, nhưng thực tế điều này chỉ là sự dựng chuyện, bịa đặt mà không có thực.
- Vợ con: Cũng theo những tài liệu Đảng tuyên truyền, thì ông Hồ Chí Minh không vợ, không con, không có gia đình… để chuyên tâm lo việc nước.
Vậy nhưng, nhiều tài liệu, những nhân chứng sống đã chỉ rõ rằng ông có vợ và thậm chí là nhiều vợ. Những lời chứng minh của những người từng cùng sống, cùng làm việc và cả những nhà nghiên cứu lịch sử đã khẳng định điều này. Việc ông có vợ cũng là điều bình thường nhưng dưới cái nhìn và nhất là để dựng lên “huyền thoại” đảng ta đã cố công bóp méo và giấu nhẹm.
Vậy đó đâu phải là sự thật?
- Ngày chết: Không đúng, ngày ông Hồ Chí Minh mới chết, đảng và nhà nước công bố ngày ông chết, ngày để con cháu cúng giỗ ông là ngày 3/9/1969. Vậy rồi mấy chục năm sau đảng mới công bố lại rằng ông chết ngày 2/9/1969.
- Di chúc: Cũng khi ông Hồ Chí Minh chết, Đảng cho công bố cái gọi là Di chúc theo ý đảng, đến một lúc nào đó, thấy nó không còn có lợi, đảng mới công bố rằng đó là di chúc dởm và công bố lại bản khác. Bản này cũng chưa hẳn đã là di chúc thật của ông nốt.
Với một con người, mà tất cả mọi thông tin liên quan để xác định con người đó đều là sự giả dối và mập mờ, sai trái thì làm sao có thể xác định rằng đó là một con người thật mà không là huyền thoại, không là huyễn hoặc, là viển vông và không có thực.
Điều đáng hoan nghênh ở tờ Quân đội Nhân dân và tác giả Bắc Hà
Tờ Quân đội Nhân dân, thực chất đã rất hiểu những điều đã phân tích trên đây, nhưng dưới sự kiểm duyệt gắt gao của hệ thống Đảng với báo chí thì chính tác giả bài viết đã nhân cơ hội này khẳng định cho nhân dân, các chiến sĩ, tướng lĩnh quân đội hiểu về nhân vật được Đảng dựng lên để làm bình phong, làm cái phao cứu Đảng đang chết chìm trong làn sóng lòng dân rằng đó chỉ là một huyền thoại và là điều không có thực.
Cũng có người cho rằng, đây là cái sự ngu của một phóng viên của Đảng, nịnh không biết nịnh, bơm lại bơm quá đà làm phụt ra sự thối tha của Đảng trong trường hợp này. Nhưng dù sao, thì cũng là một sự thật được nói ra.
Cũng có người cho rằng, tác giả cố ý gài bẫy tờ báo và hệ thống kiểm duyệt của Đảng, và đảng đã bị lỡm mà không biết.
Dù sao thì cũng đáng hoan nghênh tờ báo này, và nhất là đáng hoan nghênh tác giả Bắc Hà đã dùng biện pháp “ý ngôn tại ngoại” để người đọc tìm hiểu và thấy rõ hơn về một nhân vật được đảng dựng lên, lợi dụng ngay cả khi đã lìa đời gần nửa thế kỷ vẫn không được yên.
Tóm lại, hoặc là tội nghiệp cho tờ báo và tác giả, nếu sự ngu làm mờ mất lý trí, hoặc đáng hoan nghênh, nếu tác giả muốn nói ra một sự thật.
Nhưng điều đã được khẳng định là: Hồ Chí Minh chỉ là một huyền thoại, một câu chuyện viển vông, huyễn hoặc và không hề có thật.
Vì thế, đúng như khẳng định của tờ QĐND là “Không bao giờ đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh”, bởi đó chỉ là câu chuyện huyễn hoặc và không có thật, thì làm sao có thể đánh đổ? Nhưng, điều khẳng định là sự huyễn hoặc đã ngày càng mất thiêng.
Hà Minh Tâm
Sơn Tùng kể chuyện Hồ Chí Minh
DANH NHÂN VIỆT. Ngày 27/4/2001, tại Trường Cán bộ Quản lý Giáo dục Đào tạo, nhà văn Sơn Tùng có buổi nói chuyện về chủ tịch Hồ Chí Minh với tựa đề "Theo con đường Bác Hồ". Nội dung buổi nói chuyện đã được lược ghi và tôi có thông tin từ ba nguồn. Bài viết dưới đây là từ nguồn blog Ba Sàm , tôi lưu lại làm tư liệu mà chưa có điều kiện đối chiếu so sánh (HK).
THEO CON ĐƯỜNG BÁC HỒ
Sơn Tùng kể
…Xin
giới thiệu, bác Sơn Tùng là nhà văn mà nhiều người đã biết đến, qua
các tác phẩm của bác. Trong buổi nói chuyện hôm nay, bác sẽ cung cấp
cho chúng ta những thông tin rất bổ ích. Mặc dù bác đang mệt, nhưng rất
nhiệt tình với chúng ta, bác vẫn nhận lời nói chuyện với trường chúng
ta hôm nay. Bây giờ tôi xin nhường lời cho bác Sơn Tùng.
Kính thưa thầy Hiệu TrưởngKính thưa các thầy, các cô giáo
Trường cán bộ quản lý giáo dục đào tạo của cơ quan giáo dục, bất luận thời nào đi nữa, thì giáo dục vẫn là nền tảng quan trọng. Vì, không tôn sư thì không thể có Đạo được. Dù phong kiến, đế quốc, tư bản, xã hội chủ nghĩa đi nữa…nếu không trọng thầy, không yêu thầy học (muốn con hay chữ, phải yêu lấy thầy), là không phải đạo. Vì vậy, nói đến giáo dục, đã không có thì đành vậy, còn đã là có chữ thì phải biết ơn thầy. Làm đến ông vương, ông tướng cũng phải qua thầy học, làm nhà văn đi nữa thì trước hết phải yêu từ cô giáo vỡ lòng dạy mình từ buổi thiếu niên đến thầy dạy tiểu học, rồi phổ thông lại lên đại học…
Vừa qua thời tiết chuyển đổi đột ngột, ít khi nào sang tháng tư, qua tháng ba, thanh minh rồi, mà Hà Nội thời tiết 16 độ, cái thời tiết nó rất găng, như ngày hôm qua tôi tưởng không đến được nhưng vì đã nhận lời thầy Huấn từ mấy tuần trước. Sáng nay thầy Huấn đến cũng biết tôi đang nằm ngoạ thiền chứ không tọa thiền thì sáng nào tôi cũng làm, 2h sáng tôi ngồi thiền, 3h rưỡi sáng tắm nước nóng, dậy đọc sách, đến 5h nằm thiền điều trị vết thương sọ não.
Hai hôm nay tôi không ăn, hôm qua, do thời tiết đã đành, lại nữa có mấy cái hội nghị 11, 11b, rồi 12… mới bế mạc hôm qua. Thế thì những vấn đề này nó gắn liền với sự tồn tại, sự sống còn của đất nước. Vì Đảng ta là Đảng lãnh đạo đất nước từ năm 1930, làm nên những sự nghiệp rất lớn, trước hết là sự nghiệp cứu nước. Ba mươi năm chiến tranh, không ai muốn điều ấy làm gì. Người ta muốn làm nhà khoa học, làm nhà giáo… không ai muốn làm người anh hùng trong chiến tranh. Làm người anh hùng trong chiến tranh thì hàng nghìn, hàng vạn người ngã xuống. Đó là cái bất đắc dĩ của dân tộc.
Nhưng từ một phần tư thế kỷ nay, Đảng ta sa sút xuống đến mức không tưởng tượng nổi so với trước đây, nhân cách nhiều người cộng sản không còn. Nhân cách không còn, vì tham nhũng đến mức không thể chấp nhận.
Tuy nhiên, sự nghiệp của Đảng ta vẫn chói lọi thôi; nhân dân thì vĩ đại, nhưng những người có trách nhiệm trước Đảng, trước Nhân dân không giữ được nhân cách. Họ đem cái tham nhũng làm hại cho toàn Đảng, cho nhân dân ta. Mặc dù vậy, vị thế của dân tộc Việt Nam vẫn đứng ở vị trí lớn. Dù nó là nước nhỏ, nước nghèo, còn sự thực thì dân tộc ta, nhân dân ta, cái hưởng thụ về văn hoá, về tinh thần của dân ta so với các nước Đông Nam Á, với khu vực của ta, là cao. Vì ngay bây giờ ở Đại học Tổng hợp có cả đoàn sinh viên do ba giáo sư nổi tiếng ở Washington dẫn đầu sang ta để nghiêm cứu về Bác Hồ. Đoàn ở đây độ ba tháng, nay mới được tháng rưỡi, đã đi Tân Trào, Pắc Bó về. Đoàn gồm những sinh viên xuất sắc về sử Việt Nam và ba giáo sư đem theo cả gia đình con cái. Họ có mời tôi cùng đi nhưng vì sức khoẻ tôi không đi được.
Vấn đề trong mấy hội nghị trên là phe phái, phe cánh, mất đoàn kết trong lãnh đạo cao nhất. Như trước đây tôi có dịp nói được một phần sự hình thành nhân cách của Bác Hồ. Nói đến cái đó là trong cái nội gia đình của Bác. Nhân cách của con người ra đời, trước hết phải là gia đình, bước vào đời phát triển như thế nào bao giờ cũng bắt đầu từ gia đình, trường học. Nói trường học là có cả xã hội, có làng xóm quê hương. Tôi cố gắng nói một ý như vậy, ngắn hay dài tuỳ thuộc vào sức khoẻ. Nhưng trước hết tôi dành một số thời gian để nói về Đại hội 9 sắp tới đây.
Ngày 19 tháng 4 nay, ra Đại hội chỉ để quay phim, chụp ảnh, chứ mọi việc nó đã như bước một ở hội nghị Trung ương 12, hôm nay Trung ương nghỉ.
Tôi viết về đề tài Bác Hồ và danh nhân cách mạng rất quan tâm đến vấn đề từng con người có trách nhiệm đến vận mệnh quốc gia, từng sự kiện của đất nước thì Đại hội Đảng là một sự kiện lớn.
Ít nhiều thì tôi vẫn nhớ đến cái đại hội Đảng IV cuối năm 1976, hôm nay nhắc đến Đại hội IV năm 1976. Đại hội kết thúc chiến tranh 30 năm với nhiều hy vọng và chờ đợi bao nhiêu năm sau khi đuổi được đế quốc rồi, nhân dân sẽ trở lại cuộc sống yên bình, dù đói cơm rách áo đi nữa, thì cái vinh quang là của những con người chiến đấu vì dân tộc suốt bao nhiêu năm. Nhân dân có thể vẫn còn đói vì phải khôi phục kinh tế, khó mà no được, nhưng thể hiện được Nam, Bắc một nhà, hoà hợp dân tộc. Thắng là thắng đế quốc thắng ngoại xâm, chứ không có chuyện Bắc thắng Nam, Nam thắng Bắc. Một bà mẹ thờ cả hai sắc lính của hai con vì đất nước chia hai miền. Có cuộc xung đột ấy thì bà mẹ miền Nam thờ con là lính giải phóng và thờ cả người con ngã xuống nếu là lính quốc gia đi nữa, thì đó là cái nhất thời trong cái biến cố của dân tộc. Còn lòng mẹ cụ thể trong nhà phải có như bất cứ người Việt Nam nào trong hoàn cảnh đó.
Ông cha ta xưa đã có như vậy. Đánh xong giặc Nguyên thì Trần Nhân Tông đốt tất cả các văn bản là những gì có liên quan đến con người chia rẽ. Đốt để phục hồi lại cái hoà hợp dân tộc. Ai đã từng ra gươm chống lại dân tộc đến giờ phút ấy bỏ …Trần Hưng Đạo về Kiếp Bạc, vua Trần Nhân Tông lên núi Yên Tử đi tu, giao lại tất cả cho lớp người trẻ. Đội quân vinh quang trong chống xâm lăng sự nghiệp đến đó xong chỉ để lại người con rể của Hoàng triều là Phạm Ngũ Lão giúp vua giữ lấy cái truyền thống nề nếp từ trước. Nếu để Trần Hưng Đạo lại, vậy Trần Quang Khải thì sao, để ông con rể nhà Trần thì tiệu hơn, không có con ông này, con ông kia. Ông cha ta xưa đã làm như thế.
Nhưng ở đại hội 4 của ta thì khác đi, mười năm sai lầm làm kinh tế, không có áo may ô mà mặc. Họp chi bộ đem ra bình ai bắt thăm áo may ô hay săm xe đạp…Có khó khăn sau chiến tranh là dễ hiểu, nhưng người lãnh đạo phải nhìn thấy vấn đề. Tất cả vì Tổ quốc vì nhân dân, sau bao nhiêu năm kiệt quệ như thế này thì đoàn kết một lòng, kêu gọi sự giúp đỡ của các nước bạn và thế giới. Và mỗi người lãnh đạo phải sống như nhân dân, có trách nhiệm trước nhân dân. Đây lại không như thế, chúng tôi là những người chiến đấu ở miền Nam, tôi ngã xuống ở miền Đông Nam bộ, ở gần ông Nguyễn Hữu Thọ.
Ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận, đi dưới lá cờ nửa đỏ nửa xanh, lá cờ mặt trận nhưng nó vẫn mang cái hồn Tổ quốc bị chia cắt, chia đôi. Tấm gương của ông Nguyễn Hữu Thọ lớn lắm, một trí thức lớn. Và những người như Huỳnh Tấn Phát, nhà giáo Nguyễn Văn Đoá… chúng tôi đề nghị những người đó vào Trung ương. Trung ương Đảng ta là Đảng trí tuệ thì đưa những người trí tuệ ấy vào là xứng đáng. Nguyện vọng như vậy nhưng không được. Rồi đề nghị đưa lá cờ nửa đỏ nửa xanh vào bảo tàng thiêng liêng, bảo tàng lịch sử, nhưng cái bài học lịch sử ở Đại hội 9 này bây giờ nó mới vỡ ra. Họ chen vào Trung ương, để mà phá, xin lỗi, là những người vô học vào nắm chức quyền cao để mê hoặc nhân dân.
Năm 1960 kỷ niệm đảng ta 30 năm, Bác Hồ nói giữa nhà Hát lớn: Đảng ta là Đảng trí tuệ, Đảng văn minh rồi. Nói như thế tức là Đảng đã thấy rất dễ đi vào “giai cấp” hẹp hòi. Bây giờ họ sai lầm đến mức nói đi theo con đường Bác Hồ đã lựa chọn, có đi theo Bác đâu, Bác Hồ là: Đảng lao động, lao động trí óc, lao động chân tay, Nước ta là: nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Trước hết là Dân Chủ, còn xã hội chủ nghĩa là ước mơ, còn lâu lắm. Đức phật là: đưa con người trở về với sự công bằng, sự nhân ái mà đến nay đã 2600 năm chưa thực hiện được. Vậy mà làm sao hôm nay bỗng chốc trong vòng năm bảy chục năm đưa lại cái xã hội Cộng Sản có ngay được (?). Đó là lý tưởng, là ước mơ…Loài người đi hàng vạn năm rồi, làm sao lại có một thể chế có thể thay đổi tất cả chỉ trong vòng mấy chục năm thôi! Không phải.
Thế rồi, từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà lại đổi thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa, rồi Đảng Lao Động thành Đảng Cộng Sản…những cái mà Bác Hồ đã đặt ra thì người ta xoá bỏ. Và năm đó họ định sau Đại hội 5 sẽ rời thủ đô vào Đắc Lắc. Dự kiến đó là của ông Lê Duẩn đã nói ở Vũng Tàu trong cuộc họp các cán bộ mở rộng. Nếu chuyện đó đã rồi thì ngày nay làm gì có kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long sắp tới. Có phải cứ muốn chọn chỗ cho đế đô ở đâu thì chọn. Không phải ! Nó là cả bao nhiêu yếu tố hợp thành, hội tụ lại. Từ trong hang động Hoa Lư chuyển ra giữa đồng bằng sông Hồng này, đất Thăng Long này, là cả một hình thành, trưởng thành của dân tộc. Từ chỗ vua ở hang động, vua Lý Thái Tổ chuyển ra giữa thanh thiên bạch nhật, trên cái thế “Voi quỳ Hổ đứng”, cả cái Tam Đảo, cả cái Ba Vì chầu về đất thiêng, từ đông bắc Côn Sơn đều quay về đây cả. Thế mà định dời bỏ cái Hà Nội, cái Thăng Long như không. Không được! Rồi bỏ luôn quốc ca, may sao dân đấu tranh mãi mới giữ được cái Quốc ca. Người ta nói Quốc ca cũ không đủ tầm vóc Xã hội chủ nghĩa thì bỏ. Quốc ca là của hàng triệu con người. Thi mãi và chi rất tốn tiền mà chọn được 17 bài nhưng hát không ai chịu nghe cả. Cuối cùng lại trở lại bài “Tiến quân ca” của Văn Cao. Hồi đó người ta hiểu lầm, có lẽ ông Văn Cao “Nhân văn Giai phẩm” nên họ bỏ quốc ca, không phải! Ông Văn Cao không phải là cái lí do, mà vấn đề là ở chỗ họ muốn làm lãnh tụ, muốn đưa ra học thuyết, muốn vượt lên tất cả…Cụ Hồ là lạc hậu, là nho giáo, cỗ xe nho giáo ấy đã hết thời, miệng ông lãnh đạo nói thế.
Từ ông Tổng tư lệnh, Đại tướng phong ngày 28-5-1948 tại rừng Tuyên Quang, mà cả Quốc hội, Chính phủ phong Đại tướng đầu tiên cho một người trí thức, cử nhân luật, cử nhân kinh tế giỏi, là Chủ tịch Hội nhà báo năm 1937 là Võ Nguyên Giáp…đến phong trung tướng cho một ông giang hồ tứ chiêng, giang hồ tứ chiêng là lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Cái giang hồ của ông Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình là thế, mà Bác Hồ giao nhiệm vụ cho ông Nguyễn Bình vào Nam lúc đó chưa phải là đảng viên, ông Bình xúc động quá nói:
- Thưa Bác, tôi chưa phải là đảng viên cộng sản, tôi vốn là đảng viên Quốc dân đảng, đi ra Côn Đảo bị giam chung với Trần Huy Liệu rồi chuyển sang và đi theo đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Bác giao cho tôi vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mà tôi chưa phải là đảng viên.
Bác Hồ nói với Nguyễn Bình:
- Tổ quốc trên hết! đảng viên ư? Tổ quốc trên hết. Đất lửa miền Nam chỉ có chú vào phụ trách quân sự toàn miền Nam mới tập hợp được các giáo phái.
Bấy giờ Nguyễn Bình vào Nam làm liên khu trưởng, Quân khu trưởng nhưng chưa phải đảng viên. Cho đến ngày 28-5-1948 ông được phong Trung tướng.
Bác sử dụng người có tài vào địa hạt nào, công tác nào là phát huy được cái đó. Nguyễn Bình tập hợp được nhiều giáo phái, thì đến hết năm 1947, Bác đánh một cái điện cho Bảy Viễn, tướng Bình Xuyên. Thế là Bảy Viễn kéo tất cả quân của ông ta ở rừng Sác đi theo Nguyễn Bình, nhập vào đại quân. Sau đó “có người” phá, chia rẽ giữa Bảy Viễn với Nguyễn Bình nên Bảy Viễn quay vào Sài Gòn nhận thiếu tướng của quân đội Pháp và tuyên bố: Nhận thiếu tướng nhưng không bao giờ đi đánh trận nữa mà ra làm khai thác gỗ. Những người đàn em của Bảy Viễn hỏi ông là: Không đi đánh nữa thì đàn em bao giờ được lên? Bảy Viễn nói: ta lỡ bước, ta đã hiểu Cụ Hồ nhưng không đi trọn được con đường của Cụ Hồ là vì “cán bộ” họ chia rẽ ta với Nguyễn Bình. Và ông ở vậy cho đến thời Ngô Đình Diệm lên diệt giáo phái thì ông mới sang Pháp. Tức là con đường Bác Hồ là con đường thu vén tất cả dân tộc vào, chứ không có giai cấp, không đặt giai cấp lên trên dân tộc, xã hội có giai cấp nhưng không đặt giai cấp lên trên dân tộc.
Đầu tiên khi về Pắc Bó, Bác nói với ông Đồng, ông Giáp, ông Lê Quảng Ba, ông Chu Văn Tấn, lúc đó, các ông gần gũi Bác, và cả ông Trường Chinh nữa, là “Gác cái khẩu hiệu giai cấp lại, bây giờ là vấn đề dân tộc, dân tộc không giải phóng được thì ngàn đời không thể giải phóng được giai cấp. Nhân dân ta là một khi Tổ Quốc lâm nguy thì ông địa chủ đến người cố nông, đều một lòng chống giặc, vì thế là vấn đề dân tộc giải phóng”. Thế nhưng Đại hội 4 chúng ta, thì nó trật từ cái này. Nếu nói là làm theo di chúc của Bác, không nói cái gì xa, Di chúc Bác để lại là phải chuẩn bị khi giải phóng Miền Nam. Cho nên trong Di chúc của Bác có câu:
- Cuộc kháng chiến chỗng Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa.
Các ông ấy lại đem bỏ cụm từ “mấy năm nữa” đi, cho là “còn kéo dài”. Lúc đó, trong bộ chính trị tất nhiên có người đưa ra, nhưng được Bộ chính trị thông qua: – Có khi Bác chủ quan. “mấy năm nữa” chắc gì?
Năm 1941, khi Bác về Pắc Bó có bài ca lịch sử kể từ đời Hồng Bàng đến các vua Hùng cho đến các đời vua… và cuối cùng nói “năm 1945 thì cách mạng hoàn thành”. Lúc đó có người tưởng Bác nói thế để động viên, không phải. Đến năm 1960 Bác ghi là “15 năm nữa sự nghiệp thống nhất hoàn thành”, vậy nên khi viết Di chúc Bác nói: -“Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài mấy năm nữa”, và thực tiễn xảy ra đúng là “mấy năm nữa”, nhưng lúc đó Bộ chính trị bỏ cụm từ: “mấy năm nữa”?!
Trong Nam thì phải lo kinh tế từ bây giờ, tức là lo công ăn việc làm, ngoài Bắc này thế nào trong ấy cũng phải như thế. Trước hết, sau khi kết thúc chiến tranh, việc đầu tiên là khôi phục kinh tế, tranh thủ sự viện trợ của bạn bè, nâng cao từng bước, chưa vội làm ăn lớn. Nhưng ta lại đề ra 15 năm nữa phải đuổi kịp Liên Xô, 20 năm năm nữa đuổi kịp Mỹ. Kịp cái gì? Nói cho oai thôi chứ một dân tộc 30 năm bao nhiêu lực lượng trẻ, khoẻ ra mặt trận, bao làng mạc, thành phố bị san bằng mà làm sao đề ra 15 năm vượt Liên Xô, 20 năm đuổi kịp Mỹ…thì xa lạ quá…
Mà Bác Hồ đã dặn rồi:- Ta đánh Mỹ là cái thế phải đánh, bởi vì Mỹ không từ bỏ ý chí xâm lược, ta phải đánh, đánh xong thì bắt tay với họ. Bác cố tránh để không xảy ra cuộc chiến tranh với Mỹ. Bác cho người viết thư cho Ngô Đinh Diệm. Lúc đó có hội nghị ba nước Đông Dương ở Phnôm Pênh, Bác định đến đó…có thể gặp Ngô Đình Diệm nhưng lúc đó Cabốtlốt thấy tình hình đó nó đảo chính ngay, diệt hai anh em Ngô Đình Diệm. Bây giờ nhiều đồng chí ở Miền Bắc còn nhớ Bác nói: – ông Diệm có cách yêu nước của ông ấy, đừng có gọi bằng thằng, người ta có tuổi rồi. Cách nhìn của Bác như vậy, sau này có học trò của Bác lầm tưởng rằng Bác nho giáo dĩ hoà vi quí, đâu có phải! Truyền thống của dân tộc ta là như vậy.
Trong Đại Hội 4 hạ tên nước, thay tên Đảng, nêu lên trong 5 năm nữa thì có tivi, có tủ lạnh cho nông dân. Những năm đầu tiên thấy được đời sống có nâng lên nhưng không …(đoạn này bị mất) 500 huyện là 500 pháo đài kinh tế, quân sự, dồn làng lại…Lúc đó cũng có nhiều đồng chí kiến nghị, đề nghị gặp Tổng bí thư Lê Duẩn, nói:
- Thưa đồng chí, xóm làng Việt Nam hình thành những cái làng văn hoá có từ hàng nghìn năm, có làng ít thì 300, 500 năm mà nay xoá những cái làng văn hoá cổ như thế thì mất hết. Văn hoá Việt Nam là văn hoá làng xã.
Xin lỗi, ông Lê Duẩn nói: Ngu, Ngu.
Thế là giáo sư Lê Văn Thiêm lủi thủi ra về. Còn giáo sư Trần Đức Thảo mắt thì cận, cả đời ông không đi đâu. Ông là nhà triết học, cả nhà toàn sách là sách, ông viết được cái gì thì đưa cho cụ Đồng đưa ra đăng báo ở nước ngoài (ông chỉ nói được thôi chứ không viết được bằng tiếng Việt nên công trình của ông là bằng tiếng Pháp). Ông được ông Duẩn mời lên để hỏi ý kiến, ông nói thẳng, nói thật ý kiến của ông, thì đuổi ông. Một ông mắt cận (là Trần Đức Thảo) ra đứng giữa đường Hoàng Diệu mà không biết đi đường nào là Phan Đình Phùng hay đi Điện Biên Phủ.
Nói lại (những chuyện này) để các thầy các cô biết và nhắc lại cái bài học lịch sử khi người đứng đầu mà sai lầm thì nguy lắm, sai một ly đi một dặm. Sai của ta nó ở trong trường thôi; sai của người đứng đầu của dân tộc thì nó sẽ đẩy lùi phải mất mười năm. Từ 1976 đến 1986. Đấy ! Phải đi đến Đại Hội đổi mới, bước đi phải thế nào, thế nào… sau Đại hội 6 thì đổi mới đấy nhưng chưa giải quyết được vấn đề. Vấn đề là con người lãnh đạo. Hôm nay thì nó như thế nào…xin thông tin cho các thầy các cô biết, sau ngày 19,20, Đại hội 9 công khai rồi ta cũng biết thôi, nhưng biết thì ta cũng chỉ biết vậy, còn bên trong của nó thì chưa nói hết được.
Hội nghị Trung ương 11,11b, gần đây 12 mới xong hôm qua, diễn ra sôi động quá.
Ở hội nghị 11a thì các cố vấn quyết định thi hành kỷ luật Tổng bí thư và kiên quyết cách chức trước thềm Đại hội 9. Về phía Tổng bí thư thì kiên quyết phản công lại cố vấn. Đó là nguy cơ chứ! Hôm nay thì giải toả được rồi, nhưng nay nó lại như thế thì con cái nó sợ vô cùng chứ!. Sợ vì đất nước đang đứng trong một tình thế bất ổn, trong khi Tây Nguyên thì như vậy.
Nhưng trước hết ta “Tiên trách kỷ…”. Cửa ngõ Tây Nguyên như vậy, sau khi giải phóng miền Nam thì ông nào cũng trở về ở thành phố, thỉnh thoảng lên nói vài câu rồi vội vàng về để tắm bình nước nóng lạnh, chứ có ai ở với đồng bào đóng khố, khổ…nên không ai ở đó với họ. Rồi đi lấy đất đai của họ bán cho các nhà kinh doanh, mua rẻ đất của họ, bán đắt cho các nhà kinh doanh lậpôtrang trại. Như vậy, họ thấy đất đai của cha ông họ mất dần đi, không còn như thời chống Mỹ.
Vừa rồi ông Nguyên Ngọc, tác giả “Đất nước đứng lên”. Ông có làm một công trình điều tra cơ bản về Tây Nguyên, mà ông làm từ 1999, 16 trang, một tiếng kêu về Tây Nguyên. Có những nhà văn họ nghiêm cứu đi thẳng vào một vấn đề lớn như vậy mà không nghe. Bây giờ xảy ra rồi mới hỏi: -À, ông Nguyên Ngọc nói hay, thì còn gì nữa? Khi thấy hay thì việc đã rồi. Tất nhiên có bàn tay bên ngoài, nhưng không kín trên thì không bền dưới, trong không ấm thì ngoài không êm. Tôi đã nói câu này với ông Đỗ Mười, có cả ông Nguyễn Đức Bình là giáo sư (tuy gọi là giáo sư đó, nhưng người ta nói giáo sư gì mà chẳng có công trình nào cả, nhưng ông Nguyễn Đức Bình là uỷ viên Bộ chính trị…). tối nói tại số 4 Nguyễn Cảnh Chân, văn phòng tổng bí thư ngày 14/12/1994. Tôi nói rằng:
Tổng bí thư mà để người ta “đánh” tôi, người ta bảo tôi là người xuyên tạc Bác Hồ. Tôi xin với Trung ương cho tranh luận công khai trên báo Nhân Dân và các phương tiện thông tin. Tôi đưa tư liệu của tôi, tôi nói Bác Hồ sinh ra trong một gia đình nhà quan, tôi đưa tư liệu nhà quan. Còn các nhà nghiêm cứu Hồ Chí Minh học thì nói Bác Hồ sinh ra trong gia đình bần cố nông, thì đưa tư liệu bần cố nông ra, để người đọc phân định. Nói tôi lợi dụng đề tài Bác Hồ để hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ có người yêu là hạ thấp Bác Hồ, nói Bác Hồ thành phần bóc lột sinh trong nhà quan là hạ thấp Bác Hồ, Bác Hồ là người của giai cấp…
Ông tổng bí thư mời tôi lên ngày 14/12/1994, tôi đề nghị một phương án là cho đăng công khai lên báo bằng văn bản, bằng tư liệu, chứ đừng lý luận chung chung. Ông nói cụ Hồ thế này…tôi bảo cụ Hồ thế này…tất nhiên bây giờ ta phải tôn trọng cái hiện tại nhưng đứng về góc độ nghiêm cứu vĩ nhân thì ta nên xem xét lại. Sự thật tôi đưa ra ngày (sinh của Bác) này là tôi có lá số Tử vi, các cụ để lại giấy thời đó, mực thời đó. Bây giờ mà cứ ép tôi là buộc tôi phải đưa ra nước ngoài. Tôi không phải loại người dùng nước ngoài để ép bên trong. Không. Tôi không phải là loại người đó. Bố mẹ con cái có việc gì thì nói trong nhà, chứ không phải chạy sang hàng xóm chửi đổng về. Tôi không thích cái đó. Nhân lúc đó tôi mới nói với đồng chí Đỗ Mười là phải “kín trên bền dưới”. Tôi đã nói ở trường Chí Linh (Hải Dương) ngày 20/11/1990, ngày nhà giáo, là trong Bộ chính trị ta chỉ có vài người đếm trên đầu ngón tay là không đụng đến đồng tiền bát gạo của dân, mà tôi nói trước Đại Hội 7, còn tất cả là tham nhũng hết. Có người đề nghị bắt tôi, tôi nói bắt cũng được, không sao cả, tôi nói vì sự sống còn của dân tộc, của Đảng. Tôi nói là có căn cứ, có tài liệu, không vu khống ai cả, nếu vu khống thì lôi vào tù. Tôi nói “trong ấm ngoài êm” đây không phải là chuyện gia đình nữa, mà là chuyện đất nước, trong không ấm thì ngoài không êm. Nội bộ trong vương triều mà lục đục thì nổi lửa biên cương ngay.
Ví dụ như trong chúng ta đây này, bọn tham nhũng, bọn cơ hội thì Trung ương bợ đỡ, còn anh em trí thức, các nhà khoa học thì đồng lương thấp đến như thế này…đối xử như thế này…Tôi có bảng thống kê đây, tôi là nhà văn, hiện nay những nhà văn cơ hội thì được sống sướng thế này…còn nhà văn này…nhà văn này…bốn thế hệ ở trong một cái buồng 18m vuông, như là nhà văn Siêu Hải, nhà văn Mạc Phi, nhà văn Minh Giang…hàng loạt, họ toàn tham gia đi trước cách mạng và kháng chiến cả, toàn trí thức cả, học Albert Sarraut có, học trường Bưởi có mà bây giờ như thế này…bốn thế hệ ở trong một cái nhà như thế…Nhưng sau đó, nói đáng tội thì nhà văn Siêu Hải, được phân nhà. Ông năm nay cũng gần 80 tuổi rồi, ông ở 66 Hàng Chiếu có 18m vuông mà ở gác ba, 9 người, một ông đại tá pháo binh. Lúc đó ông Đỗ Mười mới nói với với ông Lê Khả Phiêu (bấy giờ thường trực Bộ chính trị) giải quyết cho ông cái nhà ở Nghĩa Tân. Còn ông Mạc Phi, chuyên gia Tây Bắc, chưa kịp giải quyết cái nhà cho ông thì ông đã chết mất rồi. Ngày 19 tháng 5 này là giỗ 5 năm ông Mạc Phi. Ông bị quy là “Nhân văn giai phẩm” bị đầy lên Tây Bắc rồi không về nữa, ở lại trên đó nghiêm cứu về văn hoá Thái, viết tiểu thuyết. Ông thì “nghiện” tiếng pháp nên đọc toàn bằng tiếng Pháp, ở dưới này gửi báo Europe lên cho ông đọc thì theo dõi ông và nghi ông là việt gian thực sự rồi. Đến khi Bác Hồ lên thăm Tây Bắc, có Đại Tướng tư lệnh Võ Nguyên Giáp lên, thì ở cơ quan “phân công” ông lên Mường Tè. Ông nghe đài đưa tin Bác lên thăm Tây Bắc, ông phàn nàn ông không được ở nhà để đón Bác.
Có ông anh em cọc chèo với ông mới nói nhỏ cho ông biết Bác lên thăm Tây Bắc, để đảm bảo “an toàn” (cho Bác) người ta điều chú lên đó. Bác về rồi mới cho ông trở lại. Tất nhiên sau này ông cũng được giải oan nhưng có những sai lầm đến như vậy.
Tôi nói từ Đại hội 4, sau kết thúc chiến tranh ta sai về đướng lối dẫn đến tình trạng này kéo dài cho đến Đại hội 6. Đại hội 6 lúc đó ông Lê Đức Thọ muốn làm tổng bí thư, không ai nói, nhưng tất cả mọi người đều biết rõ ông ấy là ai. Lúc đó, cụ Trường Chinh đi Liên Xô về rồi, ông Lê Đức Thọ gọi ông Vũ Quang (lúc đó là trưởng ban đối ngoại trung ương, nguyên bí thư thứ nhất Trung ương Đoàn), nói:
Báo cáo lại tình hình ông Trường Chinh trao đổi với bên kia thế nào?
Ông Vũ Quang nói:
- Tôi là thành viên của đoàn, đi phục vụ Tổng bí thư, báo cáo cái gì với ai phải được Tổng bí thư cho phép. Đồng chí là Uỷ viên Bộ chính trị phụ trách tổ chức thì các đồng chí làm việc với nhau, tôi là thành viên của đoàn, chỉ là uỷ viên Trung ương phụ trách đối ngoại, báo cáo như thế này là phạm kỷ luật.
Ông Thọ lại gọi đến Nguyễn Khánh, lúc đó Nguyễn Khánh là Chánh văn phòng trung ương Đảng. Khi đồng chí Trường Chinh xem danh sách dự kiến bầu Trung ương thì thấy gạt Vũ Quang ra. Ông nói:
- Đảng chủ trương trẻ hoá lãnh đạo, tại sao Vũ Quang trẻ như thế này lại gạt ra?
Ông Thọ nói: – Vũ Quang có vấn đề, người ta đang tố cáo!!!
Trước tình hình lúc này, cụ Trường Chinh ở lại làm Tổng Bí thư, ông Duẩn mất rồi. Mà đồng chí Trường Chinh làm Tổng bí thư, thì cụ Đồng làm chủ tịch nước, Đại tướng Võ Nguyên Giáp sẽ làm Thủ tướng. Ông Thọ rất sợ lộ cả quá trình của ông âm mưu. Nói để ta biết, hậu quả của nó đến cả Đại hội 9 này đã ra văn bản rồi.
Ai cũng biết ông Giáp, cử nhân luật kinh tế, năm kết thúc chiến tranh ông mới 64,65 tuổi thôi. Ông đã từng chỉ huy trong chiến tranh, đã tổ chức lực lượng. Ông biết thế nào là “mũi nhọn”, thì ông bị bịt lại. Lúc bấygiờ ông Tạ Quang Bửu còn sống, ông có viết bài báo Tổ quốc “Những mũi nhọn là đồng chí Võ Nguyên Giáp, phó thủ tướng phụ trách khoa học kỹ thuật. Viết bài đó là hơi sớm, thì tất nhiên cuối cùng ông Bửu bị (ông Thọ) gạt đi. Thế là đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Phạm Văn Đồng, các ông làm sao mà biết được ý đồ của họ? Từ đó dẫn đến chuyện “cố vấn”. Trong điều lệ Đảng chưa bao giờ có chuyện cố vấn. Đại hội 6 này, ông Thọ biết ông không được nữa rồi, ông mới đặt ra chức cố vấn. Các đồng chí đọc cuốn “Những kỷ niệm về Lê Đức Thọ”, mới xuất bản nhân dịp giỗ ông ấy, đồng chí Nguyễn Đức Tâm viết bài trong cuốn này. Ông tâm viết :- Tại sao trong Đại hội 6 lại chọn ông Nguyễn Văn Linh lúc đó chưa là Uỷ viên Bộ chính trị (ông là uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 4 nhưng mà bị gạt ra), còn khi được chọn làm Tổng bí thư thì ông chỉ là Uỷ viên Trung ương. Ông Nguyễn Đức Tâm nói công khai trong sách đó. Tức là Thọ biết mình không được nữa thì chọn một người mà ai cũng chấp nhận được là ông Linh. Thế là ông ấy đặt ra chức “cố vấn” để ông ấy cùng được ở trong với ông Trường Chinh và ông Phạm Văn Đồng. Và họ đưa ra cái văn bản Võ Nguyên Giáp là con nuôi chánh mật thám Pháp ở Đông Dương…ghê gớm quá!
Một ông Tổng tư lệnh đánh xong giặc rồi, hiện nay đất nước thanh bình lại tạo dựng là con nuôi mật thám! Họ làm như thế thì lòng tin nào còn? Ông Giáp đâu có phải như thế! Ông thống soái toàn bộ tướng lĩnh, làm việc với toàn những người sống bằng lương tâm, sống bằng danh dự chứ, sao lại con nuôi mật thám được. Đâu có phải cái chức nhỏ, đây là Tổng tư lệnh đánh thắng ba tên đế quốc. Ông Maxim, một trong những người trong toán “Con nai”, đội quân Việt – Mỹ năm 1945, ở với Bác Hồ, năm nay ông đã 89 tuổi rồi. Ông xin trở lại Tân Trào trước khi chết. Đưa đoàn này đi là bà Trần Thị Minh Châu, đại tá cựu chiến binh Kim Son, ông Giáp cũng trực tiếp cchỉ đạo đội quân ấy. Đánh xong Nhật, rồi Pháp, rồi Mỹ, nay lại dựng lên chuyện ông Giáp là con nuôi mật thám Tây, lại bảo:
- Con nuôi mật thám nên mới học trường Albert Sarraut, chứ con nhà nghèo ở tận Quảng Bình làm sao vào được trường Albert Sarraut?
Ông Giáp lúc đó học Albert Sarraut, nói chuẩn bị chọn ông sang Pháp vì ông học giỏi quá. Nhưng ông đi làm cách mạng từ 14,15 tuổi. Vợ ông Giáp là tiến sỹ Nguyễn Thị Quang Thái, bị tra tấn chết ở nhà tù Hoả Lò. Chị vợ là Nguyễn Thị Minh Khai, bị chém ở Hóc Môn. Thân sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm bị Pháp tra tấn chết ở nhà lao Phủ Thừa, thi hài cụ bị vứt ra ngoài, một ông Hoàng, cháu nội vua Thành Thái là Mệ Hiền lượm thi hài cụ Võ Quang Nghiêm đi chôn, đánh dấu lại để giữ mộ thân sinh Võ Nguyên Giáp, cho đến giải phóng miền Nam gia đình mới đi tìm mộ được.
…(đoạn này nghe không rõ) Ban chấp hành Trung ương tán thành đều bị bác bỏ. Đó là tháng 10-1930, một hội nghị cán bộ lấy dự thảo luận cương chính trị của đồng chí Trần Phú làm đường lối (Hội nghị này chưa thông qua được luận cương). Bác Hồ bị đẩy lùi vào bên trong. Năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp ở Ma – Cao, một lần nữa Hà-Huy-Tập là Tổng bí thư, xoá tư tưởng, xoá đường lối của Nguyễn Ái Quốc. Mãi đến năm 1941, Bác Hồ về nước cho đến năm 1951 Đại hội 2 lại bị cái “thiểu số phục tùng đa số”, lấy “tư tưởng Mao” vào điều lệ nên đến năm 1951 cụ Hồ lại bị “khoá”. Bởi vì Hồ Chủ tịch chỉ còn là Chủ tịch Ban chấp hành chứ không còn là Chủ tịch Đảng. Bác quyết điều gì không còn nữa mà phải được Ban chấp hành thông qua.
Quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh được mở ra từ năm 1941 khi cụ về Pắc Bó, thành lập mặt trận Việt Minh, làm được cách mạng tháng Tám, tuyên bố giải tán Đảng ngày ngày 11-10-1945, giải tán Đảng cộng sản Đông Dương , sau này thành lập Đảng lao động thì Lào trả về Lào, Miên trả về Miên, không có liên bang gì ở chỗ này. Mỗi dân tộc có quá trình hình thành riêng của nó, còn viện trợ quốc tế với nhau thì bình đẳng, chứ để nước lớn trùm lên Lào, Miên là sinh chuyện. Ngay từ lúc đó, cụ Hồ đã nhìn thấy vấn đề như thế, bây giờ nhìn vào tình hình nào là sắc tộc, nào là tôn giáo…cụ Hồ không có đặt vấn đề liên bang, Miên là Miên, Lào là Lào, Ta là Ta. Đến năm 1951, cụ Hồ chỉ còn là Chủ tịch ban chấp hành, mới nghe qua thì không thấy rõ, trước cụ Hồ là chủ tịch Đảng, mà chủ tịch Đảng thì khác Chủ tịch Ban chấp hành. Ví dụ trong việc Bác ký hiệp ước sơ bộ 6-3-1946 không cần triệu tập Ban chấp hành, Bác quyết định ký. Lúc đó, Bác chỉ sửa đổi hai chữ. Một bên, Bác là “Việt Nam độc lập” một bên Saiterny (là đại diện CH Pháp) là “Việt Nam tự trị”. Cuối cùng nửa đêm mùng 5 tháng 3 Bác đánh thức Bí thư là ông Vũ Đình Huỳnh dậy, bảo là đã tìm được lối thoát, đi báo ông Hoàng Minh Giám chuẩn bị để ký. Bác chọn được một chữ mà hai bên đều chấp nhận được, đó là “Nước Việt Nam tự do”. Pháp rất sợ “độc lập” vì cả châu Phi họ sẽ đòi độc lập, cho nên nó chỉ muốn “Việt Nam tự trị” thôi. Bác bảo Tự trị là không được, độc lập thì Pháp không chịu nên chọn “Nước Việt Nam tự do” (Có chính phủ riêng, có quân đội riêng, có ngoại giao riêng, có tài chính riêng) nhưng tên nước là “Việt Nam tự do” thế thì Sain Terny ký ngay ngày 6 tháng 3 (1946). Trước tình hình ấy mà chờ triệu tập Ban chấp hành để quyết định thì chết, bao giờ mới triệu tập kịp, mỗi người một nơi.
Cho đến năm 1951 đưa “tư tưởng Mao” vào điều lệ, ghi là “Học thuyết Mác Lênin, chiến lược Stalin, tư tưởng Mao Trạch Đông, tác phong Hồ Chí Minh; thì bác Hồ nói:
-Thôi, các ông ấy là đủ cả rồi, Mác – Lênin – Stalin – Mao Trạch Đông…là đủ rồi, còn cái “tác phong Hồ Chí Minh” thì miễn cho…
Chả lẽ lúc đó Bác lại nói “Tôi không có tư tưởng à”. Lúc đó cũng chưa có nói đạo đức, mà chỉ nói Bác là “tác phong cần kiệm liêm chính”, giản dị thế thôi, chứ Bác không có lý luận.
Điều lệ ghi: “Thiểu số phục tùng đa số”. Bác Hồ ra họp chấp hành thì suốt đời bao giờ cũng “thiểu số”, mà thiểu số thì phải “phục tùng đa số” đó là “cái khoá”. Vậy là Bác Hồ chỉ được làm những cái mà Ban chấp hành chủ trương, chứ Bác không có chủ trương nữa, Về cải cách ruộng đất thì Bác Hồ không chấp nhận cái cải cách ruộng đất kiểu này, mà Bác đã cho ra Sắc lệnh giảm tô, giảm tức 25% từ năm 1949. Tất cả các đồng chí lúc đó lòng dạ ai cũng yêu quý Bác Hồ, nhưng lại tôn sùng ông Mao là “nhà lý luận Trung Quốc”, là cái mẫu của Châu Á” đem bê vào (điều lệ). Các đồng chí với lấy cái “mẫu” của Trung Quốc vào nên mới đưa ra đưa vào điều lệ Đảng như thế, và phải làm “thổ cải”. Bác Hồ không tán thành cải cách ruộng đất, Bác chỉ “trưng thu, trưng mua, hiến điền” chứ không chủ trương đấu tố. Lúc đó mấy đồng chí trong Bộ chính trị, đặc biệt là đồng chí Trương Chinh (tấm lòng đồng chí trong sáng, là người có nhân cách lớn, phải nói thế) nhưng quan điểm của đồng chí Trường Chinh là: -Không phát động nông dân thì nông dân cứ chịu ơn địa chủ suốt đời, phải cho nông dân đấu tố để nông dân vùng lên. Khi ra biểu quyết thì Bác Hồ chỉ có 3 phiếu, nhưng cũng là “thiểu số”. Cụ Vũ Đình Huỳnh kiên quyết bảo vệ quan điểm của Bác là hiến điền trưng thu, trưng mua rộng đất chia cho nông dân…
Xin nói về một bài của một đồng chí ký là “HT”, viết về những nỗi đau của Hồ Chủ Tịch, hiện nay lưu hành ở Hà Nội, cách đây mấy tháng rồi. Đầu bài ông đề là “10 nỗi đau của Hồ Chủ Tịch” nhưng trong bài đó ông (HT) giấu đi 2 cái đau, chỉ viết 8 cái thôi. Ông HT là trong Ban Bí thư trung ương Đảng, là nhà lý luận, là Trưởng ban Tuyên huấn, là Tổng biên tập báo Nhân dân lâu nhất, Chủ tịch Hội nhà báo. Có một thời ông cũng lầm rằng: anh Ba (Duẩn) mới là nhà lý luận, còn Bác Hồ chỉ là yêu nước thôi. Cho đến bây giờ ông mới tỉnh ra. Trước đây ông viết cuốn “Từ tư duy văn hoá truyền thống đến tư tưởng Hồ Chí Minh”, in xong thì bị tịch thu không tuyên bố nhưng sách bị tịch thu, bị đốt hết. Anh (HT) có đem đến cho tôi một cuốn, anh nói: sách của tôi bị đốt, sách của anh viết lại tái bản lần thứ 8, là may đó. Khi tôi ra cuốn này bị thu mất rồi, còn giữ được một cuốn đem cho ông…Ông là người hiểu biết như thế, lý luận như thế và một thời ông cũng là ghê lắm chứ, vậy mà có lúc ông nói:
-Thôi, cắt cái “mũ phớt” đi được rồi, (tức là ông Giáp đứng trước hàng quân đội cái mũ phớt).
Có thời ông chỉ thị các báo không được đăng ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp, vì “trên” chỉ thị như thế cho nên ông nói “cắt cái mũ phớt đi”. Có lúc ông cũng lầm, nhưng lúc tỉnh ngộ ra thấy được sự thật thì ông kể ra 10 nỗi đau của cụ Hồ, những chỉ viết có 8 cái, còn hai cái không thấy đưa ra. Dân ta thì không biết, nay ông kể ra thì ông cũng ngoài 80 tuổi rồi. Ông nào cũng viết để lại, không in được thì cũng để lại cho các nhà nghiêm cứu lịch sử sau này làm tư liệu nghiên cứu về những sự thật được nói ra từ trong tim người ta.
Trong bài viết của ông Vũ Kỳ mà ta đọc báo ta không để ý ông viết kín đáo để đăng báo Văn Nghệ, báo Tiền phong, báo Nghệ An số tết 1998, hồi đó ông chủ trương đăng trên ba tờ báo đó. Nội dung bài báo là: năm 1967 Bộ chính trị mời Bác Hồ đang chữa bệnh ở Trung Quốc về để thông qua việc tổng tiến công 1968. Khi họp lần thứ nhất Bác đã không đồng ý chủ trương tổng tiến công nổi dậy, Bác chỉ đồng ý tập kích chiến lược rồi rút ngay. Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng chủ trương như vậy, nhưng bị thiểu số nên đành đi chữa bệnh ở Hungari. Nhưng sắp đến tết (Mậu Thân) rồi nên phải thông qua chủ trương đó để đi vào cái tết, nên phải mời Bác về. Ông Vũ Kỳ viết bài báo như sau:
Trên máy bay chỉ có Bác, ông Vũ Kỳ và người lái máy bay chuyên cơ của Bác từ Trung Quốc về. Lúc đó đã báo cho bộ đội phòng không từ giờ này…đến giờ này…trên bầu trời ta từ hướng này…phương vị này…tuyệt đối là không nổ súng. Thời đó là đang chiến tranh, vào giờ đó xuất hiện máy bay của ta. Khi máy bay về tới vùng trời Hà Nội, sân bay Nội Bài khi đó là sân bay quân sự nên máy bay xuống sân bay Gia Lâm. Người lái báo cáo với anh Vũ Kỳ ngồi bên cạnh, (Bác ngồi sau hút thuốc):
- Thưa anh, tín hiệu đường băng lệch 15 độ, bây giờ làm sao đây ạ?
- Quan sát lại đi. Ông Vũ Kỳ nói.
- Em là người lái mà, lái máy bay cho Bác thì em nhìn sai sao được, người lái nói.
Máy bay lượn 2 vòng không dám xuống, xăng hết rồi, giờ quy định cũng đã hết rồi, phòng không họ bắn chết, mà xuống theo tín hiệu thì không an toàn…
Cuối cùng xuống theo trí nhớ (của người lái) chứ không xuống theo đèn tín hiệu, vì trên máy bay báo đi báo lại nhưng, dưới sân bay vẫn không thay đổi, đèn “tín hiệu chệch”, dưới vẫn cứ để thế, không sửa. Vòng một vòng và máy bay chạm đất an toàn, thở đánh phào một cái, Bác vẫn ngồi tĩnh tại hút thuốc, ở dưới sân bay vẫn yên tĩnh.
An toàn rồi, anh ơi (Mừng quá – Nói to lắm nhưng Bác làm như không nghe thấy)
Ra khỏi máy bay (ông Vũ Kỳ tả) thì thấy đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ra đón, một lúc thủ tướng Phạm Văn Đồng, chỉ có thế thôi, còn không ai đón Bác cả.
Về tới nhà thì tết rồi, việc đầu tiên Bác gọi điện sang Bộ quốc phòng hỏi:
Tục lệ người Việt Nam ta ngày tết hay nhớ nhà, thế thì các đồng chí ở nhà đã gửi quà chúc tết đồng chí Võ Nguyên Giáp đang chữa bệnh ở Hungari chưa?
Anh em mình thường trao đổi cái tin này đã đưa ra được chưa? Tôi cho rằng đưa được, đến năm 98 rồi, nên đưa ra (tin này) vì sắp hết thế kỷ (20) rồi, ai hiểu thế nào thì hiểu, còn thì nên đưa ra nhưng đừng bình gì cả. Đừng đưa đăng một tờ báo mà phải đưa tin trên ba tờ báo, vì một tờ sẽ bị “đánh chết” ngay. Đúng thế! Khi cả ba tờ báo đăng bài đó, thì các ông trong Bộ Chính trị mời ông Vũ Kỳ lên hỏi:
Anh Kỳ nói: Tôi chỉ kể chuyện đi của Bác mà hồi ký của tôi viết về Bác.
Thế rồi “họ” cũng thôi. Cái khung cảnh đất nước ta mấy năm nay là thế đấy.
Bác Hồ là người cô đơn, đây là cô đơn trên quan điểm. Tôi hiện nay đang viết cuốn “Bác Hồ là người cô đơn nhưng không cô độc”. Năm 2001 tôi viết cuốn này, chủ yếu là nói quan điểm của Bác bị “cô đơn” từ Quốc tế cho đến khi Bác qua đời, quan điểm của Bác luôn luôn thiểu số. Diễn ra trong tình hình hiện nay là vấn đề dân tộc, vấn đề tôn giáo. Quan điểm của Hồ Chí Minh từ đầu chí cuối là vấn đề dân tộc, chứ không phải là đấu tranh giai cấp chuyên chính vô sản, cái “thiểu số” ấy đi suốt cuộc đời Bác. Đến được ngày hôm nay quan điểm đó của Bác càng ngày càng rõ ra là rất mừng. Điều đó nói rằng mọi khoa học nó ra đời không bao giờ dễ dàng dù là khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội. …(Đoạn này nghe không rõ) Nói ra như thế để thấy rằng Bác Hồ càng ngày càng sáng ra, sáng cả con người cùng quá trình Bác cô đơn. Nhưng lúc nào “người ta” thấy “lợi” thì “người ta” nói là của Bác Hồ chứ “người ta” không làm theo Bác Hồ.
Khi Tổng thống Putin đến thăm khi di tích nhà ở của Bác Hồ, mấy ông phụ trách khu di tích đưa lên một chồng sách Mác-Lênin đặt lên giường bệnh của Bác, nói trước khi qua đời Bác đọc những sách này. Người ta tưởng làm như thế là trọng Bác Hồ và để ông bạn Nga này quý Bác Hồ, không phải! dòng di sản Bác Hồ chất Mác-Lênin có mức độ thôi. Người thường nói những câu của dân gian, của dân tộc, cho nên có người bảo Bác Hồ không có lý luận. Bác toàn nói ca dao, tục ngữ, trích Kiều, trích Chinh phụ ngâm, trích những câu của Mạnh Tử, Khổng Tử, Lão tử mà còn giá trị với thời đại. Trích câu của Phật, của Giêsu chứ không nói Mác. Khi ông Putin đến thăm nơi Bác ở sinh thời thì người ta đem một chồng sách như thế, nhưng ông Putin ghi sổ (lưu niệm lại) không nói gì đến chuyện này, mà nói:
-Hồ Chí Minh, người thầy của dân tộc Việt Nam (mà không nói Chủ tịch nước). Người đã để lại trong trí nhớ nhân loại, rất vinh dự cho tôi hôm nay được làm quen với cuộc sống của người.
Tại sao ông Putin lại nói “làm quen với cuộc sống cửa Người”? Vì trên vị trí (Tổng thống) này nhìn tấm gương của Hồ Chí Minh lên đỉnh cao như vậy mà sống không xa cách dân, sống giản dị, Mà chính ông nói là khôi phục lại một nước Nga, một nước Nga yêu nước, truyền thống văn hoá. Ta nên nhớ rằng Liên Xô ngày xưa những người ấy không phải không có tấm lòng, nhưng đem xoá sạch đi thì đó là người không có đầu óc. Đáng lẽ ra làm cách khác, ta đưa sách khác, sách đích thực Bác đọc trước khi lâm chung, đây lại làm một chồng sách “toàn Lênin”. Cụ nằm trên giường bệnh ốm thì làm sao đọc được các sách đó. Nếu để một cuốn Kiều thì không ai cãi được, hoặc để một tập thơ của Puskin, sách của L. Tônxtoi, của Victor Huygo, Sếch-pia, vì Bác thuộc thơ Puskin, và thuộc thơ tiếng Nga. Bác có lúc nói bây giờ còn thuộc Victor Huygo, tôi là học trò nhỏ của Leptônstôi…Bác Hồ của chúng ta ngày nay bị nhiễu nhiều thứ như thế, muốn nhận ra Bác thì phải nghiêm cứu lại các sự thực của lịch sử.Trước đây, tôi đã nói về cái nôi sinh thành của Bác, hôm nay tôi nói một số giai đoạn, một số sự kiện có ảnh hưởng lớn đến Bác mà không nói có hệ thống vì thời gian cũng không có nhiều.
Ta đọc sách, ta đọc lịch sử, ta biết Bác Hồ sinh ở làng Chùa, quê ở làng Sen, sau vào Huế học. Tôi nghiên cứu, tôi thấy thế này: nếu Bác Hồ không đi vào Huế từ thủa thiếu thời thì con người ấy cũng bị hạn chế, hạn chế về mặt văn hoá cội nguồn và thanh lịch ở đất kinh đô.
Huế là trung tâm văn hoá của cả nước ta vào thế kỷ 19, Bác Hồ vào Huế cuối thế kỷ 19, lúc đó Huế là trung tâm của cả nước. Ở Nam Bộ, cụ Phan Thanh Giản đi thi phải ra Huế, còn khúc ruột miền Trung từ Bình Thuận trở ra đến Quảng Nam, thi hương là phải ra Huế. Đầu thế kỷ 20 mới có trường thi hương ở Bình Định. Ở Bắc thì Lạng Sơn trở vào cũng phải vào Huế để thi Hội. Diện mạo các nhà trí thức, các nhân sỹ, các ông quan (xin nói thực có một thời kỳ cực đoan, đã nói “quan” là phong kiến, quan là xấu, ở Chí Linh tôi nói thế mà suýt bị bắt).
Nói các quan “xấu” như thế sao lại truyền giòng nối dõi văn hoá Việt Nam mấy nghìn năm được!? Cố nông thì làm sao giữ được văn hoá vật chất của dân tộc? Chúng ta vô cùng quý trọng cố nông, người thợ nhưng nói đến diện mạo văn hoá là phải nói đến trí thức. Các gia đình khoa bảng, gia đình nhà quan truyền từ đời này qua đời khác-các ông quan tham nhũng thì cá biệt thôi. Tất cả tham nhũng thì còn gì là văn hoá Việt Nam, bản lĩnh, bản sắc Việt Nam. Không có Nguyễn Trãi thì ta làm gì có văn hoá thế kỷ 17, thế kỷ 18 sang thế kỷ 19 cũng vâỵ. Ở nhà cái ông giàu nhất nước, mà xưa nay chưa có nhà nào mà cha con đồng triều là tể tướng, là thân sinh Nguyễn Du và Nguyễn Du. Bác Hồ của chúng ta chính là con người nối tiếp những cái (văn hoá cội ngồn) này chứ.
Thế kỷ 19, Bác Hồ sinh ra năm 1891, tôi nói đây là nói nghiêm cứu từ gốc. Bây giờ nói Bác sinh năm 1890, nhưng tôi nghiêm cứu tử vi của Bác thì Bác sinh năm 1891. Bác đi làm cách mạng, Bác khai 1890, nhiều người chúng ta khi đi học, đi hoạt động cũng khai bớt hoặc thêm tuổi như thế. Bác sinh năm 1891. 1895 Bác vào huế, tuổi ta là 5 tuổi, tuổi bắt đầu có trí nhớ, tuổi mà người ta dễ nhớ nhất là tuổi này, tuổi lên 5 đến lên 10. Bác 5 tuổi đi theo cha mẹ vào Huế khi ông Nguyễn Sinh Khiêm đưa cho tôicuốn “Tất Đạt tự ngôn” là tháng 6-1950. Sau đó ít tháng thì cụ qua đời. Trong “Tất Đạt tự ngôn” thì cụ có ghi ba bài thơ về thời niên thiếu của em trai mình, tức Bác Hồ.
Ba bài thơ này cũng hấp dẫn tôi. Thời đó tôi là một anh thanh niên học sinh, mới đi hoạt động Đoàn thanh niên cứu quốc (chưa phải Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh). Cụ đưa cho tôi đọc bài thơ hay quá đi, thấy tôi ngỡ ngàng không tin, thì cụ nói thế này:
Cháu ạ, bây giờ nhớ gì ghi nấy. Bọn Tây nó “thuốc” bác bằng rượu khi bác đi tù. Bác vào nhà tù 1914, sau bác chống lại thì 1918 nó đày vào cực Nam Trung Bộ. Bác vốn không phải là người nghiện rượu, nhưng sau này thì không có rượu là bác không chịu được và trí nhớ của bác mất dần đi. Bạn học của bác đi thi vào năm 1904 đỗ cử nhân, đó là ông Đào Nhữ Tuyên, con trai cụ Đào Tấn. Anh em bác học vào loại giỏi nhưng không đi thi. Bây giờ bác không còn được như xưa, nhớ cái gì thì bác ghi vào đây, chứ không có hệ thống. Cháu là người có tấm lòng muốn tìm hiểu gia cảnh nhà bác thì bác đưa cho cháu cuốn ghi chép này, thấy có ích thì cháu dùng, khai thác, không nữa thì đốt, đừng giao..cho ai, vì trong này bác ghi nhiều cái không tiện nói ra. Trong đó bác có ghi họ Hồ là thế nào…về họ Nguyễn thì thế nào…và ngày chú Thành mở nước độc lập thì là Hồ Chí Minh, chứ không lấy họ Nguyễn là vì sao? Trong cuốn này cũng nêu ra bài thơ đó là: Trên dèo ngang hai bài thơ 1895, còn bài nữa là “Ba ông phỗng” năm 1903.
Cụ Khiêm kể lại: Hôm đó cả nhà bác chuẩn bị đi vào Huế, bác ngủ với bà ngoại, em Thành ngủ với mẹ, còn chị Thanh thì ngủ với dì An. Đêm đêm bác thấy bà khóc, ngày bà vui, đêm nào cũng nghe thấy bà khóc. Sáng hôm sau thấy bà đi xin mo cau cả làng (xưa dân ta lấy mo cau làm gàu múc nước). Bác với chú Thành mới lấy mo cau cắt thành cái thuyền đem thả ao trước nhà, bà không cho, bà bảo đây là dép của các cháu, cha mẹ cháu để đi vào kinh đô, thời đó chưa có nhiều dầy dép như bây giờ. Bác thấy bà ngoại đo chân cha mẹ, đo chân cho 2 em bác.
(Bây giờ mới thấy các cụ ta ngày xưa đi tìm cái chữ ở kinh đô Huế, đi trên những phương tiện như vậy, không dép săm bô như ta bây giờ, ngày ấy có đôi dép da bò đã quý rồi)
Bác hỏi:- Mẹ, tại sao đêm bà lại khóc?
Về sau mới biết tâm sự của bà thế này: lúc đầu cha mẹ bác tưởng bà khóc vì bán ruộng cho con rể vào kinh đô học: bán mất 5 sào. Bà ngoại đêm nằm buồn mà khóc, không phải tiếc bán 5 sào ruộng cho con rể vào kinh đô học, vì “chữ nó sẽ đẻ ra ruộng, chứ ruộng không đẻ ra chữ” bán ruộng cho con đi học, có chữ về thì cái chữ nó lại đẻ ra ruộng. Còn cái ruộng bán đi đánh bạc thì mới mất, nên không có gì mà khóc cả. Khóc là vì bà không có con trai. Ông tú thì mất rồi, con rể coi như con trai, con gái là chỗ dựa, bây giờ cả nhà kéo đi vào Huế, bà ở nhà cô đơn một mình, hai cháu trai và cháu gái cũng đi, (vì thế nên cha mẹ bác chỉ cho hai anh em đi vào huế, còn chị Thanh phải ở lại quê với bà, để sớm hôm có bà có cháu).
Như vậy cha mẹ bác quyết định vào Huế không phải là để làm ăn sinh sống trở thành người Huế đâu, mà muốn cho anh em bác vào Huế để học. Cha bác vào đó để làm bạn với các nhà khoa bảng ở kinh đô. Các ông qua thời đó đều là Tiến sĩ, là Hoàng giáp, là Đình nguyên, ít ra là Cử nhân. Đúng là cha bác vào trong Huế đã tạo ra được một cái “chiếu văn”, các ông quản trong triều thường đến đó bình văn, bình thơ cùng với các cụ đồ ở kinh đô.
Ông Khiêm kể tiếp: Khi đi dép mo cau, một lúc là rách phải thay cái khác, còn chú Thành thì được cha cõng trên lưng. Trên cao chú quan sát hỏi hết chuyện này đến chuyện khác: núi này là núi gì mà cao thế? Bà ngoại hay ví “trèo truông mới biết truông cao” là nghĩa nó ra làm sao? Có được bao nhiêu nước để gọi là biển. Chú ấy hỏi nhiều chuyện. Còn bác thì chân nó đau, đi mấy ngày liền, có khi bác khóc. Mẹ bác lại động viên: “Em nó vui vẻ hỏi chuyện này chuyện khác con là anh mà chẳng vui chi cả”. Chú thì được cha cõng, đến đường bằng thì chạy tung tăng, hỏi nhiều thứ, còn lạ mắt cho nên mẹ bác nói em thông minh hơn anh. Rồi cụ Khiêm nói: mà chú ấy thông minh hơn bác thật…?
Lúc đến chân Đèo Ngang, đường lúc đó có đoạn sát với biển, không như đường ô tô bây giờ. Đến chân Đèo Ngang, có bãi cỏ rất bằng, mẹ bác mới đặt gánh xuống, cha bác xếp ô lại bảo: chỗ này phằng phiu, nghỉ lại đây ăn cơm nắm, để rồi leo đèo, Bác ngồi xuống thì ôm bàn chân rộp, còn chú Thành thì nhảy chơi, mới hỏi cha:
-Thưa cha, cái gì ở trên kia mà đỏ, lại ngoằn ngèo như rứa? Cha bác nói:
Đó là con đường mòn vắt qua đèo, tí nữa ta phải đi leo trèo lên đó, lên cái đường mòn đó.
Thế rồi chú Thành mới ứng khẩu luôn một bài thơ. Sau này bác ghi lại trong cuốn sách “Tất Đại tự ngôn” này:
“Núi cõng con đường mòn
Cha thì cõng theo con
Núi nằm ì một chỗ
Cha đi cúi lom khom
Đường bám lì lưng núi
Con tập chạy lon ton
Cha siêng hơn hòn núi
Con đường lười hơn con”
Nói về văn, thơ, tôi là anh thanh niên năm 1950 tiếp xúc với bài thơ này trong cuốn “Tất Đại tự ngôn” của người anh ruột Bác Hồ viết lúc 5 tuổi thì tôi hơi sững sờ. Ông Khiêm nói tiếp:
Lúc đó, cha bác mới mở cái ví vải lấy lá số tử vi của con ra xem, bác mới biết cha đã lấy tử vi cho các con. Cha bác nói với mẹ:
Với thiên tư này, thằng bé sẽ khó nuôi, có lẽ, quan Đào Tấn với ông ngoại đã nói như thế không nhầm.
Rồi bác Khiêm lại nói:- Lúc đó bác cũng chẳng có bụng dạ gì, vì chân phỏng rộp đau. Ăn cơm nắm uống nước đựng trong quả bầu khô xong, cả nhà lại leo núi, chú Thành lại được cha cõng trên lưng. Cụ Khiêm nói, anh em bác ở làng Sen chỉ biết ao, biết sông, biết hồ, biết núi, chứ biển chưa thấy. Hôm đó, đến đỉnh đèo thì dừng lại nghỉ, bác lại ngồi ôm chân, chú Thành lại chạy nhảy, rồi nói:
Cha ơi, cái ao ở đây sao lớn thế? Cha bác nói:
Không phải ao đâu con ơi, đó là biển đấy chứ.
Lúc đó, đứng trên đèo Ngang là nhìn thấy biển, ở đây thì xuống là đến Ròn tức là Cảnh Dương của Quảng Bình. Lần đầu tiên thấy biển lại cứ gọi là ao, cha bác phải nói là biển. Chú ấy lại hỏi:
Cha ơi, tại sao bò nó lại lội trên biển? Cha bác cười bảo:
Không phải bò đâu con ơi, đó là cánh buồm, thuyền nó chạy trên biển đó.
Chú ấy ứng khẩu đọc bài thơ.
“Biển là ao lớn
Thuyền là con bò
Bò ăn gió no
Lội trên mặt nước
Em nhìn thấy trước
Anh trông thấy sau
Ta lớn mau mau
Vượt qua ao lớn”
Cụ Khiêm nói một câu tâm sự, mà cũng là tâm trạng: – Cháu ạ, con người ta có số mệnh. Số mệnh có khi nó xuất ra thành ý. Cái thông thường, cái lẽ thường anh là phải nhìn thấy trước chứ vì anh ra đời, khôn hơn. Nhưng đây lại nói là “em nhìn thấy trước anh, anh trông thấy sau”, cái khẩu khí đó cũng là cái ứng mệnh. Bác là anh, bác đau chân, bác không còn nhìn những gì ở xung quanh, nhưng chú ấy quan sát, chú ấy lại ứng khẩu được cái đó “ta lớn mau mau, vượt qua áo lớn”. Cái khẩu khí ấy là cái “ứng mệnh” nên suốt cuộc đời chú Thành phải đi hết nơi này nơi khác, năm châu bốn biển, còn bác chả thấy gì, bác cứ yên vị, bác sống trong xó quê như thế này!…
Cụ Khiêm nói với tôi điều đó năm 1950, sau này tôi công bố hai bài thơ ấy trên báo Văn nghệ số Tết năm 1980, lúc đó là chuẩn bị Đại hội 5. “Búp sen xanh” chưa ra, tôi mới đưa hai bài thơ này và viết lại cái đoạn gặp cụ Nguyễn Sinh Khiêm. Khi đó nhà văn Nguyễn Văn Bổng là Tổng biên tập báo Văn nghệ trước khi đăng mới đến hỏi tôi:
Có chính xác không anh? Mới 5 tuổi mà làm hai bài thơ, trẻ con thì trẻ con thật nhưng rất trí tuệ; – Tôi nói:
Anh cứ đăng đi, có chi tôi chịu trách nhiệm.
Đến khi báo ra thì người đến gặp tôi là bác Khương Hữu Dụng, nhà thơ nổi tiếng về thơ Đường, bác rất giỏi, bác năm nay 95 tuổi đang sống (Tôi cho rằng ở Quảng Nam ta có bác Khương Hữu Dụng, một nhân cách nhà thơ, nhà giáo, bác dạy học suốt thời tuổi trẻ, sau cách mạng Tháng 8 bác mới thôi dạy học. Xưa bác viết báo Tiếng Dân chủ cụ Hùnh Thúc Kháng). Cụ hỏi tôi:
Tôi mới được đọc hai bài thơ của Bác Hồ thời thơ ấu hay quá mà mình cũng nghi quá, ông có thêm chữ nào vào đây không?
- Chết, ai lại làm cái việc này thưa bác? – Tôi nói.
(Ta phạm sai lầm là khi viết cái điển hình chăn nuôi để phong anh hùng, chiến sĩ thi đua thì thường mượn lợn hàng xóm thả vào chuồng, mời nhà báo đến, toàn “tạo” thêm thành tích ba lăng nhăng. Còn đây là viết về vĩ nhân, đây là viết về Bác Hồ, mình thêm là mình có tội. Còn nếu của tôi thì tôi thành tác giả, việc gì mà nói là của Cụ Hồ). Cụ Dụng lại cười tươi, nói:
-Đọc xong mình sợ quá. Trần Đăng Khoa nó giỏi nhưng thời nay nó khác, nó có thông tin báo chí tuyên truyền nhanh, có hệ thống, thời đó thì không có mấy, thời đó làm gì có báo chí như vậy. Thông minh như Trần Đăng Khoa tưởng tượng “cành lá dừa như cái lược chải trên trời”, “quả na chín là quả na mở mắt”, “gà gọi mặt trời lên”… Bên này hai bài thơ Bác hồi nhỏ mà tầm tư tưởng lớn quá.
Sau này đưa vào cuốn “Búp Sen Xanh” thì Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mời tôi lên làm việc, Thủ tướng có hỏi về hai bài thơ. Thủ tướng mời tôi ngày 10-4-1982, lúc đó đã kết thúc Đại hội 5, bác Phạm Văn Đồng nói như thế này:
Tôi có mấy điều để nói với đồng chí, có những điều Bác Hồ kể với tôi, vì tôi sống có một mình… thỉnh thoảng ăn cơm với Bác, sau khi ăn xong hai người thường ngồi bên ao cá kể chuyện thời nhỏ của Bác. Nhưng lần này tôi thấy đồng chí lại biết khai thác được những chuyện như thế này. Tôi không hiểu tại sao đồng chí lại biết những chuyện này? Đồng chí cũng không phải là thư ký của Bác, đồng chí là nhà báo, thỉnh thoảng có đi với Bác nhưng chắc không bao giờ Bác kể chuyện này, trong đó có trường hợp cô út Huệ là người tiễn Bác xuống tàu. Trong sách có ba bài thơ, bài thơ thứ ba không nói, còn bài thơ Đèo Ngang tại sao đồng chí lại tìm được?
Bác Đồng mời tôi lên thì bao giờ tôi cũng có cái “thủ thân”, được khen thì tốt, nhưng khi bị hỏi thì sẵn sàng có cái “thủ thân” mà chìa ra. Tôi mang cả cuốn “Tất Đạt tự ngôn” đi theo, tôi nói:
-Cụ Khiên giao cho tôi tháng 6-1950 thì tháng 9 cụ qua đời. Cụ có ghi trong sách hai bài thơ này, (tôi chìa ra thì bác Đồng bảo tôi), đồng chí đã lấy tư liệu chu đáo như thế này, vì không ai hiểu Bác Hồ bằng anh chị ruột của Bác. Đồng chí lại có cái duyên may được gặp các anh chị Bác Hồ, lại được các cụ tin cậy giao cho cuốn sách ghi chép của cụ cuối đời và kể lại thế này. Các cụ nhà nho khi về già thường kỹ tính lắm, không dễ nói ra đâu.
Sau tôi phải nói thật với bác Đồng: ông Bùi Xuân Phong xưa là bạn của cụ Hoàng Xuân Hành (chú ruột, mẹ Bác Hồ), cùng đi với cụ Hành, không phải tự nhiên các cụ kể cho biết đâu. Cụ Bùi Xuân Phong hy sinh ở Nhã Nam thời cụ Hoàng Hoa Thám nay vẫn chưa tìm thấy mộ cụ tú Bùi. Nói điều đó là để bác (Đồng) tin được. Bác Đồng lại nói:
- Tôi hỏi đồng chí như thế vì đọc trong cuốn sách có nhiều điều xúc động, nhưng có hai bài thơ ở Đèo Ngang tôi cứ bâng khuâng, giá mà biết trước cái này thì Bác còn sống mà nhắc lại chắc lý thú lắm. Nhưng Bác “đi mất rồi”! Có khi nào mà cái tuổi lên 5 mà cấu trúc được bài thơ ngắn, cấu trúc ấy lại tạo ra được giữa cái “tĩnh” với cái “động”, tư duy này tư duy “Dịch lý”.
Bác Đồng là người giỏi Dịch lý, con quan mà. Các đồng chí để ý ngày bác Đồng mất, họ chiếu cái phim về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, có đoạn quay cái nhà thờ của gia đình bác Đồng ở Quảng Ngãi, thì người ta quay xa xa, không quay cận cảnh bàn thờ vì toàn là những ông đội mũ cánh chuồn. Gia đình bác Đồng nhiều người làm quan, như thế “họ” sợ mất lập trường nên không dám quay rõ. Bác Đồng là con quan, học giỏi, học hành kỹ lưỡng nên mới thấu hiểu được “cái động”, “cái tĩnh” trong bài thơ của Bác Hồ.
Rõ ràng cái gì thuộc về thiên nhiên tạo đều “tĩnh”, cái gì thuộc về con người là “động”. “Núi cõng con đường mòn”, Cha thì cõng theo con”, “Đường bám lỳ lưng núi” là tĩnh, “con tập chạy lon ton” là động. Thơ có thể là chưa hay nhưng nó có cái thần, cái lời ngộ nghĩnh của đứa trẻ, điều đó dễ hiểu, đó là vấn đề tư tưởng, tầm nhìn này hơi lạ, Rồi còn bài lên đỉnh đèo, tại sao biển như thế vẫn gọi là cái ao, mặc dù cha nói đó là biển, mà vẫn cứ: “Ta lớn mau mau, vượt qua ao lớn”. Thế thì có lý trí gì không? Không chỉ là xúc cảm xuất thần của một đứa bé. Sau này Bác đi năm châu bốn biển: Lịch sử nay đã cho thấy Bác Hồ đi bốn biển thì thấy, năm châu thì chưa thấy. Đến bây giờ không biết Bác có thăm Úc không. Ta thường nói Bác Hồ đi năm châu bốn biển, theo lịch sử ghi thì Bác mới chỉ đến bốn châu thôi. Tôi nói:
Thưa, Bác Hồ đến Sitnây tháng 11-1913, đi với cụ Đào Nhật Vinh, hiện nay cụ Vinh ở số nhà 13 đường Nguyễn An Ninh, gần chợ Bến Thành.
Tôi nói với Bác Đồng năm đó cụ Đào Nhật Vinh đang sống. Sau giải phóng miền Nam, tôi vào Sài Gòn sưu tầm tài liệu về Bác Hồ thì Dược sư Hồ Thị Tường Vân, con gái cụ Hồ Tá Bang giới thiệu gặp cụ Đào Nhật Vinh, người ở huyện Trực Ninh, Nam Định, xuống tàu năm 1912 (Bác Hồ năm 1911), cụ Đào Nhật Vinh gặp Bác Hồ ở tận Nam Mỹ, Achentina, sau này gặp (Bác) ở Đaka, Sênêgan, đến đầu năm 1917 gặp lại Nguyễn Tất Thành cuối đại chiến thứ nhất, Vì sau đó ông không đi tàu nữa mà lên Boócđô, lấy vợ đầm,… Sau này ông lại lấy một bà Việt Nam. Nếu cụ (Vinh) kể không thì không ổn, không đủ để tin số ảnh cụ chụp với Bác Hồ năm 1946 ở Pari khi Bác là thượng khách thăm chính thức nước Pháp (lúc đó cụ đang ở Pháp mở Hotel ở Boócđô).
Gặp cụ Vinh tôi mới cung cấp một số tư liệu với bác Đồng. Bởi vì viết về Bác Hồ, chúng ta chẳng có mấy ai nghiên cứu về Bác đi đến tận nơi tận chốn Bác sống, hoạt động để tìm tòi tra cứu cả, báo chí nước ngoài họ viết thế nào thì ta chép lại, Đảng ta chưa bao giờ bỏ ra một số tiền cung cấp cho những người có tâm huyết thật sự đi lần theo dấu viết Bác. Đã có ông nhà báo Mạnh Việt ở báo Tiền Phong thành tâm xung phong đi, nhà nước chỉ cấp cho một cái giấy phép thôi, còn đi đến đâu ông nhờ đồng bào, mà đến nay vẫn chưa có chuyến đi nào cả. Ngay cả việc quan hệ giữa nhà nước ta với nhà nước khác cũng chỉ trao đổi công văn đi lại, cũng chưa có người đến. Chỉ đến khi anh Hồng Hà lúc đó là phóng viên Báo Nhân Dân đi sang hội nghị Pari với Lê Đức Thọ, nhân tiện ở đó nghiên cứu (về Bác) ở Pháp, rồi sanh Anh, thế thôi; chứ thực sự để hẳn người nghiên cứu về Bác Hồ thì không có. Vì vậy, nó cứ thất thoát đi. Bên ngoài người ta cứ tiếp tục gửi về rất nhiều (tư liệu).
Hai bài thơ ấy giúp bác Đồng hiểu thêm về Bác Hồ, về sự manh nha của một thiên tài. Thiên tài không phải tự nhiên xuất hiện, mà cả một quá trình, mà đây là giai đoạn manh nha. Cuối buổi gặp bác Đồng mới nói về ý định của bác.
-Tôi nghe đồng chí bị thương ở mặt trận bề, khó khăn lắm!? Anh em xuống nhà (anh) nói đồng chí ở chật chội lắm! Tôi có trao đổi với anh em để lo cho đồng chí một chỗ ở, để đồng chí đỡ vất vả…
-Thưa Thủ tướng, cảm ơn Thủ tướng. Bây giờ Thủ tướng cho tôi căn hộ, Thủ tướng mang tiếng, tôi cũng mang tiếng. Bởi lẽ tôi trẻ trung làm được công việc đột xuất mà Thủ tướng thưởng thì không ai nói. Thủ tướng là người lãnh trọng trách lo cho cả đất nước. Một người đột xuất như Đặng Thái Sơn chẳng hạn, làm cái việc được giải thưởng Sôpanh, người châu Á đầu tiên được giải, thì Thủ tướng cho một căn hộ, để Đặng Thái Sơn đón bố là Đặng Đình Hưng về ở, anh Hưng bị cái án “Nhân Vân Giai phẩm”, bây giờ khổ quá, nay con ông làm được cái việc vinh quang đó. Thủ tướng cho một căn nhà. Ai cũng quý cả, quý tấm lòng của Thủ tướng, quý lòng hiếu thảo của người con đối với cha, như thế là đẹp.
Tôi là người tham gia cách mạng sớm, ra đi vào chiến trường B, trả lại căn hộ tiện nghi ở số nhà 58 Nam Đồng cho phòng quản lý nhà đất quận Đống Đa. Nay trở về, đòi không được. Thuê một chỗ khác cũng không được. Tôi biết cái nhà đó…thì to tiền lắm. Bây giờ họ bán đồ điện. Nhà tôi đòi không được, giờ tôi lại lên đây, tôi không xin (nhà) mà Thủ tướng cho một xuất ở thì tôi mang tiếng, Thủ tướng cũng mang tiếng: Thủ tướng Phạm Văn Đồng thì mang tiếng “ban phát” cho cá nhân người này người kia: còn tôi thì mang tiếng: tưởng ông này thế nào, hoá ra đi nghiên cứu cụ Hồ, viết sách cụ Hồ xong rồi “để xin nhà”. Dân ta thường nói “Ăn mày nhà quan không sang hơn ăn mày ở chợ”. Tôi cũng nói thực lòng với bác Đồng như thế nên bác rất quý. (Nay thấy anh Trần Tam Giáp, thư ký bác Đồng viết bài để đăng báo Nhân dân ngày giỗ năm Cụ “ra đi”, anh có nhắc đến chi tiết này).
Như thế là đến như bác Phạm Văn Đồng ở gần Bác, một trong những người gần gũi nhất của Bác Hồ như bác Võ Nguyên Giáp, bác Trường Chinh…xưa người ta nói “Tứ trụ” là vậy! Nhưng thời niên thiếu của Bác thì không có điều kiện để tìm hiểu để biết được. Còn tôi có duyên may trong quá trình đi khai khác để sau này viết, trước chỉ nghĩ ghi lại để cung cấp cho đời sau, nhưng sau khi đã có cái “vốn” mới nghĩ đến chuyện “đi buôn xa buôn gần” viết cái này cái khác.
Như thế là tuổi nhỏ Bác Hồ đã được khai tâm chữ nho rồi. Trong nhà bà ngoại và mẹ khai tâm cho Bác lúc 3 tuổi; 5 tuổi thực sự học chữ nho. Có người nói Bác học ít là ngộ nhận, không phải. Vào đến Huế, ông Nguyễn Sinh Sắc tạo ra một cái “chiếu” trí thức, gọi là các văn nhân thời đó, từ Đào Tấn đến Nguyễn Thượng Hiền, Đặng Nguyên Cẩn…đều đến nhà này. Sau này là Phan Văn San tức Phan Bội Châu, vào Huế gặp cái “chiếu” của ông Nguyễn Sinh Sắc ở trong ngõ Đông Ba. Tại sao viết về Bác người ta lại “ngại” viết về cái này lắm ? vì toàn là các gương mặt phong kiến, quan lại cả. “Họ” tưởng rằng Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu Mác Lênin”, thực ra Bác Hồ sinh ra từ cái “chiếu quan trường” như thế này thì “giảm” mất cái giá trị nháy nháy của Bác đi. Cái này các giới nghiên cứu Việt Nam cần làm rõ Bác Hồ là con đẻ của Việt Nam, còn Mác Lênin có đến với Bác là một cái vô cùng quan trọng , nhưng là một mảng cấu thành thứ hai, không thể nào là “nền tảng” được, nền tảng là “Văn hoá Đại Việt”, văn hoá Việt Nam đi từ nàng Âu Cơ. Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, trăm con, có miền ngược miền xuôi…Còn Mác là sản phẩm của thế kỷ 18,19 dưới ánh sáng của Châu Âu ông vĩ đại ở thời đó, nhưng vĩ đại đến mức nào đó…chứ cái này năm 1924 Bác đã viết rất rõ:
“Học thuyết Mác là học thuyết của Châu Âu mà Châu Âu chưa phải là cả thế giới. Vì Mác không có điều kiện để nghiên cứu văn hoá phương Đông và lịch sử phương Đông, chúng ta có quyền bổ sung cho học thuyết Mác bằng văn hoá và lịch sử phương Đông”
Đây là tôi nói lại ý của Bác. Những điều ấy Bác viết từ năm 1924 lại cho là “hỗn”, là “đại xét lại” rồi còn gì nữa! Mác thì nói về giai cấp vô sản và tư bản, còn Bác thì Bác đi tìm vấn đề giải phóng dân tộc. Còn đây là vấn đề của Châu Âu phát triển chủ nghĩa tư bản thì phải đánh đổ tư bản để giải phóng vô sản. Bác thì khác, có vấn đề giai cấp đấy, nhưng không phải giai cấp như ở châu Âu. Văn hoá của Bác không được đưa ra suốt bao nhiêu năm, bây giờ đã được đưa vào “Toàn tập” rồi (in lần thứ 2)
Con người có tư tưởng như vậy thì cái nôi phải như thế nào? Hồi nhỏ Bác đã gặp và chịu ảnh hưởng những gương sáng nào, diện mạo nào?
Trên “chiếu văn” của Nguyễn Sinh Sắc nào là Đào Tấn, tổng đốc An Tĩnh sau về làm thượng thư Bộ Công, rồi thượng thư Bộ Hình, rồi đến Nguyễn Thượng Hiền. Nếu quên nói vị hiền tài này là tôi có lỗi với Bác, là không đầy đủ sự hình thành nhân cách của Bác. Rồi cụ Cao Xuân Dục – một ân nhân của ông Sắc, cụ Đặng Nguyên Cẩn đốc học, thân sinh cụ Đặng Thai Mai, cụ Ngô Đức Kế…Cái “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc năm 1896, 1897, 1898, 1899…từng ấy năm là nơi hội tụ khá đầy đủ các nhà khoa bảng lớn ở đất nước ta, trong đó có tiến sĩ Trần Đình Phong người Yên Mã, huyện Yên Thành, Nghệ An (đỗ cùng khoa với Phan Đình Phùng)
Những người đó đi đến “chiếu” của Nguyễn Sinh Sắc thì cậu bé Nguyễn Sinh Cung (còn gọi là Côn) hầu trà hầu nước cha tiếp những vị khách này thì chịu ảnh hưởng khá lớn, lại chứng kiến việc vua Thành Thái bị đi đày. Ông Khiêm có kể lại câu chuyện mà sau tôi dựng lại trong phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn”, viết trong “Búp sen Xanh” tái hiện lại.
——-
(Tác giả chú thích cho đoạn trên)“Cụ nguyễn Thượng Hiền là hoàng giáp tiến sĩ, người Liên Bạt, Hà Đông, đỗ đầu khoa 1895, vừa đỗ xong thì có chính biến: vua Hàm Nghi “xuất bôn” đánh đồn Mang Cá thất bại thì Tôn Thất Thuyết đưa vua đi, sau đó ông Đồng Khánh lên không thừa nhận khoa thi này, tổ chức thi lại, ông lại đỗ hoàng giáp tiến sĩ lần thứ hai. Lúc này cụ ở Quốc Tử Giám (trong Huế) là Biên tu Quốc sứ quán.
Trần Đình Phong dạy học, học trò là những nhà khoa bảng như Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên Cần…khi ông vào nam làm đốc học ở xứ Quảng học trò của ông là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Phạm Liệu, Trần Quý Cáp. Một ông tiến sĩ mà dạy học trò tạo nên những nhà khoa học lớn như vậy. Chúng ta chỉ nhớ Chu Văn An thôi mà quên mất Trần Đình Phong cũng đỗ tiến sĩ với Phan Đình Phùng năm 1878.
Phim làm xong rồi, trong giới điện ảnh họ “đánh nhau”, tôi ở giữa là người viết kịch bản, tác giả kịch bản 4.558.000đ, đạo diễn chính 4 triệu, diễn viên chính Thu Hà đóng vai út Huệ 2 triệu. Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ 2 triệu, ông Tuấn quay phim chính 2 triệu. Làm xong phim rồi, ký hợp đồng rồi, mỗi tỉnh mua mấy bản, bên Pháp mua mấy bản, tính toán cả rồi. Bộ chính trị duyệt rồi đưa lên FAFIM. Cục Điện ảnh “đánh nhau”, “đánh” đến nỗi mà tiền tráng phim này ở Băng Cốc (lúc đó ta chưa tráng được phim màu) chỉ lấy được mấy bản để chiếu, còn vẫn để ở bên Băng cốc. Nói thế để thấy rằng phim Bác Hồ gian truân lắm. Diệp Minh Châu tạo một tượng Bác Hồ bằng đá nguyên khối và đã tạc xong rồi, định dựng tượng Bác Hồ với mấy đứa trẻ nhỏ thế thôi. Không hiểu nổi công trình làm về Bác tại sao lại khó đến thế.
——
Căn cứ vào lời kể của ông Khiêm , bà Thanh, (tôi) tra lại cái gốc vấn đề. Biết bao nhiêu người kể cho tôi nghe, sau khi vừa giải phóng xong, đi đến đâu …(mất một đoạn ngắn nghe không rõ) chỉ đưa cái thần của nó thôi:
Nhân dân nô lệ từng đàn
Vui chi bệ ngọc ngai vàng riêng ta?
Thế là các anh phê ngay:- Tại sao lại đề cao Thành Thái như thế này? Thành Thái ngồi trên ngai vua làm chi có chuyện thương dân như thế này?
Khi chìa bản gốc ra, tôi nói: – Nếu thực sự yêu ông cha, quý trọng ông cha thì những bài thơ này (còn) phải đưa vào dạy trong trường nữa chứ!
Từ đó tôi không đưa bài thơ này ra nữa vì có người còn nói thơ này của Triều tiên, có người lại nói bài thơ này thơ Đường chứ đâu phải thơ của Thành Thái. Vừa rồi trường Quốc học Huế đã công bố chính thức bài thơ đó của vua Thành Thái. Còn khi tôi đưa ra thì người ta nói ông Sơn Tùng mượn bài thơ nổi tiếng bên Hàn Quốc (ông nói là Hàn Quốc chứ không nói Triều tiên), khổ thế!
Ông Khiêm kể tiếp: – Buổi sáng hôm đó cha bác ngồi trước linh sàng khói hương nghi ngút không vào Đại nội để chầu. Mọi khi ăn sáng một bát cháo hoa rồi vào nhà Tả Vu chầu vua, nhưng hôm đó đi ra đi vào không thấy cha chầu, chú Thành mới hỏi:
Thưa cha, hôm nay cha không vào tả Vu để chầu?
Lúc đó ông Sắc làm thừa biên Bộ lễ, thì “người ta” nói: – Tại sao cha Bác Hồ lại làm thừa biên Bộ Lễ của triều Nguyễn bán nước thế này (hồi đó không được nói, còn bây giờ thì nói thoải mái).
Nồi cháo, ba cha con ăn sáng, vẫn để đó, cha cứ ngồi thắp hương, hỏi thì cha nói:
- Vua đã bị bắt giam ở nhà Thái y rồi. Ông Khiêm mới hỏi:
- Thế có biến trong triều hở cha? Cha nói:
- Không có biến chi cả, toà Khâm sứ nó bắt vua:
—–
(Tác giả chú thích)“Ông vua Thành Thái, con vua Dục Đức, lên ngôi mới có 10 tuổi. Ông lên ngôi 1889, khi ra Bắc Hà 1902 lúc đó mới vượt tuổi thiếu niên. Đi trên cái long xa, lần đầu tiên rời khỏi kinh đô Huế ra Bắc Hà dự lễ khánh thánh cầu Doumer (cầu Long Biên). Đi dọc đường thấy dân chết đói, ăn xin mà cảm xúc làm bài thơ ấy.
——
Thế thì bây giờ ta đọc lại bài thơ của vua Thành Thái làm khi ra Bắc mà bác Khiêm thuộc từ đó được bác chép lại, chữ của Bác, Bác mất đi rồi thì cháu còn bút tích. Bút tích của cụ Khiêm chữ nho rất đẹp. Khi phát ngôn nhân của đoàn ta ở hội nghị Pari nghe được bài thơ này thì giật mình: Mình là dòng dõi Tôn nhất mà không biết (đó là ông Nguyễn Minh Vỹ).
Hôm ở Câu lạc bộ Thăng Long, tôi nói vui: – Thưa các bác, đây toàn là “quan đại thần” cả, nào là Bộ Chính trị, nào là Bộ trưởng…nhưng tôi hỏi bây giờ ai trong lãnh đạo Đảng còn nhớ thương dân bằng ông vua này?
Võ võ văn văn ý cẩm bào
Trẫm vi thiên tử độc gian lao
Tam bôi hoàng tửu quần lê huyết
Sổ trản thanh trà bách tính cao
(Quan võ, quan văn họ chỉ sung sướng với bộ cẩm bào, lấy làm hãnh diện sang trọng với bộ áo. Ta đây làm vua ở ngôi thiên tử mà cô đơn, không ai hiểu ta. Uống ba chén rượu trong hoàng cung như uống máu quần chúng nhân dân. Uống một chén trà tiến vào cung vua như uống mồ hôi trăm họ).
Một ông vua ngồi trong cung ăn ngon, mặc đẹp mà thấy đau xót vì dân cực khổ, nói nôm na như vậy, thế thì ta không học vị vua yêu nước, thương dân này thì học ai? Học cha ông học ngay đây này, thanh liêm thì học ở đây, ở thế kỷ 20 này.
Thiên lệ lạc thời dân lệ lạc
Ca thanh cao xứ khốc thanh cao
(Nước mưa trên trời kia phải chăng nước mắt của trời cũng như nước mắt của trăm họ rơi xuống. Tiếng hát trong hoàng cung cao bao nhiêu thì tiếng khóc ngoài đời càng cao bấy nhiêu)…Ghê gớm quá! Thấy trời mưa mà như thấy nước mắt của dân đổ xuống! Bây giờ bọn tham nhũng không còn biết xấu hổ với cha ông.
Can qua thử hội hưu đàm luận
Lân tuất thương sinh phó nhỉ tào
(Cái việc mất nước nguyên nhân thế nào lúc này ta thôi bàn, phải bàn cái chỗ này: tìm con người cứu nước thì ai đây, phó cho ai đây!)
Vậy Nguyễn Tất Thành không ảnh hưởng ở những người này thì ảnh hướng ở đâu?
Cha làm quan trong triều, buổi sáng đó không ăn sáng mà ngồi trước nén hương, vì thấy vua bị bắt, chánh khâm sứ Trung kỳ nó bắt. Lệnh bên kia tố cáo đó là “có âm ưu lật đổ” do Trương Như Cương là ông cậu, em mẹ vua, tố cáo. Nỗi đau như thế mà ta không đem cho anh em đồng chí đồng bào biết để mà học. Đây là nhân cách làm vua, nhân cách làm tướng, nhân cách làm thầy. Học là học ở đấy chứ đâu. Tôi cho rằng ta rời bỏ cha ông, rời bỏ cái văn hoá dân tộc là không đúng, tất nhiên ta không dân tộc hẹp hòi, phải học cái tinh hoa của nhân loài, của dân tộc khác, nhưng học cái tinh hoa thôi, cái gì hợp thì ta học. Chính Bác Hồ là con đẻ của văn hoá dân tộc, đi ra thiên hạ, nằm gai nếm mật, đến nơi này nơi kia để khảo sát.
Về điều này tôi nói với đồng chí Tố Hữu lúc đó là Trưởng ban tuyên giáo, Uỷ viên Bộ chính trị…khi duyệt kịch bản phim của tôi ông bảo cái phim “Hẹn gặp lại Sài Gòn” lúc bấy giờ lấy tên là “Con đường năm ấy” là để khẳng định con đường của Bác Hồ, tôi nói:
- Bác Hồ là hệ quả của văn hoá dân tộc, là truyền thống yêu nước, chứ không phải là Mác Lênin. Mác Lênin nền tảng từ đầu, mà là một mảng phần sau. Ông Tố Hữu nói:
- Không, không, giai đoạn này tôi không thích ca ngợi, giai đoạn Nguyễn Tất Thành chẳng là cái gì cả, giai cấp vô sản giác ngộ thì mới đến được chủ nghiã Mác Lênin, đó là lượng thành chất…
Hôm đó cả anh Hà Xuân Trường, Thứ trưởng Bộ văn hoá, Chủ tịch Hội đồng nghệ thuật quốc gia, đã duyệt (phim) rồi lên xin ý kiến ông Tố Hữu; anh Vũ Năng An giám đốc xưởng phim truyện, anh Hải Ninh là đạo diễn; anh Đào Xuân Tùng, đồng tác giả kịch bản “Con đường năm ấy” và nhà văn Hoàng Tích Chí ngồi nghe anh Lành nói thế…
Ông Tố Hữu còn nhấn từng tiếng:
- Phải sang Pháp, giai đoạn ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc nhờ giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho mới trưởng thành. Chỉ có Nguyễn Ái Quốc, chứ còn Phan Chu Trinh ở bên ấy bao nhiêu năm có biết gì đâu? Rồi Phan Văn Trường cũng ở Pháp rất lâu mà có biết gì đâu? Chỉ có giai cấp vô sản Pháp giáo dục cho (Nguyễn Ái Quốc)…còn giai đoạn Nguyễn Tất Thành chưa là cái gì cả!
- Kính thưa anh – tôi nói: – một thanh niên 20 tuổi đẹp trai như thế, con quan thừa biện Bộ lễ, nho học có, tây học có, học troisieme annéc Quốc học Huế, học chữ nho người ta gọi là “kiêm bị”, có thể đi thi được, nếu lấy cô vợ đẹp được quá đi chứ! Tại sao Nguyễn Tất Thành bỏ tất cả để ra đi? Bài học ấy lớn quá. Ngay trong tâm hồn Nguyễn Ái Quốc có cả sự hoàn chỉnh nhân cách phương Đông để đi đối thoại với phương Tây. Nếu không biết gì khi sang bên kia thấy gì cũng vơ cả, như thế thì hỏng. Nguyễn Tất Thành ra đi thì cô út Huệ ở lại, cô là con quan Bộ Công Lê Quang Hưng, Nguyễn Tất Thành bỏ cả cái tình cảm, tình yêu này mà đi vào nghĩa lớn, thì đó là bài học.
Khó là như thế, bây giờ tìm hiểu Bác Hồ, lịch sử của Bác là con đẻ của dân tộc này, kết hợp với mọi cái, tìm lượm được mọi cái hay ở bên ngoài. Ở bên Mỹ hiện nay có mấy cuốn sách viết về Bác, nay người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu, nhất là Lady Borton, bà hiện đang ở Khách sạn La Thành, bà nói tiếng Việt như anh em mình, bà chuyên nghiêm cứu Bác Hồ thời ở Mỹ.
Như vậy, Bác Hồ vào Huế là để học thêm được cái gì ở Huế ở tuổi thơ ấy? Đó là cái nôi văn hoá của dân tộc hội tụ ở Huế. Huế là văn hoá bản địa của kinh đô, đặc biệt các diện mạo đại khoa vào trong Huế. Một con người như cụ Cao Xuân Dục, (đến nay hai lần tôi đề nghị với Nghệ An mà chưa đặt cái tên đường cho cụ), tất cả các bộ sách Sử và văn hoá ở triều đình Huế có đến bây giờ được sắp thành văn bản là do ông. Cụ Cao Xuân Dục là ông quan từng làm tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên, sau xuống dưới này, cùng Hoàng Cao Khải.
Dân ta công bằng lạ lùng, đây không phải là quy định trong sách đâu. Ông Hoàng Cao Khải lúc đó phải điều cả cụ Cao Xuân Dục đi dẹp Bãi Sậy.
Cả hai ông cùng đi dẹp Bãi Sậy nhưng cụ Cao Xuân Dục không bị mang tiếng là Việt gian mà Hoàng Cao Khải mang tiếng đại Việt gian. Làm quan nhân nghĩa rất khó, nhất là ẩn tại triều.
Những bài học của ông cha ta lớn như thế mà nó còn có quan hệ xung quanh diện mạo Hồ Chí Minh đều ảnh hưởng từ những cái này. Ông Đào Tấn cũng vậy, làm tống đốc An Tĩnh mà khởi nghĩa Phan Đình Phùng, phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp khởi nghĩa Phan Đình Phùng, đàn áp phong trào Phan Bội Châu mà ông cũng không mang tiếng đàn áp, trái lại còn dựng được vở tuồng “Hộ thành” ca ngợi Phan Đình Phùng, ông ngầm giúp đỡ khở nghĩa Phan Đình Phùng, ngầm giúp đỡ phong trào Phan Bội Châu. Cao Xuân Dục cũng vậy, ông xuống Bãi Sậy mà không đàn áp, nên ông không mang tiếng đàn áp mà trở thành một nhà văn hoá.
Tất cả sách Sử từ xưa để lại đều là ở cụ Tổng tài Quốc sử quán, cụ đỗ cử nhân, đồng khoa với cụ Phan Đình Phùng, nhưng đại khoa cụ không đỗ. Đầu thế kỷ (20) này cụ vừa là Tổng tài Quốc sử Quán vừa là thượng thư Bộ Học, vừa là tế tửu Quốc tử giám, vừa là Đông các Đại Học sĩ tứ trụ triều đình. Cụ về hưu năm 1923 nhưng vẫn là nhà văn hoá, con của cụ là Cao Xuân Tiếu, cháu nội Cao Xuân Huy nhà lão học lớn nhất nước ta hiện nay, nhất là Cao Xuân Hạo. Một gia thế như thế đều có quan hệ với gia đình cụ Sắc.
——-
(Tác giả chú thích)“Cụ Hoàng cao Khải lúc đó là ông quan lớn nhất nước ta, được phong phó vương ở Bắc cụ Cao Xuân Dục làm tờ Thiên vô nhị thật, quốc vô nhị vương, trời chỉ có một mặt trời, nước chỉ có 1 vua, chứ sao lại hai vua. Sau khi áp Bãi Sậy Hoàng Cao Khải được vương Quân công.”
——–
Nguyễn Sinh Sắc được học là nhờ hồi đó được hưởng một suất khuyến học. Cụ Cao Xuân Dục để ra một số ruộng khá lớn để lấy hoa lợi giúp cho học sinh nghèo. Ông Sắc được nhận số tiền khích lệ đó, đồng thời được vào Quốc Tử Giám cũng là nhờ cụ Cao Xuân Dục. Nếu nghiên cứu Bác Hồ mà không nghiên cứu những khía cạnh này thì nó mất cội nguồn nhân nghĩa. Cội nguồn nhân nghĩa ở gia đình Bác Hồ đứng được ở Huế, sống được ở Huế và tiếp cận được những vấn đề văn hoá…đều là nhờ cụ Cao Xuân Dục, cụ có những ân nghĩa đối với thân sinh Bác Hồ.
Như vậy (nghiên cứu) lịch sử phải công bằng, phải đi tìm những cái từ cội nguồn. Nói như thế để các thầy các cô sau này nghiên cứu về Bác Hồ cần nghiên cứu bổ sung thêm, hoàn chỉnh thêm. Con người anh hùng dân tộc được sự nuôi dưỡng qua nhiều bước đường, qua nhiều thời kỳ mới nên con người đó, chứ không phải tự dưng nó đến. Thế thì ông Cao Xuân Tiếu mua ngôi nhà của lính “khố vàng” cho ông Nguyễn Sinh Sắc để ông Sắc đưa vợ con vào ở. Đó là điều quan trọng thứ nhất. Thứ hai là: khi bà Sắc chết rồi ông Sắc chưa đỗ đại khoa (đến 1901 khoa Tân Sửu ông mới đỗ). Trong khi còn tang vợ vừa mới qua đời, con trai út vừa mới chết, ông Sắc cùng ông Phan Chu Trinh cả hai ông đều bị đánh hỏng trong khoa thi này. May sao cụ Cao Xuân Dục là Chánh chủ khảo Hội đồng khảo thí khoa Tân Sửu (1901), khi phúc khảo lại toàn bộ thì thấy có hai bài của hai ông Phan Chu Trinh và Nguyễn Sinh Huy (lúc này ông Sắc đổi tên là Huy). Cụ Cao Xuân Dục nói:
- Chết, những bài này mà đánh hỏng thì hậu thế người ta nói thi cử không công bằng.
Ông làm tờ trình lên Bộ học và lúc đó cụ Đào Tấn cũng góp phần tâu lên vua Thành Thái xét lại hai vị sĩ tử này. Hai sĩ tử này xét về văn bài phải là hàng đầu bảng mà bây giờ đánh hỏng là không được. Lúc bấy giờ có hai phái: – phái Nguyễn Thân muốn đánh hỏng, nói là hai ông này phê phán nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, là “khinh ngôn”. – phái nữa là Đào Tấn nhận xét thi cử là để chọn những hiền tài, đánh hỏng những người thế này thì hậu thế người ta khinh lại. Sau cả hai phái đều lấy lại nhưng dung hoà là không lấy tiến sĩ nữa mà lấy phó bảng, nên hai ông đều là phó bảng. Đời vua Thành Thái, khoa thi này có 9 tiến sĩ, 11 phó bảng, lấy thêm 2 phó bảng thì cụ Phan Chu Trinh bị đội bảng thứ 13, cụ Sắc thứ 11.
——-
(Tác giả chú thích)“Vào học Quốc Tử Giám là quan đại thần, mà ông Sắc chỉ là con một người bình thường. Cụ Cao Xuân Dục phải nhận cho vì lúc đó cụ đang là thượng thư Bộ Học và là Tế tửu Quốc Tử Giám.
Khi vào Huế cụ Sắc túng thiếu. Con trai cụ Cao Xuân Dục là Cao Xuân Tiếu (đi thi cùng khoa với cụ Sắc) đỗ cử nhân, sau đó đỗ phó bảng, cụ Sắc không đậu, khoá sau mới đỗ. Hai người là bạn học của nhau, cụ Cao Xuân Tiếu mới mua một ngôi nhà ở ngõ Đông ba của một lính “khố vàng” về hưu ở An cựu để ông Sắc đưa vợ con vào đây. (Búp Sen Xanh tôi không đưa đoạn này vào, sợ mang ơn triều Nguyễn quá nặng, chỉ cho tôi nói là nhà ông lính “khố vàng” thôi)
——-
Nói như thế thấy rằng cụ Cao Xuân Dục có mối liên quan hệ tình cảm sâu sắc với gia đình Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, rất nhiều tình tiết như thế. Sau khi đỗ đại khoa thì vua Thành Thái ban “ân tứ vinh quy”, ban áo mão để đi dự tiệc vườn Thượng uyển được “kén vợ”, chọn một cô nào thì tuỳ ý. Nguyễn Sinh Sắc được cụ Cao Xuân Dục định gả con gái yêu của cụ là Cao Thị Trâm làm vợ kế để giúp cho các cháu đang thơ như thế này, mà đứa nào cũng học giỏi, ngoan, nên cụ mời Nguyễn Sinh Sắc đến tư dinh, ông nói trước để khi ông Sắc chọn (vợ) sẽ lấy Cao Thị Trâm, con quan đại thần. Cụ nói: – Tôi muốn giúp anh người hiền đức mà “thất nội trợ…”
Ông Sắc bèn phủ phục xuống nói: – Con xin tạ ơn Cụ lớn và xin Cụ lớn miễn cho con việc này, là vì con được như hôm nay là nhờ cha mẹ vợ, gia đình vợ, bây giờ vợ mất rồi, con rể đỗ đại khoa, vinh quy bái tổ mà lại nằm trên cáng và một võng người con gái khác cùng về theo thì điều này đau đớn cho mẹ vợ của con. Vậy xin quan lớn, miễn cho con, chứ không phải con chê , chê là không phải, là xúc phạm… nên con xin tạ cái ơn hải hà này.
Đó là nhân cách một quan đại thần, nhất phẩm triều đình muốn chọn người tài để gả con gái cho, mà con gái thì mới 18 tuổi, trong khi ông tân khoa đã 3 con rồi, có tài, để giúp “nâng khăn sửa túi” cho ông (Sắc) này, giúp ông nuôi con, dựng nghiệp. Tôi nói phụ thêm về điều này. Cụ Cao Xuân Dục gả con gái cho vị Hoàng giáp Tiến sĩ Đặng Văn Thuỵ (cụ Đặng Văn Thuỵ là thân phụ của hai phó bảng Đặng Văn Oánh, Đặng Văn Hướng), gả con gái cho phó bảng Hoàng Tăng Bí, thân sinh ông Hoàng Minh Giám; gả con gái cho phó bảng Lê Xuân Mai làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An…
Khi tôi tìm vào nhà cụ Hồ Tá Bang (người sáng lập trường Dục Thanh), nhiều người kể lại, Nguyễn Tất Thành ngày xưa còn trai trẻ mà đã để được trong trí nhớ mọi người đương thời những ấn tượng tốt đẹp, không dễ đâu. Chứ không phải lên đến lãnh tụ người ta mới quý. Người ta quý Bác Hồ đi cứu nước, cứu dân là bước sau này, còn trước hết, khi Bác còn là một cậu học trò đã có nhân cách học trò, làm thày giáo có đức độ người thày. Là cậu bé khi làm thơ đã có cái gì manh nha biểu hiện ở con người ấy, đứa bé ấy đã biểu hiện những đức tính đẹp, đức tính đẹp đó cũng biểu hiện những truyền thống nho gia trong gia đình, trong quê hương, trong thầy học vv… đã tác thành từ buổi ban đầu của những con người thời còn trẻ như Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm, nhất là Nguyễn Tất Thành.
Tôi “đi tìm” Bác Hồ là tìm ở những khía cạnh này, không phải “tìm” Bác Hồ trên con đường Mác Lê nin, cái đó là sau, đó là bước quan trọng nhưng là thứ hai. Cái cốt cách con người sau trở thành diện mạo tiêu biểu cho nên văn hoá dân tộc là chính cái ấy, là ở những khía cạnh này, trong gia đình, trong bạn bè của cha, của người thầy…tất cả giai đoạn ở Huế này rất quan trọng. Và chính điều ấy lại biểu hiện một khía cạnh nữa là sau khi ông Sắc trở về quê, chăm sóc mẹ vợ, thì có “trát” của Đô sát viện (như Ban tổ chức bây giờ, các quan được cử đi đâu là do Đô sát viên cử) mời Nguyễn Sinh Sắc vào làm quan ở Bộ Lễ. Vì mẹ vợ không có con trai, nuôi con rể ăn học, nay ở một mình, nên ông xin ở lại chăm sóc mẹ vợ. Ông Sắc đưa các con đi khắp nơi, các vùng quê có dấu ấn sâu đậm vừa xẩy ra ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những nơi thực dân Pháp tàn sát trong các cuộc khởi nghĩa Cần Vương, Văn Thân, Đông Du…Thế thì Bác Hồ hồi nhỏ được cụ Sắc đưa đi khắp vùng Nghệ Tĩnh, ra đến tận Quỳnh Đôi, đất gốc của họ Hồ.
Ông Khiêm kể chuyện như sau:
- Cha Bác ở xóm Du Đồng mấy tháng, gần dinh cụ Thượng, sau gọi là cụ Quận (tức quận công Hoàng Cao Khải, như ấp Thái Hà) và tôi có đến gặp cụ Lê Thước, hỏi thì cụ Thước kể:
- Hôm đến dinh Hoàng Cao Khải để ăn mừng khánh thành cái dinh thự của cụ Quận công, có mời các quan sở tại đầu tỉnh cho đến các quan huyện. Trên cái sân lớn, ngoài có tường hoa, đám trẻ con cứ nhìn qua khe tường thấy các quan trong sân toàn uống rượu tây, thì cái đám học trò, cái đám trẻ đó (như cụ Khiêm kể lại – trẻ nhưng toàn học trò chữ nho, nào là Phạm Gia Cần, Lê Thước, Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Khiêm), thấy các quan trong đó đọc thơ, bình thơ để mừng quan Quận công mới xây dựng xong dinh thự. Đặc biệt có một cái bể cạn rất lớn trong đó có núi non bộ, cây si tính đến trăm tuổi, có ba ông lão nho nhỏ. Các quan bình thơ trong sân, đám học trò đứng ngoài nói to một câu “Các quan làm thơ dở quá!”
Nghe thế, ông Hoàng Trọng Phu ra quát lũ trẻ, thì một số bỏ chạy (cụ Khiêm, cụ Thước, cụ Cần đều kể như thế), chú Thành chạy nhưng chậm thôi. Lúc đó cụ Hoàng Cao Khải mới ra, nói:
- Thôi, đừng doạ nạt các cháu, nhà mình đang có chuyện vui lớn, các cháu đến mà đuổi thì dân làng người ta cười. Các cháu nói gì thì nói, nhà mình có tiệc mà nạt các cháu không được. Rồi cụ nói tiếp: – Cháu nào khi nãy chê thơ của các quan thì bây giờ đọc cho các quan nghe một bài thơ, ông thưởng.
(Ông Hoàng Trọng Phu trẻ thì nạt, còn cụ Hoàng Cao Khải già thì mời các cháu vào) Đám trẻ độ chục đứa mới quay lại, Cụ Hoàng nói tiếp.
Cháu nào khi nãy chê thơ các quan, bây giờ vào đọc bài thơ, dù có dở ông cũng thưởng, vào đây.
—-
(Tác giả chú thích) Ấp Thái Hà lấy cái tên Hà Tĩnh đặt cho ấp ở Hà Nội. Ông Hoàng Cao Khải có xây dựng một dinh thự ở quê giống cái ấp ở Thái Hà ở Hà Nội.
Cụ Lê Thước đỗ giải nguyên Hán học khoa cuối cùng 1918, sau học Cao đẳng sư phạm là thầy học của lớp người như Tôn Quang Phiệt là bạn học cùng tuổi với Bác Hồ, sau cụ Thước về Viện Văn học.
Cụ Hoàng Cao Khải là tuần phủ Hưng Yên. Hoàng Trọng Phu là con Hoàng Cao Khải, lúc đó ở Tây mới về, cùng trường thuộc địa với Thân Trọng Huế, Lê Văn Miến, ba người này là ba con quan đại thần được chọn đi học trường thuộc địa ở bên Pháp, học xong thì Lê Văn Miến ở lại học thêm hội hoạ, còn Thâu Trọng Huế về. Sau này H.T.Phu là tổng đốc Hà Đông (Đại sứ quán Trung Quốc hiện nay là nhà của ông Hoàng Trọng Phu, còn trường Tuyên giáo bây giờ là ấp cụ Hoàng Cao Khải).
–
Các quan thấy đám trẻ thì cũng chạy ra. Nguyễn Tất Thành nhìn thấy ba ông phỗng ở trên núi non bộ, nói:
Thưa cụ, cháu đọc bài thơ ứng khẩu này, nếu có sai thì cụ đừng phạt cháu.
Cụ Quận nói: Cháu cứ đọc đi, ông không phạt cháu đâu
“Kìa ba ông lão bé con con”
(Mọi người cười, “ba ông lão” lại “bé con con” thế mới ngộ nghĩnh)
“Biết có tình gì với nước non”
(Các quan cũng chưa thấy gì cả, nghe xong hai câu thơ không ai nói với ai, tất cả đều im lặng)
“Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn ?”
Ông Hoàng Trọng Phu nói: – Thằng này hỗn, con ai đấy?
Cụ Hoàng Cao Khải mới hỏi: – Thế cháu con ai?
Nguyễn Tất Thành chưa kịp trả lời, thì Lê Thước nói:
Bẩm Cụ Quận, đây là con thầy Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc bên Ngệ An sang đây.
Cụ Hoàng Cao Khải đỗ cử nhân, còn cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ đại khoa cùng với cụ Nghè Ngô Đức Kế, cụ Khải mới nói: – “Hổ phụ sinh hổ tử”, rồi cụ chống gậy đi vào. Còn Hoàng Trọng Phu thì nói: Cái tay này nó lớn lên nó sẽ làm loạn (chuyện này cụ Khiêm kể cho tôi nghe năm 1950, sau ngày giải phóng miền Bắc, năm 1957 tôi đi gặp cụ Lê Thước, cụ Phạm Gia Cần để đối chiếu).
Khi có bài thơ trong tay rồi, tôi thấy trong bài đó có cái gì hơi hướng tứ thơ của cụ Tam Nguyên Yên Đổ. Khi đó tôi đang công tác ở Đại học Nhân dân, đem trao đổi với các thầy cô tôi nói cái này như thơ Nguyễn Khuyến. Thời bấy giờ người nghiên cứu thơ Nguyễn Khuyến nhiều để đi nói chuyện là nhà thơ Xuân Diệu. Tôi đến hỏi thì Xuân Diệu nói cụ Nguyễn Khuyến có một bài thơ “ba ông phỗng” nhưng hoàn toàn khác. Cụ Nguyễn Khuyến đỗ tam nguyên nhưng cụ bất hợp tác với Pháp. Cụ chỉ nhận làm quan Toản tu Quốc sứ quán rồi cáo quan về làng. Triều đình mời cụ ra làm Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên. Cụ từ chối. Nhưng sợ mang tiếng không hợp tác với Pháp nên cụ nhận làm “gia sư” cho gia đình cụ Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà. Cụ Hoàng Cao Khải cũng muốn mời được ông Tam nguyên về dạy học cho con cháu mình thì cũng sang.
—–
(Tác giả chú thích) Cụ Lê Thước nói cái gậy mà cụ Hoàng Cao Khải chống, hội chợ Pari có 3 cái thì toàn quyền Pasquier mua cái gậy tặng cho Hoàng Cao Khải sau khi dẹp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy Nguyễn Thiện Thuật, trên đầu con rắn ở cái gậy có gắn viên kim cương.
——
Cụ Nguyễn Khuyến ở trong nhà một thời gian thì cũng yên tâm, sau đó về cái đất Bình Lục (Hà Nam) của mình cũng đỡ bị chúng theo dõi. Bấy giờ cụ Hoàng Cao Khải muốn có một bài thơ tức cảnh hoặc tự sự của cụ Nguyễn Khuyến để làm kỷ niệm và cũng là cái sang được cụ Tam Nguyên tặng thơ.
“Ông đứng là chi đó hỡi ông
Trơ trơ như đá vững như đồng
Đêm ngày gìn giữ cho ai vậy
Non nước đầy vơi có biết không”
Cũng bốn câu, cũng ba ông phỗng và cái núi non bộ ngoài này với trong kia là một mẫu hình làm ra. Sau khi sưu tầm hai bài thơ đó, thì thấy đúng thơ là người, mà con người của thời đại nào ra thời đại ấy, có khác. Đây ta nói về những nhân cách. Cụ Tam Nguyên có cái nỗi đau buồn của cụ là mất nước, nhưng thế hệ của mình là bất lực “trơ trơ như đá vững như đồng”, nhìn cái thế lực thực dân lúc đó như cái trụ đá rất cao lớn, toàn đá tảng…sự tồn tại, sự bền vững xây trước dinh Hoàng Cao Khải. Còn Nguyễn Tất Thành thì đặt ra câu hỏi:
“Kìa ba ông lão bé con con
Biết có tình gì với nước non
Trương mắt làm chi ngồi mãi đó
Hỏi xem non nước mất hay còn ?”
Nó khác, nó có hùng khí: “Trương mắt làm chi ngồi mãi đó! Hỏi xem non nước mất hay còn?”
Tôi nói vui với các đồng chí lãnh đạo của ta, 65 tuổi là nên về đi thôi, anh sẽ bất lực trước các hiện thực, sự sôi động của thời đại, cái tuổi 70, 60 khi suy nghĩ mạnh thì huyết áp bốc lên có làm gì được nữa đâu, rồi ba cái thầy quân sư quạt mo nó nói dài dài thì vâng, cứ gật… Thôi tuổi 70 thì lực bất tòng tâm, trừ trường hợp đặc biệt rèn luyện lắm thì mới được như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm nay 90 tuổi mà vẫn thông minh đến thế, minh mẫn đến thế, cái kết luận trong buổi bế mạc hội nghị trung ương 11 của đồng chí Lê Khả Phiêu là trong thư của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Thư của đồng chí Nguyễn Đức Tâm như thế… thư của ba vị tướng như thế… thư của nhóm các ông tướng Chu Huy Mẫn, Nguyễn Quyết làm như thế thì ông Giáp viết rất chiến lược, rất sát. Thư của ông (Giáp) như thế này; tôi đọc gần như nguyên văn:
“Kính thưa Bộ Chính trị, Trung ương Đảng và các đồng chí cố vấn.
Tôi bị dị ứng thời tiết cho nên phải vào Nam (chữa dị ứng theo tôi tự hiểu hai nghĩa, một là dị ứng thời tiết bị rôm sảy, còn “dị ứng” nữa ngoài này nó nhiều chuyện bầy hầy; rồi người này người nọ chạy đến hỏi này khác rồi lợi dụng tiếng cụ nói nó sinh phiền, cho nên cụ vào Sài Gòn cụ ở). Nhưng thấy tình hình không bình thường, vô cùng nguy hiểm là sự chia rẽ của cấp cao Trung ương ta. Sinh thời, Hồ Chí Minh, Người luôn luôn nhắc một điều là phải đoàn kết, muốn đoàn kết thì phải phê bình tự phê bình thật mạnh. Và đứng trước nguy cơ tham nhũng như thế này, tình hình bên ngoài thế này mà mất đoàn kết, mỗi đồng chí có trách nhiệm không tự phê bình một cách kiên quyết, trong sáng, mà phê bình trên tình anh em đồng chí…
Tết vừa rồi, đồng chí Đỗ Mười có đến thăm tôi. Đồng chí Đỗ Mười có nói tình hình sức khoẻ, muốn nghỉ cố vấn. Tôi hoàn toàn nhất trí vì Đảng ta đã trưởng thành và các đồng chí lãnh đạo kế nghiệp đã trưởng thành không cần cố vấn, thì đồng chí Đỗ Mười lại nói có đọc ở Lênin một vấn đề là Đảng nên có một Ban kiểm soát bên cạnh Ban chấp hành trung ương do Đại hội bầu ra để giám sát. Tôi nói với đồng chí Đỗ Mười thế này: Đảng ta không cần bầu ra một Ban giám sát như vậy. Nếu như thế, Đảng sẽ có hai đầu thì nguy hiểm. Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội, như thế là rất sáng suốt.
Đó là vấn đề thứ nhất. Vấn đề thứ hai tôi xem các hoạt động vừa đây như là khuynh đảo của một cá nhân, hoạt động như là đảo chính trong Đảng, tôi đề nghị Trung ương phải kiểm điểm thật nghiêm khắc và làm rõ vấn đề này.
Xuống đoạn dưới viết: “Đại hội 9 này là Đại hội gì? Đề nghị Trung ương “Dân chủ” là trên hết, “trí tuệ” thứ hai, “đổi mới” thứ ba, “đoàn kết” thứ tư, bốn điểm…
Hôm nay thấy thông báo bế mạc hội nghị lấy bốn điểm này.
Không dân chủ thì làm sao mà đấu tranh vạch ra được cái lỗi này, có dân chủ thì mới đấu tranh chống tham nhũng, chỉnh đốn Đảng mới ra trò chứ, không dân chủ thì cũng không đưa trí tuệ vào được. Dân chủ, trí tuệ… muốn trí thì phải đưa người có học hành vào, thời buổi internet mà không biết tiếng Anh thì làm sao được. Ai đời người lãnh đạo vào phòng máy vi tính lại hỏi: “làm gì mà nhiều vô tuyến thế này”. Đau khổ cho người lãnh đạo thế chứ. Như thế thì làm sao tiếp nhận tất cả trí tuệ ở internet vào được? Mà cách đây mấy năm Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhắc Đảng ta phải lo ngay việc giáo dục đào tạo tin học. Năm em đi thi tin học quốc tế ở Thổ Nhĩ Kỳ về mang lại vinh quang cho đất nước, nước mình đi vào tin học muộn màng như vậy mà các em nó giỏi như thế thì không ai nói đến. Bộ giáo dục không nói, Tổng bí thư không nói, bóng đá thì rùm beng lên, bóng đá vinh quang, đón tiếp đề cao… nhưng tại sao tin học các cháu nó đem vinh quang về như thế mà…gọi điện thoại cho Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, cho cái xe đón 5 cháu… Thời nay không có trí tuệ thì làm gì được. Bây giờ phải biết nhiều sinh ngữ tiếp nhận được cái bên ngoài, họ có nói bằng tiếng Việt đâu mà nghe? Vậy là Dân chủ, trí tuệ, Đổi mới, Đoàn kết…90 tuổi mà sáng suốt như thế. Nay cụ ra đây rồi, vì đại hội sắp khai mạc, ra rồi nhưng cụ nằm ở viện, ở nhà thì người ta đến, đến thì sinh chuyện. Thế mà “người ta” đã tung đồng chi Võ Nguyên Giáp đã tổ chức một cuộc họp Quân uỷ Trung ương phê phán cái này cái khác. Không! Ông có còn làm việc gì ở Quân uỷ Trung ương đâu! Quân uỷ trung ương có phải của Ông (Giáp) như trước nữa đâu, nhưng họ lấy đó làm cái cớ, để làm cái bảo chứng, cái độ tin cậy. Ông đã bị người ta dựng ra bao nhiêu chuyện rồi, ở Đại hội VII người ta dựng ra cả một bộ hồ sơ mà đồng chí Nguyễn Đức Tâm đọc trên 30 trang “đồng chí Giáp hoạt động lật đổ…
Như vậy, là thấy chuyện đấu tranh trong Đảng ta mấy chục năm qua là như vậy. Bác Hồ chúng ta đi trên con đường từ thuỷ chung là Nước được độc lập. Dân thì ai cũng có cơm ăn áo mặc, được no ấm, còn tất cả mọi thứ chỉ là phương tiện, chứ còn mục đích của Bác Hồ là nước độc lập, Dân thì hạnh phúc ấm no, cho nên trong Di chúc Bác nói mong muốn suốt đời tôi ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, như vậy là suốt đời không có gì quý hơn Độc lập tự do. Nước độc lập mà Dân không có cơm ăn áo mặc thì Độc lập ấy cũng là vô nghĩa.
…(Bị mất một đoạn ngắn) Khi Cụ Hồ về tới Pác-Bó thì nói với đồng chí Nguyễn Lương Bằng là tìm cho báo Thanh Nghị. Thế mà sau Đại hội III có người nói “có triết học Mác-Lê-Nin” không cần bộ tư pháp, bỏ Bộ Tư pháp. Mới rồi khôi phục lại Bộ Tư pháp đó chứ. Cái gì Cụ Hồ đề ra thì bị xoá gần hết. Nhà trí thức lớn không bao giờ kêu ca gì. Còn có người nói ông Nguyễn Khắc Viện là tay sai của Pháp về, ai như ông Viện? Hôm xét giải thưởng cho ông Trần Đức Thảo, cả hội Khoa học không ai đọc được cái gì của ông Thảo vì ông viết bằng tiếng Pháp. Bấy giờ giáo sư Phan Ngọc đọc bài giải trình về Thầy Đào Duy Anh, Giáo sư Trần Đức Thảo. Khi đọc xong, cả hội trường đứng dậy, bấy giờ nhiều người mới hiểu ông Trần Đức Thảo lớn đến thế. Nhưng bài ông Ngọc có câu làm cho một số nhà lãnh đạo bực mình “Việc Nhà nước trao giải thưởng Hồ Chí Minh cho Giáo sư Trần Đức Thảo, nó cũng làm sang cho cái giải thưởng này, nếu còn người đứng lên nhận thì cái giải thưởng ấy thêm giá trị, nhưng tôi thấy một nỗi rằng: có giải thưởng vậy ai là người nhận đây? Không có ai cả, vì ông đã nằm dưới mồ rồi. “Nó gần giống như thế kỷ 15, khi đức Lê Thánh Tông khôi phục cho Nguyễn Trãi, làm cái lễ trở về Nhị Khê gần Quán Gánh để minh oan cho Nguyễn Trãi trước dân làng, khi ông Thượng thư Bộ Lễ đọc xong chiếu giải oan thì nói thêm một câu rằng: minh oan được cho họ Nguyễn, nỗi oan khốc này đối với quan Hành khiển đã một thời “Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần” bây giờ quay mặt lại thì không còn ai để nhận cái chiếu vua giải oan này nữa, vì tru di tam tộc mất rồi. Mong sao lịch sử đừng bao giờ lặp lại! Nỗi đau trong lịch sử nó ghê gớm thế. Suýt nữa thì ta lại phạm lại lần nữa đối với ông Tổng Tư lệnh, ai lại nói con nuôi mật thám mà lại chui vào làm Tổng Tư lệnh của một quân đội dẹp xong mấy đế quốc siêu cường. Trước đó đã chuẩn bị một cái đảo để đi đầy! Việc đó suýt diễn ra trong thập kỷ 60. May sao, lúc đó Cụ Hồ còn sống; cụ nói: “Tôi còn sống, không ai thay được Tổng Tư Lệnh Võ Nguyên Giáp! Họ gán cho ông Giáp là “trùm xét lại”. Việc động trời này nhiều người đã biết.
Đọc 10 nỗi đau của Bác Hồ, trong đó đồng chí Hoàng Tùng viết về cải cách ruộng đất bắn bà Nguyễn Thị Năm như thể bắn vào quan điểm Cụ Hồ, vì Cụ Hồ không chủ trương cải cách ruộng đất bằng lối đó. Mỗi nước có cái đặc thù thì đánh như thế nào? chứ không thể đánh như Tàu được. Vì khi cách mạng mới thành công, cả Trung đoàn ăn cơm trong nhà bà Nguyễn Thị Năm. Con trai bà là chỉ huy Trung đoàn. Thế mà ông cán bộ của ta đi Trung Quốc mang “tư tưởng Mao” về, chủ trương bắn ngay bà Nguyễn Thị Năm. Bác Hồ nói: Cách mạng này nó bạc bẽo quá, gia đình này đã bỏ thóc gạo nuôi hàng Trung đoàn từ thời cách mạng còn hàn vi. Nay cách mạng đã lớn mạnh lại bắn người ta thì bạc bẽo quá. Bát cơm siếu mẫu ở đâu? Sau đó còn nghe cố vấn nước bạn lập ra một danh sách 200 cán bộ cấp cao trong quân đội gồm phần lớn trí thức tiểu tư sản trong đó có hàng tướng lĩnh để chỉnh đốn tổ chức.
Bác Hồ bảo: phải đốt ngay. Đem xử trí chừng này cán bộ thì còn đâu để lên Điện Biên bây giờ. Lúc đó CCRD như thế, đưa ra xử chừng ấy cán bộ trong quân đội thì trời đất nào? Nói như thế để ta thấy nỗi đau của Bác Hồ. Ta phải thấy trong cái bể sản xuất nhỏ, trong một nước chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì nó dễ cực đoan lắm. Không lấy cái văn hoá dân tộc, tinh thần đân tộc làm nhãn quan mà lấy giai cấp, lấy cái thù hận làm nhãn quan để đánh đổ người này, người kia thì nguy. Ông Hoàng Tùng viết, kể lại có lúc Bác Hồ khóc vì lúc bấy giờ ông phụ trách tuyên huấn, phụ trách báo Nhân dân nên rất gần Bác Hồ, ông H.T kể lại Bác Hồ hỏi sao CCRD lại bắn vào người đàn bà? Người đàn bà Việt Nam khác với đàn bà Trung Quốc. Người đàn bà Việt Nam thì cứu nước như Bà Trưng, Bà Triệu, nuôi chồng nuôi con để tham gia kháng chiến cứu nước. Có người lại nói: Hổ cái hay hổ đực cũng là hổ ăn người. Cho nông dân đấu tố để vùng lên, nếu không thì nông dân hàm ơn địa chủ suốt đời! Cho nên nghiên cứu về Bác Hồ thì thấy Bác Hồ có nỗi cô đơn về quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Trước mặt mình đang có kẻ thù xâm lược như thế này. Độc lập dân tộc là cái bất biến, cho nên phải ứng biến. Kẻ thù chính bây giờ là đế quốc xâm lược cho nên có những vấn đề phải lùi một chút. Trong Di chúc Bác có nói khi kết thúc chiến tranh việc đầu tiên là phải chỉnh đốn lại Đảng chứ không phải để đến 30 năm mới làm. Trước khi viết Di chúc, Bác xuống Côn Sơn, đọc bia Nguyễn Trãi, Người nghiêng đầu vào bia, ôm lấy cái bia Nguyễn Trãi. Điều đó đủ nói lên Bác với nỗi đau Nguyễn Trãi! Các nhà nghiên cứu giỏi, bắt cái thần vào ảnh này, tại sao ngày rằm tháng 1 năm 1965 Bác Hồ đọc bia Nguyễn Trãi vì Nguyễn Trãi để lại nỗi oan 500 năm trước, coi chừng khi kết thúc chiến tranh này đừng để lặp lại nỗi oan này! Trong chiến tranh thì cái mâu thuẫn trong nội bộ dân tộc phải lùi lại. Rồi ngày 10/5/1956, Bác bắt đầu viết Di chúc, đầu năm thì ôm lấy bia Nguyễn Trãi ở Côn Sơn rồi lên động Thanh Hư để nhận cảm cái khí thiêng của dân tộc. Cái nguyên khí của đất trời con người ấy đã cảm thấy cái chuyển động trong cơ thể không còn có thể sống lâu được nữa. Rồi người sang Trung Quốc, đúng ngày 19/5/1965 Bác về quê hương Khổng Tử giữa lúc Mao đang phê Lâm, phê Khổng, giữa lúc Trung Quốc đang làm đại cách mạng văn hoá, đập cả trường Đại học Thanh Hoa. Vậy mà, Bác Hồ cùng với cụ Đổng Tất Vũ, phó chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (người ngoài Đảng như cụ Phan Kế Toại của ta) đi lên quê hương Khổng Tử, nằm ngủ tại đây một đêm, thắp hương cho Khổng Tử. Các nhà lý luận không giải thích xem tại sao cụ không sang Liên Xô, sang Đức để thắp hương mộ cụ Mác mà lại đến thắp hương cho Khổng Tử? Giữa lúc Trung Quốc đang đánh đổ Khổng Tử. Cái triết học phương Đông, đặc biệt là Việt Nam nó thâm thúy thế đấy.
Cụ Hồ của chúng ta là vậy không trích đoạn này đoạn khác của các triết gia mà nói dễ hiểu, cái tầng ngữ nghĩa thì luận nó ra. Cụ về thì có làm bài thơ để thắp hương cho ông Khổng Tử 1965. Di chúc Bác trích một mẫu đăng báo 1969 khi Người ra đi, thì đến năm 1989 tức là 20 năm sau thấy không ai đả động gì đến Di chúc của Bác cả. Đồng chí Vũ Kỳ mới chép ra trong hồi ký: “Bác Hồ viết Di chúc”. Đặc biệt là Bác dặn vấn đề chỉnh đốn Đảng, miễn thuế cho nông dân và vấn đề hoả táng cho Bác để giải thoát cho Người về với trời đất chứ giữ lại trong lăng là ngoài ý nghĩ của Bác. Việt Nam ta không để lăng tẩm lại đế đô, vua băng hà thì đưa về quê như 8 vua Lý thì về Bắc Ninh, các vua Lê thì về Lam Kinh, vua Trần về Tức Mạc và Đông Bắc Tổ Quốc. Bác Hồ không dặn để lại ở Ba Đình. Bác khai sinh VNDCCH tại Ba Đình, Bác hoá thân cũng đúng vào cái ngày ấy nhưng Di chúc thì hoả táng, sau này có nhiều điện thì điện táng để giữ vệ sinh, tiết kiệm đất cho nông dân. Còn tro cốt phân chia ra làm 3 cho Bắc, Trung, Nam bà con để một nơi nào đó để tiện việc trồng cây lưu niệm, Bác đã xem mộ cho Bác rồi, tức là Đá Chông, dưới chân núi Tản Viên. Núi Tản Viên là một trong 4 ông thánh “tứ bất tử”. Bây giờ có ông nào đó lại chủ trương xây một cái đền thờ bằng đá rất đẹp trên đó để thờ Bác. Lập đền thờ Bác trên núi Tản Viên là sai ý Bác. Dân sẽ có ý kiến là Cụ Hồ không khiêm tốn làm đền trên núi Cha, núi Mẹ là núi Mẫu ở bến này. Chính nơi Bác đã tìm là cái hang ở Đá Chông, dưới chân núi Đức Tản Viên. Thời chiến tranh Bác làm việc ở đây, Bác còn dặn là lấy thép không rỉ để chống rết, chống rắn nó vào, sau khi hoả táng thì lấy một phần tro cốt về đây. Chỗ này ta có thể để một hướng cho người đến viếng Bác thì thắp hương rồi trồng cây lưu niệm. Thế là Di chúc để lại cũng không được thực hiện. Thế gian có chuyện cha để lại Di chúc cho các con thì các con không những không thực hiện mà đánh nhau để chia của…Thế mà hôm nay, Di chúc dặn phải “giữ đoàn kết như giữ gìn con ngươi của mắt người” thì học trò – còn gọi là học trò xuất sắc cả, mà phe cánh cả. Nguyện vọng của Bác là Việt Nam Hoà bình như vậy. Hoà bình là muôn đời. Cái trong Bình Ngô Đại cáo như các thầy, các cô đã giảng bài như vậy. Nước Hoà bình, Độc lập, Thống nhất Độc lập đi đôi với dân chủ và giàu mạnh chứ không dặn là XHCN. Xã hội chủ nghĩa là cái mơ ước. Hồi đó có đồng chí trong Thường vụ Trung ương muốn Bác sửa: Việt Nam Hoà bình, Thống nhất Độc Lập, Dân chủ, Phú cường, Bác bảo phú cường là từ Hán Việt. Nên nói giàu mạnh, tức là dân giàu nước mạnh.
Năm 1947, Bác Hồ vào Thanh Hoá có gặp cụ Lê Thước, GS. Cao Xuân Huy, G S. Nguyễn Mạnh Tường, GS. Đào Duy Anh lúc đó tản cư theo trường về Thanh Hoá. Bác vào Thanh Hoá ngày 20/2/1947, phê bình Tỉnh uỷ Thanh Hoá mất đoàn kết, cách mạng chưa gì đã tranh công tranh phần. Họp Tỉnh uỷ, Uỷ ban xong thì tiếp đó Bác gặp các trí thức. Cụ Lê Thước thay mặt anh em đứng dậy nói: Thưa Bác…Bác Hồ nói ngay: Chúng ta đồng lứa, Bác để cho thanh niên gọi. Giáo sư Lê Thước đồng tuổi, lại cùng quê với Bác, bèn nói: Thưa cụ, anh em chúng tôi đây xin Cụ giải thích cho một điều: Chế độ CHDC, XHCN, Dân chủ mới, vậy chế độ gọi là gì cho đúng?
Bác cười và nói: Xin các Cụ chúng ta đừng lệ thuộc gì vào mấy cái danh từ. Ta hãy coi đây là nước Dân chủ mới. Vì bên Tây đã có Dân chủ từ năm 1789 rồi, 1776 bên Mỹ, bên Anh còn trước nữa nhưng đến bây giờ chưa thực sự có một xã hội dân chủ có công bằng. Cụ thể là nước ta bây giờ là nước Dân chủ kiểu mới, tôi nói thí dụ như Thanh Hoá đây là đất văn vật mà hiện nay ở miền xuôi 80 đến 85 phần trăm, miền núi đến 95 phần trăm dân mù chữ. Đấy, cách mạng ta tiếp thu một cái gia tài kiệt quệ sau 80 năm bị Pháp đô hộ thế thì bây giờ chúng ta làm sao cho ai cũng biết đọc, biết viết và trung học, đại học trên cái nền của toàn dân biết chữ. Còn nhà bị đói nghèo thì xoá được đói nghèo, để có ăn, nhà có ăn rồi thì đến no đủ, nhà no đủ rồi thì đến giàu có, nhà giàu có rồi giàu nữa. Còn nói XHCN hay CSCN ta chưa quan tâm. Nội dung của chế độ ta phấn đấu bằng được như trên. Bây giờ ta lại nói 10,15 năm nữa bằng Liên Xô, bằng Mỹ thì sao bằng được. Ảo tưởng như thế, hão huyền như thế không thể thực hiện được thì đổ vỡ chứ! Khi đuổi giặc xong, hy sinh hàng triệu người mà cuối cùng không có cái bát ăn, trong khi đó một số nước trong khu vực không đánh giặc như ta mà có độc lập, có người suy ra cái này. Họ quên một điều rằng nếu như không có người đi hàng đầu trong việc chống đế quốc thực dân, làm tà cái ý chí xâm lược, làm bá chủ thế giới của nó. Muốn có bình đẳng cho các dân tộc thì có dân tộc phải hy sinh. Hồi chiến tranh, ở miền Nam cứ đến chiều thì sợ nhất cái dàn pháo Tân Tây Lan, tức là cấp tập đại pháo của Tân Tây Lan, Thái Lan, Nam Triều Tiên. Tất cả các nước hùa vào với Mỹ. Các nước đó được Mỹ dùng làm hậu cần tại chỗ, đợt đầu thì nó đưa từ bên Mỹ (Honolulu) sang, sau này tất cả sản xuất phục vụ chiến tranh là các nước khu vực này. Năm rồi tôi có bài viết Bác Hồ có 7 thư gửi Tổng thống Truman để công nhận cho độc lập của nước ta, để tránh một cuộc chiến tranh, thế mà có người không hiểu gì cả lại nói Cụ Hồ thích được dân tộc anh hùng, để cho dân mình khổ, nói vậy là không phải. Khi Cụ ở Luân Đôn, Cụ ra nghĩa trang Hây – ghết đặt một bó hoa lên mộ cụ Mác, chiêm ngưỡng một thiên tài có một chủ nghĩa cứu cánh để tham khảo, giải quyết vấn đề độc lập dân tộc của nước mình, chứ không phải là quyết định. Thế cho nên những năm Cụ ở Quốc Tế Cộng sản rất cô đơn, đưa ra mấy cái luận điểm về giải phóng dân tộc thì bị cô lập. Khi đầu định giao về Phương Đông từ Mạc Tư Khoa mà sang Trung Quốc chỉ được cấp kinh phí đi đường một chuyến sang Quảng Châu năm 1924, đấy là lần duy nhất. Còn chỉ tự nuôi lấy mình, nuôi lấy đội ngũ cán bộ cách mạng. Cho đến 1927 về lại Mạc Tư Khoa, năm 1928 lại đẩy đi khỏi Mạc Tư Khoa không muốn để Nguyễn Ái Quốc ở lại Mạc Tư Khoa, sợ quan điểm của Nguyễn Ái Quốc sẽ ảnh hưởng đến đại biểu của các dân tộc dự đại hội OTC. Về Thái Lan xây dựng cơ sở cách mạng trong Việt Kiều rồi sang Trung Quốc để hợp nhất 3 đảng cộng sản trong nước thành Đảng cộng sản Việt Nam. Bác chủ trương đoàn kết các giai tầng xã hội, không phân biệt giai cấp. Đó là Đảng Bác Hồ sáng lập ngày 3/2/1930. Nhưng 11/4, Đệ tam quốc tế phái ngay đồng chí Trần Phú về nước, mang theo một bản phác thảo đề cương do ông Míp, Viện trưởng Viện các vấn đề dân tộc của quốc tế cộng sản bằng tiếng Nga để đồng chí Trần Phú bổ sung thêm phần khảo sát phong trào trong nước viết bằng văn bản gọi là luận cương tháng 10 của Trần Phú, bỏ các văn kiện của Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng như: Chính cương vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt, tên mà Bác Hồ đặt ra lúc thành lập Đảng! Bỏ Bí thư đầu tiên là Trịnh Đình Cửu, còn gọi là Cửu kính trắng, một trí thức ở Hà Nội. Vợ ông là bà Lệ, một lão thành cách mạng hiện nay hơn 95 tuổi, đang sống trong một ngôi nhà ở Hồ Tây. Khi Đảng của Bác Hồ được thành lập bị bỏ, tháng 10 họp không có Nguyễn Ái Quốc, đặt lại tên Đảng là Đảng cộng sản Đông Dương, tất cả mọi người phải đi vô sản hoá. Trong dự thảo Luận cương của đồng chí Trần Phú (chưa được Hội nghị này thông qua) các nhà sĩ phu yêu nước thì gọi là bọn Huỳnh Thúc Kháng, những trí thức yêu nước thì gọi là bọn Nguyễn An Ninh…Tôi không dám nói bịa trước anh linh của một nhà ái quốc, các ý trên đã ghi trong Luận cương của đồng chí Trần Phú. Đó là tả khuynh ấu trĩ của một thời sai lầm về quan điểm như vậy. Chúng ta nhìn rõ cái sai, nhưng chúng ta vẫn kính ái đồng chí Trần Phú, một nhà yêu nước của dân tộc ta. Với Bác Hồ thì ngược lại, năm 1945 Bác ôm lấy cụ Huỳnh Thúc Kháng mới từ Quảng Nam ra và nói: Cụ ra đây là “an dân lạc quốc”. Ta lục lại lịch sử như thế để mà thấy cái gì cứ rập khuôn theo nước ngoài là chết, không độc lập là chết, xa rời dân tộc là thất bại, chứ ta không biệt phái. Đây ta không phải biệt phái mà ta nói thế, mà nói cái chỗ anh xa rời dân tộc… Cho đến tháng 8 năm 1935 Đại hội thứ nhất tại Ma Cao, đồng chí Hà huy Tập viết một văn bản đề nghị Đệ tam Quốc Tế thi hành kỷ luật đồng chi Nguyễn Ái Quốc.
Bác Hồ suốt đời chỉ muốn cho dân tộc độc lập, nhân dân no ấm. Khi giành được độc lập rồi thì Bác chỉ mơ ước làm sao cho đất nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Và khi chết rồi (Bác) vẫn để câu này ở trong Di chúc. Nếu đi theo con đường Bác Hồ thì lấy từ cái này, ta đừng vội dăm ba năm, năm mười năm để vượt ai, không nên! Mà làm cho dân nghèo có…ăn rồi no đủ, no đủ rồi giàu có, giàu có rồi giàu nữa…cứ thế mà làm . Mọi người đều trong sạch, dân no đến đâu mình no đến đấy. Bây giờ một cái nhà của cơ quan huyện uỷ mà 700 triệu thì để làm bao nhiêu trường học.
Hôm nay nói với các thầy các cô thì tin rằng Đại hội 9 sẽ mở ra mới hơn, dân chủ trong Đảng, nó đã chỉ ra những con người cơ hội chui vào Đảng khuynh đảo một thời, làm cho Đảng ta lung lạc đi chệch hướng. Từ thời Bác Hồ thành lập Đảng, cũng như bao lớp người đi tìm con đường độc lập cho dân tộc, no ấm cho nhân dân, nước phải độc lập , dân phải no ấm, no ấm rồi thì được học, học ít rồi học nhiều nữa, cả dân tộc đều trí tuệ. Đã có nền văn hoá rồi thì dân tộc phải được học những vấn đề của thời đại. Đến Đại hội 9 này mới thấy, còn các Đại hội trước chưa thấy, bế tắc. Lần đầu tiên dân ta được tham gia ý kiến, dù là thực hiện hay không thực hiện nhưng trên đài, trên báo có đưa ý kiến của dân, của người này người khác, tuy chưa dám đưa hết.
Bên cạnh phòng họp (Đại hội) có phòng tập hợp thư từ tố cáo của đảng viên, cán bộ, nhân viên. Có đồng chí nhận thư tố cáo ôm một ôm không hết. Bây giờ các đồng chí làm chắc chắn là phiên bản ra ngay, của ông nào giao cho ông ấy, còn bản gốc thì lưu lại. Sai đúng thế nào chưa biết, ông này ông nọ có từng cái thư tố cáo thì nhận lấy. Một trăm ông uỷ viên trung ương là được phát cả, còn có phát cho đại biểu Đại hội thì không biết. Trong những thư đó thì chỉ có mấy ông không có tố cáo, có cả danh sách gửi tiền nước ngoài, sợ quá! Còn làm ăn thì phải có nhà một tầng, hai ba tầng khang trang, bằng đồng tiền lao động, bằng trí tuệ làm ra nó khác, bây giờ cứ ăn chặn cái này, ăn chặn cái kia…
Hôm họp Trung ương; một đồng chí cố vấn đứng dậy, bước ra nói: Tôi cũng không ngờ cuộc đời hoạt động đến hôm nay nó lại xảy ra đến mức thảm hại như thế này…(tức là người ta đấu cho). Một trong ba ông cố vấn than vãn như thế. Anh nhận ra thảm hại thì bây giờ đã hơn 80 tuổi rồi. Lời nói tự nó vô nghĩa, nhưng ít ra thì anh cũng thấy, anh tưởng (anh) có quyền, có lực thì có vinh quang…không có! Đó là cái nhục đó. Cái vinh và nhục, nó nhục ngay trên cai “ghế” của vinh; không phải trên cái ghế cao thì nó vinh đâu. Tuỳ ở anh cống hiến cho nhân dân, cho đất nước…To mấy thì to, anh đừng tưởng ngồi cao bao nhiêu thì vinh bấy nhiêu…đâu phải? Anh tưởng (anh) là tổng bí thư, là uỷ viên bộ chính trị là ghê gớm lắm…? Vừa bước ra khỏi cái ghế là cái nhục nó đổ xuống đầu anh ngay. Một người như nhạc sĩ Văn Cao, khi nằm xuống, hàng nghìn vong hoa và trướng, nhân dân cả nước khóc ông, vĩnh biệt ông, bởi lẽ không một người nào lại không hơn một lần đứng nghiêm chào cờ Tổ quốc, hát quốc ca! Biết bao thế hệ hát những ca khúc của Văn Cao: Thiên thai, Suối mơ, Đàn chim Việt; Làng tôi; Sông Lô; Thăng Long; Hành khúc tiến về Hà Nội; ca ngợi Hồ Chủ Tịch…Trong dòng người viếng Ông, đưa Ông về nơi an nghỉ đời đời, có đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đến người đạp xích lô, người quét rác đường phố Thủ đô Hà Nội. Mộ ông ở Mai Dịch những ngày sau rượu trắng người ta để trên mộ ông.
Vậy “cái quan định luận” nằm xuống thì cái mồ anh thế nào?
Trịnh Công Sơn không có chức tước gì cả, nằm xuống…một nghìn năm trăm vòng hoa trắng (ông không có vợ) cái đó làm ta suy nghĩ chứ. Đến khi bà Khánh Ly, một ca sĩ, vừa khóc vừa nói qua sóng đài BBC:
Ông Trịnh Công Sơn là nửa cuộc đời tôi. Tôi là một ca sĩ không tên tuổi nhưng nhờ nhạc Trịnh Công Sơn mà cả Sài Gòn biết đến tôi và sau này bao nhiêu người biết đến tôi là Khánh Ly.
Trịnh Công Sơn không đi với tôi, người ta cứ tưởng tôi là người yêu, có thể là vợ, nhưng không! Ông Trịnh Công Sơn không của riêng ai cả. Ông là người của quê hương, sinh ra ở quê hương, làm nhạc cho quê hương, hát cho quê hương, và khi đất nước có biến cố người ta nghĩ Trịnh Công Sơn sẽ đi với tôi, nhưng không, Trịnh Công Sơn người của quê hương và ở với quê hương. Có người lầm tưởng ông theo cộng sản sau năm 75. Không, ông không theo ai, ông theo dân tộc, theo quê hương. Vì vậy, khi ông sang Pháp, ông không dám đi đâu cả, ông ở trong một quán Việt Nam ở Pari, vì có kẻ muốn giết ông, coi ông là phản bội. Nhưng tôi biết Trịnh Công Sơn là người của quê hương, không bao giờ ông sang một nước khác nói là quê hương thứ hai của mình. Hôm nay tôi khóc ông là vì nếu không có ông thì cũng không có tôi. Nhưng mà người như tôi cũng không lôi kéo được ông đi. Đến khi ông sang thăm nước Pháp, hai người ngồi với nhau, uống với nhau ly cà phê trong quán Việt Nam, hai người cùng khóc nhớ lại những đêm mưa Sài Gòn, chiến tranh trùm khắp quê hương “hát cho đồng bào nghe”, “dậy mà đi đồng bào ơi”.
Và hôm nay ông nằm xuống trên mảnh đất quê hương, đó là Trịnh Công Sơn của quê hương, ông không có riêng tư gì hết. Một nghệ sĩ, chỉ đi hát mà để niềm thương tiếc trong lòng nhiều người. Nhạc sĩ Trần Long Ẩn đọc điếu văn trước mộ Trịnh Công Sơn.
Nhắc lại 1.500 vòng hoa trắng, người đi tiễn biệt Trịnh Công Sơn toàn đi bằng xe gắn máy, nườm nượp suốt từ thành phố đến nghĩa trang và rất đặc biệt trong đám tang này có Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiễn đưa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Tôi thấm thía một bài học: “Chức tước nó làm lợi ích cho nhân dân người ta quý. Làm người thày thuốc chữa được bệnh cho nhân dân đó là hạnh phúc. Người thầy giáo truyền kiến thức, học vấn cho học trò, người cán bộ hoạt động trên địa hạt công tác của mình…làm được việc có ích, nhà văn viết những trang sách không xu thời, không bóp méo sự thật, không dây bẩn vào tâm hồn người đọc. Những trang sách đó người đời ghi nhận.
Lời cảm ơn của nhà trường:
Thưa nhà văn Sơn Tùng.
Hôm nay là buổi học cuối cùng của khoá 40 lớp “Đào tạo cán bộ quản lý ngành giáo dục” và là buổi sinh hoạt cuối cùng khoá học trên hội trường.
Cũng như người đạo diễn của một vở kịch, màn cuối cùng trước khi màn khép lại bao giờ cũng là màn xúc động nhất, hay nhất và gây ấn tượng.
Hôm nay, để có món quà chia tay các đồng chí trước khi ra về, nhà văn Sơn Tùng, chuyên gia nghiêm cứu về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, được mệnh danh “Nhà Hồ Chí Minh Học” đến nói chuyện với chúng ta về “Chân Dung Một Người” mà tên tuổi của Người gắn liền với tinh hoa và khí phách dân tộc. Sự nghiệp của người gắn liền với quá khứ đau thương và lịch sử oai hùng của dân tộc Việt Nam. Đó là Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu, và thực tế ý tưởng của tôi được nhà văn đáp lại bằng những mẩu chuyện của nhà văn hôm nay, tôi xin đưa ra một suy nghĩ:
Đã đến lúc sự thật phải trả về cho Sự Thật, Lịch Sử trả về cho Lịch Sử với giá trị nguyên bản đích thực của nó, dẫu có biết rằng Sự Thật nói ra có sù sì…nhưng vẫn có giá trị hơn rất nhiều so với lời nói nhận định sai lạc, giả dối, giá lạnh, không có hồn, nhưng sự thật đó quang minh chính đại phù hợp lý tưởng con người và đặc biệt Sự Thật do phù hợp với Lương Tâm của chúng ta.
Giờ chia tay với nhà văn SơnTùng đã đến , xin thay mặt anh em thành tâm chúc nhà văn và gia đình mạnh khoẻ, hạnh phúc, sống thanh thản với một cuộc sống vật chất còn nghèo khó.
Mong nhà văn ghi nhận cho một điều, đối với anh em chúng tôi những giá trị tinh thần mà nhà văn đã đem đến cho chúng tôi trong khóa học này luôn khắc sâu trong tâm trí chúng tôi.
Trước khi ra về, một lần nữa xin cảm ơn.
(Thời điểm Đại hội IX sắp khai mạc)
Nói chuyện với đồng chí đại tá Cao Nham:
1. Đầu năm 2001 tôi có dịp gặp và nói chuyện với Đại tá CCB Cao Nham tại Nam Đồng. Trong câu chuyện có một chi tiết tôi không thể quyên, theo lời kể của đ/c Cao Nham về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968, ông Lê Duẩn nói với Bác Hồ: Đề nghị Bác để tôi đánh trận này nếu không thắng tôi xin từ chức Tổng bí thư nhưng với điều kiện Bác phải cách chức Võ Nguyên Giáp (? Không nói lý do).
Vào trận đánh kết quả không như ý ông Duẩn. Đến đợt 2 ông Duẩn lại nói với Bác cũng với đề nghị trên, kết quả cũng không đạt như ý ông. Tiếp đến đợt 3, một lần nữa ông Duẩn lại nhắc lại đề nghị trên, nhưng kết quả cũng không hơn gì các đợt trước.
Vậy là cả 3 đợt của Tổng tiến công và Nổi dậy như ông Duẩn chủ trương không đạt theo ý định của ông, đương nhiên là ông phải “từ chức” như ông tự xác định với Bác chứ, “quá tam” mà, nhưng không thấy ông tỏ thái độ nào cả (trong câu chuyện của đồng chí Cao Nham).
Tuy nhiên (có thể theo tôi hiểu) Bác Hồ cũng không muốn có sự xáo trộn nhân sự xảy ra khi sự nghệp giải phóng miền Nam chưa hoàn thành nên Bác bản chú cứ làm Tổng bí thư vì chú có uy tín với đồng bào miền Nam. Còn chú Giáp giỏi quân sự thì cứ để chú ấy làm Bộ trưởng Quốc phòng.
2. Về chủ trương Tổng tiến công và nổi dậy, Bác Hồ và ông Giáp không tán thành, nhưng thiểu số phải phục tùng, phải chấp hành, nhưng vì lợi ích của cách mạng không để tổn thất cho lực lượng ta nên Bác đặt vấn đề hỏi ông Giáp: – Có cách nào làm giảm nhẹ thiệt hại? Ông Giáp nói:- Chỉ còn cách đánh các căn cứ gần giới tuyến để kéo bớt lực lượng địch ra ngoài này.
Vì thế ta mới thấy có các trận đánh ác liệt dọc đường 9: Côn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh, A Sẩu, A Lưới…Địch phải kéo ra 4 sư đoàn đối phó ở ngoài này, và tổng thống Giôn xơn đã có một câu tuyên bố phải tử thủ với Khe Sanh, chính vào lúc đó.
3. Vậy căn cứ vào đâu mà ông Duẩn dám đề nghị với Bác sự tự khẳng định: Nếu không thắng thì (tôi) xin từ chức?
Câu hỏi này có thể được giải đáp với mẩu chuyện của ông Mười Hương như sau:
Năm 1968, khi tôi còn công tác ở K.68 (Bộ CA) (tôi về Bộ CA tháng 8/1966, sau khi tốt nghiệp Đại học ngoại giao). Ông Mười Hương là Cục trưởng (thay ông Nguyễn Thế Tùng về hưu). Lúc đó cơ quan còn đang ở Quan Nhân, sơ tán cách Hà Nội 30Km, ông Mười Hương nói chuyện với cán bộ P.5 (K.68) có tổ công tác của tôi, ông nói: – ý định của ta trong cuộc TTC-ND Tết Mậu Thân (1968) là: chiếm đài phát thanh Sài Gòn, đánh sứ quán Mỹ bắt Matin, đánh dinh Độc lập bắt Nguyễn Văn Thiệu, để chúng tuyên bố đầu hàng trên đài Phát thanh Sài Gòn.
Nhưng trận đánh diễn ra không suôn sẻ như ý muốn của ông (Duẩn), vì đại sứ Matin khi đó ở cách sứ quán 200m, còn tổng thống Thiệu thì về Cần thơ ăn tết, do không nắm sát tình hình đó nên không bắt được chúng (theo lời kể của ông Mười Hương). Vì thế nên mới có đợt 1, đợt 2, rồi đợt 3 là bởi vì sau khi chiếm được đài phát thanh Sài Gòn từ đợt 1 rồi, nhưng lực lượng ta cứ phải giữ nó đấy chờ bắt hai tên kia nên mới sinh ra có đợt 2 nhưng cũng không tóm được Matin và Thiệu, nên lực lượng chiếm đài phát thanh vẫn cứ phải cố thủ để chờ tiếp đợt 3 (xem sao). Và kết quả thì ai cũng đã biết.
Ông Mười Hương nói tiếp: Năm 1967 Bác có ý vào Nam bằng đi bộ, Bộ chính trị không đồng ý vì tuổi tác sức khoẻ của Bác (có lẽ chỗ này trùng với câu truyện ông Sơn Tùng nói về hội nghị 3 nước Đông Dương họp ở Phnom Pênh lúc bấy giờ). Nên ta cố ý giành thắng lợi trong đợt Mậu Thân 68, chấm dứt chiến tranh để đưa Bác vào Nam theo nguyện vọng của Bác. (Câu chuyện này chính xác đến đâu thì tôi không rõ, nhưng đấy là câu chuyện của ông Mười Hương nói ở P.5 chúng tôi năm đó).
Đến đợt 3 cũng không bắt được Matin và Thiệu thì cơ hội “bất ngờ” không còn nữa và địch phản công lại, thế là chủ trương TTC và ND nhằm mục đích tối thượng không đạt được, tuy nhiên sau đó Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán với ta ở Paris.
4. Về cuộc đàm phán Mỹ – Việt ở Paris ta đã chuẩn bị từ năm 1963, khi tôi còn đang học khoá 3 Khoa đối ngoại của trường Kinh Tài.
Trong buổi nói chuyện với sinh viên ngoại giao khoá đó, sinh viên nêu câu hỏi với Bộ trưởng Xuân Thuỷ về tình hình chiến sự và đàm phán sẽ diễn ra theo hướng nào và triển vọng, thì ông Xuân Thuỷ nói: – Cuộc chiến diễn ra ác liệt thế nào thì ta đã biết, còn về đàm phán thì cũng vì thế mà ta đã xác định thế này, rồi ông đọc hai câu thơ (ông Xuân Thuỷ, Bộ trưởng Ngoại giao, là nhà báo, và cũng là nhà thơ):
“Đàm đàm đánh đánh đàm đánh đánh
Đánh đánh đàm đàm đánh đàm đàm”
Rồi ông giải thích cuộc đàm phán với Mỹ sẽ diễn ra cù nhầy kiểu như thế, mà đúng là thế thật. Hội nghị Pari kéo dài suốt từ năm sau tết Mậu Thân 1968 cho đến đầu năm 1973 (5 năm).
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ông Xuân Thuỷ được rút khỏi chức Bộ trưởng ngoại giao để làm trưởng đoàn đàm phán ở Pari. Ông Nguyễn Duy Trinh lên làm Bộ trưởng ngoại giao từ đó.
Dưới đây là mẩu chuyện nhỏ về ông Hà Văn Lâu. Bác Hồ mời ông Hà Văn Lâu đến giao nhiệm vụ. Ông Hà Văn Lâu hỏi Bác về công tác sắp được giao, thì Bác nói:
Tên chú thế nào thì công tác của chú cũng thế.
Đó chính là Hội nghị Pari là nơi ông Hà Văn Lâu công tác lâu năm ở đoàn đàm phán của ông Xuân Thuỷ suốt 5 năm.
Câu chuyện tôi được nghe kể lại:
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Nguyễn Huy Tưởng có hỏi Cụ Hồ:
Bây giờ đạo đức dạy (học) cái gì?
Cụ Hồ nói:
Cần – Kiệm – Liêm – Chính.
Chắc là ông Tưởng nghĩ rằng cách mạng là đổi mới tất cả vì khi đó cũng đang có phong trào vận động xây dựng đời sống mới thì dạy đạo đức cũng phải là “đạo đức mới” (Lúc đó chưa có khái niệm đạo đức xã hội chủ nghĩa như bây giờ), nên ông Tưởng mới nói:
Cái (đạo đức) đó cổ quá.
Thì Cụ Hồ trả lời như thế này với ông Tưởng:
-“Thế thì ngô, lúa có từ bao giờ?”
(mất một đoạn) …có từ cổ xưa rồi, mà đạo đức “Cần – Kiệm – Liêm – Chính” là 4 đức tính thuộc về đạo đức nhân văn đã đưa xã hội tiến bộ và phát triển không ngừng đến ngày nay, và như vậy thì nó cũng không bao giờ cũ, không bao giờ cổ, cũng như ngô, lúa chúng ta ăn có từ thượng cổ đến nay nó đang nuôi chúng ta.
Xã hội loài người mà xa rời 4 đức tính đó thì chắc ai cũng hiểu là thế nào rồi.
Đó là ý nghĩa của một trong những câu thành ngữ cổ xưa “còn giá trị với thời đại” như nhà văn Tùng Sơn nói ở trường đào tạo cán bộ quản lý của ngành giáo dục ngày 11 tháng 4 năm 2001.
Trích một số thư mới đây của CCB Trần Nhật Độ, nguyên Chính uỷ Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công (Khu tập thể Nam Đồng – Đống Đa – Hà Nội).
Sau khi nhận xét đánh giá công lao cống hiến vào sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước nhà của một số đồng chí lãnh đạo kể cả khuyết diểm thiếu sót, thư đã viết.
+ Mậu Thân 1968, mọi người không đồng tình đánh đợt 2,3. Vốn không phải thời cơ phút huy vai trò của chủ lực, lại không còn điều kiện phát triển tiến công mà tổng khởi nghĩa thì ngay từ đầu đã không khuấy lên được.
+ Việc thành lập Quân đoàn, cuối 1970 anh Văn đã đề ra, nhưng bị bác; bị thiểu số. Năm 1971 trong chiến dịch Trị Thiên cũng vậy. Đến năm 1973 (tháng 10) mới có Quân đoàn 1, sau đó là Quân đoàn 2 ở Trị Thiên. Nên nhớ cụm sư đoàn là cấp số cộng, mà Quân đoàn là cấp số nhân.
+ Chiến dịch Trị Thiên năm 1972, nếu giữ nguyên ý kiến anh Văn lấy lại Trị Thiên làm hướng chủ yếu thì sẽ có cánh vu hồi vào Thừa Thiên Huế. Hiệu quả chiến dịch sẽ khác xa…
+ Đánh CPC, anh Văn cho rằng chỉ nên đánh đến Sông Mê Kông, dừng lại và kéo Sihanuk về để cách mạng bạn tự phát triển, tự giải phóng. Ta không mang tiếng, không sa lầy, không bị cô lập…
+ Trong các cuộc nói chuyện với đồng bào, cán bộ, không ít lần đồng chí Lê Duẩn đã có lời phê phán, phản bác Bác Hồ và có ý vượt trội lên. Ví dụ như nói:
“Giáp thì sợ Mỹ. Bác thì sợ Trung Quốc. Bác không sát thực tế, Bác không có điều kiện nghiên cứu lý luận cơ bản. Tôi đây, tôi nghiên cứu rất nhiều lý luận cơ bản. Bác chịu ảnh hưởng nho giáo, Khổng Tử… thậm chí có những lần Bác đã đến hồi lẩm cẩm”.
(mất một đoạn) … “Thời thắng Mỹ” dưới bút danh Thép Mới. Quy hoạch 36 bài sẽ đưa ra kết luận “Thời thắng Mỹ” là thời đại gì? Đã đăng được 16 bài trên báo Nhân dân. Do làn sóng phản ứng của đảng viên, cán bộ nhân dân, buộc phải đình chỉ không được đăng tiếp nữa. Song với 16 bài đã đăng, tác giả và Báo Nhân dân đã kịp chấm dứt và cắt ngang thời đại Hồ Chí Minh vào năm 1954 và hạ bệ Hồ Chí Minh ở đây với hai sai lầm chết người trên hai mục tiêu cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là chống phong kiến thì chậm tiến hành cải cách ruộng đất. Đối với chế độ xâm lược thì hiệp định Giơ-ne-vơ là thoả hiệp với địch, là ảo tưởng, là ngăn cản nhân dân Việt Nam, Lào, Camphuchia giành thắng lợi hoàn toàn…
+ Cũng trên báo Nhân dân, bài báo giới thiệu tác phẩm “Bức thư vào Nam” của đồng chí Lê Duẩn, đã tôn xưng đồng chí Lê Duẩn là “tổng công trình sư của đường lối đánh Mỹ và Tổng tư lệnh trên thực tế” chỉ một câu gắn gọn gồm vẻn vẹn 16 từ, bài báo đã đồng thời phủ định hai nhân vật lịch sử trọng yếu là Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là đại biểu cho ý chí và khí phách của toàn dân tộc, là người thiết kế đường lối đánh Mỹ đã được manh nha từ chiến thắng Điện Biên Phủ, từ Hộinghị Giơ-ne-vơ. Võ Nguyên Giáp là Bí thư Quân uỷ Trung ương và Tổng tư lệnh không thể là danh nghĩa (có văn bản chính thức của Trug ương) mà là thực quyền chỉ huy chiến đấu và hoạt động…
+ Nghị quyết 15 năm 1959 là do Bộ Chính trị phân công Võ Nguyên Giáp khởi thảo với sự chấp bút của Hoàng Tùng và Trần Quang Huy tại Đồ Sơn…
+ Sau khi nước nhà thống nhất, nếu chấp nhận ý kiến của ông (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) về xây dựng kinh tế là: trước hết phải để thời gian khôi phục rồi mới tính đến phát triển, và phải đặt nông nghiệp là mặt trận hàng đầu; thì chắc chắn là hạn chế được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân lúc bấy giờ, dẫn đến khủng hoảng đời sống.
(Một số chuyện kể trong phụ lục này (tuy chưa đầy đủ) để minh chứng rằng nhà văn Sơn Tùng đã nói đúng).
–
* Nội dung trên đây được Ba Sàm đánh máy lại từ một tài liệu photocopy, đã được đăng trên blog BS hai năm trước, bị tin tặc xóa, nay đăng lại (14/9/2011).
Xem thêm
Phỏng vấn chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 6/ 1964
<iframe width="480" height="360" src="http://www.youtube.com/embed/onhVOcVGHds" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Nguồn clip: Viện lưu trữ quốc gia Pháp INA Edit sub: Merika Chia sẻ bởi một thành viên Vozforums.com Chưa rõ người dịch. Hoàng Kim chọn bài từ: http://www.youtube.com/watch?v=onhVOcVGHds&feature=b-vrec)
Trở về trang chính
TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
(Hoàng Kim để tôi đọc lại)
DẠY VÀ HỌC
(trang tình yêu, văn hóa giáo dục,
khoa học cây trồng và du lịch Việt)
HỌC MỖI NGÀY
(Những bài tuyển chọn về văn hóa giáo dục
lịch sử, thơ văn)
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete