RFA. “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc”
(phỏng vấn Tác giả Thụy Khê)
Nguồn RFAMặc Lâm, biên tập viên RFA
2012-05-19
Chương trình Văn Học Nghệ Thuật tuần này Mặc Lâm giới thiệu tác phẩm “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” của nhà phê bình văn học Thụy Khuê.“Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” của nhà phê bình văn học Thụy Khuê.
Tác phẩm đang có một tiếng vang lớn về công trình nghiên cứu của bà có liên quan đến những điều mà nhiều người gọi sự giả dối của lịch sử, mời quý vị theo dõi.
Nhà phê bình văn học nổi tiếng
Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học nổi tiếng. Công việc chính của
bà trong nhiều năm là phụ trách chương trình Văn Học Nghệ Thuật trên
đài phát thanh Pháp Quốc RFI từ tháng 12 năm 1990 cho đến tháng 3 năm
2009 thì về hưu. Những tên tuổi bà đã phỏng vấn đáng chú ý nhất là các
thành viên quan trọng trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, trong đó có
nhân vật nổi tiếng Nguyễn Hữu Đang vài năm trước khi ông trở về với cát
bụi. Bà có những tác phẩm phê bình văn học công phu như Cấu Trúc Thơ,
Sóng Từ Trường I, II và III, Nói chuyện với Hoàng Xuân Hãn và Tạ Trọng
Hiệp.
Bà viết rất nhiều tiểu luận phê bình văn học xuất hiện trên các tạp chí văn học hải ngoại.
Thụy Khuê tên thật là Vũ Thị Tuệ sinh năm 1944 tại làng Doanh Châu,
huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Năm 1954 bà theo gia đình di cư vào Nam.
Tháng 9 năm 1962 bà sang Pháp du học.
Hai mươi hai năm sau bà về nước lần thứ hai vào năm 1984 và trong
chuyến đi này theo bà kể lại đã để lại dấu ấn sâu đậm vì đã xa nhà từ
lúc 18 tuổi. Cũng từ lần về nước này bà chạm mặt với những hình ảnh thật
của quê hương đã khiến bà có ý định viết lách.
Tìm lại dấu vết Nhân Văn Giai Phẩm
Tác phẩm “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” được bà hoàn
thành năm 2012 và do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương tại Virginia Hoa Kỳ ấn
hành năm 2012. Sách dày 976 trang với 25 chương và phần phụ lục.
Trong phần lời tựa tác phẩm “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” Thụy Khuê viết:
Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ.
Nhà văn Thụy Khuê
“Năm 1984, khi trở về Hà Nội, tôi muốn tìm lại, dù chỉ một dấu
vết nhỏ, chứng minh sự hiện diện của Nhân Văn Giai Phẩm trong lòng người
dân Bắc. Nhưng vô ích. Tất cả đều đã bị xóa sổ. Kín đáo dò hỏi những
người thân trong gia đình sống ở Hà Nội, thuộc thế hệ ‘phải biết’ Nhân
Văn, xem có ai còn nhớ gì không? Nhưng không, tuyệt nhiên chẳng ai ‘nghe
nói’ đến những cái tên như thế bao giờ: linh hồn Nhân Văn đã bị xóa
trong ký ức quần chúng, và như vậy, ‘nọc độc’ Nhân Văn đã hoàn toàn bị
tẩy sạch.
Ðó là lý do chính khiến vài năm sau, khi thực sự bước vào nghề
cầm bút, tôi đã coi Nhân Văn Giai Phẩm là một trong những nghi vấn văn
học hàng đầu, cần phải tìm hiểu. Bài viết đầu tiên của tôi về phong trào
Nhân Văn Giai Phẩm, đăng trên nguyệt san Văn Học, California, số 27,
tháng 4 năm 1988; tiếp theo là những buổi phát thanh trên đài RFI, trong
nhiều chương trình từ 1991 đến 2004, trong số đó có những buổi phỏng
vấn các tác nhân chính của phong trào: Lê Đạt, Hoàng Cầm và Nguyễn Hữu
Đang.
Cuốn sách này tổng kết công việc tìm kiếm và thu thập các dữ kiện
xung quanh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trong hơn 20 năm, từ 1988 đến
ngày nay.”Chứng minh sự giả mạo lịch sử
Thụy
Khuê dành 8 chương để viết về những nhân vật chủ chốt trong vụ án. Đầu
tiên là Thụy An, kế đến là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm,
Văn Cao, Phùng Cung. Trong chương 21 dành cho Phan Khôi và chương 23
dành cho Nguyễn Mạnh Tường.
Có lẽ mục đích chính của tác phẩm “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề
Nguyễn Ái Quốc” của Thụy Khuê là bà cố gắng chứng minh vụ án Nhân Văn
Giai Phẩm xảy ra có nguyên ủy từ những ngày đầu khi Nguyễn Tất Thành
dùng bút hiệu Trần Dân Tiên để đánh bóng về mình mà sự đánh bóng ấy
không mấy lương thiện.
“Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” chứng minh sự “giả mạo
lịch sử” của nhân vật Nguyễn Tất Thành để từ đó như một vệt xăng dẫn
đường đến những vụ cháy sau này trong chính sách oan khiên áp dụng vào
Nhân Văn Giai Phẩm nhiều chục năm sau đó. Chúng tôi chú ý các điểm mấu
chốt chính mà tác giả nêu ra nơi trang 470 chứng minh những điều mà Trần
Dân Tiên khẳng định về vai trò của Nguyễn Tất Thành trong các hoạt động
chính trị quan trọng tại Pháp khi ông viết:
Thứ nhất: chính Nguyễn Tất Thành đã dựng nên nhóm Người An Nam yêu nước.
Thứ hai, chính Nguyễn Tất Thành chủ động đưa ra ý kiến về bản Thỉnh Nguyện thư ở Hội nghị Hòa Bình Versailles, năm 1919.
Kế đó, chính Nguyễn Tất Thành viết được những bài báo ký tên Nguyễn
Ái Quốc là do đã ở Pháp từ 1914 và đã hết sức cố gắng học tiếng Pháp.
Thụy Khuê đã chứng minh ngược lại rằng tất cả những điều mà Trần Dân
Tiên, tức Nguyễn Tất Thành viết ra đều trái với sự thật vì Nguyễn Tất
Thành đến Pháp vào tháng 8 năm 1919 trong khi Hội nghị Hòa Bình
Versailles đã được khai mạc vào ngày 18 tháng 1 năm 1919 tức là trước
khi Nguyễn Tất Thành đến Pháp bảy tháng. Nhóm Người An Nam yêu nước đã
hoạt động từ năm 1916 vì vậy không thể do ông Nguyễn Tất Thành gầy dựng.
Nơi trang 458 Thụy Khuê cũng phân tích tại sao tiểu sử của Hồ Chí
Minh luôn là những trang viết đầy bí mật. Với những phân tích sâu sắc
Thụy Khuê đã làm công việc của một sử gia, lật lại những hồ sơ lâu năm
trong thư khố quốc gia Pháp về những văn bản như: Đơn xin học của ông
Nguyễn Tất Thành vào trường Thuộc địa và rồi lần tới trình độ học vấn
thật sự của ông Nguyễn Tất Thành. Quan trọng nhất Thụy Khuê chứng minh
ngày mà ông Nguyễn Tất Thành đặt chân đến Paris không phải như báo chí
Việt Nam luôn viết là năm 1914 mà thật ra là tháng 8 năm 1919 để từ đó
mọi chứng cứ ngụy tạo đã bị đánh đổ bởi những khám phá này.
Công trình hơn 20 năm
Chúng tôi có cuộc trao đổi ngắn với tác giả Thụy Khuê nhằm tìm hiểu thêm những diễn biến trong lúc bà viết và thu nhặt chứng cứ, tài liệu về vấn đề hệ trọng này. Trước tiên bà cho biết thời gian mà bà thật sự bỏ ra cho bộ sách:
Thụy Khuê: “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” nếu mà nói cuốn sách này làm trong bao lâu thì quả tình tôi cũng không biết là bao lâu. Từ ngày tôi bắt đầu chủ định viết về Nhân Văn Giai Phẩm cũng đã 20 năm rồi. Trong suốt quãng thời gian đó dĩ nhiên tôi cũng làm những việc khác nhưng luôn luôn để thời giờ thêm ra để viết nó nếu phát hiện ra thêm một tư liệu gì đó. Cho dù nhỏ đến đâu hay là có một cuộc phỏng vấn gì liên quan đến Nhân Văn Giai Phẩm thì tôi cũng tìm cách đưa lên đài phát thanh hồi đó khi tôi làm cho RFI. Hoặc là tôi viết ra và đưa lên báo. Như vậy có thể nói công việc này tôi đã ấp ủ và làm việc từ hơn 20 năm rồi anh ạ.
Mặc Lâm: Không riêng gì tôi mà rất nhiều thính giả yêu quý chương trình bà phụ trách trên đài RFI đều thấy rằng bà đặc biệt thích thú và mài miệt với chủ đề Nhân Văn Giai Phẩm, tôi nghĩ là trong từng ấy chương trình có lẽ những gì cần viết, cần khai thác về chủ đề này chắc cũng tạm đủ… Vậy bà có thể cho thính giả biết những yếu tố mới trong “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” có phải tập trung vào ba chữ Nguyễn Ái Quốc như tựa của cuốn sách hay không?
Như vậy có thể nói công việc này tôi đã ấp ủ và làm việc từ hơn 20 năm rồi anh ạ.
Nhà văn Thụy Khuê
Thụy Khuê: Trong khi mình tập trung nghiên cứu thì
có những tình cờ nó len vào. Riêng về vấn đề Nguyễn Ái Quốc lúc đầu tôi
không chủ động để viết về Nguyễn Ái Quốc nhưng khi tôi nghiên cứu Phan
Khôi là một nhân vật chủ chốt của Nhân Văn Giai Phẩm thì sau khi tìm
kiếm tôi mới thấy ông Phan Khôi có một giai đoạn liên hệ mật thiết với
cụ Phan Chu Trinh, và khi tìm hiểu cụ Phan Chu Trinh thì tôi lại thấy
thời gian mà cụ ở Pháp rất lâu.
Tất nhiên thời gian đó thì ai cũng biết là khoảng mười mấy năm. Cụ ở
Pháp từ 1911 trở đi thế nhưng không ai biết rõ trong thời gian đó cụ làm
gì và chúng ta chỉ biết sơ sơ là lúc đó cụ và cụ Phan Văn Trường và
Nguyễn Ái Quốc là ba người mà cho tới bây giờ người ta cứ kể như cột trụ
của phong trào ái quốc đầu tiên ở Pháp.
Tôi tìm đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc bằng tiếng Pháp thì
tôi thấy rằng những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc viết tiếng Pháp rất
tài năng mà một tài năng như vậy không thể nào là của một người mới học
tiếng Pháp hay có một trình độ kém mà có thể viết được. Lúc đó tôi mới
liên kết tới những yếu tố trong một hồi ký của Hồ Chí Minh ký tên là
Trần Dân Tiên thì ông ấy nói là lúc sang Pháp ông ấy mới học tiếng Pháp!
Điều đó làm cho tôi hồ nghi và vì thế nên tôi phải đi vào vấn đề văn
bản Nguyễn Ái Quốc để tìm xem Nguyễn Ái Quốc là ai và những người viết
bài ký tên Nguyễn Ái Quốc là ai, sự tình là nó như thế.
Mặc Lâm: Trong khi tìm hiểu như vậy bà đã đi đến kết luận cụ thể bằng những tài liệu khả tín mà các sử gia có thể chấp nhận phải không ạ?
Thụy Khuê: Thưa anh chắc chắn! Ở trong cuốn sách đó
tôi chứng minh nhiều khía cạnh lắm. Dĩ nhiên phương pháp khoa học thì
không bao giờ dám nói chứng minh của mình là cái cuối cùng, nhưng ít ra
tôi nghĩ chứng minh của tôi là chứng minh đầu tiên rằng những người ký
tên Nguyễn Ái Quốc thời đó là các ông Phan Văn Trường, ông Nguyễn Thế
Truyền, ông Nguyễn An Ninh chứ không phải ông Nguyễn Tất Thành tức là
ông Hồ Chí Minh về sau này.
HCM là người chịu trách nhiệm về vụ NVGP
Mặc Lâm: Quay trở lại với chủ đề Nhân Văn Giai
Phẩm không biết những sự mờ ám mà bà chứng minh về tư cách của ông
Nguyễn Tất Thành có liên quan gì đến bi kịch Nhân Văn Giai Phẩm sau này
không thưa bà?
Thụy Khuê: Có thể gọi sự mờ ám của lịch sử trong lúc
đầu thì mình thấy là những sự kiện lịch sử đã được ít nhiều tráo lộn và
thay đổi nguồn gốc phát xuất. Tạm gọi là “người anh hùng” đi, tức là
ông Hồ Chí Minh, thì mình thấy là tất cả những nguồn gốc phát xuất đó nó
đưa đến những hệ quả như thế nào về văn hóa. Về sau này khi ông Hồ Chí
Minh lên cầm quyền ông ấy tiếp tục chính sách có thể gọi là không những
coi thường văn hóa, mà còn chà đạp lên văn hóa nữa. Đấy là hậu quả mà
mình nhìn thấy về sau. Cái hậu quả có thể gọi là tàn khốc nhất về văn
hóa là vấn đề Nhân Văn Giai Phẩm. Cùng với Nhân Văn Giai Phẩm là tất cả
những sự đối xử với văn hóa miền Nam chẳng hạn thì đó là hậu quả.
Mặc Lâm: Theo bà thì chính ông Hồ Chí Minh là người chịu trách nhiệm về vụ đàn áp Nhân Văn Giai Phẩm tuy nhiên khi theo dõi những ý kiến của người trong cuộc thì hầu như ai cũng kết án Tố Hữu, cùng lắm đi xa hơn một chút thì cho rằng những chính sách của Trường Chinh đã bị Tố Hữu lạm dụng và bẻ cong để hãm hại văn nghệ sĩ theo khuynh hướng cải cách. Bà nghĩ sao về điều này?Tố Hữu thi hành chính sách văn hóa của Trường Chinh đề xướng và nếu mình nhìn sâu hơn nữa thì sở dĩ có cái chính sách của Trường Chinh là do ông Hồ Chí Minh đã quyết định cho ông Trường Chinh, nghĩa là giao cho Trường Chinh làm những việc như vậy.
Nhà văn Thụy Khuê
Thụy Khuê: Thưa anh từ chuyện ông Hồ Chí Minh tới ông Tố Hữu thì sự liên kết của nó có thể về mặt chính trị. Khi bất cứ một chuyện xảy ra như Nhân Văn Giai Phẩm nếu mình thấy ngoài mặt thì Tố Hữu có trách nhiệm trực tiếp nhưng nếu nhìn sâu thêm một chút nữa thì Tố Hữu cũng chỉ là người thi hành thôi. Tố Hữu thi hành chính sách văn hóa của Trường Chinh đề xướng và nếu mình nhìn sâu hơn nữa thì sở dĩ có cái chính sách của Trường Chinh là do ông Hồ Chí Minh đã quyết định cho ông Trường Chinh, nghĩa là giao cho Trường Chinh làm những việc như vậy. Trong chế độ toàn trị những người như ông Mao, ông Hồ không thể nói họ không có trách nhiệm.
Mặc Lâm: Xin cám ơn bà Thụy Khuê.
Thưa quý vị vừa rồi là cuộc trao đổi ngắn giữa chúng tôi và nhà phê bình văn học Thụy Khuê về tác phẩm mới nhất của bà mang tên “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc”. Chúng tôi cũng được biết vào ngày 19 tháng 5 này tác giả có buổi ra mắt sách tại Thủ đô Washington, mong rằng nhiều người Việt sẽ có tác phẩm quan trọng này trong tủ sách gia đình để so sánh, đối chiếu một sự thật lịch sử mà tác giả dày công chứng minh qua kinh nghiệm hơn 20 năm nghiên cứu của bà về đề tài này.
http://ixij.wordpress.com/2012/05/23/rfa-nhan-van-giai-pham-va-van-de-nguyen-ai-quoc-phong-van-tac-gia-thuy-khe/
VOA
26-5-12
Trò chuyện với Thụy Khuê, tác giả ‘Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc’
Nhà văn, nhà phê bình văn học Thụy Khuê, từng phụ trách mục Văn học Nghệ thuật cho đài RFI ở Paris vừa đến Washington để ra mắt tác phẩm mới nhất: “Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn ÁiQuốc.” Mặc dù vụ án Nhân Văn Giai Phẩm là đề tài của vô số bài báo, trang blog, sách vở, một số độc giả đến dự buổi giới thiệu sách nhận định đây là lần đầu tiên những tư liệu và chi tiết tản mạn khắp nơi được phối hợp, dẫn chứng, đào sâu và hệ thống hóa một cách mạch lạc thành một tập biên khảo nghiêm túc về “Nhân Văn Giai Phẩm,” hiện tượng đã khuấy động sinh hoạt văn học và chính trị miền Bắc trong thập niên 1950. Phong trào này tuy đã bị Đảng Cộng Sản Việt Nam đập tan sau một vài năm, nhưng dư âm của nó vẫn vang vọng cho tới bây giờ. Câu chuyện Việt Nam do Hoài Hương phụ trách tuần này xin được dành để gửi đến quý độc giả một số chi tiết trong cuộc phỏng vấn mà tác giả Thụy Khuê dành cho Ban Việt Ngữ khi đến thăm Đài VOA trong tuần này.
Nhà văn Thụy Khuê được người Việt hải ngoại biết tiếng qua làn
sóng của đài RFI với mục Văn học Nghệ thuật đặc sắc do bà phụ
trách hàng tuần. Trong 20 năm qua, Thụy Khuê còn bỏ nhiều công
sức để cuối cùng cho ra mắt một tập biên khảo về phong trào Nhân
Văn Giai Phẩm, vừa được Tủ Sách Tiếng Quê Hương của nhà văn Uyên
Thao giới thiệu với công chúng tại thủ đô Washington.
Cơ duyên nào, động lực nào đã thôi thúc nhà phê bình văn học
Thụy Khuê theo đuổi cuộc nghiên cứu trong hơn 2 thập niên về một
hiện tượng đã bùng ra để rồi bị dập tắt không lâu sau đó cách
đây hơn nửa thế kỷ?
Thụy Khuê: “Lúc tôi đi học thì như tất cả những học sinh miền Nam thì được học những bài thơ của Trần Dần, của Hoàng Cầm trích trong cuốn “Nhân Văn Giai Phẩm” của cụ Hoàng văn Chí. Những bài thơ đó, những câu thơ nó xúc động lắm, nó làm cho thế hệ chúng tôi tưởng tượng ra một miền Bắc với những cơn mưa phùn trong thơ Trần Dần thì …đau thương lắm! Và khi nghĩ đến những nhà thơ đã làm được những câu thơ như thế thì họ phải yêu đất nước biết là bao nhiêu. Từ cái đó, nó đi sâu vào lòng con người và lớn lên, lúc nào tôi cũng canh cánh trong lòng là bao giờ trở lại, tôi sẽ tìm lại những nhà thơ đã viết ra những câu thơ như thế.”
Nơi Thụy Khuê, dễ nhận ra một tâm hồn đa cảm, dễ xúc động và tình yêu đậm đà dành cho quê hương bỏ lại từ khi bà sang Pháp du học:
Thụy Khuê: “Cái mốc quan trọng là năm 1984, tôi về Việt Nam và lúc đó mới thấy được thực trạng đất nước, tôi mới cảm thấy tất cả những cái ích kỷ của chính mình… đi du học từ năm 1962, những giai đoạn đau thương của đất nước thì không trải qua…thì có một cái gì đó nó đánh động và thấy rằng khi mà mình ra lại hải ngoại thì mình không thể nào tiếp tục cái cuộc đời bình yên như trước nữa, và lúc đó tôi bắt đầu quyết định vào cái nghề viết, và chọn phê bình văn học ạ.”
Thụy Khuê cho biết là khi quyết định viết văn, bà đã tự đặt cho mình chủ đích đầu tiên, là phải tìm hiểu những con người đã viết lên những câu thơ trong Nhân Văn Giai Phẩm đã từng làm cho bà xúc động. Trả lời câu hỏi vì sao Đảng Cộng Sản Việt Nam lại sợ một nhóm trí thức văn nghệ sĩ chỉ muốn được tự do tư tưởng, và đòi “trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ lãnh đạo”?
Thụy Khuê giải thích: “Tôi nghĩ là bất cứ chế độ độc tài nào, đặc biệt là những chế độ toàn trị tức là họ muốn cai quản tất cả những tư tưởng của con người như chế độ cộng sản thì họ rất ngại những người văn nghệ sĩ, dù cho những người đó đòi tự do tư tưởng hay không, họ vẫn ngại bởi vì trong đám những công dân của một đất nước, thì văn nghệ sĩ là đám mà mình khó nắm bắt tư tưởng của nó nhất.”
Bà Thụy Khuê nói rằng chế độ có thể trói tay, treo bút văn nghệ sĩ nhưng không thể nắm bắt tư tưởng của họ. Vì lý do đó, các chế độ độc tài toàn trị thường tìm cách thu gọn nhóm trí thức văn nghệ sĩ lại một mối để dễ bề kiểm soát và điều khiển. Trong bối cảnh đó, cuộc đấu tranh của trí thức và văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân văn Giai Phẩm lại càng có ý nghĩa hơn nữa:
Thụy Khuê: “Trong một chế độ như thế mà lại có một số người dám đứng lên! Lúc đó họ không hề đòi đánh đổ đảng gì cả nhưng chỉ đòi hỏi tự do tư tưởng mà thôi, nhưng từ chuyện họ đòi tự do tư tưởng, chế độ Cộng Sản nghĩ rằng họ có thể làm lung lay chế độ, và vì thế mà họ có thái độ rất tàn khốc đối với những người trong Nhân văn Giai Phẩm.”
Nửa thế kỷ là một thời gian đủ dài để luận công và tội. Ai phải chịu trách nhiệm chính trong vụ trù dập trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc và “đập nát” Nhân Văn Giai Phẩm? Nhà văn Thụy Khuê nói trách nhiệm nằm trong tay lãnh đạo cấp cao nhất trong Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thụy Khuê: “Thưa chị, trong cuốn sách của tôi, tôi đưa ra những dữ kiện theo đó Tố Hữu thi hành, bắt người này người kia nhưng nếu nhìn sâu xa thì Tố Hữu cũng chỉ làm theo lệnh trên. Và cái lệnh trên của Tố Hữu là Trường Chinh. Ông Trường Chinh viết “Đề cương Văn Hóa Việt Nam” từ năm 1943, hướng dẫn tất cả những chính sách văn hóa của Đảng Cộng Sản đối với nước Việt Nam. Nhưng mà nếu tìm sâu hơn thì Trường Chinh cũng không thể nào viết được một cái bản như thế nếu không có lệnh của ông Hồ Chí Minh bởi vì chúng ta còn lạ gì, tất cả những chuyện trong một nước là do người làm chủ đất nước, lúc đó là ông Hồ Chí Minh, phải chịu trách nhiệm, kể cả chuyện phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và Cải cách Ruộng đất nữa.”
Trong số rất đông trí thức và văn nghệ sĩ ưu tú bị trù dập, nhiều người không ngóc đầu lên được trong nhiều thập niên, có Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, từng được người Pháp bái phục là một nhà hùng biện đại tài. Ông đạt một lúc hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, Ưu hạng Luật Khoa và Tiến sĩ Quốc gia Văn chương khi mới lên 22 tuổi. Hãy nghe nhà phê bình Thụy Khuê nói về con người lỗi lạc này:
Thụy Khuê: “Một trí thức như Nguyễn Mạnh Tường không phải thế kỷ nào cũng có, vừa toàn diện về văn học, về luật khoa, về kiến thức đại cương, về triết học, thế mà trong suốt thời gian còn lại của ông, ông không được dùng kiến thức đó để dạy cho học trò. Những tác phẩm của ông đòi hỏi tự do dân chủ không bao giờ hời hợt, mà khi nào đặt vấn đề, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cũng đặt vấn đề cơ bản từ triết học, đòi hỏi quyền sống cho con người, một cách sâu sắc.”
Bà lấy làm tiếc là mấy chục tác phẩm của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cho tới nay vẫn chưa được in, ngoại trừ 2 cuốn “Un Excommunié- Kẻ bị Khai Trừ”, và “Une voix dans la nuit- Tiếng vọng trong đêm." Cả một thế hệ trí thức và văn nghệ sĩ bị dồn vào chân tường, bị vùi dập, bị cấm sáng tạo, cấm đóng góp, cấm dạy học, cấm in sách. Có người, như Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, bị bỏ rơi trong “sa mạc” của đói khát, khốn cùng. Thụy Khuê đánh giá những mất mát to lớn của thành phần tinh hoa đó đối với nền văn học nước nhà:
Thụy Khuê: “Thưa chị, nếu nói đến mất mát thì nó vô cùng, nó mênh mông, mình không biết làm sao đo lường chính xác sự mất mát đó. Bởi vì chỉ riêng Nguyễn Mạnh Tường không thôi, chỉ có hai tác phẩm trong một cái chiều kích mênh mông của Nguyễn Mạnh Tường, ông viết phải mười mấy, hai mươi mấy tác phẩm mà mình không được biết đến thì đủ biết là cái sự mất mát là bao nhiêu rồi.”
Thế nên rút ra bài học nào từ phong trào Nhân văn Giai Phẩm?
Nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Chúng ta phải tự ý thức rằng mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm đối với đất nước ngày hôm nay, người Việt Nam ở hải ngoại cũng như người Việt Nam ở trong nước, phải ý thức được rằng nước mình sở dĩ ở trong tình trạng như thế này, không phải là chỉ có một số người người ta có quyền đè ép đâu, mà tự bản thân, mình có đòi hỏi cho dân chủ không. Trách nhiệm ấy là trách nhiệm của một thế hệ đã biết như thế nào là tự do tư tưởng, và cần phải đứng lên làm một cái gì đó, nhất là làm sao phải có một chế độ văn học không có kiểm duyệt, một nền báo chí không kiểm duyệt để ai ai cũng có thể nói được ý kiến của mình thì lúc đó mới có cơ may cho đất nước.”
Nhà phê bình chia sẻ nguyện vọng của bà cho tập biên khảo “Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc”:
“Nguyện vọng sâu xa của người viết cuốn sách này là mong nó sống lâu và nó sẽ được nhiều thế hệ độc giả đọc, không những trong nước mà ở ngoài nước, bởi vì tất cả những công trình nghiên cứu khoa học thì cái cuốn của mình chưa bao giờ là cuốn cuối cùng, nó chỉ là cái cuốn đầu tiên. Nếu được độc giả đọc và khám phá ra những lỗ hổng trong cuốn sách này, hoặc có những người sẽ từ những tìm kiếm của mình mà đi tìm kiếm thêm nữa thì cái đó là cái nguyện vọng sâu xa của tôi.”
Thụy Khuê cho biết tác phẩm kế tiếp của bà sẽ là một cuốn phê bình văn học thế kỷ 20.
Thụy Khuê: “Lúc tôi đi học thì như tất cả những học sinh miền Nam thì được học những bài thơ của Trần Dần, của Hoàng Cầm trích trong cuốn “Nhân Văn Giai Phẩm” của cụ Hoàng văn Chí. Những bài thơ đó, những câu thơ nó xúc động lắm, nó làm cho thế hệ chúng tôi tưởng tượng ra một miền Bắc với những cơn mưa phùn trong thơ Trần Dần thì …đau thương lắm! Và khi nghĩ đến những nhà thơ đã làm được những câu thơ như thế thì họ phải yêu đất nước biết là bao nhiêu. Từ cái đó, nó đi sâu vào lòng con người và lớn lên, lúc nào tôi cũng canh cánh trong lòng là bao giờ trở lại, tôi sẽ tìm lại những nhà thơ đã viết ra những câu thơ như thế.”
Nơi Thụy Khuê, dễ nhận ra một tâm hồn đa cảm, dễ xúc động và tình yêu đậm đà dành cho quê hương bỏ lại từ khi bà sang Pháp du học:
Thụy Khuê: “Cái mốc quan trọng là năm 1984, tôi về Việt Nam và lúc đó mới thấy được thực trạng đất nước, tôi mới cảm thấy tất cả những cái ích kỷ của chính mình… đi du học từ năm 1962, những giai đoạn đau thương của đất nước thì không trải qua…thì có một cái gì đó nó đánh động và thấy rằng khi mà mình ra lại hải ngoại thì mình không thể nào tiếp tục cái cuộc đời bình yên như trước nữa, và lúc đó tôi bắt đầu quyết định vào cái nghề viết, và chọn phê bình văn học ạ.”
Thụy Khuê cho biết là khi quyết định viết văn, bà đã tự đặt cho mình chủ đích đầu tiên, là phải tìm hiểu những con người đã viết lên những câu thơ trong Nhân Văn Giai Phẩm đã từng làm cho bà xúc động. Trả lời câu hỏi vì sao Đảng Cộng Sản Việt Nam lại sợ một nhóm trí thức văn nghệ sĩ chỉ muốn được tự do tư tưởng, và đòi “trả văn nghệ lại cho văn nghệ sĩ lãnh đạo”?
Thụy Khuê giải thích: “Tôi nghĩ là bất cứ chế độ độc tài nào, đặc biệt là những chế độ toàn trị tức là họ muốn cai quản tất cả những tư tưởng của con người như chế độ cộng sản thì họ rất ngại những người văn nghệ sĩ, dù cho những người đó đòi tự do tư tưởng hay không, họ vẫn ngại bởi vì trong đám những công dân của một đất nước, thì văn nghệ sĩ là đám mà mình khó nắm bắt tư tưởng của nó nhất.”
Bà Thụy Khuê nói rằng chế độ có thể trói tay, treo bút văn nghệ sĩ nhưng không thể nắm bắt tư tưởng của họ. Vì lý do đó, các chế độ độc tài toàn trị thường tìm cách thu gọn nhóm trí thức văn nghệ sĩ lại một mối để dễ bề kiểm soát và điều khiển. Trong bối cảnh đó, cuộc đấu tranh của trí thức và văn nghệ sĩ trong phong trào Nhân văn Giai Phẩm lại càng có ý nghĩa hơn nữa:
Thụy Khuê: “Trong một chế độ như thế mà lại có một số người dám đứng lên! Lúc đó họ không hề đòi đánh đổ đảng gì cả nhưng chỉ đòi hỏi tự do tư tưởng mà thôi, nhưng từ chuyện họ đòi tự do tư tưởng, chế độ Cộng Sản nghĩ rằng họ có thể làm lung lay chế độ, và vì thế mà họ có thái độ rất tàn khốc đối với những người trong Nhân văn Giai Phẩm.”
Nửa thế kỷ là một thời gian đủ dài để luận công và tội. Ai phải chịu trách nhiệm chính trong vụ trù dập trí thức văn nghệ sĩ miền Bắc và “đập nát” Nhân Văn Giai Phẩm? Nhà văn Thụy Khuê nói trách nhiệm nằm trong tay lãnh đạo cấp cao nhất trong Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thụy Khuê: “Thưa chị, trong cuốn sách của tôi, tôi đưa ra những dữ kiện theo đó Tố Hữu thi hành, bắt người này người kia nhưng nếu nhìn sâu xa thì Tố Hữu cũng chỉ làm theo lệnh trên. Và cái lệnh trên của Tố Hữu là Trường Chinh. Ông Trường Chinh viết “Đề cương Văn Hóa Việt Nam” từ năm 1943, hướng dẫn tất cả những chính sách văn hóa của Đảng Cộng Sản đối với nước Việt Nam. Nhưng mà nếu tìm sâu hơn thì Trường Chinh cũng không thể nào viết được một cái bản như thế nếu không có lệnh của ông Hồ Chí Minh bởi vì chúng ta còn lạ gì, tất cả những chuyện trong một nước là do người làm chủ đất nước, lúc đó là ông Hồ Chí Minh, phải chịu trách nhiệm, kể cả chuyện phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và Cải cách Ruộng đất nữa.”
Trong số rất đông trí thức và văn nghệ sĩ ưu tú bị trù dập, nhiều người không ngóc đầu lên được trong nhiều thập niên, có Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, từng được người Pháp bái phục là một nhà hùng biện đại tài. Ông đạt một lúc hai bằng Tiến sĩ tại Pháp, Ưu hạng Luật Khoa và Tiến sĩ Quốc gia Văn chương khi mới lên 22 tuổi. Hãy nghe nhà phê bình Thụy Khuê nói về con người lỗi lạc này:
Thụy Khuê: “Một trí thức như Nguyễn Mạnh Tường không phải thế kỷ nào cũng có, vừa toàn diện về văn học, về luật khoa, về kiến thức đại cương, về triết học, thế mà trong suốt thời gian còn lại của ông, ông không được dùng kiến thức đó để dạy cho học trò. Những tác phẩm của ông đòi hỏi tự do dân chủ không bao giờ hời hợt, mà khi nào đặt vấn đề, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cũng đặt vấn đề cơ bản từ triết học, đòi hỏi quyền sống cho con người, một cách sâu sắc.”
Bà lấy làm tiếc là mấy chục tác phẩm của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cho tới nay vẫn chưa được in, ngoại trừ 2 cuốn “Un Excommunié- Kẻ bị Khai Trừ”, và “Une voix dans la nuit- Tiếng vọng trong đêm." Cả một thế hệ trí thức và văn nghệ sĩ bị dồn vào chân tường, bị vùi dập, bị cấm sáng tạo, cấm đóng góp, cấm dạy học, cấm in sách. Có người, như Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, bị bỏ rơi trong “sa mạc” của đói khát, khốn cùng. Thụy Khuê đánh giá những mất mát to lớn của thành phần tinh hoa đó đối với nền văn học nước nhà:
Thụy Khuê: “Thưa chị, nếu nói đến mất mát thì nó vô cùng, nó mênh mông, mình không biết làm sao đo lường chính xác sự mất mát đó. Bởi vì chỉ riêng Nguyễn Mạnh Tường không thôi, chỉ có hai tác phẩm trong một cái chiều kích mênh mông của Nguyễn Mạnh Tường, ông viết phải mười mấy, hai mươi mấy tác phẩm mà mình không được biết đến thì đủ biết là cái sự mất mát là bao nhiêu rồi.”
Thế nên rút ra bài học nào từ phong trào Nhân văn Giai Phẩm?
Nhà phê bình văn học Thụy Khuê: “Chúng ta phải tự ý thức rằng mỗi người chúng ta đều có trách nhiệm đối với đất nước ngày hôm nay, người Việt Nam ở hải ngoại cũng như người Việt Nam ở trong nước, phải ý thức được rằng nước mình sở dĩ ở trong tình trạng như thế này, không phải là chỉ có một số người người ta có quyền đè ép đâu, mà tự bản thân, mình có đòi hỏi cho dân chủ không. Trách nhiệm ấy là trách nhiệm của một thế hệ đã biết như thế nào là tự do tư tưởng, và cần phải đứng lên làm một cái gì đó, nhất là làm sao phải có một chế độ văn học không có kiểm duyệt, một nền báo chí không kiểm duyệt để ai ai cũng có thể nói được ý kiến của mình thì lúc đó mới có cơ may cho đất nước.”
Nhà phê bình chia sẻ nguyện vọng của bà cho tập biên khảo “Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc”:
“Nguyện vọng sâu xa của người viết cuốn sách này là mong nó sống lâu và nó sẽ được nhiều thế hệ độc giả đọc, không những trong nước mà ở ngoài nước, bởi vì tất cả những công trình nghiên cứu khoa học thì cái cuốn của mình chưa bao giờ là cuốn cuối cùng, nó chỉ là cái cuốn đầu tiên. Nếu được độc giả đọc và khám phá ra những lỗ hổng trong cuốn sách này, hoặc có những người sẽ từ những tìm kiếm của mình mà đi tìm kiếm thêm nữa thì cái đó là cái nguyện vọng sâu xa của tôi.”
Thụy Khuê cho biết tác phẩm kế tiếp của bà sẽ là một cuốn phê bình văn học thế kỷ 20.
Văn bản Nguyễn Ái Quốc: Lai lịch và văn bản
Thụy Khuê
Bộ sách Hồ Chí Minh toàn tập, 12 cuốn (nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2000), 8410 trang, gồm:
- 80% diễn văn, công văn chính thức, do các bí thư viết, văn phong thay đổi tùy
theo sách lược chính trị mỗi thời và bút pháp từng người.
- 5% chú thích.
- 15% còn lại là văn bản (gần 1000 trang), có thể chia làm hai phần: Phần dịch
từ tiếng Pháp những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và phần tiếng Việt gồm những bài ký
bút hiệu khác.
1- Phần tiếng Việt, gồm những bài đăng trên báo ở Việt Nam, ký C.B (tập 7 và
8; C.B là viết tắt của Của Bác, theo Bùi Tín), Trần Lực (tập 9 và 10) và
Chiến Sĩ (tập 11). Loạt bài tiếng Việt phản ảnh một tư chất: thực tiễn, ngắn
gọn, dễ hiểu, không lý thuyết, không lý luận, không khôi hài, có lẽ đó mới đích
thực là văn viết của Hồ Chí Minh.
Bài Việt nam yêu cầu ca, có thể xem là bài thơ đầu tay, phản ánh lối làm
thơ nôm na của ông. Sau này, còn có nhiều bài khác, cùng một phong cách như thơ
chúc Tết, thơ Trung thu và thơ ngâm vịnh. Lối thơ này được in lại trong tập 3.
2- Phần ký Nguyễn Ái Quốc gồm 735 trang (469 trang tập 1 và và 239 trang
tập 2) là bản dịch những bài viết trên báo Pháp, từ 1919 đến 1927. Bản dịch, đôi
khi chưa lột hết cá tính của nguyên văn, nhưng cũng làm lộ phẩm chất, tư tưởng,
lòng ái quốc và chí khí của người viết.
Chính loạt bài này đã "thành danh" Nguyễn Ái Quốc, xác định "tư tưởng Hồ Chí
Minh", làm cho ông trở thành thần tượng ngay từ thập niên 1920-1930 của thế kỷ trước.
Nguyên bản tiếng Pháp trên báo, được ký dưới hai dạng: Nguyễn Ái Quấc, trong
thời gian đầu, sau này có lẽ Nguyễn Thế Truyền đổi lại là Nguyễn Ái Quốc. Chúng
tôi dùng cả hai cách viết. Phần nghiên cứu này có hai mục đích:
- Truy nguyên lai lịch bút hiệu Nguyễn Ái Quấc/Quốc.
- Khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc.
*
Muốn truy nguyên lai lịch Nguyễn Ái Quốc, chúng ta phải trở lại sự thành lập
nhóm Người An Nam yêu nước.
1- Sự thành lập nhóm Người An Nam yêu nước
Xin tóm tắt một số dữ kiện chính:
Phan Văn Trường sang Pháp cuối 1908 (nghị định ngày 8/11/1908), dạy tiếng Việt
ở trường Sinh ngữ Đông phương và học Luật. Đầu năm 1912, ông lập hội Đồng Bào Thân
Ái (La Fraternité des Compatriotes). Đậu cử nhân luật. Nhập tịch Pháp, chuẩn bị
nghề luật sư. Khoảng 1913-1916, Phan Văn Trường có appartement nhỏ ở rue Berthollet,
Paris 5e, ông giữ địa chỉ này trong thời gian nhập ngũ và bị tù.
Phan Châu Trinh và con trai Phan Châu Dật, rời Sàigòn tháng 5/1911. Đến Paris,
thời gian đầu ở nhà trọ (pension de famille) sau đổi sang khách sạn (hôtel). Phan
Châu Dật học một trường ở khu Montparnasse. Tới tháng 4/1913, Phan Châu Trinh còn
ở hôtel phố l'Abbé-de-l'Epée, Paris 5e. Tháng 10/1913, ông dọn sang khách sạn phố
Cujas, Paris 5e.
Tháng 10/1912 Phan Châu Trinh gửi bản thỉnh nguyện lên hội Nhân quyền (với sự
giúp đỡ của Phan Văn Trường: dịch hoặc viết sang tiếng Pháp), nhờ can thiệp vào
việc trả tự do cho các nhân sĩ bị bắt cùng với Phan Châu Trinh, năm 1908, trong
vụ Trung Kỳ dân biến (tài liệu đăng trong Bulletin Officiel de la Ligue des droits
de l'homme et du citoyen, số 20, ngày 31/10/1912). Hai người bị buộc tội chống Pháp,
lần đầu.
Vì hoạt động của hội Đồng bào thân ái, Phan Văn Trường bị mất việc dạy học, Phan
Tuấn Phong và Phan Văn Kiên, anh và em của ông ở Hà Nội bị bắt, bị đầy sang Nouvelle-Calédonie.
Ngày 13/3/1914, Phan Văn Trường diễn thuyết về đề tài Les revendications indigènes
(Những thỉnh nguyện của người bản xứ) tại trường Cao Đẳng Xã Hội (Ecole des
Hautes Études Sociales), bài nói chuyện này là nguồn cội của bản Thỉnh nguyện
của Dân tộc An Nam (Revendications du Peuple Annamite), gửi Hội nghị
hoà bình thế giới ở Versailles, năm 1919.
Đại chiến thứ nhất bùng nổ, tháng 7/1914 Phan Văn Trường bị gọi đi lính (vì có
quốc tịch Pháp), đóng ở trung đoàn 102 bộ binh, tại Chartres. Giữa tháng 8/1914,
appartement của ông ở rue Berthollet, Paris bị an ninh lục soát, nhiều giấy tờ và
tài liệu bị tịch thu, trong đó có bài diễn văn đọc tại trường Cao đẳng xã hội. Ngày
12/9/1914, ông bị hiến binh bắt, giam vào nhà tù Chartres. Cùng thời gian này, Phan
Châu Trinh bị bắt ở Paris, tại khách sạn phố Cujas.
Ngày 13/9/1914, Phan Văn Trường bị giải lên Toà án binh Paris, bị giam vào binh
ngục Cherche-Midi, Paris 6e. Phan Châu Trinh bị giam vào ngục Santé, Paris 13e.
Tội danh: Xúi giục sinh viên du học căm thù chính phủ Pháp, tụ tập thành hội,
gieo mầm nổi loạn. Cả hai bị giam đến tháng 7/1915 mới được thả. Trong thời
gian này Thiếu Tá Roux hết sức bênh vực Phan Châu Trinh và luật sư Marius Moutet,
vận động cho Phan Văn Trường được tại ngoại.
Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán.
Ra tù, Phan Châu Trinh bị cắt trợ cấp, phải học nghề rửa ảnh, sống ở Paris và
Pons (vùng Charente-Maritine, gần Đại Tây Dương). Phan Văn Trường bị chuyển xuống
Công binh xưởng Toulouse (Arsenal de Toulouse) làm việc văn phòng và thông ngôn
cho lính và thợ Việt. (Trong thế chiến có khoảng 80.000 người Việt sang Pháp làm
lính thợ).
Từ 1916 đến 1920, Nguyễn Thế Truyền học kỹ sư ở Toulouse. Rất có thể Phan
Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã bí mật lập hội Người An Nam yêu nước trong
thời gian này. Nhiều thông tin đồng quy là hội Người An Nam yêu nước được
thành lập năm 1917.
1918, Nguyễn An Ninh sang Pháp học luật tại Sorbonne.
Tháng 6/1919, Nguyễn Tất Thành từ Luân Đôn qua Paris.
2- Hoạt động của Phan Văn Trường tại Công binh xưởng Toulouse
Ra rù, Phan Văn Trường tiếp tục là phần tử "nguy hiểm", luôn luôn bị theo dõi.
Mật thám dò hỏi người concierge (người giữ nhà) về mọi hoạt động, giao du của ông.
Trong thời gian ở Toulouse, ông không ở trong trại lính mà thuê nhà ở riêng, đổi
nhà 2 lần, đều ở Phố Taur (Rue du Taur). Trong thời gian ở Toulouse, ông gặp và
chung sống với một phụ nữ Pháp, sau này có một con trai, tên là Robert Phan Văn
Trường (sinh năm 1921).
Tháng 9/1917, vì việc ông dịch đơn xin hồi hương cho một người thợ, bộ
thuộc địa mở cuộc điều tra. Viên sĩ quan phụ trách tìm cách ép những người lính
thợ phải khai rằng chính Phan Văn Trường đã "chủ mưu xúi giục" họ viết đơn xin giải
ngũ. Thực ra, Phan chỉ dựa trên sự kiện: chính quyền thuộc địa dán áp-phích quảng
cáo khắp nơi, rằng đi chỉ một năm rồi về, để khuyến dụ mọi người "tình nguyện" đi
lính cho Tây. Nhưng lần này Phan Văn Trường không bị bắt, một phần vì Thiếu tá chỉ
huy trưởng Malacamp có thiện cảm với ông, và nhất là nhờ những người lính thợ, không
những không khai mà còn nói chính ông Phan đã ngăn cản chúng tôi nộp đơn xin giải
ngũ! [Theo Une histoire de conspirateurs annamites à Paris (Chuyện những
người An Nam âm mưu tại Paris), hồi ký Phan Văn Trường, L'insomniaque, 2003, trang
170-171].
Sự kiện này cho thấy tinh thần tương trợ của đồng bào và nói lên bộ mặt chìm
của an ninh: Bộ thuộc địa vẫn nghi ngờ hoạt động bí mật của Phan Văn Trường tại
Công binh xưởng Toulouse, họ theo dõi để diệt trừ.
Vậy hoạt động của Phan Văn Trường tại đây là gì?
Một mật báo, không ghi rõ ngày, viết:
"Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực. Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia. Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn Ái Quốc." (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 44)
Nội dung mật báo này có 2 câu đáng chú ý:
- Câu "Vào năm 1915, tuy Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường vẫn giữ vai trò
lãnh đạo hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã là do chính Nguyễn
Ái Quốc", có chỗ sai, vì 1915 Nguyễn Tất Thành chưa sang Paris, và chưa chắc
đã có tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng cũng có thể đúng, nếu thám tử coi Nguyễn Ái Quốc
là Nguyễn Thế Truyền hay một người nào khác.
- Câu: "Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi
hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực",
có lẽ đúng. Nếu đúng, nó xác định hoạt động và mối liên lạc giữa Phan Văn Trường
với binh lính, sĩ quan Việt, từ tháng 7/1915 đến tháng 5/1919, tại Toulouse. Trụ
sở hội ở đâu, không thấy nói rõ, có thể là nhà Phan Văn Trường, phố Taur, hoặc một
nơi nào khác.
Họ gặp nhau để làm gì?
Phan Văn Trường trong hồi ký chỉ viết về việc ông bị theo dõi, bị nghi "oan"
vì đã dịch thư xin hồi hương cho một đồng bào, mà không hở chút gì về hoạt động
của ông tại Toulouse. Lý do dễ hiểu: hồi ký Phan Văn Trường đăng từng kỳ trên báo
La Cloche Fêlée (Chuông Rè), từ 30/11/1925 đến 15/3/1926, chủ đích để "vạch trần
chính sách thực dân" nên không phải việc gì cũng "công bố" được.
Về tội xúi giục binh lính Việt xin hồi hương, chắc không oan, vì đó là chiến
lược của Phan Văn Trường: vận động một phong trào phản chiến trong lòng những sĩ
quan và binh lính Việt. Và ông luôn luôn khôn khéo, không ra ngoài khuôn khổ của
luật pháp: Việc họ đòi hồi hương, theo đúng hạn kỳ một năm mà chính phủ Pháp đã
hứa hẹn, là đúng luật. Việc này Phan còn làm lại lần thứ nhì, trên báo L'Annam ở
Sài Gòn năm 1926, kêu gọi lính Việt ở Trung Hoa, ngừng chiến đấu cho Pháp, và lần
thứ hai này ông bị bắt, bị kết án cùng với một số tội trạng khác, phải sang Pháp
tự biện hộ, nhưng vẫn bị tù (1929).
3- Nội dung các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Một mặt khác, khi đọc toàn bộ những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc và hai
tác phẩm Bản Án chế độ thực dân và Đông Dương (1923-1924), chúng ta
có thể hiểu được hoạt động của nhóm Người An Nam Yêu Nước tại Toulouse: Nội
dung tố cáo tội ác thực dân một cách xác thực, toàn diện và ghê gớm, chứa đựng trong
toàn bộ các văn bản ký tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc này, cho chúng thấy đây là công trình
dài hơi đã được thu thập tài liệu một cách quy mô trong một thời gian dài, trước
khi các tác giả chấp bút.
Vì vậy thời gian Phan Văn Trường ở Toulouse là thời gian hình thành cuộc cách
mạng bằng ngòi bút trên báo chí Pháp từ 1919 trở về sau.
Từ 1915 đến 1919, tại Toulouse, nhóm Yêu Nước đã tập hợp tài liệu và nhân chứng
để chuẩn bị cho cuộc tranh đấu công khai bằng ngòi bút:
1- Hàng ngày tiếp xúc với lính thợ và sĩ quan Việt, Phan Văn Trường đã thu
thập những nhân chứng quan trọng về chính sách dã man của thực dân. Đó
là kho lưu trữ lớn nhất, gồm những thông tin từ hai phía: phía chính quyền, qua
hồ sơ quân đội Pháp mà Phan tiếp cận được và phía nạn nhân, qua những điều mà người
lính thợ Việt Nam kể lại với ông, có những trường hợp cá nhân cụ thể.
3- Phan Châu Trinh có thông tin từ những người Việt sang Pháp, đem lại.
5- 1918, Nguyễn An Ninh từ Sài Gòn sang (trước khi đi Pháp, Ninh đã ra Hà Nội
học hai năm). Ông biết rõ tình hình cả Nam lẫn Bắc. Sau này, ông còn về nước nhiều
lần.
6- Nguyễn Thế Truyền sau khi học xong ở Toulouse, cũng về Bắc một năm, từ tháng
8/1920 đến tháng 8/1921, trong thời gian này, ông quan sát thấy hiệu lực của phong
trào: tên Nguyễn Ái Quốc được người trong nước coi như một vị anh hùng (Nguyễn Thế
Truyền kể lại trong bài "Một người Bôn-Sê-Víc da vàng").
Khi trở lại Paris, Nguyễn Thế Truyền mở rộng địa bàn tranh đấu trên tờ Le Paria
(Người cùng khổ) của hội Liên hiệp thuộc địa, cùng các nhà văn, nhà báo Châu Phi,
Madagascar. Tại trụ sở báo Le Paria, Nguyễn Thế Truyền thu thập thêm thông tin,
qua nhân chứng của các nhà báo Châu Phi và bạn đọc ở các thuộc địa gửi về toàn soạn.
Tất cả những dữ kiện đó, tạo ra một ngân hàng thông tin, mà các tác giả sử dụng
để viết những bài báo, đúng ra là những bản cáo trạng, phơi bày sự thật về chính
sách thực dân tại Đông Dương, dưới một bút danh bí mật Nguyễn Ố Pháp, rồi Nguyễn
Ái Quấc/Quốc. Nguyễn Tất Thành là người đứng ra nhận tên Nguyễn Ái Quốc.
Khi viết về thời kỳ lịch sử này, phần lớn, nếu không muốn nói là hầu hết các
nhà nghiên cứu Pháp-Việt đều coi Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc
là ba nhân vật chính. Điều đó không sai. Nhưng sự sai lầm đến từ sự kiện Nguyễn
Tất Thành/Hồ Chí Minh không phải là tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Sở dĩ đến ngày nay, vẫn chưa có ai soi tỏ những sai lầm này, vì ba nguyên do
sau đây:
1- Hồ Chí Minh "chính thức" nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và khi viết hồi ký, ông
đã tạo ra các bằng chứng để biện minh điều đó.
2- Sau khi thua trận, người Pháp có mặc cảm tự ti đối với Hồ Chí Minh. Mặc cảm
này dường như đã thấm vào vô thức của nhiều người, kể cả các nhà nghiên cứu đứng
đắn.Vì vậy, dù họ có đặt ra một số nghi vấn về tác giả Nguyễn Ái Quốc nhưng rồi
vẫn mặc nhiên coi Nguyễn Ái Quốc là Hồ Chí Minh. Trường hợp Thu Trang-Gaspard trong
cuốn Hồ Chí Minh à Paris, cũng tương tự. Riêng đối với một số đảng viên cộng
sản Pháp (như sử gia Alain Ruscio, hay Léo Poldès, trách nhiệm Câu lạc bộ Faubourg),
thì việc tung hô lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng mọi giá còn có mục đích tuyên truyền cho
đảng Cộng sản.
Một lẽ khác: Nhiều người Pháp, một mặt, không biết rõ những khó khăn của một
người ngoại quốc học tiếng Pháp; một mặt, tưởng rằng Nguyễn Tất Thành cũng như hầu
hết những thanh niên Việt sang Pháp thời ấy, đều rành tiếng Pháp; sử gia Daniel
Hémery còn tin rằng Hồ Chí Minh đã có bằng Certificat d'études primaires.
Ngoài ra, có người cho rằng ai viết thì cũng thế thôi, nhưng nếu lãnh tụ vĩ đại
viết thì mới đáng kể.
Nhưng đối với người Việt, dưới vấn đề văn bản, còn cả một sự ngụy trang lịch
sử không thể bỏ qua.
3- Sự nhầm lẫn của các nhà nghiên cứu, còn đến từ một sự kiện khác: việc sử dụng
những báo cáo sai lầm của mật thám. Yếu tố sau cùng này là rường mối của các sai
lầm mà chúng tôi gọi là sai lầm của những nhà nghiên cứu đứng đắn và sự kiện
này cần được mổ xẻ, phân tích kỹ càng.
4- Sự nhầm lẫn của mật thám
1- Chính quyền thuộc địa dùng nhiều mật thám người Việt, để dễ len lỏi vào môi
trường Việt kiều. Những người có bí danh như Jean (chuyên theo dõi Nguyễn Tất Thành)
hay Désiré (theo dõi Nguyễn Thế Truyền) đều là người Việt. Trong số mật thám có
cả các quan: Đốc Phủ Bảy là một trường hợp.
Mật thám Nguyễn Như Chuyên là "sinh viên", gần gụi Phan Châu Trinh, làm thông
dịch cho ông, trao đổi thư từ "tâm huyết" với ông trong nhiều năm, được ông coi
như đồ đệ. Chuyên cũng mon men đến với Phan Văn Trường. Nhưng ông Trường là người
cực kỳ thận trọng, đã cảnh cáo ông Trinh, nhưng ông Trinh không nghe. Trong hồi
ký, ông Trường trách ông Trinh "khinh xuất" là như thế. Chính Nguyễn Như Chuyên
đã mạo khai để Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt về tội "phiến loạn", bị
đi tù 11 tháng (1914-1915). Và Nguyễn Như Chuyên còn được Pháp trao cho nhiệm vụ
vào tù chung với Phan Văn Trường và giả điên, để thuyết phục Phan Văn Trường viết
đơn xin ân xá, nhưng không thành.
Pháp dùng mật thám theo dõi các thân chủ của Phan Văn Trường, đe dọa họ, nếu
cứ tiếp tục mượn Phan Văn Trường, một kẻ phiến loạn, chống nhà nước Pháp,
biện hộ, thì có ngày sẽ mang họa. Phan Văn Trường nêu những vụ việc này trên bức
thư ngỏ gửi Bộ Trưởng Nội Vụ và Thuộc Điạ, đăng trên báo Le Paria. (Hồi ký Phan
Văn Trường).
2- Mật thám có thể đưa những thông tin sai lầm:
Cuốn Cochinchine (Nam Kỳ) (Rieder, 1926, Viviane Hamy, 1997) của Léon
Werth, là một tác phẩm văn học giá trị, nói lên sự khâm phục kín đáo của tác giả
đối với Nguyễn An Ninh và mô tả tỷ mỷ đời sống hàng ngày ở Nam kỳ dưới sự áp bức
của bọn thực dân vô giáo dục trên một dân tộc có truyền thống văn hóa lâu đời nhưng
cam chịu.
Léon Werth kể lại câu chuyện sau đây: hai mật thám người Việt có nhiệm vụ theo
dõi Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, nhưng thay vì theo Ninh, họ lại đi theo Dejean de
la Bâtie (Chủ nhiệm báo La cloche fêlée, người Pháp lai, đồng chí của Nguyễn An
Ninh). Khi Werth và Ninh rời Sài Gòn đi Lục tỉnh, họ vẫn tiếp tục theo dõi la Bâtie
và làm báo cáo hàng ngày. Đến lúc cơ quan an ninh ở Rạch giá đánh điện lên, Sài
Gòn mới biết là nhầm, hình như hai người này bị đuổi! (Cochinchine, trang 156)
3- Theo dõi Nguyễn Ái Quốc:
Vấn đề theo dõi Nguyễn Ái Quốc, còn phức tạp hơn nhiều. Vì những lý do sau đây:
a- Người Pháp (và người Tây phương nói chung) thường dùng Họ thay
Tên. Vì vậy, đối với người Pháp, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Ái Quấc, đều là M. Nguyễn.
b- Thời gian đầu, mật thám chưa phân biệt được 3 người họ Nguyễn: Nguyễn Thế
Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành. Vì vậy, có một số mật báo hoàn toàn trái
ngược nhau, ví dụ tả Nguyễn Ái Quốc là người miền Nam (Nguyễn An Ninh), học ở Pháp
từ nhỏ (Nguyễn Thế Truyền), có mật báo còn nhầm Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Như Chuyên
(là kẻ theo dõi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường)... Đến khi chụp được ảnh Nguyễn
Tất Thành, đưa cho những người đã đi theo những Nguyễn khác, xem. Lúc đó
mới vỡ lẽ.
c- Chính bộ ba Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành cũng tung
hoả mù: Truyền và Ninh cố tình giao các văn bản họ đã viết cho Thành đem khoe
với mật thám rằng mình vừa viết xong. Vì thế, từ cuối năm 1919, đã có những
bản mật báo ghi rõ: Nguyễn Ái Quốc vừa viết xong cuốn sách này, dịch cuốn sách kia...
Daniel Hémery đã dựa vào những báo cáo này, để viết: "Cuối năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc đã "sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp),
có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation (Bản án Chế độ
thực dân) và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des
lois (Vạn pháp tinh lý) sang Quốc ngữ." (Daniel Hémery, Ho Chi Minh,
De L'Indochine au Vietnam, Gallimard, 1990, trang 45). Điều này không thể tin được
vì Nguyễn Tất Thành mới sang Pháp từ tháng 6/1919.
Việc vở kịch Le dragon de bambou (Rồng tre), là một ví dụ, có thể Truyền
(hay Ninh) viết, rồi đưa Thành đem đến cho Léo Poldès, đảng viên cộng sản, người
điều khiển các buổi nói chuyện ở Câu lạc bộ Ngoại ô (Club du Faubourg), nơi mà Nguyễn
Tất Thành, từ khi ở ngõ Compoint, Paris 17e, hay đến để tập nói tiếng Pháp giữa
công chúng. Léo Poldès đọc thích quá, và ông đã giúp việc dựng vở kịch (được trình
diễn một lần ở lễ hội L'Humanité năm 1922). Léo Poldès nhận xét về vở kịch này:
"Hoàn chỉnh, hóm hỉnh, đối thoại hài hước quất vun vút như roi, sống động như
lối khôi hài của Aristophane [Kịch tác gia danh tiếng của Hy Lạp]" (Trích bài
của Léo Poldès, trên báo Ici Paris Hebdo ngày 11/6/1946, in lại trong
Hồ Chí Minh Le procès de la Colonisation française, L'Harmattan, 2007, trang
195).
d- Mật báo ngày 28/11/1919, mô tả khá đúng chân dung Nguyễn Tất Thành như sau:
"Chúng tôi thấy ở Paris có một người An Nam hình như gốc Bắc, tự nhận là Nguyễn Ái Quốc. Hắn giấu kỹ danh tánh thật. Chính hắn đã ký những bản truyền đơn đòi tự trị ở Đông Dương. Hắn ở số 6, villa des Gobelins, nhà luật sư Phan Văn Trường, hắn chuyên về vấn đề chính trị và cả ngày ở thư viện Quốc gia, phố Richelieu, thư viện Sainte-Geneviève, Place du Panthéon, ở văn phòng Hội Nhân Quyền, phố L'Université, hoặc nậm nọa với bọn khả nghi cùng chủng loại.
Hắn thư từ với Phan Châu Trinh ở Pons, Phan Văn Trường và Khánh Ký hiện đang ở Mayence. Tình báo cho biết tại nhà số 6 Villa des Gobelins bọn An Nam có khi tụ họp tới 1 giờ sáng, cãi nhau ỏm tỏi đến nỗi láng giềng phải than phiền. (...) Các thám tử của ta theo dõi rất sát tên được gọi là Nguyễn Ái Quốc, một người đã kết thân được với hắn, sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ thổ lộ cho biết danh tánh thật". (Thu Trang- Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 82-83)
Theo Phan Văn Trường, nhà ông lúc nào cũng có vài người canh gác bên kia đường
(villa des Gobelins là một ngõ cụt nhỏ, immeuble khang trang). Vậy thám tử "tìm
thấy" Nguyễn Tất Thành ở số 6 villa des Gobelins là đương nhiên, và Thành nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc, cũng đương nhiên. Sự tranh luận sôi nổi có thể về đề tài những
bài báo sẽ viết. Thời điểm ấy, theo Phan Văn Trường, mọi người đều đến thư viện,
đọc và học, vì không có tiền mua than củi để sưởi nhà, rất dễ nhầm người này với
người kia, nhất là những người cùng tên Nguyễn.
e- Ngày 12/10/1920, Tổng Thanh Tra Pierre Guesde viết bài tổng kết gửi
lên Bộ trưởng, tình hình còn hết sức lộn xộn: Cơ quan an ninh Pháp vẫn chưa xác
định được ai là người viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, vì họ không tin Nguyễn
Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc. Điều này có thể phát xuất từ sự so sánh khả năng nói
tiếng Pháp của Nguyễn Tất Thành trong lúc hỏi cung với tiếng Pháp của các bài báo
(viết như người Pháp). Đứng trước tình trạng: Có một "bóng ma" tên Nguyễn (Nguyễn
Ái Quốc) được mô tả trong các bản mật báo: diễn thuyết, có mặt trong các thư viện,
là tác giả các bài báo. Và một "người thật" là Nguyễn Tất Thành tự xưng mình là
Nguyễn Ái Quốc.
Pierre Guesde, tường trình về sự hoang mang của mật vụ Pháp như sau:
"Paris ngày 12 tháng 10 năm 1920
Thưa ông Bộ trưởng,
(...) Trước hết, Nguyễn Ái Quốc, giấu danh tánh thật của y. Y không muốn bị lộ tung tích; y đã đổi tên nhiều lần khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác, cái tên Nguyễn Ái Quốc hiện nay chỉ đánh lừa được kẻ không biết tiếng An nam; Nguyễn Ái Quốc có nghiã đơn thuần là "Nguyễn yêu nước".
Tất cả mọi cố gắng đều dồn vào việc điều tra hộ tịch của Quốc. Những người chỉ điểm An Nam và các thanh tra an ninh đều bắt tay vào việc và trao đổi thường xuyên với Đông Dương.
Những thông tin do Cảnh Sát Cuộc (Préfecture de Police) cung cấp chẳng có gì chính xác (...) Trong buổi nói chuyện với ông Thanh Tra Cảnh Sát Trưởng, tôi đã thông báo là ông Toàn quyền Đông dương rất có lý khi nhấn mạnh đến việc cần xác định danh tánh Quốc. Tôi còn nói thêm: "Nguyễn Ái Quốc tự nhận mình là người An Nam. Có thật thế không? Ai chứng tỏ điều đó? Y nói rằng y không có giấy tờ nào do nhà cầm quyền Đông Dương cung cấp. Y xen vào chính trị, trà trộn vào những nhóm chính trị, phát biểu trong những buổi hội họp cách mạng, và chúng ta không biết rõ đối thủ là ai! (...)"
Sau buổi tôi nói chuyện cùng ông Thanh Tra, Nguyễn Ái Quốc bị gọi đến Cảnh Sát Cuộc. Người ta đã chụp hình và hỏi cung y. Việc này xẩy ra ngày 20 tháng 9 [1920]. Những câu trả lời của Quốc được lưu trữ trong biên bản đính kèm. Y vẫn khăng khăng nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chúng ta chắc chắn đó là lời mạo nhận.
Nhưng ngay sau đó, Pierre Guesde lại viết những lời gần như ngược lại:
"Trong tình trạng hiện nay của ăng-kết, với những thông tin tiếp được từ Đông Dương, tôi nghĩ có thể xác định rằng Nguyễn Ái Quốc chẳng qua là tên Nguyễn Tất Thành, kẻ đã ở An Nam năm 1908, trong khi xẩy ra bạo loạn, và đã ở Anh trước khi đến Pháp. Mà Nguyễn Tất Thành được coi là kẻ phiến động nguy hiểm.
Ngay từ ngày 25/7/1919, qua điện tín số 1791, chính phủ Đông Dương đã thông báo rằng một bản thỉnh nguyện có ẩn ý, gửi từ Paris, hôm 18/6, cho nhiều tờ báo ở Thuộc địa, dưới cái tựa "Những thỉnh nguyện của dân tộc An nam". Bản thỉnh nguyện này, trước tên ký, có ghi: Thay mặt nhóm người An Nam yêu nước: Nguyễn Ái Quốc" (...)
Nguyễn Ái Quốc đã liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc. Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những kẻ cách mạng Trung hoa, Triều tiên, Nga, Ái nhĩ lan, v.v... Y phát biểu trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng 5 vừa qua [1/5/1920] và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Đoạn văn trên đây chứng tỏ sự bối rối của cơ quan an ninh Pháp: Một mặt cho rằng
có một Nguyễn Ái Quốc giả, tức là kẻ đến trình diện, tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.
Một mặt lại tin rằng có một Nguyễn Tất Thành (thật), người ấy mới chính là Nguyễn
Ái Quốc, đi diễn thuyết và là tác giả các văn bản.
Nhưng theo Hồ Hữu Tường, thì người lên trình diện chính là Nguyễn Tất Thành,
chứ không phải ai khác. Hồ kể lại giai thoại: trát đòi Nguyễn Ái Quốc lên trình
diện, nhưng lại gửi về địa chỉ Phan Châu Trinh và Phan đã giao cho Nguyễn Tất Thành
lên trình diện (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984,
trang19).
Nguyễn Ái Quốc được an ninh Pháp mô tả trong thời gian từ 1919 đến tháng 5/1920,
là người đã "liên kết với nhiều phần tử cách mạng ở Pháp và ở ngoại quốc.
Y giao thiệp cùng lúc với nhóm xã hội, nhóm vô chính phủ ở Pháp và những
kẻ cách mạng Trung hoa, Triều tiên, Nga, Ái nhĩ lan, v.v... Y phát biểu
trong những buổi diễn thuyết của đảng Xã hội, đáng chú ý là hôm 1 tháng
5 vừa qua [1/5/1920] và trong những cuộc đình công khác nhau. Y vừa
viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương. Chúng
tôi đã có được bản cóp-pi những đoạn chính của cuốn sách này. Tài liệu đính kèm.
Chân dung này chính là Nguyễn An Ninh, nhờ ba yếu tố: vô chính phủ, diễn thuyết
liên miên và viết sách đòi độc lập cho Đông Dương. Nguyễn Thế Truyền lúc đó còn
ở Toulouse và Nguyễn Tất Thành, mới sang, không rành tiếng Pháp, không thể diễn
thuyết và viết sách tiếng Pháp được.
Pierre Guesde viết tiếp:
"Những bài báo phát xuất từ Nguyễn Ái Quốc và đồng bọn được đón nhận khá tốt trong một loại báo (đặc biệt báo L'Humanité). Chúng ta thấy những bài ký tên y trong những báo khác nhau, đặc biệt trong tờ L'Humanité ngày 2/8/1919, và trong tờ Le Populaire ngày 4 và 14/10/1919. Y ở số 6, villa des Gobelins, Paris, trong một nhà lầu (immeuble) do Phan Văn Trường thuê (Phan Văn Trường là một trong những tay phiến động nguy hiểm nhất hiện đang ở Đức cùng với Khánh Ký và François Albert, tất cả đều là bạn Nguyễn Ái Quốc cũng như Phan Châu Trinh thường trực ở nhà Nguyễn Ái Quốc và hiện đang ở đây luôn). Kèm đây là lá thư của Nguyễn Ái Quốc gửi cho M. Outrey, từ Biarritz, ngày 16/10/1919, cho thấy ý kiến của Nguyễn Ái Quốc về chính phủ ta như thế nào. Nhóm cách mệnh bao gồm những phần tử chính người An Nam mà tên vừa kể trên đây, tuyên bố rằng muốn ở lại Âu Châu để gặp dịp, sẽ hoàn toàn tự do vạch ra, những sai lầm của nhà cầm quyền Pháp và phụng sự lợi ích An Nam ngõ hầu đạt được càng sớm càng tốt: Sự tự chủ của Đông Dương (...) Ta có thể xác định rằng Phan Văn Trường là kẻ thông minh nhất và quỷ quyệt nhất trong nhóm. Nguyễn Ái Quốc là thư ký và là người cho Phan Văn Trường mượn tên" (...) (Carton 87, S. III, Thu Trang - Gaspard, Hồ Chí Minh à Paris, trang 107-108).
Tóm lại, bản tường trình của Pierre Guesde bị rối loạn vì những báo cáo sai lầm
của thám tử. Gọi là lầm mà không lầm vì vô tình, họ đã xác định được 1/3
sự thực: Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh.
Tóm lại, người mà thám tử thấy viết sách, giao thiệp với nhóm xã hội, nhóm vô
chính phủ và diễn thuyết liên miên, năm 1919-1920, chính là Nguyễn An Ninh. Người
"vừa viết xong một cuốn sách trong đó y đòi độc lập cho Đông Dương" cũng
là Nguyễn An Ninh, có thể đó là cuốn La France en Indochine. Người viết
Lá thư gửi từ Biarritz cho M. Outrey cũng là Nguyễn An Ninh (sẽ giải thích
sau).
Trong bản báo cáo, viên Tổng Thanh Tra Pierre Guesde rất tinh tường qua những
nhận xét khác của ông:
- Một mực không tin Nguyễn Tất Thành là Nguyễn Ái Quốc.
- Đọc các văn bản Nguyễn Ái Quốc, ông đoán đây là người Pháp viết tiếng Pháp.
Đặc biệt ông chú ý đến những bài quan trọng như La question des indigènes en
Indochine (Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương) do Phan Văn Trường viết. Và hai bài
L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison (Đông dương và Triều
tiên, một sự so sánh lý thú) và Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey),
do Nguyễn An Ninh viết.
- Ông xác định Phan Văn Trường là người nguy hiểm nhất.
Tóm lại, tới ngày 12/10/1920, Pierre Guesde vẫn đinh ninh rằng
Nguyễn Tất Thành là người "gánh" cái tên Nguyễn Ái Quốc cho Phan Văn Trường. Điều
này cũng lại không sai, nhưng Guesde cũng mới chỉ nhìn được 1/3 sự thật: Phan
Văn Trường cũng là Nguyễn Ái Quốc. Và khi Nguyễn Tất Thành đã đi Nga, Tổng Thanh
Tra Pierre Guesde vẫn tiếp tục xác định Nguyễn Ái Quốc không phải là Nguyễn Tất
Thành, nhưng ông không tìm ra được Nguyễn Ái Quốc là ai.
5- Nguyễn Tất Thành trở thành Nguyễn Ái Quốc và xin vào hội Tam Điểm
Khi Nguyễn Tất Thành đến Paris tháng 6/1919, thì Hội nghị Hoà bình đã khai mạc
từ ngày 18/1/1919 ở Versailles. Mục đích của hội nghị là xây dựng những quốc
gia Âu Châu mới sau thế chiến. Nhóm Người An Nam yêu nước muốn lợi dụng
tình hình quốc tế thuận lợi, để xác định sự hiện diện của Việt nam, một đất nước
đã mất chủ quyền và có thể nhóm người Việt cũng đã thảo luận với đại biểu các nước
khác trong hậu trường của Hội nghị, trước khi tung ra bản Thỉnh Nguyện của dân
tộc An Nam.
Bản Thỉnh nguyện hoàn tất. Tại sao Phan Văn Trường giao cho Nguyễn
Tất Thành đem đến Versailles, mà không giao cho một người khác? Lý do đơn giản:
Nguyễn Tất Thành là khuôn mặt mới, vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa bị mật
thám bao vây, dễ vào hội nghị. Lần xuất hiện đầu tiên này, chưa ai biết Nguyễn Tất
Thành là ai.
Nguyễn Tất Thành, xa nước từ năm 1911, sống vất vả ở trên tàu, rồi biệt lập ở
Luân đôn, vừa sang Pháp, chưa thể biết rõ những thông tin về tình hình trong nước,
cũng không đủ kiến thức và không rành tiếng Pháp, nên chỉ có thể giữ những vai trò
khiêm tốn: học Pháp văn, giữ sổ sách chi thu, tập viết những mẩu tin, phụ trách
việc in và phát truyền đơn. Ông không thể viết được những bài xã luận ký tên
Nguyễn Ái Quấc/Quốc. Nhưng vì muốn trở thành chính khách, Nguyễn Tất Thành xung
phong nhận tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc. Việc đưa bản Thỉnh nguyện đến Versailles là
chặng đầu.
Xin vào hội Tam Điểm, là chặng thứ nhì. Việc này chắc chắn phải do sự sắp đặt
của Phan Văn Trường (có thể Phan Văn Trường cũng có chân trong Hội Tam Điểm), vì
Nguyễn Tất Thành mới tới Paris, không thể biết rõ về hội Tam Điểm.
- "Tháng 8/1919, Quốc đệ đơn xin vào nhóm Ernest Renan trong hội Tam Điểm
(Franc-Maçonnerie), 16 Rue Cadet, nhưng không được." (Brocheux, Ho Chi Minh,
trang 110)
- Ngày 14/6/1922, Nguyễn Ái Quốc được kết nạp vào hội Tam Điểm. (Thu Trang,
Phan Châu Trinh, trang 193).
Tháng 8/1919, người ta chưa biết Nguyễn Tất Thành là ai. Hội Tam Điểm từ chối.
Nhưng đến tháng 6/1922, (ba năm sau), Nguyễn Tất Thành đã "chính thức" trở thành
Nguyễn Ái Quốc, một tên tuổi trong làng báo chống thực dân. Hội Tam Điểm mới chấp
nhận.
Nhưng chỉ được vài tháng, Nguyễn Ái Quốc bỏ Tam Điểm, vì sao?
Tam điểm là một hội kín, có truyền thống lâu đời trên thế giới, dựa trên nguyên
tắc cao quý "Thân ái (Fraternité) giữa người và người". Nhưng trên thực tế,
hội quy tụ những phần tử ưu tú của xã hội, có thể nắm vận mệnh các dân tộc. Người
làm chính trị vào hội Tam điểm để được bảo vệ khi gặp bất trắc. Trần Trọng Kim cũng
ở trong hội Tam Điểm vì vậy khi làm chính trị, ông có thể nói thẳng mà không sợ
chính quyền thuộc địa đàn áp.
Có thể Phan Văn Trường đã tìm cách đưa Nguyễn Tất Thành vào hội Tam Điểm khi
Thành mới tới Paris, vì ông tin tưởng ở tương lai người thanh niên nhiệt tình này,
và muốn có một thế lực hậu thuẫn cho Tất Thành. Nhưng khi được vào hội rồi, Nguyễn
Ái Quốc/Tất Thành không chịu nổi không khí trí thức trưởng giả của hội và có thể
còn bị áp lực của đảng Cộng sản, nên ít lâu sau Nguyễn Tất Thành đã bỏ hội Tam Điểm.
Về việc Nguyễn Ái Quốc có giấy mời đi dự hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp,
cuối năm 1920, Hoàng Văn Chí cho rằng do Nguyễn Thế Truyền sắp đặt. Có lẽ không
đúng, mà vẫn do Phan Văn Trường lo liệu, vì lúc đó Nguyễn Thế Truyền đang ở Việt
nam.
Giới chính khách và trí thức Pháp không dễ thâm nhập, phải là bạn ngồi cùng ghế
đại học với họ, hoặc có danh, hoặc có tài. Họ có thể tranh đấu cho cần lao,
nhưng họ không làm bạn với những người cần lao, ít học. Một nghịch lý nhưng
là sự thật. Vừa đến Paris, đang làm thợ rửa ảnh, tiếng Pháp chưa thông, làm sao
Nguyễn Tất Thành có thể gặp người này, người kia, trong chính giới của Pháp? Nếu
không được một trí thức (như Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền) giới thiệu,
và phải "có tên tuổi" trong làng báo như Nguyễn Ái Quốc. Nhờ những yếu tố này, Tất
Thành/Ái Quốc mới có thể được chấp nhận trong môi trường chính trị cánh tả của Pháp.
Bài 3: Khảo sát
văn bản Nguyễn Ái Quấc/Quốc
Sự khảo sát văn bản Nguyễn Ái Quốc dẫn tới sự xác định vai trò lãnh đạo phong
trào Việt kiều yêu nước (1912-1927) của Phan Văn Trường trong những năm đầu (1911-1920)
và của Nguyễn Thế Truyền trong những năm cuối (1921-1927). Đó là cơ sở đầu tiên
của những ngòi bút chống thực dân trên đất Pháp.
Từ 1927, khi Nguyễn Thế Truyền về nước, phong trào Việt kiều yêu nước sẽ do nhóm
Trốt-kít tiếp tục lãnh đạo với Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm, Huỳnh Văn
Phương, Trần Văn Thạch... Những nhà ái quốc này, tới năm 1945, sẽ bị Việt minh thủ
tiêu, trừ Hồ Hữu Tường sống sót vì trốn ở Hà Nội.
Từ trước đến nay, Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh được chính thức coi là người lãnh
đạo và xây dựng phong trào Việt kiều yêu nước.
Trong giới thông thạo lịch sử và giới nghiên cứu, Phan Châu Trinh và Phan Văn
Trường được nêu ra như những người mở đường, hai nhà lãnh đạo; nhưng vai trò lãnh
đạo chính được dành cho Phan Châu Trinh. Phan Văn Trường ít ai biết, hoặc có biết,
cũng chỉ coi ông là người phiên dịch tư tưởng Phan Châu Trinh ra tiếng Pháp (cả
Hồ Hữu Tường cũng lầm như thế).
Nhưng sự thật có lẽ khác hẳn: Trong thời kỳ đấu tranh ở Pháp, Phan Châu Trinh,
với một quá khứ can trường, tuy được dân tộc quý mến, nhưng ông không phải là người
lãnh đạo phong trào. Lý do: ông không cùng tư tưởng với những người viết bài ký
tên Nguyễn Ái Quốc. Là nhà nho, không hiểu tiếng Pháp và văn hoá Pháp, cho nên biện
pháp đấu tranh của ông trên đất Pháp, trở thành lạc hậu, so với những người Tây
học.
1. Phan Châu Trinh dưới mắt Phan Văn Trường
Sự bất đồng ý kiến giữa Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh đã nhiều nơi đề cập,
nhất là qua những bức thư Phan Châu Trinh viết cho Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn Ái Quốc, đã được công bố.
Ở đây, chúng tôi chỉ nhắc đến ý kiến của Phan Văn Trường trong cuốn hồi ký
Une histoire de conspirateurs annamites à Paris (Chuyện những người An Nam âm
mưu tại Paris), bắt đầu đăng trên báo Chuông Rè từ cuối năm 1925. Sử gia Ngô Văn,
người in lại cuốn hồi ký này ở Paris năm 2003 (nxb L'insomniaque) cho biết: Ở thời
điểm xuất hiện trên báo Chuông Rè, tác phẩm gây chấn động trong lòng người dân nô
lệ như một luồng điện giật.
Sau khi Phan Văn Trường mất (ngày 21/4/1933), bà Phạm Vân Anh có viết loạt bài
tựa đề Cái đời gian truân lưu lạc của Phan Văn Trường, ký VA [PNTV
từ số 211 (10/8/1933) đến số 218 (28/9/1933), đăng lại trên cuốn Phụ Nữ Tân Văn
Phấn son tô điểm sơn hà của Thiện Mộc Lan, Văn Hoá Sài Gòn, 2010]. Loạt bài
của VA, phỏng theo hồi ký của Phan Văn Trường nhưng đã lược bỏ tất cả những chi
tiết liên quan đến chính trị và tinh thần chống thực dân trong bản Pháp văn, vì
dưới thời Pháp thuộc, báo tiếng Việt không tự do bằng báo tiếng Pháp.
Cuốn hồi ký này, viết xong tại Paris, tháng 10/1923. Tháng 12/1923, Phan
Văn Trường xuống tàu về nước, tới Sài Gòn cuối tháng giêng 1924. Sau đó ông ra Bắc
khoảng một năm, thăm gia đình sau 16 năm xa cách, đến 1925, ông mới trở lại Sài
Gòn và lo việc lập văn phòng luật sư và làm báo. Vì vậy, hồi ký chỉ bắt đầu đăng
trên báo Chuông Rè từ ngày 30/11/1925.
Nội dung tác phẩm trình bày hành trình tư tưởng và con đường tranh đấu của Phan
Văn Trường. Kêu gọi người dân nô lệ phải đứng lên làm người. Đừng sợ kẻ
khác. Dù phải trả giá thế nào đi chăng nữa. Ông thuật lại vụ án mà ông
và Phan Châu Trinh bị thực dân dàn dựng để ghép hai người vào tội âm mưu lật đổ
chính quyền Pháp.
Phan Văn Trường đã dành nhiều trang hồi ký cho Phan Châu Trinh, người
bạn đồng hành của mình. Ông viết theo lối Tây học, có gì nói thẳng, cả cái hay lẫn
cái dở của bạn. Một nhận xét: Phan Văn Trường không hề nhắc đến tên Nguyễn Tất
Thành, mặc dù Nguyễn Tất Thành ở nhà Phan Văn Trường trong 2 năm (từ tháng 6/1919
đến tháng 7/1921).
Sự ngây thơ của Phan Châu Trinh, được phân tích khá cặn kẽ, trong chương X. Phan
Văn Trường mô tả Tây Hồ như sau:
Ông Phan Châu Trinh là người thông minh thiên bẩm, uyên bác và có kinh nghiệm
sống, nói chuyện hay, nhưng dường như những ưu điểm trên đây bị sự khinh suất khó
mường tượng và sự ngây thơ lạ lùng phá vỡ. Những lời lẽ hạ mình đối với chính quyền
thực dân trong Đầu Pháp chính phủ thư, thực vô ích, vì ông không hiểu rõ
thâm ý của chính quyền thuộc địa, mà hậu quả còn bị bọn quan lại thâm thù và kết
án tử hình nếu hội nhân quyền Pháp không kịp thời can thiệp. Phan Châu Trinh đến
Pháp với con trai là Phan Châu Dật, 12 tuổi, để lại nhà vợ và 2 con gái. Chính phủ
Pháp trợ cấp mỗi tháng 420 francs. Hai cha con ở một nhà trọ, có vài công chức cao
cấp của chính quyền thuộc địa thỉnh thoảng đến thăm. Ông được đồng bào nhiệt liệt
hưởng ứng, người Việt ở Paris đến thăm và nghe ông nói chuyện, để thoả lòng nhớ
nước, Phan Văn Trường viết:
"vị nhân sĩ này tượng trưng xã hội An Nam xưa. Ông ra vào văn phòng của bộ Thuộc địa như một nhân vật được ưu ái tín nhiệm (personna grata), ông trình bày những quan điểm chính trị, đặc biệt yêu cầu ân xá cho những người bạn cùng cảnh ngộ còn ở trong tù, nhưng không bao giờ ông nhận được trả lời ngoài sự im lặng khinh bỉ.
Sự chăm sóc hời hợt của chính quyền thuộc địa lúc đầu, lạnh dần để cuối cùng chuyển sang ác cảm và thù nghịch." (Hồi ký PVT, trang 72).
Vẫn theo Phan Văn Trường, sự chăm sóc hời hợt này chỉ là cái cớ để dễ bề trừng
phạt khi Phan Châu Trinh dám bàn (phiếm) đến chính sách chính trị ở Đông Dương,
và đã cùng Phan Văn Trường, làm một bản Thỉnh nguyện gửi hội Nhân Quyền, nhờ can
thiệp cho những người bạn còn bị tù Côn đảo vì biến cố 1908. Thế là một loạt báo
Pháp ở Đông dương (được lệnh) phát triển phong trào bôi nhọ, viết bài ngụ ý tiếc,
rằng chính quyền Đông Dương đã không để xử tử (Trinh) cho rồi, và quy kết hai người
(Trinh và Trường) vào tội tổ chức cuộc nổi dậy chống Pháp tại Đông Dương.
Sau vụ này, Phan Châu Trinh vẫn còn được trợ cấp, ông sống rất chật vật, phải
gửi con vào nội trú tỉnh nhỏ và ông ở khách sạn, ăn cơm rẻ tiền. Mặc dù ở trong
tình trạng khốn đốn, Phan Châu Trinh là người bền chí, ông vẫn còn tin vào chính
quyền thực dân, ông đến Bộ Thuộc địa thường xuyên, tìm gặp những công chức cao cấp
phụ trách vần đề Đông Dương để bày tỏ lòng trung thực của mình.
Nhưng sau những hớ hênh của ông (Phan Văn Trường muốn nói đến việc Phan Châu
Trinh tin cậy mật thám Nguyễn Như Chuyên, coi như môn sinh), ông và tôi bị bắt,
bị giam 11 tháng. Tháng 7/1915, ra tù, đang trong chiến tranh, chính quyền thuộc
địa cúp hết trợ cấp, hy vọng, không biết tiếng Pháp, không có nghề, bắt buộc ông
phải về xứ. Nhưng Phan Châu Trinh không về, ông ở lại, học nghề rửa ảnh và sống
ung dung.
Sau những bài học đắng cay như thế, tưởng Phan Châu Trinh sẽ hết lạc quan, nhưng
không, ông vẫn tiếp tục thái độ triết nhân của mình, coi như không có chuyện gì
xẩy ra, vẫn đến Bộ thuộc địa, tìm gặp những kẻ đã đày đọa mình, và xin hội kiến
Albert Sarraut hết lần này đến lần khác.
Phan Văn Trường viết:
"Tạm nói mà không hề có ý miệt thị rằng, người này -vẫn bám vào chính quyền thuộc địa, bị đuổi cửa trước thì luồn vào cửa sau- người mà chính quyền thuộc địa hai lần buộc tội âm mưu chống Pháp!
Phan Châu Trinh là một người thông minh, một người tử tế, một người bạn tốt; nhưng những đức tính này không đủ để làm nên một người cách mạng" (PVT, trang 73-74-75).
So với lời Phan Châu Trinh phê phán Phan Bội Châu, trong bài "Nước Việt Nam
mới sau khi liên hiệp với Pháp", thì lời Phan Văn Trường phê phán Phan Châu
Trinh cũng chưa nặng bằng.
Đọc những lời Phan Văn Trường phê phán Phan Châu Trinh, thấy, tuy họ bất đồng
ý kiến ngay từ đầu, nhưng vẫn làm việc với nhau. Ngoài ra, dù bất đồng ý kiến, vẫn
không có sự phân hóa giữa bốn người Trinh, Trường, Ninh và Truyền, vì họ hoạt động
liên đới cùng nhau cho tới khi người thì chết, người thì đi tù.
Chân dung này, Phan văn Trường viết năm 1923, mục đích bênh vực Phan Châu Trinh,
bị Pháp kết tội oan, vì không hiểu rõ chủ trương Pháp Việt đề huề của ông.
Nhưng đồng thời cũng nói lên sự khác biệt trong chủ trương tranh đấu của Phan
Văn Trường với Phan Châu Trinh, đó cũng là sự khác biệt sâu xa giữa những người
Nho học và Tây học.
Tinh thần Tây học này, lại được xác định một lần nữa trong nhận định của Hoàng
Xuân Hãn.
Về "Đầu Pháp chính phủ thư" của Phan Châu Trinh, Hoàng Xuân Hãn viết:
"Lời lẽ trong thư kịch liệt, có thể kích thích sĩ khí, nhưng lại vô tình hay hữu ý ngoa ngoắt bôi nhọ quốc dân và quan lại, dường như để nhử chính quyền tin mình mà nhận lời mình. Kết quả là không những ý mình không toại, mà thực dân đã dùng quan lại để trừ khử ông: ông bị kết án tử hình; rồi may nhờ Hội Nhân quyền Pháp can thiệp, chỉ bị đầy ra Côn Đảo. Giả sử thực dân bấy giờ khôn ngoan hơn, biết thấy lợi xa mà nghe lời ông, thì lập trường của ông trong giai đoạn nầy có lẽ sẽ có lợi cho dân ta trong quá trình tìm giải phóng. Trái lại, sự thất bại của ông đã làm cho người ngày nay, khi đọc lại thư ông, chỉ có cảm tưởng ông ngây thơ về chính trị và cảm thấy tức tối khi ông mạt sát quá đáng đồng bào, mà tâng bốc vượt mức thực dân. Tuy vậy, ta không thể không nhận rằng ông có óc hiện thực, biết quan sát, phân tích và có thái độ can đảm và thẳng thắn." (Hoàng Xuân Hãn, Tựa cuốn Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp của Thu Trang, Đông Nam Á, Paris, 1983, trang 8).
2. Con đường tư tưởng của nhóm Tây học
Khảo sát các tư liệu, chúng ta có thể xác định Phan Văn Trường mới thực sự là
thủ lãnh phong trào Việt kiều yêu nước, chính ông đã xây dựng nền móng, rồi cùng
với Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh hình thành đường lối chính trị và tư tưởng
chống Pháp:
- Bằng ngòi bút, đả kích trực tiếp thực dân bằng cách trình bày những
tội ác của thực dân trên báo chí Pháp. Đối lập nước Pháp cộng hoà với nước Pháp
thực dân: Nói rõ tội trạng của bọn thực dân để người Pháp phải xấu hổ mà bác bỏ
chính sách dã man đó đi.
- Liên kết với các nhà văn và nhà chính trị phái tả, và các báo L'Humanité (Nhân
loại) và Le Populaire (Người bình dân) của đảng Xã Hội; La vie ouvrière (Đời sống
thợ thuyền), La revue communiste (Tạp chí Cộng sản), Le Paria (Người cùng khổ) của
đảng Cộng sản, Le libertaire (Người tự do tuyệt đối) của nhóm anarchiste...
- Từ 1922 trở đi, nhóm Ngũ long, nhất là Nguyễn Thế Truyền, đã sử dụng Hội Liên
Hiệp thuộc địa và báo Le Paria (Người cùng khổ) của đảng Cộng sản, làm bàn đạp để
kết giao với các nhà hoạt động cách mạng trên các thuộc địa Châu Phi, Madagascar,
tạo thành phong trào chống thuộc địa toàn cầu.
- Tác phẩm Le procès de la colonisation française (Bản án chế độ thực
dân Pháp) là thành quả của sự hợp tác này. Và cũng từ cuối năm 1923, khi mọi người
đã rời khỏi Paris, một mình Nguyễn Thế Truyền đứng mũi chịu sào (với sự giúp sức
của chú ruột Nguyễn Thế Phu, em ruột Nguyễn Thế Song, người cùng làng Nguyễn Thế
Thạch, và các đồng chí và môn đệ như Nguyễn Văn Luận, Tạ Thu Thâu...) đã mở rộng
cuộc đấu tranh, không những về phía Châu Phi, Madagascar, mà còn viết bài ký tên
Nguyễn Ái Quốc trên báo Inprekorr của Nga, ấn bản tiếng Pháp. Tham vọng "toàn cầu
hoá" cuộc tranh đấu chống thực dân là của Nguyễn Thế Truyền.
Phan Châu Trinh là nhà nho, không biết tiếng Pháp, nên ông không thể hiểu được
con đường chính trị này. Vì vậy, không những ông không tha thiết, mà còn chống
lại việc viết báo tiếng Pháp cho người Pháp đọc. Những đề tài viết về một người
boxeur da đen như Siki của Nguyễn Thế Truyền có thể là vô bổ đối với Phan Châu Trinh,
nhưng đối với cuộc tranh đấu chung, đó là một cái nhìn thấu suốt tình hình thế giới.
Ngoài niềm tự hào dân tộc mãnh liệt, ba cây bút Tây học ký tên Nguyễn Ái Quốc
luôn luôn đề cao tư tưởng phương Đông: Phan Văn Trường nghiêng về văn minh Trung
Hoa, Nguyễn An Ninh nghiêng về văn minh Ấn Độ, và Nguyễn Thế Truyền nghiêng về lịch
sử và văn hoá dân tộc. Đó là điểm khác biệt giữa ba người. Tinh thần này không thấy
ở các nhà nho, dường như họ bị choáng ngợp trước nền văn minh Tây phương, mà Phan
Châu Trinh là tiêu biểu: chống Pháp nhưng luôn luôn hạ mình một cách quá đáng trước
người Pháp. Sau này Hồ Chi Minh tôn Mác-Lê nin làm thày, ngoài cái nhục chư hầu,
còn là sự hạ mình cố hữu của nhà nho, và cũng nói lên nội dung khác biệt sâu xa
giữa những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và những điều Hồ Chí Minh nói và viết sau này.
Trí thức ở Pháp có truyền thống theo cánh tả. Trong bối cảnh chính trị đầu thế
kỷ XX, các trí thức Việt nam như Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền...
muốn tranh đấu cho đất nước, chỉ có thể dựa vào trí thức cánh tả, trong các đảng
xã hội, đảng cộng sản, nhóm anarchiste... nhờ họ làm hậu thuẫn để chống lại chính
sách thực dân... Tuy vậy, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh không vào đảng nào,
Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành vào đảng Xã hội, rồi đảng Cộng sản.
Bản Tuyên ngôn Cộng sản của Marx - Engels viết cho một xã hội Tây phương
đã công nghiệp hoá, không có điểm gì chung với một xã hội Việt nam chưa có kỹ nghệ,
80% là nông dân "tay làm hàm nhai". Vậy tại sao Phan Văn Trường lại cho in bản
Tuyên ngôn của đảng cộng sản trên báo La cloche fêlée, Ngô Văn giải
thích:
"Vào thời kỳ này [thập niên 1920] ở Pháp, bản tuyên ngôn của Các Mác và Ăng ghen được phổ biến rộng rãi, in ra sách nhỏ rẻ tiền. Nó không chứa đựng điều gì làm choáng váng đầu óc của tầng lớp thanh niên trí thức An Nam", nhưng "chương trình quá độ sơ thảo trong bản tuyên ngôn có thể làm cho thanh niên suy nghĩ" (Ngô Văn, trang 63-63).
3. Phan Văn Trường
Hồ Hữu Tường viết về Phan Văn Trường như sau:
"Tôi ở chung với cụ Phan Văn Trường được hơn tuần thì cụ về xứ [tháng 2/1930, sau khi Phan Văn Trường ra tù lần thứ nhì, ba năm trước khi ông mất]. Trong thời gian đó, ngày nào tôi cũng quấn quýt theo bên cụ, mà nghe cụ kể những mẩu chuyện thăng trầm của đời tranh đấu mình. Cụ rất vui tính, cười hề hề, dầu cho chuyện bi đát, cụ cũng tìm thấy vài nét ngộ nghĩnh để mà trào lộng. Cụ là một bực học giả uyên thâm, các sách hay của Đông phương lẫn Tây phương cụ đều đọc cả. Cụ nói:
"Tôi đọc được nhiều là nhờ nghèo. Mùa lạnh ở nhà rét quá chịu không nổi, mà mình không đủ tiền mua than củi để sưởi. Đành vào thơ viện từ chín giờ sáng đến mười giờ tối. Gián đoạn bằng hai lượt đi ăn. Vào thơ viện, phải im phăng phắc, thì đọc sách là việc bắt buộc.
Triết học, kinh tế học, xã hội học, tôn giáo... sách nào căn bản, cụ đều có nghiên cứu kỹ. Luận án thi tiến sĩ luật của cụ bàn về chủ nghiã Bôn-sê-vích ở Nga [Hồ Hữu Tường ghi nhầm có lẽ đây là luận văn cử nhân, còn luận án tiến sĩ của Phan Văn Trường về Luật Gia Long] đem áp dụng vừa được cuộc cách mạng. Nhưng mà trong thâm tâm, cụ chê tất cả các triết gia Tây phương, ngay cả Marx nữa:
Bọn nó vì tự cao ám thị mà chẳng chịu ngó đến văn hóa Đông phương, thành chui rút vào tháp ngà, không có một cái nhìn thống quản. Riêng có anh chàng Schopenhauer khiêm tốn, đọc sách Phật, nên tác phẩm của y đọc dễ chịu hơn". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, trang 20).
Những điều Hồ Hữu Tường viết về Phan Văn Trường được thể hiện rõ ràng trên bản
Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam.
Tháng 6/1919, bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam được đưa đến
Versailles và gửi cho báo chí. Ngày 18/6/1919 L'Humanité đăng bản Thỉnh nguyện
dưới tựa đề: Les droits des peuples (Quyền của các dân tộc). Điện tín từ
phủ toàn quyền ở Hà nội gửi sang, cho biết bản Thỉnh nguyện cũng đã đến tay báo
chí ở Việt nam. Từ đó, chính quyền thuộc địa mới chú ý đến tên Nguyễn Ái Quấc/Quốc,
ra lệnh theo dõi, điều tra, xem Nguyễn Ái Quốc là ai?
Đọc bản Thỉnh nguyện của người An Nam, trên báo L'Humamité, độc giả Pháp phải
chú ý vì giá trị độc đáo của văn bản: Lời lẽ nhũn nhặn mà kiêu kỳ: tự xưng nước
mình là Đế Quốc (L'Empire d'Annam), ngụ ý coi kẻ xâm lăng là tiểu quốc.
Xin Pháp trả tự do và dân chủ cho dân mình, nhưng lại bảo họ phải làm điều đó vì
bổn phận của họ đối với dân tộc họ và đối với nhân loại, nếu họ không làm thì ô
nhục cho quốc thể của họ. Bút pháp Phan Văn Trường có lý lẽ của một luật sư, có
kiến thức của một học giả, có sự xử dụng chữ nghiã của một văn tài. Văn bản đã được
gửi về Việt nam qua nhiều ngả. Nhờ vậy, mà người Việt lấy lại niềm tự hào dân tộc.
Bản Thỉnh nguyện của dân tộc An Nam trở thành bản Tuyên ngôn Quốc tế
Nhân quyền của người Việt.
Và bọn thực dân bắt đầu lên tiếng phản bác trên báo chí. Phan Văn Trường bắt
buộc phải trả lời. L'Humanité ngày 2/8/1919 đăng bài La question des indigènes
en Indochine (Vấn đề người bản xứ tại Đông Dương) của Phan Văn Trường, ký tên
Nguyễn Ái Quốc. Sau bài viết này, vấn đề Nguyễn Ái Quốc và nhóm An Nam Yêu nước
được đem ra Hạ viện bàn cãi.
Quả bom Phan Văn Trường đã ném trúng đích: lần đầu tiên một kẻ indigène
dám lên tiếng ngạo nghễ đòi tự do dân chủ.
4. Xác định hai bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc do Phan Văn Trường viết
Dưới đây chúng tôi trình bày phương pháp xác định văn bản, bắt đầu bằng 2 văn
bản ký tên Nguyễn Ái Quốc do Phan Văn Trường viết:
1- Tại sao chúng ta có thể xác định La question des indigènes en Indochine
(Vấn đề dân bản xứ ở Đông dương), là do Phan Văn Trường viết?
Nhờ những chi tiết sau đây trong bài viết:
- Tác giả coi những yêu cầu trong bản Thỉnh nguyện tám điểm năm 1919 là
của chính mình. Thuật lại lập luận của đối phương cho rằng các yêu sách
của mình, đã gây chấn động trong giới thực dân. Đây là hiện tượng sự thực
toát ra từ vô thức của ngòi bút: chỉ Phan Văn Trường mới viết như vậy, những người
khác không thể và không dám nhận bản Thỉnh nguyện thư là của mình vì không
do họ viết ra.
- Tác giả nhắc đến bản Thỉnh nguyện năm 1912, đòi trả tự do cho các sĩ
phu bị tù Côn đảo, đăng trong Bulletin officiel de la Ligue des droits de l'homme
ngày 31/10/1912. Văn bản này do Phan Văn Trường viết dùm Phan Châu Trinh. Ngoài
Phan Văn Trường, dường như không ai biết đến việc này. Hiện nay, những tài liệu
đã in đều không nhắc đến công của Phan Văn Trường và cho là văn bản này đã mất.
- Tác giả biết đích xác việc một sĩ quan cao cấp trong quân đội được lệnh
tịch thu các bản Thỉnh nguyện 1919 trong tay lính thợ Việt nam. Chỉ có Phan
Văn Trường, cựu quân nhân, có đường dây trong quân đội mới dám cam đoan biết
đích xác việc này.
2- Bài Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương đăng trên La revue communiste,
số 15, tháng 5/1921, thường được trích dẫn trong các bài viết về tư tưởng Hồ Chí
Minh, và được coi là "nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh", cũng có những dấu ấn cho thấy
đây là bài viết của Phan Văn Trường, căn cứ vào nội dung đề cao văn minh phương
Đông một cách ngạo nghễ:
- 5000 năm trước, Hoàng Đế đã áp dụng chính sách phân phối ruộng đất.
- 2205 năm trước Công Nguyên, nhà Hạ đã đặt ra chế độ cưỡng bức lao động.
- 551 năm trước Công Nguyên: Khổng Tử đã khởi xướng thuyết Đại đồng và nguyên
tắc: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Phan Văn Trường sẽ ghi câu
này dưới tên báo La Cloche fêlée (từ số 52) thay thế câu Organe de propagande
démocratique (Cơ quan truyền bá dân chủ) của Nguyễn An Ninh, để chứng minh rằng
dân chủ phát xuất từ phương Đông.
Năm 1921, khi Phan Văn Trường viết bài báo này, chủ nghiã cộng sản mới bắt đầu
phát triển ở châu Âu, và được một phần trí thức ngưỡng mộ, ông đưa ra ý kiến: nên
phát triển chủ nghiã cộng sản ở Á Châu (để đuổi thực dân), nhưng vẫn ngụ ý cao kỳ:
những nguyên tắc mà chủ nghiã cộng sản ở phương Tây của các anh đưa ra, phương Đông
chúng tôi đã áp dụng từ bốn, năm ngàn năm nay rồi! Chúng tôi hiện đang mắc vào hiểm
hoạ thực dân, hãy đợi khi nào chúng tôi đuổi được bọn thực dân, chúng tôi sẽ giúp
các anh "tự giải phóng". Đó là cái ý thâm trầm sâu sắc của Phan Văn Trường trong
bài Phong trào cộng sản quốc tế Đông dương.
5. Bút pháp Nguyễn Thế Truyền, qua hai bài trên cùng tờ Le Paria, ra ngày
1/12/1922
Trong ngày 1/12/1922, Trên báo Le Paria có hai bài, một bài ký tên Nguyễn Thế
Truyền, một bài ký tên Nguyễn Ái Quốc. Khảo sát hai văn bản này, chúng ta có thể
xác định Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Ái Quốc là một.
Nguyên văn bài Un Bolchevick jaune (Một người Bôn-sơ-vich da vàng) ký
tên Nguyễn Thế Truyền, in trên Le Paria ngày 1/12/1922, xin tạm dịch như sau:
"Nguyễn Ái Quốc có phải là một "kẻ đầy tham vọng, không nhân cách và không đại diện cho ai", như ý kiến của La Dépêche [Điện văn] rất coloniale [thực dân] kia. Những lời phỉ báng như thế, hiển nhiên phản ảnh sự nghiêng mình [hommage] của cái thấp hèn trước cái cao cả. Vì thế, đáng được trả lời.
Tham vọng? Hẳn thế, Nguyễn Ái Quốc đầy tham vọng. Nhưng tham vọng gì? Tham vọng giải phóng anh em rơi vào vòng nô lệ, bị bọn "diều hâu thực dân" bóc lột dã man. Có tham vọng nào cao quý hơn?
Kẻ viết bài giấu tên trên báo La Dépêche Coloniale kia, vì ngươi không biết đến nhân cách của Nguyễn Ái Quốc, nên ta cho ngươi biết.
Trong xứ, Nguyễn Ái Quốc sống hạnh phúc bên cạnh người thân. Khi còn rất trẻ, một hôm thấy Pháp chặt đầu đồng bào. Quốc không hiểu tại sao. Phẫn uất, Quốc ra đi, xa lánh bất công, để có thể kêu gào: "Công lý!" ở nơi khác. (...) Hôm nay, anh cương cường tranh đấu cùng những người anh em châu Phi, châu Âu. Với nghề khiêm tốn "sửa ảnh", vất vả để kiếm sống, nhưng anh trong sạch hơn bao nhiêu quan chức, quá quan cách, ở các Thuộc địa, kia.
Ồ! Không! Quốc không hề như họ. Chẳng tiền hô hậu ủng, không diêm dúa mề đai, không cồng kềnh "ấn trát", nhưng anh mang nguyện ước của đồng bào, kỳ vọng của Dân tộc bị áp bức. Năm ngoái, trở lại Đông Dương, tôi được nghe những lời cảm động về anh, bí mật truyền miệng mọi người. Một cụ bà kể: tôi có hai đứa cháu bị Pháp bắt đi đầy (vì tư tưởng); cụ hỏi tôi: "Cậu ơi, Cậu có biết Nguyễn Ái Quốc không?" - Một em bé dễ thương nhớ lại người cha, nhân sĩ nổi tiếng, bị tình nghi vì tư tưởng, một ngày kia bị cảnh sát Tây lôi đi như con chó; trong đầu đầy hình ảnh anh hùng huyền thoại, đứa nhỏ hỏi tôi: "Nguyễn Ái Quốc có phải là người bằng xương, bằng thịt không?"
- Này, người của La Dépêche Coloniale, ngươi không hiểu gì hết, ngươi đang phỉ báng một chân lý lớn lao, một sự hy sinh cao cả, hãy câm đi!" Nguyễn Thế Truyền.
Bài này, không nói lên lòng "tôn thờ" Nguyễn Ái Quốc (Tất Thành) của Nguyễn Thế
Truyền, như Thu Trang nhận xét, mà Nguyễn Thế Truyền vinh danh một người anh
hùng vô hình, nói khác đi, một người anh hùng huyền thoại,
vì thế ông đặt vào miệng bà cụ câu: Có ai gặp Nguyễn Ái Quốc không?
Đặt vào miệng đứa nhỏ câu: Nguyễn Ái Quốc có phải là người bằng xương bằng thịt
không? Đó là ý chính của Nguyễn Thế Truyền: hóm hỉnh xác định Nguyễn Ái Quốc
là một huyền thoại.
- Là người chống Pháp không khoan nhượng, Nguyễn Thế Truyền mạnh tay (tát tổng
đốc Vi Văn Định), mạnh bút, luôn luôn đánh thẳng vào thực dân với lời lẽ quyết liệt.
Bài này tát kẻ viết bài trên báo La Dépêche Coloniale, hèn, giấu tên (có
thể là người Việt), không hiểu thế nào là sự hy sinh cao cả cho một chân lý.
- Bài báo còn cho thấy văn phong sắc, gọn, của Nguyễn Thế Truyền, sự kiêu kỳ,
lối chơi chữ của ông và xác định một thông tin: khi Nguyễn Thế Truyền về nước, giữa
năm 1920, cái tên Nguyễn Ái Quốc đã được mọi người truyền tụng.
- Lối viết của Nguyễn Thế Truyền khác Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh: Câu
ngắn, giọng khiêu khích, châm biếm và hay chơi chữ.
Trên cùng số báo Le Paria, ra ngày 1/12/1922, có bài A propos de Siki,
(Về vụ Siki), ký tên Nguyễn Ái Quốc, viết về sự kiện Siki, boxeur da đen
hạ Carpentier, boxeur da trắng:
Chúng tôi trích một đoạn, phần tiếng Pháp trước, để độc giả thấy bút pháp của
Nguyễn Thế Truyền:
"Depuis que le colonialisme existe, des blancs ont été payés pour casser la g... aux noirs. Pour une fois, un noir a été payé pour en faire autant à un blanc. Adversaire de toute violence, nous désapprouvons l'un et l'autre procédé. Mais le fait est là, nous n'avons qu'à le constater. Constatons.
D'un coup de poing - sinon scientifiquement envoyé, du moins formidablement placé - Siki déplaca proprement Carpentier de son piédestal pour grimper dessus lui-même.
Le championnat de la boxe a changé de mains, mais la gloire sportive nationale n'a pas souffert, puisque Siki, enfant du Sénégal, est parconséquent, fils de France, donc Français.
Malgré cela, il arrive que chaque fois que Carpentier triomphe, c'est naturellement par son adresse et par sa science. Mais toutes les fois qu'il est battu, c'est toujours par la force brutale d'un Dempsey ou la mauvaise jambe d'un Siki. C'est pourquoi, au match de Buffalo, on a voulu déclarer - on a même fait déjà la déclaration - que Siki, bienque gagnant, était vaincu "quand même".
Dịch:
"Từ khi có chế độ thuộc địa, người da trắng được trả tiền để đánh bể mặt người da đen. Bận này, một anh da đen lại được trả tiền để nện anh da trắng. Chống mọi bạo lực, chúng tôi không tán thành cả hai cách này. Nhưng sự kiện sờ sờ ra đó, chúng ta chỉ việc ngó qua. Xem nào.
Một cú đấm -nếu không được gọi là khoa học, thì ít ra thì cũng trúng boong- Siki rành rành hạ bệ Carpentier và leo lên thế chỗ.
Giải vô địch đánh bốc đã đổi chủ, nhưng hào quang thể tháo quốc gia không hề hấn gì, vì Siki, đứa con Sénégal, tức, con Pháp, vậy, là người Pháp.
Ấy thế mà mỗi khi Carpentier thắng thì tất nhiên là nhờ tài trí và phương pháp khoa học của anh. Còn lần nào thua thì y như rằng là vì một tên Dempsey nào đó, đánh ác hay một tên Siki nào đó, đá hiểm. Vì vậy, trong trận đấu Buffalo, người ta những muốn tuyên bố - người ta đã tuyên bố rồi - rằng Siki dù thắng, "vưỡn" bại!" (trích dịch bài A propos de Siki (Về vụ Siki), ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Rất khó xác định những lời này của Nguyễn Tất Thành, vì một người mới học tiếng
Pháp vài năm mà viết được như thế thì quả là phép lạ, nhất là tính cách hóm hỉnh,
cũng không hề tìm thấy trong các văn bản sau này của Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn An Ninh
Nguyễn An Ninh có hai lối viết, một lối viết tranh luận, đôi khi cũng sát phạt
không kém gì Nguyễn Thế Truyền, một lối viết hoà nhã, gần với văn phong Phan Văn
Trường.
Bài Lettre à Monsieur Outrey (Thư gửi ông Outrey) đăng trên Le
populaire ngày 14/10/1919, là lối văn tranh luận, với những chi tiết nói lên sự
đụng độ kịch liệt giữa Outrey và Nguyễn An Ninh:
Sự việc phát xuất từ bài L'Indochine et la Corée; une intéressante comparaison
(Đông dương và Triều tiên) in trên báo Le populaire ngày 4/9/1919. Trong bài
này Nguyễn An Ninh so sánh sự bảo hộ Triều tiên của Nhật bản với sự bảo hộ Đông
dương của Pháp. Ông buộc tội Pháp đã đầu độc người da vàng bằng những lời hứa hão
và dùng bọn bồi bút để ca tụng chính quyền thuộc địa. Ernest Outrey, từng làm Thống
đốc Nam Kỳ. Năm 1914, đắc cử dân biểu, đại diện cho người Pháp ở Sàigòn tại
quốc hội Pháp.
Ngày 18/9/1919, tại Hạ viện, Outrey đánh thẳng vào "bè lũ" Nguyễn Ái Quấc và
đồng bọn An Nam yêu nước. Được tin, Nguyễn An Ninh đang nghỉ ở Biarritz viết lá
thư ngỏ cho Outrey, gửi đăng trên báo Le Populaire, phản pháo mãnh liệt, đồng thời
xác định mình là Nguyễn Ái Quốc, ông viết:
"Ông đã nói đi nói lại [ở hạ viện] rằng tôi bị truy nã ở Đông Dương vì âm mưu chống Pháp. Vậy hãy nói cho biết, lúc nào, toà án nào, âm mưu gì?"
Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey
biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh. Nguyễn An Ninh cũng biết rõ âm
mưu của Outrey ở Nam Kỳ. Nhưng tới năm 1919, Nguyễn An Ninh chưa hề bị bắt, vì vậy
Ninh mới thách Outrey tìm ra chứng cớ ông bị bắt năm nào, ở đâu? Về phần Outrey,
khi đọc văn, y đoán chắc Nguyễn Ái Quấc là Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội
ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh. Cuối cùng Nguyễn An
Ninh cũng đã "đáp lễ" Outrey tới nơi tới chốn.
Nguyễn An Ninh và Outrey
Đối với những độc giả không biết rõ lịch sử Nguyễn An Ninh, chúng tôi xin nói
thêm:
Nguyễn An Ninh viết báo tiếng Pháp và đánh lộn với Tây từ thời niên thiếu (học
Taberd, rồi Chasseloup Laubat), các bạn ông là Bùi Thế Mỹ và Lê Văn Thử đều ghi
lại trong hai cuốn chân dung Nguyễn An Ninh. Gia đình ông là gia đình chống Pháp
hàng đầu ở Nam Kỳ: cha (Nguyễn An Khương), chú (Nguyễn An Cư) và cô ruột, đều là
những nhà cách mạng. Khách sạn Chiêu Nam lầu của gia đình là nguồn tài trợ cho phong
trào Đông Du. Còn là nơi tá túc của hội viên các hội kín Đông kinh nghiã thục
và Cường Để (Vương Hồng Sển, Sàigòn năm xưa, trang 250).
Dựa trên các cơ sở đó, ngày 18/9/1919, tại quốc hội Pháp, Ernest Outrey tố
cáo Nguyễn Ái Quốc là người đã bị truy nã về tội chống Pháp ở Nam kỳ.
Xin nhắc lại: Trong suốt thời gian từ 1911 đến 1919, Phan Văn Trường, Nguyễn
Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành đều không có mặt tại Nam Kỳ.
Sở dĩ Nguyễn An Ninh không bị bắt vì tuổi vị thành niên. Vì thế, Ninh
mới viết Lá thư gửi ông Outrey, thách Outrey, phải nói rõ rằng tôi (Nguyễn
Ái Quốc) bị bắt ở Nam Kỳ lúc nào, ra toà nào?
Vì câu thách thức này mà ta xác định được tác giả Lá thư gửi ông Outrey
là Nguyễn An Ninh. Khi xác định được Nguyễn An Ninh là tác giả Lá thư gửi ông
Outrey thì tự nhiên ông là tác giả bài Đông dương và Triều tiên, vì bài
này là đầu mối cho việc Outrey đem Nguyễn Ái Quốc ra luận tội tại quốc hội.
Người viết nào cũng để lại căn cước của mình qua văn bản.
Cho nên dù ký tên như thế nào đi nữa, người đọc tinh ý luôn luôn tìm ra bản chất
và lai lịch của người viết.
Sự xác định tác giả một số bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc mà chúng tôi ghi danh
sách trong phần chú thích ở cuối bài, dựa trên cơ sở của những chi tiết đó.
La France et L'Indochine
Khía cạnh thứ hai: Nguyễn An Ninh là ngòi bút của văn chương và tư tưởng.
Trong La France et L'Indochine, (Nước Pháp và Đông Dương), Nguyễn An Ninh
viết, xin dịch:
"Trong nhưng năm gần đây, mặc dù thực dân hết sức tìm cách giam hãm người An Nam, nhưng dưới lực đẩy của phong trào thanh niên Tây du, một vài người đã có thể đến Pháp, quan sát đời sống hàng ngày và tìm hiểu bí quyết về sức mạnh vật chất của Âu Châu. Họ mang về nước tư tưởng dân chủ, tinh thần phê phán của Châu Âu; hơi thở Tây phương đã làm sống lại niềm tin và nghị lực của họ. Họ đã nhận tận tay người Pháp bản án chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương. Thực dân không thể ngăn cấm người An nam biết tiếng Pháp đọc Montesquieu, Rousseau, Voltaire.
Và, cùng một lúc, tinh thần phê phán Tây phương, giúp thanh niên An nam, mang trong tâm hồn giống nòi họ, giải thoát triết học Khổng Tử và Mạnh Tử khỏi lớp bụi dầy của đạo lý Khổng Mạnh suy đồi. Đã có một số xu hướng nổi lên và xác định, tìm cách cổ động quần chúng bỏ khát vọng phục thù bằng bạo lực và dấn thân vào con đường tranh đấu mới: Đòi hỏi những tự do căn bản để bảo tồn phẩm giá con người, đòi hỏi những cải cách, trùng hợp tinh thần dân chủ của dân tộc An nam với tư tưởng Tây Phương. Họ không còn chấp nhận, như quần chúng đã phải chấp nhận, như kẻ bại trận trên chiến trường đã phải chấp nhận, cái luật chiến tranh, cái đắc ý thô bạo của kẻ thắng và cái nhục nhã của người thua. Họ cũng không còn chiến đấu bí mật với lòng yêu nước thuần tuý nữa mà họ tranh đấu công khai, nhân danh nguyên tắc nhân quyền 1789. Và bọn thực dân không còn dám dựa trên cớ "chủ quyền nước Pháp bị đe doạ" để bắt họ đi đày hoặc xử tử.
Như thế, chính sách người bóc lột người ở Đông Dương đã được báo trước sự phá sản không thể tránh khỏi.
Hoặc là, biện pháp đán áp, điên cuồng vì thất bại, vẫn cố chấp, mặc kệ dấu hiệu báo trước những biến cố sắp tới, vẫn tiếp tục đè nặng trên con mồi đang vùng vẫy; như thế thảm họa chung sẽ xẩy ra: nước Pháp mất hết thanh danh và lợi ích -"sứ mệnh giáo hoá" của châu Âu sẽ lộ bộ mặt thật của nó- và nước An Nam, sau những kinh hoàng, thống khổ, sẽ được tự do hơn để hoàn tất sứ mệnh của mình.
Hoặc là, nước cộng hoà Pháp đến Đông Dương để thay thế bè lũ thực dân; như thế, không những, thanh danh và lợi ích của Pháp sẽ được bảo toàn, mà Pháp còn được hưởng sự tri ân của một dân tộc sẽ ủng hộ uy danh của họ ở châu Á.
Cách đây khoảng 15 năm, để trả lời tiếng kêu của những người bị họ đán áp, những kẻ thực dân, đã viết trên báo của họ như sau: "Nước Pháp không đến đây với (đoản) Kiếm và Luật (pháp). Chỉ có Kiếm". Hình như rằng, sau sáu mươi năm bị đô hộ và chịu ảnh hưởng Pháp, ngày nay, đất Nam kỳ đã được công bố là đất Pháp, người An nam có quyền đòi hỏi nước Pháp phải mang sang Đông Dương, không những Luật, mà cả thanh Kiếm để bảo vệ Luật. Sự hoà hợp giữa lý tưởng cộng hoà Pháp và tư tưởng dân chủ của một xã hội xây dựng trên nền móng tư tưởng Khổng Mạnh, không vượt trên sự tiến hoá tự nhiên, như thực dân vẫn muốn cho người ta tưởng. Phong trào giải phóng ở Á châu không đi theo những quy luật chi phối sự tiến hoá chậm rãi từ xã hội dã man lên xã hội Âu châu tân tiến.
Phải là thực dân trong nghĩa ngu xuẩn nhất mới có có thể tin được "nghiã vụ giáo hoá" của những người Âu châu sang "thuộc địa hoá" Đông Dương. Ở Ấn Độ, sự tuyên ngôn về "nghiã vụ giáo hoá" Tây phương gợi trong lòng một Tagore ý thức giáo hoá Đông phương. Ở Trung hoa, giới thanh niên đã đi học ở Âu châu, đặt câu hỏi trên báo chí như một thách đố với châu Âu: "Bạn có thể nói cho chúng tôi biết, nước bạn đã có văn minh chưa? (...)
Về chính sách thực dân mà nước Pháp áp dụng ở Đông Dương, chúng tôi nhận thấy:
1- Rằng, ở Đông Dương, nước Pháp chẳng những không áp dụng những nguyên tắc lớn mà họ đã tuyên thệ, mà còn tiêu diệt tư tưởng dân chủ của xã hội An Nam.
2- Rằng, nước Pháp, thừa nhận tự do và quyền công dân Pháp cho những người, hôm qua, vẫn còn là nô lệ, nhưng lại áp đặt chế độ nô lệ ở Đông Dương cho một dân tộc tự do, đã có một nền văn minh, từ khi cư dân sống trên đất Pháp vẫn còn ăn lông ở lỗ (vivait dans des cités lacustres)". (Trích và dịch La France et L'Indochine, Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925)
Bút pháp thứ hai này, có thể hiện diện trong cuốn "La France en Indochine"
nay không còn văn bản gốc. Nhưng bài viết La France et L'Indochine mà chúng
tôi vừa trích dịch một đoạn trên đây, có thể tóm gọn tư tưởng đấu tranh của Nguyễn
An Ninh.
Theo Đặng Hữu Thụ, cuốn "La France en Indochine" tháng 4/1925, in 2000
bản tại nhà A et F Debeaufauve Tournefort Paris. Nguyễn An Ninh trao cho Nguyễn
Thế Truyền 150 bản. Nguyễn Thế Truyền nhờ các thủy thủ Việt nam đem về phổ biến
trong nước. Ngoài ra, sách cũng được gửi tặng một số dân biểu, nghị sĩ Pháp, hội
Nhân quyền và báo chí viết về thuộc địa.
Khi đáp tàu về nước ngày 28/5/1925 cùng Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh mang
theo một số cuốn. Nhưng Bộ thuộc địa biết, đánh điện về Phủ toàn quyền, và sách
đã bị tịch thu khi tàu cập bến. (ĐHT, trang 64).
Trong bài viết trên RFI, chúng tôi đặt nghi vấn sau đây:
"Một cuốn sách, mang tên Đông dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng, đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?"
Nhưng hiện tại, nhờ có cuốn Nguyễn An Ninh tác phẩm (nxb Văn Học, 2009)
trong tay, chúng tôi so sánh bản dịch Đông dương (1923-1924) in trong Hồ
Chí Minh toàn tập với bản dịch Nước Pháp ở Đông Dương (La France en Indochine),
in trong cuốn Nguyễn An Ninh, thì thấy là hai tác phẩm khác nhau.
6. Le procès de la colonisation française (Bản án chế độ thực dân Pháp) và
Đông Dương (1923-1924)
"Bản án chế độ thực dân Pháp" có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn
Thế Truyền làm "chủ biên" và viết lời giới thiệu. Cuốn sách in năm 1925, sau khi
Nguyễn Tất Thành đi Nga hai năm. 1946, in lại lần đầu ở Hà Nội.
Trong hồi ký Trần Dân Tiên, viết khoảng 1948, Hồ Chí Minh không nói gì đến cuốn
Đông dương (1923-1924), chắc ông không biết có cuốn sách này. Đông Dương
cùng bố cục như Bản Án chế độ thực dân Pháp, nhưng lời văn điềm đạm hơn,
gần với lối viết của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Điểm chung của hai tác phẩm
là cùng dùng những mẩu chuyện, những nhân chứng đã có trong các bài ký tên Nguyễn
Ái Quốc. Đông dương nói đến tình trạng ở nước ta, còn Bản Án chế
độ thực dân Pháp viết chung cho nhiều dân tộc.
Về "Bản án chế độ thực dân Pháp" Hồ Chí Minh chỉ nói một câu: ""Ông
Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án chế độ thực dân Pháp";
quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của
người Pháp viết để ở thư viện quốc gia". (Trần Dân Tiên, trang 37).
Việc ông cho rằng: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp,
trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia",
chứng tỏ ông chưa đọc "Bản án chế độ thực dân Pháp" khi ông viết dòng
chữ này, và ông đã vô tình hạ giá tác phẩm: chẳng có cuốn sách nào của người Pháp
lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện,
để cho ông chép lại. Hầu như trọn phần nhân chứng đều do lính thợ Việt Nam cung
cấp, họ kể lại những tội ác của quân đội viễn chinh mà họ đã mục kích: hãm hiếp
phụ nữ, tra tấn, giết người... những lời chứng này được Phan Văn Trường thu lượm
trong thời kỳ làm việc tại Công binh xưởng Toulouse.
Ngòi bút Nguyễn Ái Quốc xuất hiện đều đặn trên các báo từ tháng 8/1919 đến đầu
năm 1920: thời gian này chủ yếu là Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh chấp bút. Trong
năm 1920, rất ít văn bản, có thể vì Phan Văn Trường bận việc toà án, đi về giữa
Paris và Mayence, Nguyễn An Ninh về Sàigòn (2 lần, để cưới vợ và ly dị người vợ
đầu) và Nguyễn Thế Truyền về Việt nam một năm (8/1920-8/1921).
Thời điểm tung hoành mạnh mẽ nhất là khoảng 1921-1922, khi Nguyễn Thế Truyền
chính thức bước vào "nghề báo" và Nguyễn An Ninh còn ở Paris: bút hiệu Nguyễn Ái
Quốc xuất hiện trên nhiều tờ báo một lúc, vậy hai người viết chính trong thời kỳ
này là Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh. Phan Văn Trường làm việc ở Mayence từ
đầu năm 1921 đến năm 1922, ít tham dự. Mùa thu 1922, Nguyễn An Ninh về Sàigòn. Cuối
năm 1923, Phan Văn Trường về nước. Còn lại Nguyễn Thế Truyền, một mình, ký cả tên
Nguyễn Ái Quốc và tên thật Nguyễn Thế Truyền.
Về sự xuất hiện trên mặt báo: Có thể nói, những bài trên Le Paria (Người cùng
khổ) và L'humanité (Nhân loại), phần lớn của Nguyễn Thế Truyền. Những bài trên Le
Libertaire (Người tự do tuyệt đối) của nhóm Vô chính phủ, phần lớn của Nguyễn An
Ninh. Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến
1927, trên Le Paria và trên Inprekorr, báo Nga ấn bản pháp ngữ, của Nguyễn Thế Truyền.
Bản án chế độ thực dân Pháp, được viết và soạn vào khoảng 1923, từ những
thông tin, những đoạn, những ý tưởng đã có trong các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc và
những thông tin khác đến từ các thuộc địa châu Phi. Tác phẩm không chỉ đưa ra bộ
mặt lầm than, thống khổ của một dân tộc Việt Nam mà còn của tất cả những người dân
da màu khác đang bị đô hộ. Vì vậy nó có tính chất nhân loại. Khó có thể xác định
ai là tác giả, vì nội dung cho thấy bàn tay của nhiều người: Nguyễn Thế Truyền,
trước tiên, vì ông đã có công soạn thảo, chỉnh đốn, viết tựa. Phan Văn Trường và
Nguyễn An Ninh, viết về luật pháp. Phan Văn Trường viết về công binh. Nguyễn An
Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường đều có thể khắc họa những chân dung toàn
quyền và viết về các chính sách dã man của thực dân Pháp trên đất nước ta. Nhưng
còn có những đóng góp khác của các nhà văn châu Phi, và thư từ độc giả từ các nơi
gửi về... do đó Nguyễn Thế Truyền đã giữ tên tác giả chung là Nguyễn Ái Quốc.
*
III- Kết luận
Georges Pompidou, tổng thống Pháp, lúc còn sống có lần khuyên một môn sinh: muốn
làm chính trị, phải biết lịch sử. Ông có thể nói: Làm người phải biết lịch sử. Bởi
lịch sử một dân tộc, được xây dựng bằng lịch sử của mỗi con người. Và lịch sử nhân
loại xây trên nền lịch sử mỗi dân tộc. Nếu lịch sử nhỏ của mỗi cá nhân bị xoá bỏ,
bị bôi nhọ, hay bị man trá đi, thì, lịch sử dân tộc ấy sẽ như thế nào? Lịch sử của
một người gồm thâu tất cả những hành động thể xác và tinh thần của người ấy trong
đời. Nếu ta thấy lịch sử của chính mình bị đánh tráo cho người khác, thì phản ứng
của ta ra sao? Vậy sống, không chỉ là tồn tại, mà còn là hình thành và bảo vệ lịch
sử của chính mình và của người khác. Vì thế, cần phải biết rõ hành trình sống của
dân tộc mình, biết rõ công việc những người đi trước đã làm, tìm hiểu những thành
công và thất bại của họ, để rút kinh nghiệm cho tương lai.
Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận: Bất cứ một người
có suy nghĩ nào, khi đọc cuốn Hồ Chí minh toàn tập cũng phải hồ nghi về xuất
xứ các văn bản in trong tập sách nhiều nghìn trang này. Vậy sự vơ vét liều
lĩnh các văn bản khác nhau của những người viết khác nhau vào trong một toàn tập
của một tác giả mà học sinh phải học như kinh điển, là không thể chấp nhận được.
Bởi giáo dục quần chúng với những "toàn tập" ngụy tạo như thế có khác gì tiêu
diệt giáo dục ngay từ đầu. Cho nên, vấn đề tái tạo lại các tác giả, đối với dân
tộc Việt nam, là cốt tử. Bởi nền giáo dục của chúng ta cần được xây dựng trên một
nền tảng lành mạnh không ngụy tạo.
Dạy cho học sinh sự ngụy tạo lịch sử từ lúc mới đến trường, có khác nào dạy trẻ
nói dối từ bé?
Dường như thanh niên ngày nay vẫn còn loay hoay với những khẩu hiệu vô nghiã:
nhờ ơn bác, nhờ ơn đảng, vì họ được/bị đào tạo trong một môi trường ngụy
tạo lịch sử. Nói như George Orwel: Khi sự ngụy tạo được lập đi lập lại không ngừng,
nó sẽ trở thành sự thực vĩnh viễn. Hãy còn kịp, nếu chúng ta muốn viết lại lịch
sử của Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu
Thâu, Hồ Hữu Tường... và bao nhiêu người khác đã hy sinh cuộc đời cho hai chữ
tự do, dân chủ. Hãy còn kịp để nói lại với thanh niên ngày nay rằng tên tuổi
những nhà cách mạng đích thực ấy sẽ không bị chôn vùi hoặc bức tử mãi mãi, mà bổn
phận của tuổi trẻ là phải tìm tòi, để viết lại lịch sử, một lịch sử không ngụy tạo.
Việc nghiên cứu văn bản Nguyễn Ái Quốc, để xác định ai là tác giả, cũng nằm trong
chiều hướng đó: Tái tạo sự thật lịch sử để góp phần xây dựng một nền giáo dục chân
chính.
Chú thích:
Sự xác định văn bản mà chúng tôi nêu ra một số tên sau đây, dựa vào lối hành
văn và tư tưởng khác nhau của mỗi tác giả; nhưng cũng có khi, chỉ dựa vào một vài
chi tiết rất nhỏ:
Phan Văn Trường: Tâm địa thực dân, Vấn đề dân bản xứ (L'Humanité 2/8/1919),
Những kẻ bại trận ở Đông dương (La vie ouvrière số 101, ngày 8/4/1921), Quyền của
những người lính (La vie ouvrière số 105, ngày 7/5/1921), Phong trào cộng sản quốc
tế Đông dương (La revue communiste, số 15, tháng 5/1921), Vụ âm mưu ở Đông Dương
(17/8/1921)...
Nguyễn An Ninh: Đông dương và Triều tiên (Le populaire, 4/9/1919), Thư
gửi ông Outrey (Le populaire, 14/10/1919), Phong trào cách mạng ở Ấn Độ (La revue
communiste, số 18-19 tháng 8-9/1921). La civilisation supérieure (Nền văn minh thượng
đẳng) (Le Libertaire, 23/9/1921), Tội ác của chủ nghiã thực dân (La vie ouvrière,
số 126, ngày 30/9/1921), Sự quái đản của công cuộc khai hoá (Le Libertaire, ngày
30/9 và 7/10/1921). Aimez la France qui vous protège (Hãy yêu Pháp, nước bảo hộ
bạn) (Le Libertaire, ngày 14/10/1921)...
Nguyễn Thế Truyền: Zoologie (Thú vật học) (Le Paria số 2, ngày 1/5/1922)
Mấy ý nghĩ về vấn đề thuộc địa (L'humanité ngày 25/5/1922), Paris (L'humanité, 30
-31/5/1922), Lời than của bà Trưng Trắc (L'humanité, 24/6/1922), Les cilivisateurs
(Những kẻ đi khai hoá) (Le Paria số 4, ngày 1/7/1922), La haine des races (Hận thù
chủng tộc) (Le paria số 4, ngày 1/7/1922) 1/7/1922, Lettre ouverte à M. Albert Sarraut
(Thư ngỏ gửi ông Albert Sarraut), (Le journal du peuple, 25/7/1922), Khai hoá giết
người (Le paria số 5, 1/8/1922), La femme annamite et la dominatinon française (Phụ
nữ An nam và sự đô hộ của Pháp) (Le Paria số 5 ngày 1/8/1922), Nhân đạo thực dân
(Le paria, số 6-7 (tháng 9 và 10/1922), Le martyre d'Amdouni et Ben Belkhir (Amdouni
và Ben Belkhir chịu nhục hình) (Le Paria, số 8, 11/1922), A propos de Siki (Về vụ
Siki) (Le Paria, số 9, 12/1922), Indigène à la mode (Le Paria số 10, 15/1/1922)...
© Copyright Thụy Khuê 2004 - 2011
http://thuykhue.free.fr/stt/n/nhanvan15-3.html
http://thuykhue.free.fr/stt/n/nhanvan15-3.html
Phần XV: Phan Khôi - Chương 1b:
Ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc tại Pháp từ 1919 đến 1923?
Thụy Khuê
Trang nhất báo Le Paria (Người Cùng Khổ) số tháng 9-10/1925 |
Hai gia đình cách mạng đã có công lớn đối với đất nước trong thế kỷ XX, là gia
đình cụ Lương Văn Can ở Bắc và cụ Nguyễn An Khương trong Nam. Không những
hai cụ là những nhà nho lãnh đạo phong trào Duy Tân và Đông Du ở Bắc và Nam, mà
còn là thân phụ của hai người anh hùng hiện đại: Lương Ngọc Quyến và Nguyễn An Ninh,
tiêu biểu cho hai khuynh hướng cách mạng: bạo động của Phan Bội Châu và bất bạo
động của Phan Châu Trinh.
Nguyễn An Ninh (1900-1943)
Nguyễn An Ninh sinh ngày 5/9/1900 tại Chợ lớn. Là con và cháu
của hai nhà cách mạng: Cha là Nguyễn An Khương, chú là Nguyễn
An Cư, và cô ruột, đều là những nhà cách mạng. Nguyễn An Khương, đại diện
Đông Kinh Nghiã Thục, lập khách sạn Chiêu Nam lầu để tài trợ cho phong trào Duy
tân và Đông du. Dịch sách chữ Hán sang tiếng Việt. Viết bài trên Nông Cổ Mím-Đàm
kêu gọi lòng yêu nước. Nguyễn An Cư, là nhà văn, nhà nho uyên thâm,
thày thuốc Nam nổi tiếng. Gia đình gốc ở Quán Tre, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định
(Sàigòn).
Nguyễn An Ninh tiếp nhận hai nền giáo dục từ nhỏ: Hán học, do
cha và cô ruột dạy và Pháp văn: học trường Sở Cọp (ngang vườn bách thú), rồi trường
dòng Taberd, và lycée Chasseloup Laubat. Làm báo tiếng Pháp rất sớm khi vừa xong
bằng Brevet Élémentaire (Sơ học). Nổi tiếng bất khuất, chửi Tây, đánh Tây. Thủa
nhỏ có tật nói cà lăm, nhưng tự luyện khỏi cà lăm. Khi ở Paris, ngày nghỉ thường
ra ngoại ô, vào rừng luyện giọng hàng giờ, sau trở thành nhà diễn thuyết hùng hồn,
lôi cuốn. Năm 1916, ra Hà Nội học trường thuốc, sáu tháng sau bỏ thuốc qua Luật.
Không đầy một năm sau, Ninh về Sàigòn rồi sang Pháp học tiếp Luật. Đó là năm 1918
(theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ, Hồ Hữu Tường và Lê Văn Thử). "Ninh sang Pháp du
học vào năm 1918, lúc Đức Quốc đã thua trận. Đến năm 1920, đã đoạt được bằng Cử
Nhân Luật, vào lúc mới 20 tuổi" (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 11)
Hoạt động trong Hội Người An Nam yêu nước và là một trong những cây bút ký tên
Nguyễn Ái Quấc của nhóm Ngũ Long.
Về nước mùa thu năm 1922, sau khi đi Âu Châu (Anh và Ý), diễn thuyết nhiều lần
tại Hội Khuyến Học Nam Kỳ, đả kích chính sách thực dân, phát huy tinh thần dân chủ,
được thanh niên hưởng ứng.
Tháng 3/1923, Nguyễn An Ninh sang Pháp, ở lại nửa năm, dường như chuyến đi này
để thuyết phục Phan Văn Trường về nước. Phan Văn Trường rời Pháp ngày 22/12/1923
và đến Sàigòn ngày 21/1/1924.
Đêm 15/10/1923, Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở hội Khuyến học Sàigòn, bài Cao Vọng
Thanh niên, có tiếng vang lớn, Thống đốc Nam Kỳ gọi Ninh lên cảnh cáo.
Ngày 10/12/1923, phát hành số 1, báo La Cloche fêlée (Chuông rè)
do Nguyễn An Ninh sáng lập, Jean de la Bâtie (Lê Văn Thử ghi Dejean de la Bâtie),
làm chủ nhiệm. Bâtie sẽ là thày dạy tiếng Pháp cho Phan Khôi. Việc Phan Khôi bị
mật thám theo dõi phải lánh xuống Cà Mau ba năm trong khoảng thời gian này, chắc
có liên quan tới báo Chuông rè.
La Cloche fêlée là cơ quan ngôn luận đầu tiên chống Pháp công khai và
mãnh liệt tại Việt nam. Nguyễn An Ninh viết bài, lên trang, đưa in và tự mình đem
báo đi bán. Báo viết tiếng Pháp, đánh thẳng vào các chính sách thực dân.
Đến số 19, ra ngày 14/7/1924, phải tạm ngưng (vì vụ Phạm Hồng Thái ném bom ở
Sa Điện, Quảng Châu, giết hụt toàn quyền Merlin ngày 19/6/1924, và một số sự kiện
khác, theo Ngô Văn, sđd, trang 50). Theo Lê Văn Thử, phải tạm ngưng vì Thống đốc
Cognacq tìm cách đóng cửa tờ báo nhưng không được, bèn sai lính kín hăm dọa chủ
nhà in (Lê Văn Thử, Hội Kín Nguyễn An Ninh, Nam Việt, 1949, trang 24).
La Cloche fêlée phải tạm ngưng, Nguyễn An Ninh lại sang Pháp, gặp Nguyễn
Thế Truyền đang phụ trách tờ Le Paria và Hội Liên hiệp Thuộc địa. Ninh ở Pháp gần
một năm và lần này đón Phan Châu Trinh về nước. Ngô Văn viết:
"Trước khi lên đường ba hôm, Ninh và Trinh tham dự cuộc mít tinh tập hợp hơn 800 người Pháp và Đông Dương tại Khách sạn Hội Bác Học (Hôtel des Sociétes savantes): kết cuộc mít tinh quyết nghị như sau:
"Những người Pháp và Đông Dương tập hợp ngày 25/5/1925 hồi 21 giờ, do ông Phan Châu Trinh chủ toạ, sau khi nghe các bản tường trình của các ông Nguyễn An Ninh, Diệp Văn Kỳ và Dương Văn Giáo về tình hình chung ở Đông Dương, đã thông qua nghị quyết sau đây để gửi tới chính phủ cộng hoà..." (Ngô Văn, trang 50, trích theo Georges Garos, Forceries humaines, Paris 1926, trang 179).
Nội dung bản quyết
nghị tương tự như bản Thỉnh nguyện thư 1919 của Phan Văn Trường, thêm vài điều khoản
mới, nên chúng tôi không chép lại ở đây.
Ngày 18/5/1925, Phan Châu Trinh và Nguyễn An Ninh lên đường xuống Marseille.
"Phan Châu Trinh đã xuống tàu hôm 28/5/1925 về Sàigòn. (...) Cùng chuyến tàu có tên phiến loạn chống Pháp là Nguyễn An Ninh cùng về. Cũng có quyển France en Indochine [tác phẩm của Nguyễn An Ninh] chống Pháp một cách đáng ghét đã được đem về trong chuyến này. Yêu cầu không được phổ biến quyển sách này. Xin làm mọi cách để ngăn cấm." (Điện tín ký tên André Hesse - do tổng giám đốc cơ quan An Ninh gửi từ Paris sang Hà Nội (Thu Trang, trang 231-232).
Tờ Chuông rè im lặng được 20 tháng, khi Phan Bội Châu bị bắt đưa về Hà Nội, ra
toà ngày 23/11/1925 về tội "phiến loạn", Nguyễn An Ninh tung trở lại tờ Chuông rè
ngày 25/11/1925, phát động chiến dịch bảo vệ Phan Bội Châu (cùng với Đông Pháp Thời
Báo) và bên Pháp Nguyễn Thế Truyền lập tức vận động Hội Liên hiệp Thuộc địa; tổ
chức mít tinh lớn tại Hội trường Hội Bác Học ngày 9/10/1925; ứng khẩu diễn thuyết
hùng hồn cảm động và viết trọn hai số Le Paria 36 và 37 về Phan Bội Châu.
(ĐHT, trang 56-57).
Toàn quyền Varenne phải thả Phan Bội Châu ngày 24/12/1925, đưa về an trí ở Huế.
Đầu năm 1927, Ninh sang Pháp và lần này đón Nguyễn Thế Truyền về nước.
Nguyễn An Ninh: Năm lần bị bắt và bị cầm tù
1- Lần thứ nhất: 20/3/1926, bị bắt, bị kết án 18 tháng tù, vì tội
phá rối trị an, viết báo Chuông rè và truyền đơn xúi dân làm loạn, tổ chức
mít tinh tại Xóm Lách, Vườn Xoài (tổ chức chứ không tham dự, vì bị bắt từ hôm trước),
ở nhà bà Đốc Phủ Tài, dì ruột của Ninh, đưa ra bản quyết nghị có ba ngàn người
biểu quyết, đòi tám điểm, tương tự như Bản Thỉnh Nguyện của Phan Văn Trường
tại Hội nghị Hoà bình Versailles năm 1919.
Phan Châu Trinh mất ngày 24/3/1926. Tổ chức đám tang Phan Châu Trinh do Ninh
và Phan Khôi đảm trách, nhưng Ninh bị bắt ba ngày trước đó (chúng tôi sẽ nói rõ
hơn trong phần thứ nhì, viết về Phan Khôi).
Ngày 7/1/1927, được ân xá, Ninh xin sang Pháp, liên lạc các nhóm đấu tranh ở
Pháp và mời Nguyễn Thế Truyền về nước (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, trang 177). Ngày
7/12/1927 Nguyễn Thế Truyền và gia đình, cùng Nguyễn An Ninh lên tàu Chantilly,
từ Marseille về Sàigòn.
2- Lần thứ nhì: tháng 9/1928, bị kết án ba năm tù vì tội lập
Hội Kín Nguyễn An Ninh, dính líu gần 500 người bị bắt vì tội "đảng viên". Phan
văn Hùm cũng bị tù, được thả, viết cuốn sách nổi tiếng Ngồi tù khám lớn.
Đến cuối năm 1930, Ninh được thả.
3- Lần thứ ba: 4/1936, bị bắt về tội viết báo La lutte (Tranh đấu)
(quy tụ nhóm: Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Lê Văn Thử, Phan Văn Hùm) phá rối trị
an, bị kết án 18 tháng tù, cùng với Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo. Tuyệt thực.
Tháng 11/1936 được thả.
4- Lần thứ tư: 7/37 bị bắt trở lại, kết án 5 năm tù ở, 5 năm biệt xứ,
về tội tổ chức biểu tình ở quận Càn Long "xúi giục dân chúng nổi loạn". Tháng 1/1939
được ân xá.
5- Lần thứ năm: Ngày 5/10/1939, đệ nhị thế chiến bùng nổ, bị bắt cùng
với nhiều nhà chính trị khác đủ các khuynh hướng. Ninh bị kết tội phá rối trị an
bằng cách hành động trong những cơ quan bí mật, tiếp xúc và xúi giục nông dân, thợ
thuyền nổi lên chống chính phủ Pháp. Bị kết án: 5 năm tù. 10 năm biệt xứ và mất
quyền công dân. Lần này, không thoát khỏi tử thần, nhà cách mạng Nguyễn
An Ninh mất tại Côn Đảo ngày 14/8/1943, ở tuổi 43. (Theo Phương Lan-Bùi Thế Mỹ)
Bài diễn thuyết Cao vọng thanh niên tại hội Khuyến học Sàigòn, đêm 15/10/1923
đánh dấu sự thành công đầu tiên của Nguyễn An Ninh như một nhà trí thức ái quốc
(23 tuổi) "mở màn cho cao trào cách mạng, mở mang dân trí, dân sinh, dân quyền,
dân chủ cho nòi giống Việt" như Phương Lan Bùi Thế Mỹ nhận xét (Phương Lan Bùi
Thế Mỹ, trang 12). Bài diễn văn này, và các bài viết trên La cloche fêlée
của Nguyễn An Ninh đã ảnh hưởng sâu xa đến lớp trẻ như Hồ Hữu Tường, Phan Văn Hùm,
Tạ Thu Thâu... Họ coi Ninh như thần tượng và noi gương Ninh làm cách mạng chống
Pháp, lập đảng Trốt kít. Phan Khôi, dù lớn hơn Ninh 13 tuổi, cũng chịu ảnh hưởng
của Ninh (sẽ chứng minh bằng văn bản) trong việc xây dựng một nền quốc học, thoát
khỏi ảnh hưởng Khổng Mạnh, gần gụi với tinh thần khoa học Tây phương.
Tại Paris, Ninh vừa làm vừa học: viết bài khảo cứu về Đông Phương học cho các
báo, hoặc làm người mẫu cho họa sĩ. Chơi thân với giới văn nghệ sĩ Pháp và nhóm
Anarchiste (Vô chính phủ). Để tóc dài. Có lúc Nguyễn An Ninh và Phan Văn Hùm cạo
trọc đầu. Khi về nước, viết báo, lên khung, in báo, mặc áo dài, tóc dài, đem báo
rao bán trên đường Catinat. Nấu dầu cù là Nguyễn An Ninh đem bán khắp thôn
quê kiếm sống và diễn thuyết, nói chuyện với quần chúng đói khổ về tình hình đất
nước. Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng độc đáo nhất trong thế kỷ XX.
Tại Paris, hoạt động tích cực trong hội Người An Nam Yêu Nước, trở thành một
trong Ngũ long, diễn thuyết và viết báo chống thực dân Pháp.
"Tụi Tây ít khi phục bằng cấp (...) Ninh viết français hay lắm, tụi nó lác mắt. Chừng đó mới chịu phục (...) Khởi đầu, Ninh viết trong tờ Le Libertaire [Người tự do tuyệt đối] là cơ quan anarchiste [Vô chính phủ]. Tây nó phục rồi, mới rủ Ninh đứng vào nhóm sáng lập tạp chí Europe (do J.R.Bloch làm giám đốc)... Vào tạp chí Europe, Ninh làm quen với Léon Werth. Sau Ninh rủ Léon Werth qua bên mình. Về Pháp, Léon Werth viết cuốn Cochinchine để ca tụng Ninh là người trí thức độc nhứt kể cả Tây lẫn Việt, mà Werth gặp được ở Nam Kỳ". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 13).
"Năm 1922, vào mùa thu, sau khi kết nạp, tìm tòi, học hỏi ở Ý và ở Anh, kết nạp đặng nhiều bạn đồng chí như lãnh tụ Ấn Độ Nerhu, Ninh đã trở về đất nước phổ biến chí hướng phong trào ái quốc, cách mạng với dân tộc. Cái tài quan trọng nhứt là tài diễn thuyết và viết. Ninh đem từ Âu Châu về một lối văn mới, lời ít mà nói nhiều, câu văn gọn không rườm rà dài dòng lê thê mà tối nghiã như lối nhà văn thâm nho." (Phương Lan- Bùi Thế Mỹ, Nguyễn An Ninh, trang 41).
Lối viết thẳng và
bộc trực này, cũng sẽ là lối viết của Phan Khôi, nhất là trong những văn bản cuối
cùng, lối lập luận và văn phong của Phan Khôi về đấu tranh giai cấp có nhiều điểm
giống Nguyễn An Ninh. Ninh viết về Đạo Phật, về Nietzsche, dịch 5 chương đầu cuốn
Contrat social (Dân ước) của Rousseau... Hành động quyết liệt nhưng tư tưởng trung
dung, giao hoà Âu Á. Đó là Nguyễn An Ninh.
Nguyễn An Ninh tỏ lòng ngưỡng mộ đặc biệt Lương Ngọc Quyến, có lẽ cái chết bi
tráng của Ngọc Quyến đã gây dấu ấn sâu đậm trong Ninh, khiến sau này Ninh cũng trở
nên một nhà cách mạng can trường vào bậc nhất của thế hệ ông. Trong 43 năm sống,
một phần ba đời vào tù ra khám, nhưng không hề nhụt chí, tiếp tục tranh đấu bằng
ngòi bút cho đến chết.
Với cái nhìn rộng về tình hình thế giới, thâm hiểu cuộc cách mạng bất bạo động
của dân Ấn Độ, Nguyễn An Ninh là khuôn mặt cách mạng hiện đại nhất của chúng ta.
Một thần tượng trẻ trung, bụi đời, hóm hỉnh. Nhưng Nguyễn An Ninh còn là người anh
cả nếu không muốn nói là cha đẻ của phong trào cách mạng thanh niên, chủ
yếu nhóm Trốt-kít, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường, Huỳnh Văn Phương...
những thanh niên học trường Tây, sử dụng ngôn ngữ Voltaire, dùng tinh thần cách
mạng 1789 để chống thực dân Pháp tại Pháp và tại Nam Kỳ, trong suốt 25 năm, từ 1920
đến 1945.
Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh
Khác hẳn với các nhà cách mạng như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc
Kháng... Tiểu sử Hồ Chí Minh là một bí mật. Chỗ nào ông muốn viết (hoặc sai người
viết), chỗ nào giấu đi hoặc thêm thắt vào, là có chủ đích rõ ràng. Chủ đích đó không
phục vụ sự thật, như Phan Bội Châu viết Ngục Trung Thư hay Tự Phán:
thật như đếm, sai lầm của mình cũng viết, ý kiến nào do Nguyễn Thành hay Lương Khải
Siêu nghĩ ra cũng nói rõ.
Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công
trình không phải của ông. Đó là sự cách biệt sâu xa về nhân cách giữa hai nhà cách
mạng. Lời Phan Khôi dặn con: "Khi con gái của Mác hỏi cha thích tính gì nhất?
Mác đã trả lời: tính thật thà!" (Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi học giả Phan
Khôi, Kiến thức ngày nay, tháng 12/1996), là một chúc thư mà cũng là một lời
cảnh cáo Hồ Chí Minh về toàn diện lịch sử mờ ám của ông.
Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ chú ý đến thời kỳ Nguyễn Tất Thành
ở Pháp, từ 1919 đến1923. Thời gian này, ông tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc và chính
những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh.
1- Nghi vấn thứ nhất: năm sinh?
Cuối lá thư viết tay ở Marseille ngày 15/9/1911, gửi cho Tổng thống Pháp, xin
vào học trường Thuộc địa, có ghi sinh năm 1892 ở Vinh. Một mật báo ghi Nguyễn
sinh ngày 24/1/1892. Một mật báo khác, ghi 15/1/1894. Trong hộ chiếu vào
Nga năm 1923, theo Hồng Hà, ghi 15/1/1895. Còn ngày sinh chính thức 19/5/1890,
có từ năm 1946, có thể lấy ngày thành lập Việt Minh. [Theo Nguyễn Thế Anh, L'itinéraire
polytique de Ho Chi Minh, trong cuốn Ho Chi Minh, L'homme et son héritage, Đường
Mới, Paris, 1990].
Những sử gia Pháp, như Hémery cho rằng: năm sinh chính thức 1890 (thay vì 1895
hay 1898), chỉ có mục đích phục vụ huyền thoại: 1890 tính đến 1945 là ngoại ngũ
tuần, đáng được gọi bằng Bác. Năm Nguyễn Tất Thành từ Anh sang Pháp cũng thế, theo
Hémery, Nguyễn Tất thành đến Pháp năm 1919. Nhưng lại chính thức chọn năm 1917,
vì có những mốc lịch sử gắn liền: những cuộc binh biến trong quân đội Pháp và cuộc
cách mạng tháng 10 của Nga. (Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Presses Sciences Po,
2000, trang15).
Tiểu sử chính thức Hồ Chí Minh, được rút từ những cuốn hồi ký do chính ông viết
hoặc sai người viết: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch của
Trần Dân Tiên, bản đầu tiên viết mùa xuân năm 1948 bằng chữ Hán, in ở Thượng Hải
năm 1949. Dịch và in ở Hà Nội năm 1958. Cuốn thứ nhì: Vừa đi đường vừa kể chuyện
của T. Lan, in năm 1963 (T. Lan là một trong những bút hiệu của Hồ Chí
Minh sau 1951, theo Bùi Tín, ông rút ngắn bí danh Trần Thái Lan của Nguyễn Thị Minh
Khai khi hoạt động ở Hương Cảng và Quảng Đông). Cuốn thứ ba: Thời thanh niên
của Bác Hồ, của Hồng Hà, nxb Thanh Niên, 1976. Cuốn của Trần Dân Tiên có một
số đoạn tương đối thành thực. Cuốn của Hồng Hà, đầy đủ và logique hơn, nhưng có
những đoạn bớt đi hoặc thêm vào, lộ liễu, cốt để nâng cao giá trị thần tượng.
Trong thời gian 1911-1923, cuộc đời Nguyễn Tất Thành, có thể đã diễn ra
như sau :
Ngày 4/6/1911, Nguyễn Tất Thành rời Sàigòn trên tàu L'Amiral Latouche-Tréville,
trọng tải 6000 tấn, chạy đường Sàigòn-Dunkerque, làm phụ bếp, lấy tên là Văn Ba.
Tháng 9, tới Marseille, gửi thư cho Tổng Thống Pháp xin vào học trường Thuộc Địa.
Rồi lại theo tàu về Le Havre. Làm việc nhà cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse ngoại
ô Le Havre, độ một tháng rồi lại tiếp tục lên tàu đi Phi Châu.
Từ 1912 tới mùa hè 1914, vẫn dùng tên Ba, làm bồi, phụ bếp, hoặc khuân vác trên
những tàu xuyên Đại Tây Dương, chạy đường Le Havre - Londres - New York, hoặc Châu
Phi - Châu Mỹ. Từ 1914-1919, bỏ việc bồi bếp trên tàu, sống tại Luân Đôn với tên
Nguyễn Tất Thành, ở số 8 Tottenham Road. (Theo Hémery, trong thế chiến, Tất Thành
tránh sang Pháp vì ngại có thể bị gọi đi quân dịch). Làm việc tại khách sạn Carlton,
rửa bát, rồi phụ bếp. Học tiếng Anh và hình như buổi tối có học thêm Máy móc (Mécanique)
và Điện. Trao đổi thư từ thường xuyên với Phan Châu Trinh, bằng Hán văn. Khoảng
tháng 5-6/1919, sang Paris. Hoạt động trong Hội Người An Nam Yêu Nước.
Ngày 27/12/1920, khai mạc hội nghị Tours của đảng Xã hội (SFIO), xuất hiện công
khai với tên Nguyễn Ái Quốc.
Ngày13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật đi Nga, tới Moscou ngày 30/6/1923.
Tháng 2/1925, Lý Thụy xuất hiện ở Quảng Đông -tình báo Trung Hoa nhận diện là
Nguyễn Ái Quốc- Thành lập Việt nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội.
Nghi vấn thứ nhì: Trình độ học vấn
Theo năm sinh chính thức 1890, thì 1911, khi xuống tàu đi Pháp, Tất Thành 21
tuổi.
Từ điển Văn học và các tiểu sử chính thức đều ghi: thủa nhỏ học chữ Hán rồi chữ
quốc ngữ, sau vào Quốc Học Huế. Đầu năm 1911, bỏ học, vào Phan Thiết dạy ở trường
Dục Thanh [trường đầu tiên của phong trào Duy Tân], ít lâu sau vào Sàigon, rồi từ
Sàigòn "xuất dương tìm đường cứu nước".
Daniel Hémery viết: "Theo lời khai của của Đạt (anh cả của Thành) với Sở Mật
thám năm 1920, thì Thành học trường bảo hộ (franco-indigène), dường như Đông Ba,
đậu bằng Tiểu học (Certificat d'études primaires). Cả hai ghi tên vào trường Quốc
học (...) nhưng Thành học dở dang, bỏ đi làm (khoảng 1909?), làm trợ giáo, lương
8 đồng một tháng, ở trường Dục Thanh tại Phan Thiết." (Daniel Hémery, Ho Chi
Minh De L'Indochine au VietNam, Gallimard 1990, trang 32-33).
Hémery ghi rõ học trường Pháp-Việt và còn đậu cả bằng Certificat d'études
primaires.
Nếu những chi tiết trên đây đúng, thì Nguyễn Tất Thành đi học đến năm 19 hoặc
21 tuổi, và nếu có cả Certificat d'études primaires tất phải biết tiếng Pháp.
Nhưng Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) lại đưa ra những chứng cớ trái ngược,
như sau: Ở trên tàu Latouche-Tréville "mỗi ngày anh Ba phải làm từ 4 giờ sáng",
"công việc kéo dài suốt ngày", "suốt ngày anh Ba đẫm nước, hơi và mồ hôi, mình đầy
bụi than", buổi tối có hai người lính giải ngũ, về Pháp, tốt bụng, "dạy cho
anh đọc và viết" (TDT, trang 15-16-17)
Khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Sainte Adresse, thì "anh học tiếng Pháp với
cô sen" (TDT, trang 20).
Không có lý gì mà Hồ Chí Minh viết sai về chuyện này, nhất là ông lập lại việc
khi đến Pháp ông không thạo tiếng Pháp, không viết được tiếng Pháp, phải nhờ Phan
Văn Trường viết hộ.
Vậy vần đề học vấn của Nguyễn Tất Thành, phần chữ Hán là chắc chắn, vì cha là
Phó bảng Nguyễn Sinh Huy, bạn học của Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh... Còn việc
học ở các trường Đông Ba, Quốc học, dường như không lấy gì làm chắc lắm.
Nghi vấn thứ ba: Nguyễn Tất thành đến Paris năm nào?
1- Trong thời gian ở Luân Đôn, Nguyễn Tất Thành trao đổi thư từ thường xuyên
với Phan Châu Trinh, gọi cụ Phan là Hy Mã nghi bá đại nhơn (Hy Mã
là tên hiệu của Phan Châu Trinh, nghi bá là bác kính) và tự xưng là cuồng
điệt Nguyễn Tất Thành (cuồng điệt là người cháu hăng say). Vì Phan Châu
Trinh bị theo dõi rất kỹ, loạt thư này không qua mắt được mật thám, đó là một trong
những lý do xác định khoảng thời gian 1914-1918, Nguyễn Tất Thành sống ở Luân Đôn.
2- Mật báo tìm thấy thẻ thư viện mang tên Nguyễn Ái Quốc, ghi năm 1919. (Thu
Trang, Rapport ký tên Jean, in trong phần Phụ lục).
3- Nhưng Hồ Chí Minh tuyên bố khác hẳn, dưới ngòi bút Trần Dân Tiên, ông viết:
Thế giới đại chiến bùng nổ. (....) Anh Ba đến nói với tôi: "Xin từ biệt anh Nam"
- Anh đi đâu?
Tôi đi Pháp (...)
Sau khi rời Luân Đôn, anh Ba viết thư cho tôi. Đại ý thế này:
"Tôi đã gặp nhà ái quốc Phan Châu Trinh. (...) Tôi cũng gặp luật sư Phan Văn Trường và những người khác. Tôi nói với họ: Trong khi vua Duy Tân nổi dậy ở Huế, nhân dân Thái Nguyên và nhiều nơi khác khởi nghiã, thì chúng ta phải làm gì chứ?" (TDT, trang 30-31)
Mâu thuẫn: Đại chiến thứ nhất bùng nổ năm 1914. Vua Duy Tân nổi dậy, 1916 và
khởi nghiã Thái Nguyên, 1917. Vậy nếu Tất Thành sang Paris khi đại chiến bùng nổ
(1914) thì làm sao đã biết được những biến cố xẩy ra năm 1916 và 1917?
Có lẽ Hồ Chí Minh dùng năm 1914, chỉ với hậu ý muốn chứng minh chính mình
đã dựng nên hội Người An Nam yêu nước, chính mình là tác giả những bài báo
ký tên Nguyễn Ái Quấc, chính mình chủ động đưa ra ý kiến về bản Thỉnh Nguyện
ở Hội nghị Hoà Bình Versailles, năm 1919, và việc mình viết được những bài
báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là do đã ở Pháp từ 1914 và hết sức cố gắng
học tiếng Pháp.
Trần Dân Tiên viết về Hội Nghị Hoà Bình và bản Thỉnh Nguyện thư như sau:
" Họ đến để yêu cầu độc lập và tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba). (...) Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam Yêu Nước ở Pa-ri và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghiã của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc-Xây(...) Cũng nên nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt nam Yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con" (TDT, trang 32)
Trong đoạn này có một câu Hồ Chí Minh nói thật về bản Thỉnh Nguyện thư:
luật sư Phan Văn Trường viết, vì lúc bấy giờ ông Nguyễn chưa viết được tiếng
Pháp.
Và đoạn sau này, cũng rất đáng lưu ý:
"Lúc ấy, ông Nguyễn là một người yêu nước quyết tâm hy sinh tất cả vì Tổ quốc; nhưng ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng" (TDT, trang 34).
"Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn Trường viết thay. Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.
"Nhược điểm về tri thức làm ông Nguyễn rất khó chịu. Nhất là ông Trường không viết tất cả những điều ông Nguyễn muốn nói. Vì vậy, ông Nguyễn bắt tay vào việc học làm báo.
Thường lui tới toà báo "Dân Chúng", ông làm quen với những người Pháp khác trong đó có chủ bút tờ "Đời sống thợ thuyền". Cũng như ông Lông-ghê, người chủ bút này cũng rất đáng mến. Ông bảo ông Nguyễn viết tin tức cho tờ báo của ông. Biết rằng không thể nhờ ông Trường viết mãi, ông Nguyễn nói thật là mình cón kém tiếng Pháp. Người chủ bút nói: Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài của anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài, năm, sáu dòng cũng được". Ông Nguyễn bắt đầu viết rất khó khăn. Tin tức về Việt nam, ông Nguyễn không thiếu. Ông thiếu nhất là văn Pháp (...) Khi thấy viết đã bớt sai lầm, ông chủ bút bảo ông Nguyễn: "Bây giờ anh viết dài hơn một tý, viết độ bảy tám dòng". Ông Nguyễn viết bảy, tám dòng.
Dần dần, ông Nguyễn có thể viết cả một cột báo và có khi dài hơn. Lúc bấy giờ người chủ bút bạn thân của ông Nguyễn khẽ bảo:"Bây giờ anh viết ngắn lại. Viết từng này hoặc từng này dòng. Không viết dài hơn." (Trần Dân Tiên, trang 35- 36).
Phần thành thật là ông đã công nhận lúc ở Pháp, ông chưa biết gì về chính trị,
tiếng Pháp kém và muốn học để tự viết báo lấy. Và cũng lại có chỗ không thành thật,
vì ông đã nâng thời điểm ông đến Pháp từ 1919 lên 1914.
Những người dạy tiếng Pháp cho Nguyễn Tất Thành, ngoài Phan Văn Trường, còn có
Nguyễn Thế Truyền và có lẽ Nguyễn An Ninh nữa. Nhiều mật báo nói đến việc ngày nào
Thành cũng gặp Truyền, có khi mấy tiếng đồng hồ. Nhưng Hồ Chí Minh chỉ nhắc đến
Phan Văn Trường mà không nói đến hai người kia vì Nguyễn Thế Truyền sau chống Cộng
và Nguyễn An Ninh, vô chính phủ và thân với nhóm Đệ Tứ.
Nguyễn Tất Thành chính thức nhận tên mình là Nguyễn Ái Quấc từ Hội nghị Tours.
Hémery viết "Nguyễn xoay sở để được mời đi dự Đại Hội đảng Xã hội ở Tours,
nhân danh đại biểu khu 13 của nhóm Xã hội Đông dương ma (fantomatique). Ngày 27/12
anh phát biểu ủng hộ kiến nghị Cachin-Frossard, ủng hộ việc đảng Xã hội gia nhập
Quốc Tế cộng sản" (Hémery, trang 46).
Tại hội nghị Tours (bắt đầu ngày 27/12/1920), Nguyễn Tất Thành xuất hiện công
khai dưới tên Nguyễn Ái Quốc "ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì
người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghiã tư bản, giai
cấp vô sản, bóc lột, chủ nghiã xã hội, cách mạng (...) Ông Nguyễn nhức đầu vì khó
hiểu" (TDT, trang 46-47). Tuy không hiểu rõ những bàn cãi chính trị trong hội
nghị Tours, Nguyễn Tất Thành bỏ phiếu cho Đệ Tam quốc tế vì "Đệ Tam quốc tế nói
sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ" (TDT, trang
49). Đoạn này ông cũng thành thực, nhưng trong cuốn Hồng Hà sẽ bị bỏ hẳn và thêm
vào những trang dài nói là ông đã nghiên cứu kỹ lý thuyết Mác-Lê trước khi dự Hội
nghị Tours.
4- Việc Tất Thành sang Pháp năm 1914, khó tin, cho nên khi viết cuốn Thời
thanh niên của bác Hồ (nxb Thanh Niên, 1976, Hồng Hà được lệnh sửa lại:
"Anh bỏ nghề phụ bếp ở Luân Đôn, sang Pháp, đấy là vào cuối năm 1917" (Hồng Hà, trang 38)
"Vừa tới Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa des Gobelins], một phố yên tĩnh của quận 13. Đây là nhà của luật sư Phan Văn Trường. Cùng ở có cụ Phan Châu Trinh mà anh Nguyễn Ái Quốc có thư từ thăm hỏi luôn khi anh còn ở Luân Đôn. Ông Trường nhường cho anh một buồng con trên gác ba, vừa đủ kê một cái bàn, một cái giường và một cái tủ con. Dạo ấy, nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh là một trung tâm gặp gỡ của nhiều Việt kiều ở Pa-ri. Có khi bà con đến chơi ăn ở liền mấy ngày (...) Cụ [Phan Châu Trinh] làm nghề ảnh tư ngay tại nhà số 6. Để sống, anh Nguyễn - cả người Việt lẫn người Pháp quen gọi anh Nguyễn Ái Quốc như thế - cùng với một kiều bào khác là Tuyết giúp việc cho cụ Phan đồng thời học nghề rửa ảnh và phóng đại ảnh.
Cụ Phan là một nhà yêu nước chân thành, nổi tiếng ở Việt Nam và nước ngoài. Cụ hơn anh Nguyễn 19 tuổi, Còn ông Trường vốn là thông ngôn, học đến tiến sĩ luật học, làm nghề luật sư ở Pa-ri. Ông giỏi tiếng Pháp, vào quốc tịch Pháp, có nghiên cứu chủ nghiã Mác, quen biết nhiều trí thức và nhà chính trị Pháp. Điều mà anh Nguyễn băn khoăn hỏi hai người lúc đó làm gì cho đất nước trong khi đồng bào khao khát cách mạng thì không được trả lời thoả đáng, rõ ràng.
Anh Nguyễn vừa làm nghề rửa ảnh vừa chăm chỉ học thêm tiếng Pháp với ông Trường" (Hồng Hà, trang 19).
Trích đoạn này cho một số thông tin đáng lưu ý. Đặc biệt câu: "Vừa tới
Pa-ri, anh Nguyễn Ái Quốc đến ở nhà số 6 phố Vi-la đề Gô-bơ-lanh [6 villa
des Gobelins].
Chính câu này đã xác định ngày tháng Nguyễn Tất Thành đến Paris:
Bởi vì căn nhà số 6 villa des Gobelins chỉ có sau khi Phan Văn Trường giải
ngũ, tức là từ tháng 4/1919, ông về sống tại Paris, như đã ghi trong hồi ký.
Khoảng 1913-1914, Phan Văn Trường ở Rue Bertholet. 1914-1915 đi tù. Và sau khi ra
tù, ông làm việc trong Công Binh Xưởng ở Toulouse. Tóm lại, nếu Nguyễn Tất Thành
đến Paris ở ngay nhà Phan Văn Trường, thì chỉ có thể là sau tháng 4/1919 (Phan Văn
Trường giải ngũ, lên Paris) và trước tháng 6/1919 (Nguyễn Tất Thành đem bản Thỉnh
nguyện đến Versailles).
Vậy, có thể xác định chắc chắn rằng: Nguyễn Tất Thành đến Pháp trong tháng
5 hoặc tháng 6 năm 1919.
Nguyễn Tất Thành ở nhà số 6 villa des Gobelins của Phan Văn Trường hai năm, từ
tháng 5- 6/1919, đến ngày 14/7/1921, Thành dọn tới số 9, Impasse Compoint, khu 17
(Hémery, trang 48). Đây là khu phố nghèo dành cho thợ thuyền, Thành tiếp tục nghề
ảnh ở một cửa hiệu gần nhà. Ngày 14/3/1923, Thành dọn về trụ sở báo Le Paria (Người
cùng khổ), số 3 phố Marché des Patriaches (HH, trang 187).
Khi đã xác định được đúng thời gian Nguyễn Tất Thành ở Pháp. Chúng ta có thể
đi sâu hơn nữa vào tổ chức Việt kiều, vào sự phát sinh cái tên Nguyễn Ái Quấc và
những công trình Hồ Chí Minh nhận là của ông nhưng lúc đó ông chưa có mặt tại Paris.
Hội Đồng Bào Thân Ái (La Fraternité des Compatriotes)
Phan Văn Trường viết:
"Một ngày trong năm 1912, sau khi đưa đám một thiếu niên An Nam, học sinh trường Parangon [trường Nguyễn Thế Truyền học], một số đồng bào đưa ra ý kiến lập hội Ái hữu Sinh viên An Nam tại Pháp (Association amicale des étudiants annamites en France). Họ đề nghị tôi nghiên cứu dự trình để thực hiện càng sớm càng tốt. Tôi trả lời ngay: "Làm thì dễ, Pháp có luật 1/7/1901, tự do lập hội. Nhưng luật không chưa đủ, còn phải tính đến chính sách thuộc địa nữa. Các bạn nên biết, nếu ta lập hội mà không có phép, chính quyền thuộc địa sẽ tìm cách dẹp ngay." (PVT, trang 87). Tuy nói vậy, nhưng ông cũng làm:
"Tôi bắt tay vào việc. Viết bản nội quy và thảo một chương trình [hành động] dài. Hội được thành lập trong sự hoan hỉ của đồng bào đã giao phó trách nhiệm cho tôi. Tôi yêu mến đặt tên nó là Thân Ái (La Fraternité). Hội có mục đích:
1- Giúp sinh viên Đông Dương xa gia đình có cơ hội gặp gỡ, kết bạn, đến chơi và giúp đỡ nhau trong trường hợp rủi ro, bệnh hoạn.
2- Học chung với nhau để trao đổi kiến thức khoa học và văn chương.
Hội Thân Ái mỗi tháng tổ chức nhiều cuộc hội họp, và diễn thuyết." (Hồi ký PVT, chương 13, trang 87-88.
Qua sinh hoạt của hội, Phan Văn Trường gặp Phan Châu Trinh năm 1912. Sau này,
người ta thường viết Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường lập hội là không đúng. Người
lập hội là Phan Văn Trường.
Hội Đồng bào Thân ái là tế bào đầu tiên của người Việt tại Pháp.
Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, trở thành hai nhà lãnh đạo của phong trào
Việt kiều yêu nước tại Pháp. Vì hoạt động của hội, mà Phan Văn Trường và Phan Châu
Trinh bị bắt năm 1914. Hội Đồng bào Thân ái phải ngưng hoạt động. Phan Văn Trường
viết:
"Hội hoạt động công khai không mờ ám. Chúng tôi cũng biết là có mật thám trà trộn trong đám hội viên, nhưng không sao, càng tỏ cho họ thấy là hội của chúng tôi theo đuổi những mục đích hoàn toàn hợp pháp và đáng khuyến khích. (...) Bọn mờ ám vẫn rình rập, với thế lực trong chính quyền thực dân, thế nào họ cũng phá. Hội của chúng tôi bị tẩy chay, họ phao tin hội này là ổ cách mạng, gián tiếp cảnh cáo hội viên nếu cứ cứng đầu không chịu bỏ thì có ngày sẽ phải hối hận". (PVT, trang 89).
Theo mật báo của mật thám thì Hội Đồng Bào Thân Ái phải giải tán vào năm 1916
(Thu Trang, trang 43). Tuy nhiên thông tin này chưa chắc đã đúng. Có thể hội phải
giải tán sớm hơn, từ khi hai vị thủ lĩnh bị bắt vào tháng 9/1914.
Hội Người An Nam yêu nước ra đời.
Hội Người An Nam Yêu Nước (Le Groupe des Compatriotes Annamites) ra đời.
Sự xuất hiện bút hiệu Nguyễn Ái Quấc.
Về mặt chính thức, Hội Người An Nam Yêu Nướcthành lập sau thế chiến, tức là sau
khi Phan Văn Trường giải ngũ trở về Paris vào tháng 4/1919. Căn nhà 6 villa Gobelins,
quận 13, của ông trở thành trụ sở của hội, theo mật báo Pháp.
Nhưng về mặt không chính thức, có thể hội đã hình thành rất sớm, tại Toulouse,
do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền thành lập. Phan Văn Trường, sớm để ý đến
Nguyễn Thế Truyền, 12 tuổi, được đem về Pháp học, ở trường Parangon, năm 1910. Hai
người sau này lại cùng ở Toulouse từ 1916 đến 1919. Thời gian này Phan Văn Trường
ở trong quân đội, làm thông ngôn cho lính thợ và Nguyễn Thế Truyền đang học kỹ sư.
Một mật báo cho biết:
"Hội những người An Nam yêu nước đã được thành lập từ nhiều năm nay do hai nhà cách mạng chống Pháp là Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh. Đó là một nhóm hoạt động rất tích cực.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh (1914-1918), trụ sở Hội này là nơi hẹn của rất nhiều binh lính An Nam và hạ sĩ quan cùng sĩ quan có cấp bực. Từ hồi hai người trên, Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh, bị bắt vì tội chống an ninh quốc gia vào năm 1915, tuy Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh vẫn giữ vai trò lãnh đạo Hội một cách không chính thức, nhưng thực tế thì đã chính là do Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Đông nam Á, Paris, 1983, trang 44)
Mật báo này rất quan trọng, vì nó cho biết:
1- Như vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc đã xuất hiện trong khoảng 1914-1918,
ít nhất là từ 1918. Tức là trước khi Nguyễn Tất Thành sang Paris rất
lâu (Tất Thành sang Paris khoảng tháng 5-6/1919, như trên đã chứng minh).
2- Hội Người An Nam Yêu Nước được thành lập trong khoảng 1914-1918.
Như vậy, chỉ có thể ở Toulouse, nơi Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền sống từ
1916 đến 1919. Trong thời gian này Phan Văn Trường đã bị buộc tội xúi giục binh
lính An Nam làm loạn, viết đơn xin giải ngũ.
3- Ba người gần Ninh nhất là Lê Văn Thử tác giả Hội kín Nguyễn An Ninh
(Nam Việt, 1949), Phương Lan Bùi Thế Mỹ-Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh 1899-1943
(Thúy Phương, Sàigòn, 1970) và Hồ Hữu Tường- 41 năm làm báo (Đông Nam Á,
Paris, 1984), đều ghi Nguyễn An Ninh sang Pháp lần đầu năm 1918.
Vậy cái tên Nguyễn Ái Quấc, Quấc chứ không phải Quốc,
là dấu ấn của Ninh. Ninh người Nam, chỉ có người Nam, theo Huỳnh Tịnh Của, mới viết
Quấc. Trường và Truyền người Bắc, không viết như thế.
4- Bộ Thuộc địa bắt đầu theo dõi Nguyễn Ái Quấc vào khoảng tháng 10/1919.
Báo cáo của Jean, tháng 10/1919, có đoạn sau:
"1- Ông Guesde nói phải, có Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Văn Quốc, người Sàigòn, học ở bên này đã lâu lắm. Song chưa biết tên ấy ở đâu - Phải quen Phan Văn Chường thời mới biết tên ấy được.
2- Xin ông làm ơn hỏi Sureté [An ninh] Paris xem Chường có ở Paris bây giờ không, hay là đi voyage như lời sergent interp. Khương nói và cho tôi chỗ hắn ở (số nhà và phố)" (Thu Trang, trang 54)
Theo báo cáo này, người mật thám tên là Jean, đến tháng 10/1919, chưa xác định
được nhân dạng Nguyễn Ái Quốc, lúc thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn An Ninh
[người Sàigòn], khi thì coi Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thế Truyền [học ở bên
này đã lâu lắm], và chưa biết địa chỉ của Hội người An Nam yêu nước là nhà Phan
Văn Trường, số 6 villa des Gobelins.
5- Về hoạt động của nhóm, Daniel Hémery viết:
"Từ mùa thu năm 1919, Nhóm Những Người Yêu Nước có cột viết trên các báo Popupaire, Humanité, Libertaire, báo của CGT, La vie ouvrière và Le Peuple. Họ diễn thuyết, tổ chức những buổi họp mặt công cộng, với chủ đích bảo vệ quyền lợi Đông Dương trong nền văn chương chống thực dân theo cách của những nhà văn Indonésia (Nam Dương) hay Ấn độ. Cuối năm 1919, Nguyễn Ái Quốc, theo lời khuyên của Paul Vigné d'Octon là người hết sức chống chế độ thuộc địa, làm việc ráo riết tại thư viện Quốc gia, sửa soạn ra cuốn sách Les Opprimés (Những kẻ bị đàn áp), có thể là sơ thảo văn bản tương lai Procès de la Colonisation, và nghiền ngẫm dự định dịch các tác phẩm tây phương, như L'Esprit des lois [Vạn pháp tinh lý] sang Quốc ngữ." (Hémery, trang 45)
Câu này xác định hoạt động của nhóm Ngũ Long trên báo chí và diễn thuyết. Nhưng
Hémery nhầm Nguyễn An Ninh với Nguyễn Tất Thành:
Trong các bài viết và diễn thuyết được ghi lại, Ninh thường nhắc đến kinh nghiệm
cần học hỏi của Ấn Độ, Nam Dương. Ninh chơi thân với Paul Vigné d'Octon, nhóm anarchiste
và Ninh viết cho báo Le Libertaire. Ninh viết cuốn La France en Indochine
chống Pháp mãnh liệt in năm 1924, mang về Việt nam trong chuyến đi với Phan Châu
Trinh, bị tịch thu hết sạch (nhưng có thể đọc bài tiểu luận La France et L'indochine
đăng trên Europe số 31, ra ngày 15/7/1925 là thấy rõ nội dung). Ninh dịch Contrat
social, (Dân ước) của Rousseau và chắc có ý dịch cả L'Esprit des lois
[Vạn pháp tinh lý]của Montesquieu nữa. Còn Tất Thành, cuối năm 1919, mới sang Pháp
vài tháng, đang học tiếng Pháp, làm sao mà nghĩ đến chuyện viết sách và dịch sách
được?
6- Một mật báo khác:
"Vào những năm 1920-1921, Hội những người An Nam yêu nước" đặt trụ sở tại số 6 Villa des Gobelins. Số người lãnh đạo của Hội này, đã từng làm công việc tuyên truyền chống Pháp một cách rất mạnh nói chung, và đặc biệt chống ông Sarraut (toàn quyền Đông Dương) nói riêng. Những người này cho là ông ta đã gây nên nhiều nỗi đau khổ tại nước họ.
Tháng 10/năm 1921, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Khánh Ký, Lê Văn Thuyết và Hai Tân đã quyết định đề nghị ám sát ông Sarraut (...) Nhưng nhờ sự can thiệp của Phan Châu Trinh mà dự án này không đem ra thi hành" (Thu Trang, trang 45)
Những thông tin trong mật báo này khá đúng, trừ việc Phan Văn Trường định ám
sát Sarraut là sai. Phan Văn Trường là người rất thận trọng, ghét bạo lực, hành
động công khai, ông đối lập với Sarraut bằng luật pháp và ngòi bút, không bằng bạo
lực. Nguyễn Thế Truyền có viết bài đả kích Sarraut, sôi nổi hơn Phan Văn Trường.
Tác giả những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quấc là ai ?
Trong thư ngày 27/3/23, cụ thân sinh ra ông Nguyễn Thế Truyền khuyên con:
"chớ bắt chước Nguyễn Ái Quốc làm báo nói lăng nhăng, chớ chơi với Nguyễn Ái Quốc"
(ĐHT, trang19). Như thế, cái tên Nguyễn Ái Quốc, tuy là tên chung,
tên ma, nhưng đã thành tên riêng của một người: Nguyễn Tất Thành. Và sự bí mật
về việc ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quấc gần như toàn diện, đến cả cụ thân
sinh ra Nguyễn Thế Truyền cũng không biết con mình viết bài ký tên Nguyễn Ái Quấc!
Hồ Chí Minh hiển nhiên nhận mình là Nguyễn Ái Quốc tác giả các bài
báo. Nhưng nhiều dữ kiện chứng minh ngược lại.
1- Trước hết, về phiá chính quyền Pháp:
- Ngày 12/9/1923 (sau khi Nguyễn Tất Thành sang Nga), Tổng Thanh Tra quân đội
Đông Dương và người Đông Dương gửi thông tri cho Toàn Quyền Đông Dương, có đoạn:
"Les articles publiés sous le nom de Nguyễn Ái Quốc ne sont pas de lui ou
ont été tout au moins l'objet des plus sérieures retouches. Cet annamite parle et
écrit insuffisament le français pour rédiger tout ce qui paraît sous son nom"
(Contrôleur général des troupes indochinois et des Indochinois à Gouverneur général
de L'Indochine le 12/9/1923) (Slotfom Série I, Carton II - ĐHT, trang124) (Những
bài ký tên Nguyễn Ái Quốc không phải do y viết hoặc đã được sửa chữa rất nhiều.
Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ để viết những bài y
ký tên).
- Về phía mật thám Pháp: "Về những bài báo, có một vài mật thám đã ghi là
do chính Phan Văn Trường viết và ký tên Nguyễn Ái Quốc" (Thu Trang, trang 95)
2- Bất cứ ai cũng thấy là một người mới học tiếng Pháp như Nguyễn Tất Thành không
thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc. Theo Hoàng Xuân Hãn: "bí danh này
có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều
người Việt, chứ không phải chỉ là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy
ứng vào tiếng Pháp: Groupes des patriotes Annamites thấy ký ở dưới truyền đơn: Bản
yêu cầu tám điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn
Tất Thành. Rồi sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi"
(Thu Trang, trang 114)
- Về bản Thỉnh nguyện thư gửi Hội nghị Hoà bình năm 1919:
Mật thám ghi:"Bản yêu cầu gửi cho Hội Nghị Hoà bình là do Phan Văn Trường
viết. Những điểm yêu sách đã do Phan Châu Trinh dịch sang chữ An Nam" (Thu Trang,
104)
- Còn Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Phan Châu Trinh viết phần Hán văn, Phan Văn Trường
dịch ra Pháp văn, Nguyễn Tất Thành làm bài lục bát Việt nam yêu cầu ca. (Thu
Trang, trang 9).
Nhưng qua văn bản, chúng tôi có thể xác định: Phan Văn Trường viết thẳng phần
tiếng Pháp, vì đây là chủ đề một buổi diễn thuyết của ông năm 1913 (Les revendications
indigènes - Những thỉnh nguyện của người bản xứ), như đã nói ở trên. Lời văn trong
bài phù hợp với lối viết của Phan Văn Trường: Kín đáo, kiêu kỳ, mỉa mai, thâm thuý.
Phan Châu Trinh dịch sang Hán Văn. Nguyễn Tất Thành làm bài thơ (đúng hơn là vè).
Bài này, Thu Trang chụp được bản chép tay, cho thấy Tất Thành không biết làm thơ
và trình độ quốc ngữ còn kém. (Xem phần phụ bản ở dưới, chúng tôi có trích một đoạn).
3- Hồ Hữu Tường là người đầu tiên cho biết về nhóm Ngũ Long, có vài chi tiết
sai nhưng đại thể là đúng:
"Khi ra rù, hai cụ được Nguyễn Thế Truyền, học xong ở Toulouse lên hiệp tác. Đầu tháng bẩy cụ Tây Hồ móc nối được với Nguyễn Tất Thành, lúc đó ở London, nên viết thơ gọi về Paris. (...), Đến 1918, nhóm nầy lại được Nguyễn An Ninh ở Sài gòn sang nhập bọn.
Người ngoài cho đó là năm con Rồng, bởi người Việt xưng mình là "con Rồng". Linh hồn của nhóm "Ngũ long" nầy là cụ Phan Châu Trinh.
Và khi chường ra công chúng, nhứt là khi viết báo chống thực dân, thì ý kiến thường do cụ Tây Hồ xướng ra, Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh thảo thành tiếng Pháp, và giao cho Tất Thành đem giao cho nhà báo với một bút hiệu chung.
Về cái bút hiệu nầy, có một giai thoại kể ra cũng buồn cười. Lúc ban đầu, các cụ chọn bút hiệu là Nguyễn Ố Pháp. Nghiã là thằng Nguyễn ghét người Pháp. Tên nầy được độc giả Pháp hoan nghinh lắm, vì giọng nói dí dỏm của người Việt nam, lại thêm câu văn của Ninh và Truyền gọt giũa nên có duyên. Độc giả gởi thơ đến nhà báo hỏi Nguyễn Ố Pháp là ai và tên ấy có nghiã gì? Các cụ buộc lòng phải dịch cho ngay tình. Các bạn Pháp phản đối cái tên cực đoan dễ ghét, mà tiếng Pháp gọi là sô vanh (chauvin), và đề nghị đổi đi. Từ đó bút hiệu Nguyễn Ố Pháp bị đổi là Nguyễn Ái Quốc. Về sau bốn vị kia tách ra, tên Nguyễn Ái Quốc còn lại riêng cho Hồ Chí Minh". (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam Á, Paris, 1984, trang 18-19).
Hồ Hữu Tường kể tiếp một giai thoại khác:
Bộ trưởng Thuộc địa tống trát đòi "Nguyễn Ái Quốc đến cấp tốc tại Bộ thuộc địa gặp ông bộ trưởng", nhưng lại đem trát giao tận nhà Phan Châu Trinh. Cụ Tây Hồ gọi Tất Thành đến giao tờ trát, Tất Thành cầm trát đến gặp ông bộ trưởng Pháp và câu đầu nói xỏ rằng "Nguyễn Ái Quốc là tôi. May mà trát gởi đến nhà chú tôi là Phan Châu Trinh, nên được chú tôi đưa lại. Không thì lạc mất rồi! (...) Ngày ấy, cụ Tây Hồ xỏ Tây tế nhị xong, xuống chợ Mouffetard mua lòng lợn về mời đủ năm Rồng xơi một tiệc "khải hoàn". (Trang 19-20).
Hồ Hữu Tường viết tiếp về chương trình Ngũ Long về nước hoạt động:
"Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại, thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề khởi". Tại quê nhà, bầu không khí thực dân và phong kiến còn quá nặng, Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường lối là "cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng Pháp" (organe de propagande des idées françaises). Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Thế Truyền thì tựa vào đảng xã hội, sau biến thành đảng cộng sản, nhưng Thành thì thiên tả mà đi vào lao động, Truyền thì đứng trên lập trường "quốc gia mượn thế lực cộng sản để mưu đồ sự giải phóng dân tộc".
Còn hai cụ Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp sức mà tiến lên gây một phong trào dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra thì có, mà tụ lại thì chưa. Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng sang năm 1926, cụ Tây Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường đứng mũi chịu sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án tù, sang Paris chịu vào khám.Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc, theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.
Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà thành lập Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt nam, rồi Phục Quốc... " (HHT, sđd, trang 24-25).
Về bản Le Procès de la colonisation française (Bản án chế đô thực dân Pháp)
Tác giả là Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thế Truyền viết tựa. Nhưng
thực ra ai viết ?
1- Ngô Văn viết:
"Sau khi Phan Châu Trinh khởi hành về Sàigòn, vào tháng 5 năm 1925 một luận văn châm biếm nẩy lửa do Thư điếm Lao động (Librairie du Travail) phát hành và lập tức bị cấm ở Đông Dương. Đó là tập Bản án chế độ thực dân Pháp (Procès de la colonisation française) ký tên Nguyễn Ái Quốc, nhưng có thể là do Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền viết" (Ngô Văn, trang 42).
2- Trần Dân Tiên chỉ viết một câu ngắn gọn về văn bản này:
"Ông Nguyễn chỉ viết một quyển sách duy nhất là quyển: "Bản án chế độ thực dân Pháp"; quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia. Đầy hăng hái, ông Nguyễn viết cả vở kịch "Rồng tre". (Trần Dân Tiên, trang 37)."
Tại sao Hồ chí Minh không nói rõ là ông đã viết Le Procès trong hoàn cảnh
nào? Nhất là lại in sau khi ông đi Nga hai năm. Lý do dễ hiểu: có lẽ Hồ Chí Minh
chưa đọc Le Procès khi ông viết những dòng này năm 1947, cho nên ông mới
viết câu: "quyển này gồm những tài liệu chống thực dân Pháp, trích trong những
sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia".
3- Vậy tạm đưa ra giả thuyết: Nguyễn Tất Thành không đủ khả năng tiếng
Pháp để viết tác phẩm này. Có thể Nguyễn Thế Truyền đã tập hợp những bài báo ký
tên Nguyễn Ái Quấc, sửa đổi rồi viết tựa. Văn phong trực tiếp, đả kích mạnh mẽ,
không thâm trầm kín đáo như văn Phan Văn Trường, vậy tác giả có lẽ là Nguyễn An
Ninh và Nguyễn Thế Truyền. Tuy nhiên cần phải khảo sát văn bản các bài báo ký tên
Nguyễn Ái Quấc, mới có thể xác định được.
4- Còn vở kịch Rồng tre không biết ai viết (có thể là Nguyễn An Ninh),
nhưng chắc chắn không phải Tất Thành, vì chữ Rồng ở đây có ý tự trào, ngạo
nghễ ám chỉ đám Ngũ Long, tuy là đồ chơi mà... là Rồng, tức là chơi lối...
Rồng (Đế vương). Lại vừa có ý nhạo vua Khải Định là Rồng mà... rồng tre (đồ
chơi). Ý nghĩa thâm thúy như thế, nhưng chắc ông Hồ không hiểu rõ, nên mới nhận
là mình viết. Bởi nếu ông viết thì không thể viết như thế, khác nào lậy ông tôi
ở bụi này: đã tự coi mình là Nguyễn Ái Quốc duy nhất, thì làm sao lại chấp nhận
có các con Rồng khác?
Hội Liên hiệp thuộc địa (Union Intercoloniale) và báo Le Paria (Người cùng
khổ)
Hội Liên hiệp Thuộc địa -là cơ sở quan trọng thứ nhì, đối với người Việt tại
Pháp, sau Hội Người An Nam Yêu nước - quy tụ đại diện những nước nhược tiểu bị Pháp
đô hộ, họp lại để cùng chống thực dân. Hội ra tờ báo Le Paria (Người cùng khổ).
Trần Dân Tiên viết về vai trò của ông trong tờ báo này như sau:
"Để mở rộng việc tuyên truyền đến các thuộc địa, ông Nguyễn và các đồng chí của ông ra tờ báo Người cùng khổ (Le paria) do ông là chủ bút kiêm chủ nhiệm (...) Ông Nguyễn kiêm cả viết, chủ nhiệm, chủ bút, chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc" (Trần Dân Tiên, trang 44).
Hồng Hà: "Báo Người cùng khổ, cơ quan ngôn luận của vô sản thuộc địa do anh Nguyễn Ái Quốc sáng lập, làm chủ bút kiêm chủ nhiệm, phát hành trong những năm từ 1922 đến 1924" (Hồng Hà, trang 150)
"Anh Nguyễn viết khỏe nhất và nhiều nhất, có số anh viết tới ba, bốn bài. Chính từ đây và từ năm 1922 này, người đọc được thấy những bài báo đầy tính chiến đấu mãnh liệt của anh Nguyễn" (Hồng Hà, trang 156)
Chỉ cần lướt qua tờ Le Paria cũng thấy: đây là tờ báo chống thực dân một cách
trào phúng và thâm thúy, kiểu "gậy ông đập lưng ông", phải đủ những điều kiện: có
óc châm biếm, có uy-mua Pháp, thâm hiểu văn hoá Pháp và viết tiếng Pháp hay mới
viết được. Nguyễn Ái Quấc làm đại diện cho Đông Dương là đúng lắm, vì bút danh Nguyễn
Ái Quấc đã nổi tiếng trên báo chí Pháp từ mấy năm nay. Nhưng những bài ký tên Nguyễn
Ái Quấc có phải là Tất Thành viết không? Hay chủ yếu vẫn là Thế Truyền, An Ninh,
Văn Trường? Trong một bài bênh vực Nguyễn Ái Quấc, Nguyễn Thế Truyền viết: "Tiếng
nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam" hình như ngụ ý điều
đó.
Hội Liên Hiệp thuộc địa (Union intercoloniale) được sáng lập tháng 7/1921,
tại Paris. Mỗi thuộc địa có một đại diện trong Ban chấp hành. Trụ sở: số 9 rue Vallette,
sau đổi đến số 3 rue Marché des Patriarches.
Tờ báo của hội: Le Paria (Người cùng khổ), ra hàng tháng, dưới sự bảo
trợ của nhà văn Henri Barbusse. Báo viết tiếng Pháp, tên in ba thứ chữ: Pháp, Hán
và Ả Rập, tồn tại 4 năm, ra được 38 số: số 1, ra ngày 1/4/1922 và số 38 ra ngày
1/4/1926.
Thành phần của Hội khi mới thành lập: Marie Bloncourt, luật sư, đại diện Dahomey
(Phi Châu) làm Tổng thư ký. Nguyễn Ái Quốc là đại diện Đông Dương. Jean Baptiste,
đại diện Guadeloupe, v.v...
Lúc đầu có độ 200 hội viên. Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An
Ninh đều là hội viên từ 1922, cả ba đều đã diễn thuyết nhiều lần tại trụ sở
của Hội hoặc ở Hội trường hội Bác Học (Salle des Sociétés savantes) đường Danton.
Ví dụ, ngày 18/2/1923, Phan Văn Trường diễn thuyết so sánh sự cai trị Việt Nam của
Pháp và của Trung Hoa. Nguyễn An Ninh diễn thuyết nhiều lần tại Hội trường hội Bác
Học. Ngày 17/10/1924 Nguyễn Thế Truyền diễn thuyết về Đông Dương dưới sự cai trị
của Albert Sarraut và Martial Merlin. Mỗi lần Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn An Ninh diễn thuyết, Phan Châu Trinh đều đến nghe. (Đặng Hữu Thụ, trang 40)
Số 4, tháng 7/1920, báo Le Paria có 2 bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, tựa đề La
haine des races và Les cilivisateurs. Các bài ký tên Nguyễn Ái Quốc đều
có ảnh kèm, bài L'Humanité coloniale trong số 6 (tháng 7/1920) có kèm ảnh
những người bị xử bắn, và trong bài báo tác giả mỉa mai ghi: đó là hành động của
những con người văn minh.(Thu Trang, trang 144).Bài đầu tiên ký tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện trên Le Paria, số 9 ra ngày 1/12/1922, tựa đề "Un bolchevick jaune" (Một người Bôn-sơ-vích da vàng), nội dung bênh vực Nguyễn Ái Quấc, bị báo La Dépêche Coloniale (Bản tin thuộc địa) đả kích, trong bài Truyền viết, có câu: "Tiếng nói của Nguyễn Ái Quốc là tiếng nói của toàn dân Việt Nam". (ĐHT, trang 42).
Sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, tên Nguyễn Thế Truyền xuất hiện thay tên Nguyễn Ái Quấc:
Số 21 ra ngày 1/12/1923, bài La vase de Chine (Chiếc bình sứ Trung Hoa), đả kích kịch kiệt bác sĩ Cognacq, nguyên giám đốc học chính Đông dương, về tội hối lộ. Số 22, Nguyễn Thế Truyền nhắc đến lòng yêu nước của Phan Tuấn Phong và Phan Trọng Kiên, anh em ruột của Phan Văn Trường, trong phong trào Đông Du, bị bắt năm 1913. Số 24, đả kích toàn quyền Albert Sarraut đầu độc dân tộc VN bằng rượu và thuốc phiện. Số 27, viết về Phạm Hồng Thái và tiếng bom Sa Điện. Số 28, đả kích Outrey, dân biểu Nam Kỳ, tuyên bố trong quốc hội Pháp không nên áp dụng luật ân xá tại Việt Nam, vì người Việt Nam không biết ân xá là gì. Truyền chê Outrey dốt nát không biết gì vì chín trăm năm trước vua Lý Thánh Tông đã ân xá cho phạm nhân, trong một năm trời làm rét mướt. (ĐHT, trang 43).
Từ ngày 4/11/1923, Nguyễn Thế Truyền thay thế Nguyễn Ái Quốc làm trị sự toà báo. Đầu năm 1925, Nguyễn Thế Truyền trở thành phó tổng thư ký của Hội và chủ bút tờ Le Paria. Trong năm 1925, hầu như số nào cũng có bài của Nguyễn Thế Truyền. Sau số kép 36-37 (tháng 10/1925) toàn bộ viết bài bênh vực Phan Bội Châu, Nguyễn Thế Truyền ra khỏi Le Paria để sửa soạn ra tờ Việt Nam Hồn, tiếng Việt. Không có Nguyễn Thế Truyền, Le Paria chỉ ra được một số chót (số 38, tháng 4/1926) rồi đình bản. (ĐHT, trang 51)
*
Trong thời gian từ 1919 đến 1923, nhóm Ngũ long, qua bút hiệu chung Nguyễn Ái Quấc, rồi từ 1923 đến 1927, chỉ còn lại Nguyễn Thế Truyền ở Pháp, đã tả xung hữu đột, tranh đấu quyết liệt cho sự độc lập và dân chủ của đất nước. Sự phân công có thể như sau: Phan Châu Trinh, lãnh đạo tinh thần; Phan Văn Trường lãnh đạo chính thức. Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh viết nhanh, viết mạnh. Nguyễn Tất Thành phụ trách phần tin tức, việc quản trị Hội Liên Hiệp Thuộc Điạ và cổ động bán báo, in truyền đơn...
Phần lớn những người tham gia kháng chiến chống Pháp, từ Nho học đến Tây học, đều học giỏi nổi tiếng, nhưng đã vất bỏ văn bằng sang một bên để dấn thân. Hồ Chí Minh là một trường hợp đặc biệt, dù con quan, nhưng sớm bỏ học, trình độ quốc ngữ kém (xem bài Việt Nam Yêu Cầu Ca trong phụ bản dưới đây), tiếng Pháp sơ sài, ông đã sống rất cực khổ, làm bồi bếp trong suốt quãng đời thanh niên từ 1911 đến 1919, khi tới Pháp. Tại Pháp cũng chỉ có hai năm ở nhà Phan Văn Trường khu Gobelins là khá, sau này ra Compoint, một khu nghèo nàn thợ thuyền và ông cũng tiếp tục sống rất cơ cực, không kể còn có mặc cảm sâu xa đối với các bạn đồng hành trí thức. Đó là những lý do khiến Nguyễn Tất Thành theo cộng sản, mặc dù ông chưa hiểu rõ lý thuyết cộng sản như thế nào. Sau này, khi lên cầm quyền, việc đầu tiên là ông sẽ bắt mọi người phải kính nể, phải gọi ông bằng Bác, phải cúi đầu trước chân dung ông, và riêng đối với trí thức, ông sẽ dành cho họ những nhục nhằn mà ông đã phải gánh chịu trong suốt cuộc đời niên thiếu.
Phan Khôi, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo... là những người sẽ phải gánh tội của trí thức. Phan Khôi nặng nhất vì đã dám trực tiếp biếm vua: Tội đáng trảm quyết trên phương diện tinh thần.
Hết phần thứ nhất
Phụ bản
Revendications du Peuple Annamite
Depuis la victoire des Alliés, tous les peuples assujettis frémissent d'espoir devant la perspective de l'être de droit et de justice qui doit s'ouvrir pour eux en vertu des engagements formels et solennels, pris devant le monde entier par des différentes puissances de l'entente dans la lutte de la Civilisation contre la Barbarie.
En attendant que le principe des Nationnalités passe du domaine de l'idéal dans celui de la réalité par la reconnaissance effective du droit sacré pour les peuples de disposer d'eux- même, le peuple de l'ancien Empire Annam, aujourd'hui Indo-Chine Francaise, présente aux Nobles Gouvernements de l'Entente en général et à l'honorable Gouvernement Francais en particulier les humbles revendications suivantes:
1- Amnistie Générale en faveur de tous les condamnés politiques indigènes
2- Réforme de la justice indochinoise par l'octroi aux Indigènes des mêmes garanties judiciaires qu'aux Européens, et la suppression complète et définitive des Tribunaux d'exception qui sont des instruments de terrorisation et d'oppression contre la partie la plus honnête du peuple Annamite.
3- Liberté de presse et d'opinion.
4- Liberté d'associationet de Réunion
5- Liberté d'émigration et de voyage à l'étranger,
6- Liberté d'enseignement et création dans toutes les provinces des écoles d'enseignements techniques et professionnels à l'usage des indigènes.
7- Remplacement du Régime des lois
8- Délégation permanente d'indigènes élus auprès du Parlement Francais pour le tenir au courant des désidérata indigènes.
Le peuple Annamite, en présentant des revendications ci-dessus formulées, compte sur la justice mondiale des toutes les Puissances et se recommande en particulier à la bienveillance du Noble Peuple Francais qui tient son sort entre ses mains et qui, La France étant une République, est censée d'avoir pris sous sa protection. En se réclament de la protection du Peuple Francais, Le Peuple Annamite, bien loin de s'humilier, s'honore au contraire; car il sait que le Peuple Francais représente la liberté et la justice, et ne renoncera jamais à son sublime idéal de Fraternité universelle. En conséquence, en écoutant la voix des opprimés, le Peuple Francais fera son devoir envers la France et envers l'Humanité.
Pour le Groupe des Compatriotes Annamites: Nguyễn Ái Quấc
Thỉnh nguyện của dân tộc Annam
Từ khi Đồng Minh thắng trận và các cường quốc long trọng cam kết minh bạch trước thế giới quyết tâm tranh đấu lấy Văn Minh chống lại Hung Tàn, tất cả những dân tộc bị áp bức đều nôn nao hy vọng trước viễn ảnh sẽ được sống trong công bằng và luật pháp.
Trong khi chờ đợi nguyên tắc dân tộc tự quyết từ lý tưởng sang thực tế, bằng sự nhìn nhận thực sự quyền thiêng của mỗi dân tộc tự định đoạt lấy số phận mình; Chúng tôi, Thần dân của Đế quốc An Nam ngày trước, nay là Đông Dương Pháp, trình bày với Cao Quyền Đồng Minh nói chung và Kính Quyền Pháp nói riêng, những thỉnh nguyện khiêm tốn sau đây:
1- Ân xá tất cả tù binh chính trị bản xứ.
2- Cải tổ luật pháp Đông dương, bằng cách bảo đảm cho người bản xứ những điều kiện về luật pháp như người Âu châu. Bỏ hẳn các toà án đặc biệt là những công cụ khủng bố và đàn áp thành phần lương thiện nhất của dân tộc An Nam.
3- Tự do báo chí và tư tưởng.
4- Tự do lập hội và hội họp.
5-Tự do di dân và du lịch ra nước ngoài.
6-Tự do giáo dục và xây dựng những trường kỹ thuật và thực nghiệp tại các tỉnh cho người bản xứ.
7- Thay thế Chế độ pháp lý.
8- Có phái đoàn đại diện thường trực dân biểu bản xứ tại Nghị viện Pháp để thông báo những nguyện vọng của người dân bản xứ.
Dân tộc An Nam, qua những thỉnh nguyện trên đây, tin tưởng ở công pháp quốc tế của các cường quốc và đặc biệt trông cậy vào lòng thành của dân tộc Pháp cao quý, đang cầm vận mệnh của chúng tôi trong tay, nước Pháp là một nước Cộng hoà, cầm bằng như đã bảo hộ chúng tôi. Khi thỉnh cầu sự bảo trợ của Dân tộc Pháp, Dân tộc An Nam, không hề tự hạ mình, mà ngược lại còn lấy làm vinh hạnh, vì họ biết Dân tộc Pháp biểu hiện tự do và công bằng, không bao giờ từ khước lý tưởng cao cả: Tứ hải giai huynh đệ. Vì vậy, khi đáp ứng tiếng kêu của người bị áp bức, Dân tộc Pháp không những làm tròn bổn phận đối với nước Pháp mà còn đối với cả Nhân loại.
Thay mặt nhóm An Nam Yêu Nước - Nguyễn Ái Quấc.
(Thụy Khuê dịch)
Việt-Nam yêu cầu ca
Bằng nay gặp hội Giao hoà.
Muôn giân hèn yếu gần xa vui tình.
Cầy rằng các nước Đồng minh
Đem gươm công lí giứt hình giã man
Mấy phen công bố rõ ràng.
Dân nào rồi cũng được trang bình quyền
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng giới thuộc quyền Lang-sa.
Lòng thành tỏ nỗi sút sa.
Giám xin đại quấc soi qua chút nào.
1 xin tha kẻ đồng-bào.
Vì chưng chính trị mắc vào tù giam.
2 xin phép luột sửa sang
Người Tây người Việt hai phương cùng đồng.
Những toà đặc-biệt bất công
Giám xin bỏ giứt rộng giung dân lành
3 xin rộng phép học hành
Mở mang kỵ nghệ, tập tành công thương
4 xin được phép hội hàng
5 xin nghị ngượi nói bàn tự gio
6 xin được phép lịch giu
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
7 xin hiến-pháp ban hành
Trăm đều phải có thần-linh pháp quyền.
8 xin được cử nghị-viên.
Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ giân.
Tám đều cặn tỏ xa gần.
Chưng nhờ vạn quốc công giân xét tình
Riêng nhờ giân Pháp công bình
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp giân nức tiếng xưa nay.
Đồng-bào, bác ái sánh tày không ai.
Nỡ nào ngảnh mặt ngơ tai.
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Giân Nam một giạ ước mơ
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự-gio.
Rộng xin giân Pháp xét cho
Trước phò tiếng nước, sau phò lẽ công.
Gịch mấy chữ quấc âm bày tỏ
Để đồng-bào lớn nhỏ được hay.
Hoà bình may gặp hồi nầy
Tôn sùng công lí, đoạ đày gia-man
Nay gặp hội khải hoàn hĩ hạ
Tiếng vui mừng khắp cả đồng-giân
Tây vui chắc đã mười phần
Lẽ nào Nam lại chịu thân tôi đòi
*******
Hẵng mở mắt mà soi cho rõ
Nào Ai-lan, Ấn-độ, Cao-ly.
Xưa, hèn phải bước suy vi
Nay, gần độc lập cũng vì giân khôn
Hai mươi triệu quấc hồn Nam Việt
Thế cuộc nầy phải biết mà lo
Đồng bào, bình đẳng tự gio
Xét mình rồi lại đem so mấy người
Ngổn ngang lời vắn ý giài
Anh em đã thấu lòng nầy cho chưa
Nguyễn Ái Quấc
Chương 15
Phan Khôi
Vì sao Phan Châu
Trinh phó thác "đại sự" cho Phan Khôi?
Năm 1922 là năm bản lề, đánh dấu ngõ quặt của nhóm Ngũ Long: Bắt đầu về nước
tranh đấu. Người đầu tiên là Nguyễn An Ninh.
Về bối cảnh chung, 1922 có một số sự kiện xẩy ra:
Hội chợ đấu xảo Marseille mở cửa ngày 16/4/1922.
Đầu năm1922, Phan Châu Trinh xuống Marseille để làm việc tại hội chợ.
Pháp cử 7 phái viên Bắc Kỳ đi dự đấu xảo. Đại diện quan trường: Tuần phủ
Cao Bằng Vi Văn Định và ông huyện Phong Doanh Trần Lưu Vị; đại diện Tư vấn
nghị viện: Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Duy Tốn; đại diện thương mại: Hoàng Kim
Bảng; đại diện canh nông: Nguyễn Hữu Tiệp, và dại diện Khai Trí Tiến Đức:
Phạm Quỳnh. (Phạm Quỳnh, Hành trình nhật ký, Ý Việt, Paris, 1997, trang
208).
Tháng 2/1922, Phan Châu Trinh gửi thư ngỏ cho Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 5/ 1922, Phan Châu Trinh gặp gỡ các nhà trí thức sang Pháp dự hội
chợ.
Tháng 6/1922, Vua Khải Định tới Pháp. Một phong trào bài kích nhà vua nổi
lên với Thất điều thư của Phan Châu Trinh (kể bảy tội của vua Khải Định)
với các bài báo và vở kịch Dragon de bambou (Rồng Tre) ký tên Nguyễn
Ái Quốc. Nhóm Ngũ Long đả kích vua Khải Định là lẽ tất nhiên, tuy lời lẽ có
hơi quá đáng vì sự thực thì nhà vua cũng không còn quyền hành gì cả. Nhưng
có hai sự kiện đáng chú ý hơn là việc:
1- Phan Châu Trinh viết bức thư ngỏ gửi Nguyễn Ái Quốc đề ngày
18/2/1922.
2- Phan Châu Trinh gặp gỡ Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.
I- Lá thư ngỏ của Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Ái Quốc
Trước hết, tại sao Phan Châu Trinh lại gửi cho Nguyễn Ái Quốc, mà không gửi
cho Nguyễn Tất Thành? Dù ông thừa biết Nguyễn Tất Thành không phải là tác
giả những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Lý do nằm trong nội dung lá thư: Phan Châu Trinh viết chung cho các tác giả
ký tên Nguyễn Ái Quốc và có đoạn viết riêng cho Tất Thành, người chính thức
nhận tên Nguyễn Ái Quốc.
Khi nhắn các tác giả viết bài ký tên Nguyễn Ái Quốc, ông viết:
"Thực trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu
nay, bọn mình ở bên này có đăng báo chương, hô hào các hạng người
Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng
kết quả chẳng được là bao. Cái khát vọng bình đẳng, tự do, bác ái mà ông
Mạnh Đức Tư Cưu [Montesquieu], ông Lư Thoa [Rousseau]
khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên đất An Nam mình" (Theo bản
dịch của Hoàng Xuân Hãn, in trong cuốn Những hoạt động của Phan Châu
Trinh tại Pháp 1911/1925 của Thu Trang, Đông Nam Á 1983 trang 135-140).
Trong một đoạn khác, ông viết:
"Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan [Văn Trường] đàm đạo nhiều
việc, mãi tới bây giờ anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn
dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp
ngọa ngọa chiêu hiền, đãi thời đột nội [ngồi ngoài đợi thời] của anh
và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà
anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho, thủ cựu. Cái điều anh gán
cho tôi đó, tôi chẳng giận tý nào cả, bởi vì suy ra thì tôi đã thấy rằng:
Tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh
này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan."
Tuy Tây Hồ dùng chữ anh, nhưng lời nhắn vẫn hướng về cả ba
người trẻ Ninh, Truyền và Thành (hai ông Phan cùng thế hệ), ông trách họ
dám coi ông là hủ nho, thủ cựu, và hướng về Tất Thành, còn có ý mỉa mai:
Tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh
này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan."
Rồi ông tiếp tục mắng mỏ lối viết báo tiếng Tây: "Tôi coi lối ấy phí
công mà thôi. Bởi vì, quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ quốc ngữ,
cầm tờ báo mà đọc nổi".
Và ông kiên quyết trở về với chủ trương của mình: "Theo ý tôi thì mình
mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghiã, có chí
mưu cầu lợi quyền cho quốc dân, đồng bào thì đừng có dùng cái lối nương
náu ngoại bang để rung chuông gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã,
hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt
là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái
lối đó thì tài năng của anh khác gì công dã tràng".
Để nhắn riêng Nguyễn Tất Thành, ông nhấn mạnh những điểm sau đây:
"Tôi biết anh hấp thụ được cái chủ nghiã của ông Mã Khắc Tư [Karl
Marx] ông Lý Ninh [Lénine] nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà
giảng dẫn cho anh rõ". Rồi ông kể lại việc cả Karl Marx lẫn
Lénine đều có một thời bị đuổi ra nước ngoài, nhưng sau đó họ đều
tìm cách trở về nước để tranh đấu và ông kết luận: "Cứ xem hai ông Mã,
Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất người
mà làm quốc sự cho mình, như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết
hai ông ấy thì anh nghe tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào."
Rồi ông nói về những hình phạt dành cho đường lối bạo động: "Ông
Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, Ông Phan Đình Phùng bị đào mả ném xuống sông,
ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ Khoa Huân bị đầy biệt xứ và nhiều không kể xiết
sự đầu rơi máu chảy".
Cuối cùng ông khuyên Tất Thành nên về nước để "mưu đồ đại sự".
Lá thư ngỏ này, chắc Phan Châu Trinh đã đưa cho Nguyễn Văn Vĩnh một bản để
dịch sang tiếng Pháp vì chúng tôi thấy bản tiếng Pháp và bản dịch ra quốc
ngữ (từ bản tiếng Pháp) trong tập tài liệu tựa đề Kỷ niệm 115 ngày sinh
ông Nguyễn Văn Vĩnh, do gia đình ấn hành năm 1997. Bản dịch được trích
dẫn trên đây là bản dịch của Hoàng Xuân Hãn do Thu Trang tìm thấy trong hồ
sơ mật thám, và theo Hoàng Xuân Hãn thì đây cũng chỉ là một bản chép lại.
Lá thư này rất quan trọng, vì nó xác định những điểm khác biệt tư tưởng
trong nhóm Ngũ Long do chính ngòi bút của Phan Châu Trinh viết ra:
1- Phan Châu Trinh không đồng ý với đường lối tranh đấu của nhóm Tây học:
theo ông, việc viết các bài báo tiếng Pháp đả kích thực dân trên
báo Pháp là vô ích. Tư tưởng của Rousseau và Montesquieu không thể đến được
với dân Việt Nam.
2- Ông xác định một lần nữa phương pháp tranh đấu của ông:
khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
3- Ông chống lại cách mạng bạo động và kêu gọi về nước tranh đấu
bất bạo động.
Xin nhắc lại: Con đường đấu tranh chung của nhóm Ngũ Long là đuổi Pháp,
giành độc lập và dân chủ hoá đất nước. Nhưng họ khác nhau ở cách thực hiện
các mục đích này:
- Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền, chủ trương dùng
ngòi bút (tiếng Pháp) để đấu tranh trên đất Pháp (và sau này trên đất Việt),
vạch tội ác của chính quyền thực dân, đánh động người Pháp dân chủ, để họ
bãi bỏ chế độ thuộc địa.
- Phan Châu Trinh viết nhiều kiến nghị cho toàn quyền Albert Sarraut, yêu
cầu thay đổi chính sách cai trị.
- Nguyễn Tất Thành chủ trương cách mạng bạo động theo con đường cộng sản.
Trong ba điểm chính mà Phan Châu Trinh nêu ra trong lá thư ngỏ gửi Nguyễn
Ái Quốc, chỉ có điểm thứ nhất là hoàn toàn khác biệt với đường lối của nhóm
Tây học: Họ chủ trương vạch tội ác của thực dân trên báo, tìm sự hưởng ứng
của người Pháp dân chủ, để nước Pháp bãi bỏ chế độ thực dân; nhưng Phan
Châu Trinh lại cho rằng cách ấy vô ích. Ngược lại Phan Văn Trường cho rằng
việc Phan Châu Trinh viết thư yêu cầu toàn quyền và chính quyền thực dân
thay đổi chính sách là vô ích.
Còn hai điểm sau, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh và về nước tranh
đấu bất bạo động của Phan, đều được sự hưởng ứng của Trường, Ninh và Truyền.
Có thể bốn người đã bàn bạc với nhau để thành lập kế hoạch "Ngũ Long tề
khởi". Duy Nguyễn Tất Thành hành động khác.
Phan Châu Trinh công bố thư ngỏ tháng 2/1922. Nguyễn An Ninh là người về nước
đầu tiên, mùa thu 1922. Ra báo La cloche fêlée ngày 10/12/23. Phan Văn Trường
về tới Sàigòn ngày 21/1/1924. Năm 1924, Ninh sang Pháp ở lại khoảng một năm
và đón Phan Châu Trinh về nước tháng 6/1925. Năm 1927, Ninh lại sang Pháp,
lo liệu mua vé tàu cho gia đình Nguyễn Thế Truyền về nước.
Vậy chương trình "Ngũ Long tề khởi" mà Phan Châu Trinh đề xướng, đã được
nhóm Tây học thực hiện. Dĩ nhiên là họ không làm theo cách của Tây Hồ mà
làm theo cách của họ: Đem tư tưởng tự do dân chủ của Pháp về truyền bá tại
Việt Nam và chống thực dân bằng báo tiếng Pháp trên đất Việt. Nguyễn An
Ninh là người "theo sát" nguyện ước về nước tranh đấu trong lòng dân tộc
của Phan Châu Trinh. Nguyễn Thế Truyền khi bỏ báo Le Paria để
làm báo Việt Nam Hồn, có thể đã nghe lời Phan Châu Trinh.
Các sự kiện này được Hồ Hữu Tường ghi lại trong hồi ký, như sau:
"Theo lời cụ Phan Văn Trường thuật lại, thì năm 1922, khi Nguyễn An Ninh
sắp sửa về nhà mà sáng lập tờ báo La Cloche fêlée, thì cụ Phan Châu Trinh
có đưa ra một phân công, gọi là "ngũ long tề khởi". Tại quê nhà, bầu không
khí thực dân và phong kiến còn quá nặng, Ninh lãnh sứ mạng đem tư tưởng dân
quyền của Pháp ra mà "dĩ di diệt di". Nên chi báo của Ninh nêu lên đường
lối là "cơ quan tuyên truyền cho tư tưởng Pháp" (organe de propagande des
idées françaises).(...) Còn hai cụ Phan thì chờ Ninh xung phong, dọn
dẹp chông gai bên nhà, hai cụ sẽ về góp sức mà tiến lên gây một phong trào
dân chủ. Nhưng mà theo kế hoạch nầy, phân ra thì có, mà tụ lại thì chưa.
Năm 1925, quả Ninh có rước hai cụ Phan về xứ. Nhưng sang năm 1926, cụ Tây
Hồ lìa trần, Ninh lo tổ chức quần chúng, giao cho cụ Trường đứng mũi chịu
sào tờ L'Annam. Rồi Ninh vào tù, cụ Trường ba chìm bẩy nổi, bị án tù, sang
Paris chịu vào khám. Còn Tất Thành mang tên chung là Nguyễn Ái Quốc,
theo cộng sản luôn, một đi không trở lại.
Nguyễn Thế Truyền vào đảng cộng sản Pháp, mượn phương tiện mà thành lập
Việt Nam Hồn, sau đổi lại là Hồn Việt nam, rồi Phục Quốc...
" (Hồ Hữu Tường, 41 năm làm báo, Đông Nam
Á, Paris, 1984, trang 24-25).
II - Phan Châu Trinh gặp Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh tại Pháp năm
1922
Hội chợ đấu xảo ở Marseille là cơ hội để Phan Châu Trinh hành động. Ông
xuống Marseille đầu năm 1922, để làm việc và cũng để tiếp xúc với những người
Việt sang Pháp dự đấu xảo. Quan trọng nhất là những buổi gặp gỡ giữa Phan
Châu Trinh và Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh.
Theo Phạm Quỳnh trong Pháp du hàng trình nhật ký, thì ông lên tàu từ Hải
Phòng ngày 10/3/ 1922 đến Marseille ngày 9/4/1922, và gặp Phan Châu Trinh
ngày 11/4/1922, ông ghi như sau:
"Hôm nay [11/4/1922] gặp cụ Phan Tây Hồ, là một nhà chí sĩ nước
ta, nay biệt xứ bên quý quốc. Hồi cụ khởi nghiệp, tôi còn nhỏ tuổi, nên chỉ
biết tiếng mà không được biết người. Nay sang đến đây mới được gặp cụ,
trong lòng ngổn ngang nhiều nỗi, không sao nói xiết. Cùng nhau đàm luận
trong mấy giờ. Viêc cụ làm chánh đáng hay không chánh đáng, tôi đây không
muốn phẩm bình, nhưng xét cái thân thế cụ, dẫu ai có chút lương tâm cũng phải
ngậm ngùi. Ừ, làm người ai chẳng muốn vợ đẹp, con nhiều, cửa cao, nhà rộng,
bạc đầy tủ, thóc đầy kho; thế mà có người không muốn như thế, thời con ngưòi
ấy, dẫu hay dở thế nào, tưởng làm kẻ quốc dân cũng không nên a dua nhẹ
miệng mà gia tiếng thị phi vậy..." (Phạm Quỳnh, Hành trình nhật ký, Ý
Việt, Paris, 1997, trang 252
Đây là điều ông ghi trong những ngày đầu mới đến Marseille. Nên hiểu rõ bối
cảnh: Nhật ký này viết và gửi bưu điện về đăng từng kỳ trên báo Nam Phong (từ
số 58 đến số 100). Phạm Quỳnh đi Pháp 6 tháng, đi từ Hải Phòng ngày
10/3/1922, đến Marseille ngày 9/4/1922 và về lại Hải Phòng ngày 11/9/1922);
2 tháng đi về; ở Marseille 1 tháng; Paris 3 tháng. Khi lên Paris, ông viết
thận trọng hơn. 13/7/1922 ghi: "Chiều hôm nay ăn cơm An Nam với mấy ông
đồng bang bên này. Mấy ông này là tay chí sĩ, vào hạng bị hiềm nghi, nên
bọn mình [ông Quỳnh và ông Vĩnh] đến chơi, không khỏi có trinh tử
[thám tử] dò thám. Lúc ăn cơm trong nhà, chắc lúc đó đứng ngoài như
rươi; nhưng họ cứ việc họ, mình cứ việc mình, có hề chi!" (Sđd, trang
485).
Ngày 16/7/1922, Phạm Qùynh ghi:"Trưa, mấy ông chí sĩ cùng ăn cơm bữa trước
lại chơi ở nhà trọ [Phạm Quỳnh ở khu La tinh, Rue Berthollet], nói
chuyện giờ lâu. Nghe nói các ông đi đâu cũng có trinh tử đi theo, chắc bọn
đó đã đứng đâu ngoài cửa cả". (Sđd, trang 491)
Qua những tài liệu khác, có hai lần gặp được ghi lại: một lần ở Marseille
và một lần tại Paris.
1- Theo một mật báo gửi về sở An Ninh Marseille ngày 11/5/1922, có cuộc gặp
gỡ giữa ba người: Phan Châu Trinh, Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh. Trong
cuộc họp này, Phan Châu Trinh ngỏ ý muốn lật đổ Nam triều, lập Quốc hội An
Nam với các dân biểu để cai trị cùng với chính phủ Pháp. Nhưng Nguyễn Văn
Vĩnh khuyên không nên, vì người trí thức và người dân vẫn còn gắn bó với
nền quân chủ. Vả lại vua nước Nam không giống như vua Louis 14 hay 16 của
Pháp đã áp bức làm khổ dân; và người dân An Nam cũng chưa đủ trình độ để sử
dụng quyền Quốc hội. Phải chờ. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh nói sẽ suy nghĩ
xem có thể đóng góp gì cho chương trình hành động của Phan Châu Trinh.
(Theo Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925,
Đông Nam Á 1983, trang 160).
2- Một buổi họp mặt khác, được ông Lê Thanh Cảnh ghi lại trong tập Ký ức về
trường Quốc học (đăng trong đặc san của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Quốc Học),
và in lại trong tập tài liệu tựa đề Kỷ niệm 115 ngày sinh ông Nguyễn Văn
Vĩnh, do gia đình ấn hành năm 1997, tập III, trang 21. Rất tiếc người
biên tập không ghi rõ nguồn tham khảo: nội san số mấy, năm tháng nào v.v...
Tuy nhiên, nếu dựa vào mấy chữ "câu chuyện năm mươi năm trước" mà
tác giả ghi trong "Lời người viết", thì có thể đoán bài này được viết
vào khoảng 1970-1975 ở trong Nam, vì tác giả dùng hai chữ "anh Quốc" rất tự
nhiên.
Dưới tựa đề "Thử đi tìm một lập trường tranh đấu cho dân tộc Việt nam",
trước hết ông Lê Thanh Cảnh thuật lại bối cảnh cuộc họp mặt: Nhân dịp phái
đoàn Nam triều đi dự cuộc triển lãm do Pháp Quốc Sử Địa tổ chức tại Ba Lê
"Ô. Trần Đức nói khẽ vào tai tôi, bảo hai anh em chúng mình mời bốn cụ
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Ngọc Thiện, Cao Văn Sến đến chiều hôm ấy
dùng cơm tại khách sạn Montparnasse. Chúng tôi nhân mời thêm cụ Phan Tây Hồ,
anh Quốc, vợ chồng Trần Hữu Thường và ông Hồ Đắc Ứng".
Đáng chú ý nhất là đoạn tác giả ghi lại cuộc tranh luận giữa năm nhân vật:
Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc, Cao Văn Sến, Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh.
Chúng tôi trích lại những đoạn chính, lướt qua ý kiến Phan Châu Trinh (giống
như những điều ông đã viết trong thư gửi NAQ) mà chú trọng vào ý kiến những
người khác:
"Cụ Tây Hồ bắt đầu nói: Tôi đã gặp Nguyễn Ái Quốc từ 10 năm trước đây mà
tôi thấy anh chủ trương cách mệnh triệt để quá táo bạo nên tôi không thể
theo anh được, và anh cũng không chấp nhận đường lối của tôi. (...)
Anh Quốc tiếp lời: Mấy hôm nay anh Cảnh qua đây có tiếp xúc nhiều với
tôi và có nói cho tôi một câu ước mơ của cụ Trần [Cao] Vân: Nếu cuộc
khởi nghiã của vua Duy Tân thành công thì sau này việc đầu tiên của chúng
ta sẽ làm là viết chữ Việt Nam không phải chữ "Tuất" một bên, mà phải viết
chữ Việt là Phủ Việt, "Rìu Búa", mới kiện toàn được sự nghiệp cách mệnh. Sở
dĩ tôi chủ trương cách mệnh triệt để là xưa nay muốn giành độc lập cho tổ
quốc và dân tộc thì không thể nào ngã tay xin ai được mà phải dùng sức mạnh
như cụ Trần Cao Vân đã nói là phải dùng BÚA RÌU.
Ô. Nguyễn Văn Vĩnh cướp lời ngay, đã bênh vực chủ trương của mình và
cũng để giác ngộ anh Quốc - Tôi đã từng đứng trong hàng ngũ Đông Kinh Nghiã
Thục cùng các bậc tiền bối và rất đau đớn thấy hàng ngũ lần lượt tan rã và
hầu hết phần tử ưu tú chiến sĩ quốc gia bị tiêu diệt: Hết phong trào Đông
Kinh Nghiã Thục, đến chiến khu Yên Thế của Đề Thám ở Bắc, rồi đến vụ xin
thuế ở miền Trung... (...) Bao nhiêu chiến sĩ đều gục ngã hoặc còn vất vưởng
sống ở Côn Đảo, Thái Nguyên, Lao Bảo hay Banmêthuột. Bạo động như anh Quốc
nói là thậm nguy! (...) Sở dĩ tôi theo lập trường TRỰC TRỊ (administration
directe) là kinh nghiệm cho tôi thấy Nam Kỳ trực trị tiến bộ quá xa hơn
Trung Bắc. Mà Bắc Kỳ nhờ chế độ mập mờ, nửa Bảo Hộ nửa Trực Trị (không công
khai) mà còn hơn Trung Kỳ quá xa. (...). Cứ trực trị cái đã rồi sau khi được
khai hoá theo đà tiến bộ thì tức khắc dân chúng tự có sức mạnh mà trồi đầu
lên. Nói Trực trị tôi chẳng khi nào chịu giao nước Nam cho Tây đâu. Quá khứ
đường lối tranh đấu của tôi, cuộc đời thiếu thốn của tôi đã hùng hồn bảo
đảm cho lời nói của tôi hôm nay.
Ô. Phạm Quỳnh tiếp: Có lẽ ngay trong tiệc này tôi đã thấy có rất nhiều
lập trường tranh đấu chống lại chủ thuyết mà tôi hoài bão: "QUÂN CHỦ LẬP
HIẾN". Nói đến quân chủ thì phần đông tỏ vẻ lo sợ chế độ chuyên chế. Nhưng
xin đồng bào trương mắt nhìn hai nước Anh và Nhật. Với nền Quân chủ họ đã
văn minh tột mức và dân chủ còn hơn các nền dân chủ cộng hoà khác nhiều
lắm. (...) Vua chỉ là người đứng lên "thừa hành" bản hiến pháp mà chính
nhân dân toàn quốc được triệu tập dự thảo và quyết định (...)"
Sau lời Phạm Quỳnh biện hộ cho chế độ quân chủ lập hiến, đến lời Cao Văn
Sến biện hộ cho việc dùng văn minh Tây phương để tiến hành dân chủ; và nhìn
nhận rằng ở Nam Kỳ đồng bào tiến bộ hơn nên thực dân không dám ăn hiếp như
ở Trung và Bắc. Ông Lê Thanh Cảnh viết tiếp:
"Tôi khẩn khoản xin quý cụ là bậc tiền bối nên thảo luận ngay một kế hoạch
hay hệ thống nào để làm việc cho có hiệu quả về sau.
Anh Quốc nóng nẩy bảo ngay: Thì xin Chú nói ngay ý kiến của Chú ra.
Tôi tiếp lời: Cũng như anh đã trả lời cho cụ Phan mấy hôm trước đây, tôi
muốn nghe ngóng tất cả để sau này áp dụng một chủ nghiã thực tiễn, lấy Văn
hóa Việt Nam làm gốc. Có thế mới hợp với tính tình dân tộc Việt Nam: Hành động
gì bây giờ là thất bại ngay, mà cũng như cụ Phan Tây Hồ đã trịnh trọng cảnh
cáo hai anh em chúng tôi mấy kỳ gặp gỡ trước đây, mà tôi rất bái phục: "Vô
bạo động, bạo động tắc tử, vô vọng ngoại, vọng ngoại tắc ngu. Dư hữu nhất
ngôn dĩ cáo ngộ đồng bào. Viết: Bất như "Học".
Anh Quốc quát to tiếng: "Nầy cụ Tây Hồ, nếu Cụ qua làm Toàn Quyền Đông
Dương thay mặt thực dân cũng chỉ nói như thế thôi. Bó tay mà chịu lầm than
sao? Không được!
Tôi sợ anh Quốc đi quá trớn, đứng lên thưa, ôn hoà: Tôi xin anh suy nghĩ
thêm về lời khuyên của Cụ Tây Hồ. Nếu chúng ta khôn khéo thì "bất chiến tự
nhiên thành".
Anh Quốc lại quát lớn: "Lại thêm chú này nữa kìa!"
Tôi được dịp kịch liệt bác bỏ luận điệu anh Quốc và bênh vực chủ thuyết
của cụ Tây Hồ".
Lời lẽ trong cuộc tranh luận này được ông Cảnh ghi lại theo trí nhớ, có thể
không đúng nguyên văn, nhưng phản ảnh được không khí buổi họp và xác định
một số thông tin sau đây:
- Chủ trương trực trị của Nguyễn Văn Vĩnh dựa trên sự quan sát tình hình
dân trí trong Nam cao hơn Bắc và Trung. Việc này được chứng minh qua tình
hình báo chí mở rộng tại Nam Kỳ và những phong trào chống Pháp rất mạnh
trên báo ở trong Nam do Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, rồi nhóm Trốt kít...
viết.
- Nguyễn Tất Thành phản đối Phan Châu Trinh bằng lời lẽ nặng nề, khác hẳn
cung cách "chú cháu" ngày trước, nhưng lại không có phản ứng gì đối với
quan điểm của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Cao Văn Sến.
- Để bảo vệ quan niệm bạo lực cách mạng, Nguyễn Tất Thành đưa ra biểu tượng
Búa Rìu, của đảng cộng sản, nhưng lại giải thích bằng Hán tự
và dùng ý nghiã Búa Rìu của Trần Cao Vân. Sau này Trần Huy Liệu cũng
đề cao vai trò Trần Cao Vân nhưng bị Phan Khôi phản bác, Phan Khôi cho rằng
Thái Phiên mới là người chủ chốt trong vụ vua Duy Tân, Trần Cao Vân chỉ là
"nửa là nhà nho gàn, nửa là thầy bói kiêm thầy pháp". (Trong bài
Địa vị của Thái Phiên và Trần Cao Vân trong cuộc biến ở Huế năm 1916,
Sông Hương số 7, năm 1936).
Những sự kiện này, mới xem qua, gần như không đáng lưu ý, nhưng sự thực nó
có tầm quan trọng: Việc đề cao Trần Cao Vân là để nâng cao biểu tượng
Búa rìu của đảng cộng sản, gắn liền Búa Rìu với hình ảnh cách mạng
của vua Duy Tân. Và có lẽ Phan Khôi đã thấy chủ đích ấy, ông thấy nó trái
ngược với sự thật lịch sử nên ông phản bác lại bằng loạt bài trên báo Sông
Hương năm 1936.
Hai buổi họp mặt ở Marseille và Paris năm 1922, chứng tỏ Phan Châu Trinh
sửa soạn con đường về nước, ông muốn chia sẻ quan điểm đấu tranh của mình
và tìm sự hợp tác của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.
Lá thư của Phan Châu Trinh và sự phản bác kịch liệt Tây Hồ của Tất Thành ở
Montparnasse, chứng tỏ sự đoạn tuyệt giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất
Thành, từ 1922.
Nguyễn Tất Thành, người (ban đầu) Phan thân nhất, coi như cháu, lại cùng
chung một nền giáo dục nho học như ông, có thể Phan đã hy vọng Tất Thành sẽ
"nối nghiệp", nhưng Tất Thành lại theo con đường trái ngược: chủ trương bạo
động cách mạng và không về nước theo kế hoạnh "Ngũ Long tề khởi" do ông đề
xướng.
Năm 1925, Phan Châu Trinh về nước tìm người thừa kế. Một câu hỏi được đặt
ra: Tại sao Tây Hồ không chọn Nguyễn An Ninh? Mặc dù, Nguyễn An Ninh là nhà
cách mạng nổi tiếng từ thời niên thiếu mà thành tích chống Pháp đã trở
thành huyền thoại: "Thi đậu bằng Brevet Elémentaire [tương
đương với Trung học phổ thông], nhà ái quốc đi làm báo tiếng Pháp, do người
Pháp điều khiển. Trong thời gian làm báo, dù chỉ là một cộng sự
viên tầm thường, lượm tin chó cán, nhưng Ninh đã nổi tiếng rồi, vì sự
bất khuất, hay đập lộn với người Pháp, hay chưởi người Pháp. Chính
trong thời gian nầy, trong nước xẩy ra nhiều chuyện bạo động, nào Phan Xích
Long khởi nghiã, Trần Cao Vân rước vua Duy Tân rời kinh thành Huế, Lương
Ngọc Quyến bạo động ở Thái Nguyên. Dù những phong trào ấy bị thất bại, song
gieo vào lòng người dân thời đó một mầm mống sâu đậm trong cõi lòng, trong
số đó có nhà ái quốc thanh niên Nguyễn An Ninh" (Nhà cách mạng Nguyễn
An Ninh, Phương Lan Bùi Thế Mỹ, trang 10).
Nhưng Nguyễn An Ninh Tây quá, sôi động quá. Phan Châu Trinh muốn một người
nho học, điềm tĩnh, gần gụi với tư tưởng của ông hơn, và ông đã tìm thấy
trong nhà nho Phan Khôi.
III. Đám tang Phan Châu Trinh- Sự xuất hiện của Phan Khôi
Phan Châu Trinh chủ trương "Ngũ Long tề khởi" từ năm 1922, nhưng đến
tháng 6/1925, ông mới về được nước, và đến tháng 3/1926, ông mất.
"Cụ Phan Châu Trinh về Sàigòn một lượt với Ninh, đương ở nhà Ninh tại
Quán Tre, kẻ thăm, người viếng rần rần rộ rộ" (Lê Văn Thử, Hội kín
Nguyễn An Ninh, trang 25).
Nguyễn An Ninh bị bắt hôm trước (đêm 20/3/1926) thì hôm sau Phan Châu Trinh
mất (24/3/1926). Phương Lan Bùi Thế Mỹ thuật lại như sau:
"Chính Đặng Văn Ký, theo sự uỷ thác của Ninh, vào tù, lo săn sóc bịnh
tình cụ Phan Châu Trinh. Khi cụ Phan bịnh nặng, Ký cùng với các bạn đem dời
cụ Phan lên nhà cụ Nguyễn An Cư; chú ruột của Ninh trị bịnh rồi cụ Phan mất
tại đấy. Đặng Văn Ký hợp với Huỳnh Đình Điển, Phan Khôi đem cụ Phan về
khách sạn Bá Huê Lầu, đường Pellerin giờ là Pasteur do Huỳnh Đình Điển
là chủ nhơn khách sạn, thành lập ủy ban làm quốc táng, Phan Khôi đảm
nhận viết lời hiệu triệu quốc dân. Đặng Văn Ký nhóm Jeune Annam lo liên
lạc tìm đất chôn". (Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, Phương Lan Bùi
Thế Mỹ, trang 130). Bùi Thế Mỹ viết nhầm một chi tiết: Ninh uỷ thác cụ Phan
cho Đặng Văn Ký từ trước, trước khi vào tù. Vì khi Ninh vào tù thì
cụ Phan mất.
"Lễ quốc táng của nhà chí sĩ Phan Châu Trinh được tổ chức châu đáo vĩ
đại. Quàn xác gần một tuần, tại Bá Huê Lầu của Huỳnh Đình Điển, người chen
chúc vô dâng hương nhà chí sĩ không biết bao nhiêu mà đếm. Nườm nượp ra vô
cả ngày lẫn đêm. Ngày đưa đám thiên hạ trùng trùng điệp điệp từ bốn phương
xa gần tụ họp tới. Sấp hàng từ đầu cầu Mống, cái cầu ở tận trên đường Thống
Nhất. Câu đối, tràng hoa tiễn đưa vô số kể." (Phương Lan Bùi Thế Mỹ,
trang 164).
Sự thành công trong việc tổ chức đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh là do
nhiều yếu tố hợp lại, chúng tôi sẽ bàn đến trong một dịp khác. Ở đây chỉ
xin nhắc đến sự đóng góp của một người, ở hậu trường, đã nổi trội, có "công"
hơn: Nhiều dấu hiệu cho thấy từ khi về nước, Phan Châu Trinh đã tìm Phan
Khôi để gửi gấm "đại sự".
Về việc này, Nguyễn Q. Thắng viết:
"...năm 1925 khi về nước, Phan Châu Trinh đã cho vời Phan Khôi vào Sàigòn
để viết một quyển sách về đời hoạt động và sách lược cứu nước của Tây Hồ.
Phan Khôi đã viết xong bản thảo có tên "Phan Châu Trinh" nhưng bị phủ toàn
quyền Đông Dương cấm in. Bản thảo đã thất lạc (theo "mật báo về tác phẩm
Phan Châu Trinh của Phan Khôi" của sở mật thám Nam Kỳ, gởi thống đốc Nam Kỳ
ký ngày 1/6/1926). Sách "Phan Châu Trinh" dày 94 trang đánh máy, do nhà in
Xưa Nay của Nguyễn Háo Vĩnh xuất bản nhưng không phát hành được." (Nguyễn
Q. Thắng, Phong Trào Duy Tân, những khuôn mặt tiêu biểu, trang 478).
Vậy Phan Khôi là ai? Năm 1925, Phan Khôi chưa phải là một tên tuổi nổi trội
trong giới báo chí tranh đấu như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường. Nhưng
Phan Khôi đã bắt đầu sự nghiệp làm báo với hai nhà báo lừng danh Nguyễn Văn
Vĩnh và Phạm Quỳnh, những người mà Phan Châu Trinh tìm gặp năm 1922 ở Pháp.
Phan Khôi được Phan Châu Trinh giao cho việc viết lại lịch sử đời mình.
Từ trọng trách ấy, Phan Khôi đảm nhiệm viết lời Hiệu triệu quốc
dân trong đám tang Phan Châu Trinh.
© Copyright Thụy Khuê 2004 - 2011
http://thuykhue.free.fr/stt/n/nhanvan15-4.html
No comments:
Post a Comment