ÐỪNG HIỂU SAI, VIẾT LẦM VỀ HỒ
CHÍ MINH
Nguyễn Tường Bá
Tác gỉa không giử bản quyền. Yêu cầu phổ biến rộng rãi
Ngoại trừ có công với đảng CSVN, tự đề cao và được đề cao, Hồ Chí Minh không có công mà nặng tội với nước, với tất cả các đảng khác, với tất cả tôn giáo, làm thụt lùi nhiều thế kỷ, về mặt nhân quyền văn hóa xã hội, vĩnh viễn lỡ nhiều dịp phát triển Việt Nam thế kỷ vừa qua và hậu quả vẫn đè nặng ngày nay.
Ðể đừng hiểu sai viết lầm về Hồ Chí Minh, trước tiên người ta cần biết 3 điều căn bản tổng quát: Thế Chiến Hai Và Chiến Tranh Lạnh, Lực Lượng Khởi Đầu Của Việt Minh Cộng Sản và Huyền Thoại Hồ Chí Minh.
Thế Chiến Hai Và Chiến Tranh Lạnh
Tại Âu Châu, Quân Quốc Xã Ðức xâm chiếm các nước có thuộc địa: Pháp, Hòa Lan, Bỉ và tàn phá Anh Quốc. Tại Á Châu. Quân phiệt Nhật đánh tan các thế lực thuộc địa tại Hồng Kông, Ðông Dương, Phi Luật Tân, Miến Diện, Mã Lai, Singapore, v.v…trước khi thua trận, Nhật đã trả độc lập cho các nước Ðông Nam Á.
Hai thế lực mạnh: Mỹ và Nga đối nghịch trong chiến tranh lạnh cổ võ và chủ trương trao độc lập trên thế giới. Nhờ vậy, phong trào độc lập thành tất nhiên. Nhiều nước độc lập dễ dàng như Ấn Ðộ (1946) Phi Luật Tân (1946) Nam Dương (1949) Mã Lai, Miến Ðiện (1947) Nam Bắc Hàn (1945) Có nước còn không muốn độc lập như Djibouti, Trung Hoa dưới Tưởng cũng như Mao đều không thấy ích lợi đòi Hồng Kông Ma Cao trước thời hạn.
Riêng tại Việt Nam, một ngày sau khi diệt quân đội Pháp (6-3-45) quân Nhật đã trả (nói cho đúng là “cưỡng bách”) Việt Nam độc lập và chính phủ Trần Trọng Kim cũng là chính phủ Việt Nam độc lập đầu tiên kể từ khi bị Pháp xâm chiếm và các con tem bưu điện hồi đó là chứng minh cụ thể theo thế giới sử.
Lực Lượng Khởi Đầu Của Việt Minh Cộng Sản
Sở Công Tác Chiến Lược Hoa Kỳ (O.S.S) nay là C.I.A, đã giúp Việt Minh Cộng Sản năm 1944-1945: 5000(năm ngàn) vũ khí với đạn dược cho số vũ khí đó, huấn luyện tại chiến khu cho bộ đội Việt Minh và danh nghĩa quân đội đồng minh (Sedgwick Tourison, Archimedes L.A. Patti).
Ðó là lực lượng tuyệt đối thời điểm 1945 vì chính phủ Trần Trọng Kim cầm quyền chỉ chú trọng về giáo dục, cứu đói, không chú trọng về quân sự, chỉ có lính khố đỏ mỗi nơi vài chục người võ trang súng bắn viên một của Pháp đã cổ, không có súng lục (chỉ Hoa Kỳ, Pháp mới có) mà súng nầy lại cần trong chiến tranh khủng bố. Khi quân Việt Minh cướp được chính quyền xong họ mới đi tìm Hồ Chí Minh đang lang thang trong rừng vài ngày sau mới gặp (Nguyễn Hưũ Ðang, Nhân Văn Giai Phẩm).
Sau vài ngày Việt Minh đảo chính tại Hà Nội, Lê Khang Ðổ Ðình Ðạo và mươi đảng viên Việt Nam Quốc Dân Ðảng (VNQDD) với vài khẩu súng săn của đồn điền Đỗ Ðình Ðạo cũng đã cướp được chính quyền ở Vĩnh Yên.[ Hoàng Văn Ðào] cũng vì sợ lực lượng mạnh tuyệt đối của Việt Minh mà vua Bảo Ðại thoái vị và chính phủ Trần Trọng Kim không dám chống cự mặc dầu quân Nhật đề nghị sẵn sàng dẹp loạn (Trần Trọng Kim, Nguyễn Xuân Chữ).
Huyền Thoại Hồ Chí Minh
Ở trong nước, Huyền Thoại Hồ Chí Minh được dàn dựng theo kiểu mẫu lãnh tụ Nga Tàu, quy mô và độc đoán, coi Hồ Chí Minh như thánh, đạo đức anh minh. Tuy nhiên huyền thọai ở Việt Nam được đẩy xa hơn, thêm nhiều gian dối trắng trợn và rẻ tiền.
Thí dụ: Hồ Chí Minh không vợ, sống độc thân. Mặc dầu không hoang dâm như Mao
Trạch Ðông, nhưng Hồ Chí Minh rõ rệt nhiều vợ hơn Mao. Ðủ mọi giống: Trung Hoa,
Việt, dân tộc thiểu số, da trắng (Nga, Pháp). Ðặc biệt có sự biến đổi tâm tính
từ một thiếu niên ngây thơ ngờ nghệch tán tỉnh cô đầm Bourdon không thành công (Nguyễn
Thế Anh); Thân nhân tiệm hình Khánh Ký Paris còn cho biết các sinh viên du học
tại Pháp khi về nước đã bàn giao các cô đầm để lại cho Hồ Chí Minh nhưng Hồ Chí
Minh đã lúng túng thất bại. Giai đoạn ở bên Trung Hoa hoàn toàn khác, sau khi
huấn luyện tại Nga làm việc Hoa Kỳ trong phái đòan Nga Borodin và cùng với Lâm
Ðức Thụ bán nhà cách mạng Phan Bội Châu lấy 10 vạn đồng Ðông Dương. (Richard
Nixon, No More Việt Nams) Hồ Chí Minh đã lão luyện mua chuộc bà mẹ cô Tàu Tăng
Tuyết Minh, ngọai giao anh cô nầy và cưới Tăng Tuyết Minh vào tháng 10 năm 1926
trong một hôn lễ rất linh đình có cả vợ chồng Chu Ân Lai tham dự (Huang Zhen);
Nhưng năm 1934, Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Minh Khai cùng tham dự Hội Nghị Quốc
Tế Cộng Sản tại Moscow với danh nghĩa vợ chồng chánh thức (Sophie Quinn Judge),
đây là một hôn phối chính trị vừa có lợi cho Nguyễn Thi Minh Khai lấy được cán
bộ Moscow, có lợi cho Hồ Chí Minh có người vợ là đại biểu phụ nữ Ðông Dương duy
nhất. Hoa Kỳ Hồ Chí Minh lúc nầy đang bị xuống cấp và có nguy cơ bị thanh trừng
Sau năm 1937 Minh Khai về nước mới lấy Lê Hồng Phong. Ghi nhận năm 1930, Minh
Khai đến làm việc với Hồ Chí Minh thì quan hệ với Tăng Tuyết Minh chấm dứt
(William J.Duiker), Hồ Chí Minh ra tòa án Hồng Kông, Tuyết Minh có đến xem nhưng
không nói chuyện và cũng không để cho Hồ Chí Minh nhìn thấy. (Huang Zhen) lúc bị
bắt tại Hồng Kông Hồ Chí Minh lại ở cùng với một phụ nữ Tàu khác. Ðây là giai
đọan Hồ Chí Minh bắt đầu già dặn, tôi luyện trong tình trường và lão luyện trong
việc xử dụng quản trị phụ nữ trong đời tư và nhất là trong mưu tính chính trị.
Ðiều nầy do kết quả chủ nghĩa cộng sản học tập ở Moscow, hay do sự ăn chơi cùng
Lâm Ðức Thụ nhờ dư tiền bán Phan Bội Châu hay do bản tính xấu của chính mình,
hay do cả 3 yếu tố? Có ảnh chụp một phụ nữ đẹp ngồi chung với các sĩ quan O.S.S
đặc biệt là vị trưởng toán Archimedes L.A. Patti và Hồ Chí Minh trong chiến khu
Việt Bắc 1944-1945. Archimedes L.A Patti chối là không bị mỹ nhân kế nhưng không
hiểu phụ nữ nầy có mặt trong chiến khu làm gì? Phái đoàn O.S.S nầy lại thiên vị
cho Việt Minh rất quá đáng, kỳ thị không những kháng chiến Pháp mà còn kỳ thị
mọi phe quốc gia. Khi về Hà Nội cầm quyền 1945-1946, Pháp có đưa một số cô đầm
từ Pháp sang gặp Hồ Chí Minh, trong đó có côBrière chụp ảnh chung với Hồ Chí
Minh. Nhưng Hồ Chí Minh không mắc mỹ nhân kế.
Trong trận điện biên phủ, nhiều đêm Võ Nguyên Giáp hủ hóa HCM không thể không
biết vì ở chung môt chổ. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ khi ra bưng cũng được thỏa mãn
tình dục đầy đủ vì điều nầy giới luật gia tại Miền Nam thập niên 1950 đều biết
bệnh đa dâm này của Thọ và chính Thọ cũng đang bị dính líu trong một vụ hiếp dâm
tại Nha Trang trước khi đi bưng. Ðể tái kết thân với Chu Ân Lai vì lỗi HCM đã né
trốn không tham gia Vạn Lý Trường Chinh, Hồ Chí Minh thân thiết tán tỉnh vợ Chu
Ân Lai, một phụ nữ xâu xí và kết quả là được Chu Ân Lai nâng đỡ, lúc chụp hình
với Mao luôn luôn được Chu Ân Lai cho đứng cạnh.
Cao điểm Hồ Chí Minh với phụ nữ là thủ tiêu Nông Thị Xuân năm 1957 (Hồ Chí Minh
lúc nầy 65 tuổi và cô Xuân chỉ 20) sau khi ăn nằm và có con với cô Xuân từ ít
nhất 1952. (Vũ Thư Hiên) và cô Xuân ngờ nghệch xin Hồ Chí Minh cho công khai
tương quan.
Tính toán sai lạc của Hồ Chí Minh trong việc dùng phụ nữ là ôm hôn bà Sokarno
tại hội nghị Bandung, Nam Dương, xứ hồi giáo, việc ôm hôn nầy gây câm phẫn bất
lợi ngoại giao.
Thí dụ: Hồ Chí Minh ở nhà sàn.
Ký giả Oliver Todd gọi nhà sàn nầy là của người gác vườn (vì xây dựng lên trong
khuôn viên dinh thự thực dân Pháp xưa), nhưng dân Hà Nội oái ăm gọi là nhà sống
không ở được. Không làm việc và chỉ chết mới đem xác về vì nhà sàn thiếu chỗ đi
vệ sinh, công sản cũng nghĩ đến điều đơn giản này nhưng thực hiện lại khó vì
dung cầu giật thì quá văn minh (thời gian 1969 tại Bắc Việt) và dùng cầu đổ
thùng thì quá buồn cười với khách ngoại quốc, dù sao “nhà sàn” nầy thiếu tiện
nghi truyền thông cho một nguyên thủ bề bộn trong thời chiến.
Ðiều quan trọng không phải Hồ Chí Minh được ở dinh thự hay ở nhà sàn. Bác sĩ Lý,
bác sĩ riêng của Mao Trạch Ðông đã tả rỏ rệt cảnh Hồ Chí Minh thèm thuồng (khiến
ông Lý nầy phải thương hại) trước những tiện nghi mỹ lệ của các dinh thự tại Bắc
Kinh.
Thí dụ: Hồ Chí Minh ăn hút
Các ký giả ngoại quốc nhận xét Hồ Chí Minh hút thuốc thơm ngoại quốc chứ không
phải thứ nội hóa nhãn Điện Biên Phủ xanh đỏ. Nhưng thời gian trước 1945 Hồ Chí
Minh vẫn hút thuốc thơm (Philips Moris) nhưng để trong bao Melia vàng nội hóa.
Giáo sư khả kính Vũ Khắc Khoan kể lại đã được Hồ Chí Minh khoái chí cười cho một
điếu thuốc Philis Moris lại để trong bao Melia nội hóa, trong một chuyến du hành
rõ ràng láu cá ranh vặt. Các cán bộ Quốc Dân Ðảng ngay từ năm 1945 đã báo cáo
BắcBộ Phủ Việt Minh hằng ngày lấy thức ăn từ khách sạn Métropole ở bên kia đường,
thức ăn Pháp “cao cấp” nhất Ðông Dương. Suốt thời gian 1954-1975 phần hàng ăn
của Métropole vẫn sống mạnh trong khi phần khách sạn bỏ hoang phế, Hồ chí Minh
và các thân cận nghiền cơm Pháp.
Vua chúa hưởng lạc vốn thông thường, họ có phải dấu diếm cũng vì chính trị, nhưng gian dối lường gạt là điều hiếm có và đi cả đến chỗ sát nhân là điều hi hữu. Sau khi Hồ Chí Minh chết huyền thọai trên không giảm mà lại tăng thêm:
Thí dụ 1. Ngày chết của Hồ Chí Minh đúng vào ngày 2 tháng 9, ngày “Quốc Khánh” liền được sửa lại là ngày 3 tháng 9. Nhưng sau đó sự thật lộ ra nên các tài liệu sau nầy tránh nhắc đến ngày chết của Hồ Chí Minh, chỉ để năm thôi. Hậu quả là Hồ Chí Minh không có ngày giỗ.
Thí dụ 2. “Xây Lăng” và ướp xác. Xây mộ rất nguy nga và ngay trong thời chiến và các xác được ướp theo mẫu Nga Xô. Nhiều quân nhân bị bom chết trong lúc lấy gỗ trong rừng.
Thí dụ 3. “Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” Hồ Chí Minh ít khi nói thật, nhưng khi nói thật: “Tôi không có tư tưởng gì, tất cả những gì đã do Stalin, Mao Trạch Ðông nghĩ ra” thì các hậu duệ Hồ Chí Minh không tin. (!)
Giáo sư Sophie Judge nhận xét: Cho đến hết sự nghiệp của ông, Hồ chỉ là một
người thực hành thỏa hiệp về chính trị, tạo thế liên hiệp hơn là một người
chuyên về lý thuyết và ý thức hệ. (Ðại họcYale, Connecticutt).
Nếu đem so sánh với các lãnh tụ cộng sản thế giới thì Hồ Chí Minh thua kém Mao
Trạch Ðông và Kim Nhật Thành (Bắc Hàn) về mặt tư tưởng ; Mao có tư tưởng “cách
mạng văn hóa” và Kim có “tự cường” (Juche), một thứ tổng hợp Mác xít và quân chủ
Á Ðông. Hồ cũng không làm được như Ti Tô, người trung lập đứng ngoài tranh chấp
Nga Mỹ. Hồ cũng đã dự hội nghị trung lập Bandung 1955 có lẽ thử trung lập nhưng
không làm nổi vì không khả năng ăn nói như Nehru và các lãnh tụ khác. Hồ giống
Fidel Castro ở điểm nô lệ Mác Xít, thiếu khả năng kinh bang tế thế nên lấy chiến
tranh đánh thuê làm lẽ sống. Chỉ CSVN mới có cả một binh chủng đặc công, kỷ lục
thế giới về chiến tranh khủng bố.
Hàng ngàn trang Hồ Chí Minh Toàn Tập đọc rất chán với người có trình độ văn hóa
vì lập luận một chiều: cộng sản luôn luôn tốt, tư bản luôn luôn xấu. Ca tụng Mác
Xít như Sách Ước muốn gì cũng được. CSVN khoe Hồ Chí Minh có công phổ biến chủ
nghĩa cộng sản tại Việt Nam. Sai; công nầy do Trương Tửu, Ðặng Thế Mai, Tạ Thu
Thâu. Hồ không bao giờ phê bình hoặc giải thích chủ nghĩa cộng sản. Hồ chỉ là
người bắt chước các chế độ Nga Tàu cộng đã làm. Ðem áp dụng một cách máy móc tựa
như Monkey sees Monkey do. Hồ chẳng bao giờ quan tâm, thắc mắc, suy nghĩ về các
vấn đề tư tưởng. “Cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh” chỉ là bóp méo ngôn ngữ, bịp
bợm của đám hậu bối.
Không có “Cái Gọi Là Tư Tưởng Hồ Chí Minh”,
điều người ta phải bàn là đầu óc Hồ Chí Minh.
J.H.Roy, cộng sản Ấn, đồng môn với Hồ Chí Minh từ 1924 ở Moscow đã cho biết ngay
từ thập niên 1950 về cái đầu óc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh học hành không xuất
sắc, kém cỏi trong các đề tài thảo luận, thậm chí đến nỗi không biết lập luận.
J.H. Roy ngạc nhiên tại sao Hồ lại thành công tại Việt Nam. Câu trả lời cho J.H.
Roy là Hồ Chí Minh không thông minh, Hồ chỉ khôn vặt. Ðể đo thông minh ngày nay
ta có chỉ số thông minh (I Q), tuy nay không thể áp dụng với Hồ, nhưng ta có thể
đoán chắc là nếu đo IQ (tỷ số thông minh) vì Hồ không biết lập luận, không biết
toán và khoa học nên số tỷ lệ thông minh của Hồ khó mà bằng mức trung bình.
Nhưng Hồ có thể thành công vì các điều sau:
-Hồ có khiếu ngoại ngữ, biết nói nhiều thứ tiếng Pháp, Anh, Nga, Quảng Ðông; tuy
nhiên Hồ không viết Pháp văn, Nga văn khá, chữ Hán thì chỉ viết được thư từ
thông thường. Biết nói Anh ngữ là một lợi khí hiếm có vào thời đó và chính nhờ
Anh ngữ mà Hồ chinh phục được người anh cô Tăng Tuyết Minh vốn là sinh viên du
học Hoa Kỳ, đặc biệt là mua chuộc và lèo lái các nhân viên tình báo Hoa Kỳ O.S.S
Hồ có óc thực tế và điều nầy được C.S.V.N đề cao. Ðừng tưởng lầm lẫn với tinh
thần thực tế phóng khoáng vượt thóat giáo điều Mác xít, kiểu như “Mèo trắng, mèo
đen đều bắt chuột” của Ðặng Tiểu Bình. Óc thực tế kiểu Hồ Chí Minh vị kỷ duy vật
Mác xít cứng nhắc và chỉ ranh vặt.
Khi còn hàn vi Hồ đã từng vì tình gia đình viết thư xin quan thuộc địa cho cha
phục chức và nhờ gởi tiền cho cha; nhưng khi lên ngôi cao Hồ chỉ tiếp người chị
ruột một lần và nói những gì khiến cho người nầy khóc bỏ ra về và từ đó không ai
trong gia đình Hồ còn đến quấy nhiểu Hồ nữa và Hồ cũng không hỏi thăm giúp đở gì
gia đình nghèo nầy. Nói cho đúng Hồ có môt lần viết thư chia buồn nhân đám tang
mà dụng tâm chỉ để quảng cáo cho tiếng tăm cá nhân. Với người vợ cả chính thức
Hồ thủ tiêu Lâm Đức Thụ người bạn chơi bời và mối lái xưa, cắt đứt mọi liên lạc
tai tiếng có vợ và vợ người Tàu. Thủ tiêu Nông thị Xuân người đã có con với Hồ
nhưng khờ khạo muốn công khai hóa tương quan nầy, các thân nhân của cô Xuân biết
chuyện đều cũng bị thủ tiêu.
Hồ không yêu nước theo nghĩa truyền thống hàng nghìn năm Việt: yêu nước là yêu
dân. Trong tim Hồ chỉ có cá nhân Hồ và Ðảng cộng sản; không có chỗ cho người dân.
Suốt cuộc đời của Hồ, việc thiện duy nhất là ngỏ ý sẽ miễn thuế cho dân nếu hết
chiến tranh. Thích Quảng Ðộ than rằng CSVN quá ác và ngay các trẻ thơ Việt
thường rù rì lén chỉ cho nhau râu Hồ Chí Minh hiện hình ra “cái đầu lâu”.
Hồ không có tinh thần tự cường độc lập. Hồ là người Việt duy nhất từng muốn và
đã làm tay sai cho hầu hết các thế lực ngoại quốc tại Việt Nam, Pháp (Xin học
trường thuộc địa) Nga Sô (Làm cán bộ có lương nhiều chục năm) Trung Cộng (thân
tín của Beria Trung Cộng Khang Sanh) Trung Hoa Quốc Gia (Phục vụ cho 2 tướng
Trương Phát Khuê và Tiêu Văn) Hoa Kỳ (Phục vụ cho O.S.S với bí danh Lucius). Tay
sai đắc lực tận tuỵ mà các quan thầy đều hài lòng và đặc biệt tiếc rẻ nếu đã
không còn dùng Hồ nữa (Archimedes L.A Patti, Jean Sainteny).
Hồ có tài gây cảm tình cá nhân, tạo ấn tượng tốt trong đám đông, nhưng cũng là
người rất vong ân bội nghĩa như đối với gia đình và các ân nhân: Chủ nhân tiệm
hình Khánh Ký Paris (Ls Trần Tấn Việt), Lâm đức Thụ v.v... Hồ đa nghi và rất
ghen ngay lúc tuổi đã gìa, chính “Beria” Trần Quốc Hoàn biết rỏ điều nầy và lợi
dụng để thuyết phục Hồ cho phép thủ tiêu cô Nông Thị Xuân (Vũ Thư Hiên).
Thân Thế:
Hồ là nhân vật mà thân thế đã bị sửa chữa bịa đặt quá nhiều do chính Hồ và cả
các than cận hậu huệ nên rất mù mờ khó mà tìm ra sự thật và có thể coi là không
có thân thế.
Hồ có cả thảy 145 bí danh và tên, theo Antatoli Sokolov và theo Trần Anh Tuấn là
150 trong đó có đến 62 bí danh dùng để viết sách báo ca tụng chính mình như Trần
Dân Tiên, T. Lan v.v… lúc thì lấy tên đàn ông, lúc tên đàn bà, lúc thì họ Hồ, họ
Lê, họ Nguyễn và Trần, lúc thân cận như Bác, lúc bí hiểm như X.Y.Z. (Thế kỷ, May
1999) Ðặc biệt Hồ có bí danh dùng riêng với tình báo Nga Xô là “Lin” và tình báo
Hoa Kỳ O.S.S là “Lucius, nhân viên số 19” (Back Fire, Loren Baritz trang 46)
Tất cả các tên và bí danh của Hồ đều không nổi tiếng và không đáng chú ý trừ 2
tên: Nguyễn Aí Quốc và Hồ Chí Minh. Tên Nguyễn Ái Quốc (hay Quấc) là bí danh
chung của 5 người chống Pháp: Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu
Trinh, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) mà giới Việt Kiều Paris
gọi là Ngũ Long. Tên Nguyễn Ái Quốc không do Hồ nghĩ ra vì lẽ đơn giản là Hồ Chí
Minh là kẻ đến sau gia nhập nhóm này và cũng là người trẻ nhất. Các bài viết của
nhóm cũng không do Hồ viết vì trình độ Pháp ngữ của Hồ kém, tuy chỉ một mình Hồ
ngang nhiên lấy xử dụng tên này để khoe khoang cho đến khi Hồ bán Phan Bội Châu
cho Pháp, tên nầy trở thành mang tiếng xấu thì Hồ mới chấm dứt đội tên Nguyễn Ái
Quốc.
Tên Hồ Chí Minh vốn là một bí danh cũ của Hồ Học Lãm, một người Việt lưu vong ở
Trung Quốc chết năm 1942 (Chánh Ðạo, Niên Biểu Nhân Vật Chí Việt Nam). Chí Minh
là một tên rất phổ thông ở bên Tàu và họ Hồ cũng thế, cho nên rất nhiều người
Trung Hoa có cái tên Hồ Chí Minh. Theo Vũ Hồng Khanh người đã đem Hồ Chí Minh ra
khỏi tù thì là Nguyễn Tất Thành đã mua một căn cước của một hành khất vô thừa
nhận mang tên Hồ chí Minh và xử dụng giấy này khi bị bắt, đến khi thả ra phải
mang tiếp căn cước này. Ðiều khôi hài là nhiều tác giả, có cả tự điển đã diễn
nghĩa ca tụng “Hồ Chí Minh” có nghĩa là người sáng suốt, thức tỉnh khi mọi người
còn ngủ.
Chính họ Hồ tự khai ít nhất 5 năm sinh khác gồm 1890 (Trần Dân Tiên) 1891 (Yên
Sơn, bí danh khác của Hồ) 1892 (Trong đơn xin học trường thuộc địa Marseille
Pháp) 1894 (Khai với sở cảnh sát Paris) 1895 (Khai với sứ quán Nga Xô Berlin để
đi học). Tìm hiểu năm nào đúng là việc vô bổ và chúng ta chỉ cần ghi nhận rằng
khi còn trẻ đi du học thì khai trẻ hơn và khi về nước lại khai già hơn, tất cả
là do nhu cầu thực tế và sự khôn vặt của Hồ; chẳng lẽ năm 1945 xưng là cha già
dân tộc, là cụ là bác mà lại sanh 1895 mới chưa đầy 50 tuổi thì coi cũng kỳ và
khi du học phải khai trẻ để tỏ ra mình xuất sắc.
Trước ngày quân đội Pháp đổ bộ lên cảng Hải Phòng. CSVN sợ phản ứng của dân
chúng nên đã bịa đặt ngày 19 tháng 5 là ngày sinh nhật Hồ Chí Minh kêu gọi dân
Hải Phòng treo cờ mừng ngày “sinh nhật”; trong khi chúng giải thích với thực dân
Pháp là dân treo cờ thỏa thận cho quân Pháp trở lại miền Bắc Việt Nam. Ngày sinh
nhật 19-5 là một ngày “chính trị” chẳng phải là ngày thật và mục đích là đón cao
uỷ Pháp D’Argenlieu cùng quân đội Pháp đổ bộ lên Bắc Việt (Hoàng Văn Chí, Từ
Thực Dân đến Cộng Sản).
Ngày chết của Hồ trùng với ngày Quốc Khánh nên bị sửa thành ngày 3 tháng 9. Sau
ít lâu bị lộ nên sửa lại cho đúng nhưng trong các tài liệu sau đó CSVN tránh ghi
ngày chết mà chỉ ghi năm chết của Hồ, như ngụ ý sợ dân chúng ăn mừng nhân dịp Hồ
chết.
Hồ có thân thể mặt mũi xấu mà còn có thể gọi là cổ quái gian ác nếu là hình chụp
trung thực và nếu là hình sửa thì thành tốt tướng hiền lành, nhưng nhìn kỷ bộ
râu dê thấy có hình đầu lâu. Tất cã các hình do CSVN phổ biến đều là hình sửa
chữa, hình giả.
Sự Nghiệp:
Hồ là con một tri huyện Nam Triều bị cách chức, vị này có quen biết nhà cách
mạng Phan Châu Trinh. Toàn gia đình chống Pháp và không xa lạ gì với phong trào
Ðông Du Phan Bội Châu. Tuy nhiên Hồ năm 1911 đã chọn con đường tiến thân khác,
bằng cách xin làm quan với thực dân Pháp ngay khi xuất ngọai đến bến Marseille,
Pháp (Richard Nixon, No More Việt Nams). Ðừng lầm lẫn với con đường Tây Du, xuất
ngoại mưu cầu mở mang dân trí của Phan Chu Trinh. Hồ xin làm việc cho Nga Xô; rõ
ràng Hồ có căn cơ làm tay sai vì sau đó Hồ theo Khang Sinh “Beria Trung Cộng”;
tướng Trương Phát Khuê khen Hồ là biết phục vụ tốt, tướng Tiêu Văn khen là Hồ đã
tỏ ra hối lỗi vì theo Cộng Sản, theo tình báo Hoa Kỳ O.S.S.
-Năm 1925, Hồ đã bán Phan Bội Châu, một nhà cách mạng chống Pháp hàng đầu lấy 10
vạn đồng (Richard Nixon, No More Vietnams).
-Năm Ất Dậu, 1945 tại Bắc Việt đã xẩy ra nạn đói đã do nhiều nguyên nhân: Mất
mùa, do thực dân Pháp thu thuế cao, quân Nhật bắt trồng đay và bom đạn của phi
cơ Hoa Kỳ. Tuy nhiên bom đạn Hoa Kỳ là nguyên nhân thiết yếu vì đường tiếp tế
gạo ở trong Nam không chở gạo ra Bắc, gạo trong Nam thừa và rẻ đến nỗi đốt máy
xe lửa và gạo ngoài Bắc đắt đến mức gấp 40 lần gạo trong Nam, hậu quả là dân quê
nghèo chết đói khoảng 2 triệu người. Nạn đói chấm dứt khi Hoa Kỳ ngưng ném bom
vào thời điểm Nhật đầu hàng. Sở dĩ bom đạn Hoa Kỳ năm 1945 hữu hiệu là nhờ tin
tình báo và sự chỉ điểm của CSVN do Hồ lãnh đạo; Cơ quan O.S.S có thể quên không
quan tâm đến tình trạng dân quê miền Bắc sẽ đói. Nhưng Hồ chắc chắn sẽ biết hậu
quả việc cắt đường tiếp tế gạo Nam Bắc nhất là khi báo chí lúc đó loan tin bác
sĩ Vũ Ngọc Anh bộ tưởng y tế xã hội và đoàn cứu tế mang gạo đã bị chết vì bom
đạn phi cơ Hoa Kỳ trên đường công tác. Ngược lại Hồ còn lợi dụng nạn đói trong
mục tiêu sách động quần chúng nổi dậy và ngay cả khi đã cướp được chính quyền Hồ
còn lấy tiền trong quỹ cứu đói lạc quyên do chính phủ Trần Trọng Kim gom chung
với Quỹ Tuần Lễ Vàng lạc quyên do chính phủ Hồ Chí Minh lạc quyên để hối lộ các
tướng Tàu sang giải giới quân Nhật. Hồ tay đã nhúng chàm nên Cộng Sản Việt Nam
không dám mở miệng đòi bồi thường về nạn đói đối với Nhật và Hoa Kỳ vốn là 2
nước giàu có và trọng trách nhiệm.
Ngày 9/3/1945 Nhật đảo chính Pháp và trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11/3/1945
vua Bảo Ðại tuyên ngôn độc lập và thành lập chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ
đoản mệnh cầm quyền 5 tháng nhưng đã làm các bước căn bản đáng kể cho nền giáo
dục. Hồ đảo chính chính phủ Trần Trọng Kim và ngày 2/9/1945 lại ra tuyên ngôn
độc lập lần thứ hai. Thực dân Pháp hay Tàu khi cai trị đã đem lại văn minh của
họ, nhưng CSVN vì tầm văn hóa thấp (Hà Sĩ Phu) CSVN đã làm ngưng bước tiến văn
minh của Việt Nam từ ngày 2/9/1945. Boris Yelsin coi nước Nga “tái sinh” và Nhất
Linh Nguyễn Tường Tam coi nước Việt “mất nước” (di chúc 7/7/1963 Nhất Linh
Nguyễn Tường Tam), dân Việt thành nô lệ thấp kém cho chính người nước mình, một
chế độ bóc lột hơn thực dân Pháp, mức chênh lệch giữa thống trị và bị trị lớn
hơn, nhân quyền bị vi phạm nhiều hơn và ngay cả tự do tôn giáo như thời Pháp
thuộc cũng không còn.
Chiến tranh Việt Pháp chỉ xảy ra khi quân Pháp trở lại Việt Nam sau thế chiến 2,
ở miền Nam nhờ quân Anh ngầm giúp cho đổ bộ, nhưng tại miền Bắc do Hồ chính thức
mời bằng Hiệp Định 6-3-1946. Hồ giãi thích gian dối là chịu đựng Pháp còn hơn là
phải chịu đưng Tàu, mặc dầu Hồ biết rõ Tưởng Giới Thạch tại hội nghị Yalta đã từ
chối gợi ý của F. Roosevelt về việc để Tàu chiếm đóng Việt Nam và trên thực tế
quân đội của Tưởng còn bận chống quân Trung Cộng tại Mãn Châu. Nguyễn Tường Tam,
bộ trưởng ngoại giao, phản đối và từ chức ngày 6-3-1946. Lý do Hồ đón quân Pháp
là để đánhh dẹp các chiến khu của quân quốc gia với sự hỗ trợ pháo binh và chiến
xa của Pháp ( Richard Nixon, No More VietNams). Ngày 6-3- 1946 có thể coi là
ngày bắt đầu cuộc chiến Việt Nam lần I, hoặc cụ thể hơn là ngày 19 tháng 5 năm
1946 ngày Hồ ra lệnh cho dân chúng treo cờ mừng sinh nhật của Hồ để luôn thể đón
quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng Bắc Việt. Đáng lẽ CSVN bị tiêu diệt nhưng không
ngờ Trung Cộng thắng chiếm lục địa năm 1949 và cứu CSVN, nhưng tội cõng rắn cắn
gà nhà, phản quốc ủa Hồ đã tỏ rõ.
CSVN và Hồ khoe thắng Pháp và dứt điểm với trận Điện Biên 1954. Khi Trung Cộng
chiếm lục địa 1949 và khi Anh Hoa Kỳ từ chối hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của
Pháp tại Việt Nam sau chiến tranh Triều Tiên 1952 thì Pháp đương nhiên phải thua.
Không có trận Điện Biên Phủ Pháp cũng thua và trận Điện Biên Phủ chỉ là một trận
thí quân không cần thiết. Pháo binh quyết định trận Điện Biên Phủ (trừ khi phi
cơ Hoa Kỳ chịu lâm trận). Đại tá Piroth chỉ huy pháo binh Pháp tự vận ngay đợt
pháo đầu tiên khai hỏa, pháo binh Trung Cộng cho CSVN phần lớn chở đến tận chỗ
do quân xa Trung Cộng chuyên chở và do Trung Cộng bắn hộ khi cần; Điều thấy rõ
là tương quan tớ chủ giữa phái đoàn CSVN và phái đoàn Trung Cộng tại Hội Nghị
Genève. Võ Nguyên Giáp được đề cao là người chiến thắng, nhưng Trung Cộng dần
dần tiết lộ vai trò then chốt của các tướng Tàu và vai trò của Võ chỉ là trình
diễn, nhất là trong lúc lâm trận Võ mổi đêm đều phá trinh một cô thiểu số (Ls Lê
Sĩ Giai)
Kết quả trận Điện Biên Phủ cho đảng CSVN quyền cai trị miền Bắc Việt Nam (miền
Nam Việt Nam đã được Pháp trả độc lập cho vua Bảo Đại từ 1948). Nhưng dân Bắc
chịu đựng ách cộng sản hà khắc và bắt đầu với cải cách ruộng đất ăn cướp tàn ác
mà trong lúc chiến tranh Hồ chưa dám thi hành.
Nhiều tác giả ngoại quốc ngờ nghệch cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận tuyển cử sau hiệp định Genève đã làm chiến tranh Việt Nam lần 2 xâỷ ra. Họ không biết điều mà người dân Việt ai cũng biết: Khi bộ đội cán chính cộng sản họ đã nhất loạt dụng tâm để lại toàn bộ vợ con và điều nhắn nhủ sẽ trở lại, đường mòn Hồ Chí Minh để xâm lăng miền Nam 1956, nhưng được chuẩn bị dự trù cả năm trước. Dù sớm hay muộn con đường chiến tranh đánh thuê của Hồ, giống như của Fidel Castro và ngày nay do Kim Chính Nhật Hàn Quốc làm, chỉ vì họ không có tài năng kinh bang tế và “tầm văn hoá thấp” (Hà Sĩ Phu) của trào lưu cộng sản đánh thuê là con đường tất nhiên của Hồ và được Hồ gọi mỹ miều “Nghĩa Vụ Quốc Tế”
Chiến tranh Việt Nam có vẻ như một cuộc nội chiến Nam Bắc, nhưng bản chất không phải vậy vì ngay từ 1925, Hồ đã bán Phan Bội Châu năm 1930 CSVN tung truyền đơn tố cáo với Pháp việc Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi dậy (Hoàng Văn Đào) và trong lúc chưa chống xong Pháp CSVN đã thủ tiêu các lảnh tụ các tôn giáo, cuộc chiến mang mầu sắc ý thức hệ rỏ rệt và rỏ hơn hết do quyền lợi của riêng phe đảng cộng sản Việt.
Mặc dầu chiến tranh với Pháp đã xâỷ ra, CSVN tiếp tục giết các cán bộ đảng viên quốc gia, Trương Tử Anh, Lê Khang bị giết đầu năm 1947. Riêng họ Nguyễn Tường bị triệt hạ kể từ ngày Nhất Linh Nguyễn Tường Tam không chịu ký Hiệp Định Sơ Bộ 6-3-1946 cho đến năm 1954 thì họ Nguyễn Tường tại đất Bắc không còn một ai, nội cũng như ngoại.
Ác là bản chất CSVN (Thích Quảng Độ), quy mô và không ngại bất cứ điều gì, nhưng mang bộ áo đạo đức nhân từ của Hồ Chí Minh. Người Á Đông tin nhiều vào một con người cụ thể khác với người Tây Phương tin nhiều vào định chế trừu tượng. Hồ Chí Minh dù chết đã nửa thế kỷ nhưng vẫn là thần tượng quan trọng của chế độ.
Mặc dầu người dân không tín tưởng Hồ như trước đây nhưng đảng cộng sản Việt Nam,
toàn bộ các cán bộ cao cấp và đa số cán bộ trung cấp vẫn tuyệt đối thần kính Hồ,
có thể có người giả vờ nhưng bề ngoài vẫn phải suy tôn. Với sự sụp đổ lý thuyệt
Mác Lê và các chế độ cộng sản, huyền thoại Hồ Chí Minh là sức mạnh tinh thần duy
nhất của CSVN. Nói chạm nhẹ đến Hồ Chí Minh dù nhẹ như chuyện Hồ có vợ cũng là
điều cấm và bị trừng trị. Các nhà phản kháng dù trong hay ngoài đảng, các nhà
trí thức đều không dám động đến Hồ, ngược lại họ còn dùng các lời nói của Hồ làm
bung xung để thêm sức thuyết phục.
Huyền thoại Hồ Chí Minh còn, đảng cộng sản Việt Nam còn sức mạnh tinh thần và
như vậy chế độ còn vững chắc mặc dầu vô số khuyết điểm đầy râỷ bất mãn.
Bóng ma Hồ Chí Minh tan, sự kềm toả cuả chế độ Mác Lê sẽ không còn chống nổi sự
bất mãn chống đối của dân chúng, của các tôn giáo và các lực lượng quần chúng
chính trị. Ánh sáng trí tuệ, đạo đức ngay thẳng sẽ trở lại trên quê hương để
Việt Nam tái sinh; trong nước và hải ngoại cùng nhau, trong dân chủ tự do, phấn
chấn xây dựng đất nước.
Nguyễn Tường Bá
San Jose
Mặt trái thần tượng Hồ Chí Minh
Nguyễn Tường Bá
Nếu trước đây Mặt Thật Hồ Chí Minh cũng như Mặt Thật Stalin chỉ được phơi bầy
khi chế độ toàn trị sụp đổ; nhưng ngày nay với sự tiến bộ truyền thông và tự do,
người Việt Hải Ngoại có thể lật Mặt Trái Thần Tượng Hồ Chí Minh góp phần hữu hiệu
cần thiết khai tử chế độ Cộng Sản Việt. (1)Hồ Chí Minh không thông minh mà chỉ ranh vặt
Hồ Chí Minh lanh trí như gập vũng nước thì không đi lên lề mà bước ngay vũng nước để được quay phim tuyên truyền;dùng bao thuốc nội hóa bình dân nhưng trong đựng thuốc ngoại quốc sang như hồi năm 1945-1946 (2). Nhưng lanh trí mà không phải là thông minh vì:
Hồ mù quáng theo chủ nghiã Mác trong khi hầu hết các nhà cách mạng khác né tránh
như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học v. v... đến Tự Lực Văn Đoàn;ngày
nay bậc thức giả thế giới, ít nhất từ thập niên 1960-1970, đều rõ chủ nghiã Mác
sai lầm từ bản chất (3) ;ngay tại Việt Nam bây giờ tất cả các tư tưởng gia như Hà
Sĩ Phu, Nguyễn Thanh Giang, Trần Khuê, Hoàng Minh Chính v. v... đều lên tiếng như
vậy.
Điều đáng trách là Hồ đã tin chủ nghiã Mác một cách không suy xét đến mức coi
chủ nghiã này như " quyển sách ước muốn gì được nấy" làm học giả Hoàng Văn Chí phải
ngạc nhiên về sự phi lý trí, phản khoa học của Hồ. (4) ;Hồ u mê coi Stalin Mao Trạch
Đông như hai người "không bao giờ có thể sai lầm được" trong khi hai lãnh tụ này
đã có nhiều sai lầm khủng khiếp. Trớ trêu vì Stalin lại nghi ngờ Hồ đến mức cho
người trộm lại ký tặng của Stalin cho Hồ (5), ngược lại Stalin kính phục Tito mặc
dầu Tito chủ trương trung lập chống Stalin. Khrushchev, cựu tổng bí thư Nga Xô từ
1953 đã tả Hồ như một thuộc cấp và tín đồ trung thành mù quáng với Stalin (5)
Dương Thu Hương coi "chiến tranh chống Mỹ cứu nước" là chiến tranh ngu xuẩn nhất
lịch sử dân tộc. Hồ, người chủ xướng và cổ võ chiến tranh đó dĩ nhiên cũng ngu xuẩn.
Trong ba nước chia đôi Đức Hàn Việt chỉ có Việt chịu nhiều thập niên chiến tranh
và hy sinh ít nhất ba thế hệ. Tưởng nên ghi rằng Hồ đã được Thủ Tướng Nehru chỉ
dẫn khuyên bảo tại Hôi Nghị Trung Lập Banduung 1956 rằng đừng dại dính vào cuộc
chiến giữa hai khối cường quốc đều có bom nguyên tử nên họ không trực tiếp đánh
nhau mà để cho các đàn em đánh nhau. Thật ra chỉ có dân Việt thiệt hại còn Hồ và
CSVN đã nhờ chiến tranh củng cố quyền lực và hưởng danh lợi:Hồ ngu nhưng không dại,
đăc tính của kẻ khôn vặt.
Thông minh được đo bằng hệ số IQ mà ở Hoa Kỳ ngày nay đã đo được IQ của tất cả
các tổng thống dù đã chết. Một ngày gần, người Việt Hải Ngoại cũng sẽ đo được IQ
của Hồ (6), IQ của Hồ sẽ không hơn trung bình vì:J. H. Roy, nhà cộng sản Ấn, đồng môn xuất sắc của Hồ từ 1924 tại Moscou tiết lộ rằng Hồ học không xuất sắc, yếu kém mọi môn thậm chí đến nỗi không biết cả lập luận. Đó là các khuyết điểm của người không trông xa nhìn rộng, ranh vặt chứ không sáng suốt thông minh.
Tại Banduung 1956, Hồ đã láu táu ôm hôn vợ Tổng Thống Nam Dương Shukarno, xứ Hồi Giáo, khiến cho cả nước phẫn nộ và Hồ chỉ được lòng một người tài xế lái xe thế mà CSVN vẫn ca tụng thành tích Nam Dương của Hồ.
Hồ không biết Toán Trung Học và rất lơ mơ các vấn đề khoa học. Hồ có tiểu sảo lấy lòng giới bình dân như tài xế ở Nam Dương, các quân nhân Hoa Kỳ O. S. S. năm 1944-1945 ở Việt Nam;nhưng các trí thức như Nehru, Chu Ân Lai, JH Roy, Hoàng văn Chí, Bác sĩ Lý (BS riêng của Mao Trạch Đông), Khrushchev, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường v. v... thì không ai phục trí tuệ của Hồ, một người có trình độ trí tuệ coi Stalin Mao Trạch Đông là kim chỉ nam.
" Ông thầy vĩ đại" thực chất chỉ là một người ranh vặt, láu cá, thuộc và sao chép các câu nói của các vĩ nhân thế giới nhưng được các người trong nước coi như là của Hồ để dùng làm lá chắn, bùa hộ mệnh hay chân lý cho các ý kiến, lập luận có thể trái ý hay phật lòng giới quyền uy sinh sát. Điều này làm thôi chột mọi tư tưởng và môi trường cho gian dối bành trướng.
Hồ là tấm gương cho sự gian dối, Hồ gian dối suốt đời và gian dối với chính mình: Hồ tự cho hay tưởng là mình hơn cả Hưng Đạo Vương, người chiến thắng quân Mông Cổ mà Hồ quên rằng Hồ chỉ là con cờ cái đuôi của Nga Tàu trong chiến tranh chống Mỹ. Noi gương Hồ, đảng CSVN đã sửa ngày chết, sửa chúc thư của Hồ và tột đỉnh của sự gian dối là đã bịa đặt ra cái " Tư tưởng Hồ Chí Minh "sau 22 năm khi Hồ đã chết (7) nó mung lung, muốn hiểu sao cũng được và có cũng như không mà chính Hồ đã phủ nhận rằng:" Tôi không có tư tưởng gì, mọi thứ do Ông Stalin Ông Mao Trạch Đông đã nghĩ ra". Khổ cho học sinh và đảng viên cả nước mất nhiều thời giờ công sức phải học một thứ vô ích như "tư tưởng Hồ Chí Minh" mà bên Nga bên Tàu đều vứt bỏ vài chục năm nay.
Hồ Chí Minh không yêu nước
Yêu nước không thể theo định nghiã ngu dân của CSVN:" Yêu Đảng là yêu nước" hay "Yêu nước là yêu Đảng". Theo văn hóa Việt, yêu nước không thể tách rời với ý niệm thương dân như dân ta thường nói:" Yêu nước thương dân".Hồ không thương dân mà ngược lại còn ác với dân: Hồ đã giúp Không Quân Hoa Kỳ cắt đường tiếp tế Nam Bắc 1944-1945 khiến khoảng 2 triệu dân Bắc chết đói. Hồ đã chủ trương và cổ vũ chiến tranh để ủng hộ Nga Tàu và củng cố quyền lực gây tang thương nhất lich sử dân tộc, Hồ chỉ động lòng trắc ẩn khi già sắp chết và đã mất hết quyền muốn ngưng chiến nhưng thiếu can trường nên thành bù nhìn cho các đàn em chủ chiến. Ý muốn miễn thuế một lần cho dân mà suốt đời Hồ cũng không thực hiện được.
Yêu nước phải đặt dân nước lên trên hết; ưu tiên của Hồ luôn luôn là đảng cộng Việt, cộng sản Nga Tàu hay chính bản thân mình. Người dân Việt với kinh nghiệm nửa thế kỷ dối trá của Hồ và CSVN phân biệt rõ "Hồ nói " khác với " Hồ nghĩ và làm". Chỉ có người ngoại quốc (kể cả vài chính khách) mới lầm Hồ là người yêu nước. Bởi vậy:
Hồ lúc trẻ xuất ngoại sang Pháp nạp đơn xin học trường thuộc điạ (nhưng không
được nhận) ( thì Hồ viết sách là xuất ngoại cứu nước. Bán nhà ái quốc Phan Bội Châu
cho mật thám Pháp lấy 10 vạn đồng (9) thì nói là vì cách mạng. Dựa vào quân Hoa
Kỳ để cướp chính quyền thì nói là chống Nhật, măc dầu lúc đó Nhật đã đầu hàng và
chính phủ Trần Trọng Kim đã dành được độc lập;Hồ vẫn trơ trẽn tuyên ngôn độc lập
lần nữa để sau đó nghênh đón quân đội viễn chinh Pháp đổ bộ Bắc Việt. Hồ hô hào
đại đoàn kết nhưng cùng quân Pháp đánh tiêu diệt các chiến khu quốc gia (9). Hồ
nói là chỉ theo một đảng là đảng Việt Nam nhưng lại chỉ phục vụ đảng CSVN và tiêu
diệt tất cả các đảng khác. Nếu Hồ thương dân thì không đánh Trận Điện Biên thí quân
không cần thiết vì không có nó quân Pháp cũng phải rút khi chiến tranh Cao Ly ngưng,
Hoa Kỳ không tiếp tế cho Pháp nữa.
Không có Hồ thì không có " chiến tranh chống Mỹ cứu nước" ngu xuẩn và tai hại
nhất lịch sử dân tộc.
Hồ Chí Minh nhờ Mỹ cướp được chính quyền
Đoạt chính quyền là điều quan trọng hàng đầu trong sinh hoạt chính trị và tối quan trọng đối với các nước Á Châu chậm tiến. Hồ đã cướp được chính quyền năm 1945 là nhờ quân đội Hoa Kỳ như sau:
Hồ Chí Minh là nhân viên số 19 của Sở Tình Báo Chiến Lược Quân Đội Hoa Kỳ Thế
Chiến 2, O. S. S. (Tiền thân của CIA) vùng Nam Trung Hoa. Cơ quan O. S. S. ca ngợi
sự đóng góp của Hồ về hai việc:cứu một viên phi công và cung cấp tin tức tình báo
về quân đội Nhật. Thực ra viên phi công đã được dân thiểu số cưú và nuôi nhiều ngày,
Hồ chỉ giúp đưa viên phi công về hậu cứ ở bên Trung Hoa. Ngược lại, quân Hoa Kỳ
đã cung cấp cho Việt Minh 5 ngàn vũ khí, cho các quân nhân đến chiến khu huấn luyện
cách xử dụng vũ khí, cố vấn và tháp tùng hành quân (về cả đến tận Hà nội). và quan
trọng nhất là công khai xác nhận Hồ và bộ đội Việt Minh là người của quân đội Hoa
Kỳ, Đồng Minh thắng trận. Trong khi Jean Sainteny, đại diện của Pháp De Gaulle chỉ
xin mượn quân phục lính Mỹ để mặc thì bị từ chối, cấm đóan; các đảng quốc gia lưu
vong bị O. S. S. kỳ thị vô căn cứ dữ dội (10) (11).
Ở thời điểm tháng tám 1945; lực lượng Việt Minh được Hoa Kỳ xây dựng như trên
là một lực lượng mạnh tuyệt đối về vật chất và nhất là về uy thế chính trị vì quân
đội Pháp tại Đông Dương đã bị quân Nhật đảo chính bắt cầm tù, quân Nhật lại đã đầu
hàng buộc phải nằm im chờ hồi hương; chính phủ Trần Trọng Kim chỉ có vài trăm lính
khố xanh khố đỏ ở mỗi tỉnh, võ trang súng Mousqueton cổ hay súng hỏa mai. Bởi vậy,
Nguyễn Xuân Chữ đại diện chính phủ đã từ chối đề nghị của quân Nhật dẹp loạn Việt
Minh (12). Lực lượng Việt Minh cướp chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945 rồi mới
tìm Hồ Chí Minh đang lang thang ngơ ngác trong rừng nhiều ngày sau mới gập.
Tưởng nên ghi: Việt Nam Quốc Dân Đảng do Lê Khang chỉ huy chỉ với vài khẩu súng
săn mượn của Đồn Điền Đỗ Đình Đạo cũng cướp được chính quyền tỉnh Vĩnh Yên sau khi
không thuyết phục được Trương Tử Anh, lãnh tụ chung của các đảng quốc gia, đã dè
dặt không muốn cướp chính quyền Hà nội nhân ngày công chức biểu tình 19/8/1945 ngày
mà Việt Minh ra tay. (13) (14)
Nạn đói Ất Dậu (1944-1945)
Nạn đói Ất Dậu đánh dấu sự can dự đầu tiên của Hồ Chí Minh vào chính trường Việt NamNạn đói xẩy ra vì nhiều nguyên do:thực dân Pháp cùng quân Nhật tích trữ thóc gạo phòng chiến tranh;thực dân Pháp tăng thuế nông dân và bắt dân trồng đay cho nhu cầu bao cát quân Nhật. Thượng Thư Pham Quỳnh đã phản đối nhiều lần nhưng không kết quả. Bắc Kỳ, vùng Thái Bình Nam Định hạn hán. Các đường thủy bộ Nam Bắc bị phi cơ Hoa Kỳ oanh tạc dữ dội mà tướng Pháp Mordant điện tín xin Hoa Kỳ ngưng oanh tạc nhưng không kết quả. Chính phủ Trần Trọng Kim lên thay, lập quỹ cưú đói, lạc quyên tiềnvà nhất là tìm cách chở gạo từ trong Nam ra vì gạo chỉ bằng giá 1/ 60 gạo ngoài Bắc, gạo Nam rẻ đến mức xe lửa dùng thóc đốt thay than đá. Tuy nhiên nỗ lực của chính phủ không thành công vì Hoa Kỳ oanh tạc quá mạnh, đường Nam Bắc bị cắt hoàn toàn, phái đoàn cứu đói do Bác Sĩ Bộ Trưởng Y Tế và Cứu Đói Vũ Ngọc Anh vào ngày 23 tháng 7 năm 1945 bị oanh tạc, trong số nạn nhân chết có Bác Sĩ Vũ Ngọc Anh (15). Có thể nói nếu chở được gạo ra Bắc thì dân nghèo ngoài Bắc không chết vì tính chung cả nước thì Việt Nam năm Ất Dậu không thiếu gạo.
Tưởng nên ghi rằng tờ truyền đơn, bằng Việt và Pháp, do không quân Hoa Kỳ giải xuống do đóng góp của Hồ Chí Minh. Khi Hồ lên nắm quyền thì Hồ tịch thu quỹ này (15) và dùng tiền đó hối lộ các tướng Tàu sang giải giới quân Nhật.
Nước Nhật bị hai quả bom nguyên tử chết khoảng 200. 000 người, nhưng năm nào Nhật cũng tưởng niệm long trọng. Ở Hà nội năm 1945 cũng có một đài tưởng niệm nạn nhân Ất Dậu (16), nhưng Hồ lên thì không còn nữa.
Chiến Tranh Việt Nam (1954-1975)
Nhìn từ khía cạnh Quốc Tế Công Pháp, như Richard Nixon trong cuốn " Không Còn
Những Vụ Việt Nam Nữa" (No More Vietnams), đó là chiến tranh xâm lăng do CSVN tấn
công Việt Nam Cộng Hòa với đầy chứng cớ do các biến cố tháng tư 1975 và sau đó như:
xe tăng Nga Xô đâm xập cổng Dinh Độc Lập, quân cán chính Niềm Nam đi tù cải tạo
tập trung, hàng triệu người vượt biển với khoảng 600, 000 người chết v. v... (9)
Nhưng chúng ta không thể đồng ý với Nixon rằng Hoa Kỳ không thua về quân sự tại
Việt Nam. Đành rằng sức mạnh quân sự Hoa Kỳ vô địch, nhưng tại chiến trường Việt
Nam, quân đó đã phải rút khỏi Nam Việt Nam trong khi quân Cộng Việt không phải rút
và các đường tiếp tế không bị không kích để đổi lại Hoa Kỳ mang về khoảng 200 tù
binh, theo Hiệp Định Paris 1973 mà chính Hoa Kỳ ký kết xác nhận. Bỏ lại bạn đồng
minh Cộng Hòa Việt Nam chịu trận không làm cho Hoa Kỳ không thua trận.
Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến sự thất trận của Hoa Kỳ như:Phong trào phản
chiến, giới truyền thông, quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ trong khi Nga Xô tăng gia
viện trợ, tham nhũng của lãnh đạo Nam Việt Nam, sai lầm của Nguyễn văn Thiệu ra
lệnh rút khỏi Vùng 1 và 2 v. v.. Nhưng hai nguyên nhân chính, cốt lõi và sâu xa
là:
Thứ nhất, Hoa Kỳ tệ hơn là không biết địch mà đã hiểu sai bản chất Hồ Chí Minh
(và đàn em) từ đó đánh giá sai sức chiến đấu của địch
Thứ hai, lỗi lầm cơ bản của toàn bộ chính sách Việt Nam của Hoa Kỳ, lỗi lầm ấy
là chưa bao giờ Hoa Kỳ là người bạn thật sự cuả quảng đại nhân dân Việt Nam yêu
chuộng tự do. Hoa Kỳ đến Việt Nam vì những quyền lợi chiến lược nhất thời, rồi bỏ
Việt Nam khi bài toán chiến lược đã đổi thay (với thế liên minh khách quan với Bắc
Kinh, với tiến bộ kỹ thuật võ khí...) (Vương văn Bắc, " Diễn Đàn Người Việt"Paris
6, 1985. "Suy Tư" trang 16 Paris 2003). Nói cách khác, khát vọng Dân Chủ Tự Do mà
Phan Bội Châu ao ước trong cuốn Cao Đẳng Quốc Dân, 1927 (17) cho người Việt được
hưởng quyền lợi và trách nhiệm một công dân khiến cho Việt Nam có thể hưng thịnh,
khát vọng này cho đến nay vẫn chưa đạt.
Bởi thế, người ta thấy:
Thoạt đầu Hoa Kỳ giúp Hồ nắm quyền năm 1945, một lợi thế lớn khởi đầu và lợi
thế này tiếp tục duy trì vì nhận định sai lầm của Hoa Kỳ về Hồ, tưởng Hồ như "Cha
Già Dân Tộc" tựa George Washington. (After the Japanese surrendered, the Viet Minh
began to take control of local offices, largely as the result of Ho Chi Minh growing
reputation as the American-baked liberator of his country. This reputation was to
endure as David Ross, a medic in the First Infantry, learned in Viet Nam he said:"
We were told not to bad-mouth Ho Chi Minh, since the Vietnamese mistakenly thought
he was the George Washington of their country because he had thrown out the French")
(11 trang 47) (ghi chú: Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á Châu thoát ách thực
dân nhờ quân Nhật dẹp thế lực quân sự thuộc điạ của các nước tây phương)
Nhật Hoàng đã đầu hàng khi 800 phi cơ Hoa Kỳ dội bom mà không còn phi cơ Nhật
nghênh chiến (chứ không phải vì 2 quả bom nguyên tử) vì nếu tiếp tục nữa thì dân
Nhật chỉ chết uổng. Nhưng Hồ và các đàn em không đầu hàng khi bị dội bom dữ dội
không phải vì Hồ anh hùng hơn Nhật Hoàng nhưng vì Hồ không thương dân, không yêu
nước (coi Việt Nam chỉ là một phần Nga Tàu có tan nát cũng không thua), vả lại khi
bom dữ dội thì Hồ ở Bắc Kinh, tránh bom dễ dàng.
Chính sách " cái roi và củ cà rốt " của Lyndon Johnson và Richard Nixon không
thành công với Hồ và đàn em (Oanh tạc Miền Bắc và 100 triệu xây dựng thunh lũng
Mekong). Khác với lần oanh tạc quân Nhật, quân CSVN có các hỏa tiễn Nga nghênh chiến
hữu máy bay B52. CSVN trả đuã bằng chiến tranh khủng bố:pháo kích vào thành phố,
giết cả giáo viên... CSVN là nước duy nhất có binh chủng Đặc Công (nghiã là khủng
bố) do một viên tướng chỉ huy. Không thương dân, đói, chết cũng đánh, đánh như điên
đến mức Lê Đức Thọ bỏ luôn giải Hoà Bình Nobel.Nixon bắt đầu Việt Nam Hóa chiến tranh bằng hành quân Lam Sơn 719, (tháng 1/1971) làm thiệt hại quân ưu tú khi tiến sang Hạ Lào mà thiếu yểm trợ không lực điều mà quân Hoa Kỳ cũng không làm nổi. Điều tai hại nữa là Nixon hỗ trợ tham nhũng và tham quyền của Nguyễn văn Thiệu (khiến dân nản chí và Quốc Hội Hoa Kỳ ghét chê) :" Tôi biết Thiệu ti tiện và tham nhũng nhưng xử dụng Thiệu vì nhu cầu thực tế " (1
Từ 1965 đến 1973 có 10, 270, 000 dân tị nạn tại Nam Việt Nam, con số do toà Đại Sứ Hoa Kỳ cung cấp (19), đây mới là cuộc tị nạn lớn nhất lịch sử Việt và nó cũng chứng tỏ dân Việt ghét sợ cộng sản, chọn Tự Do. Nhưng họ không được võ trang không được tổ chức như dân Do Thái dân Palestine để sống còn, nhóm Hai Tập Hoà Hảo tự động võ trang đã bị Nguyễn văn Thiệu buộc phải giải giới ít tháng trước 30 /4/1975.
Gia Tài Hồ Chí Minh
Thực trạng Việt Nam đã thành các tin giật gân kỳ dị trên truyền thông thế giới (nhưng đau thương căm phẫn cho người Việt) như:mức sống người dân thành hạng thấp nhất thế giới nhưng các lãnh tụ giầu sụ bạc tỷ. Tham nhũng cửa quyền khắp nơi, từ trên xuống nhưng trừng trị chỉ trình diễn với vài cắc ké ngớ ngẩn, tham nhũng là máu nuôi toàn đảng cho nên đòi dẹp tham nhũng bị trừng trị, đi tù. Thân xác phụ nữ trong nước bán cho đa số là cán bộ đảng viên, bên ngoài cho khắp Á Châu và Đông Âu, bất hợp pháp bằng cưới xin giả, công nhân giả, lừa gạt, cả trẻ vị thành niên 6 tuổi, 8 tuổi (Cao Miên), đấu giá trên màng lưới (Đài Loan, Nam Hàn). Không xây dựng mà còn ngăn cản tiến tới dân chủ tự do đến nỗi thua kém cả Cao Miên (Cao Miên có đa đảng và tự do báo chí). Đảng CSVN sợ mất điạ vị sợ tập hợp đến mức ngăn cấm các công tác cứu lụt của Hòa Thượng Quảng Độ trong nhiều vụ lụt. Bán ruộng nông dân nghèo làm sân golf cung phụng tư bản ngoại quốc. Nhượng biên giới lui lãnh hải cho Trung Cộng.Văn sĩ Dương Thu Hương nhận xét: ".. Tóm lại, những người do đảng cử ra đại đa số là họ tự bầu cho nhau, nhân dân không bầu họ, cho nên cái mặt họ trông tăm tối lắm, ăn nói thì nham nhở ngu độn, nói chung là câu nọ chửi bố câu kia, chẳng ra cái thể thống gì. Nó ngớ ngẩn đến mức độ tất cả những người dân Việt Nam, dù rằng người mù chữ đi nữa cũng xấu hổ vì vua chúa sao mà tối tăm ngu dốt đến thế (20).
Thật sự đảng CSVN chỉ tăm tối ngu dốt khi tính việc nước việc dân, nhưng họ rất tinh khôn tàn ác khi tranh khi bảo vệ quyền lợi. Muốn hiểu họ, ta nên xem bản chất quyền lực CSVN, một thứ quyền lực không có sự kiểm soát kìm hãm và tham dự của người dân nên đã có hình dáng con hải quái " Léviathan " trong tư tưởng Hobbes. (3, Suy Tư Paris 2003, Bài " Luận Về Quyền Lực ") (21, Léviathan, Thomas Hobbes, 1651). Nhưng con hải quái CSVN có 2 đầu: Đầu Cộng Sản Hạ Cấp và Đầu Tư Bản Bệnh Hoạn.
Đầu Cộng Sản Hạ Cấp. Đầu này do Hồ Chí Minh đem lại từ hơn 60 năm, "Hạ Cấp" vì là thứ Cộng Sản sao chép tồi tệ của Cộng Sản Nga, Công Sản Tàu, gượng ép trái với văn hóa Việt. Nó đã phát triển tràn lan đến mức thốt ra " Yêu nước là yêu đảng", câu nói phi lý nói lên một sự thật:tất cả quyền lực đều trong tay đảng CSVN
Đầu Tư Bản Bệnh Hoạn. Mới mọc ra lúc CSVN đổi mới (nhưng đã chậm nhiều chục năm). "Bệnh Hoạn " là vì chỉ thiểu số chức quyền cùng các thân nhân và tay em cấu kết bóc lột đè đầu toàn dân với các tệ nạn cửa quyền, tham nhũng, lừa bịp, sống xa hoa một cách vô ý thức trong khi quần chúng lao động tiếp tục ngụp lặn trong cảnh bùn lầy nước đọng của sự nghèo đói triền miên. Không có dân chủ, chỉ có vỏ dân chủ và cũng không tiến tới dân chủ, tự do, công lý và đạo lý. (22)
Tiêu diệt Hải Quái CSVN khó vì nó có hai đầu, đầu cộng sản giữ vững quyền lực và đầu tư bản tham nhũng nuôi đầu cộng sản. Với sự suy tàn của Chủ Nghĩa Mác, tinh thần hay hay hệ thần kinh của Hải Quái CSVN là Thần Tượng Hồ Chí Minh.
Mặc dầu, đúng như Dương Thu Hương nhận định:"Thần tượng chỉ là món ăn cho tuổi niên thiếu hoặc cho nhân loại thời ấu trĩ. Nước Đức đã từng có thần tượng là Hitler và thần tượng này đã dẫn nước Đức xuống vực thẳm của Đại Chiến 2. Một nửa nhân loại đã từng có thần tượng là Karl Marx và một nửa đó đã trả giá cho vị thần râu xồm. Sau những kinh nghiệm như vậy người ta hiểu rằng con người trưởng thành là con người không cần thần tượng. Thần tượng là món cháo thịt của thời niên thiếu " (Dương Thu Hương, 2005). Nhưng các đảng viên cộng sản, nhất là các cấp lãnh đạo, họ không phải là những người trưởng thành, họ là những " Đỗ Mười" tối tăm ấu trĩ suy tôn Hồ là thần tượng, thần linh giữ tinh thần mọi cấp trên dưới, theo hay chống đảng, cũ hay mới, ra khỏi đảng vẫn viện dẫn lời "Bác" làm căn cứ cho lập luận cho lý tưởng mặc dầu sự thực Hồ không như vậy. Bởi vậy CSVN bằng mọi gía bênh "Bác" còn hơn là thần hoàng.
Võ khí hưũ hiệu đánh đổ thần tượng "Bác Hồ" là sự thật về Hồ Chí Minh
Đến nay CSVN vẫn tuyên truyền Hồ độc thân; mặc dầu có 2 người vợ chính thức: Tăng Tuyết Minh, người Trung Hoa cưới vào tháng 10 năm 1929. Hôn Lễ linh đình, có cả vợ chồng Chu Ân Lai tham dự (Huang Zheng, Phó Viện Khoa Học Xã Hội, Quảng Tây, Trung Quốc) và Nguyễn Thị Minh Khai (Chị ruột vợ Võ Nguyên Giáp), cưới theo nghi thức Nga Xô vài năm sau đó tại Moscou (Sử gia William Duiker) và nhiều vợ không chính thức như Đỗ thị Lạc (Sử gia Trần Trọng Kim) Nông thị Xuân (Nhà văn Vũ Thư Hiên), các vợ hờ và nhân tình khác lên đến trên 10 người (theo ký giả Du Miên, nhà văn Vũ Trọng Khanh con của nhà văn Vũ Trọng Phụng). Có thể nói tổng quát là nơi nào cũng có vợ và tuổi nào cũng có gái (lúc ở với Nông thị Xuân, 25 tuổi thì Hồ 65). Hồ cũng có cả con nữa, không kể con gái, Hồ có ít nhất 2 con trai: Nguyễn Tất Trung (theo Vũ Thư Hiên) và Nông Đức Mạnh (theo Vũ Quốc Thúc). Tuy nhiên việc Hồ có nhiều vợ cũng không quan trọng lắm vì vua chúa hay Mao Trạch Đông chẳng nhiều thê thiếp là gì; cách đối xử với vợ, với phụ nữ nói chung mới thực sự quan trọng, mới biểu lộ bản chất người ta. Muốn rõ chúng ta hãy lấy các mẫu nhân vật trong Truyện Kiều của Thi Hào Nguyễn Du, những mẫu người xử tệ với phụ nữ để so cách xử sự của Hồ để hiểu bản chất của Hồ một cách chính xác vô tư. Hồ Chí Minh so với:Sở Khanh. Trong cuộc tình với cô Tàu Tăng Tuyết Minh, Hồ là Sở Khanh. Hồ đã mua chuộc người mẹ và người anh ruột, làm đám cưới linh đình có cả vợ chồng Chu Ân Lai tham dự rồ bỏ cô này sau vài năm và lấy Nguyễn thị Minh Khai ở Moscou. Hồ bạc tình đến mức vào năm 1991, cô Tuyết Minh thành bà lão 86 tuổi từ trần mà vẫn không được gập Hồ Chủ Tịch tuyệt đỉnh danh vọng. Cô này thủ tiết chờ chồng (Huang Zheng, Phó Viện Khoa Học Xã hội, Quảng Tây, Trung Quốc, 2004)
Mã Giám Sinh. Lúc Hồ 65 mà hưởng lạc cô Nông thị Xuân 20 tuổi. Cưới cô Tuyết Minh nhưng khi gập cô Minh Khai trẻ hơn, Hồ bỏ cô Tuyết Minh. (Sử Gia william J. Duiker, Hồ Chí Minh, nxb Hyperion, New York, 2000), rồi ở Hongkong với một cô Tàu khác lúc bị bắt. Rồi cô Briere, cô Vera Vasiliera (Bủi Tin, Mặt Thật, nxb Saigon Press, Cali 1993). Thực ra ở đâu Hồ cũng có gái, nhiều gái kể cả ở chiến khu; có điều tình dục nhiều và bừa bãi như vậy không thể là " nét đẹp " -- như nhận định của Nhà Báo Bùi Tín (một nhà báo Việt tầm mức quốc tế đã đóng góp nhiều cho Tự Do, Dân Chủ và Sự Thật) mà là sự bẩn thỉu của một Mã Giám Sinh.
Tú Bà. Hồ là môn sinh của Trùm Mật Vụ Trung Cộng Khang Sinh, một tay khét tiếng về xử dụng phụ nữ trong mưu toan chính trị và là người đã gài cô Giang Thanh cho Mao Trạch Đông. Các hình chụp trong Chiến Khu Việt Bắc 1944-1945 với các sĩ quan Mỹ có Hồ và cả một phụ nữ trẻ đẹp sáng sủa. Trưởng Toán Mỹ Patti chối là không bị mỹ nhân kế; thế thì cô gái đẹp trẻ đó ở rừng làm gì nhất là thời đại xưa kín cổng cao tường ? Khang Sinh Việt Nam Trần Quốc Hoàn từ một du đãng vô học được Hồ xây dựng đưa lên làm Bộ Trưởng Công An. Hoàn đưa cô Xuân cho Hồ. Tại sao Luật Sư Nguyễn Hưũ Thọ đươc thỏa thích dâm dục khi ra bưng? Hồ hay môn đệ của Hồ đã dàn xếp? Nên nhớ đại gian dâm Trần Quốc Hoàn vẫn được đặt tên cho một phố Hà nội vì y có công với CSVN.
Hoạn Thư. Trần Quốc Hoàn biết tính cả ghen của Hồ nên Hoàn chỉ cần ẩn ý dèm pha rằng cô Xuân gập nhiều đàn ông khiến Hồ đồng ỳ cho thủ tiêu cô Xuân (Đêm Giữa Ban Ngày. Vũ Thư Hiên. nxb Văn Nghệ 1997) Nguyễn thị Minh Khai đã bỏ Hồ theo Lê Hồng Phong, nhưng cặp tình nhân này đều bị Mật Thám Pháp bắt ngay khi về nước vì do Hồ chỉ điểm vì ghen và Hồ có đường dây với mật thám Pháp trong vụ bán Phan Bội Châu (Theo Vũ Hồng Khanh, 1954). Hồ ghen ác hơn Hoạn Thư vì Hoạn Thư chỉ hành hạ tình địch, chưa bỏ tù hay giết.
CSVN thường bênh vực các hành động vô đạo của Hồ (như việc bán Phan Bội Châu, ký cho quân Pháp đổ bộ lên Bắc Việt v. v..) bằng lập luận " đó là đạo đức cách mạng'" Nhưng khi ở tù tại Liễu Châu, Trung Quốc 1943, Hồ đã viết bài "Hối Lỗi" và " thề rời bỏ đảng cộng sản " (23). Chúng ta cũng chưa từng thấy vị nguyên thủ nào trong cả lịch sử thế giới lại nói dối cả với trẻ thơ: " Có hai điều Bác khuyên các cháu đừng bắt chước Bác là hút thuốc lá và không lấy vợ " (24)
Hồ Chí Minh không thể là thần tượng của bất cứ ai mà chỉ là ma quỷ ám dân Việt từ hơn nửa thế kỷ nay;bao giờ bóng ma Hồ tan biến, Gian Dối Vô Luân nhường chỗ cho Sự Thật, Đạo Lý;con đường nước Việt Tái Sinh và Hưng Thịnh sẽ mở rộng. /.
Nguyễn Tường Bá
tháng 4 năm 2006.
Chú Thích:
(1) Ý kiến của Thi Sĩ Nguyễn Chí Thiện trong buổi nói chuyện 2001, 2002... góp ý và khích lệ của Nguyễn Tường Ánh và Nhà Văn Trần Nhật Kim, tháng 10, 2005
(2) Kể lại của Giáo Sư Vũ Khắc Khoan, 1955, 1956 tại Saigon.
(3) Sự Suy Tàn Của Chủ Nghĩa Mác, Vương Văn Bắc, (1985), in lại trong cuốn " Suy Tư " Paris 2003, trang 126 và kế tiếp.
(4) Duy Văn Sử Quan, Hoàng Văn Chí, 1999.
(5) Khrushchev. Remenbers. nxb. Little Brown 1970, trang 480, 481.
(6) Giáo Sư Tâm Lý Chính Trị Nguyễn Hữu Chi, Đai Học Carlton Ottawa Canada.
(7) Đại Dương, Tương Quan Giữa CSTQ và CSVN, Việt Nam Cuối Tuần số 4951 ngày 24/3/2005 trang 58 (Nguyễn Thế Anh, Hồ Chí Minh, nxb Nam Á, Paris 1990.
(9) No More Vietnams, Arbor House, 1985.
(10) Many Reasons Why, Charlton & Moncrieff, 1978
(11) Backfire, Loren Baritz, Ballantine 1986.
(12) Nguyễn Xuân Chữ, Hồi Ký, nxb Văn Hóa, Houston, 1996
(13) Hoàng Văn Đào, VNQĐD, tái bản lần 2, Saigon 1970
(14) Phát Biểu của Hoàng Nhật Tiến, Niên Trưởng (năm 2006 là Chủ Tịch) Đại Việt Quốc Dân Đảng tại Đại Hội Toàn Đảng 1998, San Jose, California, USA
(15) Án Tích cộng Sản Việt Nam (in lần 2) Trần Gia Phụng, nxb Non Nước, Toronto, Canada 2001.
(16) Phạm Ngọc Lũy, Hồi Ký, Tokyo, nxb Tân Văn 1993.
(17) Cao Đẳng Quốc Dân, Phan Bội Châu, 1927. Tổ Chức Hưng Việt in lại 1997 và tôi được tặng 1 bản năm 2000.
(18) The Memoirs Of Richard Nixon. Grosset Dunlap 1978, trang 348.
(19) Winners and Loosers. Gloria Emerson, Norton 1992 trang 357.
(20) Dương Thu Hương, Phỏng Vấn 2001
(21) Léviathan, Thomas Hobbes London 1651
(22) Vũ Quốc Thúc, Paris tháng 1/2003. Đặc San Luật Khoa 2003, Houston, USA, 2003
(23) Tưởng Vĩnh Kính, Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc. 1972, nxb Văn Nghệ California USA 1999, trang 370
(24) Góp ý của Triển, VNQDĐ (Chủ Lực) San Jose USA 2004.
(Nguồn: http://www.vnn-news.com/article.php3?id_article=2078)
http://xoathantuong.tripod.com/ntb_mthcm.htm
Ông Hồ bị Đảng Cộng Sản vi phạm Nhân Quyền (Nhân Quyền Cho Ông Hồ)
Tôi không ưa thích Ông Hồ mà còn
viết phê bình gắt gao (1 và 2), nhưng khi Ông Hồ đã chết và bị xâm phạm
nhân quyền nghiêm trọng lâu năm, tôi bênh vực.
Tôi bị thúc đẩy bởi truyền thống nhân quyền, bênh vực mẹ goá con côi,
người cô thế của nghề luật sư mà tôi được trau dồi khi gia nhập văn
phòng luật sư Vương Văn Bắc từ nửa thế kỷ nay.Vừa mới chết, ngày qua đời của Ông Hồ đã bị đổi thành ngày 3 tháng 9 vì trùng với ngày quốc khánh 2 tháng 9 (1). Sau này CSVN có sửa lại nhưng không và các tài liệu đều tránh nhắc ngày qua đời của Ông Hồ, hậu quả là Ông Hồ không có ngày giỗ; việc chôn cất không theo ý Ông Hồ mà bị dùng thân xác trong ý đồ chính trị, các điều trong chúc thư đều không tôn trọng v.v…đó là các vi phạm nhân quyền, nhưng quan trọng nhất là 3 vi phạm không thể tha thứ sau đây:
Lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho Saigon.
Nhiều người trong nước chưa biết chuyện Ông Hồ khi xuất ngoại , từ bến Saigon đến Marseilles (Pháp) xin học trường thuộc điạ để làm công chức, đơn của Ông bị bác. Ở hải ngoại, người gốc Việt khắp thế giơí biết chuyện này, sử gia thế giới biết và lá đơn với nét chữ Ông Hồ cùng bút phê bác đơn của viên hiệu trưởng Pháp còn lưu giữ như kỷ niệm lịch sử. Ông Hồ không thể quên chuyện này và quan trong hơn Ông Hồ thấm nhuần truyền thống cách mạng Trung quốc, kiểu Mao Trạch Đông, không lấy tên người đặt cho thành phố như kiểu Nga Xô (Mao đã nhìn xa và đúng hơn Stalin), cho nên nếu được hỏi ý Ông Hồ chắc chắn phản đối việc lấy tên Ông đặt cho Saigon.
Người chủ trương và ký văn bản lấy tên Hồ Chí Minh thay cho Saigon là Trường Chinh từng bị Ông Hồ khiển trách và giáng chức trong vụ cải cách ruộng đất.
Trường Chinh thuộc thế hệ cổ, thâm nho giỏi các lối chửi thâm thúy, sát cánh nhiều năm và hiểu cuộc đời Ông Hồ nhất. Ngày nay chúng ta đã thấy Phong Trào Quốc Dân Đòi Tên Saigon của linh mục Nguyễn Hữu Lễ lớn mạnh và cuộc tranh tên rút cục Saigon sẽ thắng vì nó ngắn gọn lãng mạn và dân ưa thích. Trong khi chờ đợi, tên Hồ Chí Minh thành mục tiêu cho công kích chửi bới.
Tư Tuởng Hồ Chí Minh và Điều 4 Hiến Pháp
Ông Hồ nói rõ và còn chỉ lên các tấm ảnh “Tôi không có tư tưởng gì, tất cả những gì do Ông Mao Ông Stalin nghĩ ra”. Thế mà 22 năm sau khi Hồ Chí Minh qua đời CSVN bịa đặt ra Tư Tưởng Hồ Chí Minh (3), nó mông lung, muốn hiểu sao suy diễn sao cũng được và có nó cũng như không. Làm trò cười vì thời nay đã tiến đến tòan cầu, lịch sử thế giới và văn minh thế giới (PeterF.Drucker). Bằng cớ là trong cuốn Quotations For Public Speakers của Robert G.Torricelli (4) kê khai gần 3 ngàn câu của 840 nhân vât kim cổ, có cả Mao, Chu Ân Lai, Stalin, đô đốc Yamamoto (Nhật) v.v.. nhưng không có Hồ Chí Minh. Ông Hồ là người hành động, không phải là tư tưởng gia hay kể cả không là ngưới suy tư, Ông Hồ biết như thế, rất rõ ràng.
Bịa đặt ra Tư Tưởng Hồ Chí Minh, ghi cả vào hiến pháp, một hiến pháp mới có thêm Điều 4 Hiến Pháp mới (minh thi cho phép độc đoán độc tài). Điêu 4 mới này không có trong hiến pháp cũ mà người ta gọi là Hiến Pháp Cụ Hồ có từ 1946. Như vậy vô hình chung làm cho dân chúng hiểu lầm là Ông Hồ chủ trương Điều 4 Hiến Pháp.
Hồn Ông Hồ sẽ mắng Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết, người mới nói bỏ Điều 4 Hiến Pháp là tự sát rằng: sao ngu thế đã độc tài còn công khai khoe, bây giờ giữ Điều 4 cũng kẹt mà bỏ cũng kẹt.
Đó là vi phạm quyền trí tuệ của Ông Hồ.
Chiến Dịch Hồ Chí Minh và huynh đệ tương tàn
Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của Mẹ: một lũ bạo tàn
Bài ca của Trịnh Công Sơn nghiêm ngặt cấm, sợ tiếng nội chiến. Nhưng sau khi Hoa Kỳ đã rút quân năm 1972, cuộc tiến quân do đám Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Trường Chinh chủ trương đã lấy tên Chiến Dịch Hồ Chí Minh, mặc dầu Ông Hồ đã chết 6 năm trước, đã đưa Ông Hồ vào tội huynh đệ tương tàn với xâm lăng, rồi đô hộ bởi một văn minh tồi tệ trên một văn minh tốt đẹp khiến nhà văn Dương Thu Hương phải khóc trên hè Saigon 1975. Không thống nhất nhân tâm mà thống nhất chỉ là sự tham tàn trên một nửa miền Bắc nay tràn lan trên cả nước.
Mạo danh người chết là vi phạm nhân quyền.
Ông Hồ đã bị vi phạm nhân quyền nhiều khi quá cố và cần được công lý soi sáng. Đòi công lý này xin ưu tiên dành cho những người yêu, tôn thờ Ông Hồ; trong số những người này không có tôi. Việc đòi công lý cho Ông Hồ bao gồm sự phân biệt rõ những gì Ông Hồ làm và những gì Ông Hồ không chịu trách nhiệm vì do đám đàn em Lê Đức Thọ, Lê Duẩn, Trường Chinh v.v…làm. Cũng đưa ra ánh sáng những bất hạnh mà mấy năm trước khi chết Ông Hồ có ý khác nên đã bị khinh khi, cô lập, bao vây, thậm chí bỏ cho chết dần, bị đầu độc.
Chẳng lẽ trong nước toàn những mưu đồ chính trị, nhân danh, mạo danh, lôi Ông Hồ ra làm bung xung, dẫn chứng, kiếm ăn từ trên xuống dưới mà không thấy tình yêu thật sự vô tư và trong sáng cho Ông Hồ.
Nguyễn Tường Bá
Cựu Tổng Thư Ký Luật Sư Đòan tại Tòa Thượng Thẩm Saigon
Cố Vấn Phong Trào Dân Chủ Việt Nam
Chú Thích: (1) Đừng Hiểu Sai,Viết Lầm Về Hồ Chí Minh. Nguyễn Tường Bá, San Jose tháng 7, 2003
(2) Mặt Trái Thần Tượng Hồ Chí Minh. Nguyễn Tường Bá, tháng 4, 2006
(3) Đại Dương, Việt Nam Cuối Tuần số 4951 trang 58.
(4) Quotations For Public Speakers, Robert G.Torricelli.Rutgers, The State University, 2001
© 2007 Anh Duong Online
(http://www.nguoiviet4phuong.com/anhduong/index.php?option=com_content&task=view&id=1170&Itemid=1)
No comments:
Post a Comment