283. WIKIPEDIA * NGUYỄN TUÂN
Nguyễn Tuân
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Tuân
Nguyễn
Tuân (10 tháng 7 năm 1910 – 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn nổi
tiếng của Việt Nam. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác
giả của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách tài
hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng
tiếng Việt. Hà Nội có một con đường mang tên ông.
Mục lục
[ẩn]
* 1 Con người Nguyễn Tuân
o 1.1 Sơ lược tiểu sử
o 1.2 Vài nét tính cách
* 2 Sự nghiệp văn chương
o 2.1 Quá trình sáng tác và các đề tài chính của Nguyễn Tuân
o 2.2 Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
* 3 Tác phẩm
* 4 Kết luận
* 5 Chú thích
* 6 Liên kết ngoài
Con người Nguyễn Tuân
Sơ lược tiểu sử
Ông
quê ở xã Nhân Mục (tên nôm là Mọc), thôn Thượng Đình, nay thuộc phường
Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông sinh trưởng trong một gia đình
nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành
chung (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay) thì bị đuổi vì tham
gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt
(1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì "xê dịch" qua biên giới không có
giấy phép[1]. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn
Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1930, nhưng nổi tiếng từ năm 1938
với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một
thời, Một chuyến đi... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần
nữa vì giao du với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945,
Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách
mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học
mới. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các
tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập bút ký Sông Đà
(1960), một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh
sắc và hương vị đất nước.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm
1987, để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết độc
đáo và đầy tài hoa. Năm 1996 ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).
Vài nét tính cách
* Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân
tộc. Ông yêu tha thiết tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn
Du, Đoàn Thị Điểm, Tú Xương, Tản Đà..., những nhạc điệu hoặc đài của
các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, những nét đẹp rất riêng
của Việt Nam[cần dẫn nguồn]
* Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát
triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của
mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là "chủ nghĩa xê dịch"[cần dẫn
nguồn]. Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ thuộc
địa (hai lần bị tù).
* Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa.
Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội
hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói
và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam[2]. Ông thường vận dụng
con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng
quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
* Nguyễn Tuân là một
nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ
thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông
đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho
quan niệm ấy[cần dẫn nguồn].
Sự nghiệp văn chương
Quá trình sáng tác và các đề tài chính của Nguyễn Tuân
Nguyễn
Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay.
Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực
trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của
mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng
một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua...
Tác phẩm
Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: "chủ
nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn
Tuân đã tìm đến lí thuyết "chủ nghiã xê dịch" này trong tâm trạng bất
mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch",
Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với
cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi
bút đầy trìu mến và tài hoa (Một chuyến đi).
Không tin tưởng ở
hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn "vang
bóng một thời". Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục
đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể
hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc
chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như
Huấn Cao Chữ người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài
đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một
nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần
ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm
khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
Từ
sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc
chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ
trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và
phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều
trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi
nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông"[cần dẫn nguồn].
Thể
hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ
tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống,
cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.
Trước
Cách mạng tháng Tám, Ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại
và ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa
quá khứ, hiện tại và tương lai[cần dẫn nguồn]. Văn Nguyễn Tuân thì bao
giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại[cần dẫn
nguồn].
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là
nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác
mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng
thiêng, thác ghềnh dữ dội...
Nguyễn Tuân cũng là một con người
yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc
đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng
và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể
tuỳ bút như một điều tất yếu[cần dẫn nguồn].
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Sau
Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan
trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa
nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ
sỹ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để
ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.
Tác phẩm
* Ngọn đèn dầu lạc (1939)
* Vang bóng một thời (1940)
* Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
* Tàn đèn dầu lạc (1941)
* Một chuyến đi (1941)
* Tùy bút (1941)
* Tóc chị Hoài (1943)
* Tùy bút II (1943)
* Nguyễn (1945)
* Chùa Đàn (1946)
* Đường vui (1949)
* Tình chiến dịch (1950)
* Thắng càn (1953)
* Chú Giao làng Seo (1953)
* Đi thăm Trung Hoa (1955)
* Tùy bút kháng chiến (1955)
* Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
* Truyện một cái thuyền đất (1958)
* Sông Đà (1960)
* Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
* Ký (1976)
* Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982)
* Yêu ngôn (2000, sau khi mất)
Kết luận
Có
người nói, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ. Đối với ông,
văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là
nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng
Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩ hình
thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên lương"[3] trong sạch, là
lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa
và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng
còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải
ai cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nhược điểm:
mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn tham
phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề...[cần
dẫn nguồn]
Chú thích
1. ^ Vượt biên giới Đông Dương sang đất Thái Lan
2. ^ Cuối 1937, Nguyễn Tuân được tuyển mộ vào đoàn đóng cuốn phim truyện Việt Nam đầu tiên, gọi là Cánh đồng ma
3. ^ khái niệm cổ được Nguyễn Tuân sử dụng trong nhiều tác phẩm, như
Chữ người tử tù (Vang bóng một thời) chẳng hạn, có nghĩa là bản tính tốt
đẹp của con người nhưng không phải ai cũng giữ vững được
Liên kết ngoài
* Vương Trí Nhàn, Nguyễn Tuân: Tên tuổi còn mãi với thể tùy bút
* Vương Trí Nhàn, Nguyễn Tuân như một con người hiện đại
* Độc đáo Nguyễn Tuân
* Tuyển tập Nguyễn Tuân trên Thư quán
No comments:
Post a Comment