27. TỪ BÍCH HẰNG *NVGP PHÁ HOẠI
Từ Bích Hoàng
Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm
Trong
số cầm đầu nhóm phá hoại Nhân văn-Giai phẩm, phải kể đến Trần Dần, Tử
Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh. Bọn này đã đóng một vai trò rất quan
trọng và nguy hiểm, núp dưới danh nghĩa “văn nghệ sĩ kháng chiến, văn
nghệ sĩ bộ đội” để lôi kéo quần chúng đánh lại Đảng và chế độ.
Trên
các báo chí gần đây, nhiều đồng chí đã vạch rõ bộ mặt thực của họ. Vạch
rõ hơn nữa sự thực về họ, vẫn là một việc cần làm, nên tôi sẽ góp thêm
những điều tôi biết về họ. Bên cạnh, còn một số người nữa, trước đây
cũng ở trong Văn nghệ Quân đội nhưng đã cố tình chạy theo nhóm tay tư đó
để chống lại lãnh đạo trong quân đội, sau này lại tích cực tham gia
nhóm Nhân văn-Giai phẩm, gây nhiều tác hại, cũng cần được nói tới ở đây.
Đó là Phùng Quán, Trần Công, Quế Lâm, Trúc Lâm… Tôi cũng sẽ nói những
điều tôi được biết về họ.
Tôi gắng bổ sung những điểm mới và nêu lên sự liên quan giữa họ với nhau trong hành động phá hoại suốt 3 năm qua.
Thời kỳ “đấu tranh chính sách” trong Văn nghệ Quân đội đầu năm 55
Về thời kỳ này đã có nhiều bài nói rõ rồi. Tôi chỉ thêm mấy điểm.
Từ
Trung Quốc về, Trần Dần còn mang theo một bài thơ dài “Tiếng trống
tương lai” trong đó Trần Dần gọi cán bộ chính trị là “người bệnh”,
“người ròi”, “người ụ”. Đó chỉ có thể là cách nhìn của bọn thù địch đối
với cán bộ của Đảng. Đủ biết sự hằn học của Dần lúc bấy giờ đã nặng đến
thế nào! Không ngạc nhiên khi thấy Dần mới bước về Phòng Văn nghệ Quân
đội đã đả kích luôn lãnh đạo, rồi nhân một số thắc mắc của anh em về
công tác, Dần lợi dụng phát động từng người và biến thành một cuộc đấu
tranh đối lập với lãnh đạo, lấy “áp lực quần chúng” hòng buộc lãnh đạo
phải chấp nhận những yêu sách thoát ly chính trị, thoát ly quân đội như
ta đã biết. Chính Trần Dần đã thú nhận tính chất hoạt động này của họ.
Cục
Tuyên huấn bảo anh em nghiên cứu lại bản đề nghị, Dần không chịu, bỏ
mặc và phá phách ngày một dữ hơn. Dần lôi kéo được một số phá phách theo
mình. Trần Công quá khích ăn nói lung tung: “Sống trong vòng K.50 (ý
nói trong doanh trại, bên ngoài có bộ đội gác) nghẹt thở quá!” Những
luận điệu vô kỷ luật này rất phù hợp với chủ trương “phải phá mà ra” của
Trần Dần và mở đường cho bọn Dần càng đi sâu vào cạm bẫy của tư sản.
Hoàng Cầm, Quế Lâm chơi bời lăng nhăng, định bỏ vợ cũ lấy vợ mới, tổ
chức khuyên can nhưng Dần lại gợi ý cho Cầm: “Chỉ có ra bộ đội mới bỏ vợ
được”. Biết Hoàng Tích Linh vốn có tư tưởng địa vị nặng và lâu năm,
Trần Dần khích: “Quân đội chỉ sử dụng, không bồi dưỡng văn nghệ sĩ”.
Luận điệu vu khống này đã đánh trúng sự bất mãn kèn cựa trong Linh. Linh
trở thành một phần tử rất xấu. Trần Dần đưa Mai-a ra làm chiêu bài,
xuyên tạc cuộc đời cách mạng vĩ đại của Mai-a, để tự phỉnh nịnh mình và
lừa bịp người khác. Dần đã vỗ ngực cho mình “Cộng sản hơn Đảng, ra Đảng
để phục vụ Đảng nhiều hơn”. Thực tế 3 năm qua chứng tỏ Dần đã chạy theo
địch đánh lại Đảng quyết liệt. Nhưng những câu “cách mạng đầu lưỡi” ấy,
Phùng Quán đã nuốt ngon lành. Quán ngang nhiên chống lại sự khuyên răn
của tập thể đối với Dần, to tiếng tán thành việc Dần ra Đảng, ra quân
đội. Còn đối với số anh em khác không theo Dần, đấu tranh với những sai
lầm của Dần thì bọn Dần nhìn bằng con mắt hằn thù, cho là “bọn hèn nịnh
hót phản bạn, bị lãnh đạo mua chuộc, sắp được đề bạt, rình cắn lại
Dần!”.
Tử Phác thì khôn ngoan, nham hiểm, đi vào “chiến thuật
tầu bò” (tiếng của Tử Phác), cứ lừ lừ làm mọi việc theo ý mình không cần
lãnh đạo. Thỉnh thoảng lại “dí điện” anh em và đặt chuyện kích Trần Dần
chửi thêm lãnh đạo. Lúc đó, Tử Phác đang làm thư ký toà soạn tờ Sinh
hoạt văn nghệ, Tử Phác đã lợi dụng tờ báo của quân đội để Dần nổ ra hai
cuộc phê bình Vượt Côn Đảo và tập thơ Việt Bắc, với một dụng ý rất xấu.
Trần Dần “bốc” thơ Hoàng Cầm lên để đẩy Cầm cùng mình và Lê Đạt đả tập
thơ Việt Bắc, thông qua tập thơ đó đả vào đồng chí Tố Hữu lãnh đạo văn
nghệ, “hạ thần tượng” như bọn Dần đã nói.
Phải nói thêm rằng lúc
này, bọn phản cách mạng bên ngoài đã đánh hơi thấy đất tốt làm ăn, và
thực tế chúng đã hoạt động. Nguyễn Hữu Đang có mặt trong buổi phê bình
thơ Việt Bắc đầu tiên, không nói câu nào, nhưng sau đó thả mồi nhử Dần
ra bộ đội. Minh Đức “túm” được Tử Phác, in nhạc cho Tử Phác, và Tử Phác
đã chạy xin giấy giới thiệu của Cục cho Minh Đức mua giấy in, nhưng
không được. Trương Tửu viết thư cho Phùng Quán, tung Quán lên mây xanh:
“Vượt Côn Đảo, cuốn sách hay nhất của 10 năm kháng chiến”, Quán tìm tới
Tửu và tôn Tửu làm “bậc thầy” từ đó.
Suốt thời gian này, Trần
Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm và cả Lê Đạt, luôn
luôn bỏ việc đến tụ họp rượu chè trai gái ở nhà tư sản, đầu độc cho nhau
những luận điệu phản động và bàn cách tấn công lãnh đạo trong quân đội.
Hoàng Cầm càng đồi trụy trong lối sống đầy thèm khát thú tính của tư
sản, lối sống rất quen thuộc với Cầm thời trước cách mạng, thì những tư
tưởng quan điểm thù địch càng thấm sâu vào người, và Cầm biến chất rất
nhanh. Bọn họ bàn nhau “tập trung giải ngũ” để bắt bí lãnh đạo. Thấy
không xong, lại bàn “phân tán giải ngũ”. Bọn họ đã thực hiện chủ trương
này. Trần Dần đi tiên phong làm một lúc hai lá đơn xin ra Đảng, quân
đội, có tính chất tấn công vào Đảng, quân đội như ta đã biết.
Chính
những hoạt động chống đối của Trần Dần, Tử Phác và sự hùa theo càng
ngày càng có ý thức của số người kể trên đã gây tình trạng rối loạn hoàn
toàn, một thời gian, trong Phòng Văn nghệ Quân đội, cầm đầu hồi này là
Trần Dần và Tử Phác.
Thời kỳ Nhân văn-Giai phẩm
Nhân
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 và Đảng ta phát hiện sai lầm
Cải cách ruộng đất, Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh nắm
lấy thời cơ hoạt động chống Đảng, chống chế độ một cách quyết liệt và
thâm độc. Hoàng Cầm “trưởng thành” trong tư tưởng và hành động phá hoại
từ Giai phẩm mùa Xuân, lúc này “sạch sẽ” hơn Dần và Phác, nhảy ra giữ
liên hệ giữa nhóm chống đối trước đây trong Văn nghệ Quân đội và nhóm
Giai phẩm mùa Xuân. Còn Trần Dần tuy giấu mặt lúc đầu, nhưng vẫn “nhận
định tình hình” trên cơ sở lý luận phản động “hệ thống Sta-lin” do đài
địch, sách báo địch và bọn phản cách mạng, gián điệp trong nước truyền
đi, để điều quân và chỉ huy chiến thuật, bên cạnh là “mưu sĩ số 2” Tử
Phác (theo nhận định của Dần). Dần “góp ý” để Hoàng Cầm vào thường trực
Nhân văn ngay từ số 1, sau thấy còn yếu lại “góp ý” để Lê Đạt vào thêm.
Dần mặc cả “chiến thuật” với Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo về báo Nhân
văn nên để “bao nhiêu trang cho chính trị, bao nhiêu trang cho văn nghệ,
nên chuyển sang chính trị hay chỉ nên ở lĩnh vực văn nghệ”, làm như Dần
chỉ có chủ trương đấu tranh trong lĩnh vực văn nghệ mà thôi! Sự thực,
bọn Dần đã đồng tình với bọn phản cách mạng như Nguyễn Hữu Đang, với bọn
gián điệp như Thụy An về căn bản rồi mà chỉ khác nhau về cách đánh.
Chính Dần đã thú nhận về mình rằng: “Toàn những luận điệu phỉnh nịnh, hô
hào quần chúng đi vào con đường chống Đảng, gây ra sự biến chính trị.
Nhiều lúc mong có những cuộc biểu tình…” Tử Phác, Hoàng Cầm cũng đã thú
nhận như vậy. Sự ngoặc nhau giữa Cầm và Nguyễn Hữu Đang đã chặt chẽ đến
chỗ có lần Đang nói với Cầm: “Cần lập một nhóm chính trị”, lần khác “Cần
lập một Đảng quần chúng (?)”, lần khác nữa: “Phải lập mặt trận trí thức
(?)”. Đúng hệt luận điệu và chủ trương của Trương Tửu, Trần Đức Thảo
bên đại học. Trong tư tưởng nhiều người trong bọn lúc đó, cũng đều là
sẵn sàng nổi loạn, Phùng Quán, Phan Vũ bị kích động đến mù quáng, đã có ý
nghĩ: “Nếu biểu tình nổ ra, sẽ là những xung kích sẵn sàng cầm cờ đi
đầu chết cho tự do (?)”. Thật là thảm hại! Rõ ràng nhóm Nhân văn là một
tập đoàn chính trị phản động có tổ chức, mục đích và âm mưu chính trị từ
đầu trong đó bọn Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh và số
người kể trên là cái “vốn quý” đầu tiên cho bọn phản cách mạng và tay
sai đế quốc! Cái chiến thuật “võ kín” (jeu serré) của Trần Dần muốn kìm
hoạt động của Nhân văn lại trong phạm vi văn nghệ, chằng qua chỉ là một
thủ đoạn hiểm độc hơn để đánh lạc thực chất vấn đề nhưng cũng không thể
nào che nổi con mắt sáng suốt của nhân dân quần chúng. Trần Dần vẫn
thường vỗ ngực nói mình là “chân thật” nhưng ở đây Trần Dần đã không
“chân thật” bằng Trương Tửu khi Tửu nói lúc bấy giờ: “Sáng tác lỗi thời
rồi, vấn đề lớn đặt ra là vấn đề khác”. Vấn đề khác đây, chúng ta đã
thừa hiểu Tửu định nói vấn đề gì. Trần Dần cũng không “chân thật” bằng
Trần Đức Thảo khi Thảo nhận định ở buổi họp sau Nhân văn số 4: “Tình
hình này cần đẩy mạnh sang chính trị!”. Rõ ràng bọn họ chỉ dùng lĩnh vực
văn nghệ làm chỗ gây men để đánh lan sang các lĩnh vực khác, chỉ dùng
văn nghệ làm một phương tiện để đầu độc quần chúng và kêu gọi biểu tình
chống Đảng, chống Chính phủ, dùng khuynh hướng nghệ thuật này, trường
phái nghệ thuật kia cũng chỉ là ngụy trang cho những tư tưởng và âm mưu
chính trị phản động mà thôi. Bọn họ đã nhằm lúc Đảng gặp nhiều khó khăn
và trên thế giới có nhiều vụ biến, để kích động quần chúng hòng lật đổ
hoặc thay đổi chính phủ theo kiểu tư sản phản động vào dịp khoá họp Quốc
hội cuối 56. Tính chất chính trị phản động ấy của nhóm Nhân văn-Giai
phẩm (trong đó bọn Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh là
những phần tử nguy hiểm và quan trọng), thật không thể chối cãi được.
Tôi
đi vào sự việc cụ thể để nói rõ từng người trong bọn Trần Dần, Hoàng
Cầm, Tử Phác, Hoàng Tích Linh đã tham gia Nhân văn như thế nào.
Trần
Công trên tuần báo Văn nghệ đã viết bài xuyên tạc sự thực để đả kích
vào lãnh đạo trong Phòng Văn nghệ Quân đội và vu khống anh em trong
phòng là “bán thuốc giả” cho bộ đội.
Đó là phát súng đầu tiên
của số người bất mãn chống đối với lãnh đạo trong Văn nghệ Quân đội, từ
sau ngày họ giải ngũ. Rồi tới lớp học 18 ngày, cả bọn đã liên tiếp phản
công vào lãnh đạo trong Văn nghệ Quân đội với một sự hằn học ghê gớm.
(Cần nói luôn: thời kỳ này riêng Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Tích Linh,
Phùng Quán vẫn ăn lương bộ đội, mặc áo bộ đội.) Chuyện Trần Dần giả vờ
cắt cổ để vu vạ cho lãnh đạo như lời Dần đã thú nhận, được xuyên tạc đi,
căm phẫn của một số văn nghệ sĩ lại chĩa nhầm vào Đảng. Trần Dần nhờ đó
được đề cao thành “con người dũng cảm”, một “tử vì đạo” và nhất là sau
cái bài xuyên tạc trắng trợn và hiểm độc “Con người Trần Dần” của Hoàng
Cầm thì Trần Dần được suy tôn thành “con người của thời sự” (l'homme du
jour). Mỗi lời nói, mỗi hành động của bọn họ đều nhằm gây căm phẫn giả
tạo trong quần chúng đối với Đảng. Trần Duy sung sướng tuyên bố: “Ma
haine est partagée!”. (Căm thù của tôi đã được chia sẻ!).
Trên
trại sáng tác Cải cách ruộng đất, Trần Dần và Hoàng Tích Linh cùng hoạt
động ráo riết. Hoàng Tích Linh tung rất nhiều tin bịa đặt đả vào bộ đội
và Cải cách ruộng đất. Linh cấu kết chặt chẽ với Chu Ngọc và Nguyễn Khắc
Dực, hai phần tử xấu trong giới kịch bên Hội Văn nghệ, lúc đó cùng ở
trại sáng tác với Linh, để làm mưa làm gió.
Hoàng Tích Linh đã
kéo Phan Vũ “cái pháo thăng thiên của làng kịch” vào nổ trên tờ Nhân
văn, và vận động anh em viết kịch tập trung vào những đề tài có thể
khoét sâu thêm sai lầm Cải cách ruộng đất và làm cho quần chúng hoài
nghi công tác sửa sai của Đảng. Còn Trần Dần thì đề ra phương châm viết
về Cải cách ruộng đất như sau: “Thứ nhất đánh vào trung ương, thứ nữa
đánh vào cán bộ, thứ nữa mới đánh đến cốt cán”, cứ theo thế mà viết, mà
đánh giá sáng tác về Cải cách ruộng đất!
Tới khi Hoàng Cầm ngoặc
với Nguyễn Hữu Đang quyết định ra báo Nhân văn, cả bọn đồng tình và
tham gia tích cực: đóng tiền, viết bài, chạy nhà in, bán báo, cổ động…
thôi thì từ việc to đến việc nhỏ, làm hết, say mê phấn khởi lạ thường!
Và có đủ mặt “anh tài”:
Hoàng Cầm vào thường trực, phụ trách
về nội dung bài vở, liên lạc với anh em lấy bài, sửa bài cho thêm
“sắc”. Hoàng Cầm là người có sáng kiến mở mục “Ôn cố tri tân” rất ác.
Khi thấy đồng bào và cán bộ miền Nam phẫn nộ đối với Nhân văn, Hoàng Cầm
khôn khéo lôi kéo một số văn nghệ sĩ miền Nam viết bài cho Nhân văn để
lấy đó làm bình phong; tóm lại Hoàng Cầm đã đóng một vai trò rất quan
trọng và “được việc”. Hoàng Tích Linh phụ trách mục kịch của Nhân văn,
viết vở Xem mặt vợ đăng trên Nhân văn, nội dung đả kích tổ chức công
đoàn để bênh vực cho cái lối tự do kết hôn bừa bãi, nhưng Trần Dần vẫn
còn chê là “dát” và “vấn đề hay mà không biết lợi dụng”. Trúc Lâm tuy là
đảng viên nhưng lúc đó đã từ bỏ lập trường Đảng, chạy sang phía địch
mất rồi, Trúc Lâm đã viết bài đả mậu dịch trên Nhân văn và bài thơ “Ngọn
đèn” trên Giai phẩm đả thẳng vào Đảng, ngụ ý cho sự lãnh đạo của Đảng
đang tàn rụi như ngọn đèn sắp tắt. Quế Lâm được phân công phụ trách mục
“Không phải chuyện cười” và đã đi ô-tô của Trần Thịnh về Nam Định nói
loa quảng cáo cho Nhân văn. Việc làm đó của Quế Lâm mới đúng là “không
phải chuyện cười” thật! Trần Công đồng tình cho Lê Đạt mượn tên ký dưới
bài “Chống bè phái trong văn nghệ”. Trần Công và Trần Thịnh đồng tình
cho Nguyễn Hữu Đang mượn tên hai người ký dưới bài “Đã tiến, cần tiến
thêm bước nữa”. Bản thân Trần Công cũng đã viết bài thứ hai “Chống bè
phái trong văn nghệ”. Trần Công lại giới thiệu với Nhân văn, Trần Thịnh,
con một tư sản thầu dây thép gai để đế quốc xây lô-cốt hồi chúng còn ở
miền Bắc. Trần Thịnh và anh Thịnh là Trần Quế cho mượn ô-tô và bỏ tiền
ra “ủng hộ” Nhân văn. Trụ sở Nhân văn chuyển từ nhà Minh Đức sang nhà
Trần Duy, có lần đã chuyển sang nhà Trần Thịnh. Ở nhà Thịnh luôn luôn có
gái, rượu, đài địch mở ngày và đêm. Nguyễn Hữu Đang bầy kế hoạch cho
Trần Công về Xưởng phim Việt Nam - nơi Trần Công công tác - vận động
quần chúng đập ai kéo ai trong bộ phận lãnh đạo. Trần Công đã tỏ ra là
một tay sai đắc lực, hung hăng của bọn cầm đầu Nhân văn. Trần Công tự
phong là đạo diễn, lôi kéo một số anh em điện ảnh ra làm báo Sáng tạo -
đứa em của Nhân văn - bằng tiền của Trần Thịnh. Còn Phùng Quán, hồi này,
không còn phải là một “cái loa”, một “tay sai” tầm thường nữa mà nhờ sự
bồi dưỡng “tận tâm” và “nhiệt tình” của các “bậc thầy” và các “bậc đàn
anh”, Quán đã “tiến bộ” có thể “độc lập tác chiến” được một cách vững
vàng. Quán tiếc không được dự phần quan trọng xứng đáng trong Nhân văn.
Tuy vậy, Quán đã tích cực tuyên truyển cổ động cho Nhân văn, là người
đầu tiên mang Nhân văn về Phòng Văn nghệ Quân đội và Đoàn kịch Tổng cục
Chính trị, hàng ngày đưa về phòng những tin tức luận điệu phản động, lôi
kéo một số ít anh em hoang mang trong phòng theo khuynh hướng Nhân văn,
và thực tế Quán đã lôi kéo được một hai người, điều mà Quán rất tự hào!
Quán càng nổi lên chống đối với lãnh đạo Phòng Văn nghệ Quân đội bao
nhiêu thì Quán lại càng được bọn kia phỉnh nịnh bấy nhiêu. Quán được
tặng biệt hiệu “Cây thông trong Văn nghệ Quân đội”; Quán được Trần Duy
khen: “Phùng Quán hăng hái như một Triệu Tử Long”; Quán được con gián
điệp Thụy An khen: “Anh sôi nổi quá! tuổi già của tôi thấy ghen với tuổi
trẻ của anh!”. Và đúng ý bọn kia nhất khi dùng Quán: “Một khẩu pháo nhỏ
chống lại 30 đại bác Phòng Văn nghệ Quân đội”. Trong khi Quán tự phong
cho mình, chả khác gì Trần Dần trước đây, là “người cộng sản nhất Phòng
Văn nghệ”, là “xã hội không thể thiếu được mình” thì sự thực Quán chỉ đã
là một “con rối” nguy hiểm và thảm hại.
Còn Tử Phác? Phác bầy
mưu tính kế, bàn bạc với Trần Dần những vấn đề “nhận định lực lượng”,
“cách đánh”… như mọi khi Phác thường làm. Đặc biệt lần này, Tử Phác còn
tham gia tích cực, từ việc nhỏ như chữa mo-rát, Phác cũng làm, làm với
tinh thần: “làm được gì cho Nhân văn thì tích cực làm”. Đó là một “tác
phong công tác” mà hầu như không thấy Tử Phác có bao giờ khi Tử Phác còn
trong bộ đội. Ngoài ra Tử Phác còn chọn bài dịch, với dụng ý xấu,
Nguyễn Hữu Đang cắt xén để xuyên tạc thêm, Tử Phác đã đồng tình và cho
là giỏi. Tử Phác còn định làm mục “Điểm các báo” trên tờ Nhân văn để đả
vào đường lối tuyên truyển của Đảng.
Hồi này “được thế”, bọn cầm
đầu thường thường tổ chức tiệc tùng chè chén, bữa ngọt bữa mặn, ăn uống
ngon lành với tiền của Minh Đức và của bọn tư sản phản động, tâng bốc
nhau và chửi bới chế độ, chửi bới lãnh đạo. Có lần bọn họ đã “đùa” chia
“ghế” bộ trưởng, vụ trưởng cho nhau. Tự họ đã phơi trần âm mưu bẩn thỉu
của họ mà trên tờ Nhân văn, họ vẫn che đậy bằng danh từ lừa bịp “vì
trách nhiệm đối với quần chúng (?)”, “vì trăm hoa đua nở”, “vì chống
công thức,đi tìm cái mới”, v.v…
Tóm lại trong thời kỳ này, bọn
Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh đã “say mê” (lời của Hoàng
Cầm) hoạt động, mỗi người mỗi vẻ, tư tưởng thù địch dâng lên ngập đầu
ngập óc, nó trở thành máu thịt của bọn họ, từ cái nhìn, cái nghe, cái
ăn, cái nói, tất cả đều mang một ý thức chống đối, hằn thù với Đảng, với
nhân dân. Vì quyền lợi giai cấp đối địch như Trần Dần, Tử Phác, Hoàng
Tích Linh (con quan lại cũ, vợ buôn lậu và cho vay nợ lãi) hoặc vì thái
độ chính trị đã trở thành đối địch như Hoàng Cầm, Trần Công, Phùng
Quán…, bọn họ đã ngoặc một cách tự giác và chặt chẽ với bọn phản cách
mạng và tư sản phản động để hòng thực hiện âm mưu đen tối của chúng
nhưng nhân dân đã kịp thời vạch mặt và chặn tay chúng lại. Không những
chúng không cải tà quy chính mà còn lợi dụng thái độ khoan hồng của nhân
dân, của Đảng đối với chúng, để tiếp tục hoạt động phá hoại tinh vi và
hiểm độc hơn.
Thời kỳ sau Nhân văn
Nhân văn bị đóng
cửa, Trần Dần với ý thức của một kẻ cầm đầu “gan dạ” nhất bọn, đứng ra
củng cố tinh thần và hàng ngũ bọn Dần bằng luận điệu lừa bịp của Nguyễn
Hữu Đang: “Trung ương rồi sẽ sửa sai”. Với chiến thuật “võ kín”, Dần ít
đi đâu, nhưng những người trong bọn thường tới nhà chịu sự “ban phát tư
tưởng” của Dần. Đặc biệt thời kỳ này, Nguyễn Hữu Đang lại hay tới gặp
Dần hơn thời kỳ trước. Đang và Dần đã bàn bạc, âm mưu gì trong những
cuộc gặp gỡ tay đôi này? Thụy An và tay sai Thụy An cũng đến tìm Dần ở
nhà đôi ba lần. Dần cũng gặp Thảo hai lần, lần sau được Thảo truyền cho
lý luận phản động cho rằng “có hai phe trong Đảng, phe tiến bộ và phe
quan liêu luôn luôn mâu thuẫn và đi đến chỗ tiêu diệt nhau. Cần phải
giúp phe tiến bộ đánh đổ ‘hệ thống quan liêu ấy’ thì đời sống mới thoải
mái được”. Dần nói sau lần gặp Thảo này, Dần “vỡ” ra nhiều trước luận
điệu ấy của Thảo. Sự thực Đảng ta vốn có truyền thống đoàn kết nhất trí
trong kháng chiến cũng như trong hoà bình. Đảng ta có nguyên tắc phê
bình tự phê bình để giải quyết những mâu thuẫn nội bộ. Đảng ta bao giờ
cũng chủ trương chống bệnh quan liêu trong hàng ngũ của Đảng, bao giờ
cũng gắn bó với quyền lợi của quần chúng và đi theo đường lối quần
chúng. Luận điệu trên chỉ là luận điệu của bọn trốt-kít phản động, dựng
lên những mâu thuẫn giả tạo để có thể khoác cái vỏ mác-xít, vỏ tiến bộ
lừa bịp nhân dân để đánh lại Đảng, đánh lại chế độ. Có thể nói trong
thời kỳ này, bọn Dần đã “trau dồi” cho nhau về lý luận phản động với một
“tinh thần học tập” khá sôi nổi. Sách báo phản động ở lò Thụy An, Trần
Đức Thảo tuồn ra càng nhiều. Không đủ, đánh máy thêm, truyền tay cho
nhau đọc và truyền miệng. Phùng Quán là một cái loa đắc lực. Tổ chức học
tập báo phản động Thời đại mới (Temps modernes), Lê Đạt thuyết trình,
có thảo luận hẳn hoi. Chu Ngọc rủ Hoàng Tích Linh đến học “triết lý” của
Trần Đức Thảo. Thảo hứa với Quán sẽ mở một lớp riêng huấn luyện cho bọn
trẻ. Hoàng Tích Linh ở nhà một tư sản, luôn theo dõi đài địch, mỗi lần
thấy báo sắp có buổi phát thanh riêng về Nhân văn, lại đi triệu tập “anh
em” đến nghe. “Anh em” rất phấn khởi khi thấy đài địch đề cao Nhân văn,
đọc bài Nhân văn, và thường khen: “Chúng nó chửi có kỹ thuật lắm”! Chủ
trương của Văn Cao, Trần Dần là “phục xuống sáng tác” đợi thời cơ, “lấy
cái nhỏ đánh cái to” mà “đã viết thì phải lách” nghĩa là nhất thiết phải
luồn được vào sáng tác chất đả kích. Hoàng Tích Linh đọc vở Cơm mới ở
nhà Phan Tại, có Thụy An nghe. Mọi người đều khen “hay”. Bàn nhau dùng
cái thòng lòng tượng trưng cho Cải cách ruộng đất làm hình tượng chính
trên sân khấu. Sau Hoàng Tích Linh có chữa khéo đi ít nhiều để đăng trên
báo Văn, Trần Dần chê là “dát, mất hay đi nhiều!”. Sự thực Linh chẳng
“dát” gì. Trong sáng tác, Linh luồn khéo và độc như rắn. Linh còn biết
bảo đồng loã: “Chúng mày đánh được đấy nhưng còn đánh hở lắm”. Có lần,
Linh đã tự khen công khai: “Tao vừa viết vở kịch hay lắm. Đả thẳng vào
Đảng”. Phùng Quán làm bài thơ “Lời mẹ dặn”. Trần Dần, Văn Cao kéo Quán
đi khao chả cá, Văn Cao khen: “Phùng Quán viết khá, không đánh vào hiện
tượng mà biết đả thẳng vào bản chất”. Những sáng tác kiểu hai mặt như
thể nhan nhản ra đời, không thể kể hết ở đây.
Ít lâu sau, “nhận
định tình hình thấy bế tắc”, bọn họ đối phó bằng chủ trương: “Chuyển
nhanh sang tô hồng. Làm ngay đi!” Không phải bọn họ có ý định tốt đẹp gì
mà thực ra để gây lại một phần tín nhiệm trong quần chúng, bọn họ thấy
cần phải “thay đổi phương pháp hoạt động để giữ đất làm ăn”. Tuy vậy, ý
thức tư tưởng phản động đã ngấm sâu vào đầu óc, bọn họ không thể viết
cái gì mà không xen vào một hai câu đả chế độ, đả nhân dân. Như khi
Hoàng Tích Linh viết vở kịch Hạt giống cố tình viết “tô hồng” rồi mà sau
cùng Linh vẫn phải “gài” một câu đả kích ở đoạn kết mới yên tâm. Chính
Linh đã nói ra miệng như vậy.
Không phải bọn Trần Dần chỉ lũng
loạn về mặt tư tưởng và sáng tác, bọn họ đã lũng đoạn rất nhiều về mặt
tổ chức, kéo bè kéo cánh, nắm cơ sở trong các hội văn học nghệ thuật như
Hoàng Cầm ở nhà xuất bản Hội Nhà văn, Trần Dần ở Ban nghiên cứu sáng
tác, Tử Phác ở Hội Nhạc sĩ và trên tờ Tập san Âm nhạc; tuần báo Văn bị
lũng đoạn như thế nào, v.v… nhiều bài đã nói tới rồi, tôi không nhắc lại
ở đây. Đặc biệt tôi nói tới âm mưu tấn công vào Đoàn kịch nói Tổng cục
Chính trị của họ.
“Thời kỳ sóng gió đã qua rồi”, Hoàng Tích Linh
lại nghĩ đến chuyện “làm ăn”. Linh, trong bụng thèm địa vị, muốn trở về
bộ đội làm đoàn trưởng đoàn kịch nói nhưng vừa ngại “anh em” vừa ngại
phải tuân theo điều lệnh của bộ đội. Linh tìm đến hỏi ý kiến “tiên chỉ”
Văn Cao. Văn Cao bảo: “Cứ về mà nắm lấy đoàn kịch làm công cụ biểu
diễn”. Linh và bọn Linh bắt đầu hoạt động theo hướng đó. Gặp các đồng
chí diễn viên, Linh tìm cách đề cao mình: “Mình về đoàn mình sẽ tổ chức
cho các cậu học văn học và lập hội đồng chuyên môn, không tiền đồ các
cậu bi lắm”, đồng thời hạ uy tín cán bộ phụ trách đoàn: “Chúng nó không
thể làm chuyên môn được, không có máu đạo diễn, đạo diễn một vở thì uy
tín sụp ngay”. Linh phỉnh nịnh diễn viên một cách khá trắng trợn và khôi
hài: “Tớ rất mến các cậu!”; “Phải mạnh tay viết, không cần học chính
trị thì tác phẩm mới hay được. Tớ về đoàn, sẽ để các cậu tự do thoải
mái”. Nhưng quân đội đã nhìn rõ âm mưu đen tối của bọn Linh, chặn không
cho Linh chui được vào đoàn và trả lại Linh vở Cơm mới mà Linh định mập
mờ đưa vào cho đoàn diễn. Linh đành phải xin giải ngũ. Hằn học, bọn Linh
quay sang đả liên tiếp vào cán bộ phụ trách đoàn, chia rẽ diễn viên với
lãnh đạo: “Chúng nó dùng diễn viên như con rối, con cờ. Chúng nó chỉ
muốn leo lên, thiết gì đến chúng mày!”, rồi đưa ra cái lối “lập nhóm
sáng tác, đạo diễn” để kều một số đạo diễn và diễn viên khá ra ngoài:
“Tao khuyên mày nên ra bộ đội. Tường dày bốn phía thế này, sáng tác thế
nào được!” hoặc “Cậu ra ngoài làm kịch tư, rích tiền!” hoặc đem kịch bản
của một số anh em Văn nghệ Quân đội sang cho đoàn kịch điện ảnh tập rồi
tung dư luận cho là lãnh đạo bên quân đội là hẹp hòi, thành kiến. Bọn
Linh đánh vào chỗ yếu của một số người muốn sống cái kiểu tự do bừa bãi,
kiêu ngạo tự cho mình có thể làm lớn không cần sự giáo dục của Đảng,
thực ra đi theo con đường của bọn Linh chỉ có thể đến chỗ bế tắc sa đoạ.
Đối với nữ diễn viên, bọn Linh thường lợi dụng chỗ sinh hoạt lúc này
còn khó khăn trong hoàn cảnh chị em có con nhỏ để làm cho chị em phải
suy nghĩ thắc mắc về tương lai, không yên tâm phục vụ trong bộ đội.
Những luận điệu đó của bọn Linh không phải đã không ảnh hưởng phần nào
tới sự lãnh đạo của Đoàn Kịch nói, lan cả sang Đoàn Ca vũ và tư tưởng
của anh chị em diễn viên. Một số giao động đòi giải ngũ, một số ít theo
luận điệu “phải bất khuất, phải vùng lên” đã không muốn lãnh đạo tham
gia góp ý vào chuyên môn, chỉ thích làm những cái lớn, nặng về kỹ thuật,
coi nhẹ nội dung tư tưởng của sáng tác và yêu cầu trước mắt của bộ đội.
Có người đã nói rất văn vẻ nhưng cũng rất sai lầm là: “Ở bộ đội như
chim ở lồng, phải bay ra khỏi lồng để hót những tiếng hót tự nhiên”.
Quân đội ta có kỷ luật, có tổ chức chặt chẽ, không thể dung thứ cái kiểu
“tự do thoải mái” thoát ly lãnh đạo ấy được. Muốn thoát khỏi bộ đội để
đi vào cái kiểu “tự do thoải mái” của bọn Linh thì chỉ có thể rơi vào
cái lồng của tư sản, hót những tiếng hót ca ngợi tư sản, chống đối lại
nhân dân như bọn Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh đã làm và
như chúng ta đã thấy! Một cái gương tầy liếp là con đường Phùng Quán đã
đi sau khi giải ngũ với lời hứa hẹn của Hoàng Cầm: “Cứ ra bộ đội, tao
in sách cho mà sống!”.
Hãy nghe Hoàng Tích Linh nói tâm sự của
Linh. Linh nói rằng Linh với quần chúng không thể nào hoà hợp được, ra
phố thấy nhân dân tươi cười như trong ngày bầu cử Hội đồng Nhân dân
thành phố Hà Nội, thì Linh thấy buồn. Cái “buồn” của Linh, không phải
chỉ mình Linh thấy đâu. Cả bọn Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, cả bọn Nhân
văn-Giai phẩm đều “buồn” như thế trước chế độ ngày một tốt đẹp hơn của
chúng ta mà những lời nói hành động phá hoại của bọn họ dù có điên cuồng
thâm hiểm tráo trở đến chừng nào cũng không thể bôi đen hoặc thay đổi
được. Bọn họ càng sa đoạ về tư tưởng, về chính trị, càng tự thấy đời
sống của họ “ảm đạm tối tăm quằn quại, không lối thoát”. Chắc chắn, bọn
họ sẽ dìm mình xuống vực thẳm, nếu họ không muốn vươn tới ánh sáng của
chế độ ta. Bàn tay chuyên chính của vô sản quyết không để cho họ thực
hiện những ý muốn phản động của họ hòng cản trở bước đường tiến lên xã
hội chủ nghĩa của chúng ta ở miền Bắc. Bao kế hoạch “giải toả” kiểu Trần
Dần, Văn Cao, bao “mưu mẹo” trá hàng của mưu sĩ số 2 Tử Phác và của mưu
sĩ số 1 Đặng Đình Hưng cũng không thể củng cố tinh thần cho bọn họ. Bọn
họ muốn có “một cuộc biểu tình, một cuộc nổi loạn để giải thoát cho
mình”, nhưng không bao giờ có một cuộc biểu tình theo ý muốn họ được. Đó
là một điều chắc chắn. Nhân dân và bộ đội chúng ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã đổ biết bao xương máu trong kháng chiến, bao mồ hôi trong kiến
thiết hoà bình để xây dựng một chế độ tươi đẹp như thế này, không bao
giờ lại để cho bọn họ phản bội lật đổ đi được. Tất nhiên họ chỉ có một
con đường giải thoát cái tâm trạng tối đen của họ là lao mình vào rượu
chè, thuốc sái, đĩ bợm. Hoàng Tích Linh rủ anh em về quê Linh hút thuốc
phiện. Tử Phác vác bàn đèn về nhà. Trần Dần bảo: “Không còn đất sống”.
Đúng, chế độ ta không thừa đất để nuôi những con người phản dân phản
nước mà ngoan cố không chịu cải tạo. Lê Đạt nói: “Chỗ nào sống tốt, chỗ
ấy là Tổ quốc”. Chúng ta không lấy làm ngạc nhiên, bởi vì con đường tất
nhiên bọn họ đi tới là như thế. Những người đã chống đối với chế độ,
chống đối với nhân dân, cũng không thể có Tổ quốc được. Cái “mới, mới,
mới”, cái “bay cho cao, bay cho xa”, cái “hãy đi mãi” rốt cuộc cũng chỉ
là như thế đó: mất hết phẩm chất con người, sẵn sàng làm tay sai cho bọn
đế quốc tư sản phản động!
*
Một đồng chí văn
nghệ sĩ Nam Bộ đã kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện sau đây. Một
hôm, bọn Mỹ-Diệm đem báo Nhân văn ra dán ở một đầu phố Sài Gòn nhằm dụng
ý để cho đồng bào miền Nam đọc, “biết tình hình Việt cộng ở miền Bắc
đen tối như thế nào!”. Một chị đứng đọc hồi lâu rồi không giữ nổi căm
giận, chị giơ tay xé tan tờ Nhân văn trước mặt chị. Một phát súng của
một tên lính Mỹ-Diệm lập tức xuyên qua lưng chị, và chị đã gục xuống.
Máu từ ngực chị đã thấm đỏ những trang báo Nhân văn. Đồng chí kể xong,
nói: “Tội ác ấy, đồng bào miền Nam không bao giờ quên được!”.
Bộ
đội chúng ta cũng không thể quên được rằng máu nhân dân và bộ đội chúng
ta đã đổ ở Quỳnh Lưu, máu nhân dân và những chiến sĩ cộng sản đã đổ ở
Hung-ga-ri, vào giữa thời kỳ nhóm Nhân văn-Giai phẩm đang tung hoành ở
Hà Nội.
Suốt 3 năm qua, tội lỗi của nhóm phá hoại Nhân văn-Giai
phẩm, trong đó bọn Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh đã đóng
một vai trò chủ chốt, thật là lớn đối với Đảng, đối với chế độ, đối với
nhân dân, đối với Tổ quốc, không thể tha thứ được. Bộ đội chúng ta rất
căm phẫn, nhất là đối với số người trước đây đã ở trong bộ đội, thời
gian qua lợi dụng cái vốn kháng chiến, cái áo bộ đội để quay trở lại
đánh vào hàng ngũ chúng ta và làm những việc hại dân hại nước.
Bộ đội chúng ta muốn nói với họ rằng:
Họ không thể lợi dụng chính sách khoan hồng của Đảng được nữa.
Họ không thể lừa dối nhân dân, bộ đội được nữa.
Trước mặt họ, chỉ có một con đường:
Đầu hàng thực bụng, ăn năn hối lỗi, quyết tâm cải tạo từ đầu, theo con đường cách mạng, con đường của Đảng.
Quyết không thể có con đường thứ hai được!
4-58
Nguồn: Văn nghệ Quân đội, số 5 (tháng 5-1958), tr. 63-69.
No comments:
Post a Comment