HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Tuesday 17 September 2013

. THẢO LUẬN VỀ THƠ VIỆT BẮC I



6. THẢO LUẬN VỀ THƠ VIỆT BẮC I
Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc
Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (1/15)



TÀI LIỆU NÀY RẤT DÀY, CHÚNG TÔI CHỈ LẤY MỘT IT. NẾU QUÝ VỊ MUỐN ĐỌC THÊM, XIN XEM TALAWAS, GỒM 15 TẬP hoặc tại Sơn Trung Thư Trang
LẠI NGUYÊN ÂN * TƯ LIỆU THẢO LUẬN THƠ VIỆT BẮC



1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

Mục lục

1. Lời dẫn
2. Phác qua những nét của tiến trình thảo luận và tranh luận
3. Xuân Trường - Vài ý nghĩ khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
4. Xuân Diệu - Ðọc tập thơ Việt Bắc
5. A.T - Hai cuộc thảo luận về Việt Bắc và Vượt Côn Ðảo
6. Hoàng Yến - Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?
7. Hoàng Yến - Ðọc thơ Việt Bắc của Tố Hữu
8. Minh Tranh - Tình yêu trong tập thơ Việt Bắc
9. Tin ngắn Văn nghệ: Cuộc họp thứ nhất thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu tại trụ sở Hội Văn nghệ Việt Nam
10. Vũ Ðức Phúc - Hoàng Yến chưa nắm vững vấn đề hiện thực
11. Hoàng Cầm - Tập thơ Việt Bắc ít chất sống thực tế
12. Tin văn hóa: Hai cuộc nói chuyện văn nghệ
13. Cuộc hội nghị phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu lần thứ hai sôi nổi và tiến bộ rõ rệt
14. Cuộc họp thứ ba thảo luận tập thơ Việt Bắc
15. Tin văn hóa: Các cuộc họp phê bình tập thơ Việt Bắc
16. Hiện Thực - Sổ tay văn nghệ (trích)
17. Lê Ðạt - Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu
18. Vũ Ðức Phúc - Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu
19. Nhân Hồng - Chúng ta tiếp thu di sản của nhà thơ Xô viết vĩ đại như thế nào?
20. Phan Cự Ðệ - Ðọc tập Việt Bắc: Tình cảm chưa theo kịp ý thức con người
21. Nguyễn Văn Phú - Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc
22. Hoài Việt - Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm
23. Lê Ðạt - Học tập Maiakovski, phát huy sức sống mới của thi ca Việt Nam
24. Lê Quang Thành - Góp ý kiến thảo luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
25. Nguyễn Viết Lãm - Tư tưởng và tình cảm trong tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?
26. Nhân Hồng - Vấn đề phê bình văn nghệ ở Liên Xô
27. Thẩm Lăng - Việt Bắc và Tố Hữu
28. Tin văn hóa: Hưởng ứng phong trào phê bình văn học của báo Văn nghệ
29. Hiện Thực - Sổ tay Văn nghệ (trích)
30. Hoàng Cầm - Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc
31. Ðông Hoài - Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc
32. Chu Dương (Trung Quốc) - Vài ý kiến về phê bình văn nghệ (trích dịch)
33. Vài ý kiến về phê bình văn học
34. Nguyễn Viết Lãm - Ðặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu
35. Bạn đọc góp ý kiến (Lê Bá Súy - Ngô Linh Ngọc - Ðức Minh - Lê Bạch Sơn)
36. Thư bạn đọc (Vũ Ðức Phúc)
37. Nguyễn Viết Lãm - Những nhược điểm của tập thơ Việt Bắc
38. Trần Ðộ - Vài cảm tưởng của một độc giả thông thường
39. Bạn đọc góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc (Nguyễn Văn Sáng - Xuân Sách)
40. Ý kiến của các bạn văn nghệ (Trương Chính)
41. Vũ Ðình Liên - Mối tình dân tộc trong tập thơ Việt Bắc
42. Hoài Thanh - Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ Việt Bắc
43. Tú Mỡ - Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
44. Nguyễn Ðình Thi - Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng
45. Nguyễn Ðình Thi - Lập trường giai cấp và đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn
46. Nguyễn Ðình Thi - Nhà thơ lớn lên với thời đại
47. Trọng Anh - Ðồng bào miền Nam với thơ Tố Hữu
48. Hoàng Trung Thông - Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc

49. Phụ lục: tập thơ Việt Bắc
Cá nước
Phá đường
Bà mẹ Việt Bắc
Giữa thành phố trụi
Lên Tây Bắc
Bao giờ hết giặc
Bầm ơi
Lượm
Em bé Triều Tiên
Bắn
Voi
Ðợi anh về
Bài ca của người du kích
Cho đời tự do
A-liêu-sa nhớ chăng
Hành khúc
Nếu thầy mẹ chết
Bài ca Tháng Mười
Ðời đời nhớ ông
Sáng tháng Năm
Hoan hô chiến sĩ điện Biên
Ta đi tới
Việt Bắc
Lại về



*


Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin
43 Lò Ðúc - Hà Nội

Chịu trách nhiệm xuất bản: Bùi Việt Bắc
Chịu trách nhiệm bản thảo: Phạm Ngọc Luật
Biên tập: Thái Hà
Sửa bản in: Vân Trang
Trình bày: Ðắc Huy
Vẽ bìa: Lưu Chí Cương
Chế bản: Ðông Tây

Thực hiện liên kết xuất bản: Nhà Sách Ðông Tây
62 Nguyễn Chí Thanh
Tel & Fax: (04) 7733041
Email: sach32bt@hn.vnn.vn
Website: www.nhasachdongtay.com.vn

In 800 cuốn khổ 13x19 cm tại Xưởng in Tháng tám.
Số đăng ký KHXB số 1881-XB-QLXB/20-VHTT ngày 24/12/2004. In xong và nộp lưu chiểu quý I năm 2005.


*


1. Lời dẫn

Cuốn sách mà bạn đọc đang cầm trên tay là một tập hợp những tư liệu thông tin bài vở thảo luận và tranh luận về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, ngay sau khi tác phẩm này lần đầu in thành sách riêng và phát hành rộng rãi khắp miền bắc Việt Nam khi đó, tức là từ tháng 12.1954.

Người soạn tập tư liệu này vốn không phải là - và cũng không có tham vọng trở thành - một chuyên gia về Tố Hữu, dù chỉ về phần sáng tác thơ hay là về toàn bộ các thể loại tác phẩm của tác gia ấy. Sưu tập này được thực hiện chỉ vì người soạn thấy rằng tiến trình thảo luận và tranh luận xung quanh tập thơ Việt Bắc hồi nửa đầu năm 1955 trên báo chí ở Hà Nội, trong giới văn nghệ và cả trong một bộ phận công chúng nữa, - là một sự kiện văn học sử không thể bỏ qua.

Các tư liệu rút từ báo chí đương thời mà tôi đã tập hợp từ cách nay vài chục năm, ban đầu chỉ như một hồ sơ tư liệu để dùng riêng, càng về sau càng trở thành loại tư liệu tương đối khó tìm. Bởi vậy, gần đây nhân xem lại tập tư liệu này, tôi đã dành thời gian bổ sung, hoàn chỉnh và đưa in làm tài liệu dùng chung cho các đồng nghiệp nghiên cứu và những bạn đọc có quan tâm.

Có đồng nghiệp khuyên nên viết một chuyên luận hoặc ít ra là một bài dăm ba chục trang in cùng với sưu tập này, bảo rằng làm thế mới bõ công sưu tập. Ngưòi soạn đã toan làm theo, chợt nghĩ chính bài viết đó có thể sẽ khiến người ta ngờ các tài liệu tập hợp in vào đây đã bị dàn dựng theo một ý đồ "định hướng" nào đấy, - điều mà người soạn hoàn toàn không có chủ định. Vậy thì xin gác bài viết ấy lại. Tập sách này chỉ làm nhiệm vụ cung cấp tư liệu mà thôi.

Khi tập hợp in vào sách này, các tư liệu được xếp theo trật tự thời gian chúng xuất hiện trên báo chí đương thời. Người soạn chú trọng giữ lại diện mạo đương thời của các tư liệu nên đã cho in đúng theo văn bản đăng báo, không sửa lại theo những văn bản được các tác giả của chúng nhuận chính và sắp xếp lại, đưa in trong các cuốn sách về sau.

Cũng nhằm giúp bạn đọc sách này hình dung những đường nét của sự kiện văn học sử đã lùi xa càng rõ, càng cụ thể bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu, người soạn đã sưu tầm đưa in vào phụ lục sách này toàn bộ tập thơ Việt Bắc theo đúng dạng thức văn bản in sách lần đầu của tác phẩm này, tức là với đúng những văn bản các câu thơ bài thơ mà những người đương thời đã đọc, từ đó đã có những nhận xét, những ý kiến, rồi viết thành những bài nhận xét có kèm theo những trích dẫn mà báo chí đương thời đã đăng tải, - và cả hai thứ nói trên đều là đối tượng tập hợp của sưu tập tư liệu này. Sự sửa chữa, nhuận sắc vào các bài thơ trong mỗi lần in lại về sau là thuộc thẩm quyền nhà thơ tác giả; còn ở sưu tập này điều cần thiết lại là giữ lại diện mạo các bài thơ ở lát cắt thời gian văn học sử xác định ấy.

Chuẩn bị ra sách vào thời điểm này, một việc nữa người soạn lẽ ra cần làm là liên hệ xin phép các tác giả những bài viết và tác phẩm được đưa vào sưu tập này. Tuy vậy sau 50 năm, việc liên lạc với tất cả các tác giả là điều rất khó thực hiện. Người soạn tin rằng các tác giả từng can dự sự kiện văn học đã lùi xa 50 năm nay không phản đối công việc có tính chất thuần tư liệu của tôi ở đây.

Với tất cả nỗ lực và sự nghiêm túc của một người làm tư liệu, hy vọng tập sách này sẽ có ích. Người soạn rất mong nhận được sự chỉ bảo và bổ sung của đồng nghiệp và bạn đọc gần xa.

Hà Nội, tháng Tám 2004

Lại Nguyên Ân


2. Phác qua những nét của tiến trình thảo luận và tranh luận

30.11.1954 Sách Việt Bắc (106 trang khổ 11 x 16 cm), tập thơ của Tố Hữu, in xong tại nhà in Xuân Thu, 89 Ðại lộ Nguyễn Thái Học, Hà Nội.
08.12.1954 Sách Việt Bắc được xuất bản.
15.12.1954 Sách Việt Bắc được nộp lưu chiểu tại Thư viện Quốc gia.
21.01.1955 Báo Nhân dân số Tết Ất Mùi đăng bài của Xuân Trường: “Vài ý nghĩ sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”.
15.02.1955 Báo Văn nghệ số 63 đăng (kỳ 1) bài phê bình của Xuân Diệu: “Ðọc tập thơ Việt Bắc".
28.02.1955 Báo Văn nghệ số 64 đăng tiếp (kỳ 2, hết) bài phê bình của Xuân Diệu.
04.03.1955 Mạn đàm về tập thơ Việt Bắc do Phòng Văn nghệ quân đội tổ chức.
11.03.1955 Báo Văn nghệ số 65 công bố mở một "tự do diễn đàn" thảo luận về tập thơ Việt Bắc, mở đầu bằng việc đăng bài của Hoàng Yến: “Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?” Và đăng tin do A.T. viết: “Hai cuộc thảo luận về tập Việt Bắc và Vượt Côn Ðảo".
23.03.1955 Báo Văn nghệ số 66 đăng bài của Minh Tranh: “Tình yêu trong tập thơ Việt Bắc".
31.03.1955 Cuộc họp thảo luận thứ nhất về tập thơ Việt Bắc do Ban Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức tại trụ sở của hội.
01.04.1955 Báo Văn nghệ số 67 trong đề mục "Tranh luận về tập thơ Việt Bắc" đăng bài của Vũ Ðức Phúc: “Hoàng Yến chưa nắm vững vấn đề hiện thực”; bài của Hoàng Cầm: “Tập thơ Việt Bắc ít chất sống thực tế”.
03.04.1955 Báo Nhân dân đăng tin về cuộc họp thứ nhất (31.3.1955) thảo luận về tập thơ Việt Bắc ở Hội Văn nghệ Việt Nam; bài của Hoàng Yến: “Ðọc thơ Việt Bắc của Tố Hữu” (kỳ 1).
04.04.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp bài của Hoàng Yến (kỳ 2).
05.04.1955 Xuân Diệu nói chuyện với sinh viên về "Ðịch và ta trong thơ Tố Hữu"; báo Nhân dân đăng tiếp bài của Hoàng Yến (kỳ 3, hết).
07.04.1955 Cuộc họp thảo luận thứ hai về tập thơ Việt Bắc do Ban Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức.
08.04.1955 Tuần báo Nói thật số 4 đăng bài: “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu có thiếu chất sống thực tế không?”
10.04.1955 Báo Nhân dân đăng bài: “Ðẩy mạnh phong trào phê bình văn nghệ”.
11.04.1955 Báo Nhân dân đăng tin và tường thuật cuộc họp phê bình tập thơ Việt Bắc ở Hội Văn nghệ Việt Nam tối 7.4.1955.
11.04.1955 Báo Văn nghệ số 68 trong mục "Tranh luận về tập thơ Việt Bắc" đăng bài của Vũ Ðức Phúc: “Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu”; bài của Lê Ðạt: “Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu”; ký giả Hiện Thực (?) trong mục "Sổ tay văn nghệ" chấn chỉnh một câu trong một bài thảo luận về tập thơ Việt Bắc; đưa tin Xuân Diệu nói chuyện về thơ Tố Hữu cho sinh viên.
14.04.1955 Cuộc họp thảo luận thứ ba về tập thơ Việt Bắc do Ban Văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam tổ chức.
14.04.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Nhân Hồng: “Chúng ta tiếp thu di sản của nhà thơ Xô viết vĩ đại như thế nào?”
15.04.1955 Sách Việt Bắc in lần thứ hai, in xong tại nhà in Xuân Thu.
17.04.1955 Báo Nhân dân đưa tin cuộc họp thảo luận thứ ba về tập thơ Việt Bắc tại Hội Văn nghệ Việt Nam.
20.04.1955 Báo Tổ quốc số 9 đăng bài của Phan Cự Ðệ: “Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu: Tình cảm chưa theo kịp ý thức con người.”
21.04.1955 Báo Văn nghệ số 69 trong mục "Tranh luận về tập thơ Việt Bắc" đăng: bài của Nguyễn Văn Phú: “Vài điểm non yếu trong nghệ thuật tập thơ Việt Bắc"; bài của Hoài Việt: “Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm”; tin các cuộc họp phê bình tập thơ Việt Bắc các tối 7.4 và 14.4.1955; bài của Lê Ðạt: “Học tập Maiakovski, phát huy sức sống mới của thi ca Việt Nam” (kỳ 1).
21.04.1955 Báo Nhân dân trong mục "Phê bình văn nghệ" đăng bài của Lê Quang Thành: “Góp ý kiến thảo luận về tập thơ Việt Bắc" của Tố Hữu (kỳ 1).
22.04.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp (kỳ 2, hết) bài trên của Lê Quang Thành.
23.04.1955 Báo Ðộc lập số 96 đăng bài của Nguyễn Viết Lãm: “Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc: Tư tưởng và tình cảm trong tập thơ Việt Bắc có hiện thực không?”
27.04.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Nhân Hồng: “Vấn đề phê bình văn nghệ ở Liên Xô” (kỳ 1).
28.04.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp bài trên của Nhân Hồng (kỳ 2, hết).
30.04.1955 Báo Ðộc lập số 97 đăng bài của Thẩm Lăng: "Việt Bắc và Tố Hữu”.
01.5.1955 Báo Văn nghệ số 70 đăng bài của Hoàng Cầm: “Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ Việt Bắc"; bài của Lê Ðạt: “Học tập Maiakovski, phát huy sức sống mới của thi ca Việt Nam” (kỳ 2, hết); bài của Ðông Hoài: “Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc"; ký giả Hiện Thực (?) trong mục "Sổ tay văn nghệ" nêu ý kiến uốn nắn sự sùng bái hình thức thơ leo thang; tòa soạn trích dịch ý kiến Chu Dương (Trung Quốc) về phê bình văn nghệ.
05.5.1955 Sách Việt Bắc (in lần thứ hai) nộp lưu chiểu.
05.5.1955 Báo Nhân dân trong mục “Ý kiến bạn đọc” đăng ý kiến phản ứng với một số nhận xét trong cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc.
07.5.1955 Báo Ðộc lập số 98 đăng bài của Nguyễn Viết Lãm: “Ðặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu”.
08.5.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Hồng Giao: “Cuộc phê phán tư tưởng Hồ Thích ở Trung Quốc”.
10.5.1955 Báo Văn nghệ số 71 trong đề mục "Chung quanh tập thơ Việt Bắc" đăng các ý kiến của Lê Bá Súy, Ngô Linh Ngọc, Ðức Minh, Lê Bạch Sơn trong bài Bạn đọc góp ý kiến; ý kiến của Vũ Ðức Phúc: Thư bạn đọc; tòa soạn đăng trích dịch xã luận tạp chí Người cộng sản (Liên Xô) về phê bình văn học.
14.5.1955 Báo Ðộc lập số 99 đăng bài của Nguyễn Viết Lãm: “Những nhược điểm của tập thơ Việt Bắc".
21.5.1955 Báo Văn nghệ số 72 trong đề mục "Chung quanh tập thơ Việt Bắc" đăng: bài của Trần Ðộ: “Vài cảm tưởng của một độc giả thông thường”; bài Bạn đọc góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc với các ý kiến của Nguyễn Văn Sáng, Xuân Sách.
01.06.1955 Báo Văn nghệ số 73 trong mục "Chung quanh tập thơ Việt Bắc" đăng: ý kiến Trương Chính trong mục "Ý kiến các bạn văn nghệ".
04.06.1955 Báo Nhân dân đăng tin Tòa soạn báo Văn nghệ tự phê bình về mục chữ và nghĩa đã được bạn đọc báo Nhân dân (5.5.1955) góp ý.
05.06.1955 Báo Tổ quốc số 12 đăng bài của Vũ Ðình Liên: “Mối tình dân tộc trong tập thơ Việt Bắc" của Tố Hữu.
10.06.1955 Báo Văn nghệ số 74 đăng bài của Hoài Thanh: “Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ Việt Bắc".
20.06.1955 Báo Văn nghệ số 75 đăng bài của Tú Mỡ: “Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”.
03.07.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Ngô Ðiền: “Nhân dân Trung Quốc vạch mặt và đòi trừng trị tên phản cách mạng Hồ Phong”.
05.07.1955 Báo Tổ quốc số 14 khởi đăng bài của Ðăng Thai Mai: “Hồ Thích, từ tư tưởng mại bản đến chỗ phản quốc” (đăng liền 3 kỳ, đến số 16, ngày 5.8).
14.07.1955 Báo Văn nghệ số 77 đăng bài của Nguyễn Ðình Thi: “Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng”.
21.07.1955 Báo Văn nghệ số 78 đăng bài của Nguyễn Ðình Thi: “Lập trường giai cấp và đảng tính. Vấn đề hiện thực và lãng mạn”.
28.07.1955 Báo Văn nghệ số 79 đăng bài của Nguyễn Ðình Thi: “Nhà thơ lớn lên với thời đại”.
07.08.1955 Báo Nhân dân đăng bài của Trọng Anh: “Ðồng bào miền Nam với thơ Tố Hữu”.
11.08.1955 Báo Văn nghệ số 81 đăng bài của Hoàng Trung Thông: “Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc".
11.08.1955 Báo Nhân dân đăng kỳ 1 bài trên của Hoàng Trung Thông.
12.08.1955 Báo Nhân dân đăng tiếp (kỳ 2, hết) bài trên của Hoàng Trung Thông.
20.09.1955 Báo Tổ quốc số 19 đăng bài của Ðặng Thai Mai: “Thanh trừ tư tưởng Hồ Phong và tập đoàn phản động của y”.
15.03.1956 Báo Văn nghệ số 112 đăng thông cáo của Ban Gíám khảo và Kết quả Giải thưởng văn học của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 về Giải thưởng thơ: Giải Nhất: Việt Bắc, tập thơ của Tố Hữu.


*


3. Xuân Trường
Vài ý nghĩ sau khi đọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Trong thời kỳ cách mạng chưa thành công, chế độ thực dân còn chà đạp lên đời sống của nhân dân ta, bóp nghẹt tâm hồn của chúng ta, thơ Tố Hữu đã có tác dụng làm ấm lòng người đọc, bồi dưỡng lòng yêu Tổ quốc của quần chúng, khuyến khích người cán bộ nằm trong nhà tù giữ vững lòng tin đối với tiền đồ vẻ vang của dân tộc. Tập thơ Việt Bắc chủ yếu gồm những bài thơ sáng tác trong thời kỳ kháng chiến từ sau thu đông thắng lợi 1947, những bài thơ đã làm ấm lòng của chúng ta; và một số bài thơ sáng tác sau khi hòa bình thắng lợi những bài thơ này cũng đã có tác dụng giáo dục, cổ vũ cán bộ và nhân dân. Tập thơ Việt Bắc vừa mới ra chưa được 2 tháng, con số phát hành đã lên gần 3 vạn quyển. Chưa có một quyển sách nào phát hành nhiều như thế trong một thời gian ngắn.

Ở đây tôi không giới thiệu toàn quyển và đi sâu vào tập thơ Việt Bắc. Tôi chỉ trình bày một vài ý nghĩ đầu tiên khi đọc lại những bài thơ trong tập thơ này.

Có thể nói chủ đề bao trùm tập thơ Việt Bắc là tinh thần thiết tha yêu nước, chí khí phấn đấu kiên quyết bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần đó là Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, linh hồn của kháng chiến và anh bộ đội anh dũng, thân mến, nổi nhất trong tập thơ Việt Bắc. Tố Hữu đã để cả tâm hồn, tất cả tình cảm đằm thắm nhất của mình để diễn tả những hình ảnh yêu kính và quý mến nhất ấy của thời đại chúng ta.

Ðối với anh bộ đội, chỉ "gần nhau là thân thiết", chỉ "một thoáng lặng nhìn nhau" là "âm thầm thương mến". Trong đời sống bình dị của người nông dân Việt Nam có phút nào yêu nhau say sưa bằng chia cho nhau điếu thuốc lào:

Trưa nay trên đèo cao
Ta say sưa vài phút!
Chia nhau điếu thuốc lào
Nào anh hút tôi hút
Rồi lát nữa chia đôi
Anh về xuôi tôi ngược
Lòng anh và lòng tôi
Mang nặng tình cá nước

Tố Hữu thông cảm với anh bộ đội không phải chỉ qua bộ quần áo nâu. Tố Hữu thông cảm qua sức lao động của con người.

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!

Tố Hữu đã từng mặc áo bộ đội, vai nặng ba lô, chân đạp rừng gai đá sắc, trèo đèo lội suối, cùng ăn cơm vắt thấm nước, dãi gió nằm sương với anh bộ đội. Nên Tố Hữu là nhà thơ thông cảm mãnh liệt đối với sức lao động ấy một khi nó dốc ra mặt trận đánh đổ quân thù. Xúc động biết bao khi đọc những đoạn thơ Tố Hữu để tình cảm của mình rung lên những nhạc điệu, những ý thơ hùng dũng:

Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Ðầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm
khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt

Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn
Những đồng chí thân chôn làm giá súng
Ðầu bịt lỗ chân mai
Băng mình qua núi thép gai
ào ào vũ bão
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện

Trong tập thơ Việt Bắc ngoài hình ảnh anh bộ đội, những hình ảnh bà mẹ, em thiếu nhi, chị phụ nữ cũng nổi lên đầy tình mến thương của nhà thơ. Nhưng Tố Hữu tha thiết yêu anh bộ đội, Tố Hữu không muốn tình yêu ấy bị chia xẻ. Tố Hữu muốn đặt tất cả những hình ảnh trong một cảm xúc chung đối với người chiến sĩ. Những bà mẹ trong thơ Tố Hữu là những bà mẹ của chiến sĩ, giản dị như cánh đồng quê, thiết tha yêu con nhưng lại yêu nước hơn. Em thiếu nhi trong thơ Tố Hữu là chiến sĩ nhỏ tuổi, tâm hồn em hồn nhiên, nhưng lòng em thấm sâu tình yêu nước, em là những chú "đồng chí nhỏ" làm nhiệm vụ giao thông vượt qua mặt trận, không sợ đạn của giặc, không sợ hiểm nghèo. Những chị phụ nữ trong thơ Tố Hữu là những chị dân công dù con bế con bồng "em cũng theo chồng đi phá đường quan", những chị ngày đêm ra tiền tuyến phục vụ chiến trường. Có những lúc tình cảm của Tố Hữu đi ra ngoài biên giới, nhớ tới em bé Triều Tiên, nhân dân Triều Tiên đang anh dũng chiến đấu. Tố Hữu yêu em bé Triều Tiên và em bé Triều Tiên trong thơ Tố Hữu là con của người dân công tải đạn, con của người nữ cứu thương, con của anh bộ đội "mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui".

Tố Hữu để hết tấm lòng yêu nước, yêu Ðảng, yêu dân vào một người, người anh hùng kiệt xuất, người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc và của Ðảng: Hồ Chủ tịch. Trong bài "Sáng tháng Năm", hình ảnh Hồ Chủ tịch là hình ảnh của người cha thân yêu và hiền từ, là hình ảnh chói lọi làm "trong sáng lòng anh xung kích", làm "vững tay người chiến sĩ nông thôn", vững tay anh công nhân quốc phòng, em học sinh đốt đuốc đến trường làng và "các chị dân công mòn đêm vận tải".

Lãnh tụ của chúng ta vĩ đại, vì Người là biểu hiện tập trung nhất những đức tính cao quý của dân tộc. Tố Hữu ca tụng lãnh tụ qua tình cảm của quần chúng đối với lãnh tụ.

Giọng của Người không phải sấm trên cao
Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước
... Người là Cha là Bác là Anh
Quả tim lớn lọc trăm giòng máu nhỏ

Qua những bài thơ ca tụng lãnh tụ, Tố Hữu đã tăng cường lòng tin của nhân dân đối với sự nghiệp của dân tộc dưới lá cờ vinh quang của Hồ Chủ tịch.

Ngoài bài "Sáng tháng Năm", trong những bài thơ khác cũng như hình ảnh người chiến sĩ, hình ảnh của Hồ Chủ tịch vĩ đại bao giờ cũng là hình ảnh tươi sáng nhất, bao trùm tất cả.

Ðiều làm người đọc thông cảm nhất với hình ảnh những người con yêu quý của nhân dân ta trong thơ Tố Hữu là những hình ảnh ấy gắn chặt với đất nước, dân tộc, quê hương. Ðây chính là phần mà thơ Tố Hữu hấp dẫn bạn đọc nhiều nhất, nâng cao tình cảm của chúng ta nhiều nhất. Và đây cũng chính là phần sáng tác tươi nhất trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Ðọc thơ Tố Hữu, chúng ta càng tin tưởng nhân dân ta anh hùng, đất nước ta đẹp đẽ, quê hương ta đầm ấm.

Hình ảnh vĩ đại của Hồ Chủ tịch là hình ảnh rộng lớn của đất nước:

Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non

Bên cạnh hình ảnh bộ đội gặp nhau lưng đèo Nhe là:

Cánh đồng quê tháng mười
Thơm nức mùa gặt hái
Người chiến sĩ trên chiến trường Tây Bắc
Mỗi bước, vàng theo đồng lúa chín
Lửa vui từng mái nứa tươi xanh

Và còn cảnh nào đẹp hơn khi chiến sĩ chiến thắng trở về:

Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân
Anh về sáo lại ái ân
Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca

Em Lượm, em bé giao thông anh dũng hy sinh vì nhiệm vụ, thi sĩ lặng người lại trước "một giòng máu tươi", nhưng em Lượm hy sinh mà em Lượm không chết. Tố Hữu đặt em Lượm nằm trên cánh đồng lúa vàng rượi, tượng trưng cho lẽ sống:

Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng

Người chiến sĩ anh dũng tuyệt vời của chúng ta ở trên chiến trường một khi ngã xuống:

Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

Ðất nước và con người, cảnh và người đối với Tố Hữu không thể xa rời, nhưng đất nước tốt đẹp là do người làm nên, cảnh vật vui tươi cũng là do người quyết định. Ðối với Tố Hữu cảnh vật đất nước của chúng ta bao giờ cũng vui cũng tươi cũng đẹp và cái vui tươi trong thơ Tố Hữu bao giờ cũng biểu hiện một lòng tin vững chắc ở tương lai, vì nhân dân chúng ta chiến đấu ngày nay đã nhìn thấy thắng lợi ngày mai. Tinh thần lạc quan cách mạng tươi sáng ấy xuất phát từ lòng thiết tha yêu nước và lòng tin tưởng ở quần chúng đã tác động mãnh liệt đến người đọc.

Trước cảnh chết, "Giữa thành phố trụi," thi sĩ nhìn thấy mầm sống, thấy sức mạnh, sức mạnh ấy bản thân cảnh vật không có, mà do chúng ta xây dựng nên:

Bàn tay đã nắm lời thề
Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây
Từ trong đổ nát hôm nay
Ngày mai đã đến từng giây từng giờ

Bài thơ "Ta đi tới" đã diễn tả nhân dân vui sướng, quang cảnh tưng bừng của hoà bình, của thắng lợi vĩ đại sau 8, 9 năm kháng chiến. Cảnh và người hoạt động sau thắng lợi của hoà bình ăn nhịp với nhau, con người của chúng ta anh dũng, đất nước của chúng ta đẹp đẽ vô cùng. Cảm xúc của Tố Hữu rạt rào trên rừng cọ, đồi chè, bến đò, trên những cánh đồng phì nhiêu bát ngát, cảm xúc của Tố Hữu vào tận đáy lòng của mỗi người. Vui quá, thi sĩ như muốn nhảy lên, ôm lấy mọi người, hát lên tiếng hát thắng lợi, nói lên tiếng nói của mỗi dân tộc anh hùng.

Nhưng còn nửa nước ta chưa giải phóng. Trong nỗi vui mừng của thi sĩ sáng lên lòng tin tưởng ở sự thống nhất nước nhà:

Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân
Dù ai rào rậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ
Sáng lên sức mạnh của dân tộc ta:
Ta đi tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng
Ðội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chỉ ta lớn như biển Ðông trước mặt!

Cảm xúc của Tố Hữu đối với những con người, đối với đất nước, Tổ quốc quê hương còn đằm thắm hơn một khi nó biểu hiện lên như tình yêu vợ chồng, tình mẹ con.

Ðối với anh bộ đội ra tiền tuyến xa xôi "yêu bầm, yêu nước, cả đôi mẹ hiền".

Việt Bắc là nơi chôn rau cắt rốn của cách mạng, là căn cứ địa của kháng chiến. Hòa bình trở lại, Chính phủ, Trung ương Ðảng về Hà Nội. Mỗi người chúng ta đều nhớ Việt Bắc, nhớ những bà mẹ, những người chị đã nuôi nấng chúng ta, nhớ anh du kích đã dẫn đường cho chúng ta, nhớ núi rừng đã giúp ta chặn tay giặc, nhớ suối, nhớ nương, nhớ rẫy, nhớ những bãi rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, những ngày xuân hoa mai nở trắng. Nỗi nhớ nhung ấy đối với Tố Hữu âu yếm lạ lùng. Trong những lời nhắn nhủ say tình của bài "Việt Bắc", chúng ta không còn phân biệt Việt Bắc và Tố Hữu, tiếng nói của Việt Bắc và của Tố Hữu là của hai người, nhưng nó lại nằm trong một người. Và thắm thiết gì hơn khi nỗi nhớ nhung ấy biến thành nỗi nhớ nhung của đôi trai gái yêu nhau hàng chục năm ròng mà phải xa cách!

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu

Tố Hữu, nhà thơ của chúng ta, đưa tình yêu vào trong thơ để nói lên lòng yêu chân thành đối với Tổ quốc với đất nước. Tình yêu đối với Tố Hữu cũng như đối với tất cả những người chiến sĩ cách mạng không phải là mục đích mà nó là động cơ cách mạng. Nói đến tình yêu trong tập thơ Việt Bắc, chúng ta không quên nhắc đến những bài thơ dịch của Tố Hữu "Ðợi anh về", "A-lê-sa nhớ chăng" (của Ximô-nôp). Tố Hữu cảm thông với thi sĩ Ximô-nôp và đồng thời giới thiệu với chúng ta những tình yêu cách mạng. Con người cách mạng là con người xúc cảm nhất, con người biết yêu đằm thắm và cũng biết cách giữ gìn và bảo vệ tình yêu ấy, tình yêu ấy là động cơ thúc đẩy chúng ta thêm mạnh trên đường chiến đấu bền bỉ và lâu dài.

Bộ đội, cán bộ nhân dân thích đọc thơ Tố Hữu, nhớ thơ Tố Hữu, vì thơ Tố Hữu đã nói lên khá mãnh liệt tình yêu quê hương, yêu đất nước, yêu Tổ quốc, khêu gợi trong lòng chúng ta sức tin tưởng ở chúng ta, ở những con người lao động đã chiến đấu, sản xuất và đang xây dựng, bồi dưỡng thêm tinh thần lạc quan cách mạng của chúng ta của nhân dân ta, vì thơ Tố Hữu đã hun đúc thêm chí căm thù, nâng cao chí khí chiến đấu của chúng ta quyết tâm bảo vệ quê hương và đất nước.

Nhưng đọc tập thơ Việt Bắc, chúng ta chưa thỏa mãn. Tuy ca tụng người chiến sĩ bộ đội là Tố Hữu đã ca tụng người nông dân, tình cảm, sức mạnh của người chiến sĩ trong thơ Tố Hữu là tình cảm, sức mạnh của người nông dân, những bà mẹ, những người chị, người vợ trong thơ Tố Hữu là những nông dân lao động, nhưng chúng ta muốn những người nông dân lao động sản xuất ở hậu phương được nêu cụ thể hơn. Trong tập thơ Việt Bắc, hình ảnh người nông dân sản xuất bị mờ đi trong những tình cảm chung ca tụng đất nước, quê hương. Tuy trong tất cả những bài thơ của Tố Hữu đã nói lên tư tưởng của giai cấp công nhân, đường lối chỉ đạo của Ðảng, ca tụng Hồ Chủ tịch, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, chúng ta muốn hình ảnh Ðảng tiên phong của dân tộc, người công nhân được nêu cụ thể hơn, đầy đủ hơn, chúng ta rất tiếc rằng Tố Hữu chưa nói lên hộ lòng biết ơn, sức tin tưởng của hàng chục triệu con người đảng viên và quần chúng đối với Ðảng tiên phong của giai cấp công nhân, Tố Hữu chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh của người công nhân trên các ngành hoạt động luôn luôn nêu cao chí khí phấn đấu, khắc phục khó khăn, chưa ghi lại cho chúng ta hình ảnh người nông dân đã vươn mình dậy đánh đổ thế lực của giai cấp địa chủ. Chống đế quốc và chống phong kiến là hai nhiệm vụ không thể tách rời trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Trong cuộc đấu tranh chống phong kiến hiện nay của hàng triệu nông dân đang diễn ra gay go ở nông thôn, chúng ta hy vọng ở Tố Hữu những bài thơ nói lên khí thế của nông dân, cũng như Tố Hữu đã ca tụng khí thế của người chiến sĩ ngoài mặt trận.

Thời đại của chúng ta đẹp đẽ vô cùng, sinh hoạt hàng ngày của quần chúng muôn màu muôn vẻ, tình cảm của quần chúng thật dồi dào và chúng ta đang ở trong một thời đại biến chuyển dồn dập. Những màu sắc ấy, những tình cảm ấy Tố Hữu đã cố ghi lại một phần nào nhưng những màu sắc và tình cảm ấy ở một số bài thơ trong tập thơ Việt Bắc chưa được thể hiện cụ thể. Bài "Ðời đời nhớ Ông" mới nói lên những tình cảm chung, nó chưa đi vào tình cảm, hành động cụ thể của nhân dân, nó chưa biểu hiện lên được lực lượng của quần chúng trong sự đau xót xé ruột xé gan khi nghe Sta-lin mất. Hòa bình lập lại, sung sướng nhất là những người lao động sản xuất, những người nông dân vùng tự do cũ cũng như vùng mới giải phóng. Nỗi sung sướng ấy nói lên chưa được hả dạ trong bài "Ta đi tới". Hà Nội sống tủi nhục dưới ách thực dân và phong kiến, tinh thần chiến đấu, chịu đựng của nhân dân Hà Nội, tinh thần quật khởi của công nhân thủ đô đáng lẽ phải được nói lên đầy đủ hơn, rõ ràng hơn trong một bài thơ như bài "Lại về"...

Những bài thơ đăng trong tập thơ Việt Bắc đã nói lên một phần tình cảm tốt đẹp nhất của con người mới của một thời đại mới, dưới một chế độ mới. Tình yêu thiết tha của Tố Hữu đối với quê hương, đất nước, Tổ quốc, lòng tin tưởng vững bền, tinh thần lạc quan cách mạng bao trùm tập thơ của Tố Hữu đã từng kích thích chúng ta trong những năm chiến đấu gay go gian khổ nhất, cũng như trong cuộc đấu tranh ái quốc gay go và phức tạp hiện nay. Ðọc tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu chúng ta được nuôi dưỡng thêm tinh thần và tình cảm mạnh mẽ đó. Về mặt nghệ thuật thì những thành công đó chính là những thành công của chủ nghĩa hiện thực cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng trong thơ.

Tố Hữu là một thi sĩ cộng sản. Tập thơ Việt Bắc trào lên lòng yêu nước nồng thắm chứng tỏ thêm một nguyên lý: những người cộng sản là những người tha thiết yêu mến Tổ quốc của mình, yêu mến nhân dân của mình và suốt đời tận tụy đấu tranh cho sự nghiệp của dân tộc.
Nguồn: Nhân dân, số ra ngày 24.1.1955

===

Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc
Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (2/15)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15

4. Xuân Diệu


Ðọc tập thơ Việt Bắc

Tập thơ thứ hai của Tố Hữu, Việt Bắc, xuất bản trong những ngày tưng bừng rầm rộ nhân dân ta, giữa thắng lợi hòa bình, kỷ niệm ngày toàn quốc kháng chiến cách đây tám năm, kỷ niệm 10 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam; riêng ở thủ đô mới giải phóng, lại thêm không khí nhân dân thủ đô cuồn cuộn dự lễ chào mừng Hồ Chủ tịch và Chính phủ trở về Hà Nội. Trong những ngày lớn lao ấy của dân tộc, có hòa chen một ngày lớn của thơ Việt Nam.

Chín năm thơ của Tố Hữu, từ Tổng khởi nghĩa, trải qua kháng chiến, đến hòa bình, đã được tuyển lựa thành tập thơ Việt Bắc. Mới nhìn qua, đó chỉ là một bìa sách sáng tươi, trang nhã giữa bao nhiêu bìa sách khác, nhưng tập sách gọn gàng kia quả là đánh dấu một việc lớn của văn chương Việt Nam. Những bài thơ tám chín năm nay tác chiến trên mặt trận tinh thần, khi ào ạt "sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp", khi rì rầm trong nghìn vạn lòng người, khi tươi nở theo bài hát, điệu ngâm, những bài thơ làm công tác quần chúng một cách sâu sắc, vững vàng, nay hợp thành sách cho ta yêu mến, ngẫm nghĩ lâu dài, cho ta cân nhắc và định giá. Chúng ta cần đọc đi đọc lại, xem kỹ, thảo luận, phê bình, để hoàn toàn tiếp lĩnh sự cống hiến của Tố Hữu vào cái vốn chung, để nâng niu xứng đáng những tâm huyết của người làm thơ, và người ấy đã cho ta hơn cả sự sống của người ấy, cho ta những tinh chất ngày đêm lọc ra từ hồn, từ óc, từ trái tim, mạch máu của người làm thơ.


Cách mạng và thơ:

Con đường ngót 20 năm nay Tố Hữu đã đi là một con đường vinh quang kỳ diệu. Chỗ kỳ diệu lớn lao là nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ, và thơ rất thành công. Cái vinh quang của văn nghệ Việt Nam là đã có một nhà thơ con đẻ của cách mạng, lớn lên với cách mạng và kết tinh cuộc cách mạng. Cả cuộc đời của Tố Hữu đến nay là một thủy tinh trong sáng; từ tuổi thiếu niên đi học đã hoài bão phản phong, phản đế; tuổi thanh niên là bao nhiêu năm tù đày, vượt ngục; tuổi tráng niên mải miết dựng xây, thực hành lãnh đạo; cái say mê vui thú của Tố Hữu là làm cách mạng; cái hơi thở tự nhiên của tâm hồn Tố Hữu là chiến đấu, hy sinh. Thơ Tố Hữu hay, vì cuộc đời và tâm hồn của Tố Hữu đẹp. Cuộc đời Tố Hữu là một bài thơ cách mạng rồi.

Thơ Tố Hữu từ cuộc đời cách mạng của thi sĩ và từ phong trào cách mạng của nhân dân mà phát ra, trở lại góp sức đẩy cho cách mạng lớn mạnh. Cách mạng càng ngày càng thắng lợi, càng to lớn, đồng thời cũng đưa tài thơ của Tố Hữu nở dần đến chỗ tròn đầy, lộng lẫy. Ðó là sự tương quan mật thiết giữa hành động và văn chương và Tố Hữu là điển hình đẹp nhất.


Nhà thơ của thời đại:

Từ 1932 đến 1945, trong khi các nhà thơ khác đắm chìm trong phong trào "thơ mới" mơ mộng, than khóc, u sầu, Tố Hữu đã đi tiên phong, hát những bài ca tranh đấu. Tập thơ của Tố Hữu ra sau Tổng khởi nghĩa (1946) [1] tập hợp 10 năm thơ cách mạng đã là tiếng thơ tiến bộ nhất của thời đại; có thể nói: một mình Tố Hữu đã giương cao lá cờ chiến đấu của thơ, tô thắm cho nó và giữ thắm cho nó trong suốt một thời kỳ nghiêng nghèo, tối tăm, để đưa nó ra tung bay dưới mặt trời rực rỡ của cách mạng tháng Tám.

Từ đó Tố Hữu tiếp tục hát ca những tình cảm chính của thời đại, từ sau Tổng khởi nghĩa, trải qua 8 năm kháng chiến; đến hòa bình. Tố Hữu là một nhà thơ thời sự. Nhưng cái thời sự của Tố Hữu không giống cái thời sự của Tú Mỡ. Cố nhiên tôi không thể so sánh một nhà thơ trào phúng với một nhà thơ trữ tình [2] mà chỉ đem so sánh hai tính chất thời sự thôi, vì theo ý tôi, Tố Hữu và Tú Mỡ là hai nhà thơ thời sự nhất. Tú Mỡ viết báo bằng thơ trào phúng, viết rất hợp thời và "có ngay", nhưng đây mới chỉ là cái thời sự của tin tức và sự việc, cái thời sự làm cho người ta vui thích mà chưa đi sâu thực hiện "nhà thơ là một kỹ sư của tâm hồn". Còn thơ Tố Hữu là cái thời sự tình cảm của thời đại, không nhất thiết phải kịp hàng tuần, hàng tháng, không nhất thiết việc gì cũng phải nói đến, nhưng những ý tình lớn của con người cách mạng và kháng chiến, Tố Hữu đã nói lên thấm thía, những chuyển biến lịch sử, Tố Hữu đã kết đọng lại thành tâm tình.

Một số bài thơ không in lại trong tập Việt Bắc này, người đọc vẫn nhớ: “Huế tháng Tám” (1946) gợi lại mối tình đầu của đất Thần kinh phong kiến đối với cuộc Cách mạng của nhân dân; “Tình khoai sắn” (1946) ngợi ca phong trào tăng gia sản xuất khi mới nhóm; “Nhớ người chị phương Bắc” (1946), là lời tỏ tình thứ nhất của Cách mạng tháng Tám với Cách mạng tháng Mười (lời tỏ tình thứ hai là Bài ca Tháng Mười,1950).

Cuộc kháng chiến bùng nổ. Bài thơ xuất sắc đầu tiên trong giai đoạn này của Tố Hữu là bài “Cá nước”. Tôi còn nhớ năm 1947, khi bài thơ này xuất hiện trên tạp chí Văn nghệ số 1. "Bóng tre trùm mát rượi" không những lưng đèo Nhe, mà trùm mát rượi cả bài thơ. Anh Vệ quốc quân kháng chiến lần đầu vào trong thơ, trong sáng lạ thường. Nhìn anh trong bài thơ, cả nước Việt Nam đồng lòng đọc lên hai câu thơ của Tố Hữu giản đơn như không có gì, mà thực ra mạnh mẽ như một chân lý:

Anh Vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế!

Tình cá nước xưa kia, theo điển tích, có nghĩa là tình chồng vợ, thì đến nay, dựa theo một câu của Giải phóng quân Việt Nam trong thời kỳ bí mật: "Dân là nước, du kích là cá", Tố Hữu đã lấy sức mạnh của thơ làm cho tình "cá nước" thành hẳn điển hình của một tình cảm mới lớn lao của thời đại: tình quân dân.

Một bài thơ khác được truyền tụng đến thành bài thuộc lòng của dân chúng, là bài “Phá đường” (1947). Giai đoạn phòng ngự của kháng chiến được lột tả độc đáo trong một sự việc; đường hiện nay đã đắp liền lại rồi, mà bài thơ ghi tạc không phai cái công sức phá đường của nhân dân vào lịch sử.

Tố Hữu đã mến yêu rất mực bà Mẹ Việt Nam, bà mẹ đẻ những người Vệ quốc quân, bà mẹ nuôi các anh cán bộ, bà mẹ mà tấm lòng yêu thương như biển cả là một nguồn ủi an, khuyến khích vô hạn cho lũ con. Tố Hữu đã ca ngợi bà mẹ đó trong hình ảnh bà mẹ Việt Bắc ngồi kể "chuyện nhà chuyện cửa" bên bếp lửa, trên nhà sàn; trong hình ảnh "bà bủ nằm ở chuối khô" nhớ con đi bộ đội:

Năm xưa cơm củ ngon chi
Năm nay cơm gié nhà thì vắng con

Trong hình ảnh bà bầm suốt đời thắt lưng buộc bụng, vì tuyệt vời hy sinh tận tụy, nên mới sinh ra những đứa con bộ đội anh dũng tuyệt vời:

Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.

Tố Hữu đã tạo ra được điển hình chú Lượm tượng trưng cho các cháu tươi vui và anh dũng của Bác Hồ:

Cháu bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh
Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng.

Qua một bài thơ nhỏ “Em bé Triều Tiên”, Tố Hữu đã tỏ cảm tình của dân tộc ta với dân tộc bạn đau thương, anh dũng đang kháng chiến như mình.
Sta-lin mất, những giòng nước mắt của nhân dân ta đã chảy thành những câu thơ “Ðời đời nhớ Ông” của Tố Hữu.

Và tôi suy nghĩ: nhà thơ ca ngợi Hồ Chủ tịch vĩ đại của chúng ta trong nhiều trường hợp hơn cả, và bằng những lời sâu xa hơn cả cũng là Tố Hữu của chúng ta. (“Sáng tháng Năm” và nhiều đoạn thơ khác).

Ðến năm 1954! Kháng chiến lớn mạnh phi thường. Những sự việc tiệm tiến bao lâu, nay bỗng chốc lớn lao vượt bực! Tháng Năm 1954: Chiến thắng Ðiện Biên Phủ nổ như một tiếng sấm chấn động địa cầu. Bước mạnh của lịch sử lúc này đã nhìn thấy Tố Hữu thật xứng đáng là nhà thơ của thời đại. Như một cánh buồm kỳ diệu kịp giương lên với gió lớn, bọc lấy gió lớn trong thân mình và rướn lên mạnh mẽ, tài thơ của Tố Hữu theo tiếng gọi kích thích của lịch sử, cũng từ chỗ tiệm tiến vượt lên, nở ra, rộng tỏa, chín thơm. Liên tiếp mấy bài thơ lớn sinh ra. Bài “Hoan hô chiến thắng Ðiện Biên” đúc kết những chuyện hy sinh chiến đấu hàng ngày của quân và dân ta, khoét sâu cái nhục nhã của địch và nghiêm khắc cảnh cáo bè lũ chúng nó. Rồi quân địch phải nhận đình chiến. Bài “Ta đi tới” khí thơ hùng mạnh, tương xứng với bước đi không có gì ngăn nổi của dân tộc ta. Hồ Chủ tịch, Trung ương Ðảng và Chính phủ sắp sửa về thủ đô: Tố Hữu vẫy chào và hứa hẹn với căn cứ địa Việt Bắc trong một bài thơ thật đẹp. Những ngày đầu tiếp quản, nhân dân Hà Nội đã được đọc bài “Lại về” trên báo Nhân dân. Cho đến khi tập Việt Bắc đã in và phát hành rồi, đón một lời nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Trước kia ta mới có rừng núi, có đêm, ngày nay ta có thêm biển, thêm ban ngày...", Tố Hữu đã ghi câu nói lịch sử, sự kiện lịch sử, và ngày, tháng, năm lịch sử (1-1-55) trong những vần thơ đúng, sát:

Cảm ơn người Hồ Chí Minh vĩ đại
Bốn nghìn năm ta lại là ta
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Hôm nay mười tuổi cầm hoa tặng người

Như vậy, chúng ta thấy Tố Hữu đã nói được những tình cảm lớn của thời đại; chúng ta thấy ở mỗi bước lịch sử của Cách mạng, của Dân tộc, hồn thơ của Tố Hữu đã có những tiếng ngân vang xứng đáng, kết tinh được thời gian và không gian cụ thể đó và truyền mãi tiếng thơ về sau... Chúng ta tưởng như tâm hồn Tố Hữu là một cái kho luôn luôn sẵn, đầy, có đủ hình ảnh, nhạc điệu, ý tình để âu lo, vui sướng, ngợi ca với toàn dân tộc. Cái kho quý báu đó, chính cuộc đời cách mạng của Tố Hữu đã tích lũy cho Tố Hữu. Tính cách thời sự của thơ Tố Hữu quyết không phải là một bộ máy tốt để bắt vần, mà là một sự sáng tạo tươi mới luôn, bằng tinh lực của tâm trí. Hoa trái ngày nay thơm, tốt, nhưng rễ thì đã mọc sâu từ hai mươi năm. Rễ nuôi bằng tư tưởng, lập trường của chiến sĩ, rễ sống bằng tơ lòng, mạch huyết của thi nhân. Tố Hữu chân chính là nhà thơ của thời đại.


Tính cách quần chúng:

Rất nhiều người làm thơ trong bao nhiêu năm đã đi tìm cái mới. Có người đã tưởng cái mới ở trong những câu thơ lý luận biện chứng pháp; có người tưởng cái mới ở trong những tiếng địa phương, những tiếng dùng của nông dân cho vào thơ; có người đã sáng kiến ra: mới là làm thơ không vần; hiện nay cũng còn những người tưởng thơ mình mới nhất vì cách tạo hình ly kỳ, nhịp thơ khúc khuỷu, điệu thơ âu tây...

Cho đến năm 1951-52, nhiều bạn thơ vẫn còn tìm đường, trong khi đó thì từ 1947, 48, Tố Hữu đã đi con đường đúng, con đường mới. Bài “Phá đường” in ra, trăm miệng một lời đều yêu thích, ai cũng cảm cái thi vị bao la của những câu:

Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua rừng đèo Khế gió sang

Ai cũng thấm thía hình ảnh người phụ nữ Việt Nam:

Em là con gái Bắc Giang
Rét thì mặc rét, nước làng em lo
Nhà em phơi lúa chưa khô
Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan.

Chưa bao lâu, rất nhiều người đã thuộc, và ở xã, các bà mẹ, các chị đã hát ru em... Bài “Phá đường” là thành công hoàn hảo đầu tiên của thơ kháng chiến; nó bỏ xa lắc xa lơ cái điệu thơ mệt nhọc, cũ kỹ của một số nhà thơ đang vẫn nặng mang quá khứ; thật không còn một chút tăm hơi bóng dáng gì của điệu thơ cũ, nó thật là mới, nó thật là trẻ, gân cốt thanh xuân, nó đi thoăn thoắt, lời thơ trong như nước suối, điệu thơ nhanh nhẹn, vui tươi. Cái mới, cái xuân ấy ở đâu ra? Ở nơi quần chúng mà ra. Tố Hữu đã tìm thấy điệu thơ mới, điệu thơ của thời đại không phải ở đâu xa, không đợi ở chốn nào hiểm hóc, lạ lùng, mà ở ngay trong đất nước nhà, trong bà con thôn xóm hàng ngày, trong những người lao động, trong quần chúng.

Bài “Phá đường” năm 1948 là một sáng tạo. Tác giả không làm bài thơ của một văn nghệ sĩ mô tả, suy luận về công tác phá hoại, mà làm bài thơ của một phụ nữ đi phá đường, bài thơ của người chủ lực, của quần chúng. Bài thơ ngọt như một bài ca hát, tươi tắn như người vừa làm việc, vừa cười vui, thiết thực, giản đơn, ý nhị; tiếng cuốc phá đường ở Bắc Giang, ở khắp Việt Bắc hòa vào khung cảnh mênh mông gió rét trăng lu.

Thơ làm theo phương pháp ấy nhất định là mới, là trẻ. Vì cái mới, cái trẻ của thời đại chúng ta then chốt nằm ở trong những lực lượng mới, trẻ của quần chúng vĩ đại; trên sân khấu của lịch sử, họ là những vai chính mới, trẻ. Căn bản cái mới, cái hay của thơ Tố Hữu, theo ý tôi, là tính cách quần chúng của thơ ấy.

Một nhà thơ nào khác muốn ngợi ca căn cứ địa Việt Bắc có lẽ đã làm một bài thơ rắc rối, tham lam; Tố Hữu lấy lời của một bà cụ hiền lành:

Ðêm nay trên sàn
Bập bùng ngọn lửa
Mé kể nguồn cơn
Chuyện nhà chuyện cửa.

Câu chuyện từng đoạn, từng đoạn, chậm rãi [3] thấm vào lòng người, và đến câu thơ cuối cùng, người nghe chỉ còn tự kết luận: Ðấy là Việt Bắc anh dũng, thuần túy, thiêng liêng...

Năm 1948, Tố Hữu đi với pháo binh, viết tặng pháo binh những bài thơ mà các anh chiến sĩ nâng niu, thuộc lòng, vì chính những nỗi lòng mình đã được nhà thơ nâng niu, hiểu, thuộc. Trong kháng chiến, bao nhiêu con xa mẹ, bao nhiêu mẹ xa con mà không yêu mến, cảm tạ nhà thi sĩ đã viết những câu thấu tận nhân tình như: [4]

Bầm ơi có rét không bầm,
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy, bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu...

Người ta tự hỏi: Sao người thi sĩ có thể hiểu biết sự vật, hiểu biết lòng người đến như vậy? Ðó là những câu thơ chảy nước mắt, cái nước mắt không bi thảm, mà là cái nước mắt sung sướng của tâm hồn khi được nghệ thuật động tới chỗ cao sâu. Cả bài thơ vào nằm trong lòng người và ở luôn trong đó như một suối ngọt ngào, một niềm an ủi. Bài “Bầm ơi” thật xứng đáng với tình mẹ con muôn đời.

Phần lớn những bài thơ Tố Hữu đều có một dáng dấp hiền lành như thế. Tố Hữu diễn tả tình cảm bản thân của quần chúng, nhân vật trong thơ là quần chúng tự nói, cách nói cũng là cách nói của quần chúng. Sta-lin mất, bao nhiêu nhà thơ chân thành đau đớn, nhưng chỉ diễn tả từ trong bản thân ra, nên sự truyền cảm cũng hẹp đi; Chế Lan Viên còn viết:

Nhớ bài thơ Nê-ruy-đa cũ [5]
Ca ngợi đêm khuya phòng điện Krem-lanh [6]

Cách dùng điển tích mới như vậy thực ra chỉ có một thiểu số hiểu. Chỉ riêng Tố Hữu, với cái quan điểm quần chúng đã hầu như một thiên tính trong người chiến sĩ cách mạng lâu năm, làm ngay lời của một người mẹ nói với con nhỏ:

Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo Ông trắng giữa mây hồng
Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười.

Và bài thơ “Ðời đời nhớ Ông” cũng là bài thơ khóc Stalin phổ biến hơn cả, khả dĩ nói được nỗi lòng của đa số người.

Bộ đội, nông dân, công nhân, các cán bộ xã, các bà mẹ, các chị rất dễ gần với thơ Tố Hữu; họ không thấy xa xa, khác khác, ngại ngại như đọc những giọng thơ thông thái, khó khăn. Tố Hữu và quần chúng gặp nhau là thoải mái liền; thi sĩ nói giọng người nhà, lời thì thân mật, nôm na nhưng tứ thơ lại rất bao la, thấm thía:

...Bác kêu con đến bên bàn
Bác ngồi Bác viết nhà sàn đơn sơ...
...Bàn tay con nắm tay Cha
Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng
Bác ngồi đó, lớn mênh mông
Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non

(“Sáng tháng Năm”)

Như vậy, chúng ta không lấy làm lạ, một số bài thơ của Tố Hữu, trước khi công bố lên mặt báo chí, trong khi tác giả còn cân nhắc thêm và sửa chữa, người ta đã tay nọ chuyền tay kia chép vào sổ tay; chúng ta không lấy làm lạ người mới thông quốc ngữ cầm bài thơ Tố Hữu đọc từng dòng một; chúng ta không lấy làm lạ các anh bộ đội đi hành quân, buột mồm lấy thơ Tố Hữu làm thơ của mình; bài “Em bé Triều Tiên”, bài thơ dịch “Ðợi anh về” đem phổ thành bài hát.


Tình thương mến:

Ðọc thơ Tố Hữu, người ta cảm thấy một dấu hiệu riêng như nét mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu không trộn lẫn được với thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu thơ, nhiều khi thành một thứ "thi tại ngôn ngoại" [7] của Tố Hữu. Cái nền nhạc đặc biệt đó, theo ý tôi, là lòng thương mến. Có thi sĩ lấy tình yêu tha thiết làm nét chính của hồn thơ; có người lấy sự suy tưởng làm nét chính, có người nét chính là sự quan sát tỷ mỷ, sự phân tách tinh vi v.v... và có rất nhiều người làm thơ mà chưa có một nét chính gì đặc biệt của tâm hồn. Tình thương mến đặc biệt trong thơ Tố Hữu là một sự cảm hòa với người, với cảnh; một lòng thân yêu, yên ấm với chung quanh. Ðây không phải là người tình nhân của cuộc đời, không phải sự yêu đương sôi nổi, say sưa, nhìn ngoại cảnh thành những cảm xúc vào xương thịt. Ðây là người bạn chí thân của người, của cảnh, người bạn chân thành một lòng, một dạ, cảm thông sâu sắc những nỗi khổ, an ủi xác đáng những niềm đau. Thơ Tố Hữu không say mê, mà ngọt ngào; không xôn xao, mà thấm thía. Người thi sĩ cán bộ gặp anh Vệ quốc quân trên lưng đèo Nhe, chưa nói với nhau lời nào mà đã hiểu, đã yêu:

Một thoáng lặng nhìn nhau
Mắt đã tìm hỏi chuyện
Ðôi bộ áo quần nâu
Ðã âm thầm thương mến

Nét bút Tố Hữu vẽ anh bộ đội trong bài “Lên Tây Bắc” cũng thương mến như vậy:

Anh về cối lại vang rừng
Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân,
Anh về sáo lại ái ân
Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca

Nhìn khẩu đại bác của pháo binh, Tố Hữu nhìn ngay bằng con mắt của Vệ nhìn pháo, thân mật, chăm chút, mến thương; Tố Hữu yêu pháo, và càng yêu Vệ pháo:

Ta bế ta bồng
Voi lên ta vác
Vai ta vai sắt
Chân ta chân đồng
Hoan hô voi ta
Hoan hô Vệ pháo
Yêu voi cởi áo
Lau cho voi nhà

Các em thiếu niên, thiếu nhi, nhi đồng được lòng thương yêu trìu mến của Tố Hữu. Không ai quên được chú Lượm của Tố Hữu; không ai không thắt lòng khi Tố Hữu hạ xuống hai chữ:

Ra thế
Lượm ơi!

và tả chú đồng chí nhỏ đi liên lạc trúng đạn của quân thù. Em bé hy sinh rồi mà như vẫn sống, như em bé trong giấc tươi đẹp:

Cháu nằm trên lúa,
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng

Trong tưởng tượng, Tố Hữu cúi xuống bế em bé Triều Tiên đang lạc giữa tuyết, ủ ấp cho em, hôn em, dỗ em:

Em bé Triều Tiên ơi
Mẹ của em đâu rồi
Tìm đâu mẹ của em...

Tình thương mến kia, Tố Hữu hòa vào cả trong phong cảnh, câu thơ khi nói đến đất nước cũng hóa ra êm đẹp, mượt mà. Một sáng tháng 5, đi giữa chiến khu Việt Bắc, Tố Hữu vẽ nét suối đi, tả chiều gió thổi rất mịn, rất trong:

Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn

Khi hoan hô chiến thắng Ðiện Biên, Tố Hữu đã cảm mến vô cùng cảnh đẹp của Tây Bắc, một phong cảnh đầm ấm, nuôi người:

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam,
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

Con mắt nhìn của Tố Hữu bao trùm cả loài vật, nhìn em bé như chim bồ câu:

Cái mồm thơm sữa xinh xinh
Như con chim của hòa bình trắng trong;

nhìn chim bồ câu như một em bé:

Con bồ câu trắng ngây thơ
Nó đi tìm thóc nhởn nhơ quanh nhà

Cái niềm thương mến đó của thơ Tố Hữu do sự công tác quần chúng lâu năm bồi dưỡng; nó là hương vị của thơ Tố Hữu, nó toát lên thơm tho, dịu ngọt; nó là đạo đức cách mạng; nó làm nên cái sức hấp dẫn của thơ Tố Hữu, một hồn thơ gần gũi với con người, chí tình với con người.


"Ta đi tới" và "Việt Bắc":

Trong bài “Sáng tháng Năm” ca ngợi Hồ Chủ tịch (1951) Tố Hữu đã viết:

Ta lớn cao lên bay bổng diệu kỳ
Trên đường dài hai cánh đỡ ta đi

Hai câu thơ thấy trước đà lớn mạnh của kháng chiến Việt Nam và cũng mang mầm cái thơ lớn, rộng về sau của Tố Hữu. Cái mầm thơ lớn, rộng, mạnh, sắc đó cũng đã có từ trong “Bài ca Tháng Mười” (1950):

Hoan hô Sta-lin
Ðời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hòa bình
Ðứng đầu sóng ngọn gió
Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng mặt biển
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ kháng chiến

Sau chiến thắng Ðiện Biên Phủ của ta, quân địch phải ký kết đình chiến; trước biến chuyển lịch sử lớn lao: chúng ta chiến thắng dành được hòa bình và từ nông thôn trở về thành thị, cái mầm thơ rộng lớn đã tiềm tàng từ trước vụt xuất hiện trong hai bài thơ hay nhất của Tố Hữu: “Ta đi tới” và “Việt Bắc”. “Ta đi tới” mạch thơ cuồn cuộn, câu thơ đi ào ạt như thác chảy, như quân đội nhân dân của ta tiến bước, như dân tộc ta nghìn triệu người đạp băng tất cả những trở lực để đi tới hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nhà thi sĩ đã mở hồn thơ mình theo kích thước của Tổ quốc, trong một tấm lòng đã ủ ôm bao nhiêu tên đất, tên nước, tên tỉnh, tên khu; trong một cái nhìn đã gợi lại mười mấy năm khởi nghĩa, đấu tranh cách mạng; mắt ngắm "rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt", tai nghe tiếng hát trên sông, nhìn xuống thấy con đường rộng mới làm, ngẩng lên là trời thu xanh lồng lộng! Ðó là cảm tưởng của dân tộc ta làm chủ đất nước, làm chủ lịch sử, làm chủ gân cốt, sức lực của mình, nhất định "ta đi tới". Tôi muốn trích những câu hay trong bài ra, nhưng câu nọ liền dính với câu kia, đoạn nào cũng đáng thuộc. Những câu thơ quyện vào trí nhớ của tôi; khi đi giữa những đại lộ của thủ đô, cảm thấy lực lượng vững vàng của chúng ta, tôi bỗng đọc:

Ðường ta rộng thênh thang tám thước.

Dự buổi diễn của Ðại hội Văn công Toàn quốc, giữa hàng vạn đồng bào quanh mình, xem màn "các dân tộc về Ðại hội", thấy các lối y phục, các điệu âm nhạc, các màu sắc, ca vũ giàu có lạ thường, cũng bỗng đến trong trí tôi câu thơ Tố Hữu:

Ðẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!

Những bài thơ cách mạng của Tố Hữu từ trước đến nay đều mang một chiến đấu tính mạnh mẽ, nhưng đến bài “Ta đi tới”, khí thơ mới thật là khoái trá, tràn đầy, mãnh liệt:

Ta đi tới trên đường ta bước tiếp
Rắn như thép, vững như đồng
Ðội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông

Những câu thơ trong bài là ý nghĩ của mọi người, là lời mọi người muốn nói mà chưa nói ra, đó là bài thơ mà giai đoạn lịch sử đang chờ đợi; nên khi công bố bài thơ đó, nhà thi sĩ như châm mồi lửa thần diệu làm rực cháy muôn lòng người đọc đang bừng bừng.

Ðến bài thơ “Việt Bắc”, lại là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ. Chúng ta cũng vẫn thấy cái giọng thơ thân mật, ấm cúng từ xưa đến nay của Tố Hữu, ngợi ca Việt Bắc bằng lời tiễn đưa nhau của một đôi lứa tượng trưng cho miền ngược và miền xuôi; lời hỏi, lời đáp; lời nói ra, lời đồng vọng; lời dặn dò, lời hò hẹn; nhờ sáng tạo ra cảnh "ngược xuôi đôi mặt một lời song song" như vậy, tác giả mới nói được hết ân tình. Nhưng hòa hợp với cái thân mật ấm cúng kia, chúng ta còn thấy bài thơ lộng lẫy, nhiều đoạn tuyệt đẹp; không phải một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng, văn chương nói chiến đấu, gian khổ, quyết tâm cũng lại là cái văn chương chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc; cái văn chương mà có người sợ dễ khô khan, lại là cái văn chương nhuần nhị bậc nhất. Con người cách mạng trong bài thơ “Việt Bắc” là người tình nhân mặn nồng, người chồng chung thủy, người con hiếu thảo, người bạn thiết cốt, người cán bộ tận tụy, là con người mang cái tình mến yêu của Tố Hữu đến cao độ, những lời nói ra làm cho mọi người khóc được, cười được, xúc động gan ruột người ta.

Lên đến một điểm cao của tâm hồn, nhà thi sĩ nhìn được bao quát cả Việt Bắc trong thời gian, qua mười lăm năm, "nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh", trong thời tiết sương sớm, nắng chiều; trong các mùa cỏ hoa thay đổi; tổng hợp bao nhiêu cảnh cơ quan, quân đội, dân công, xe cộ, đường sá. Một cuộc họp của Hội đồng Chính phủ trong một hang núi, từ tính cách chính trị, tác giả gợi thành cái thi vị bao la, to rộng của sự lãnh đạo:

Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Ðiều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương,
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu

Khi làm vì lợi ích của nhân dân, mỗi việc đều nên thơ tất cả, và như vậy, Cụ Hồ là nhà thơ vĩ đại cao nhất, vì Người tạo ra cái hay, cái tốt, cái đẹp cho toàn dân tộc ta.

Trong bài “Việt Bắc” này, sự xúc cảm của nhà thơ đã tới chỗ thấu đáo, tinh vi; tác giả từ bao nhiêu năm trời cặn kẽ trông nhìn đồng bào miền núi, mến thương từng hành động của họ; đã bao nhiêu mùa ngắm nhìn phong cảnh, thuộc các mùa hoa của núi rừng:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô...
...Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách [8] đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Ðể đề cao tình thủy chung sau trước của miền xuôi miền ngược, sự khăng khít giao lưu của người về kẻ ở, Tố Hữu chuyển những sự kiện kinh tế tài chính thành những tình cảm sâu xa; lâm thổ sản và tiểu công nghệ đều nói lên thi vị của đất nước và tình nghĩa của nhân dân; mà chính vì những thứ đó quan thiết đến đời sống nhân dân, nên lại càng đậm đà, gắn bó:

Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình
Trâu về xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi...
...Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông...

Mọi sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, địa dư, nhân chủng đều hòa thành một "tiếng hát ân tình thủy chung"; cả bài như một buổi chiều vàng mùa thu trong đẹp, mà mỗi gốc cây, mỗi hòn đá đều vang ngân lên để cuộc tiễn đưa đầy cả ân tình. Cho đến cái lặng im cũng đầy ý vị.

Ngòi bút của Tố Hữu tiến lên nối tiếp truyền thống của các nhà thi hào cổ điển của ta; bút pháp đã tinh, nên khêu gợi nhiều hơn diễn tả; chữ đúc lại với nhau ("Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", "Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay"). Có những câu đẩy đưa, người bộp chộp sẽ tưởng như là cũ càng, nhưng thực ra biểu hiện tình cảm rất man mác:

Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...

Có những câu tình tứ như những câu thơ tình ái xưa nay:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

Và bức tranh cuối bài “Việt Bắc”, theo ý tôi, là của một danh họa. Trong mấy nét, lột được phong thái cao quý lớn lao của Hồ Chủ tịch; khi Người đi qua, rừng núi cũng như học theo tác phong của Hồ Chủ tịch, con ngựa của Người cưỡi như cũng nhịp bước chân cho hợp với cái bình tĩnh ung dung của Người; qua sáu câu thơ có một bản nhạc tấu lên và Người đi rồi, nhạc hãy còn văng vẳng:

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người...


Những nhược điểm:

Những ưu điểm của thơ Tố Hữu bao trùm thành cái chính; nên tôi không muốn nói về những khuyết điểm lặt vặt, là những cái phụ. Theo ý tôi, bất tất phải chiếu lệ cho đủ hai mặt khen chê. Chúng ta không thể đòi bài thơ nào của Tố Hữu cũng phải như “Ta đi tới” và “Việt Bắc”. Nhưng có một điều chắc, là bài thơ nào của Tố Hữu cũng đem tới một cái gì cho tư tưởng và tình cảm; nếu chưa lộng lẫy, tuyệt diệu, thì cũng đủ ý vị, và bao giờ cũng có ít nhiều sáng tạo.

Tôi chỉ muốn nói đến hai nhược điểm mà ý riêng tôi thấy là quan trọng:

Ðiều thứ nhất, là thơ Tố Hữu thiếu hẳn một mảng lớn: nặng về tình cảm xã hội, mà hầu như không nói đến những tình cảm của cá nhân. Có lẽ vì Tố Hữu nặng lo về công tác; người cán bộ trong Tố Hữu bao trùm con người thường.

Tập Việt Bắc (và cả tập Thơ 1946) không có một bài thơ về tình yêu. Tôi nghĩ đến Aragon, nhà thơ kháng chiến của Pháp có những vần sâu sắc về người yêu Elsa; tôi nhớ Maiakovski, nhà thơ cách mạng Liên Xô, có nói:

"Những câu thơ xứng đáng với người yêu"

Tôi nhớ đến Victor Hugo, bậc thiên tài mà những câu thơ đấu tranh làm cho bạo chúa, cường quyền phải khiếp sợ, Victor Hugo cũng là nhà thơ say đắm của những bản tình ca. Công chúng Việt Nam cũng mong muốn Tố Hữu thêm một giây tình vào cây đàn mà họ lắng nghe từng tiếng.

Việc người đọc hoan nghênh những bài thơ của Xi-mô-nốp do Tố Hữu dịch chứng tỏ chỗ thiếu sót của thơ Tố Hữu. Tâm tình của người thi sĩ Liên Xô dám đi vào chỗ thầm kín của lòng người, coi ái tình là một trong những tình cảm thiết tha sâu sắc nhất của con người ta, lấy ái tình làm một mãnh lực giục người chiến đấu, hy vọng:

... Dù tuyết rơi gió nổi
Dù nắng cháy em ơi
Bạn cũ có quên rồi
Ðợi anh về em nhé...

Người thi sĩ Liên Xô lại nhìn trực diện những tang tóc của chiến tranh, không sợ rằng nói như vậy làm nhụt lòng người, mà chính nghệ thuật nói những nỗi đau khổ sâu sắc chừng nào lại càng làm cho người ta yêu dấu con người, và càng thúc đẩy người ta chống địch chừng ấy. Thơ Tố Hữu chưa có những đoạn như dưới đây:

A-liêu-sa nhớ Bô-ri-xốp
Tiếng khóc than xé ruột nhà nào
Lệ người thiếu nữ tuôn trào
Và người mẹ góa mái đầu hoa râm
Áo tang trắng lạnh ướt đầm...

... Ta vui vì mẹ Nga sinh
Vui vì một sớm chiến chinh lên đường
Có người vợ rất yêu thương
Hôn ta ba bận, lệ thường tiễn đưa

Không nói đến tình yêu, Tố Hữu cũng ít nói đến những tình cảm của cá nhân mình. Tố Hữu chỉ nói đến, khi những tình cảm cá nhân đó mang một tính chất xã hội rõ rệt hay có tính cách là những tình cảm tập thể (như “Tình cá nước” [9] và “Sáng tháng Năm”). Theo ý tôi, thơ là tiếng hát của những tâm hồn và của mỗi một tâm hồn; những tình cảm của từng cá nhân, khi đã đúng hướng tiến bộ của toàn xã hội, cần được diễn tả vào sâu đến khía đặc biệt, vì những tình cảm đó đều tiềm tàng một ý nghĩa xã hội. Người thi sĩ là một cán bộ quần chúng rất hoan nghênh những bài thơ làm với con mắt nhìn đúng đắn của một cán bộ; nhưng nếu những bài thơ kia làm với giọng nói của một con người thường, có lẽ quần chúng sẽ cảm thấy tha thiết hơn lên, gần gũi thêm lên. Những việc xa cách, sum họp, sống chết, yêu đương, sinh nở, thư từ... được cách mạng hóa đi, nhưng vẫn là những việc thiết cốt, hàng ngày của con người, nhà thơ cần xông vào đó nghiên cứu, diễn đạt sâu xa, để có thể đưa những tình cảm đó đi tới.

Do nhược điểm trên đây của Tố Hữu, tôi thấy thêm một nhược điểm thứ hai:

Những năm về sau này, thơ Tố Hữu càng nặng về tổng hợp. Ðó là một ưu điểm; tâm tưởng nhà thơ càng lên cao, càng nhìn được những nét lớn lao của lịch sử của thời đại, tiếng hát càng bao quát, rộng xa. Nhưng cũng phải đề phòng một nguy cơ: sự tổng hợp không nên thành nếp của hồn thơ, vì hơn tất cả mọi ngành nghệ thuật nào, thơ phải thật cá thể và cụ thể. Nhà thơ thành sử gia của thời đại, phải đề phòng toàn vẽ bằng nét lớn, nét chung, bỏ mất những nỗi niềm của mỗi một con người, của mỗi cá nhân trong quần chúng. Tố Hữu phải đề phòng dần dần đi xa những bài thơ “Cá nước”, “Phá đường”, “Bầm ơi” v. v... là những bài thơ của sự sống khi nó mới phát nguyên từ quần chúng. Có lẽ tốt hơn hết là Tố Hữu làm cả hai lối thơ, và hòa hợp hai lối ấy với nhau.


Bài học của thơ Tố Hữu:

Tố Hữu cho ta suy nghĩ nhiều về con người với tài thơ, về hành động và sáng tác. Thơ của Tố Hữu là cuộc đời chiến sĩ của Tố Hữu, là lập trường giai cấp, quan điểm quần chúng, đạo đức cách mạng của Tố Hữu; có cuộc đời chiến đấu ấy mới có được thơ ấy.

Tố Hữu cũng cho ta suy nghĩ nhiều về tác phẩm liên quan với thời đại. Vì Tố Hữu nằm ngay trong lòng thời đại, ở ngay chỗ đầu sóng ngọn gió của phong trào, Tố Hữu làm một với trái tim và khối óc của cách mạng, nên mới có được cái nhìn đúng đắn, cao cả. Người thơ thuyền xuôi theo giòng thời đại, buồm căng theo gió thời đại, hết lòng phục vụ thời đại, thì đến lúc thời đại lớn lên, thơ mình cũng được song song lớn lên.

“Ta đi tới” và “Việt Bắc” là chiến công của thơ Việt Nam, là một công trình của nhân dân ta qua cây bút của Tố Hữu. Hai bài thơ đó cho ta hy vọng vô cùng: Chúng ta chứng kiến từ tập Thơ đầu 1946 đến tập thơ Việt Bắc 1954, tài thơ của Tố Hữu đã tiến một bước dài. Từ một nhà thơ đầy nhiệt tình cách mạng và ý tình cách mạng có một không hai, nhưng tài thơ chưa thật có bản sắc riêng biệt, và bởi vậy chưa thật là một thi sĩ đầy đủ, nhà thơ Tố Hữu đã từng bài một, từng năm một, nẩy nở tài năng theo đà kháng chiến, dần dần sắc hương càng thơm càng đẹp, cho đến khi tròn đầy, sáng rực một mặt trăng rằm! Cho đến khi thi sĩ Tố Hữu là một hiện tượng của thơ Việt Nam, tạo ra một lối riêng, một điệu riêng, một bản ngã in nét sâu xa vào văn chương của dân tộc. Ðó quả thật là một bài học lạc quan sáng tác cho tất cả những bạn làm thơ.

Chúng ta còn học được đường lối làm thơ của Tố Hữu. Ðường lối đó là đường lối dân tộc và đại chúng. Tôi thiết nghĩ đó là con đường duy nhất đúng của thơ Việt Nam. Có một số bạn mới, học nhiều, xem sách nhiều, nhuốm phải tiền phong chủ nghĩa, tưởng như mình có thể dựng lên một lối thơ gì mới lạ, xuất sắc, và có ý như xem thường thơ Tố Hữu. Theo ý tôi, những bạn đó chưa nghiên cứu kỹ về thơ. Rất nhiều bạn khác đã nói với tôi: "Khi người đọc thơ chưa chín chắn, thì xem thơ Tố Hữu (nhất là những bài trước 1954) họ không thấy gì. Có lẽ vì họ thấy nó thân mật, bình thường quá, như không có kỹ thuật, không có dầu dấm, chanh ớt. Nhưng khi đến một trình độ yêu hiểu quần chúng, thấu nghe lòng người, nắm vững ngôn ngữ, người ta sẽ thấy thơ Tố Hữu là một cái gì thật đặc biệt". Tôi hoàn toàn đồng ý. Ngay bản thân tôi, những năm đầu kháng chiến, tôi chưa thấy tất cả cái hay của “Bà mẹ Việt Bắc”, “Bà bủ nằm ổ chuối khô”, “Phá đường”, “Bầm ơi”... Là vì lúc đó tôi chưa biết yêu biết trọng cái lớn lao của các bà bủ, tôi chưa thấy cái say sưa của quần chúng đang lao động, tôi còn tìm những cái gì bóng chuốt, chạm trổ, uốn éo. Càng ngày đọc những bài trên kia, tôi càng thấy hay. Tôi càng thấy thơ Tố Hữu là thơ chân thực, thơ của nội tâm con người. Tôi đồng lòng với mỗi câu nói đơn sơ của “Bà mẹ Việt Bắc”: câu nói của bà mé thì đơn giản, nhưng bài thơ của thi sĩ thì sâu xa:

Tôi ôm lấy nó
Tôi kể trước sau
Nỗi nhà mất bố
Nỗi anh chết tù
Mắt nó đỏ nọc
Nó cầm tay tôi:
Mé ơi đừng khóc
Nước độc lập rồi!

Trừ một vài trường hợp (như phần trên của bài “Những thành phố trụi” thí nghiệm một lối thơ mà đa số công chúng không yêu:

Lại ngồi dưới gốc di lăng
ở đây còn có ai chăng với mình?
- Có!
- Ai nói đó?
- A! các anh chiến lũy!)

tất cả thơ Tố Hữu đều làm thế nào cho quần chúng dễ đọc, dễ nhớ, dễ thuộc, đều giữ gìn một sắc thái Việt Nam; dịch thơ nước ngoài, Tố Hữu càng nắm vững phương châm "dân tộc hóa". Càng đi sâu vào nghề thơ, càng luyện chắc tay, Tố Hữu đã bước tới cái cổ điển mới. Cái cổ điển mới ấy, tức là câu thơ sáng sủa, thi sĩ muốn nói gì, thì người đọc hiểu dễ dàng; tức là ý tình tinh vi, giàu đủ, súc tích, mà diễn tả vẫn chân thực, giản đơn; tức là nhạc điệu tiết tấu nhịp nhàng, không gập ghềnh, kỳ khu, líu tíu; tức là câu thơ không ngọng nghịu, lai căng. Trong những câu thơ hay nhất của mình, Tố Hữu đã đi theo truyền thống của Nguyễn Du. Nối liền được với thiên tài đã qua của dân tộc mình, đó là vẻ vang của thơ cách mạng.

Có hàng trăm cách làm thơ, nhưng chỉ có một đường lối: dân tộc và đại chúng. Các nhà thơ có nhiệm vụ phát huy tất cả cái đặc sắc, cái riêng biệt của mình, nhưng phải làm sao cho dân tộc công nhận, cho đại chúng mến yêu. Ði xa con đường ấy, là làm mất thì giờ của bản thân mình, và phí công sức chung. Tố Hữu là cái gương thành công đẹp đẽ mà ta cần học tập. Theo sự nhận xét của tôi, một số bài thơ của ta hiện nay đã đi trệch con đường dân tộc, đại chúng ấy. Các tác giả làm những bài thơ không nên trách tại sao thơ mình đã đăng báo, đã được in, mà công chúng vẫn không để ý đến mình.

Trong giai đoạn vừa rồi, nổi bật trong thơ Tố Hữu: lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân lao động phục vụ kháng chiến, yêu chiến sĩ, yêu Hồ Chủ tịch, yêu nhân loại gian khổ và dũng cảm. Những tình yêu lớn đó của thơ Tố Hữu đã thành sức mạnh trong ngàn vạn lòng người.

Con đường Tố Hữu còn dài, còn xa. Chúng ta luôn luôn đón chờ Tố Hữu.

Thật là sung sướng có Tố Hữu trong thơ Việt Nam, trong văn nghệ Việt Nam... và trong cách mạng Việt Nam. Bao nhiêu thi sĩ đã gắng công, hàng nghìn bạn trẻ mới làm thơ ngày đêm dùi mài; chúng ta nhào nặn nội dung, vật lộn với hình thức, lo nghĩ, chăm chú để sáng tạo những bài thơ hay; rất nhiều hay hầu hết chúng ta chưa thành công, nhưng nhìn đằng trước, thấy lá cờ của thơ Việt Nam có rực rỡ ở trên chiến tuyến; chúng ta tự hào về lá cờ đó, nhân dân ta cũng tự hào về lá cờ đó, và chúng ta thêm tin tưởng quyết tâm.

Thơ Tố Hữu là lá cờ ấy.

14-1-55

Văn nghệ, số 63 (15.2.1955); số 64 (28.2.1955)



5.

A. T.

Hai cuộc thảo luận về Việt Bắc và Vượt Côn Ðảo

Ðể đẩy mạnh phong trào phê bình trong văn nghệ, nâng cao tinh thần đấu tranh tư tưởng chống những khuynh hướng sai lầm, xây dựng đường lối văn nghệ hiện thực, Phòng Văn nghệ quân đội đã tổ chức một cuộc mạn đàm về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và đã tổ chức một cuộc thảo luận về truyện Vượt Côn Ðảo của Phùng Quán.

Tối ngày 4-3-1955, anh em đã trao đổi sôi nổi về tính chất hiện thực trong thơ Tố Hữu. Một số anh em nêu lên tính chất thiếu hiện thực của tập thơ Việt Bắc.

Một số anh em khác không đồng ý, nêu lên tác dụng của thơ Tố Hữu trong quần chúng, sự có mặt của thơ Tố Hữu trong những biến cố lớn của dân tộc. Cuộc trao đổi chưa kết thúc. Anh em đồng ý với nhau đó chỉ là một cuộc trao đổi mở đầu, và còn cần phải có sự tham gia của đông đảo quần chúng.

Tiếp theo chiều 5-3-55 tại Câu lạc bộ Ðoàn Kết anh em lại trao đổi ý kiến về tập Vượt Côn Ðảo của Phùng Quán. Rất nhiều ý kiến nêu lên phân tích những quan niệm mà anh em cho là những sai lầm khá trầm trọng của tác giả trong việc quan niệm tính chất của Ðảng, sự lãnh đạo của Ðảng và bản chất của người anh hùng mới.

Một số khác thì cho tác giả đã thông cảm được với những chiến sĩ cách mạng ở Côn Ðảo và đã truyền vào người đọc những tình cảm mới.

Cuộc trao đổi kéo dài hơn ba tiếng đồng hồ, mà vẫn còn nhiều anh em chưa được nói. Anh em hẹn nhau tiếp tục trao đổi thêm tối ngày 10-3-1955.

Không khí bằng phẳng, thiếu phê bình của Văn nghệ được khuấy động, hứa hẹn nhiều kết quả.

Phê bình đấu tranh là một điều kiện sống còn của tiến bộ, của Cách mạng. Chúng ta phấn khởi, hăng hái tham gia cuộc thảo luận và hy vọng cuộc thảo luận sẽ càng ngày càng rộng rãi thu hút được đông đảo quần chúng, đẩy mạnh phê bình văn nghệ tiến tới làm tròn nhiệm vụ nặng nề mà nhân dân giao phó cho chúng ta, xây dựng đường lối Văn nghệ hiện thực, giáo dục tình cảm mới cho quần chúng thúc đẩy cuộc đấu tranh chính trị tiến tới.

Văn nghệ, số 65 (11.3.1955)


[1]Ðây là nói đến tác phẩm in thành sách đầu tiên của Tố Hữu, nhan đề là Thơ, Hội Văn hoá Cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946. Về sau tác giả bổ sung và in lại tập thơ trên với nhan đề mới là Từ ấy, đầu sách có bài tựa của Ðặng Thai Mai, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1959. Về việc này xin xem thêm cuốn: Cuộc thảo luận (1959-1960) về tập thơ “Từ ấy”, Nguyễn Văn Long sưu tầm và biên soạn. Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 1998. (NST).
[2]Trữ tình: diễn tả tình cảm (nguyên chú của X.D. ở bản đăng báo).
[3]Bản gốc là: “chậm rải”, có lẽ in sai, ở đây sửa lại (NST).
[4]Câu viết này của Xuân Diệu, độc giả thời nay (2004) có thể cho là diễn tả không thật sáng cái ý cần nói là: những người mẹ xa con, những đứa con xa mẹ trong kháng chiến không thể không yêu mến và cảm tạ nhà thơ đã viết những câu thơ đậm tình người (BT).
[5]Pablo Neruda: một nhà thơ trứ danh của dân tộc Chili (nguyên chú của X.D).
[6]Chỗ này tác giả Xuân Diệu nhắc tới câu thơ trong bài thơ “Stalin không chết” của Chế Lan Viên đăng tạp chí Văn nghệ số 40 (tháng 3-1953), ra trong dịp các vùng kháng chiến (tức là vùng do phía VNDCCH kiểm soát) được lệnh để tang Stalin. (NST).
[7]“Thi tại ngôn ngoại”: hồn thơ hiểu ngầm ở ngoài lời thơ (nguyên chú của Xuân Diệu).
[8]Phách: tên một thứ cây ở miền núi (nguyên chú của Xuân Diệu).
[9]Chỗ này tác giả Xuân Diệu viết thiếu chính xác: nhan đề bài thơ là “Cá nước” chứ không phải “Tình cá nước”.



No comments:

Post a Comment