98. THỤY KHUÊ * NGUYỄN HỮU ĐANG, ÔNG LÀ AI
Nguyễn Hữu Đang, ông là ai?
April 25, 2008 at 5:57 pm (. Nguyễn Hữu Đang)
Những
năm gần đây và nhất là sau khi ông mất, nhiều sự kiện về cuộc đời
Nguyễn Hữu Đang đã sáng tỏ hơn, một số tư liệu về con người ông đã được
phơi bày ra ánh sáng và do đó chúng ta đã có thể tạm dựng một tiểu sử
đầy đủ hơn về nhà văn hoá cách mạng lão thành.
Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội.
Theo bản “Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang” do chính ông viết tay (tài liệu của diendan.org), thì năm mười sáu tuổi (1929), Nguyễn Hữu Đang tham gia Học sinh Hội (tổ chức thuộc Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội rồi Đông dương Cộng sản đảng). Là tổ trưởng và đối tượng kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, bị bắt bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, khai rút tuổi: sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà.
Từ 1932 đến 1936 theo học trường sư phạm Hà Nội.
1937-1939: tham gia Mặt trận dân chủ Đông dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội truyền bá quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưỏng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh. (theo tài liệu viết tay đã dẫn ở trên).
Theo tài liệu chính thức (điếu văn, do ông Quang Quý, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đọc trong tang lễ Nguyễn Hữu Đang ngày 10/2/2007) thì từ năm 1943, Nguyễn Hữu Đang tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Hè 1944, ông tổ chức Hội nghị Giáo khoa thư toàn quốc tại Hà Nội. Tháng 8/1944, ông bị bắt ở Nam Định, nhưng đến đầu tháng 9/44 được tha (theo nhật ký Nguyễn Huy Tưởng). Tiếp tục hoạt động cách mạng: tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Chính phủ lâm thời và được phân công tổ chức ngày lễ Tuyên bố Độc lập 2/9/1945. Từ tháng 11/45 đến tháng 12/46 lần lượt giữ các chức vụ Thứ trưởng bộ thanh niên, Chủ tịch uỷ ban vận động Hội nghị văn hoá toàn quốc, Trưởng ban tuyên truyền xung phong trung ương, phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Hội Liên Việt.
Năm 1947, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông dương.
Vẫn theo tài liệu chính thức thì từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, ông được cử làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ. Nhưng theo những thông tin mà chúng tôi kiểm điểm lại thì từ năm 1948, sau Hội nghị văn hoá toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền, ông ở lại Thanh Hoá, giúp Trần Thiếu Bảo làm nhà xuất bản Minh Đức. Đến 1954, sau hiệp định Genève, Ban lãnh đạo văn nghệ mời ông ra hoạt động lại. Từ tháng 11/1954 đến tháng 4/1958, ông làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ.
Cuối năm 1956, Nguyễn Hữu Đang tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, chủ trương báo Nhân Văn cùng với Hoàng Cầm, Trần Duy, rồi Lê Đạt.
Tháng 4/1958 bị bắt. Ngày 21/1/1960, bị ra toà cùng với Thụy An, Phan Tại, bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị”. Bị đưa lên giam ở Hà Giang. Năm 1973, được trả về theo diện “Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris.” và bị quản chế ở Thái Bình. 1989, được “phục hồi” cùng với các bạn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. 1990, được lĩnh lương hưu và từ 1993, được về sống ở Cầu Giấy, Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.
****
Nhà hoạt động văn hoá và cách mạng Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 60 năm (từ 1957 đến 2007, khi ông mất).
Cuộc đời ông nhiều điểm vẫn còn trong vùng tối, bởi sau khi chấm dứt thời kỳ quản thúc ở Thái Bình, tuy được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, ông vẫn bị “chăm sóc” kỹ càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, nhưng riêng ông, ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác.
Lần duy nhất chúng tôi tiếp xúc với ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà nội, cuối tháng 8 năm 1995, là nhờ sự giúp đỡ của nhà thơ Lê Đạt, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2/9/1945, để phỏng vấn ông, qua điện thoại của Lê Đạt, về ngày lễ này do ông tổ chức, rồi nhân đó hỏi thêm ông về chuyện Nhân văn. Buổi thu thanh duy nhất đó được phát làm hai lần trên RFI trong tháng 9/1995 (có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr). Phần ông trả lời về Nhân văn Giai phẩm, chúng tôi đã ghi lại và in trên Hợp Lưu 81, tháng 2-3/2005, số đặc biệt về phong trào Nhân văn Giai phẩm. Hợp Lưu số này in toàn bộ cả hai phần, để độc giả có một cái nhìn toàn diện hơn về con người văn hoá và chính trị Nguyễn Hữu Đang.
Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành. Lần cuối cùng tôi về Hà Nội vào mùa thu năm 1997, ông đến thăm 2 lần, nhưng lần nào cũng do ông V.T, người của bộ nội vụ, chở ông đi. Ông V.T nay cũng đã mất. Câu chuyện, vì có sự hiện diện người của bộ nội vụ, nên đã không nói được gì; những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp mặt cũng không hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên trong bóng tối. Nhưng lần ấy, ông dặn: “Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi.” Như để gián tiếp trấn an người thứ ba.
Khi trở về Paris, tôi đã cố gắng điện thoại cho ông nhiều lần để “thực hiện chương trình”, nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là điện thoại lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như đã dự định, chỉ chuyên về văn hoá. Có lần phẫn uất quá, ông đã quát lên trong điện thoại: “Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hoá văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng…” Lời ông chưa dứt, tiếng điện thoại đã lại u u… Câu nói dở dang ấy đã gây chấn động trong tôi trong nhiều năm tháng. Và suốt thời gian còn lại, tôi không bao giờ điện thoại cho ông nữa, một phần vì không muốn ông bị phiền phức thêm trong cuộc đời quá nhiều thử thách, đớn đau; nhưng còn một lý do nữa là sau này ông bị nặng tai, càng ngày càng nghe không rõ, những người đến thăm ông thường phải bút đàm.
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được “biệt đãi” hơn các bạn, biệt đãi đến phút cuối. Bởi ông được coi là “đầu sỏi”. Đám tang Văn Cao, rồi Phùng Quán, Trần Dần đều đã được cử hành tương đối trọng thể (dù chỉ để che mắt thế gian). Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện đã khác.
Tang lễ Nguyễn Hữu Đang cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một “sai lầm”.
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin cho nên đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm, để ghi âm những lời tiễn bạn của hai nhà thơ qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội. Riêng Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, ông chỉ nằm không còn đi lại được nữa, nhưng ông đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang. Nhà thơ nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được nửa tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị ông tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và hôm sau nữa, không thể liên lạc được với ông vì đường giây điện thoại của Hoàng Cầm với Paris đã bị chặn. Như vậy, tiếng nói của những thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, cho đến hôm nay, vẫn còn bị kiểm duyệt chặt chẽ, đặc biệt trong những phát biểu về Nguyễn Hữu Đang và những gì liên quan đến phong trào Nhân văn Giai phẩm.
Bài viết này gửi đến những bạn trẻ muốn đặt câu hỏi: Nguyễn Hữu Đang, ông là ai?
Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với những gì đã ghi trong tiểu sử viết tay và tiểu sử chính thức mà chúng tôi vừa trình bày ở trên.
Thắc mắc đầu tiên: Tại sao bản “Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang” do chính ông viết tay, lại dừng ở năm 1945, sau đó không thấy ông viết tiếp nữa? Sự ngừng này có ý nghiã gì? Khi một người cầm bút im lặng. Sự im lặng luôn luôn có ý nghiã.
Thắc mắc thứ nhì: quãng đời 6 năm, từ 1948 đến 1954, được chính thức ghi là ông làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ (chính xác hơn là từ 6/1949 đến 10/ 1954). Nhưng trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, lại không có một dòng nào về Nguyễn Hữu Đang trong suốt thời kỳ 1948-1954.
Vậy chúng ta phải sẽ tìm hiểu giai đoạn này qua lời Nguyễn Huy Tưởng, lời Hoàng Cầm và qua bài buộc tội và mạ lỵ của Hồng Vân tựa đề “Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang” đăng trên báo Văn Nghệ số 12 tháng 5/58, in lại trong cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1959. Nhìn lại địa vị và uy tín của Nguyễn Hữu Đang trong chính trị cũng như văn nghệ, Hồng Vân hẳn là ẩn danh của một người tầm cỡ như Trường Chinh, Xuân Thủy… mới có đủ “thẩm quyền” để viết bài “đánh” Nguyễn Hữu Đang, như người ta đã giao cho Nguyễn Công Hoan đánh Phan Khôi, Phạm Huy Thông đánh Trần Đức Thảo, Hoài Thanh đánh Trương Tửu, Xuân Diệu đánh Lê Đạt…
Bút hiệu: Nguyễn Hữu Đang có nhiều bút hiệu khác nhau và hiện nay chưa biết rõ ông đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong cuộc đời tranh đấu cách mạng và trong thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, vì vậy, việc tìm lại những bài viết của ông không dễ dàng. Một ví dụ: ngay bài “Người thuyền trưởng” ông viết về Nguyễn Văn Tố, cũng dưới hai bút hiệu khác nhau: phần đầu Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, sau mới thu thập lại làm một dưới tên Nguyễn Hữu Đang. (Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền bá quốc ngữ (1938-1988), đăng trong tập kỷ yếu của Hội, do nhà xuất bản Bộ giáo dục ấn hành, sau này đăng lại trên Diễn Đàn số 78, tháng 10/1998, và diendan.org).
Trong thời kỳ làm báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang, ngoài bài “Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân văn số 5, ký tên thật, và bài trên Nhân văn số 6 (không ra được), còn có những bài nào khác, ông ký những tên gì?
Mạnh Phú Tư trong bài đả kích Nguyễn Hữu Đang, viết: “Hắn lẩn mình và rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang”.
Ba người có thể cho biết rõ về việc này là hai nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, và họa sĩ Trần Duy. Trần Duy là thư ký toà soạn báo Nhân văn, nhưng đã từ lâu ông im lặng.
Hoạt động Truyền bá quốc ngữ: Về phong cách hoạt động của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 16/6/1942: “Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy”.
Trong bài Người thuyền trưởng, Nguyễn Hữu Đang viết:” Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội truyền bá quốc ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Cậu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc.”
Như chúng ta đã biết Hội truyền bá quốc ngữ xuất thân từ Hội Trí Tri. Cụ Nguyễn Văn Tố, nhà nghiên cứu sử học và hán học tại trường Viễn Đông Bác Cổ là Hội trưởng Hội Trí tri, kiêm Hội trưởng Hội truyền bá quốc ngữ. Trong số những thành viên xây dựng Hội có các nhà trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài học thuộc lòng: i tờ có móc cả hai….
Lời chứng trên đây của Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số vấn đề mà đến nay vẫn thường được người ta làm mập mờ đi:
- Lúc đầu, Hội được chính quyền thuộc địa chính thức công nhận.
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập hội như một vài tài liệu đã ghi. Trong bài này, ông cho biết lúc ấy ông đang dạy học ở nông thôn, hè về Hà nội, tình cờ gặp Đào Duy Kỳ ở ngoài phố, Đào Duy Kỳ khuyên ông nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt để nhận việc dạy học giúp Hội.
- Việt Minh, mặc dầu có những người tham dự Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng không có vai trò lãnh đạo và khai sinh ra Hội Truyền bá quốc ngữ, như khẩu hiệu: “Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch Truyền bá quốc ngữ”. Trong những tài liệu chính thức của nhà nước, người ta không nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội Truyền bá quốc ngữ, vì ông không theo cộng sản.
Vẫn theo bài viết của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta được biết từ 1938 đến 1945, trong “Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ”. Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền (1945), chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ để thay thế Hội truyền bá quốc ngữ. Từ đó vai trò thuyền trưởng của Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.
- Tài liệu chính thức (ông Quang Quý và nhiều nơi chép): từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, Nguyễn Hữu Đang được cử làm thanh tra Bình dân học vụ, là sai. Vì lúc đó Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng rồi.
Trước 1954: Về tài trí của Nguyễn Hữu Đang, ngày 30/7/1942, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký: “Nghe Đang nói chuyện, tự thẹn. Anh đã biểu lộ ngay từ bé một tính cách đặc biệt, hùng hổ và ngang tàng. Không sợ, khinh quyền thế, biến báo giỏi, biết thân phận mình, tin ở tài mình, đó là những tính cách của một người giỏi”.
1945 là năm Nguyễn Hữu Đang hoạt động mạnh, về mặt chính trị, ông được chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập ở Ba Đình; về mặt văn hoá, ông chủ trương tạp chí Tiên Phong cùng Đặng Thai Mai viết bài Định nghiã hai chữ văn hoá (in trên Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/ 1945). Tư thế chính trị và văn hoá của Nguyễn Hữu Đang từ 1945 đến 1947 đã lên tới tột điểm.
Vị trí này được Nguyễn Huy Tưởng xác định trong nhật ký ngày 15/11/1947: “Chuyện Tham Ý. Phục các cán bộ Việt minh (…) Phục Đang. Hỏi thầm một người: Có phải là cánh tay phải của cụ Hồ không? Băn khoăn không biết bây giờ Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy, thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả uỷ ban kháng chiến”.
Qua bài Định nghiã hai chữ văn hoá, chúng ta biết được những nhận thức của Nguyễn Hữu Đang về văn hoá, biết được mối tương giao của ông với những nhà văn hoá đương thời như Nguyễn Đức Quỳnh (trốt-kít), Đào Duy Anh. Chính sự giao thiệp rộng của ông với các nhà trí thức trong nhóm Hàn Thuyên đã gây khó khăn cho ông.
Qua lời buộc tội của Hồng Vân trong bài “Tên quân sư quạt mo: Nguyễn hữu Đang”, chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ năm 1929, 16 tuổi, ông đã được coi là “đối tượng kết nạp” mà mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được kết nạp vào đảng, cũng như việc ông xa rời đảng khoảng một năm sau khi được kết nạp:
”Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương “cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ- rốt-kít”.
“Bất mãn vói đoàn thể Văn Hoá Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hoá toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hoá toàn quốc”
“Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao. Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ.”
“Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền (…) không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm Thanh tra Bình dân học vụ”.
“Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưỏng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm “quân sư” cho nhà xuất bản Minh Đức (…) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng”.
Năm 1947 ông được kết nạp vào đảng, và theo Nguyễn Huy Tưởng, thì năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh cụ Hồ.
Vậy Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng từ năm nào?
Theo Hồng Vân, Nguyên Hữu Đang bỏ hoạt động từ khi cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Vậy cần xem lại: Cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc năm nào? Diều này không khó, vì nhiều người lớn tuổi ở trong nước biết rõ việc này. Nhưng có lẽ đây chỉ là cái cớ mà Nguyễn Hữu Đang đưa ra để thôi hoạt động.
Hoàng Cầm có một lý do sâu xa hơn: “Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến (…) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. (…) Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức (…) Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là hình như trong hội nghị văn hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa” (Xem bài Tưởng niệm Nguyễn Hữu Đang).
Nhưng theo bản tường trình của Xuân Diệu về Hội nghị văn nghệ toàn quốc, thì Nguyễn Hữu Đang không đi dự hội nghị này, mặc dù như trên,ta đã biết, là đến cuối năm 1946, Nguyễn Hữu Đang còn là chủ tịch uỷ ban vận động hội nghị văn hoá toàn quốc (còn gọi là Hội nghị văn nghệ toàn quốc), nhưng vì chiến tranh, cho nên đến tháng 7/1948 mới tổ chức được Hội nghị này. Như vậy, mối bất đồng giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang đã xẩy ra trước hội nghị cho nên Nguyễn Hữu Đang mới không đi dự.
Vẫn theo lời Hoàng Cầm (phần này chúng tôi chưa kịp ghi ra hết để đăng trên HL số này): Sau khi hoà bình lập lại, Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu bàn nhau (dĩ nhiên là có sự đồng ý của Trường Chinh), là anh Đang đã lâu lắm anh ấy không làm gì, vậy nên mời anh ấy ra hoạt động lại”. Điều này phù hợp với việc Nguyễn Huy Tưởng mời Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ, như lời chứng của Lê Đạt và như Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký.
Tóm lại thời kỳ 1948-1954, trái với những gì ghi trong tiểu sử chính thức: Trong 6 năm, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với chính phủ cách mạng.
Và khi trở lại, thì ông bắt đầu bằng bài tham luận “nẩy lửa” đọc trong buổi học tập Văn Nghệ, chỉ trích những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ.
Việc Nguyễn Hữu Đang đả kích công khai đường lối của đảng và của lãnh đạo văn nghệ trong thời kỳ này đã khiến Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký những hàng sau đây: ‘”Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn (nhật ký ngày 21/4/55). “Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh (24/4/1955) “Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: (đã) in Gốc đa, Gặp Bác, v.v.. (23/6/1955) “Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang (21/8/56).
Những bực mình và dằn vặt này của Nguyễn Huy Tưởng về tình hình chung và về Nguyễn Hữu Đang càng làm sáng tỏ tư cách của ông trong việc bênh vực Nhân văn sau này.
Hoạt động Nhân Văn: Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười!”. ( xem bài Mạnh Phú Tư).
Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn”.
Hoàng Cầm: “Nhân Văn ra số đầu tiên khoảng tháng 9 năm 1956 tức là cách Giai phẩm mùa xuân 8, 9 tháng. Làm Giai phẩm mùa xuân, Giai phẩm mùa thu, Giai phẩm mùa đông cũng là do tôi và anh Lê Ðạt làm là chính. Thế rồi đến Nhân Văn thì anh Nguyễn Hữu Ðang là người sinh ra báo Nhân Văn, tôi là người đặt tên cho tờ báo. Nhưng đồng thời sau đó cũng lại chính mình phải làm tất cả mọi viêc của tờ báo. Phụ thêm thì có anh Lê Ðạt. Thế còn anh Trần Dần thì vì anh ấy cũng yếu và những công việc của một tờ báo thì anh ấy cũng không làm được”. (HC trả lời phỏng vấn TK, HL số 81)
Sau đây chúng tôi đúc kết những lời Lê Đạt nói về tờ Nhân văn và vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong báo Nhân văn, trên HL số 81:
“Tháng 5 năm 1956, bắt đầu ở Trung Quốc có phong trào Trăm Hoa Ðua Nở thì ở Việt Nam cũng bắt đầu có cuộc học tập văn nghệ về vấn đề dân chủ. Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Và tôi phải nói về anh Ðang như thế này: Anh Ðang là người hoạt động lâu năm ở trong Ðảng, nhưng đã từ lâu - hình như có cái gì không bằng lòng mà trong danh từ của chúng tôi người ta thường gọi là “bất mãn” - anh không hoạt động nữa. Lúc bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng có đón anh ấy ra để làm báo Văn Nghệ, cùng với tôi. Trong buổi học tập Văn Nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm”. Ðó là lời nói của Ðang như thế. Trong tất cả các anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ có tôi là biết Ðang thôi, nhưng do việc họp văn nghệ như thế thì Ðang cũng dần dần biết anh em chúng tôi nhiều hơn, tiếp xúc với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân nhiều hơn, nhưng Ðang cũng chỉ thân với tôi thôi. Thế còn Trần Dần, Văn Cao, và các anh em… cũng không thân gì với Ðang lắm.
Ðang nói với tôi: “Thế nào cũng phải ra báo và ra báo thì chắc là tụi mày phải làm thôi.” Vì tình hình Trung Quốc họ làm như thế, cho nên ở Việt Nam cũng có cởi mở hơn về vấn đề dân chủ, tháng 9 năm 1956, cho tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân. Như thế bước đầu, có thể gọi là một thắng lợi. Và trong tình hình sôi sục như thế Ðang có đề nghị ra một tờ báo, tờ báo này chính là tờ Nhân Văn.
Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn lắm. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ (…) Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao Nhân Văn cho anh Cầm. Tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang (…) Việc quản trị tờ Nhân Văn là do anh Ðang lo. Anh Ðang trước đã hoạt động trong giới văn hóa nội thành, cho nên anh ấy quen rất nhiều những người làm văn hóa và những cơ sở in ấn ở nội thành.
Về số 1 Nhân Văn, nguồn gốc cái tên Nhân Văn, bây giờ kể lại, có hơi phức tạp, vì tôi không hiểu là ai nói đúng. Tôi nghĩ rằng các anh ấy cũng chẳng nói dối đâu, nhưng chắc là trí nhớ của các anh không phục vụ các anh một cách trung thành: Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào. Còn mọi việc cứ để các anh tĩnh trí nghĩ lại (…) Sáng kiến này là của Ðang - Ðang bảo: “Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay”.
Tất cả những trích dẫn trên đây đã cho ta thấy rõ hơn chân dung của Nguyễn Hữu Đang. Nhưng qua những bài viết của ông, mà chúng tôi tạm thời thu thập được, độc giả sẽ thấy nhiều khía cạnh khác nhau trong con người ông: một nhà văn hoá qua bài Định nghiã hai chữ Văn hoá (viết chung với Đặng Thai Mai). Tinh thần tranh luận khoa học và lịch lãm trong bài Văn Hoá tức là. Óc phân tích phê bình trong bài Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm. Tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ trong bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Sự thẳng thắn, khúc triết, hùng biện, trong bài trả lời phỏng vấn.
Về con người và uy tín của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta sẽ tìm thấy trong các mảnh chân dung mà các bạn ông viết hoặc nói về ông, đặc biệt những dòng trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu là hai nhân vật quan trọng trong ban lãnh đạo văn nghệ thời đó. Tuy bị Nguyễn Hữu Đang chỉ trích nặng nề, nhưng thái độ của Nguyễn Huy Tưởng đối với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Nhân văn Giai Phẩm khác hẳn thái độ của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi. Những gì ông lưu lại trong nhật ký vừa vẽ nên chân dung Nguyễn Hữu Đang, vừa vẽ chân dung Nguyễn Huy Tưởng như một nhà văn hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, trong ban lãnh đạo văn nghệ, không những đã giữ được nhân cách của mình, mà còn viết thư phản đối Trường Chinh, bảo vệ Nhân văn Giai phẩm, trong một thời mà con người, dù tài năng đến thế nào, cũng đã phải bán rẻ lưong tâm, lấy cái sợ làm phương châm sống còn, sống cúi đầu im lặng, sống mất mình trong phong trào bồi bút. Một số bài mạ lỵ Nguyễn Hữu Đang cũng được đăng lại ở đây, để chúng ta thấy rõ không khí bồi bút thấp hèn mà những người trong Nhân văn Giai phẩm đã phải chịu đựng trong nhiều thập kỷ.
Thụy Khuê
Paris, tháng 3/2007
Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội.
Theo bản “Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang” do chính ông viết tay (tài liệu của diendan.org), thì năm mười sáu tuổi (1929), Nguyễn Hữu Đang tham gia Học sinh Hội (tổ chức thuộc Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội rồi Đông dương Cộng sản đảng). Là tổ trưởng và đối tượng kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, bị bắt bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, khai rút tuổi: sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà.
Từ 1932 đến 1936 theo học trường sư phạm Hà Nội.
1937-1939: tham gia Mặt trận dân chủ Đông dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội truyền bá quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưỏng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh. (theo tài liệu viết tay đã dẫn ở trên).
Theo tài liệu chính thức (điếu văn, do ông Quang Quý, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đọc trong tang lễ Nguyễn Hữu Đang ngày 10/2/2007) thì từ năm 1943, Nguyễn Hữu Đang tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Hè 1944, ông tổ chức Hội nghị Giáo khoa thư toàn quốc tại Hà Nội. Tháng 8/1944, ông bị bắt ở Nam Định, nhưng đến đầu tháng 9/44 được tha (theo nhật ký Nguyễn Huy Tưởng). Tiếp tục hoạt động cách mạng: tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Chính phủ lâm thời và được phân công tổ chức ngày lễ Tuyên bố Độc lập 2/9/1945. Từ tháng 11/45 đến tháng 12/46 lần lượt giữ các chức vụ Thứ trưởng bộ thanh niên, Chủ tịch uỷ ban vận động Hội nghị văn hoá toàn quốc, Trưởng ban tuyên truyền xung phong trung ương, phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Hội Liên Việt.
Năm 1947, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông dương.
Vẫn theo tài liệu chính thức thì từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, ông được cử làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ. Nhưng theo những thông tin mà chúng tôi kiểm điểm lại thì từ năm 1948, sau Hội nghị văn hoá toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền, ông ở lại Thanh Hoá, giúp Trần Thiếu Bảo làm nhà xuất bản Minh Đức. Đến 1954, sau hiệp định Genève, Ban lãnh đạo văn nghệ mời ông ra hoạt động lại. Từ tháng 11/1954 đến tháng 4/1958, ông làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ.
Cuối năm 1956, Nguyễn Hữu Đang tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, chủ trương báo Nhân Văn cùng với Hoàng Cầm, Trần Duy, rồi Lê Đạt.
Tháng 4/1958 bị bắt. Ngày 21/1/1960, bị ra toà cùng với Thụy An, Phan Tại, bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị”. Bị đưa lên giam ở Hà Giang. Năm 1973, được trả về theo diện “Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris.” và bị quản chế ở Thái Bình. 1989, được “phục hồi” cùng với các bạn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. 1990, được lĩnh lương hưu và từ 1993, được về sống ở Cầu Giấy, Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.
****
Nhà hoạt động văn hoá và cách mạng Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 60 năm (từ 1957 đến 2007, khi ông mất).
Cuộc đời ông nhiều điểm vẫn còn trong vùng tối, bởi sau khi chấm dứt thời kỳ quản thúc ở Thái Bình, tuy được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, ông vẫn bị “chăm sóc” kỹ càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, nhưng riêng ông, ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác.
Lần duy nhất chúng tôi tiếp xúc với ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà nội, cuối tháng 8 năm 1995, là nhờ sự giúp đỡ của nhà thơ Lê Đạt, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2/9/1945, để phỏng vấn ông, qua điện thoại của Lê Đạt, về ngày lễ này do ông tổ chức, rồi nhân đó hỏi thêm ông về chuyện Nhân văn. Buổi thu thanh duy nhất đó được phát làm hai lần trên RFI trong tháng 9/1995 (có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr). Phần ông trả lời về Nhân văn Giai phẩm, chúng tôi đã ghi lại và in trên Hợp Lưu 81, tháng 2-3/2005, số đặc biệt về phong trào Nhân văn Giai phẩm. Hợp Lưu số này in toàn bộ cả hai phần, để độc giả có một cái nhìn toàn diện hơn về con người văn hoá và chính trị Nguyễn Hữu Đang.
Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành. Lần cuối cùng tôi về Hà Nội vào mùa thu năm 1997, ông đến thăm 2 lần, nhưng lần nào cũng do ông V.T, người của bộ nội vụ, chở ông đi. Ông V.T nay cũng đã mất. Câu chuyện, vì có sự hiện diện người của bộ nội vụ, nên đã không nói được gì; những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp mặt cũng không hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên trong bóng tối. Nhưng lần ấy, ông dặn: “Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi.” Như để gián tiếp trấn an người thứ ba.
Khi trở về Paris, tôi đã cố gắng điện thoại cho ông nhiều lần để “thực hiện chương trình”, nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là điện thoại lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như đã dự định, chỉ chuyên về văn hoá. Có lần phẫn uất quá, ông đã quát lên trong điện thoại: “Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hoá văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng…” Lời ông chưa dứt, tiếng điện thoại đã lại u u… Câu nói dở dang ấy đã gây chấn động trong tôi trong nhiều năm tháng. Và suốt thời gian còn lại, tôi không bao giờ điện thoại cho ông nữa, một phần vì không muốn ông bị phiền phức thêm trong cuộc đời quá nhiều thử thách, đớn đau; nhưng còn một lý do nữa là sau này ông bị nặng tai, càng ngày càng nghe không rõ, những người đến thăm ông thường phải bút đàm.
Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được “biệt đãi” hơn các bạn, biệt đãi đến phút cuối. Bởi ông được coi là “đầu sỏi”. Đám tang Văn Cao, rồi Phùng Quán, Trần Dần đều đã được cử hành tương đối trọng thể (dù chỉ để che mắt thế gian). Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện đã khác.
Tang lễ Nguyễn Hữu Đang cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một “sai lầm”.
Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin cho nên đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm, để ghi âm những lời tiễn bạn của hai nhà thơ qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội. Riêng Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, ông chỉ nằm không còn đi lại được nữa, nhưng ông đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang. Nhà thơ nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được nửa tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị ông tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và hôm sau nữa, không thể liên lạc được với ông vì đường giây điện thoại của Hoàng Cầm với Paris đã bị chặn. Như vậy, tiếng nói của những thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, cho đến hôm nay, vẫn còn bị kiểm duyệt chặt chẽ, đặc biệt trong những phát biểu về Nguyễn Hữu Đang và những gì liên quan đến phong trào Nhân văn Giai phẩm.
Bài viết này gửi đến những bạn trẻ muốn đặt câu hỏi: Nguyễn Hữu Đang, ông là ai?
Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với những gì đã ghi trong tiểu sử viết tay và tiểu sử chính thức mà chúng tôi vừa trình bày ở trên.
Thắc mắc đầu tiên: Tại sao bản “Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang” do chính ông viết tay, lại dừng ở năm 1945, sau đó không thấy ông viết tiếp nữa? Sự ngừng này có ý nghiã gì? Khi một người cầm bút im lặng. Sự im lặng luôn luôn có ý nghiã.
Thắc mắc thứ nhì: quãng đời 6 năm, từ 1948 đến 1954, được chính thức ghi là ông làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ (chính xác hơn là từ 6/1949 đến 10/ 1954). Nhưng trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, lại không có một dòng nào về Nguyễn Hữu Đang trong suốt thời kỳ 1948-1954.
Vậy chúng ta phải sẽ tìm hiểu giai đoạn này qua lời Nguyễn Huy Tưởng, lời Hoàng Cầm và qua bài buộc tội và mạ lỵ của Hồng Vân tựa đề “Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang” đăng trên báo Văn Nghệ số 12 tháng 5/58, in lại trong cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1959. Nhìn lại địa vị và uy tín của Nguyễn Hữu Đang trong chính trị cũng như văn nghệ, Hồng Vân hẳn là ẩn danh của một người tầm cỡ như Trường Chinh, Xuân Thủy… mới có đủ “thẩm quyền” để viết bài “đánh” Nguyễn Hữu Đang, như người ta đã giao cho Nguyễn Công Hoan đánh Phan Khôi, Phạm Huy Thông đánh Trần Đức Thảo, Hoài Thanh đánh Trương Tửu, Xuân Diệu đánh Lê Đạt…
Bút hiệu: Nguyễn Hữu Đang có nhiều bút hiệu khác nhau và hiện nay chưa biết rõ ông đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong cuộc đời tranh đấu cách mạng và trong thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, vì vậy, việc tìm lại những bài viết của ông không dễ dàng. Một ví dụ: ngay bài “Người thuyền trưởng” ông viết về Nguyễn Văn Tố, cũng dưới hai bút hiệu khác nhau: phần đầu Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, sau mới thu thập lại làm một dưới tên Nguyễn Hữu Đang. (Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền bá quốc ngữ (1938-1988), đăng trong tập kỷ yếu của Hội, do nhà xuất bản Bộ giáo dục ấn hành, sau này đăng lại trên Diễn Đàn số 78, tháng 10/1998, và diendan.org).
Trong thời kỳ làm báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang, ngoài bài “Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân văn số 5, ký tên thật, và bài trên Nhân văn số 6 (không ra được), còn có những bài nào khác, ông ký những tên gì?
Mạnh Phú Tư trong bài đả kích Nguyễn Hữu Đang, viết: “Hắn lẩn mình và rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang”.
Ba người có thể cho biết rõ về việc này là hai nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, và họa sĩ Trần Duy. Trần Duy là thư ký toà soạn báo Nhân văn, nhưng đã từ lâu ông im lặng.
Hoạt động Truyền bá quốc ngữ: Về phong cách hoạt động của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 16/6/1942: “Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài chính (Hà Nội) xuống đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy”.
Trong bài Người thuyền trưởng, Nguyễn Hữu Đang viết:” Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội truyền bá quốc ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Cậu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc.”
Như chúng ta đã biết Hội truyền bá quốc ngữ xuất thân từ Hội Trí Tri. Cụ Nguyễn Văn Tố, nhà nghiên cứu sử học và hán học tại trường Viễn Đông Bác Cổ là Hội trưởng Hội Trí tri, kiêm Hội trưởng Hội truyền bá quốc ngữ. Trong số những thành viên xây dựng Hội có các nhà trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài học thuộc lòng: i tờ có móc cả hai….
Lời chứng trên đây của Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số vấn đề mà đến nay vẫn thường được người ta làm mập mờ đi:
- Lúc đầu, Hội được chính quyền thuộc địa chính thức công nhận.
- Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập hội như một vài tài liệu đã ghi. Trong bài này, ông cho biết lúc ấy ông đang dạy học ở nông thôn, hè về Hà nội, tình cờ gặp Đào Duy Kỳ ở ngoài phố, Đào Duy Kỳ khuyên ông nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt để nhận việc dạy học giúp Hội.
- Việt Minh, mặc dầu có những người tham dự Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng không có vai trò lãnh đạo và khai sinh ra Hội Truyền bá quốc ngữ, như khẩu hiệu: “Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch Truyền bá quốc ngữ”. Trong những tài liệu chính thức của nhà nước, người ta không nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội Truyền bá quốc ngữ, vì ông không theo cộng sản.
Vẫn theo bài viết của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta được biết từ 1938 đến 1945, trong “Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ”. Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền (1945), chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ để thay thế Hội truyền bá quốc ngữ. Từ đó vai trò thuyền trưởng của Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.
- Tài liệu chính thức (ông Quang Quý và nhiều nơi chép): từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, Nguyễn Hữu Đang được cử làm thanh tra Bình dân học vụ, là sai. Vì lúc đó Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng rồi.
Trước 1954: Về tài trí của Nguyễn Hữu Đang, ngày 30/7/1942, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký: “Nghe Đang nói chuyện, tự thẹn. Anh đã biểu lộ ngay từ bé một tính cách đặc biệt, hùng hổ và ngang tàng. Không sợ, khinh quyền thế, biến báo giỏi, biết thân phận mình, tin ở tài mình, đó là những tính cách của một người giỏi”.
1945 là năm Nguyễn Hữu Đang hoạt động mạnh, về mặt chính trị, ông được chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập ở Ba Đình; về mặt văn hoá, ông chủ trương tạp chí Tiên Phong cùng Đặng Thai Mai viết bài Định nghiã hai chữ văn hoá (in trên Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/ 1945). Tư thế chính trị và văn hoá của Nguyễn Hữu Đang từ 1945 đến 1947 đã lên tới tột điểm.
Vị trí này được Nguyễn Huy Tưởng xác định trong nhật ký ngày 15/11/1947: “Chuyện Tham Ý. Phục các cán bộ Việt minh (…) Phục Đang. Hỏi thầm một người: Có phải là cánh tay phải của cụ Hồ không? Băn khoăn không biết bây giờ Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy, thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả uỷ ban kháng chiến”.
Qua bài Định nghiã hai chữ văn hoá, chúng ta biết được những nhận thức của Nguyễn Hữu Đang về văn hoá, biết được mối tương giao của ông với những nhà văn hoá đương thời như Nguyễn Đức Quỳnh (trốt-kít), Đào Duy Anh. Chính sự giao thiệp rộng của ông với các nhà trí thức trong nhóm Hàn Thuyên đã gây khó khăn cho ông.
Qua lời buộc tội của Hồng Vân trong bài “Tên quân sư quạt mo: Nguyễn hữu Đang”, chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ năm 1929, 16 tuổi, ông đã được coi là “đối tượng kết nạp” mà mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được kết nạp vào đảng, cũng như việc ông xa rời đảng khoảng một năm sau khi được kết nạp:
”Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương “cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ- rốt-kít”.
“Bất mãn vói đoàn thể Văn Hoá Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hoá toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hoá toàn quốc”
“Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao. Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ.”
“Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền (…) không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm Thanh tra Bình dân học vụ”.
“Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưỏng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm “quân sư” cho nhà xuất bản Minh Đức (…) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng”.
Năm 1947 ông được kết nạp vào đảng, và theo Nguyễn Huy Tưởng, thì năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh cụ Hồ.
Vậy Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng từ năm nào?
Theo Hồng Vân, Nguyên Hữu Đang bỏ hoạt động từ khi cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Vậy cần xem lại: Cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc năm nào? Diều này không khó, vì nhiều người lớn tuổi ở trong nước biết rõ việc này. Nhưng có lẽ đây chỉ là cái cớ mà Nguyễn Hữu Đang đưa ra để thôi hoạt động.
Hoàng Cầm có một lý do sâu xa hơn: “Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến (…) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. (…) Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức (…) Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là hình như trong hội nghị văn hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa” (Xem bài Tưởng niệm Nguyễn Hữu Đang).
Nhưng theo bản tường trình của Xuân Diệu về Hội nghị văn nghệ toàn quốc, thì Nguyễn Hữu Đang không đi dự hội nghị này, mặc dù như trên,ta đã biết, là đến cuối năm 1946, Nguyễn Hữu Đang còn là chủ tịch uỷ ban vận động hội nghị văn hoá toàn quốc (còn gọi là Hội nghị văn nghệ toàn quốc), nhưng vì chiến tranh, cho nên đến tháng 7/1948 mới tổ chức được Hội nghị này. Như vậy, mối bất đồng giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang đã xẩy ra trước hội nghị cho nên Nguyễn Hữu Đang mới không đi dự.
Vẫn theo lời Hoàng Cầm (phần này chúng tôi chưa kịp ghi ra hết để đăng trên HL số này): Sau khi hoà bình lập lại, Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu bàn nhau (dĩ nhiên là có sự đồng ý của Trường Chinh), là anh Đang đã lâu lắm anh ấy không làm gì, vậy nên mời anh ấy ra hoạt động lại”. Điều này phù hợp với việc Nguyễn Huy Tưởng mời Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ, như lời chứng của Lê Đạt và như Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký.
Tóm lại thời kỳ 1948-1954, trái với những gì ghi trong tiểu sử chính thức: Trong 6 năm, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với chính phủ cách mạng.
Và khi trở lại, thì ông bắt đầu bằng bài tham luận “nẩy lửa” đọc trong buổi học tập Văn Nghệ, chỉ trích những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ.
Việc Nguyễn Hữu Đang đả kích công khai đường lối của đảng và của lãnh đạo văn nghệ trong thời kỳ này đã khiến Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký những hàng sau đây: ‘”Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn (nhật ký ngày 21/4/55). “Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh (24/4/1955) “Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: (đã) in Gốc đa, Gặp Bác, v.v.. (23/6/1955) “Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang (21/8/56).
Những bực mình và dằn vặt này của Nguyễn Huy Tưởng về tình hình chung và về Nguyễn Hữu Đang càng làm sáng tỏ tư cách của ông trong việc bênh vực Nhân văn sau này.
Hoạt động Nhân Văn: Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười!”. ( xem bài Mạnh Phú Tư).
Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn”.
Hoàng Cầm: “Nhân Văn ra số đầu tiên khoảng tháng 9 năm 1956 tức là cách Giai phẩm mùa xuân 8, 9 tháng. Làm Giai phẩm mùa xuân, Giai phẩm mùa thu, Giai phẩm mùa đông cũng là do tôi và anh Lê Ðạt làm là chính. Thế rồi đến Nhân Văn thì anh Nguyễn Hữu Ðang là người sinh ra báo Nhân Văn, tôi là người đặt tên cho tờ báo. Nhưng đồng thời sau đó cũng lại chính mình phải làm tất cả mọi viêc của tờ báo. Phụ thêm thì có anh Lê Ðạt. Thế còn anh Trần Dần thì vì anh ấy cũng yếu và những công việc của một tờ báo thì anh ấy cũng không làm được”. (HC trả lời phỏng vấn TK, HL số 81)
Sau đây chúng tôi đúc kết những lời Lê Đạt nói về tờ Nhân văn và vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong báo Nhân văn, trên HL số 81:
“Tháng 5 năm 1956, bắt đầu ở Trung Quốc có phong trào Trăm Hoa Ðua Nở thì ở Việt Nam cũng bắt đầu có cuộc học tập văn nghệ về vấn đề dân chủ. Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Và tôi phải nói về anh Ðang như thế này: Anh Ðang là người hoạt động lâu năm ở trong Ðảng, nhưng đã từ lâu - hình như có cái gì không bằng lòng mà trong danh từ của chúng tôi người ta thường gọi là “bất mãn” - anh không hoạt động nữa. Lúc bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng có đón anh ấy ra để làm báo Văn Nghệ, cùng với tôi. Trong buổi học tập Văn Nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm”. Ðó là lời nói của Ðang như thế. Trong tất cả các anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ có tôi là biết Ðang thôi, nhưng do việc họp văn nghệ như thế thì Ðang cũng dần dần biết anh em chúng tôi nhiều hơn, tiếp xúc với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân nhiều hơn, nhưng Ðang cũng chỉ thân với tôi thôi. Thế còn Trần Dần, Văn Cao, và các anh em… cũng không thân gì với Ðang lắm.
Ðang nói với tôi: “Thế nào cũng phải ra báo và ra báo thì chắc là tụi mày phải làm thôi.” Vì tình hình Trung Quốc họ làm như thế, cho nên ở Việt Nam cũng có cởi mở hơn về vấn đề dân chủ, tháng 9 năm 1956, cho tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân. Như thế bước đầu, có thể gọi là một thắng lợi. Và trong tình hình sôi sục như thế Ðang có đề nghị ra một tờ báo, tờ báo này chính là tờ Nhân Văn.
Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn lắm. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ (…) Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao Nhân Văn cho anh Cầm. Tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang (…) Việc quản trị tờ Nhân Văn là do anh Ðang lo. Anh Ðang trước đã hoạt động trong giới văn hóa nội thành, cho nên anh ấy quen rất nhiều những người làm văn hóa và những cơ sở in ấn ở nội thành.
Về số 1 Nhân Văn, nguồn gốc cái tên Nhân Văn, bây giờ kể lại, có hơi phức tạp, vì tôi không hiểu là ai nói đúng. Tôi nghĩ rằng các anh ấy cũng chẳng nói dối đâu, nhưng chắc là trí nhớ của các anh không phục vụ các anh một cách trung thành: Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào. Còn mọi việc cứ để các anh tĩnh trí nghĩ lại (…) Sáng kiến này là của Ðang - Ðang bảo: “Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay”.
Tất cả những trích dẫn trên đây đã cho ta thấy rõ hơn chân dung của Nguyễn Hữu Đang. Nhưng qua những bài viết của ông, mà chúng tôi tạm thời thu thập được, độc giả sẽ thấy nhiều khía cạnh khác nhau trong con người ông: một nhà văn hoá qua bài Định nghiã hai chữ Văn hoá (viết chung với Đặng Thai Mai). Tinh thần tranh luận khoa học và lịch lãm trong bài Văn Hoá tức là. Óc phân tích phê bình trong bài Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm. Tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ trong bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Sự thẳng thắn, khúc triết, hùng biện, trong bài trả lời phỏng vấn.
Về con người và uy tín của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta sẽ tìm thấy trong các mảnh chân dung mà các bạn ông viết hoặc nói về ông, đặc biệt những dòng trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu là hai nhân vật quan trọng trong ban lãnh đạo văn nghệ thời đó. Tuy bị Nguyễn Hữu Đang chỉ trích nặng nề, nhưng thái độ của Nguyễn Huy Tưởng đối với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Nhân văn Giai Phẩm khác hẳn thái độ của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi. Những gì ông lưu lại trong nhật ký vừa vẽ nên chân dung Nguyễn Hữu Đang, vừa vẽ chân dung Nguyễn Huy Tưởng như một nhà văn hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, trong ban lãnh đạo văn nghệ, không những đã giữ được nhân cách của mình, mà còn viết thư phản đối Trường Chinh, bảo vệ Nhân văn Giai phẩm, trong một thời mà con người, dù tài năng đến thế nào, cũng đã phải bán rẻ lưong tâm, lấy cái sợ làm phương châm sống còn, sống cúi đầu im lặng, sống mất mình trong phong trào bồi bút. Một số bài mạ lỵ Nguyễn Hữu Đang cũng được đăng lại ở đây, để chúng ta thấy rõ không khí bồi bút thấp hèn mà những người trong Nhân văn Giai phẩm đã phải chịu đựng trong nhiều thập kỷ.
Thụy Khuê
Paris, tháng 3/2007
No comments:
Post a Comment