Tôi bước dần vào lòng Hà Nội
một sáng đầu thu nắng lên
chưa bao giờ
nắng chiều như hôm nay
trên ngực em gái quàng khăn đỏ.
Tôi bước dần vào lòng Hà Nội
gió vút lên cao tiếng máy
nhà diêm, nhà rượu, nhà bia
sở thuộc da, nhà máy nước, máy điện
trời ta càng ngợp khói
những nhà máy đó
dân ta càng dễ thở hơn.
Nắng rất nhiều
chưa bao giờ nắng nhiều
như hôm nay
trên ngực em gái quàng khăn đỏ
Tôi bước vào hàng sách
thấy buồn buồn
ít quá
cô hàng chống cằm ngồi mơ đi đâu?
Ôi! người yêu tôi đang buồn tủi
bao giờ cho em vui
sao mà chất nghèo
giá lại đắt.
cửa hàng quốc văn bé quá
so với những thứ khác
cũng gọi là hàng
bao giờ ở nước ta
có một Pie Xê-gơ [2]
kính cẩn in sách cho
A-ra-gông, Béc-tôn Bờ-rét [3]
Tôi bước vội ra tai ù lên
Như nghe tiếng nhiều người hỏi tội
Tôi thấy những đôi mắt nghiêm khắc
Của Lỗ Tấn, Goóc-ki, Rô-lăng
Ban-dắc, Sét-spia, Hao-va Phốt [4]
trừng lên: “Bao giờ các anh mới chịu
đọc sách chúng tôi”.
Nhưng may thay
nắng hôm nay nhiều quá
nắng vẫn sáng trên ngực
em gái quàng khăn đỏ
tôi rẽ vào một nhà in
ngửi thấy mùi giấy
tôi say như thèm hơi thở
trên ngực người yêu
nhưng lật đống giấy
lại thấy quảng cáo hoá đơn của mậu dịch
còn nhiều hơn tiểu thuyết
Tôi bước ra đường
lại ngồi cạnh một em bán báo
báo lèo tèo cùng một khuôn
giống nhau như một hàng quân phục
có tờ số xuất bản ra
không cao bằng số bao thuốc lá
bán ở một hàng Bờ Hồ
trong những tờ báo Đảng
các anh quên mất phần con người
thỉnh thoảng còn sống sượng
xếp nên những dòng chính sách trên giấy
các anh có biết rằng
một bộ ngực vừa nhú lên đôi vú
là đời sắp thêm một chuyện mới
của hai người yêu nhau
và Đảng phải lo cho họ
nhưng một số nhà văn ta
vì thích vỗ tay hiếu hỷ
cũng quên mất nốt
trong đó có những kẻ
nằm ngoan như cục xà-phòng
có mùi thơm và nhiều bọt
Tôi vào hàng cà-phê
một anh thương binh Nam bộ
tập tễnh đi
chiếc chân Đức mới lắp
hớn hở như trẻ lên hai
tập đi bên tay mẹ
thế mà không ai nói tới
trong lúc đó trên màn ảnh
phim ta nhiều diễn thuyết và vỗ tay
mà một số người quan trọng
vô tình đã trở nên tài tử
của Xưởng phim Thời sự
Nhưng may thay
nắng hôm nay nhiều quá
nắng sáng rực
trên ngực em gái quàng khăn đỏ
Có người chỉ đường
miệng rít còi
mắt mải nhìn theo một tà áo tím
để đọng lại một số xe
nhưng khách qua đường
đã vui vẻ cười
dễ tính
Vải vóc muôn mầu
nhiều lắm
hoa muôn mầu
nhiều lắm
nhưng bao giờ sách báo cũng nhiều
như hoa
tôi sẽ cao giọng
hát một bản tình ca
tặng các nhà xuất bản.
Giai phẩm mùa Thu 1956 I
Hà Nội, 9-1956
==
Trần Công
Chống bè phái trong văn nghệ [12]
(Tiếp theo kỳ trước)
II. Nguyên nhân và tai hại
Nói đến văn nghệ, người ta thường nghĩ tới học phái này học phái nọ. Người ta nghĩ đến những cuộc bút chiến, tranh luận nảy lửa mục đích là càng ngày càng làm giầu thêm kho tàng văn học của nhân loại. Chính ra phải nói đến bè phái là cả một sự đau lòng. Có phải chuyện “vụn vặn giải quyết vài ngày trong nội bộ” như lời gần đây của Thúc Đại không? Sự thực nó không dễ như anh nghĩ đâu. Hiện tượng bè phái trong văn nghệ nghiêm trọng vì bè phái đó lại là một số lớn những người lãnh đạo văn nghệ có vị và có quyền.
Trong kháng chiến, trái tim của con người gần gũi nhau hơn. Cũng mặc áo nâu ngồi bên vỉa đường hút chung điếu thuốc lào, con người văn nghệ hiểu nỗi khổ của nhau thấm thía hơn. Hôm tổng kết học tập, đồng chí Tố Hữu cũng có nhận khuyết điểm là hai năm nay ít gần gũi anh em. Đấy là một hiện tượng xa rời quần chúng. Xa rời quần chúng thì nhất định không rõ tâm lý quần chúng, không rõ tâm lý quần chúng thì những điều chỉ thị xuống chỉ mơ hồ, máy móc không thích hợp. Huống chi bên cạnh mình lại có thêm một số cá nhân hẹp hòi, thiển cận thì đồng chí Tố Hữu bây giờ có thấy anh em phê bình là bè phái, cũng chỉ cho là lời đả kích của “mấy thằng bất mãn”.
Một nguyên nhân của bè phái là
kém lý luận. Những người lãnh đạo văn nghệ sở dĩ đã phải cố kết thành
một khối để củng cố địa vị, chống đỡ với quần chúng, là vì không có cơ
sở lý luận. Do đó, họ đã không “đem trả về cho quần chúng những cái của
quần chúng”. Người kém lý luận thường nhìn sự đời bằng con mắt chủ quan,
một lối chủ quan duy tâm. Lối nhìn chủ quan duy tâm này nguy hiểm vì nó
chỉ dựa trên cảm tính vu vơ, không biện chứng. Tôi xin lấy một đoạn của
Hoài Thanh tự phê bình về vụ Trần Dần đăng trong Văn nghệ số 139 để dẫn
chứng lối nhìn đời bằng con mắt chủ quan duy tâm đó: “Trong trí tôi nẩy
ra ý nghĩ: Trung Quốc có Hồ Phong, biết đâu chúng ta lại không có một
Hồ Phong”, và rồi Hoài Thanh suy diễn: “Lúc đầu đọc bài ‘Nhất định
thắng’ tôi chỉ cảm giác đây là một tâm trạng âm u... Nhưng chẳng mấy
chốc tôi đã chuyển sang nghĩ đây là một sự cố tình vu khống”.
Cũng có những người lãnh đạo vốn không bè phái, nhưng do chỗ ở một cương vị lãnh đạo phải giải quyết những yêu cầu của quần chúng văn nghệ sĩ, mà năng lực thì đuối nên rốt cuộc cũng phải dựa vào bè phái để chống chế đối với anh em. Đó là trường hợp đấu tranh chính sách ở Phòng Văn nghệ Quân đội 1955. Lúc anh em văn nghệ sĩ đưa ra thảo luận một bản đề án về chính sách văn nghệ, đại cương có ba điểm lớn:
* Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị
* Chủ trương sáng tác rộng rãi, trăm hoa đua nở
* Những điều kiện cần yếu về sinh hoạt của văn nghệ sĩ.
thì một số những người lãnh đạo Văn nghệ Quân đội (trong đó có cả văn nghệ sĩ) luống cuống. Luống cuống vì nhìn không rõ bước tiến tất nhiên của thực tế, không nhìn được xa rộng vấn đề sẽ đi tới đâu. Về sau, khi kiểm điểm sai lầm, một trong những nhà lãnh đạo đó đã thành khẩn nói: “Khi thấy anh em đề ra chính sách tôi thấy là đúng; nhưng khi thấy cấp trên bảo là sai, tôi cũng lại thấy lời cấp trên là đúng”. Rồi đàn áp, chia để trị, bằng mọi biện pháp như kiểu Hoài Thanh: “Ý thức của tôi trong khi tham gia điều khiển cuộc họp là muốn cô lập Trần Dần và tranh thủ những người khác có bài trong Giai phẩm. Cái lối cô lập tranh thủ ấy dựa trên ý định lấy nhiều người đàn áp một người...”
Nguyên nhân thứ hai của bè phái, quan trọng hơn là đầu óc sùng bái cá nhân. Khi đã kém lý luận, suy nghĩ theo lối chủ quan duy tâm thì phải dựa vào ý kiến của cấp trên. Do đó mà một câu hỏi vu vơ hay nhẹ dạ của một cán bộ cấp trên cũng được những người nặng đầu óc sùng bái cho là một chỉ thị. Và cứ thế áp dụng. Cũng anh cán bộ lãnh đạo văn nghệ trong Quân đội trên kia nói: “Trong tình thế ý kiến anh em và ý kiến cấp trên mâu thuẫn thì bao giờ tôi cũng làm theo ý kiến cấp trên chứ không cần suy xét gì nữa”. Cũng cần nói đến đầu óc địa vị của một số văn nghệ sĩ trong Quân đội đã nhẩy lên ghế lãnh đạo phong trào, thừa thế kết bè “làm láo, báo cáo hay”, kìm hãm phong trào văn nghệ trong Quân đội đang lớn mạnh. Tại sao, khi có lệnh gửi ra nước bạn những tác phẩm giá trị của Quân đội để giới thiệu Quân đội Việt Nam anh dũng lại thiếu hai cuốn chuyện Người người lớp lớp của Trần Dần và Vượt Côn Đảo của Phùng Quán mà chỉ thấy một số sách mà toàn quân ít hưởng ứng của một số bè phái văn nghệ sĩ trong Quân đội? Nên xét lại xem việc Tú Nam tự động đóng dấu, lấy quyền ký tên hạ lệnh cho nhà xuất bản Quân đội in hàng vạn cuốn Mất con mất cháu của mình có phải là một hành động lũng loạn không? Trước đó, nhà xuất bản của Hội đã không nhận in vì Mất con mất cháu dở quá. Bài “Một vài sai lầm của lãnh đạo văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi (Văn nghệ số 140) không công nhận có bè phái. Nhưng cũng trong bài đó, anh viết: “Số ít người nắm quyền quyết định trở thành tự mãn, độc đoán”, “Bộ phận lãnh đạo trở thành một nhóm đóng cửa, hẹp hòi, cô độc, nể nang lẫn nhau; khi có khuyết điểm thì xuê xoa không thẳng thắn đấu tranh nội bộ và mạnh dạn tự phê bình trước quần chúng”.
Đành rằng tình trạng bè phái của lãnh đạo văn nghệ không xuất phát từ một âm mưu lũng loạn từ đầu. Nhưng trên hiện tượng do anh Thi tự thú và hàng mấy trăm anh em văn nghệ sĩ đã vạch ra trong đợt học tập tháng tám vừa qua, tôi tưởng không cần phải chứng minh thêm gì nữa tính chất bè phái cũng đã quá rõ rệt rồi. Bây giờ đã đến lúc vấn đề không còn là nhận hay không nhận một danh từ nữa mà phải bắt cho đúng mạch, tìm cho đúng bệnh để cứu người ốm. Đừng kéo dài nữa mà tốn tiền, tốn thuốc, lại hại người.
Đảng ta giầu kinh nghiệm đấu tranh. Trung ương ta bao gồm những người con ưu tú của dân tộc. Tại sao xảy ra tình trạng rối ren này? Một phần lớn của vấn đề là do bè phái trung gian đã ngăn cách Trung ương với quần chúng. Đành rằng vì Đảng ta chưa có một chính sách văn nghệ cụ thể. Nhưng giá những người trung gian cứ làm việc đúng công tâm con người cách mạng, rộng rãi, biết nâng đỡ mọi người, thẳng thắn không bao che khuyết điểm thì đâu đến nỗi! Giá thử những năm vừa qua họ trung thành với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, đừng gạt bỏ ý kiến xây dựng của những người tốt, đừng sống giả dối, thích nghe những lời nịnh hót hay tâng bốc lẫn nhau, thì chúng ta đã có thể cống hiến nhiều sáng tác tốt hơn cho nhân dân và góp cả phần giúp Trung ương xây dựng chính sách văn nghệ nữa.
Cũng do đó mà phong trào văn nghệ chúng ta ì ạch, một chiều, tình thân giữa văn nghệ sĩ với nhau sút kém nặng nề, nhiều văn nghệ sĩ vẫn bị coi rẻ, đời sống văn nghệ sĩ không được bình thường. Văn nghệ là của quần chúng. Phải trả về cho quần chúng. Đảng chỉ khơi nguồn, giúp cho khả năng quần chúng dễ phát huy. Người chịu trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ phải lắng nghe ý kiến quần chúng đặng thi hành chính sách của Đảng đúng đường lối quần chúng.
Anh em không cầu mong gì hơn một thái độ thành khẩn của những người lãnh đạo văn nghệ, để sẵn sàng cùng nhau xây dựng một nền văn nghệ phong phú cho dân tộc. Cơn sóng gió hiện nay có yên đi thì mới nói chuyện sáng tác và tiến hành chuẩn bị Đại hội tốt được. Nhưng muốn được thế, những người lãnh đạo văn nghệ phải có thái độ rõ rệt hơn, đừng úp mở nữa; bè phái phải giải thể đi, thì mới tạo nên điều kiện tốt cho Trung ương gần gũi văn nghệ sĩ hơn để lãnh đạo họ bằng một đường lối sát đúng và một chính sách cụ thể.
4. NHÂN VĂN 2 * PHẦN III
==
Trần Công và Trần ThịnhĐã tiến thêm được một bước, cần tiến thêm bước nữa [7]Từ đợt học tập tháng tám, giới văn nghệ vẫn chờ đợi giải quyết những vấn đề đã được nêu ra sôi nổi trong các tổ và trong buổi tổng kết.Cụ thể ra, anh chị em công tác văn nghệ đòi thực hiện trước Đại hội Văn nghệ Toàn quốc những việc này.1. Xét lại vụ Giai phẩm mùa Xuân2. Xét lại vụ Giải thưởng Văn học 1954-19553. Mở rộng tự do và dân chủ, công bố và áp dụng ngay những nguyên tắc cơ bản của đường lối “trăm hoa đua nở”
Cũng có những người lãnh đạo vốn không bè phái, nhưng do chỗ ở một cương vị lãnh đạo phải giải quyết những yêu cầu của quần chúng văn nghệ sĩ, mà năng lực thì đuối nên rốt cuộc cũng phải dựa vào bè phái để chống chế đối với anh em. Đó là trường hợp đấu tranh chính sách ở Phòng Văn nghệ Quân đội 1955. Lúc anh em văn nghệ sĩ đưa ra thảo luận một bản đề án về chính sách văn nghệ, đại cương có ba điểm lớn:
* Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị
* Chủ trương sáng tác rộng rãi, trăm hoa đua nở
* Những điều kiện cần yếu về sinh hoạt của văn nghệ sĩ.
thì một số những người lãnh đạo Văn nghệ Quân đội (trong đó có cả văn nghệ sĩ) luống cuống. Luống cuống vì nhìn không rõ bước tiến tất nhiên của thực tế, không nhìn được xa rộng vấn đề sẽ đi tới đâu. Về sau, khi kiểm điểm sai lầm, một trong những nhà lãnh đạo đó đã thành khẩn nói: “Khi thấy anh em đề ra chính sách tôi thấy là đúng; nhưng khi thấy cấp trên bảo là sai, tôi cũng lại thấy lời cấp trên là đúng”. Rồi đàn áp, chia để trị, bằng mọi biện pháp như kiểu Hoài Thanh: “Ý thức của tôi trong khi tham gia điều khiển cuộc họp là muốn cô lập Trần Dần và tranh thủ những người khác có bài trong Giai phẩm. Cái lối cô lập tranh thủ ấy dựa trên ý định lấy nhiều người đàn áp một người...”
Nguyên nhân thứ hai của bè phái, quan trọng hơn là đầu óc sùng bái cá nhân. Khi đã kém lý luận, suy nghĩ theo lối chủ quan duy tâm thì phải dựa vào ý kiến của cấp trên. Do đó mà một câu hỏi vu vơ hay nhẹ dạ của một cán bộ cấp trên cũng được những người nặng đầu óc sùng bái cho là một chỉ thị. Và cứ thế áp dụng. Cũng anh cán bộ lãnh đạo văn nghệ trong Quân đội trên kia nói: “Trong tình thế ý kiến anh em và ý kiến cấp trên mâu thuẫn thì bao giờ tôi cũng làm theo ý kiến cấp trên chứ không cần suy xét gì nữa”. Cũng cần nói đến đầu óc địa vị của một số văn nghệ sĩ trong Quân đội đã nhẩy lên ghế lãnh đạo phong trào, thừa thế kết bè “làm láo, báo cáo hay”, kìm hãm phong trào văn nghệ trong Quân đội đang lớn mạnh. Tại sao, khi có lệnh gửi ra nước bạn những tác phẩm giá trị của Quân đội để giới thiệu Quân đội Việt Nam anh dũng lại thiếu hai cuốn chuyện Người người lớp lớp của Trần Dần và Vượt Côn Đảo của Phùng Quán mà chỉ thấy một số sách mà toàn quân ít hưởng ứng của một số bè phái văn nghệ sĩ trong Quân đội? Nên xét lại xem việc Tú Nam tự động đóng dấu, lấy quyền ký tên hạ lệnh cho nhà xuất bản Quân đội in hàng vạn cuốn Mất con mất cháu của mình có phải là một hành động lũng loạn không? Trước đó, nhà xuất bản của Hội đã không nhận in vì Mất con mất cháu dở quá. Bài “Một vài sai lầm của lãnh đạo văn nghệ” của Nguyễn Đình Thi (Văn nghệ số 140) không công nhận có bè phái. Nhưng cũng trong bài đó, anh viết: “Số ít người nắm quyền quyết định trở thành tự mãn, độc đoán”, “Bộ phận lãnh đạo trở thành một nhóm đóng cửa, hẹp hòi, cô độc, nể nang lẫn nhau; khi có khuyết điểm thì xuê xoa không thẳng thắn đấu tranh nội bộ và mạnh dạn tự phê bình trước quần chúng”.
Đành rằng tình trạng bè phái của lãnh đạo văn nghệ không xuất phát từ một âm mưu lũng loạn từ đầu. Nhưng trên hiện tượng do anh Thi tự thú và hàng mấy trăm anh em văn nghệ sĩ đã vạch ra trong đợt học tập tháng tám vừa qua, tôi tưởng không cần phải chứng minh thêm gì nữa tính chất bè phái cũng đã quá rõ rệt rồi. Bây giờ đã đến lúc vấn đề không còn là nhận hay không nhận một danh từ nữa mà phải bắt cho đúng mạch, tìm cho đúng bệnh để cứu người ốm. Đừng kéo dài nữa mà tốn tiền, tốn thuốc, lại hại người.
Đảng ta giầu kinh nghiệm đấu tranh. Trung ương ta bao gồm những người con ưu tú của dân tộc. Tại sao xảy ra tình trạng rối ren này? Một phần lớn của vấn đề là do bè phái trung gian đã ngăn cách Trung ương với quần chúng. Đành rằng vì Đảng ta chưa có một chính sách văn nghệ cụ thể. Nhưng giá những người trung gian cứ làm việc đúng công tâm con người cách mạng, rộng rãi, biết nâng đỡ mọi người, thẳng thắn không bao che khuyết điểm thì đâu đến nỗi! Giá thử những năm vừa qua họ trung thành với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm, đừng gạt bỏ ý kiến xây dựng của những người tốt, đừng sống giả dối, thích nghe những lời nịnh hót hay tâng bốc lẫn nhau, thì chúng ta đã có thể cống hiến nhiều sáng tác tốt hơn cho nhân dân và góp cả phần giúp Trung ương xây dựng chính sách văn nghệ nữa.
Cũng do đó mà phong trào văn nghệ chúng ta ì ạch, một chiều, tình thân giữa văn nghệ sĩ với nhau sút kém nặng nề, nhiều văn nghệ sĩ vẫn bị coi rẻ, đời sống văn nghệ sĩ không được bình thường. Văn nghệ là của quần chúng. Phải trả về cho quần chúng. Đảng chỉ khơi nguồn, giúp cho khả năng quần chúng dễ phát huy. Người chịu trách nhiệm lãnh đạo văn nghệ phải lắng nghe ý kiến quần chúng đặng thi hành chính sách của Đảng đúng đường lối quần chúng.
Anh em không cầu mong gì hơn một thái độ thành khẩn của những người lãnh đạo văn nghệ, để sẵn sàng cùng nhau xây dựng một nền văn nghệ phong phú cho dân tộc. Cơn sóng gió hiện nay có yên đi thì mới nói chuyện sáng tác và tiến hành chuẩn bị Đại hội tốt được. Nhưng muốn được thế, những người lãnh đạo văn nghệ phải có thái độ rõ rệt hơn, đừng úp mở nữa; bè phái phải giải thể đi, thì mới tạo nên điều kiện tốt cho Trung ương gần gũi văn nghệ sĩ hơn để lãnh đạo họ bằng một đường lối sát đúng và một chính sách cụ thể.
4. NHÂN VĂN 2 * PHẦN III
==
Trần Công và Trần ThịnhĐã tiến thêm được một bước, cần tiến thêm bước nữa [7]Từ đợt học tập tháng tám, giới văn nghệ vẫn chờ đợi giải quyết những vấn đề đã được nêu ra sôi nổi trong các tổ và trong buổi tổng kết.Cụ thể ra, anh chị em công tác văn nghệ đòi thực hiện trước Đại hội Văn nghệ Toàn quốc những việc này.1. Xét lại vụ Giai phẩm mùa Xuân2. Xét lại vụ Giải thưởng Văn học 1954-19553. Mở rộng tự do và dân chủ, công bố và áp dụng ngay những nguyên tắc cơ bản của đường lối “trăm hoa đua nở”
4. Chấp
nhận và thực hiện bốn đề nghị kết thúc bản tham luận của Tổ văn II (do
Nguyễn Hữu Đang đọc) hôm tổng kết (26-08-56) đã được tuyệt đại đa số tán
thành, gồm có:- Anh chị em được học tập nữa, hướng vào yêu cầu của Đại
hội và sửa đổi đường lối và chấn chỉnh tổ chức.- Anh chị em được gặp
Trung ương Đảng với mục đích trực tiếp phản ánh tình hình phong trào và
hiểu rõ chủ trương của Đảng để căn cứ vào đó mà tiến hành kiểm điểm
những việc cũ và chuẩn bị những việc mới.- Bổ sung vào Thường trực Ban
trù bị Đại hội một số đại biểu do anh chị em bầu ra. (Số đại biểu này
phải đông hơn số người được chỉ định trước), đồng thời nếu trong Ban Trù
bị có những người bị anh em chỉ trích nhiều thì cũng phải rút lui.-
Trong thời gian chuẩn bị Đại hội, Thường vụ Hội cùng với Thường trực Ban
trù bị (đã được bổ sung) tích cực giúp đỡ cho việc anh chị em ra thêm
báo được dễ dàng và Nhà Xuất bản Văn nghệ dành ưu tiên cho những tài
liệu của anh chị em viết bàn về lý luận hay tổ chức văn nghệ.Sau một
tháng trời im lặng một cách nặng nề, gần đây chúng ta đã thấy Thường vụ
Hội làm bốn việc:- Anh Hoài Thanh đã tự phê bình bằng một cuộc nói
chuyện và một bài báo về những sai lầm nghiêm trọng trong vụ Giai phẩm
mùa Xuân.- Anh Nguyễn Tuân đã viết một bài báo nhận những thiếu sót
trong việc chấm giải văn học 1954-1955 mà anh phụ trách.- Anh Nguyễn
Đình Thi đã viết một bài báo nêu những khuyết điểm trong sự lãnh đạo văn
nghệ nói chung.- Thường vụ Hội ra một thông cáo công nhận những sự việc
chính đã nêu ra trong ba bài báo nói trên. Ngoài ra, bản thông báo nói
rõ: “Ban Thường vụ còn tiếp tục kiểm điểm và tích cực sửa chữa”, “Ban
Thường vụ đã đề đạt những ý kiến và đề nghị của anh chị em lên Chính
phủ” và “Ban Thường vụ đã đề nghị Ban Trù bị Đại hội bổ sung thêm một số
đại biểu”.Bốn việc này đã giải quyết được gì?
Công bằng mà nói, những sự
kiện đó đã là một cố gắng làm dịu đôi chút tình hình sóng gió hiện nay
của ngành văn nghệ và làm cho những quan điểm nhiều chỗ đối lập giữa bộ
phận lãnh đạo và anh em nhích lại gần nhau hơn.Chúng tôi thành thật hoan
nghênh kết quả đó và mong rằng những cố gắng như thế sẽ được tiếp tục
và đẩy mạnh để phong trào chóng thoát ra khỏi cơn khủng hoảng.Nhưng một
mặt khác, phân tích kỹ bốn sự việc trên, ta thấy một số ý định mới tương
đối tiến bộ của Thường vụ Hội vẫn còn bị nhiều yếu tố bảo thủ kìm hãm
lại.Anh Hoài Thanh tự phê bình chưa thành khẩn, nghiêm chỉnh; ý kiến của
hai bạn Hữu Tâm và Thanh Bình trình bày trong số báo này sẽ vạch rõ.Anh
Nguyễn Tuân nhận xét công việc chấm giải văn học 1954-1955 một cách
đứng đắn hơn, gây cho anh chị em văn nghệ một ấn tượng tốt về thái độ
của một người có trách nhiệm với phong trào, tôn trọng dư luận quần
chúng và thật tâm muốn đi đến giải quyết hợp lý. Tuy vậy anh cũng chưa
nói được toàn bộ sự thật.
Anh Nguyễn Đình Thi kiểm điểm “một vài sai lầm
khuyết điểm trong sự lãnh đạo văn nghệ”, nhận “sự lãnh đạo của Hội và
các đồng chí chỉ đạo ở Hội có nhiều khuyết điểm” và nêu ra ba cái dở cần
chú ý là:- Non kém trầm trọng về lý luận;- Thủ công nghiệp, du kích,
tuỳ tiện;- Hẹp hòi, độc đoán cá nhân, thiếu dân chủ và tập thể.Nhưng anh
Thi lại chối cãi tinh thần bè phái, cho rằng chỉ có nể nang, xuê xoa và
nếu có bè phái thật thì chỉ là cá biệt mà thôi. Hơn nữa, để cắt nghĩa
tình trạng bị kìm hãm và những tệ hại hiện nay trong ngành văn nghệ, anh
đổ gần hết cho khách quan: nào là “chúng ta vướng mắc với bản thân
chúng ta khá nhiều”, nào là “những bệnh ấu trĩ của một nền văn nghệ vừa
mới thoát thai từ một chế độ thực dân và phong kiến”...
Còn phần chủ
quan? Anh Thi đắn đo, dè dặt nói:“Có thể là trong lãnh đạo có những sai
lầm, khuyết điểm kéo dài”.Rồi anh xoá nhoà luôn cái điều mà anh cho là
chưa chắc (!) đó bằng cách gài nó vào một hiện tượng quá phổ biến ở nước
ta đến nỗi không còn biết nên coi là lý do chủ quan hay khách
quan:“Những sai lầm đó có nhiều quan hệ đến tư tưởng sùng bái cá
nhân”.Chúng ta lấy làm lạ sao anh Thi lại nói như một người ở ngoài bộ
phận lãnh đạo, như chính mình không chịu trách nhiệm gì về những sai lầm
khuyết điểm kia. Và chúng ta lấy làm tiếc rằng bài kiểm điểm của anh
nêu ra nhiều vấn đề, đều đáng chú ý cả, nhưng không làm nổi bật lên được
cái then chốt. Với một thái độ mạnh dạn hơn, thẳng thắn hơn, anh sẽ có
thể thống nhất nhận định với anh em để cùng tìm một giải pháp.
Còn bản
thông cáo của Thường vụ Hội, nhờ có tính chất tập thể nên mặc dầu vẫn
còn nói chưa bằng lòng đối với vài trường hợp chỉ trích mạnh (gọi là đả
kích), cũng đã tỏ rõ một thái độ thật thà tiếp thu phê bình và sẵn sàng
hợp tác với anh chị em để sửa chữa. Song chúng ta không thể nào đồng ý
với bản thông cáo ở chỗ nó, chỉ nêu nguyên nhân là phương pháp sai, tác
phong xấu mà bỏ quên hẳn tư tưởng và động cơ.Tất cả những điều chưa thoả
đáng nói trên biểu hiện sự rụt rè của lãnh đạo, một sự rụt rè rất không
hợp thời. Quần chúng mong đợi một thay đổi lớn chứ không muốn chứng
kiến một cuộc vá víu.Và trên tình thân đó, anh chị em văn nghệ rất phấn
khởi đón tin Trung ương Đảng sẽ gặp đoàn đại biểu của anh chị em trong
một cuộc toạ đàm sắp tới.Để gần nhau, chúng ta đã tiến được một bước
đầu. Chúng ta sẽ cố gắng tiến thêm bước nữa.
5. NHÂN VĂN 3 * PHẦN 1
Trần CôngKhi ấy xuân sắp về(truyện ngắn)Những ngày tàn thu. Đường Lý Thường Kiệt dài, heo hút. Rặng cây đã đổi màu, lá úa rơi rơi trước từng cơn gió nhẹ. Sương mù nặng trĩu trên những tấm áo bông đang cúi đầu bước run rẩy.Minh hoạ của N.Ở một góc đường, Linh đang vẽ. Người anh dong dỏng cao, mặt gầy, mắt sáng, tuy đượm vẻ buồn xa xăm nhưng vẫn có tí tinh nghịch. Da hơi xám vì lạnh và cũng vì sốt nhiều trong những năm kháng chiến. Chiếc áo khoác bằng vải bạt mua chợ giời đã bạc màu, lấm tấm bẩn những vết mực vẽ. Bên lề đường, Lân, người học vẽ, ngồi co rúm vì lạnh, mải ngắm những cô nữ sinh. Lân còn trẻ lắm, mắt nhỏ, ngây thơ như mắt trẻ con, tóc hơi quăn, một mảng nhỏ rớt trên trán.
5. NHÂN VĂN 3 * PHẦN 1
Trần CôngKhi ấy xuân sắp về(truyện ngắn)Những ngày tàn thu. Đường Lý Thường Kiệt dài, heo hút. Rặng cây đã đổi màu, lá úa rơi rơi trước từng cơn gió nhẹ. Sương mù nặng trĩu trên những tấm áo bông đang cúi đầu bước run rẩy.Minh hoạ của N.Ở một góc đường, Linh đang vẽ. Người anh dong dỏng cao, mặt gầy, mắt sáng, tuy đượm vẻ buồn xa xăm nhưng vẫn có tí tinh nghịch. Da hơi xám vì lạnh và cũng vì sốt nhiều trong những năm kháng chiến. Chiếc áo khoác bằng vải bạt mua chợ giời đã bạc màu, lấm tấm bẩn những vết mực vẽ. Bên lề đường, Lân, người học vẽ, ngồi co rúm vì lạnh, mải ngắm những cô nữ sinh. Lân còn trẻ lắm, mắt nhỏ, ngây thơ như mắt trẻ con, tóc hơi quăn, một mảng nhỏ rớt trên trán.
Xung quanh Linh, dừng
lại một số người hiếu kỳ. Đây là một ông công chức vẫn hay đến sở muộn
giờ. Người đeo kính trẻ tuổi kia là một ông giáo ở trường bên cạnh. Cả
một anh công an. Anh hơi nhíu mày, phóng xe lại định hỏi, nhưng lại thấy
một hoạ sĩ đang vẽ nên lại thôi và cũng tò mò đứng xem.Xa Việt Bắc hơn
một năm nay, anh nhớ những đồi sim dại, tím ngát trong chiều hoàng hôn,
những đồi sim đã vỗ về Linh sống trong những ngày gian khổ. Linh nhớ
những ngưòi con gái đẹp nghèo trong xóm, chiều chiều lên đồi sim tìm củi
rồi hát véo von. Từ khi về Hà Nội, đề tài của anh tản mạn, nhiều vướng
mắc. Anh vẽ nhiều nhưng kết quả ít được như ý muốn. Rồi mùa thu về. Ngồi
đếm lá vàng rụng, anh sực nhớ ra mình đã hai mươi tám. Mải mê với nghệ
thuật, đâu sẽ là mảnh nắng ấm lòng để sưởi khi trời trở lạnh.
Anh thèm
khát nhìn theo những tà áo. Có một chiều nắng vàng, gió nhẹ lất phất
những tà áo tím quất vào hồn anh lùi về dĩ vãng: màu tím hoa sim dại
trên núi đồi Việt Bắc, bóng người con gái nghèo nhặt củi mỗi buổi hoàng
hôn xuống.Linh tần ngần bảo Lân:"Lân ơi, tôi sẽ vẽ một người thôn nữ
trong những bông sim tím."Lân hồn nhiên:"Đúng đấy anh Linh ạ. Anh vẽ
người đẹp đi, Lân thích lắm."Thế rồi, có một sáng sớm, trời lành lạnh,
Linh và Lân xách giá ra góc đường ngồi vẽ. Linh muốn ngồi ngay góc ngã
tư này để tìm gợi cảm hứng ở những màu áo tím của các cô nữ sinh.Đã một
tuần rồi, vẽ rồi lại xoá, màu tô lại đổi. Linh ôm trong hồn hình bóng
một cô thôn nữ mộc mạc mà vẽ mãi không giống lắm: “Đẹp đấy nhưng trông
vẫn giống nữ sinh Hà Nội anh Linh ạ!”.
Linh nghĩ: “Ồ! Mới có hơn một năm
mà cuộc sống thành thị đã ám ảnh mình nặng thế ư?”. Anh nhẫn nại cố
chữa, cố tưởng tượng trong ký ức những nét giản đơn, cái đẹp tự nhiên
thanh thoát của người thiếu nữ đồi sim. Có một vài nữ sinh đi ngang,
ngừng xe đạp tấm tắc khen đẹp làm Linh ngường ngượng. Linh hơi buồn về
ký ức kém cỏi của mình.Nhưng, có một sáng, khi kẻng vào lớp đã kéo hết
học sinh đi, khi chỉ còn sót một vài “công chúng” tí hon học buổi chiều
ôm bóng đi đá thì bỗng Linh ngừng bút ngửng đầu. Anh thần người đứng
nhìn: Từ trước mặt đi lại một cô hàng hoa. Cô mặc áo dài nâu, yếm trắng,
chít khăn mỏ quạ, đi chân không, người cô dong dỏng cao, khuôn mặt trái
xoan, mắt to mà đen, hai gánh đầy hoa: lay-ơn hồng, tím, cúc trắng,
vàng, hồng nhung.
Giữa những màu rực rỡ xen vài lá xanh ướt đọng ít giọt
sương mai.Tưởng có cơ bán được, cô gái hàng hoa ngừng bước, nhè nhẹ đặt
gánh xuống. Người hoạ sĩ đứng nhìn, đánh rơi cả bút, vui sướng thốt
lên:"Đây rồi!"Đám trẻ nhìn theo cười ròn rã rồi hò nhau đi đá bóng. Thôi
phải rồi! Đây mới thực là người cần cho tranh của Linh. Thoạt mới nhìn,
anh có cảm giác là lạ. Thấy như một đêm trăng nào đó, rờn rợn như trong
Liêu trai, bóng người đẹp hiện về trong thư phòng người hàn sĩ. Linh
thấy như đã tìm ra thìa khoá của nghệ thuật, linh hồn của bức tranh. Bây
giờ chỉ còn cách lồng nó vào giữa đám hoa vẽ xong từ bao giờ nhưng còn
thiếu hồn hoa. Thì nay hồn hoa đây rồi…Linh bước lại gần người bán hoa.
Anh cầm lấy một vài chùm hoa, lơ đễnh hỏi giá và chăm chú nhìn người chủ
của chúng.
Anh giơ lên một bó lay-ơn tím rồi tưởng tượng một cái khung
vô hình mà cạnh bó hoa là khuôn mặt cô gái. Thấy vừa ý, anh tấm tắc:
“Đẹp quá!”.Cô hàng hoa nhanh nhảu: "Ông mua đi, loại ấy hiếm lắm. Tôi
chỉ có một ít thôi!"Linh vội vàng giả tiền.Và cô gái bán hoa cũng đứng
dậy, thoăn thoắt rảo bước.Linh thấy như hụt mất trong tay một vật quý,
định gọi với lại nhưng lại thôi. Anh đứng nhìn theo cho đến khi Lân đến
vỗ vai anh, anh chợt tỉnh quay lại giá vẽ, phóng bút vẽ nên một đôi mắt
rất đen....
Và cứ thế, trong sương mù của những buổi sáng cuối thu, khi
ánh mặt trời dậy muộn vội vã từng tia, xen qua sương mai phơn phớt vạch
trên cây lá, khi sương lách tách nhẹ rớt trên lưng người hoạ sĩ đang say
mê vẽ, thì cô gái hàng hoa cũng nhanh nhẹn quẩy gánh đi ngang. Người
hoạ sĩ lại tươi cười dừng bút mua một chùm hoa tím, nói vài câu chuyện.
Chủ hàng ý chừng đã quen tính vui vẻ hồn nhiên của ông khách lạ nên cũng
thành thói quen. Mỗi buổi sáng đi ngang đều có dừng lại. Nhưng có một
lần, thấy hoạ sĩ lúng túng móc túi mãi không đủ 300, cô ái ngại. Và nhìn
lại quần áo lôi thôi cũ kỹ thì chợt hiểu nỗi nghèo của người hoạ sĩ.
Thầm kín, cô hàng hoa mở bó hoa chọn một nhành hoa tím tươi nhất đưa cho
Linh:"Nhà tôi còn nhiều, ông cầm lấy mà vẽ."Nói rồi quẩy hàng đi.Ở đời
xét cho cùng thì nghệ thuật là cái dễ thấm hồn người nhất. Chỉ có cái là
người nói ra được, người chỉ cảm thông thôi. Linh cho là những người
bán hoa nhất định có người có tâm hồn đẹp như hoa và người mua hoa cũng
có ngưòi hiểu hoa, quý hoa.Ngày hôm sau, như thường lệ, cô gái hàng hoa
tới, lúc kẻng trường đã dồn ông giáo, học sinh vào lớp, lúc đám trẻ em
đã phân tán đi chơi bóng. Lần này, Linh chưa kịp lại thì cô gái hàng hoa
đã tới trao cho anh một chùm hoa tím. Linh đem cắm nó lên giá rồi hí
húi vẽ. Cô hàng hoa đứng trông anh vẽ. Cô chợt hỏi Linh:"Ông vẽ ai
đấy?"Linh nhìn cô:"Tôi vẽ cô đấy. Có giống không?"Cô hàng hoa ngượng
ngùng:"Bao nhiêu người đẹp mà ông vẽ tôi. Tôi có ra gì."Linh nói rất
nhiều, rất say mê giải thích bức tranh của anh. Nhưng nghe một lúc cô
hàng hoa e lệ bỏ đi.Linh vẫn thấy tranh mình chưa vừa ý lắm. Thỉnh
thoảng một chiếc ô tô vù bụi, khét mùi xăng rầm rộ chạy qua…
Thỉnh
thoảng nhiều tiếng còi, tiếng chuông, tiếng rao làm anh rộn óc. Khung
cảnh ồn ào chung quanh chi phối anh, anh bực tức. Thế rồi, có một sáng,
trời lạnh hơn, sương xuống nhiều hơn, anh không thấy cô hàng hoa qua đây
nữa. Anh giục Lân thu xếp đồ vẽ, bỏ đi tìm.Ngoài Hà Nội. Một trại hàng
hoa. Chập chờn trên các mô đất chỗ cao chỗ thấp, điểm xuyết giữa những
ngôi nhà nhỏ xinh xắn là những vườn hoa rực rỡ.Đào còn lạnh gió heo may
chưa buồn nảy nụ. Linh, Lân cắp giá vẽ bút đi theo con đường mòn vào
làng.Ánh sáng ban mai dìu dịu. Qua một dãy rào nứa dài, Linh, Lân bước
vào một mảnh vườn dài trồng toàn cúc và lay-ơn tím. Linh chợt thấy cô
hàng hoa của mình đang hái hoa. Anh định rẽ hoa chạy tới nhưng sợ kinh
động người hái hoa, sợ mất đi một cảnh rất quý, anh quay lại lấy bút ghi
lại hình ảnh đó. Đây mới thực là bức tranh anh mong muốn. Đây mới thực
là nguyên chất của sự phối hợp giữa cảnh và người. Cô hàng hoa giữa vườn
hoa. Hồn hoa không còn lạc lõng nữa. Hồn nghệ sĩ không còn lạc lõng
nữa.Một lát sau, cô hàng hoa rẽ hoa, ôm một bó lớn đi về nhà. Linh, Lân
lặng lẽ ôm tranh đi theo.
Đến một ngôi nhà tranh gần đó, cô hàng hoa đẩy
cửa bước vào. Linh bước vào theo. Một bà cụ trên 40 bước ra hỏi:"Thưa
hai ông hỏi ai ạ?"Linh lúng túng chưa biết đáp thế nào cho tiện, ấp
úng:"Thưa cụ, tôi..."Thì may quá cô hàng hoa đã bước ra:"Ồ, hai ông, mời
hai ông vào nhà."Và nhanh nhẩu bảo bà cụ:"Thưa đẻ, đây là hai ông hoạ
sĩ vẽ tranh dưới phố, khách quen của con đấy ạ."Gian nhà thấp nhưng sáng
sủa. Giữa nhà một hương án nhỏ đã long lở sơn trên có tấm ảnh một người
đàn ông khoảng 50. Một bàn gỗ tạp có bộ ấm chén cổ. Trong góc nhà một
chiếc phản gỗ. Cánh liếp bên trái để hở một tấm cửa phên nhỏ vào buồng
trong. Bà mẹ dáng hiền lành, gọi con:"Lan ơi, lấy nước mời hai ông."Mải
ngắm gian phòng, Linh để Lân tiếp bà cụ. Anh bước ra quanh quẩn nhìn
những cây hoa phong lan, lan tiêu, cái bể cạn nhỏ có mấy con cá vàng.
Anh nghĩ: “Sao mảnh đất nhiều tình ý thế này, tĩnh mịch gợi hứng nhiều
thế này, mảnh đất của hồn hoa mà đám nghệ sĩ mình ít người chịu ra đây
mà sống.
Và anh thấy mến cái yên tĩnh thơ mộng của trại hàng hoa, thấy
sờ sợ cái ồn ào của Hà Nội. Anh thấy như ở đây mỗi thứ hoa đều có hồn
riêng, có đời sống riêng, có lịch sử riêng…Đang suy nghĩ liên miên, Linh
bỗng có cảm giác như có ai đang nhìn mình. Anh ngửng đầu lên, kinh ngạc
thấy Lan đứng trước mặt.Lan ra mời anh vào nhà uống nước, Linh hỏi:"Này
chị Lan, cây phong lan này giồng từ bao giờ?" [1]Lan đáp:"Tôi cũng
không rõ nữa. Nghe đâu từ khi thầy tôi còn sống, tôi lớn đã thấy nó
rồi."Rồi Lan dẫn Linh ra phía sau nhà, chỉ vào một hàng lay-ơn tím:"Đã
sáu năm nay tôi vẫn giồng lay-ơn tím ở đây. Thường tôi vẫn cho ông
đấy."Linh nhìn màu tím, dịu mắt, anh thấy đời mình cần một chỗ dừng
chân. Anh hoa mắt nhìn đôi mắt Lan. Người nghệ sĩ đã bước từ tình nghệ
thuật vào tình yêu: Anh đã yêu Lan....Đêm hôm đó, Linh trằn trọc mãi.
Ngọn đèn đêm le lói toả mờ mờ gian phòng bừa bộn của người hoạ sĩ. Lâu
rồi, anh lại thấy những tác phẩm của anh không còn đủ để làm người yêu
duy nhất.
Cạnh nàng nghệ thuật, anh đã thấy cần một người có con tim.
Lâu nay thắc mắc nhiều cho nghệ thuật, anh sợ nó ghen tuông, anh không
dám san sẻ nó với ai cả. Ngày đêm, anh thủ thỉ tâm tình với nó và nghĩ
rằng như thế là “trọn nghĩa”. Nhưng cô đơn vẫn là cô đơn. Hồn tranh đã
tụ lại thành hồn người đòi anh tìm tình yêu. Hồi Linh nghĩ biết đâu được
yêu lại chẳng giúp nhiều cho nghệ thuật. Biết đâu tình yêu lại chẳng là
chuyện mất thì giờ như anh thường nghĩ mà là cả một đề tài lớn cho anh,
mặc dầu nó có thể lại chua xót!Linh với tay cầm bông hoa tím nhổm người
ngắm bức tranh một lúc rồi áp bông hoa lên ngực ngủ thiếp đi trong nụ
cười trên môi.Linh không ngờ: Lan lại là gái có chồng. Mấy hôm sau tình
yêu lại đẩy Linh lên trại hàng hoa tìm Lan. Lan chưa về.
Lý, em Lan,
cũng một cô hàng hoa xinh xắn, ngồi nói chuyện với Linh.Một lát sau, Lý
đưa Linh chạy tung tăng quanh nhà, bứt một chùm nhiều thứ hoa cho Linh.
Rồi lúc vào nhà ngồi, chợt Linh thấy trên liếp một tấm bảng “Gia đình vẻ
vang”, Linh hỏi Lý:“Anh cô đi bộ đội đấy à?”Lý rí rủm:“Anh, nhưng không
phải cả hai đều là anh ruột cả đâu. Một người là chồng chị Lan
đấy.”Linh bàng hoàng:“Ồ! Anh cứ tưởng chị Lan chưa chồng.”Lý bưng miệng
cười khúc khích:“Nhiều ông con giai cũng đều tưởng thế. Rồi lại khổ
thôi.”Linh hỏi:“Sao lại khổ?”Lý đáp:“Khổ chứ còn khổ thế nào nữa. Người
ta có chồng rồi thì còn lấy thế nào được nữa.”
Nhưng bỗng Lý đổi nét mặt,
buồn rầu:“Nhưng mà chắc gì anh ấy về nữa. Anh ấy đi bộ đội 6 năm nay
bặt tin bặt tức. Từ khi hoà bình, bao nhiêu người ta về nhà, mà anh ấy
chẳng có thư từ gì cả. Người ta đồn là chết rồi. Khổ chị Lan nhỉ, chị ấy
còn trẻ, mới 22 tuổi đầu."Linh nhìn tấm bảng “gia đình vẻ vang” thấy
tiếc thương người bộ đội và thấy buồn lây:"Ừ mà thế đâm khổ cả đôi."Lý
mở to mắt, ngơ ngác:"Chắc gì anh ấy còn sống để đủ cả đôi mà khổ."Dần
dần, lòng người thiếu phụ cô quạnh, càng cô quạnh, lúc đông đang về lạnh
buốt, thấy mến Linh. Vẫn mong chồng, vẫn quý người bộ đội, nhưng mà
thấy nó xa xăm quá đỗi, hầu như tuyệt vọng. Linh hiền lành, dễ mễn, lại
biết quý người, quý lao động. Thường anh đến nhà, cũng biết gánh nước
tưới hoa.
Anh vui vẻ nhưng lại đứng đắn, không cợt nhả bao giờ. Không
riêng gì Lan, mà mẹ Lan cũng quý anh. Nhất là Lý. Lý càng nhìn Linh lại
càng thương chị.Có một chiều, hoàng hôn xuống ủ lên hàng lay-ơn tím đang
đổi sang màu xám đen, Linh ngồi nói chuyện với Lan trước thềm."Trước
kia tôi chỉ muốn tìm ở Lan một người đẹp để vẽ vào tranh, nhưng gần đây
tôi yêu Lan, tuy biết Lan đã có chồng… Thế có sai không hở Lan?"Lan cúi
đầu, lặng thinh một hồi lâu. Bỗng cô ngửng đầu lên, giương to mắt ngơ
ngác, sợ hãi lùi lại, giơ tay như che đỡ."Thôi anh đừng nói nữa. Tôi là
gái có chồng."Nhưng nói gì thì nói, đào đã bắt đầu chớm nụ. Tình yêu vẫn
âm thầm, sôi nổi.
Có một hôm, Linh đến chào gia đình Lan đi vắng một
thời gian.Bà cụ hiền từ bảo Linh:"Em Lan và em Lý đều rất mến anh. Tôi
cũng rất quý anh. Con rể tôi nếu không may đã mệnh hệ đi rồi thì tôi
cũng không cản con tôi đi bước nữa. Tết này anh về nhà tôi chơi, cứ coi
như người nhà cả thôi mà. Anh đừng ngại gì cả."Và đông đã sống những
ngày cuối, tàn tạ. Từng đàn em nhỏ tung tăng theo mẹ đi may quần áo Tết.
Cây cối xanh dần hứng sương mai long lanh.Vài chùm đào sớm đã nở miệng
cười hàm tiếu.Lòng người đang thắm lại.Và những ngày ấy, xuân sắp về thì
Lễ cũng về. Anh khập khễnh đi giữa đồng hoa, hớn hở. Nụ cười trên môi
tuy còn đọng tý lạnh lẽo của đau xót, da tuy có xám, trán tuy có nếp
nhưng người bộ đội đó vẫn trẻ. Anh đã thắng nổi Thần chết. Sau hoà bình,
đơn vị anh vẫn tiếp tục đi tiễu phỉ vùng Tây Bắc. Vẫn những ngày đèo
heo hút gió, nằm trời gối đất. Anh đi miên man trên những vùng Cha Pa,
Phong Tổ, Bát Xát. Rồi anh bị thương nặng ở chân. Lạc đồng đội trong
rừng, anh cố lê mãi ra đầu ngọn suối. Đồng bào Mèo gặp đưa anh ấy về
chạy chữa.
Và trên giãy núi cao ngất, trong một bản Mèo heo hút, anh đã
sống 8 tháng trời. Anh bị hỏng một chân. Sau khi bắt được liên lạc với
đơn vị, anh được ra ngoài phục thuốc, lắp chân giả.Và chiều nay, một
chiều cuối đông, khi xuân sắp về thì Lễ về nhà.Thấy chồng về, Lan vui
mừng khôn xiết. Nàng quên hết chuyện cũ, quên hoa, quên Linh, chạy ra
đón Lễ. Người chồng trao cái túi dết cho vợ, tuột tay để rơi xuống đất.
Lan vội cúi xuống nhặt, tình cờ chạm phải cái gì cưng cứng ở chân chồng
mình. Nàng vén quần chồng lên thì thấy chiếc chân gỗ mới lắp, còn thơm
mùi sơn. Lan bàng hoàng đau xót, nửa thương chồng, nửa tủi phận. Mẹ Lan
mừng mừng tủi tủi rớt nước mắt đứng nhìn con rể. Lý ngơ ngác, người con
gái mới nhớn lên này thương hay mừng cho chị?Dần dần, Lễ biết chuyện.
Anh không trách Lan mà thấy thương vợ. Đau khổ nhưng anh không muốn ghen
tuông vì nghĩ cũng chẳng lợi ích gì.
Có lúc anh nghĩ: “Giá mình chết đi
thì họ đẹp đôi lắm nhỉ”. Ghen một tý thì nghĩ thế thôi nhưng anh thấy
cần phải sống, cần phải xây dựng lại hạnh phúc của mình. Vì anh đã tranh
đấu, đã thắng nổi cái chết, thì lúc này anh không thể mềm yếu thế được.
Tuy vậy anh vẫn bình tĩnh. Thỉnh thoảng thấy vợ buồn buồn, đêm đôi khi
quay đi ôm mặt khóc, anh để yên cho vợ khóc. Và khi Lan muốn cất bức
tranh của Linh đi thì Lễ ngăn cản lại bảo cứ treo đó cho đẹp.Nhưng ngày
ấy, xuân sắp về. Vài chùm đào sớm đã nở miệng cười hàm tiếu, màu đỏ dần
dưới nắng ấm. Chợ họp đông dần, những bức tranh làng Hồ thắm thiết màu
dân tộc trong đám cưới chuột, tranh hứng dừa, đang ngự trị dưới những
túp lều mái rạ thơm phức.Và trong một ngày đó, Linh trở về nhà Lan.
Cuộc
gặp gỡ với Lan những tháng trước đã giúp anh dựng một câu chuyện đẹp.
Nhưng còn đoạn cuối sẽ kết ra sao, bản thân anh cũng chưa rõ. Chỉ biết
rằng dù sao thì tâm hồn anh vẫn là của nghệ thuật, yêu con người, yêu
cuộc sống. Anh cũng chẳng nghĩ tới kết quả của cuộc tình duyên mà anh
chỉ thấy nó đẹp lắm, trong trắng lắm.Linh tới nhà Lan. Vào nhà, anh thấy
một người đang đóng khung lại bức tranh của anh. Linh hỏi:"Chị Lan đâu
hở anh?"Linh vẫn ngỡ trước mặt mình là một bà con hàng xóm. Lễ mỉm
cười:"Chắc anh là anh Linh phải không?"Linh ngạc nhiên:"Sao anh
biết?""Từ hôm tôi ở đơn vị về, các em gái tôi vẫn nhắc tới anh luôn.
""Ồ!
Thế ra anh là anh ruột Lan. Thế chồng cô Lan có ở với anh không?"Lễ
trầm ngâm chậm rãi đáp:"Tôi với Lễ ở cùng đơn vị. Lễ bị thương nặng mất
một chân… nhưng nay khỏi rồi… và cũng sắp về đây."Linh bàng hoàng, nói
bâng quơ:"Thế à! May quá nhỉ."Trên mảnh vườn đầy đào nở, bóng Linh đi.
Anh ngắt một bông đưa lên trước mắt ngắm nghía. Có khi anh dừng bước
dưới một cành đào suy nghĩ hồi lâu. Rồi lại đi.Bỗng trước mắt anh hiện
lên một dãy lay-ơn tím. Màu tím đập vào mắt anh, đau xót. Anh lặng người
một hồi lâu. Rồi ngửng đầu nhìn trời xanh, nhếch mép cười, nói một
mình:"Âu cũng là một chuỗi ngày rất đẹp. Hồn hoa đâu, có nghe lời nghệ
sĩ chăng?"Đêm 27-12-1956*
SACH TẾT 57
No comments:
Post a Comment