Báo Nhân văn số 4
1 2
Báo văn hoá, xã hội - Chủ nhiệm:
Phan Khôi - Thư ký toà soạn: Trần Duy - Trụ sở: 43 Tràng Tiền, G.N.
(Giây nói 21.17) - Khổ 38 x 55, 6 trang - Số 4, ra ngày 05-11-1956. In
tại nhà in Xuân Thu. Mỗi số: 300 đ.
Mục lục
Nguyễn Hữu Đang - Cần phải chính quy hơn nữa
Người quan sát - Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm hoa
Nhân văn - Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng
Trần Công - Nửa tháng Liên hoan phim Liên Xô: Ô-ten-lô, một thành công của điện ảnh
Nhân văn - Phản đối đế quốc Mỹ đem quân đội xâm nhậm miền Nam Việt Nam
Trần Duy - Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ (kỳ 1)
Tranh châm biếm
Quảng cáo cho Đất mới, Sáng tạo
Quảng cáo ủng hộ báo Nhân văn
Thông báo: Tại sao Nhân văn ra chậm và vẫn phải bán 300 đ?
L.H. - Địa ngục miền Nam
Tử Phác - Tiếng nói của tâm hồn và trái tim
Phùng Cung - Con ngựa già của chúa Trịnh (minh hoạ của Bùi Xuân Phái)
Trần Duy - Nhân xem phòng triển lãm nghệ thuật dân gian Ru-ma-ni, nghệ thuật và thực dụng
Văn Cao - Những ngày báo hiệu mùa xuân (thơ)
Bùi Quang Đoài - Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
Thanh Châu - Mua hàng mậu dịch (phóng sự)
Trúc Lâm và H.S. Không phải chuyện cười
Nguyễn Hữu Đang
Cần phải chính quy hơn nữa [1]
Trong
bản báo cáo của ông Khơ-rút-sốp trước Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản
Liên Xô có một đoạn nói vắn tắt, gần như lướt qua, mà thực ra rất quan
trọng.
Đoạn đó nói về sự quan tâm đặc biệt của Trung ương Đảng đối với vấn đề củng cố nền pháp trị xã hội chủ nghĩa và kết luận:
“Những
tổ chức của Đảng, của Nhà nước và các công đoàn phải chú ý với một tinh
thần cảnh giác đến việc tôn trọng pháp luật Xô-Viết và tố cáo, vạch mặt
bất cứ ai phạm vào nền pháp trị Xô-viết và những biểu hiện phi pháp và
độc đoán nhỏ.”
Tại sao sau ba mươi năm kiến thiết chủ nghĩa xã
hội với hai lần đặt hiến pháp và nhiều lần chỉnh lý pháp luật cũng như
sửa đổi hệ thống và lề lối xét xử của toà án, bây giờ sắp bước vào giai
đoạn kiến thiết chủ nghĩa cộng sản, Liên–Xô còn phải đặt vấn đề pháp trị
một cách nóng hổi như vậy?
Chính là vì trong bao lâu Stalin đã
lạm dụng quyền hành, dung túng bè lũ phản cách mạng Beria, lấy uy thế
chính trị mà lũng loạn bộ máy nhà nước, vi phạm nghiêm trọng chế độ pháp
trị. Coi thường pháp luật trở thành một tác phong của nhiều cán bộ, của
nhiều cấp uỷ Đảng hay cơ quan chính quyền. Biết bao nhiêu công dân
lương thiện và đảng viên tốt - kể cả Trung ương uỷ viên của Đảng – đã bị
tù đầy, bắn giết oan trong tình trạng đó? Cho nên Đại hội đã phải quan
tâm đặc biệt đến việc bảo vệ chế độ pháp trị nó là hiện thân của tinh
thần nhân văn, tinh thần dân chủ, tinh thần kỷ luật trong một nhà nước
văn minh.
Điều này ở xã hội ta không phải ai cũng công nhận dễ
dàng. Vì lòng khinh bỉ của chúng ta đối với pháp lý tư sản lớn quá đến
nỗi ở một số đông người nó đã trở thành lòng khinh bỉ pháp lý nói chung.
Vì trong cuộc kháng chiến kéo dài và gian khổ, chúng ta đã quen giải
quyết mọi công viêc to nhỏ trong không khí gia đình, với tinh thần tuỳ
tiện. Chúng ta đã quen dùng cái “linh động” để gỡ cho công việc trôi
chảy được mỗi khi vấp phải điều quy định chính xác. Chúng ta đã quen
dùng cái “lập trường” để thay cho luật lệ cụ thể.
Và kháng chiến
đã thành công, độc lập và dân chủ ít ra đã thực hiện trên một nửa đất
nước, nên chúng ta cũng dễ chủ quan, tự mãn tưởng rằng nền nếp cũ vẫn
còn có giá trị
Nhầm to. Nếu hiện tượng trên là tất yếu đối với
hoàn cảnh chiến tranh du kích thì trái lại, nó không có một lý do tồn
tại nào trong hoàn cảnh hoà bình.
Hoà bình lập lại đã hai năm,
dù cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước có phức tạp, gay go thế
nào thì cũng không thể coi miền Bắc như ở một hoàn cảnh bất thường để
duy trì mãi tình trạng thiếu một nền pháp trị hẳn hoi.
Trong Cải
cách Ruộng đất, những việc bắt người, giam người, tra hỏi (dùng nhục
hình dã man), xử tù, xử bắn, tịch thu tài sản, hết sức bừa bãi, bậy bạ,
cũng như việc bao vây đến làm chết đói những thiếu nhi vô tội trong các
gia đình địa chủ (hoặc chính là nông dân mà bị quy sai thành phần),
không phải chỉ hoàn toàn do sự lãnh đạo kém cỏi mà còn do thiếu chế độ
pháp trị hẳn hoi. Giá các Đoàn Uỷ lúc nào cũng thấy trên đầu họ con mắt
dõi theo của thần công lý, giá lúc nào họ cũng thấy văng vẳng bên tai
câu nhắc nhở của toà án: "hễ làm trái pháp luật là bị truy tố đấy" thì
chắc chắn là họ đã thận trọng hơn và nhiều tai vạ đã tránh được cho nhân
dân rồi.
"Giết nhầm sẽ bị kiểm thảo", ý nghĩ ấy có thể là nghiêm chỉnh, nhưng nó mới nhẹ nhàng, thoải mái làm sao!
Sẽ có những người nói: "Sở dĩ nên nông nỗi ấy là vì họ không vững lập trường".
Vững
lập trường! Điều đó rất quí nhưng chưa đủ. Không phải cán bộ nào, công
dân nào cũng vững lập trường. Và ngày những người thực sự vững lập
trường mà không có nền pháp trị tinh vi làm mực thước thì cũng chỉ mới
có bảo đảm nhận thức được một cách chung chung về phương hướng và yêu
cầu của công việc chứ không có bảo đảm biết làm cho đúng phương pháp,
cách thức để đạt tới yêu cầu đó.
Sẽ có những người lo xa: "Đặt ra lắm luật lệ rất dễ đưa đến những bệnh quan liêu, máy móc, hình thức".
Không
phải thế. Quan liêu, máy móc, hình thức là những bệnh do thiếu lý luận
cách mạng, thiếu đạo đức cách mạng, thiếu nhiệt tình cách mạng. Chẳng
biết ít lệ luật sẽ giúp cho việc tránh các bệnh ấy được đến đâu nhưng
nhất định không ai có thể chối cãi điều này: ít lệ luật là một điều
thuận tiện cho sự lạm quyền, độc đoán.
Nhiều lệ luật cũng vẫn có
kẻ lạm quyền, độc đoán được. Những điều đó chỉ dễ thực hiện trong chế
độ cũ, luật lệ đã mang sẵn tính chất thực tế thì không biết mà dùng,
không có đủ thế lực mà dùng. Còn trong chế độ ta, nhân dân có đủ cả
quyền hành, ý thức và lực lượng để dùng luật lệ, bảo vệ luật lệ, thì họ
sẽ không để cho những kẻ kia lạm quyền, độc đoán mãi.
Một nền
pháp trị đầy đủ sẽ là một bảo đảm vững chắc cho tính chất dân chủ của
chế độ ta. Nó sẽ là đường “rày” cho đoàn xe lửa chở dân tộc ta chạy lên
chủ nghĩa xã hội thật nhanh mà không trệch.
Do pháp trị thiếu
sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót mà quân
đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấy giá thú đôi vợ
chồng ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ khiến
người ta mất ăn, mất ngủ, cán bộ thuế tự tiện vào khám nhà người kinh
doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở rộng
phải nhường lại một phần nhà cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị thiếu
sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất quan
trọng nọ đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ phận
của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính Nhà nước
đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo và
đe doạ chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân văn, hành
hung báo Trăm hoa v.v…
Tưởng đã đến lúc nhân dân phải tích cực
bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp ở bất cứ trường
hợp nào đã có luật lệ rồi.
Về mặt xúc tiến xây dựng ngay một chế độ pháp trị đầy đủ, tinh vi, chúng tôi đề nghị:
1.
Thi hành Hiến pháp (hoặc là Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với
hoàn cảnh ngày nay, hoặc là Hiến pháp mới sẽ đặt ra). Trên cơ sở Hiến
pháp, Quốc hội sẽ biểu quyết những đạo luật thay các sắc lệch và nhiều
văn kiện khác.
2. Quốc hội họp đều, sáu tháng một kỳ. Không có
lý do trong hoàn cảnh hoà bình mà công việc của Quốc hội vẫn khoán trắng
cho một Ban thường trực gần như không hoạt động gì.
3. Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ tư pháp.
Chúng
tôi tin rằng toàn thể các tầng lớp nhân dân đều đồng tình với chúng tôi
về ba đề nghị trên. Vì nhân dân thiết tha mong được sống trong một xã
hội chính quy hơn nữa.
Để mọi quyền làm ăn, sinh hoạt và tự do dân chủ khỏi bị xâm phạm.
Để được thoải mái góp phần kiến thiết quốc gia.
12-10-56
*
Người quan sát
Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm hoa [2]
Bước
đầu để thực hiện quyết định của Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tăng cường bảo đảm quyền tự do của
nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp
luật. Chúng tôi đề nghị có những biện pháp thích đáng trừng trị Nguyễn
Văn Tố tức Thiết Vũ trong việc hành hung chủ nhiệm báo Trăm hoa. Sở báo
chí Trung ương phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này.
Đúng
như lời thi sĩ Nguyễn Bính, chủ nhiệm báo Trăm hoa, đây là một “chuyện
đáng tiếc”. Không những “đáng tiếc” mà thực ra đã làm nhiều người công
phẫn, nhất là trong giới báo chí, văn nghệ và trí thức ở thủ đô.
Báo Trăm hoa số 2 có phản ánh vụ này nhưng chưa chắc đã đúng sự thực.
Theo
lời ông Nguyễn Bính chính thức báo cáo trong hai buổi toạ đàm của đại
diện Trung ương Đảng Lao động thì trước khi báo Trăm hoa mới ra số 1,
Nguyễn Văn Tố, cán bộ của Sở Báo chí, đến đưa cho ông hai bài đả kích
báo Nhân văn rồi yêu cầu đăng và đồng thời cũng mập mờ lấy danh nghĩa cơ
quan [3] hứa hẹn cấp giấy rẻ cho báo Trăm hoa thừa ra hai “ram” để in
không hết, ông sẽ bán đi với giá thị trường (rất cao) mà tiêu dùng.
Ông
Bính không chối từ ngay việc mua đó nhưng cũng không đăng hai bài báo
kia lấy cớ vì không hay. Sau đó, khi báo Trăm hoa xin cấp giấy cho số 2
thì bị Sở (...) Trung ương Đảng trong một buổi toạ đàm ngày 20-10.
Thế
là chiều hôm thứ hai 21-10, Nguyễn Văn Tố đến trụ sở báo Trăm hoa vẫn
lấy danh nghĩa Sở Báo chí mà chất vấn ông Bính về chuyện báo cáo hôm qua
rồi dùng những lời thô bỉ, thậm tệ mà lăng mạ ông, lại toan hành hung
ông nữa. Ông Bính phải chạy ra ngoài cửa hô hoán lên, hàng phố kéo đến,
người qua đường dừng bước, thành một đám đông. Sau đó ông Bính nhờ người
đi báo công an, các bạn đồng nghiệp. Hội Văn nghệ và Sở Báo chí. Thế
rồi có cuộc thương lượng gữa ông Trần Minh Tước, giám đốc Sở Báo chí và
ông Bính. Kết quả chúng ta đã biết: Nguyễn Văn Tố viết một bức thư xin
lỗi đăng trên báo Trăm hoa số 2 và đến tự kiểm thảo trong một buổi họp
nhân dân khu phố.
Đến đây câu chuyện xoay chiều. Vì những lý do
bí ẩn nào chúng tôi không rõ. Chúng tôi chỉ biết bức thư xin lỗi và cuộc
kiểm thảo kia đưa ra những sự việc khác hẳn những sự việc mà ông Bính
đã chính thức báo cáo trong hai buổi toạ đàm ngày 21-10 và tối 23-10.
Nghĩa
là nhất định phải có một sự xuyên tạc: hoặc ông Bính đã báo cáo sai,
hoặc bức thư xin lỗi và buổi kiểm thảo kia là bố trí giả tạo. (...)
không ai có thể trả lời.
Riêng chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn đồng ý với thi sĩ Nguyễn Bính khi ông nhận định về cái tầm quan trọng của vụ này:
"Những
hành động và lời nói thiếu lễ độ của anh Tố không những chỉ xâm phạm
đến danh dự cá nhân tôi, đến danh dự toà báo Trăm hoa, mà còn tổn thương
chung đến danh dự các báo chí, ấy là chưa kể nó đã xâm phạm đến quyền
tự do dân chủ nói chung." (Trăm hoa số 2)
Nói khác ra, cách sửa
chữa đối với cá nhân ông Bính và báo Trăm hoa đã hợp lý chưa, không đáng
cho chúng ta quan tâm nữa nếu chính bản thân ông Bính không yêu cầu gì
thêm. Vấn đề còn có thực và sôi nổi không ai có thể giấu đi hoặc dèm pha
những người nêu ra bằng những danh từ vu cáo quen thuộc: "thổi phồng",
"khoét sâu", "bàn tay địch" v.v…
Người ta biết rằng chủ nhiệm
báo Trăm hoa vì đi dự toạ đàm với đại diện Trung ương Đảng, có báo cáo
chuyện mua chuộc và trả thù bỉ ổi nên trở về bị lăng mạ và suýt bị hành
hung. Việc đó có một ý nghĩa xúc phạm gián tiếp đến cuộc toạ đàm không
còn ra thể thống gì nữa.
Người ta lại biết rằng gần đây các giới
văn nghệ và trí thức thắc mắc rất nhiều về vấn đề bảo vệ nhân phẩm của
văn nghệ sĩ, trí thức và quyền tự do dân chủ, giữa lúc này mà ở ngay sát
cạnh Trung ương Đảng và Chính phủ, một cán bộ của Sở Báo chí ngang
nhiên láo xược, hung hãn đối với một văn nghệ sĩ lại là chủ nhiệm kiêm
chủ bút một tờ báo, thì hãy hỏi y muốn chứng minh điều gì có lợi cho
chính sách, cho chế độ?
Người ta biết rằng Hội nghị lần thứ 10
của Trung ương Đảng Lao động vừa mới quyết định "bảo đảm quyền tự do của
nhân dân và trừng trị kịp thời, đúng mức những hành động vi phạm pháp
luật". Vậy những cơ quan chính trị và tư pháp có trách nhiệm và thẩm
quyền đối với vụ này phải có thái độ rõ ràng và biện pháp cụ thể để
chứng tỏ với nhân dân cả nước rằng quyết định trên có được thi hành đúng
đắn. Nếu không thì những hành động côn đồ, manh động sẽ có thể xảy ra
luôn luôn và ngay cái an ninh trật tự thông thường giữa thủ đô cũng bị
tổn thương, chưa nói đến tự do dân chủ vội.
Tội Nguyễn Văn Tố
như thế mà giải quyết bằng một buổi kiểm thảo chiếu lệ ở khu phố và một
bức thư xin lỗi chung chung sơ lược thì chưa phải là xử thích đáng, chỉ
càng làm cho giới báo chí, văn nghệ và trí thức công phẫn thêm và không
thể có tác dụng giáo dục "răn trước, ngừa sau" hiệu quả.
Kẻ nào nói "làm thế là xong, là ổn thoả rồi" là kẻ nói một câu khôi hài khinh miệt quần chúng.
Trước khi chấm hết bài này, chúng tôi đề nghị ba điều:
1.
Thủ tướng Phủ cần điều tra xem vai trò của Sở Báo chí trong vụ này thế
nào. Chúng tôi không thể công nhận rằng Sở Báo chí ở ngoài cuộc. (Làm
sao cắt nghĩa được việc cấp thừa giấy và rút bớt giấy?)
2. Ông
Xuân Thuỷ, Hội trưởng Hội những người viết báo Việt Nam và ông Nguyễn
Tuân, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam không nên tiếp tục làm thinh với
vụ này. Quần chúng và anh em báo chí, văn nghệ rất chú ý đến thái độ
của các ông.
3. Những bạn hay lo địch lợi dụng để phản tuyên
truyền ta hãy lên tiếng đòi nghiêm khắc trừng trị Nguyễn Văn Tố. Vì muốn
cho địch hết đường lợi dụng thì không thể dùng một cách yếu ớt là che
giấu mà chỉ có một cách đường hoàng là trừng trị nghiêm khắc những kẻ
làm bậy để tỏ rõ chế độ ta tốt đẹp không bao giờ dung túng loài sâu mọt.
*
Nhân văn
Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng [4]
Ngày
20-10-56, đã bắt đầu cuộc toạ đàm giữa đại diện Ban chấp hành trung
ương Đảng Lao động và (...) đủ các ngành (...) điện ảnh. Ban (...) Nhân
văn đã đề cử ba đại biểu đến tham dự.
Từ mấy tháng nay cuộc đấu
tranh sôi nổi và công khai của anh em văn nghệ sĩ chống những tệ lậu của
bè phái lãnh đạo đòi thực sự mở rộng tự do dân chủ đã bị một số người
hiểu lầm.
Họ ghán ghép cho anh em những chiếc mũ không tốt: bất
mãn, địa vị thậm chí phản động. Cuộc toạ đàm này là một trả lời thích
đáng cho những hạng người đó.
Nó chứng tỏ rằng cuộc đấu tranh
của anh em căn bản là đúng, rằng anh em không phải là một nhóm người bất
mãn đê tiện, mà là những người tha thiết vì dân vì Đảng muốn đóng góp
phần xây dựng của mình.
Nó chứng tỏ rằng trong phong trào đấu
tranh cho tự do dân chủ chống những tệ lậu của xã hội, anh em văn nghệ
đã đi trong hàng ngũ tiên phong không phụ lòng tin cậy của quần chúng và
của Đảng. Nó chứng tỏ rằng bản chất của chế độ thực sự là dân chủ.
Nó
là cái tát mạnh vào mồm những kẻ tay sai của đế quốc Mỹ đương muốn nhân
một vài cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ ở miền Bắc mà vu cáo cho chế
độ ta căn bản là không có tự do.
Chúng ta ai cũng biết, cuộc đấu
tranh chống những tệ lậu của xã hội thực sự mở rộng dân chủ củng cố và
phát triển bản chất của chế độ đã lâu dài và gian khổ nhưng với sự quyết
tâm của Trung ương và của chúng ta nhất định chúng ta làm được. Những
cản trở nhất định sẽ khắc phục và sẽ vượt qua.
Cuộc toạ đàm mới bắt đầu và còn tiếp tục nhưng chúng ta có đầy đủ cơ sở để đấu tranh và tin tưởng.
*
Trần Công
Nửa tháng Liên hoan phim Liên Xô: Ô-ten-lô, một thành công của điện ảnh [5]
Những
tác phẩm bất hủ của Sét-spia lần lượt đưa lên màn ảnh. Sau Rô-mê-ô và
Duy-li-ét, Đêm thứ 12, nhà đạo diễn I-u-kê-vích đã làm rạng rỡ nền điện
ảnh Xô-viết trong việc dựng nên phim Ô-ten-lô. Hai mươi năm về trước, ở
Mỹ, Óc sơn Oen cũng đã đưa Ô-ten-lô lên màn ảnh.
I-u-kê-vích làm
bộ phim đằng đẵng 6 năm 6 tháng. Trước đây ông định mời nhà danh ca
chiến sĩ hoà bình người Mỹ da đen và đồng thời cũng là một tài tử màn
ảnh Rô-bê-sơn sang Liên Xô đóng vai Ô-ten-lô nhưng chính phủ Mỹ đã cấm
đoán không cho Rô-bê-sơn đi. I-u-kê-vích là một đạo diễn đã có danh
tiếng quốc tế đứng sau những người thầy điện ảnh Xô-viết và thế giới như
Ây-danh-stanh, Pu-đô-kin.
Màn ảnh Hà Nội đã được thưởng thức
những phim giá trị của ông như Scăng-đéc Béc, Svec-lốp. Đặc điểm của
phim I-u-kê-vích là hình đẹp và mạnh mẽ, cách dựng cảnh công phu, tinh
vi. Trong phim Ô-ten-lô, người đạo diễn đã có một thế chủ động cao độ,
Ô-ten-lô đã làm rung chuyển cả Can trong mùa thi phim quốc tế năm 1956
và đã xứng đáng được giải thưởng danh dự về dàn cảnh.
Ô-ten-lô
vốn là một người châu Phi có nhiều tài năng quân sự. Sau về làm tướng
cho triều đình Vê-nê-xi. Ô-ten-lô yêu Đét-sđê-môn, con gái nguyên lão
nghị viên Bơ-ra-băng-xi-ô. Nhưng làm thế nào để một vương thần da trắng
lại có thể gả con gái mình cho một người da đen được. Ô-ten-lô đã ngầm
mang người yêu sang đảo Síp. Nhưng đã bị tên cận thần I-a-gô xúc xiểm
ghen tị tìm cách phá hoại. Ô-ten-lô đã nghi ngờ vợ và giết Đét-sđê-môn.
Sau khi vỡ lẽ, anh đã tự tử chết.
Dựng một nhân vật chính lại là
một người da đen, nêu cao tài năng của một người da đen trong một xã
hội triều đình da trắng, Sét-spia đã chống lại thuyết vị chủng từ hồi
đó. Và tấn bi kịch này không phải chỉ là việc ghen tuông tầm thường về
tình yêu. Ô-ten-lô không phải chỉ tượng trưng cho những con người thường
vì bản năng hay bị ghen tuông làm mờ ám, thường dễ biến con tim mình
thành gỗ đá vì nghi ngờ. Sét-spia tạo nên tấn bi kịch này với một ý
nghĩa sâu xa hơn nhiều. Đây không phải đơn thuần việc một người chồng vị
lừa dối mà là tấn bi kịch của một người nhiều nghị lực và thông minh
đau xót về những đen bạc của cuộc đời, bị vấp phải những phản ứng đê
tiện nhất của một chế độ giả dối, đầy lường gạt, ti tiện, Ô-ten-lô của
Sét-spia không phải là một kẻ sát nhân do ghen tuông, mà là một người đi
trả thù cho tâm hồn con người bị phản phúc giày vò.
Trung thành
với Sét-spia, I-u-kê-vích cùng với những người diễn viên đã cố gắng giữ
được một phần lớn nội dung của vở bi kịch. Có một điểm I-u-kê-vích thêm
vào mà trong kịch bản không có là đám cưới Ô-ten-lô với Đét-sđê-môn. Và
đây cũng là điểm gặp nhau giữa I-u-kê-vích và Óc-sơn Oen. Có lẽ cả nhà
dàn cảnh Mỹ, hai người đều thấy cần phải chính thức hoá cuộc tình duyên
đó để càng làm thêm đểu cáng những lời vu khống của tên I-a-gô hay những
lời nguyền rủa của Bơ-ra-băng-xi-ô.
Trong trí tưởng tưởng của
I-u-kê-vích suốt cả thời kỳ thai nghén cho đến lúc thành hình việc phân
đoạn dàn cảnh, nhà đạo diễn đã dụng ý như làm một bản nhạc hợp tấu trong
đó nổi bật lên 3 hình ảnh và 3 màu sắc. Sáu đề tài đó xen kẽ nhau và
gợi lên được ý của nội dung tác phẩm.
Cái thứ nhất là hình ảnh
con thuyền. Con thuyền là một tượng trưng rất thơ mộng cho những linh
hồn bơ vơ, vướng mắc. Những cánh buồm gió lênh đênh trên sóng đã là
những đề tài cho biết bao nhiêu tác phẩm bất hủ. Hình ảnh con thuyền đã
ăn sâu vào trí tưởng tượng của nhà đạo diễn mà suốt cả tuổi trẻ đã sống
trên bờ biển mơ cánh buồm xây mộng phiêu lưu. Vì thế nên hình ảnh con
thuyền đã rập rình ẩn hiện trong cả cuộn phim. Trong phần tự mộ không
lời nói mà những hình ảnh về quãng đời quá khứ của Ô-ten-lô dồn dập như
sóng theo tiếng nhạc của Kha-sa-tua-ri-ăng, hình ảnh con thuyền đã bắt
đầu xuất hiện. Ô-ten-lô đứng trên tàu chỉ huy, Ô-ten-lô thay người cầm
lái bị thương, Ô-ten-lô ôm cột buồm bơi thoát tay giặc. Cũng trong con
thuyền là nơi Ô-ten-lô trốn tránh lúc bắt đầu nghi ngờ đau xót về tình
duyên. Cũng vẫn hình ảnh con thuyền đã mang xác Ô-ten-lô và Đét-sđê-môn
đi mãi.
Đề tài thứ hai trong cái tiết tấu của phân cảnh là chiếc
khăn tay. Chiếc khăn tay tượng trưng cho trung thành và tình yêu trong
đoạn đầu và đã là cái lý do cho chia rẽ ở đoạn sau. Cho nên cái khăn đã
được đánh rơi, rồi cho tên phản phúc I-a-gô nhặt được và nghĩ tới cách
dùng nó làm kế ly gián... và cuối cùng cái khăn nằm trong tay tuỳ tướng
Cá-xi-ô có thể có chủ tâm chiếm đoạt tình yêu của Ô-ten-lô. Nhưng thiết
tưởng theo ý đạo diễn thì con mắt vĩnh biệt nhìn cái khăn có nghĩa là
đời nhiều giả dối mà chỉ một vật nhỏ bé cũng có thể đóng một vai trò
quyết định nên nhiều bi thảm. Như thế thì không thể coi việc dùng cái
khăn tay của Sét-spia là tự nhiên chủ nghĩa mà đó là một yếu tố cần
thiết rất nhiều chất thơ của những nhà viết kịch lớn hay sử dụng.
Đề
tài thứ ba trong Ô-ten-lô là những bàn tay. Bàn tay thường có tác dụng
rất lớn trong việc biểu hiệu nhưng thường lại ít được chú ý sử dụng.
Trong Ô-ten-lô hai bàn tay đen và trắng của người tướng da đen và
Đét-sđê-môn thường xuất hiện cạnh nhau gợi nên mâu thuẫn nội tâm. Cái
đau xót của Ô-ten-lô về màu da của mình, cái hờn oán trong bàn tay lên
gân run run đó có phải là cái đau xót cái hờn oán của hàng chục triệu
người da đen ở Mỹ hiện tại, có phải là cái phần hồn yêu nhân loại bình
đẳng, không phân việt màu da chủng tộc cao cả của nhà đại thi hào
Sét-spia từ trước đây hơn 3 thế kỷ? Rồi lúc đã ngờ vực, bàn tay người da
đen ngập ngừng không dám mạnh dạn tin cẩn sờ vào tay người yêu nhiều
như trước nữa. Y-a-gô cũng định cầm tay Ô-ten-lô, hòng giả vờ làm dịu
lòng sôi nóng của anh nhưng anh đã rụt tay ra sợ hãi như đụng phải nọc
rắn:
"Hãy lùi ra, mày đã đẩy tao cho đau xót giày vò" và cũng đôi bàn tay đó đã bóp cổ chết người yêu…
Đề tài thứ tư, năm, sáu là sự phối hợp giữa 3 màu đỏ rực, đen, trắng.
Thoát
tiên là mầu đỏ rực lộng lẫy trong đêm tình yêu đầu ở đảo Síp mà
Ô-ten-lô đã dùng áo ngoài khoác cho người Đét-sđê-môn. Cũng chiếc áo đó
lúc Ô-ten-lô điên cuồng vì ngờ vực trong hầm tầu đã rải xuống sàn như
một vũng máu. Và từ đó màu đỏ không ở Ô-ten-lô nữa mà chuyển qua tấm
thảm giải giường của Đét-sđê-môn báo hiệu cái chết bi thảm của nàng.
Màu
trắng thỉnh thoảng thêm tý vàng nhạt hay hồng, hay hơi xanh nhạt thường
đi theo Đét-sđê-môn. Trong đoạn kết phần tự mộ Ô-ten-lô rực rỡ khoác
tấm áo trắng kể đời mình đã làm nổi bật với Ô-ten-lô rách nát lúc bị tù
đầy. Và đến đoạn cuối lúc Ô-ten-lô nằm chết cạnh người yêu thì màu trắng
xám đã giao cảm với mầu hồng rực.
Màu đen của bộ trang phục
Vê-nê-xi trên người Ô-ten-lô đã qua người Đét-sđê-môn trong bữa tiệc ở
đảo Síp. Rồi màu đen đó lại quay trở về nếp áo của Ô-ten-lô trong cảnh
tuyên thệ trên bờ biển với Y-a-gô.
Và 6 nét chính đó đã lẫn lộn
phối hợp tinh vi, tiếng nhạc và lời nói, động tác và ánh sáng, màu sắc
và hình ảnh, bộ phim hấp dẫn một cách ly kỳ rùng rợn, gieo vào đầu người
xem giận hờn đau xót, hồi hộp lo lắng.
Qua mỗi khía cạnh nhỏ
càng nổi bật lên lối đan lưới mâu thuẫn nội tại tài tình của tư tưởng
Sét-spia, dưới bàn tay bộ óc thông minh phong phú của I-u-kê-vích. Từ
một lối giới thiệu vào đầu rồn rập, những hình ảnh nhảy nối tiếp nhau
như những làn sóng. Bôn-đa-súc trong vai Ô-ten-lô đã biểu hiện nghệ
thuật rất giỏi, rất nhiều chuyển biến tâm lý tài tình trên nét mặt, bàn
tay, bước đi. Có lẽ đạt nhất của Bôn-đa-súc là ở đoạn: lúc Ô-ten-lô giết
người yêu rồi vẫn còn tin một phần đúng về mình, đang do dự thì vợ
Y-a-gô tố giác âm mưu phá hoại của chồng. Từ một Ô-ten-lô còn chút dũng
khí, Bôn-đa-súc đã vụt biến thành trước mắt khán giả một Ô-ten-lô tan
nát con tim, tuyệt vọng, một ông già tóc bạc coi cõi đời không còn môt
tý niềm tin.
Nói đến sự trung thành với tư tưởng và nhân vật
Sét-spia, I-u-kê-vích đã rất cố gắng tôn trọng tác giả. Nói đến dàn cảnh
bộ phim, I-u-kê-vích đã tỏ một lao động sáng tạo, một tìm tòi phi
thường. Việc dựng nên những khung cảnh kiến trúc ở đảo Síp hồi đó những
nhà cửa vườn hoa có đặc tính Hy Lạp nhưng dù sao vẫn trông rõ ảnh hưởng
La Mã chứng minh việc nhà đạo diễn đã rất chịu nghiên cứu chọn đúng vị
trí lịch sử địa dư của không gian thời gian. Nhiều cảnh rất sâu sắc, rất
đẹp như cảnh giơ bàn tay thử thách giữa Ô-ten-lô với Đét-sđê-môn, cảnh
Ô-ten-lô "lọt lưới", cảnh tuyên thệ, cảnh đặc tả khuôn mặt người da đen
với đôi mắt ngơ ngác kinh hoàng, cảnh Ô-ten-lô ôm xác người yêu. Tiếng
nhạc của Kha-sa-tua-ri-ăng nhất là trong phần đầu giới thiệu rất thống
thiết nghe khi thành tiếng sóng, khi thành tiếng nấc nức nở, khi giận
hờn cao vút lên, khi đau khổ âm thầm lắng xuống.
Nhưng cũng có
những mặt bên cạnh tài hoa lỗi lạc đó đã không đạt được lắm. Khác với
Óc-sơn Oen, có lẽ trong phần dàn cảnh tạo hình, I-u-kê-vích đã thiếu
giản dị thanh thoát là đã cầu kỳ quá trong việc cấu tạo những khung cảnh
đồ sộ vĩ đại làm những người xem có cảm giác nặng nề về vật liệu tạo
hình quá. Suy nghĩ kỹ thì thấy cách biểu hiện của diễn viên, trình độ có
thoát ra được ngoài khung cảnh tạo hình để bảo đảm việc thể hiện nội
tâm không hay là vẫn chưa cân đối được. Nhìn kỹ thì trong số diễn viên
như Bôn-đa-súc quả có tài nhưng cạnh đó các vai khác như I-a-gô,
Đét-sđê-môn, vợ I-a-gô chưa làm chủ được nhân vật hay là còn non yếu.
Tuy cái cầu kỳ của I-u-kê-vích ở đây vẫn là cái cầu kỳ gọt rũa của một
sự sáng tạo nhiều tìm tòi tỷ mỷ, tinh vi, tài ba nhưng hơi thiếu giản dị
thanh thoát, diễn viên lại có một số yếu nên vẫn có phần nặng lệch về
bố cảnh. Và đây cũng là cảm giác của tôi đối với một số phim Liên Xô
khác như Scăng đéc Béc… Nếu với nghệ thuật tạo hình đồ sộ đó, cộng thêm
được cho cân đối tài năng của diễn viên cao hơn thì Ô-ten-lô còn đi xa
hơn.
Điểm thứ hai là nhân vật Ô-ten-lô Sét-spia có nhiều dụng ý
lớn (trên tôi đã nói) hơn, ông muốn nhiều hơn ở nhân vật của mình ngoài
tấn kịch ghen tuông thường tình. Theo ý tôi hiểu tư tưởng và nhân vật
Sét-spia trong Ô-ten-lô thì người tướng da đen này cần phải tỏ một phần
nào có dũng khí, có cao thượng hơn dù rằng lúc quyết định giết
Đét-sđê-môn là tư tưởng trả thù căm hờn những giả dối lường lọc của chế
độ đương thời. Vì thế cho nên trừ đoàn tự mộ ra, suốt cả cuốn phim,
người ta thấy một Ô-ten-lô hơi thấp kém, nhiều khi tôi muốn được nhìn
một cảnh trong đó mắt Ô-ten-lô ngước nhìn trời cao rộng rãi bao la một
tý, nhưng đã không có. Theo tôi thì như vậy, I-u-kê-vích đã hoàn toàn
trung thành với Sét-spia chưa? I-u-kê-vích đã lột được cái lớn của một
tâm hồn dù hành động lại là một cái nhỏ nhen chưa? Cái lớn của tâm hồn
đó là lòng hờn oán căm thù cái ty tiện giả dối của chế độ đương thời.
Vậy thì thể hiện Ô-ten-lô như thế, theo thiển ý của tôi, là thấp, chưa
toát được cái phần người lớn trong Ô-ten-lô của tư tưởng nhân vật
Sét-spia.
Có lẽ đẹp nhất đoạn vào đầu giới thiệu quãng đời phiêu
lưu và cầu đạo của Ô-ten-lô lồng vào trong đoạn đọc tấu kể chuyện của
anh. Nhưng cũng ở đoạn này chúng ta thấy I-u-kê-vích không đạt được phần
tiểu sử phiêu lưu của Ô-ten-lô, một câu nói cuối của Ô-ten-lô trong
kịch bản chứng minh việc này là cần thiết.
"Nàng đã yêu tôi vì những khó khăn nguy hiểm mà tôi đã trải qua.
Và tôi đã yêu nàng vì nàng cảm thông tôi qua quãng đời đó."
Dụng
ý này của Sét-spia trong kịch bản khá rõ. Hơn nữa lại vì lẽ màn ảnh nên
những số lời trong kịch bản nói càng được dựng lên bằng nghệ thuật tạo
hình. Nhưng I-u-kê-vích đã bỏ qua.
Nhưng nói chung lại, ngoài
một số điểm theo ý tôi là thiếu sót kể trên, thì Ô-ten-lô của
I-u-kê-vích vẫn là một tác phẩm nghệ thuật lớn đã làm rạng rỡ nghệ thuật
điện ảnh Liên Xô ở Can. Dù là cốt truyện Anh (suýt nữa Ô-ten-lô bị gạt
ra ngoài “nửa tháng liên hoan phim Liên Xô” vì lẽ này), nhưng Ô-ten-lô
đã nằm trong kho tàng văn học Xô-viết và thế giới. Nhân dân thủ đô, và
các anh em văn nghệ sĩ vui mừng chào đón Ô-ten-lô, nhiệt liệt hoan
nghênh đạo diễn I-u-kê-vích.
28-10-56
*
Nhân văn
Phản đối đế quốc Mỹ đem quân đội xâm nhậm miền Nam Việt Nam [6]
Ngày
26 tháng 10 vừa qua, Diệm tổ chức ở miền Nam ngày tết “Cộng hoà”. Nhân
dịp này, Diệm mời các lực lượng quân sự của các nước thuộc khối quân sự
Đông Nam Á như Anh, Pháp, Úc, Phi Luật Tân, Thái Lan, tham gia biểu diễn
quân sự cùng quân đội của Diệm.
Mỹ huy động một tuần dương hạm
có 2000 thủy thủ, thuộc hạm đội thứ 7 ở Thái Bình Dương, 1 hàng không
mẫu hạm và 50 chiếc máy bay chiến đấu.
Úc gửi đến 1 diệt ngư lôi hạm và Anh 4 máy bay phản lực.
Chúng
ta hết sức căm phẫn trước thái độ gây hấn của đế quốc Mỹ và một số nước
trong khối xâm lược Đông Nam Á đã trắng trợn vi phạm những điều khoản
của Hiệp định Genève.
Chúng ta cương quyết vạch mặt Ngô Đình
Diệm, tên lừa bịp, “đội lốt đạo đức” mang chiêu bài “bảo vệ hoà bình và
thống nhất”, trắng trợn mang tổ quốc bán đứng cho đế quốc Mỹ, định biến
Việt Nam thành một bàn đạp quân sự, xô nhân dân vào một vòng chiến
tranh.
Dựa vào lực lượng quân sự của phe đế quốc, Diệm định gây
cho mình một thanh thế giả tạo, để củng cố địa vị độc tài, để trắng trợn
phá hoại hoà bình, thống nhất, độc lập.
Vũ khí là một yếu tố để chiến thắng, nhưng vũ khí hoàn toàn không phải là một yếu tố quyết định sự chiến thắng.
Yếu tố quyết định sự chiến thắng, là con người, và lòng tin chính nghĩa của con người.
Ngô Đình Diệm thấy cái chế độ của hắn bị nhân dân phỉ nhổ, nên tổ chức cái lễ “mượn mầu son phấn lừa dân “đen”.
Nhưng chẳng ai mắc lừa Diệm.
Cái trò đội lốt hùm ấy đã cổ hủ lắm rồi, hơn nữa lốt hùm ấy lại là lốt hùm giấy.
Ai lại không biết, nhất là Diệm, Điện Biên Phủ, Triều Tiên v.v... đều có bàn tay bẩn thỉu và độc ác của đế quốc Mỹ nhúng vào?
Ngô đình Diệm định phô trương thanh thế để „tranh thủ“ miền Bắc chăng?
Diệm
lầm. Chúng ta đều biết miền Bắc đương trải qua một cơn thử thách. Nhưng
thương tích của Cải cách và chỉnh đốn tổ chức còn nhức nhối trên miền
Bắc; nhưng chúng ta đương băng bó; sai lầm đang được sửa chữa, phong
trào đấu tranh đòi mở rộng dân chủ đang trên thế mạnh, nhằm phát triển
và củng cố bản chất tốt của chế độ, chống những tệ buôn lậu trong hàng
ngũ cách mạng, khai thác triệt để khả năng của quần chúng để xây dựng
đất nước.
Chưa bao giờ miền Bắc nhiều đau thương, nhưng lại nhiều triển vọng như bây giờ.
Thái
độ xảo quyệt, lừa bịp của Diệm càng khơi dậy trong chúng ta lòng thiết
tha thương yêu, bảo vệ đất nước, bảo vệ chế độ, nó càng thcs đẩy ý chí
quyết tâm đả phá nhữung tệ lậu trong xã hội, mở rộng dân chủ, phê bình
tự phê bình quyết tâm sửa chữa những sai lầm. Dân tộc ta đã dũng cảm
trong những ngày chiến đấu vô cùng đau thương và gian khổ để bảo vệ Tổ
quốc, dân tộc ta nhất định sẽ dũng cảm trong cuộc đấu tranh đau thương
và gian khổ cho Hoà bình, Thống nhất. Hôm qua chúng ta đã anh hùng, hôm
nay, ngày mai chúng ta cũng vẫn anh hùng.
Những thắng lợi ngày hôm qua bảo đảm cho những thắng lợi ngày hôm nay và ngày mai.
Không
một vũ khí nào, không sức mạnh nào thắng nổi những con người như chúng
ta, thắng nổi ý chí sắt đá của chúng ta bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hoà bình,
bảo vệ tự do và dân chủ.
*
Trần Duy
Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ (kỳ 1) [7]
Hội
nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam có
nhận định ở miền Bắc chúng ta chưa thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân
chủ của nhân dân và đã thảo luận những biện pháp bổ khuyết cần thiết để
đề nghị với Chính phủ và Quốc hội.
Chúng ta hoan nghênh những
nhận định ấy, và hy vọng những biện pháp bổ khuyết cần thiết trên sẽ
mang lại cho báo chí văn nghệ đời sống miền Bắc một luồng gió mới...
luồng gió tự do dân chủ (...). Vi phạm tự do dân chủ nhất định không
phải là một hành động thích hợp với chế độ.
Việc vi phạm ấy từ
lâu vẫn có, tất nhiên không phải vì chính sách của Đảng và Chính phủ,
nhưng dù sao Đảng và Chính phủ cũng chịu trách nhiệm trong việc thiếu
sót và hạn chế tự do dân chủ ấy.
Chúng ta đòi quyền tự do dân
chủ, có nghĩa là chúng ta đấu tranh để được làm tai mắt cho Đảng và
Chính phủ, giúp Đảng và Chính phủ sửa chữa khuyết điểm sai lầm để bảo vệ
và xây dựng chế độ.
Báo Nhân văn đấu tranh cho tự do dân chủ,
cũng không ngoài ý muốn nào khác là tự nguyện làm một tên lính tiên
phong cùng Đảng và nhân dân chiến đấu cho một mục đích chung.
Nhưng từ ngày Nhân văn ra đời cho đến nay, nó đã phải trải qua những thử thách, nó bị làm khó dễ nếu không nói là phá hoại.
Những
hành động phá hoại ấy tuy riêng lẻ, không có một chủ trương nào dứt
khoát, nhưng nó thành hệ thống, liên lạc, chứng tỏ rằng nó có chịu một
sự chỉ huy.
Những sự việc ấy đều đã xẩy ra trước bản thông cáo
của Hội nghị lần thứ 10. Những sai lầm ấy cần được sửa chữa. Hôm nay,
chúng tôi (...) những việc làm không tốt đẹp ấy, để thanh toán dứt
khoát, hy vọng thành thật tìm hiểu nhau hơn trong việc đấu tranh mở rộng
tự do dân chủ.
Đồng chí Nguyễn Duy Trinh thay mặt Trung ương
trong một cuộc hội nghị báo chí có nói: “Bản chất chế độ ta là tuyệt đối
tốt. Những sai lầm tạm thời nhất định chúng ta khắc phục được”. Lời
tuyên bố của đồng chí Trinh nói lên ý chí kiến quyết của Đảng muốn chấm
dứt tình trạng sai lầm trước, sai lầm về nhiều mặt, trong đó có sai lầm
nghiệm trọng về (...), một vấn đề mà Nhân văn đang đề cập đến và đấu
tranh kiên quyết để được thực hiện.
Đấu tranh cho tự do dân chủ
là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ, vì nó là một cuộc tấn công
quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xã hội.
Nó sẽ bị những
phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương còn quyền hành và thế lực cản trở,
xuyên tạc, phá hoại có khi cả bằng những phương pháp đen tối, độc ác.
Đấu tranh cho tự do dân chủ không bao giờ chỉ là một công việc có tính
chất thuần tuý hành chính. Nó phải có một tính chất quần chúng rộng rãi.
Quần chúng phải là “Bao công” có quyền thực sự kiểm soát mọi công việc
của Nhà nước, của cán bộ. Chúng ta cần phải tích cực ủng hộ và giúp đỡ
Trung ương Đảng để đẩy mạnh việc mở rộng tự do dân chủ đề ra trong nghị
quyết. Vì thế hôm nay, Nhân văn sẽ cùng các bạn kiểm điểm lại một số
việc đã qua, để cùng nhau có một nhận định và cùng nhau quyết tâm hơn
bước vào xây dựng giai đoạn mới.
Báo Nhân văn ra đời trong những
hoàn cảnh đặc biệt. Động cơ nào đã thúc đẩy anh em văn nghệ và trí thức
ra tờ báo Nhân văn? Nó được ra đời như thế nào? Và nó đã bị đối xử như
thế nào?
Trong những ngày Hội Văn nghệ tổ chức lớp học tập lý
luận, đa số anh em xem lớp học này chỉ là một lớp học chiếu lệ, nêu lên
thắc mắc để được giải đáp, đánh thông, uốn nắn lại một vài sai lệch về
sinh hoạt và lập trường để rồi đâu lại vào đấy, lãnh đạo vẫn lại bước
theo những vệt lằn cũ của con đuờng nó đã từng đi trong mười năm nay. Vì
thế cho nên mở đầu lớp học, đa số anh em tỏ ra thái độ tiêu cực, không
phát biểu ý kiến... thái độ (...) Nhưng trong thời gian (...) lúc đề cập
đến vấn đề (...) đường lối văn nghệ (....) thấy rõ nhiệm vụ đấu tranh
cùng nhân dân củng cố chế độ và Tổ quốc.
Tiêu cực, làm ngơ, thở
dài bi quan trong lúc này là một tội lớn đối với lịch sử đối với sự
nghiệp đấu tranh của dân tộc. Sống trong một xã hội mà sự tự do đã chính
thức được ghi lên giấy trắng mực đen trong Tuyên ngôn Độc lập, trên
Hiến pháp, sao tự do vẫn còn bị vi phạm trắng trợn ở trên địa hạt tư
tưởng, trí thức, và cả trên sinh mệnh xương thịt của con người?
Chúng
ta tin ở đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyệt đối tin ở chủ nghĩa cộng
sản, một chủ nghĩa đẹp nhất của nhân loại, trẻ nhất của lịch sử con
người, mới nhất, tại sao chúng ta vẫn còn già nua, còm cõi, sống còng
lưng dưới những nặng nề của công thức, tại sao vẫn còn nhai đi nhai lại
gò gập cuộc sống theo những nếp đời đã cũ mọt. Ai ngăn cản cuộc đời trỗi
dậy? Vì Đảng ư? Vì cán bộ ư? Chính sách đúng hay sai?
Những yêu cầu chính đáng cần được đưa ra ánh sáng để Đảng thấy rõ, để quần chúng tham gia giải quyết.
Do đó anh em chủ trương ra một tờ báo.
Báo
Nhân văn ra đời tự nguyện làm một trong những tên lính tiền phong, tích
cực cùng nhân dân và Đảng, chiến đấu chống những sai lầm lệch lạc,
những hủ bại trong tác phong lãnh đạo đã vi phạm đến những nguyên tắc
căn bản xây dựng Đảng, xây dựng chế độ.
Cho nên khi anh em lấy
tên cho tờ báo là Nhân văn là do một lòng nhiệt tình đối với chủ nghĩa
đối với con người của chế độ. Vì chúng ta cùng thấy rằng không còn gì
cao quý hơn và đẹp đẽ hơn là thực hiện cho kỳ được chủ nghĩa nhân văn
trong đời sống con người.
Anh em nghèo, vốn không có, góp tiền
với nhau để ra tờ báo. Chật vật lắm tờ báo mới được ra đời. Vừa ra đời
thì những danh từ “phản ứng giai cấp”, “tư sản lợi dụng”, “tiếng nói của
tư sản”, “Đế quốc bắc cầu” đã chụp lên đầu anh em những chiếc mũ nguy
hại.
Trong thời gian tiến hành in báo Nhân văn, vụ điển hình về phá hoại là vụ Hoàng Đạo.
Hoàng
Đạo là ai? Theo lời y tự giới thiệu với một số bạn, thì y trước là một
cán bộ công an, hiện nay là cán bộ công nghiệp, làm giám đốc một xí
nghiệp lớn được đặc phái phụ trách theo dõi và chống phá Nhân văn.
(Kỳ sau đăng tiếp)
*
Quảng cáo [8]
Đón đọc loại sách Đất mới, tập I: “Chuyện sinh viên”, Minh Đức xuất bản
Tìm đọc Sáng tạo, báo điện ảnh và sân khấu
*
Tranh
châm biếm [9] vẽ ba người giống hệt nhau, tay đều cầm phích nước và vải
hoa, với dòng ghi: "Đây không phải anh em đẻ sinh ba. Mà chỉ là ba
người cùng đi lĩnh séc vào một ngày hết hạn séc và Mậu dịch cũng cạn
hàng".
*
Quảng cáo
Để ủng hộ báo Nhân văn [10]
Để ủng hộ báo Nhân văn một cách thiết thực, các bạn hãy:
1. Đến trụ sở hoặc viết thư có kèm bưu phiếu mua báo dài hạn (từ 10 số trở lên, mỗi số 300 đ)
2. Chuyển báo cho những người thân, người quen đọc, đồng thời cổ động họ mua báo dài hạn.
*
Thông báo
Tại sao Nhân văn ra chậm và vẫn phải bán 300 đ?
Kỳ
này Nhân văn in 12.000 số mà vẫn chỉ được Sở Báo chí và Mậu dịch Trung
ương cung cấp giấy đủ in 2.000 số tuy chúng tôi đã nhiều lần xin thêm.
Vì lẽ trên, chúng tôi phải tìm mua giấy ngoài thị trường rất khó khăn, nên báo ra chậm và vẫn phải bán 300 đ.
*
Đính chính
Câu cuối cùng của bài “Nỗ lực phát triển tự do dân chủ”, Nhân văn số 3 yêu cầu đọc như sau:
“Chúng
ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lenin
đã gột rửa những nét xấu của đời Sta-lin, với nội dung chân chính xây
dựng trên kinh nghiệm kiến thiết chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô và thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, trong ấy nhiệm vụ của vô sản
chuyên chính là phát triển tự do cá nhân.”
(Những chữ in ngả là những chữ thiếu trong bản in trước).
*
L. H.
Địa ngục miền Nam [11]
Khách
đi đường từ Sài Gòn đến Tây Ninh, không thể không chú ý đến tấm bảng
lớn, phủ một nước sơn hào nhoáng, với dòng chữ to tướng: “Nhà nuôi trẻ
mồ côi”. Chà! Nhân đức quá. Các bạn cứ đi thẳng về phía sau tấm bảng ấy
vào một con đường nhỏ sẽ thấy một dãy nhà ẩm thấp, mái lợp tôn. Đấy là
cái cô nhi viện Chí Hoà mà đài phát thanh Sài Gòn đã không ngớt lời ca
tụng là nơi thiên đường hạ giới.
Tôi đến cô nhi viện Chí Hoà vào một chiều mưa rả rích…
Một
em bé độ 2 tuổi đưa bàn tay nhỏ nhắn cho tôi và hai đứa khác bắt chước
bạn cũng đưa theo. Đó là ba đứa trẻ lớn nhất trong cô nhi viện. Trong ba
bàn tay bé tí ấy có một bàn tay nhầy nhụa vì ghẻ lở gớm ghiếc, nhưng
tôi vẫn nắm lấy cho vui một tâm hồn, dẫu là một tâm hồn còn khờ dại…
Những
tiếng khóc ré lên, âm cao lẫn thấp như hoà một bản nhạc tức tưởi đón
chào người khách lạ. Tôi khoát mùng nhìn tận mặt những trẻ nhỏ.
Chúng nằm chung nhau, cứ ba em một giường, bề dài độ một thước và rộng không hơn năm tấc.
Tôi
đã trông thấy những làn da xám ngắt như màu trời lạnh, những thân hình
gầy còm khô héo như cây tàn giữa mùa đông, những đôi mắt lờ đờ như cạn
nguồn sinh lực…
Hai phần ba trong số chúng đều nằm thiêm thiếp. Tôi có cảm tưởng đen tối rằng các em xấu số ấy khó mà lớn khôn được với đời!
Các
dì phước cho biết áo quần các em không đủ mặc, tã của các em cũng không
đủ thay đổi nên đành phải chịu ở bẩn. Giường màn không đủ nên các em
phải nằm chung ba em vào một chỗ.
Nguy hiểm nhất là những khi
trái gió trở giời, có em ốm đau, sài đẹn, lẽ ra phải rời các em bệnh
hoạn đi nơi khác, nhưng chỗ đâu mà dời bây giờ? Do đó bệnh một em thì
lây thành năm, bảy, có khi lại một đôi mươi. Một em chết thì lại lôi kéo
nhiều em khác. Có hôm sáu, bảy em cùng rủ nhau về thiên đàng một lượt!
Từ ngày ra đời (1-12-1955) đến nay cô nhi viện Chí Hoà đã tiếp nhận 270
em nhưng đến nay đã có 189 em về nơi cõi Chúa!
Những em còn lại,
lúc này nuôi nấng rất khó khăn. Vì khan sữa nên có ngày các em phải
uống nước cháo pha đường. Lại gặp các năm khan đường, các em đành phải
ăn nhạt!
… Trời vẫn còn mưa lác đác, tôi từ biệt cô nhi viện
quay về mà trí óc vẫn còn nhớ đến những làn da xám ngắt như mầu trời mưa
lạnh, những thân hình gầy còm khô héo như cây tàn giữa mùa đông, những
đôi mắt lờ đờ như cạn nguồn sinh lực… tôi vẫn còn cảm tưởng đen tối rằng
các em xấy số ấy khó mà lớn khôn được với đời!
Và không phải
chỉ ở cô nhi viện Chí Hoà mà còn nhiều cô nhi viện khác rải rác khắp đô
thành như ở Chợ Lớn, Hoà Hưng, Gò Vấp, Phú Nhuận, Chợ Thái Bình v.v… Các
nơi đều đang cùng hô vang lên tiếng kêu “cấp cứu”!
Trên đây mới
chỉ là một phần sự thật của những cái gọi là “thiên đường” và “công
trình nhân tạo” mà Ngô Đình Diệm đang cố công sơn phết lên cái chế độ
“cộng hoà” kiểu Mỹ của hắn ở miền Nam.
*
Tử Phác
Tiếng nói của tâm hồn và trái tim [12]
Các nhạc sĩ Hung-ga-ri đến thăm đất nước chúng ta trong một thời gian ngắn và chỉ tới có ít người với một dàn nhạc “nho nhỏ”.
Ngoài
đồng chí phụ trách chính trị, đoàn chỉ có 1 violon chính, kiêm chỉ huy
dàn nhạc, 2 violon phụ, 1 clarinette, 1 cymbalum, 1 violon alto và 1
contre basse. Ngoài ra còn có một nghệ sĩ hát giọng nam trầm và một nữ
nghệ sĩ hát giọng nữ cao. Từ ngày hoà bình trở lại đất nước chúng ta,
nhiều đoàn nghệ thuật đã đến thăm chúng ta, nhưng lần này là lần đầu
tiên chúng ta đón tiếp một đoàn nghệ sĩ nhỏ về số người nhưng rất không
nhỏ về trình độ nghệ thuật, lần đầu tiên chúng ta được thưởng thức một
chương trình toàn ca nhạc mà vẫn thấy mình bị hấp dẫn suốt từ đầu đến
cuối cuộc biểu diễn.
Chân thành cám ơn các bạn nhạc sĩ
Hung-ga-ri, nghệ sĩ đầy nhiệt tình và hoàn toàn đáng yêu từ con người
đến nghệ thuật, đã giới thiệu với chúng ta một số hình thức độc đáo của
nghệ thuật âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri và một vài đặc điểm của tâm hồn
con người Hung-ga-ri.
Buổi gặp gỡ đầu tiên giữa giới nhạc sĩ ta
với các bạn nhạc sĩ Hung-ga-ri. Nước đá, quạt trần cũng không đủ cho các
bạn chúng ta bớt đỏ mặt và thở dốc vì cái tiết trời không dung người
của đất nước chúng ta. Bài diễn văn long trọng và dai dẳng của nhạc sĩ
đại diện của ngành Nhạc, Hội Văn nghệ như về hùa với cái nóng bức. Nghệ
sĩ hát giọng nam trầm thỉnh thoảng lại uồm uồm thử giọng xem có bị hao
tổn gì không. Nhạc trưởng Sandor Jaroka đứng lên đáp từ: “Chúng tôi xin
nói với các bạn bằng thứ tiếng nói của tâm hồn và trái tim chúng tôi,
chắc rằng các bạn sẽ hiểu chúng tôi. Chúng tôi cũng mong được nghe các
bạn nói bằng thứ tiếng nói của tầm hồn và trái tim của các bạn, chúng
tôi tin rằng chúng tôi sẽ hiểu các bạn ngay”.
Nói rồi làm ngay.
Cuộc biểu diễn thân mật “trong nhà” bắt đầu luôn. Cây violon cua Sandor
Jaroka làm mưa làm gió trong dàn nhạc, trong không gian và trong lòng
mỗi người chúng ta. Những công thức của thủ tục ngoại giao không còn
nữa, những ám ảnh về thời tiết không còn nữa, những cách bức trong ngôn
ngữ không còn nữa. Sandor Jaroka lim dim đôi mắt, áp hẳn má xuống cây
đàn, nỉ non giai điệu của bài “Poème hongros”. Minh Đỗ, sau phút bỡ ngỡ
đầu tiên, đã nhận ra giai điệu quen thuộc với mình, mấp máy môi muốn
hát. Cây đàn của Sandor Jaroka đã kề bên, đỡ giọng cho Minh Đỗ nói thay
cho chúng ta những lời nói “của tâm hồn và trái tim” không cần phải
phiên dịch.
Nghe ban nhạc Sandor Jaroka, anh em nhạc sĩ ta cũng
như các bạn yêu nhạc đều thấy say mê, khâm phục. Có người nói: dân ca
Hung-ga-ri đã phát triển cao quá rồi! Có người nói: biết âm nhạc Di-gan
đã lâu mà nay mới được nghe những nhạc sĩ Di-gan chính cống chơi! Tôi
muốn nói một chút về âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri, gọi là mấy lời cám ơn
và tiễn đưa những nhạc sĩ Hung-ga-ri đầy nhiệt tình và hoàn toàn đáng
yêu từ con người đến nghệ thuật, vừa từ biệt chúng ta xong.
Âm
nhạc Hung-ga-ri là một nền âm nhạc rất phát triển, đã qua thời kỳ cổ
điển với Erkel và Liszt vào thế kỷ 19, thời kỳ cận đại với Bartok và
Kodaly vào đầu thế kỷ 20, tạo thành trường phái âm nhạc Hung-ga-ri nổi
tiếng khắp thế giới và đóng góp không nhỏ vào kho tàng âm nhạc chung của
nhân loại.
Hai nền âm nhạc cổ điển và cận đại đó bắt nguồn một
cách có ý thức và có hệ thống từ âm nhạc dân tộc của Hung-ga-ri. Ban
nhạc Sandor Jaroka đã giới thiệu với chúng ta đặc điểm của nền âm nhạc
dân tộc Hung-ga-ri. Âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri có hai luồng:
1.
Luồng dân ca Hung-ga-ri, có tính cách Á đông; dùng gam 5 cung (son, si
b, đô, rê, fa); giai điệu thường đi từ cao xuống trầm; kiến trúc minh
bạch, vừa khoẻ, vừa buồn buồn; diễn tả tâm tình của người nông dân
Hung-ga-ri quen sống ở những vùng đồng cỏ khô bát ngát với cuộc đời du
mục, lang thang vừa buồn tẻ nhưng cũng đầy phiêu lưu, hiếu động; tâm
tình đó biểu hiện hiện ra trong âm nhạc thành những tốc độ nhanh và
chậm, trầm mặc và bồng bột xen kẽ, nối tiếp nhau.
2. Luồng nhạc Di–gan (Tzigane)
Người
Di-gan là một giống người sống giang hồ, không có tổ quốc và không có
quê hương nhất định. Họ sống rải rác khắp châu Âu; ở Đức, ở Ý, ở Anh, ở
Y-pha-nho,ở Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni… đều có người Di-gan ở.
Người Di-gan bắt đầu với vùng đất Hung-ga-ri vào khoảng thế kỷ 15 và tới
thế kỷ 18 thì đặc điểm âm nhạc Di-gan đã rất phổ biến trong nhân dân
Hung-ga-ri. Đặc điểm đó là: đoạn đầu thường chậm, đoạn sau mỗi lúc một
nhanh thêm, hay dùng quãng 4 tăng, âm giai giản dị chứ không hay chuyển,
nhạc đề láy lại chứ ít phát triển xa, sính dùng những nét rải và những
nét tô điểm đặc biệt theo kiểu riêng của âm nhạc Di-gan, lấy violon làm
nhạc cụ chủ yếu, có đàn trầm và cymbalum phụ hoạ.
Trong lịch sử
âm nhạc không thấy nói đến những nhà soạn nhạc Di-gan. Nhạc sĩ Di-gan
thường chỉ là những nhạc sĩ biểu diễn kỳ tài. Nhưng nghệ thuật Di-ga lại
có đặc điểm vừa lãng mạn lại vừa say đắm, vừa lả lướt lại vừa sôi nổi,
vừa trầm lặng lại vừa ồn ã. Nhạc sĩ Di-gan lại có biệt tài tuỳ hứng sáng
tạo. Cho nên sống ở đâu, nhạc sĩ Di-gan cũng sử dụng dân ca ở đấy mà
Di-gan hoá đi, cũng từ chỗ đệm đàn cho dân ca bài dân vũ của địa phương
mà dần dần phát triển dân ca thành âm nhạc thực sự. Đặc điểm của âm nhạc
Di-gan xuất hiện ở từng bộ phận của âm nhạc dân tộc nhiều nước châu Âu
chứ không đi tới hình thành một nền âm nhạc Di-gan riêng biệt.
Riêng
ở hoàn cảnh Hung-ga-ri, đặc điểm hay dùng quãng 4 tăng của âm nhạc
Di-gan đã thâm nhập vào đặc điểm 4 cung của âm nhạc dân tộc Hung-ga-ri
mà tạo thành một thứ gam Di-gan dùng độ 4 hoá. Vào thế kỷ mười tám, nhạc
sĩ Di-gan Bihari ở Hung-ga-ri đã tạo ra một loại nhạc vũ rất đặc biệt,
nét nhạc say đắm, nồng nàn; nhịp điệu rồn rập như gót giầy người kỵ mã
lên đường, gọi là lối nhảy Verbunkoche. Bihari nổi tiếng khắp thế giới
và hình thức vũ nhạc Verbunkoche không những được toàn dân Hung-ga-ri
hoan nghênh mà các nhạc sĩ thiên tài thời đó ở Âu châu như Liszt, Haydn,
Beethoven, Schubert cũng đều ca tụng.
Erkel và Liszt, hai nhạc
sĩ cổ điển của âm nhạc Hung-ga-ri vào thế kỷ 19, đã khai thác đặc điểm
của vũ nhạc Verbunkoche đó. Erkel soạn nhạc kịch và âm nhạc đại hợp tấu
đã kết hợp với đặc điểm của nghệ thuật Di-gan với kỹ thuật âm nhạc mới.
Liszt soạn 20 bản nhạc Rhapsodies hongroises cũng đã sử dụng các giai
điệu của dân ca Hung-ga-ri đã Di-gan hoá rồi và đem kết hợp với kỹ thuật
mới của dương cầm.
Nhưng tới thế kỷ 20, hai nhạc sĩ cận đại của
âm nhạc Hung-ga-ri là Bartok và Kodaly lại tìm nguồn sáng tạo theo một
quan điệm khác hẳn. Quan niệm này cho rằng một khi dân ca đã được nghệ
thuật Di-gan tô điểm cho rồi thì dân ca không còn là dân ca nữa, mà đã
trở thành một thứ âm nhạc phát triển tới một trình độ nhất định nào đó
rồi. Âm nhạc mới không thể dựa vào đấy được mà phải đi sâu trở về với
nguồn gốc trong trẻo của mọi thứ âm nhạc: tức là dân ca nguyên thủy của
nông dân Hung-ga-ri không bị đặc điểm gì hạn chế, không bị công thức gì
gò bó, dân ca nguyên thuỷ mới chứa đựng nguyên chất tinh thần âm nhạc
dân tộc làm chất liệu tinh khiết cho nhà soạn nhạc xây dựng tác phẩm
mới.
Tôi thiết tưởng, nhân dịp các bạn nhạc sĩ Hung-ga-ri sang
thăm và biểu diễn ở nước ta, việc ôn lại mấy nét lớn về lịch sử âm nhạc
Hung-ga-ri (tuy sơ lược những cốt đừng mắc vào công thức ngoại giao
chiếu lệ hoặc chỉ ca tụng chung chung về nghệ thuật) nhất định sẽ làm
giới âm nhạc chúng ta học được kinh nghiệm đó, nhìn lại vốn cũ của âm
nhạc dân tộc ta một cách có phê phán và sáng tạo để góp phần xây dựng
nền âm nhạc dân tộc hiện đại một cách có ý thức, có khuynh hướng, có
trường môn nhất định.
Sandor Jaroka và các nhạc sĩ Hung-ga-ri đã
xa chúng ta rồi. Khi viết những dòng này, tôi còn như nghe thấy các bạn
tôi bảo qua tiếng đàn, giọng hát và tác phong của các bạn rằng: người
nghệ sĩ hãy làm công việc nghệ thuật đi, hãy đem “tâm hồn và trái tim”
ra công hiến cho nhân dân, đừng có rắp tâm đi trên con đường nghệ thuật
bằng những biện pháp nào khác!
10-1956
--------------------------------------------------------------------------------
[1]Trang
1, vị trí xã luận, trên cùng, góc bên trái, in nghiêng, lồng kkung, xem
tiếp ở trang 5 (các chú thích trong bài đều của talawas)
[2]Trang 1, vị trí bài cái, xem tiếp ở trang 6
[3]Chúng
tôi nói “mập mờ lấy danh nghĩa cơ quan” vì nếu dứt khoát lấy danh nghĩa
cá nhân thì rất vô lý: cá nhân Nguyễn Văn Tố làm gì có quyền cấp giấy
ban ơn? (chú thích trong nguyên bản của Nhân văn số 4)
[4]Trang 1
[5]Trang 1, kèm hai hình trong phim, xem tiếp ở trang 6
[6]Trang 1, xem tiếp ở trang 5
[7]Trang 2
[8]Trang 2, trong khung nhỏ
[9]Trang 2, góc trên cùng bên phải, không đề tên tác giả
[10]Trang 2
[11]Trang 2
[12]Trang 2
No comments:
Post a Comment