HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Monday 23 September 2013

NHÂN VĂN GIAI PHẨM * CÁC SỐ BÁO

NHÂN VĂN GIAI PHẨM *

NHÂN VĂN GIAI PHẨM,




NHÂN VĂN GIAI PHẨM

NGUYỄN THIÊN -THỤ
 sưu tập

NHÂN VĂN 

GIAI PHẨM
TOÀN TẬP


GIA HỘI©2009
Tái bản 2013

NHÂN VĂN GIAI PHẨM



NVGP * 1. NHÂN VĂN SỐ 2 * PHẦN II

1. NHÂN VĂN SỐ 2 * PHẦN II
Báo Nhân văn số 2 (phần thứ hai)

* Ngược dòng lịch sử

* Cùng chủ đề:
* 1
* 2
* 3
* 4
* 5
* 6
* 7
* 8
* 9
* 10
* 11
* 12
* 13
* 14
* 15
* 16
* 17
* 18
* 19
* 20
* 21
* 22
* 23

Phan Vũ
Xem phim Anh gắng nuôi con [1]

Nền điện ảnh Nhật từ trước đến nay vẫn được thế giới chú ý.

Những phim Rashomon, Những đứa trẻ Hiroshima đã làm sôi nổi dư luận thế giới về ý nghĩa sâu sắc của nội dung cũng như về nghệ thuật trình độ rất cao. Đạt được những thành công đó là do điện ảnh Nhật đã chuyển vào con đường tân hiện thực chủ nghĩa; Tân hiện thực của Nhật lại dung hoà với chủ nghĩa tượng trưng của Á Đông nên mang một sắc thái đặc biệt. Tân hiện thực của Nhật khác với tân hiện thực của Ý.

Phim Anh gắng nuôi con chưa phải là phim xuất sắc của Nhật, có thể đại diện cho chủ nghĩa Tân hiện thực của Nhật nhưng cũng là một cuốn phim viết và dựng theo thể thức của Tân hiện thực Nhật.

Những cảnh cờ bạc, rượu chè đĩ bợm, gian xảo, giành giật là một thực tế của cuộc sống trong hoàn cảnh của một nước Nhật trước và nay. Mễ Lang, một nạn nhân bị lôi cuốn vào cuộc sống ấy đi vào sa ngã vật chất tinh thần. Sự sa ngã ấy đã đem lại một kết quả khốc hại: cái chết của người vợ. Từ đấy Mễ Lang muốn thoát ra khỏi cảnh tối tăm của xã hội ấy, xây dựng cho đứa con một tương lai.

Lúc vợ chết có dặn: Anh gắng nuôi con! Đừng đánh nhau nữa! Mễ Lang không muốn cho con đi vào con đường đánh nhau, con đường buôn ngựa, nhưng có lúc Mễ Lang dạy con phải đánh lại những kẻ áp bức – trong hoàn cảnh xã hội như thế phải đánh để tự vệ.

Tâm lý của Mễ Lang, một tâm lý giày vò, xâu xé vì cuộc đời đang sống quá nghiệt ngã, đầy mâu thuẫn hối hận cuộc sống đã qua, một tâm lý cuồng nhiệt đến tột độ vì muốn thực hiện mục đích của mình. Tâm lý ấy nhiều khi vượt qua cả nhân tính, đến chỗ sống sượng, siêu thực nhưng về căn bản đã nói lên được khát vọng mãnh liệt đòi một cuộc sống tốt đẹp.

Chung quanh Mễ Lang là những lớp người nghèo cùng một mối tình, một ước vọng với Mễ Lang.

Ngoài lớp người nghèo khổ ấy nhưng đầy thiện chí kia lại có một số kẻ bịp bợm bóc lột mồ hôi nước mắt của người khác. Lại có tiền mở trường dạy học, khoác áo nhà giáo dục (Ý nghĩa châm biếm của cuốn phim).

Xã hội gian xảo, tối tăm ấy tạo nên những tâm lý bị giày vò, đau xót và đột khởi thất thường như Mễ Lang.

Nhận xét về phim Anh gắng nuôi con, ta cần phải đóng khung trong hoàn cảnh xã hội bây giờ, một xã hội Nhật bị Mỹ chiếm đóng. Phim Anh gắng nuôi con đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Vì thế câu chuyện của anh chàng buôn ngựa chẳng phải chỉ đơn thuần là câu chuyện đời tư của anh ta.

Mễ Lang, lúc rượu chè, dốc túi đánh nước bạc liều là một giai đoạn tối tăm của nước Nhật cũ. Giai đoạn ấy đã đưa đến một đám tang. Sau đám tang là sự khát vọng mãnh liệt xây dựng cuộc sống cho một đứa con, một thế hệ tương lai chính là xây dựng một nước Nhật mới (không theo con đường “buôn ngựa” cũ). Liễu Lang (tên cờ bạc bịp)… [2] những kẻ đang khoác những bộ áo đạo đức và chính trị màu mè mua chuộc, lừa gạt nhân dân. Tuyết tượng trưng cho lớp người nhẹ dạ, cả tin, yêu tha thiết nước Nhật nhưng rất dễ lầm đường.

Tất cả thực trạng của một xã hội, tất cả khát vọng của một dân tộc thu vào một tấn kịch gia đình. Trong con người Mễ Lang cũng như trong cảnh giải quyết câu chuyện vì tình vì lý nhiều chỗ giả tạo, trừu tượng nhưng xem phim ấy phải đóng khung trong hoàn cảnh Nhật, tâm lý Nhật. Không nên đem những đòi hỏi của miền Bắc Việt Nam mà gắn vào cho một nước Nhật bị chiếm đóng. Làm nghề viết kịch bản, chúng tôi tìm thấy trong phim Anh gắng nuôi con một phương pháp thể hiện chủ đề, thể hiện tình cảm bằng cuộc sống, bằng con người, bằng chủ nghĩa Tân hiện thực. Những phim như thế rất cần cho chúng tôi trong công tác sáng tác hơn nhưng tác phẩm điện ảnh chỉ có một cái khung cứng nhắc bên trong xếp đặt theo một lề lối cố định những tâm hồn công thức, những nét sống công thức.

Viết bài này tôi muốn đưa một số quan điểm của mình bàn với bạn đọc, nhưng ngoài ra tôi còn muốn nói thêm với báo Nhân dân mấy điểm:

Tôi muốn coi báo Nhân dân là một tờ báo lớn, có một nhiệm vụ hướng dẫn dư luận quần chúng. Những bài đăng trên báo Nhân dân dù là thư bạn đọc đi nữa – báo Nhân dân cũng phải chịu tránh nhiệm, vì đăng như thế báo Nhân dân đã bày tỏ thái độ.

Hai bức thư đang trên báo Nhân dân phê bình phim Anh gắng nuôi con như thế nào?

Một cái thì bảo ông chủ rạp là lợi dụng tình cảm của quần chúng với chiêu bài: “chống viện trợ Mỹ”. Tôi không đồng ý với ông chủ rạp về việc này, vì theo tôi, chính là ông chủ rạp đã sợ các bạn phê bình kiểu lập trường máy móc, chính trị, công thức nên đã phải làm cái chiêu bài rất là tồi kia cho hợp thời! Tôi chắc rằng bạn ấy trong khi viết bài phê bình cuốn phim thậm tệ như thế không khinh ông chủ rạp bằng khinh quần chúng đâu. Phim Anh gắng nuôi con chiếu hơn một tuần lễ, quần chúng hâm mộ như thế, tôi tin chắc quần chúng không bị lợi dụng bởi mấy chữ “chống viện trợ Mỹ” mà chính trong phim có thực chất nghệ thuật. Quần chúng của ta bây giờ đã tinh lắm, không đơn giản quá như bạn viết. Không tin bạn cứ đem một phim tồi mà quảng cáo: “Hôm nay có bắn vỡ đầu Mỹ!” quần chúng cũng chả chen nhau mua vé đâu.

Một cái thư khác đăng báo Nhân dân lại có ý kiến đừng cho chiếu phim ấy lần thứ hai. Đấy là một sự độc đoán và cũng vẫn là khinh quần chúng vì không lẽ bao nhiêu người đi xem một cái phim “phát xít” đầu độc như thế mà không có lý nào lại không đứng dậy la ó ngay trong rạp, mà phải chờ đợi đến sự phân tích của bạn?

Tôi không hiểu tại sao Ban biên tập Báo Nhân dân lại có thể cho đăng những loại bài hẹp hòi như thế bên cạnh những bài của các Chu Dương, Lục Định Nhất cổ vũ những quan điểm rộng rãi về văn nghệ "trăm hoa đua nở”?


*


Trần Y Du
Địa ngục miền Nam [3]

1. Mùa tựu trường đã đến. Ở miền Nam cũng có mùa tựu trường, nhưng đa số học sinh không có trường đề tề tựu.

Một tờ báo Sài Gòn than: Trên 80% học trò bậc tiểu học bị loại trước ngưỡng cửa trung học – và một số đông các em từ 7 đến 14 tuổi chỉ lo giúp đỡ cha mẹ trong các việc lặt vặt, hoặc đi chơi giỡn ngoài đường không biết làm gì cả, hầu hết đều không biết…!

Một tờ báo khác viết: Có trường để học! Có lớp để học! Nửa vạn học sinh nghèo Cần Thơ đang mong đợi! Đó là tiếng kêu tha thiết của đa số thiếu niên, đó là nhu cầu cấp bách không thua các thứ nhu cầu khác của cơ thể.

Diệm nghe những tiếng kêu ấy chắc nghĩ bụng: “Quái! Thế xây thêm nhà tù, và các trại giam tập trung không phải là nhu cầu cấp bách à?”


2. Lại nói đến chuyện thanh niên học sinh. Một cô giáo phải kêu: Vào lớp giảng bài, chúng có thèm nghe đâu, cứ lén lút đọc những thơ tình.

Ở những góc phố người ta hiếp một em bé lên chín… em bé chết, giết người giữa ban ngày, cướp ô tô, bắn súng lục v.v…

Báo Lẽ sống viết: “Ảnh hưởng tai hại của những loại sách ba xu ca tụng những ái tình lãng mạn của phim ảnh khiêu dâm, loã thể khoái lạc những cái hôn nồng cháy trên màn ảnh, khiến các học sinh bắt chước rập khuôn trên màn ảnh những cao bồi, đã tạo nên nạn cao bồi lô-can ngoài phố quấy rối xóm giềng…”

Diệm trông thấy và hốt hoảng kêu: Đó, tàn tích thực dân phong kiến thối nát sau tám mươi năm đô hộ…

Đế quốc? Phong kiến? Đồng ý – Nhưng Diệm chỉ còn quên có Diệm thôi!


3. Ông Nguyễn Xuân Hách ở xóm Bình Địa (Phú Nhuận) mới 9 giờ tối, hai tên lạ mặt xông vào nhà bắn ông ngã gục, “viên đạn trúng vào vai ông Hách trổ ra ngoài ghim vào vách. Sau khi thi hành thủ đoạn, hai hung thủ tẩu thoát trong bóng tối”.

Các báo đăng chữ lớn: Án mạng rùng rợn! Một thiếu phụ bị thọc cây vào họng chết thê thảm!

Bà Hoàng Thị Khoá chủ đại lý Rượu Nam Hương giữa đêm bị kẻ lạ mặt đâm trúng ngực!

Một ngôi nhà số 33 đường Nguyễn Huệ, cạnh đội võ trang tuyên truyền của Diệm đã bị cướp kéo vào nhà đâm chết hai người và hai người bị thương!

Cướp đeo mặt nạ, có bọn trang bị bằng tiểu liên chặn cả một chuyến xe đi cướp của hành khách.

Nhà 509 Phan Đình Phùng giữa ban ngày bị cướp liệng lựa đạn hoả mù vào nhà để cướp - ở 1 phố đông một thiếu nữ bị bắt cóc lên tắc-xi lột hết nữ trang - một thiếu nữ khác bị hiếp và hai nhát dao “kết liễu”!

Ăn cắp ôtô có tổ chức như ở Xi-ca-gô.

Diệm lại kêu: Đó là tại tàn tích của thực dân phong kiến.

Đồng ý! Nhưng ở đây Diệm lại chỉ còn quên có Diệm thôi!


4. Diệm nghĩ mọi cách để bảo vệ “thuần phong mỹ tục” phát triển những truyền thống tốt đẹp!

Có đưa ra mấy phương pháp: Chính quyền cấm lưu hành những hình ảnh loã thể! Nhưng sách báo và phim Mỹ lại nhiều những thứ ấy. Thế là một mâu thuẫn.

Cấm chiếu phim cao bồi và tiêu diệt nạn cao bồi… Nhưng phim cao bồi lại là của Mỹ.

Thế là hai mâu thuẫn.

Phát triển văn hoá lành mạnh, nhưng báo Lẽ sống lại viết: vì thiếu điều kiện và phương tiện hơn nữa ít sự nâng đỡ cho nên việc xuất bản sách báo ấy cũng chết dần chết mòn!

Ở miền Nam chỉ còn hai thứ mà Ngô Đình Diệm không thể chết dần, chết mòn được: đó là đế quốc Mỹ và Ngô Đình Diệm.


*


Hoàng Tích Linh
Xem mặt vợ [4]
(kịch ngắn một hồi)

Thời gian

Mùa thu, sáng chủ nhật

Nhân vật

Nguyện, ngoài 30 tuổi, công nhân
Chị Nguyện, ngoài 30, bán hàng xén, tổ trưởng phụ nữ khu phố
Tấn, 25 tuổi, cán bộ công trường
Lan, 20 tuổi, bán hàng ở mậu dịch
Dung, 18, y tá 1 cơ quan

Bài trí

Nhà Nguyện ở một ngõ lao động. Căn buồng vuông vắn có mảnh vải hoa bạc ngăn đôi. Cửa phía trong, trông ra mảnh vườn nhỏ và bếp. Đồ đạc sơ sài mấy tấm phản, tràng kỷ, bàn ghế. Đồ chơi trẻ con bày khắp nhà. Tường treo nhiều ảnh chụp và tranh "Công nhân kiến thiết", tranh "Thống nhất", tranh "Bác Hồ với thiếu nhi".

Màn mở lên

Cửa sổ và cửa trông ra phố mở tung. Nắng tràn vào trong nhà, những bức tranh màu sáng rực rỡ. Ngoài phố cảnh tấp nập một sáng chủ nhật.

Trên giường, anh Nguyện chăm chú chữa radio. Chị Nguyện nhanh nhẹn vắt lại cất màn, chiếu, quét giường.

CHỊ NGUYỆN, dáng vội vã – 7 rưỡi rồi. Cô ấy cũng sắp đến, nhà cửa lủng củng thế này, cô ấy lại chẳng cười cho (vui vẻ thu dọn bàn ghế, một chiếc ghế đổ).

NGUYỆN vẫn lúi húi chữa, không ngửng đầu lên – Cái gì thế?

CHỊ NGUYỆN nhìn chồng – Anh ngồi sù sù từ sáng đến giờ cũng không biết bảo con để nó bày bừa ra nhà (thu dọn đinh ốc, bóng đèn trên giường). Con bày, bố cũng lại bày, ai chịu được. Để tôi mang vào trong nhà mà chữa nhá!

NGUYỆN – Cái gì?

CHỊ NGUYỆN – Cô ấy hẹn sáng nay đến chơi đấy! Ai lại nhà cửa luộm thuộm thế này trông sao tiện?

NGUYỆN – Cô ấy đến xem mặt chú Tấn, chứ xem mặt nhà mình đâu mà sợ. Rõ dở hơi lắm!

CHỊ NGUYỆN – Phải, chẳng biết ai dở hơi. Lúc anh hỏi tôi anh đòi đến xem nhà hàng chục lần thì sao?

NGUYỆN – Thì lúc ấy người ta cũng vờ thế mới xem mặt cô được kỹ chứ. Ai đòi xem nhà làm quái gì!

CHỊ NGUYỆN – Bây giờ việc trăm năm của chú Tấn phận mình là anh chị phải trông nom. Cảnh nhà mình lao động chẳng có gì, lại càng phải giữ thể diện cho chú ấy. Anh cứ để mặc tôi thu xếp… Tôi đã dạm hỏi cả thẩy mấy đám. Chỉ có đám cô Dung này ưng ý nhất cả. Ít tuổi, tiến bộ, mẫu mực, lại có công tác tự túc được rồi. Chú Tấn nhà ta mà lấy được thì đẹp đôi lắm!

NGUYỆN – Biết vậy, còn tuỳ chú ấy chọn.

CHỊ NGUYỆN – Ai không biết là tuỳ chú ấy. Nhưng cũng phải biết ba bảy đường tuỳ. Giá chú ấy công tác ngay Hà Nội thì cũng còn dễ. Đằng này chú ấy công tác xa mới về, mình phải chọn nơi nào đích đáng nơi ấy, chú Tấn với người ta chỉ gặp mặt nhau có một lần là xong việc rồi chứ!

NGUYỆN – Xem mặt xong rồi cưới ngay…

CHỊ NGUYỆN – Chứ lại dề dà như anh ấy à. Tôi tính chú ấy được nghỉ phép ba tuần. Lỡ dịp này lại xin phép khó khăn ra. Bên nhà người ta mới xem ảnh cũng đã thuận ý rồi. Sáng nay chú cô ấy gặp gỡ nhau xong là cưới phắt ngay được.

NGUYỆN – Cô cứ nói như mai cưới ngay được rồi ấy! Việc lấy nhau bây giờ người ta còn tìm hiểu nhau chán ra kia rồi mới đặt thành vấn đề hẳn hoi được.

CHỊ NGUYỆN – Ấy gặp nhau khắc hiểu nhau ngay chứ khó gì. Giai chưa vợ, gái chưa chồng bắt duyên nhau lắm. Con gái đang ế chồng khối kia!

NGUYỆN – Đã chắc chú ấy bằng lòng chưa?

CHỊ NGUYỆN – Sao lại chẳng bằng lòng. Tôi đến chơi dò hỏi tính nết cô ta kỹ lắm rồi.

NGUYỆN bật cười – Thế ngộ nhỡ chú ấy không thích thì mình cũng bắt chú ấy phải thích à?

CHỊ NGUYỆN – Chẳng còn đám nào hơn đám này đâu. Được cả hai chị em. Nhưng cô em là cô Dung mới có 18 tuổi. Trẻ măng mà ăn nói đã chững chạc ra vẻ cán bộ lắm rồi. Tôi xem ý chú Tấn cũng tán thành món cô Dung đấy (gọi với trong sân) chú Tấn, chú Tấn ơi! Hãy nghỉ tay ra đây nói chuyện.

Tiếng Tấn ngoài vườn.

NGUYỆN – Này, thế còn cô chị?

CHỊ NGUYỆN – Cô Lan hơn em hai tuổi. Nhà ấy được cả hai đều xinh xắn cả.

NGUYỆN – À … thế để chú ấy gặp cả hai rồi thuận ý ai thì lấy.

CHỊ NGUYỆN – Sao anh lại cứ bàn lằng nhằng thế. Giới thiệu cô chị làm gì thêm nhiễu chuyện ra. Cô chị tự nhiên lắm. Còn cô em nền nếp hơn lại có nghề trong tay. Tôi đã cân nhắc chán rồi. Chú Tấn công tác trên rừng trên rú phải tính lấy người biết thuốc men trong nom săn sóc mới được. Chú Tấn mà không lấy được cũng hớ.

NGUYỆN – Ờ, cứ kể thế thì lấy được đấy!

CHỊ NGUYỆN cười – Anh rõ thật "quan bẩy cũng gật, quan tư cũng ừ" chẳng ra làm sao. Chú Tấn còn tinh hơn anh nhiều.

Tấn ra, nét mặt hí hửng.

TẤN – Anh chị nói xấu gì em thế?

CHỊ NGUYỆN – Chú ra đây. Tôi đang nói xấu chú đây này. Người đến là đoảng. Bàn chuyện cứ hay bàn ngang. Việc của chú có dở dang, chú cứ bắt đền anh đấy.

TẤN – Em bắt đến cả chị nữa.

CHỊ NGUYỆN – Tôi tính đâu vào đấy rồi. Chú nghỉ chẳng được bao ngày. Nhân tiện chú cần tiêm cho dứt nọc sốt rét đi. Tôi sẽ mách cô ấy từ mai ngày ngày đến trông nom thuốc men cho chú. Chú, cô tha hồ có cớ đi lại nói chuyện bàn bạc với nhau, thế có phải tiện cho mọi đường không?

NGUYỆN – Cô bàn cách ấy được đấy.

CHỊ NGUYỆN – Bây giờ xem mặt nhau cũng đã dễ dàng lắm đấy. Trước kia hồi xem mặt tôi, anh chú long đong hàng mấy tháng mà có được tích sự gì đâu. Ngày ngày đi qua hàng tôi, tiền đã chẳng có lại còn vờ hỏi hết thứ này đến thứ khác. Được thế, tôi càng trêu dấn. Lắm lúc nghĩ đến tức cười. Còn việc của chú tôi tính như thế, chú thấy thế nào?

TẤN – Cũng còn phải xem ý tứ cô ấy thế nào đã chứ.

CHỊ NGUYỆN sốt sắng – Tôi biết cả đôi bên. Từ hoà bình được học tập cô ấy tiến bộ nhanh lắm, gương mẫu nhất cơ quan đấy. Đôi bên hợp lắm rồi. Chú chẳng phải đắn đo gì nữa đâu.

NGUYỆN – Ấy… việc này không hấp tấp được. Chú phải tìm hiểu cho thật chắc chắn đi. Thời buổi này phải hợp tình hợp ý, đôi bên thoả thuận cả mới nên lấy nhau. Sau này còn ăn đời ở kiếp với nhau không phải thắc mắc mảy may gì nữa có hơn không?

TẤN – Có thế nào cũng còn phải hỏi ý kiến anh chị nữa.

NGUYỆN – Cứ ý chú là chính. Anh chị có ý kiến chỉ là phụ thôi. Việc này dân chủ bơn bớt mới được. Bàn quá là nát. Lúc tôi lấy chị cũng vậy. Hai đứa ưng thuận nhau là lấy ngay, giá lại đưa cho ông anh, bà chị, ông chú bà thím bàn ra tán vào thì cũng chẳng xong đâu.

CHỊ NGUYỆN – Việc chú chẳng khó đâu. Người ta cũng dễ tính thôi. Chỉ cần chú với cô Dung quyết định nữa là xong.

NGUYỆN – Chú được nghỉ ba tuần phải tiến hành thế này mới chóng vánh được. Tuần đầu tìm hiểu, hai tuần sau cưới. Còn mọi việc cưới xin ra sao, chú chẳng phải lo. Đã có chị, chị làm tổ trưởng phụ nữ khu phố tổ chức tập thể quen rồi.

CHỊ NGUYỆN – Mọi việc tôi đã tính toán đâu vào đấy. Chính quyền mời ai, khu phố mời ai, ban văn nghệ liên hoan thế nào đã sẵn sàng cả rồi chú không ngại việc đó.

NGUYỆN – Thôi phiên phiến thôi. Người ta đến dự cưới chứ có đi họp đâu. Cô đã dự nhiều đám rồi về kêu ca mãi mà bây giờ lại còn bày vẽ ra…

Cô Lan đỗ xe đạp ngoài cửa.

CHỊ NGUYỆN, thấy trước, giục chồng – Đấy các cô ấy đã đến kia. Nhanh tay lên anh (Nguyện mang vội đồ chữa ra-đi-ô vào trong nhà. Chị Nguyện vui vẻ bảo Tấn) Kìa chú, chú cũng vào thay quần áo đi. Ai mặc áo lót thế kia mà lại định xem mặt vợ bao giờ?

Chị Nguyện đon đả ra tận cửa đón.

LAN nhanh nhẹn vui tính – Chị! Lần đầu đến chơi chị lại đến muộn để chị phải đợi lâu quá.

CHỊ NGUYỆN – Cô ngồi đây. Các cô đã hẹn hôm nay chủ nhật lại chơi, tôi yên trí không sáng thì chiều thế nào rồi các cô cũng đến.

LAN – Sợ chị đợi em phải đến trước đấy. Dung bận tí việc đến sau chị ạ.

CHỊ NGUYỆN – Ấy, cứ thấy cô Dung là thấy bận. Công tác của cô ấy vất vả thật. Có lẽ chủ nhật cũng không được rỗi mấy cô nhỉ.

LAN – Em Dung không bận lắm đâu. Công tác như em thôi. Chủ nhật cũng được nghỉ cả ngày. Có hôm nay Dung tạt qua cơ quan báo cáo chắc cũng sắp lại đây.

CHỊ NGUYỆN – Ra thế… tôi lại cứ tưởng… Hôm nay cô lại chơi. Chỗ cô tự nhiên cứ coi như người nhà mới nói thẳng thắn ngay vào việc được…

LAN cười tinh ý – Em biết loáng thoáng rồi. Hôm nọ bác Phúc có đưa cho chúng em xem ảnh của anh Tấn. Nếu hợp tình hợp tính thì càng tốt. Đằng em với bên nhà chị lại thành chỗ người nhà chị nhỉ?

CHỊ NGUYỆN – Thế còn gì bằng nữa. Chú em nhà tôi năm nay 24 tuổi rồi đấy. Nói chuyện vợ con cứ chối đây đẩy. Tính người cũng dễ dãi. Là người kháng chiến thật đấy mà ăn nói còn lúng túng lắm.

LAN – Bây giờ phụ nữ chúng em mong lấy chồng hay chứ chẳng cần người nói hay, chị ạ.

CHỊ NGUYỆN – Vẫn biết thế… nhưng cách thức Hà Nội ta biết ăn nói vẫn hơn có phải không cô?

LAN hóm hỉnh – Chúng em đã bảo nhau rồi. Chồng con không cùng một chí hướng cũng cắt đứt. Không chồng suốt đời cũng được.

CHỊ NGUYỆN cũng cười – Cô nào cũng nói như vậy mà chả cô nào cứng rắn mãi được đâu. (Tấn ra) cô Lan đến chơi… Chú ngồi đây.

LAN tự nhiên – Anh công tác ở công trường.

TẤN – Vâng, ở công trường cầu cống.

LAN – Vui lắm phải không anh?

Chị Nguyện lặng lặng mang ấm nước vào.

TẤN tự nhiên hơn – Thích nhất chỗ công trường tôi làm là công trường động. Ở chỗ này vài tháng xong việc lại chuyển đi nơi khác. Hai năm nay chuyển ba lần. Hết Bắc Giang lại Việt Trì rồi Lao Kay. Rồi sắp vào Thanh, xuống Vinh.

LAN – Công tác của anh được đi nhiều nơi thích nhỉ.

TẤN sôi nổi – Sau này thống nhất, con đường còn dài, còn nhiều cầu cống, còn khai phá nhiều đường mới. Chỉ sợ chân mình không đi hết được. Tính tôi quen từ nhỏ như hòn bi, ngồi lì ở một chỗ không chịu nổi.

LAN – Thế những người ngồi lì mãi Hà Nội thì anh bảo sao?

TẤN – Tại mỗi người một tính, một nết. Hợp đâu, thích đấy.

LAN – Thế chắc anh không thích Hà Nội.

TẤN – Hà Nội lại khác. Năm 50 tôi còn học kỹ nghệ, sau thích hoạt động mới bỏ học ra kháng chiến. Công tác xa Hà Nội thực, nhưng vẫn nhớ chứ. Tôi thích công tác liên miên vài tháng mới lại về Hà Nội một lần.

LAN – Nghe anh nói cũng thích rồi, công tác hợp mới phấn khởi được (hơi buồn) công tác tôi lại khác hẳn anh.

TẤN – Tưởng chị làm ở mậu dịch đông người mua bán chắc phải tấp nập suốt ngày.

LAN – Bề ngoài thế thôi, trông vui mắt nhưng buồn lắm, anh ạ. Ngày hai buổi lại bán hàng, lại ghi sổ, lại thu tiền. Mà khách hàng khó tính không chịu được. Lắm lúc bực gắt lại bị phê bình.

TẤN – Tại chị chưa quen đấy.

LAN – Không phải quen đâu. Phê bình không đúng mới bực mình chứ.

TẤN đùa – Chị nói thế chẳng ma nào muốn xin vào mậu dịch bán hàng nữa.

LAN cười – Thì anh vừa bảo, tại mỗi người một nết, hợp đâu thích đấy, (nghĩ ngợi) chỉ tại cần phải đi làm để đỡ cho mợ tôi ở nhà quấn chỉ kiếm không đủ nuôi các em đi học. Tính tôi lại thích bay bổng, nhưng bay bổng khác anh kia. Tôi đang học thêm nhạc. Rồi tôi sẽ hát ở đài phát thanh. Lúc ấy tiếng hát của tôi sẽ vang đi khắp nơi, tôi sẽ hát cho mọi người nghe… Tôi tin là tôi phục vụ được nhiều hơn bây giờ.

TẤN – À… lúc ấy tôi công tác xa mà nghe được tiếng hát của người mình quen biết chắc thích hơn cả.

LAN – Anh cũng thích hát à?

TẤN – Tôi không biết hát nhưng thích nghe hát. Tính tôi như ngựa lồng thế này không thích ca hát sao được. Tôi cho chỉ có bụt là không thích nghe hát mà thôi.

Hai người cùng cười thân mật hơn. Chị Nguyện mang nước ra, chợt thấy, hơi khó chịu, lại lẳng lặng quay vào.

LAN – Nhiều người không thích hát chứ. Mợ tôi, cả Dung cũng thế. Chỉ có mấy em nhỏ là nó thích bắt tôi hát luôn. Mợ tôi bực lắm, nhưng tôi lại hát để tập dượt nhân thể.

TẤN – Thế chị hát cho tôi nghe một bài. Lần đầu gặp chị lại được nghe chị hát.

LAN tự nhiên ngượng nghịu – Ai lại thế bao giờ. Lần khác, anh ạ.

Yên lặng, Tấn suy nghĩ nhìn Lan.

LAN – Ờ, sao mãi Dung không lại? (lảng sang chuyện khác) Anh còn nghỉ, mời anh lại chơi nhà.

TẤN – Tôi mong thế lắm. Cũng muốn đến luôn. Chỉ sợ phiền…

LAN – Có gì là phiền đâu. Anh cứ đến chơi. Tối nào Dung cũng có nhà. Quen chị ở đây là được biết anh, mà tính anh tự nhiên càng dễ gần hơn chứ.

TẤN vui vẻ – Thế tôi sẽ đến luôn. Và chị phải hát nhé. Rồi tôi sẽ cho chị xem nhưng kỷ niệm kháng chiến của tôi.

LAN – Ờ… thế anh phải cho tôi xem trước rồi tôi mới hát.

TẤN – Mà chị phải hát thật hay kia.

LAN cười – Nhất định thế. Tiện bây giờ anh lấy cho xem trước đi.

TẤN thân mật – Nhưng chị cũng phải hát ngay đấy nhé. (Chạy vào trong đem túi dết ra) Công tác nay đây mai đó rất cần kỷ niệm (giở túi dết, tư lự) giở cho chị xem, chị hiểu được hết đời tôi đấy.

Hai người sát vai nhau.

TẤN – Đây, chiếc túi gấm thêu và con dao là của mẹ nuôi người Thổ, chợ Chu, hồi bà cụ còn con gái. Hôm bà cụ sắp chết, không chôn theo, bà cụ cho đứa con nuôi người Kinh làm kỷ niệm. Cứ một vật này hôm nào lại chơi tôi kể cho chị nghe cũng nhiều chuyện rồi. Có lẽ để tôi giở cho chị xem trước tập ảnh thì hơn.

Hai người cùng nhau giở chung ảnh. Anh Nguyện ra lấy cái dùi ở giường đằng sau. Cả hai cùng không biết.

TẤN – Ra kháng chiến tôi vào ngay bộ đội. Ảnh này chụp ở cầu Hàm Rồng sau chiến dịch Hà Nam Ninh, đây là những ảnh dân công khi tôi chuyển sang công tác ở Sông Đà. Đây, ảnh mẹ nuôi tôi. Và ảnh tôi mới chụp.

LAN xem kỹ – Ảnh này đẹp hơn ảnh bác Phúc cho xem trước (nhìn Tấn). Trông trẻ mà giống anh hơn (cười). Thế mà anh lại định giấu diếm.

Dung vào, áo cán bộ màu xanh. Cả hai vẫn không biết. Dung ngập ngừng không đánh tiếng.

CHỊ NGUYỆN vừa ra trông thấy – Kìa cô Dung. Cô vào đây. Đợi mãi cô.

DUNG – Chị mặc em.

LAN – Sao chậm thế, hở Dung?

CHỊ NGUYỆN kéo ghế vồn vã – Cô ngồi đây… Chú Tấn lấy hộ chị ấm nước.

DUNG với LAN – Bực quá, chị ạ. Công đoàn gì mà chủ nhật đi chơi hết. Em đợi hơn nửa giờ, chẳng gặp ai.

LAN – Chẳng vội. Lúc nào báo cũng được.

DUNG – Nên báo cáo ngay chị ạ. Công đoàn còn theo rõi giúp đỡ ý kiến chứ.

CHỊ NGUYỆN bảo LAN – Cô Lan này, ra chợ xem gian hàng của tôi đi. Không lại bảo biết nhà mà không biết cửa hàng.

LAN – Vâng… đi đi chị.

Cả hai cùng ra. Tấn và Dung yên lặng.

TẤN – Cô vẫn làm việc?

DUNG – Vâng, tôi làm việc ở Bộ. Ở Bộ bận hơn các cơ quan khác.

Yên lặng.

TẤN – Tôi mới về hôm qua. Được nghỉ hơn 20 ngày.

DUNG – Chỗ anh công tác, y tế phục vụ có báo đảm lắm không?

TẤN – Cũng khá.

DUNG – Công trường càng cần phải tích cực chống sốt rét mới thực hiện được kế hoạch 56.

Lại yên lặng.

TẤN – Tôi về cũng có ý định lập gia đình. Thấy chị tôi nói chuyện nhiều về cô. Trong thời gian nghỉ mong được trao đổi với cô.

DUNG – Vâng, … Việc này anh hãy thư thả. Mợ tôi cũng đã biết rồi. Nhưng tôi chưa báo cáo Công đoàn. Tôi định đến nhưng không gặp.

TẤN – Trước hết là chúng ta tìm hiểu nhau đã.

DUNG – Theo ý tôi trước hết là tổ chức cơ quan phải biết đã. Như vậy đảm bảo hơn.

TẤN – Vâng, thế cũng được.

DUNG – Bộ không định hẳn nguyên tắc đó. Nhưng chính bây giờ tôi lại thấy cần phải có tổ chức xây dựng cho mình. Mợ tôi cũng thấy thế là đúng.

TẤN – Tôi cũng không phản đối việc đấy.

DUNG – Như vậy chỉ có lợi mà không ảnh hưởng đến sau này phải không anh? Về điểm này tôi và anh cùng giống ý nhau rồi đấy.

TẤN bắt đầu khó chịu – Vâng.

DUNG – Còn khó khăn nữa là tôi với anh công tác không những xa mà lại khác ngành nhau. Ăn ở với nhau rồi khó.

TẤN – Sau này sắp xếp công tác cùng một cơ quan cũng dễ thôi. Cái khó là sợ không cùng một chí hướng, tình cảm.

DUNG – Tôi tưởng chúng ta cùng phục vụ cho cách mạng là cùng một chí hướng rồi. Hơn nữa, anh lại là gia đình công nhân, thế càng tốt.

TẤN – Vâng.

DUNG – Tôi về, anh ạ. Tôi báo cáo với Công đoàn rồi lại gặp anh. Đến tối… à tuần này tôi mắc học cả. Có gì, lại sáng chủ nhật sau, anh nhé.

Lan vào hơi ngạc nhiên.

LAN – Dung đã về à? Ngồi đây chơi đợi chị Nguyện.

DUNG – Chị về sau.

LAN – Này, Dung đi đâu vội thế?

Dung vẫn đứng cửa.

LAN – Anh Tấn nghỉ phép không lâu đâu. Công tác xa ốm yếu xanh lắm, cũng cần tiêm cho khoẻ. Có thuốc sẵn rồi. Dung xem giờ nào tiện, ngày ngày đến tiêm cho anh Tấn.

DUNG nghĩ ngợi – Cũng hơi phiền, chị nhỉ (một lát). Thế chưa tiện đâu. Để em báo cáo với cơ quan đã. Sáng chủ nhật sau, chị ạ…

LAN băn khoăn – Dung, Sao Dung phải để đến tuần lễ sau mới lại được? Dung nghĩ xem: Anh Tấn được nghỉ phép có ít ngày. (Không tiện nói hết ý mình, như nằn nì với em) Dung đến vào buổi tối thôi mà.

DUNG thản nhiên – Tuần lễ này buổi tối em bận mà vấn đề của em với anh Tấn nên nghiên cứu kỹ về mọi mặt… Em không thể làm hơn được. Đến chủ nhật sau chưa muộn. Thôi em về đây, chào anh nhá.

Dung ra vội, Lan cũng lúng túng đứng dậy.

TẤN – Chị cũng lại định về ?

LAN – Không… không… Phiền quá nhỉ! Hay là, chiều anh lại chơi với mẹ em? Dung có nhà đấy.

TẤN – Tôi không cần tiêm và cũng không cần…

LAN sốt sắng – Cần lắm chứ. Anh cần phải khoẻ. Anh còn phải công tác nhiều.

TẤN – Không, tôi không muốn (tha thiết nhìn Lan) Tôi mong cô hiểu…

LAN cảm động – Để tôi bảo Dung.

TẤN – Không, Không! (càng tha thiết) Cô Lan!

LAN thêm lúng túng – Anh bảo gì em kia?

TẤN cũng lúng túng – Tôi muốn nói chuyện với cô… cô Lan!

LAN ngượng – Vâng.

TẤN sôi nổi âu yếm – Lan! Biết Lan, tôi thấy mến Lan hơn, tôi không thể…

LAN thẹn nhưng sung sướng – Em không… Ai lại thế bao giờ? Em về đây (bỏ chạy ra cửa).

TẤN – Cô Lan, Lan (chạy vào trong nhà, dắt xe đạp ra, nói với) Anh cho em mượn xe đạp một lát nhé.

Đến cửa gặp chị Nguyện về.

CHỊ NGUYỆN ngạc nhiên – Chú vội đi đâu đấy!

Tấn không kịp trả lời, lên xe hấp tấp. Anh Nguyện cũng vừa ra.

CHỊ NGUYỆN – Cô Dung đâu?

ANH NGUYỆN – Ai biết đâu đấy!

CHỊ NGUYỆN – Sao chú Tấn lại đi với cô Lan?

ANH NGUYỆN – Lạ thật! Sao mình lại hỏi tôi? Chú Tấn chọn vợ chứ mình chọn vợ à? Dở hơi lắm! Thôi mình vào khiêng giả lại tôi cái radio ra chữa đây.

Hai người cùng cười. Vào phía trong.

Màn từ từ khép theo.

2-9-56


*


Tranh châm biếm, ký tên Pha Y, vẽ hai người. Một người cầm hai chiếc mũ, trên mũ ghi "Bất mãn, tiêu cực", hỏi: “Sao ‘trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng’ mà anh cứ lầm lỳ và không sáng tác được gì?”

Người kia đội một chồng mũ, trên mũ ghi "Địa chủ, phản ứng, tả khuynh, hữu khuynh, tiểu tư sản, mất cảnh giác, mất lập trường", trả lời: “Anh cứ trông đầu tôi thì biết”.


_________________________

[1] Trang 2

[2] Mất mấy chữ vì báo rách, chưa khôi phục được

[3] Trang 2, với hai minh hoạ

[4] Bài chiếm toàn bộ trang 3, xem tiếp ở trang 4

Nguồn: Nhân văn số 2, ngày 30.9.1956. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Nguồn: Talawas

NVGP * 2. NHÂN VĂN 3 * PHẦN 2

2. NHÂN VĂN 3 * PHẦN 2
Báo Nhân văn số 3 (phần thứ hai)

Hoàng Cầm
Đọc lại Vũ Như Tô, kịch của Nguyễn Huy Tưởng [1]

Là một người ham mê tìm đề tài trong lịch sử dân tộc viết thành kịch, tôi đã rất ham mê khi đọc lại vở kịch năm màn của Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng.

Tác giả đã dựng một nhân vật lịch sử Vũ Như Tô, một nghệ sĩ có tài, một nhà kiến trúc ôm hoài bão lớn là xây dựng một công trình nghệ thuật vĩ đại, tô điểm cho non sông. Hoài bão đó phù hợp với cuồng vọng của một tên bạo chúa – Lê Tương Dực - muốn có một toà lầu nguy nga để hưởng lạc thú. Nhưng tấn bi kịch đã xảy trong cái mâu thuẫn gay go giữa chế độ bạo ngược và tài năng nghệ sĩ. Lê Tương Dực thích có Cửu trùng đài, nhưng không tôn trọng, quí mến thiên tài. Hắn thích sống trong toà lầu nguy nga, nhưng lâu đài đó phải xây dựng bằng xương máu nhân dân đang oán ghét hắn, oán ghét chế độ thối nát của triều đại phong kiến đang đổ vỡ. Bản thân nhà nghệ sĩ Vũ Như Tô cũng gặp một mâu thuẫn, bi đát giữa trí sáng tạo rộng lớn với hoàn cảnh thực tế của nhân dân đói khổ lầm than mà nghệ sĩ vô cùng thương xót. Làm thế nào để đạt được nghệ thuật làm giàu cho kho tàng mỹ thuật của đất nước mà nhân dân lại không phải chịu sưu cao thuế nặng, tốn xương, tốn máu? Cái mâu thuẫn đó không thể giải quyết được. Bọn phong kiến đánh lẫn nhau, nhân dân nổi lên lật đổ bạo chúa. Kết quả: toà lầu không xây dựng được, nhà nghệ sĩ phải chết chém.

Nguyễn Huy Tưởng đã nêu bật được cái mâu thuẫn sâu sắc đó trong lịch sử. Hai nhân vật rất đẹp, rất tự hào, sống sôi nổi dưới ngòi bút của anh; Vũ Như Tô và Đan Thiềm, một cung phi đồng tình với nghệ sĩ.

Và tên bạo chúa Lê Tương Dực cũng hiện ra: cuồng bạo, bỉ ổi, tiêu biểu cho một triều đại phong kiến suy tàn và độc ác. Những rung cảm mãnh liệt của tác giả trước một nhân vật lớn, một nghệ sĩ của nhân dân, đã thổi một hơi rất mạnh khiến ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng trở nên sâu sắc. Qua 10 năm, từ khi vở kịch được in ra (1946-1956), tôi đọc lại và theo con mắt của một người đã từng sáng tác, đạo diễn và biểu diễn kịch lịch sử, tôi đã tưởng tượng ra những sân khấu rất tráng lệ, trong đó tấn thảm kịch Vũ Như Tô diễn ra, đau đớn nhưng mãnh liệt, những cảnh đó, với diễn viên chọn lọc và một nhà đạo diễn thông minh mà chúng ta không thiếu, nhất định sẽ nói được cái lớn lao của tâm hồn nghệ sĩ nhân dân: không khuất phục trước cường quyền, một lòng tin vững chắc vào nghệ thuật của mình làm khiếp đảm tên bạo chúa. Đồng thời, chúng ta sẽ thấy được cái mâu thuẫn ghê gớm giữa sức phát triển của nghệ thuật và chế độ không có tự do của bọn phong kiến. Cuối cùng trên sân khấu, tài năng của nhà nghệ sĩ Vũ Như Tô đã bị giẫm nát, đốt cháy, nhưng cũng lại do cái thông cảm lớn của Nguyễn Huy Tưởng, chúng ta thấy nghệ thuật của nhân dân có một ánh sáng lớn mãi muôn đời về sau, và tâm hồn nhà nghệ sĩ Vũ Như Tô đã như những tia hào quang rọi mãi từ thời Lê mạt đến chúng ta ngày nay.

Cuộc cách mạng vĩ đại của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, đã mở một chân trời rộng cho nghệ thuật. Văn nghệ sĩ nhất trí theo đường lối chính trị của Đảng, nhất trí với quyền lợi của nhân dân. Rồi đây trong cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, biết bao nghệ sĩ có tài sẽ càng ngày càng được khuyến khích, hun đúc tài năng, tạo nên những công trình nghệ thuật lớn cho nhân dân, muôn màu, muôn vẻ, làm thoả mãn đuợc cái khát vọng của bao nhiêu nghệ sĩ ngày xưa bị vùi dập bởi cường quyền, hôn quân, bạo chúa, thực dân, phát xít.

Kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng, tuy bố cục còn lỏng lẻo (ở màn 2, màn 3) và lời nói của nhân vật nhiều chỗ chưa gọn, về căn bản tác giả đã thành công. Màn 1, màn 4, màn 5 là những màn sôi nổi nhất phản ánh sâu sắc cái mâu thuẫn gay go, bi thảm mà chủ ý tác giả định phơi bầy.

Chúng tôi nghĩ rằng các đoàn văn công lớn, các đoàn kịch tư nhân và Ban Nghiên cứu Sân khấu của Bộ Văn hoá sẽ xét lại một số kịch bản đã bị bỏ quên, nhất là vở Vũ Như Tô, và mạnh bạo đưa lên sân khấu, qua tay những đạo diễn nhiều kinh nghiệm như Thế Lữ, Chu Ngọc, Phan Vũ, Hoàng Tích Linh v.v... Làm như thế, chúng ta sẽ thoát khỏi tình trạng “thiếu vở” hiện nay, và trong khi chờ đợi có những vở mới, khán giả cũng đỡ phải xem đi xem lại một vài vở kịch giả tạo, công thức, đã quá nhạt nhẽo trước cuộc đời.


*


Trần Phương
Coi trọng ý kiến và con người anh chị em biểu diễn nghệ thuật [2]

Cuối năm 1954, một số anh em trong Văn công Trung ương cộng tác sáng tác vở ca kịch Lửa rừng để góp phần xây dựng cho Đại hội Văn công Toàn quốc và cũng mang một mong ước góp thêm những viên gạch đầu tiên cho nền nhạc kịch mới của đất nước. Công trình viết vở và làm nhạc mất gần hai tháng trời (không kể thời gian đi nghiên cứu và sưu tầm tài liệu). Vở kịch được sơ bộ dựng lên sau một tháng trời luyện tập có sự tham gia ý kiến xây dựng của những người lãnh đạo ngành văn nghệ tức là Vụ Nghệ thuật bây giờ. Ai cũng mang một hy vọng vở ca kịch Lửa rừng sẽ mang một tiếng nói quan trọng cho Đại hội về vấn đề ca kịch mới. Lửa rừng dược đem diễn thử tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Thời gian trôi qua, Lửa rừng không đuợc tập và cũng không được biểu diễn nữa... Tôi có hỏi Lê Yên, người sáng tác phần âm nhạc của vở kịch, Lê Yên trả lời là cũng không nắm được vấn đề cụ thể. Thế là chúng tôi, những anh chị em diễn viên của vở kịch chỉ hiểu vẻn vẹn là cấp trên nhận dịnh sai cho nên không tập, cũng không biểu diễn nữa và tất cả diễn viên lúc đầu cũng chưa ai phân tích nổi cái sai của vở kịch.

Sau khi đi hỏi người này, người khác câu chuyện mới vỡ nhẽ ra là như thế này:

Hôm diễn ở Nhà hát Lớn chỉ vì một cái lắc đầu và một câu phê: “Tiểu tư sản!” của một đồng chí lãnh đạo cao cấp trong văn nghệ, ấy thế là các đồng chí lãnh đạo cấp dưới quyết định đóng cửa ca kịch Lửa rừng và cũng bất cần cả ý kiến của những con người đã đổ mồ hôi nước mắt, đã thao thức từ đêm này qua đêm khác cho vở kịch.

Tôi nghĩ đến những buổi học tập của diễn viên, lời nói của Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư còn như sang sảng bên tai: “... Người diễn viên, lao động sáng tạo nghệ thuật của mình, ý kiến người diễn viên góp phần vô cùng quan trọng cho sự thành công hay thất bại của vở kịch...” Tôi nghĩ đến lần đi xem biểu diễn những vở ca kịch lớn của nước bạn Trung Hoa, sau Bạch mao nữ và Lưu Hồ Lan rồi Tiếng hát trên đồng cỏ v.v...; những người diễn viên chúng tôi chua xót nhìn nhau nghĩ đến nền ca kịch mới của nước mình gần như chưa có gì, nghĩ đến trách nhiệm của mình, nghĩ đến cái lãnh đạo kém cỏi đã hạn chế sức sáng tạo trong đường lối trăm hoa đua nở của những con người sáng tác và biểu diễn ca kịch.

Ở đây tôi nói câu chuyện Lửa rừng làm một thí dụ trong nhiều sự việc ở những con người biểu diễn nghệ thuật trong các đoàn văn công để yêu cầu các đồng chí lãnh đạo đã nói thì phải làm, phải coi trọng, đề cao, lấy và phát triển ý kiến của những con người biểu diễn nghệ thuật. Một điệu múa, một bài hát, một vở kịch nên biểu diễn hay nên bỏ không phải ở một vài cá nhân lãnh đạo muốn hay không muốn mà phải do những người đã lao động vì nó nói tiếng nói trước nhất, đóng góp một phần quyết định quan trọng trong sự biểu diễn tác phẩm nghệ thuật.

Vấn đề thứ hai tôi muốn nói ở đây là những vấn đề trong đời sống sinh hoạt của người diễn viên. Tôi đã có dịp được gặp những anh chị em trong các đoàn nghệ thuật Liên Xô, Trung Hoa, cuộc sống thoải mái của họ gần như không phải bận bịu với những sinh hoạt hằng ngày. Họ không còn băn khoăn như những anh chị em diễn viên đội xiếc ở Vụ Nghệ thuật đã vào đội chín tháng trời, đã đi biểu diễn ở Hà Nội, Việt Bắc, khu Tả ngạn, Hữu ngạn (đồng bằng) mà vẫn chưa được tuyển dụng chính thức, vẫn còn phải mang theo một lo lắng: “Khi biểu diễn phải cẩn thận, ngã què chân mà lúc ấy không được tuyển dụng thì rồi sẽ làm gì?”

Trong chín tháng trời qua vẫn chưa đủ thời gian để nghiên cứu lý lịch hay sao mà vẫn để anh em canh cánh bên lòng một mỗi lo, ảnh hưởng tới việc biểu diễn như vậy. Nghệ thuật xiếc là một nghệ thuật vô cùng lao lực, rất dễ mang đến nguy hiểm cho người diễn viên, do vậy cần phải có chế độ bồi dưỡng và bảo hiểm tương đối thích đáng với lao động của họ. Đã sáu, bẩy tháng trời nghiên cứu mà đến nay vẫn chưa có thái độ dứt khoát, cũng vẫn một số sinh hoạt phí tạm tuyển trên dưới ba vạn đồng. Đó là một vấn đề rất thực tế, mang thêm một thắc mắc trong lòng anh em. Có phải là hoàn cảnh chúng ta hiện nay thiếu thốn quá đến mức như vậy không? Hay là sự chú ý của các đồng chí lãnh đạo còn chưa đoái hoài tới? Câu chuyện này không phải chỉ là diễn viên thắc mắc mà còn ở cả quần chúng nữa. Sau khi xem biểu diễn xiếc, thường có nhiều tiếng xì xào: “Trông diễn viên xiếc gầy quá, thương quá!” Thiếu tướng Chu Văn Tấn nói khi xem anh em biểu diễn: “Phải bồi dưỡng thêm cho sức khoẻ của anh chị em”.

Câu chuyện phải luôn luôn lo lắng về đời sống sinh hoạt rất phổ biến trong diễn viên. Sau một đem biểu diễn đã quá khuya, họ mệt mỏi nằm suy nghĩ lo lắng sáng mai không dậy được đúng còi, đúng kẻng. Người chuyên đánh đàn, lúc làm trực tinh cũng phải hô “nghiêm nghỉ” cho giống tác phong quân sự, người chuyên thổi kèn luôn luôn phải thắc mắc về cái chuồng lợn, chuồng gà cho đoàn. Những anh em khác bận rộn về chỗ ăn chỗ ngủ, cái bát, đôi đũa, cái bàn ngồi viết v.v... “trăm thứ bà dằn” đó đã làm bận bịu khá nhiều trong đời sống nghệ thuật của người biểu diễn.

Các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí chính trị viên chưa thiết thực làm nhiệm vụ giúp cho tinh thần của diễn viên được trau dồi. Chưa có người chuyên trách lo cho anh em những vấn đề sinh hoạt linh tinh để tâm hồn khỏi bận bịu, tập trung được nhiều trong việc sáng tạo làm cho nghệ thuật biểu diễn của chúng ta phát huy được hết khả năng.

Tôi mạnh dạn phát biểu một vài ý kiến của một người biểu diễn nghệ thuật, rất mong được sự góp ý thêm của các bạn diễn viên, để xây dựng một nề nếp công tác và sinh hoạt tốt cho diễn viên bấy lâu bị coi nhẹ và kìm hãm.


*


Thơ Mai-a-cốp-ski
Nói lớn [3]
Trần Dần dịch theo từ bản tiếng Pháp của Elsa Triolet. Chú thích của Elsa Triolet và Trần Dần

Bài này Mai-a đọc lần đầu tiên trong “Cuộc triển lãm 20 năm làm việc” của Mai-a, năm 1930 – T.D.


Các đồng chí cháu vẻ vang ơi!
Trong khi
moi đống đá thời kỳ này,
nghiên cứu cái ngày nay tăm tối
các cháu
có lẽ không hiểu rõ
ta là ai?
Các cháu
sẽ nghe thầy học giảng
đàn ong câu hỏi
thầy đem tri thức phủ lên đầy,
giảng rằng
Mai-a xưa
là nhà thơ ca ngợi nước đun sôi
đối nước lã, anh ta thù số một [4]
Ông thầy hỡi!
hãy hạ đôi mục kỉnh!
Mặc tôi,
câu chuyện thời đại
câu chuyện tôi,
tôi kể lấy
Tôi là người tẩy uế,
là người phu gánh nước,
Cách mạng hô hào
tổng động viên tôi
tôi ra trận,
rời xa nơi thâm nghiêm kín cổng cao tường
là nơi ăn chốn ở nàng thơ,
con người kỳ quặc
Nàng có một khu vườn xanh xẻo:
một con tim
tí nước chảy
chút khí trời
một cái giường êm.
“Em dạo vườn em,
em hái bông hồng, bông lựu”
Anh thứ nhất đem thơ tới tưới
ướt người em!
Anh thứ hai
lại rảy nước thơ em!
- hết Mi-tơ-ray-ka lấm la
lại Cu-dờ-ray-ka lấm lét – [5]
Quái quỉ chưa! Đố gỡ cho ra!
Chúng làm ta phát muộn phát sầu
đứng trên bao lơn,
chúng tình tang cây măng-đô-lin tang tính:
“thơ thơ, thiếc thiếc
iếc, ơ”...
Phúc phận mỏng,
tôi lìa xa hồng lựu ý,
nào pho tượng người tôi
xuất hiện
giữa công viên
đầy đờm mủ của người gái đĩ
người ho lao,
đứa vô lại,
kẻ tim la
Và tôi,
người tuyền truyền động viên
thực chán ngấy chưa nào
Tôi có thể
đẻ đái ra
những bản tình ca:
ăn tiền lắm!
thực là ăn khách lớn!
Nhưng mà không
tôi tự kìm hãm ghìm
tôi,
tôi dang chân
chẹn cổ họng tiếng tôi ca.
Các cháu ơi!
Hãy lắng nghe ta,
người tuyền truyền,
người thủ trưởng phóng thanh!
Tôi dập tắt
những dòng thơ man mác
bước chân qua
những trang sách trữ tình
tôi đến đây đúng như
người đang sống
nói cùng người đang sống.
Tôi đến nói với các con, các cháu
Trong đời cộng sản xa xăm
không phải đến
như loài Ét-xê-nhin hon hót. [6]
Thơ tôi đến
trên đầu muôn thể kỷ
vượt qua vai
các vị cầm quyền, và mọi nhà thơ
Thơ tôi đến
không như cái lưỡi
trò chơi tình ái, đàn cầm,
cũng không như một đồng tiền cũ
đến tay nhà bác cổ mân mê
Cũng không như
sao tắt lịm trời
Thơ tôi
xé toang
đống năm tháng chất chồng nhau
Thơ tôi đến
nặng nề
thô tục,
gào kêu,
cũng tựa hôm nay đến với ra
những cống nước cầu cừ
người nô lệ La Mã xưa xây dựng.
Trong đống sách
là nấm mồ thơ phú
sắt thơ tôi bỗng ló mình ra.
Các cháu ơi,
tôn kính ta,
thì cũng chỉ sờ mó sắt thơ ta
như võ khí
đã cổ xưa
mà còn lợi hại
Tôi thì cái kiểu
dùng lời thơ mà gãi
chẳng phải nghề của tôi,
vành tai cô gái đồng trinh
qua món tóc xoăn
không thẹn đỏ
vì bị sờ tục tĩu
Tôi triển khai
đội ngũ những trang thơ
tôi đi duyệt
những dòng thơ bày thế trận.
chuẩn bị xong rồi!
những câu thơ nặng tựa chì
sẵn sàng đi
tử chiến
vĩnh viễn quang vinh
Những bài thơ,
đại bác xếp bên nhau
đang nhằm bắn
những đầu đề khoát đạt.
Những lời châm biếm thông minh,
là võ khí sở trường riêng,
chúng đứng đây kia
chuẩn bị sẵn sàng
vó ngựa ghìm cương
ngọn thương tua tủa,
những vần thơ nhọn hoắt mũi lê,
chúng lao lên
hò hét xuất quân.
Và, tất cả những đoàn quân
trang bị kỹ càng này,
đoàn quân đã hai mươi năm
liệng mình trong chiến thắng, -
không tiếc một trang nào
tôi hiến cả cho anh
người vô sản địa cầu ta.
Mọi kẻ thù
giai cấp công nhân
đối với tôi, cũng là kẻ tử thù.
Những năm nhọc nhằn,
những ngày đói khổ
giục ta đi
theo cờ đỏ dẫn đường.
Ta mở
sách Mác
quyển này quyển nọ
như khi ta
mở toang cửa sổ nhà ta.
Nhưng dù không đọc sách
con người ta cũng biết
phải đứng bên nào
sống thác
đấu tranh.
Đối chúng ta
biện chứng
không do Hê-ghen đem tới.
Mà nó ở trong sấm bão đấu tranh.
Nó xô xát vần thơ,
trong khi đó
dưới đạn ta
bọn tư sản
quất ngựa chạy cuồng
cũng như ta
quất ngựa chạy
khi xưa.
Khi thiên tài chết,
cô Vinh Quang đưa đám
goá bụa tủi hờn, -
cũng có câu thơ tôi gục ngã
vô danh
như người lính của ta,
một chiến sĩ
đi tấn công
gục ngã.
Tôi thì tôi chẳng thiết
những đồng hun hàng tấn
tôi cóc cần
đá bục tượng thơm danh!
Chia nhau vinh dự làm gì?
ta cả mà thôi:
tất cả chúng ta
chỉ cần
một đài kỷ niệm chung
là Chủ nghĩa Xã hội.
chính tay ta dựng.
Các cháu ơi,
hãy xem lại những nút phao nổi trên tự điển
nước sông Mê [7]
trôi
nhiều xác chữ
tựa như những chữ
“làm đĩ”
“vây hãm”
“ho lao”.
Các cháu ạ,
vì muốn cho các cháu vạm vỡ, dẻo dai
ta,
thi sĩ,
ngày đêm ta quyét
những mủ đờm phổi khạc
bằng lưỡi tranh áp phích gạn lì
Những năm tháng nối đuôi tôi
làm tôi giống như một con sò kỳ quặc
đuôi dài.
Hỡi đồng chí cuộc đời,
hãy đi nước đại, nhanh lên!
Những ngày kế hoặch năm năm
Nhanh hơn nữa
tới ngày kết quả!
Thơ tôi
chẳng kiếm được xu nào dành dụm
Người làm đồ gỗ
chưa bao giờ
trang trí cửa nhà tôi.
Thực ra,
ngoài chiếc áo sơ mi tươi tắn,
tôi chẳng cần gì
Trước
bộ kiểm tra Trung ương Đảng
những năm trong sáng tương lai,
vượt trên
lũ nhà thơ
bạc lận cờ gian
tôi sẽ giơ cao
tờ chứng minh thư Đảng
là toàn tập thơ bôn-sê-vích tôi làm

(1930)


*



Chu Ngọc
Quần chúng đã chán ghét lối “chặn họng” ấy rồi [8]


Sau khi Nhân văn số 2 ra rồi, dư luận trong quần chúng cho rằng chúng tôi trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân dân như thế nào là ôn hoà, phải chăng và tình hình có thể dịu đi để tiến tới hiểu nhau hơn.

Bởi vậy chúng tôi đã gác lại những bài của anh em văn nghệ sĩ, trí thức và những ý kiến phát biểu của bạn đọc về sự chỉ trích của bạn Nguyễn Chương và báo Nhân dân. Nhưng báo số 3 đang in thì lại thấy bạn Nguyễn Chương lên tiếng trên báo Nhân dân một lần nữa, tiếp tục chụp mũ chúng tôi thế này thế khác. Do đó chúng tôi bất đắc dĩ phải trở lại vấn đề.

Bài này của anh Chu Ngọc cũng như ý kiến của các bạn Trần Bái và Phùng Bảo Kim đều mới trả lời vào bài cũ của bạn Nguyễn Chương. Đối với bài mới của bạn Nguyễn Chương, nếu cần, chúng tôi sẽ trả lời trong số báo sau.

Nhân văn



Tôi không đi vào phân tích toàn bộ bài phê bình báo Nhân văn của ông Nguyễn Chương trên báo Nhân dân.

Tôi chỉ nói đến lối phê bình “chặn họng”, phá đoàn kết vì tính chất mệnh lệnh, uy hiếp tinh thần và khinh miệt quần chúng của nó.

Ông Nguyễn Chương kết luận phần nhận định báo Nhân văn rằng: “Bọn Mỹ, Diệm hiện đương ra sức vu cáo chế độ miền Bắc là không có tự do, dân chủ cho nên chưa thể tổng tuyển cử để thực hiện thống nhất nhà nước được.

Chúng ta không nên mắc vào âm mưu của chúng.”

Phải xem lại toàn bộ báo Nhân văn số 1 xem có bài nào, điểm nào chúng tôi “vu cáo” để “mắc vào âm mưu của địch”?

Phương pháp phê bình theo chủ nghĩa nghĩa Mác-Lênin là thực sự cầu thị. Phê phán phải dựa trên cơ sở thực tế, nghĩa là phải dẫn chứng. Nếu không chỉ chung chung, suy diễn. Và khi đã suy diễn tất nhiên phải tiến tới một quy kết hồ đồ.

Bài phê bình của ông Nguyễn Chương đã mắc vào sai lầm ấy.

Vì rằng Đảng và Chính phủ đương phát động rộng rãi phong trào phê bình trong nhân dân quần chúng để củng cố lại đường lối, chính sách cho phù hợp với nguyện vọng nhân dân. Công tác đó đã tiến hành ở các cơ quan, đoàn thể và các khu phố ở thủ đô cũng như nơi khác. Về ngành văn nghệ, báo Nhân văn có nêu lên một số hiện tượng sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Chứng người, chứng việc hiện còn đương sống với chúng ta.

Chúng tôi chỉ muốn thực hiện đúng phương châm trong việc phê bình của chúng ta là: Nói thẳng, nói thật, nói hết.

Báo Nhân dân là cơ quan của Đảng, ông Nguyễn Chương là một đảng viên, tất nhiên không lạ gì phương châm ấy.

Vậy khi nhân dân phát hiện một vấn đề nào, chúng tôi nghĩ cơ quan của Đảng cũng như các đồng chí đảng viên nên vui vẻ tiếp thu để nghiên cứu, sửa chữa. Sửa chữa để củng cố chế độ của chúng ta cho mỗi ngày một thêm tươi sáng.

Mà xây dựng chế độ, chúng tôi thiết nghĩ, chủ yếu là để cho nhân dân chúng ta sống một cuộc đời no, ấm về thể xác và cởi mở về tinh thần.

Vậy khi thấy một trở lực nào ngăn cản nguyện vọng ấy thì nhân dân đề đạt lên trên để yêu cầu sửa chữa, như thế có hại gì đến việc tiến hành củng cố miền Bắc, chiếu cố miền Nam?

Nguyện vọng của chúng tôi là thế chứ chúng tôi không bao giờ có ý “muốn làm cho người ta hiểu lầm rằng toàn bộ sự lãnh đạo của Đảng và toàn bộ chính trị miền Bắc là độc đoán, độc tài, chà đạp văn nghệ sĩ, chà đạp con người, không có ‘nhân văn’”.

Sao chúng tôi lại bị vu như thế với cái kết luận “chúng ta không nên mắc vào âm mưu của địch”?

Với luận điệu chụp mũ này người ta có thể hiểu rằng, theo báo Nhân dân và ông Nguyễn Chương thì không nên phát hiện gì cả. Chỉ nên phổ biến rộng rãi cái tác phong tiêu cực này ở các khu phố: “thứ nhất ngồi lỳ, thứ nhì đồng ý”.

Nếu không, cứ nói thật lên thì lại “mắc vào âm mưu địch”.

Tuy vậy ông Nguyễn Chương cũng nên thông cảm cho quần chúng là quần chúng không đến nỗi lạc hậu, hèn kém tới mức ấy đâu.

Người nào cũng có tai, có mắt, có bộ óc, có trái tim, đi theo cách mạng, phục vụ cách mạng không kỳ gian khổ, nhưng cũng không để ai có quyền khinh miệt quần chúng.

Tinh thần cách mạng chân chính chống lại bất cứ cá nhân, hay bè phái nào hạn chế tự do tư tưởng của quần chúng.

Cho nên khi thấy một mặt Đảng kêu gọi “nói thẳng, nói thật, nói hết” mà mặt khác những đảng viên như ông Nguyễn Chương và báo Nhân dân lại đe doạ: Công khai đấu tranh chống những sai lầm khuyết điểm của ta là chống chế độ, chống Đảng, là mắc mưu địch v.v... thì còn ai hiểu được! Cái lối khoá miệng quần chúng ấy đã khá phổ biến. Và đã bị và đương bị phản đối.

Quần chúng của Đảng, nhân dân của chính thể này đã chịu sự giáo dục của Đảng, của chủ nghĩa Mác Lê-nin, phân biệt được thể nào là ta, thế nào là địch.

Suy diễn, nghi ngờ, gán ghép, khinh miệt quần chúng, đánh giá địch quá cao đã có nhiều hậu quả chua xót rồi. Quần chúng đã chán ghét đến cực độ luận điệu “chặn họng” cũ rích ấy rồi.

Báo Nhân văn không hề có tư tưởng bôi xấu chế độ. Vì một lẽ rất giản dị, là những người làm báo Nhân văn đều là con đẻ của chế độ xã hội miền Bắc. Họ với chế độ như thịt với da. Đời và tâm hồn họ gắn liền với sự sống còn của chế độ.

Nhờ được ánh sáng của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô đã thấm vào người họ, họ lớn lên, mắt họ sáng ra, máu họ tươi thêm, mặt họ ngẩng lên, họ nhìn thấy trách nhiệm, thực sự thấy mình là chủ nhân của cuộc đời, họ thấy mình không phải là con rối.

Họ phải làm việc.

Và việc đầu tiên của họ là muốn đánh bật tận gốc những tàn tích phong kiến và thực dân trong hàng ngũ lãnh đạo văn nghệ nói riêng và hàng ngũ cách mạng nói chung.

Chúng tôi cố gắng đấu tranh trong tổ chức, song liên tục chúng tôi bị chế ngự, nguyện vọng của chúng tôi lên tới Trung ương Đảng đã bị thay thế bằng nguyện vọng của bè phái họ.

Chúng tôi nói lên sự thực, mục đích đề Trung ương Đảng nhận định lại vấn đề lãnh đạo văn nghệ.

Đó có phải là một hành động tội lỗi không?

Giải quyết được tình trạng bè phái lãnh đạo văn nghệ là góp được một phần khá lớn vào sự nghiệp củng cố miền Bắc, thống nhất nước nhà.

Chúng tôi đặt vấn đề như thế.

Đó là nguyện vọng của chúng tôi. Do những tấm lòng tha thiết ấy, chúng tôi nêu lên: “Báo Nhân văn đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác Lê-nin” là chúng tôi đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng, trong lúc đấu tranh nội bộ gay gắt này.

Ông Nguyễn Chương cho đó là chúng tôi “nêu lên như một cái chiêu bài”.

Với thái độ này, tôi thấy như ông Nguyễn Chương gạt quần chúng ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng trong khi quần chúng thiết tha lăn vào.

Thử xét lại xem qua thái độ đã toát ra từ bài phê bình, qua những nhận định và sự phê phán báo Nhân văn, ông Nguyễn Chương và báo Nhân dân đã giúp đỡ chúng tôi những gì để chúng tôi đấu tranh? Hay chỉ toàn thấy những giọng trịch thượng, hống hánh, chia rẽ, gây cho chúng tôi những cảm tưởng không tốt về một cán bộ tuyên huấn cao cấp và về vai trò của cơ quan ngôn luận Trung ương Đảng?


*


Nhân văn
Mấy lời chân tình gửi bạn đọc: Về dư luận xung quanh Nhân văn [9]

Báo Nhân văn ra đời, được các bạn khuyến khích, phê bình rất sôi nổi. Từ số 1 (ấn hành 2000 tờ) đến số 2 (ấn hành 6000 tờ), lần nào cũng chỉ trong một ngày là hết báo, điều đó chứng tỏ bạn đọc rất tha thiết đến việc mở rộng tự do dân chủ của chế độ và việc vận động đổi mới công tác văn nghệ, công tác trí thức.

Tuy nhiên, trong công việc xuất bản tờ báo này, chúng tôi còn mắc nhiều khuyết điểm mà hôm nay chúng tôi cần phải trình bày với các bạn và mong các bạn lượng thứ cho.

- Báo ra không đúng kỳ, không báo rõ ngày, khiến các bạn phải chờ đợi thắc mắc.

- Tổ chức trị sự (phát hành, thu tiền) rất luộm thuộm. Có nhiều bạn mua báo dài hạn đã không nhận được báo, hoặc nhận được chậm. Có nhiều bạn muốn mua báo dài hạn mà không biết gặp ai để ghi tên. Địa điểm bố trí báo chưa đều, nên có khu vực tập trung nhiều quá, có khu vực lại không có chỗ bán, khiến nhiều bạn tìm mua rất khó nhọc.

- Nội dung tờ báo, ngoài cuộc đấu tranh về văn nghệ, chưa đề cập đến nhiều vấn đề văn hoá, xã hội cụ thể đang nóng hổi trong tim, óc quần chúng như giáo dục, y tế, sinh hoạt nhân dân v.v...

Những thiếu sót đó là do chúng tôi vừa ít tiền vừa thiếu kinh nghiệm và trong khi gặp khó khăn về ấn loát, về mua giấy, về trụ sở, chúng tôi đã lúng túng trong phần trị sự cũng như phần biên tập; phần đông anh em lại ở trong biên chế chính quyền hay đoàn thể, làm báo Nhân văn có một tay trái.

Chúng tôi đang cố gắng sửa chữa những khuyết điểm, nhược điểm đó.

Tiện đây, chúng tôi đề nghị các bạn chú ý hai điều rất quan trọng chung quanh việc báo Nhân văn ra đời:

1. Ngay từ số 1, dư luận nhân dân, cán bộ và các báo rất sôi nổi về Nhân văn. Có nhiều người tán thành, nhiều người phản đối, thậm chí đi đến chỗ mạt sát khiêu khích báo Nhân văn và một số anh em cộng tác với tờ báo. Chúng tôi để ngoài tai những lời mạt sát, phỉ báng đó, kiên nhẫn tiếp tục nhiệm vụ và vẫn coi thái độ đối lập kia chỉ là thái độ hấp tấp, sai lầm của bạn với bạn mà thôi. Do quan niệm khác nhau về tự do dân chủ nên sinh ra mâu thuẫn; nhưng, tựu chung vẫn là người một nhà nên trước sau rồi cũng thống nhất. Mong bạn đọc sẽ đồng tình với chúng tôi và tránh mọi thái độ không lợi cho đoàn kết.

2. Nhưng bên cạnh ta, vẫn còn lẩn quất những tay sai của đế quốc Mỹ và bè lũ Ngô Đình Diệm muốn nhân lúc này, thò bàn tay bẩn thỉu vào chia rẽ hàng ngũ cách mạng. Chúng nhầm to. Báo Nhân văn cũng như các bạn, không mắc lừa chúng. Mọi âm mưu chia rẽ, phá hoại của chúng sẽ thất bại. Mong độc giả sẽ cùng với chúng tôi đề cao cảnh giác, chống mọi âm mưu xuyên tạc, ly gián của địch.

Ngoài ra cũng còn một số người lạc hậu mang nặng tàn tích đế quốc và phong kiến, tuy đứng trong hàng ngũ cách mạng, nhưng vì quyền lợi, địa vị cá nhân, nên có hành động hoặc lời nói vu cáo, đe doạ định bóp nghẹt dân chủ bằng những phương pháp khi lén lút, khi trắng trợn. Chúng tôi mong bạn đọc sẽ cùng với chúng tôi đấu tranh thẳng thắn với những phần tử xấu đó, để bảo vệ tư do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu và sáng tác, làm cho chế độ ta thêm tốt đẹp.

Nói tóm lại, báo Nhân văn bao giờ cũng đứng dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kiên quyết đấu tranh cho thống nhất đất nước và dân chủ thực sự - một cuộc đấu tranh lâu dài gian khổ - và kiên quyết đánh tan mọi âm mưu phá hoại của bọn tay sai Mỹ, Diệm, và cả của những phần tử xấu trong hàng ngũ ta.

Tờ báo này là của các bạn. Các bạn hãy tích cực ủng hộ cho nó sống mãi và càng ngày càng phát triển.

Nhân văn



*


Quảng cáo cho dầu cốt thần, dầu cù là, khuynh diệp hiệu Con Voi, 53 Hàng Gà, Hà NộI


*



Hà Bá
Chưa đẹp mắt [10] - Trang trí và Trật tự

Ấy là câu chuyện nghệ thuật và xử thế.

Hôm nọ có kỷ niệm nhà đại thi hào Nguyễn Du của dân tộc. Ý nghĩa của buổi lễ thực là cao đẹp và chứng tỏ chế độ ta quí trọng những thiên tài đã cống hiến tinh hoa cho nền văn hoá của dân tộc. Nhưng buổi lễ có hai điểm đáng trách.

Bài trí ở trên sân khấu, nhiều chậu cây đuợc đem lên và có nhiều hoa. Ý chừng là nghĩa trăm hoa đua nở chăng? Nhưng ai lại đi cài hoa giả! Một thứ hoa giấy nửa giống hoa hồng nửa như hoa thược dược được cài vào. Đinh lăng mà cũng có hoa! Cây ngâu, các thứ cây, cây nào cũng trổ hoa giả, giả một cách lộ liễu, trắng trợn. Bày la liệt ở sân khấu. Giữa là một cái đỉnh đồng to tròn, trên là mấy chữ cắt dán lùng bùng và ọp ẹp. Thiết nghĩ Bộ Văn hoá và Hội Văn nghệ thiếu gì các nhà trang trí lại đi tô điểm như thế! Bàn diễn giả có một lọ hoa “lay ơn” còn ngậm nụ, to quá, lấp cả ông diễn giả Trương Tửu làm cho công chúng mỏi cổ để nhìn ông mà chỉ thấy đôi kính lấp loáng. Chưa hết. Một số khán giả ngồi xem thiếu lịch sự. “Tác phong dân chủ” đưa chân và giầy dép lên ghế trước, thúc vào lưng người ngồi đằng trước, hãy còn nhiều. Hàng chục bà con lại ngồi ngả người ra như lúc mỏi mệt nhất ở nhà mình. Chắc họ nghĩ: cụ Nguyễn Du không có mặt ở đây nên chả cần. Đứng lên ngồi xuống tự nhiên như ở quán giải khát. Xình! Xình! Những tiếng động ngang bướng như lên giọng bất chấp: diễn giả nói thì kệ diễn giả! Thì ra bà con tự cho mình hoàn toàn tự do trong ngôn ngữ và cử chỉ mà không chú ý đến sự nghiêm chỉnh rất văn minh của những đồng chí nước bạn đến dự buổi lễ.


*


Y Du
Địa ngục miền Nam [11]

Quốc hồn quốc tuý

Ngày 26 tháng 10, Diệm sẽ tổ chức ở miền Nam lễ kỷ niệm tết Cộng hoà có ăn chơi, có đại biểu các nước, có duyệt binh đủ cả hải, lục, không quân. Nhưng ăn chơi thì ăn chơi lối Mỹ. Đại biểu thì đại biểu Mỹ, duyệt binh thì binh lối Mỹ... và hải, lục, không quân thì cũng của Mỹ nốt.

Như thế e rằng là không có tính chất dân tộc độc lập chăng? Vắt óc ra, Diệm chợt nhớ đến cái áo dài đen. Nó là “nghi thức cổ truyền thích hợp để tỏ lòng ngưỡng mộ và suy tôn các anh hùng cứu quốc!!!”

Các vị anh hùng cứu quốc nằm trong các lăng tẩm đền điện chỉ vào Diệm đồng thanh quát lớn:

"Thằng phản quốc đừng bán đứng tên tao!"

"... Mặc bộ quốc phục uy nghi người dân sẽ có dịp nhớ lại nguồn gốc của mình, tưởng niệm đến ông cha, nhớ ơn các vị anh hùng liệt sĩ, đã gây dựng nên giang sơn tươi đẹp ngày nay!!!"

Phạm Quỳnh nghe thấy hiện về bảo Ngô Đình Diệm:

"Ngài ăn nói quả có khéo hơn tôi thật!"

Đài Sài Gòn của Diệm còn triết lý:

“Âu phục tuy có gọn ghẽ, thuận tiện, nhưng chưa thể đánh đổ được bộ quần áo dài của ta... Vì với tinh thần yêu nước tha thiết, người Việt Nam lúc nào cũng tôn trọng những cái gì là Quốc hồn quốc tuý của mình, kể cả đồ trang phục. Tuy nó là hình thức bề ngoài nhưng rất quan hệ và ảnh hưởng đến việc duy trì nền văn minh dân tộc!!!”

Phường giá áo túi cơm bàn chuyện văn hoá dân tộc trên cái áo!

Áo dài nên màu gì?

“Màu lam tượng trưng sự vui mừng chế độ cộng hoà và hoan hô biện pháp”.

Cái màu lam bị buộc tội đồng loã với Diệm một cách oan uổng!

“Nhưng nếu không tiền may áo lam thì mặc áo dài đen cũng được.”

Đài Sài Gòn không phân tích về màu đen! Chính vì màu đen thường là mầu tượng trưng cho tang tóc, đen tối và buồn thảm...


*


Sĩ Ngọc
Bất mãn? [12]

Hiện nay đang có một dư luận không đúng về phong trào phê bình của báo Nhân văn cho rằng những người viết báo ấy là một nhóm bất mãn.

Nói chung một số người có thẩm quyền trong giới lãnh đạo đang cần tung ta một nhận định nhằm cô lập báo Nhân văn và những người cộng tác của báo ấy. Thậm chí cho phong trào phê bình của những người viết ở Nhân văn là phản ứng giai cấp (không nói rõ là giai cấp nào?).

Tôi là một người có cộng tác với Nhân văn vì cho là báo này trong một phạm vi rộng rãi, đã đề cập tới những vấn đề nóng hổi của xã hội, của văn nghệ, nhất là vấn đề phê bình lãnh đạo văn nghệ đã mở đầu sôi nổi. Phê bình để tiến tới xây dựng một chính sách đúng, đẩy mạnh phong trào văn nghệ như ý muốn chung của quần chúng và của Đảng.

Trong phong trào phê bình ấy tất nhiên không tránh được một vài lệch lạc do phẫn uất tích luỹ lâu ngày nổ bùng ra, nhưng theo tôi nếu không phê bình mạnh thì không thể làm cho lãnh đạo thấy vấn đề cho đúng tầm quan trọng của nó. Nếu phủ nhận sự cần thiết đó thì không thể hiểu tại sao chỉ sau khi có những bài phê bình ấy ông Hoài Thanh, ông Nguyễn Tuân, ông Nguyễn Đình Thi mới viết tự phê bình (tuy chưa đúng mức) đăng trên báo Văn nghệ? Đáng tiếc là một số người đang lầm lẫn việc bảo vệ uy tín của lãnh đạo với việc giữ thể diện cho một số cá nhân lãnh đạo.

Theo tôi nghĩ, trong tình hình hiện tại, muốn cho uy tín của lãnh đạo giữ được và tăng thêm thì lại càng phải tự phê bình thành khẩn. Không nên sợ mất sĩ diện khi cái sĩ diện ấy có hại cho Đảng, đi ngược lại với quyền lợi của quần chúng. Không nên (dù hữu ý hay vô tình cũng không nên) lẫn lộn uy tín của cá nhân lãnh đạo với uy tín của Đảng. Nếu uy tín chỉ xây dựng trên sự “không dám nghe” của mình và “không dám nói” của người khác thì cái uy tín cũng nên vứt bỏ đi.

Uy tín của Đảng, của người cách mạng là ở chỗ biết nghe và biết sửa.

Một số người không hiểu như thế nên cứ tìm cách lẩn trốn sự thực, sợ những lời phê bình mạnh, họ tìm cách bịt miệng một số người để cho những người này lại bịt miệng một số người khác nữa... Thực mà nói, nếu những người ở Nhân văn sai, tôi chắc quần chúng bao giờ cũng có đủ sáng suốt nhận định. Họ không dễ bị lừa đâu. Ai dối họ, ai đi ngược lại với quyền lợi của họ, họ đều biết cả!

Làm như thế một là khinh quần chúng không biết gì hoặc là sợ quần chúng sáng suốt nghe những lời nói đúng sự thật. Làm như thế là không tốt.

Nhưng nếu các bạn cứ thấy chúng tôi không bằng lòng cái này cái khác của thời đại mà muốn tìm một danh từ nào đề chỉ hiện tượng đó thì chúng tôi không e ngại tiếng “bất mãn” đến như nhiều người tưởng.

Bất mãn! Tại sao không bất mãn?

Ai thoả mãn trước những sai lầm trong Cải cách Ruộng đất hiện nay? Ai thoả mãn với những sai lầm khác như những sai lầm trong chính sách văn nghệ và trí thức chẳng hạn?

Tôi chắc chắn rằng không phải chúng ta, những người đã tham gia cách mạng, sống chết với cách mạng, những con người của cách mạng. Chúng ta, những con người có nhiệt tâm với nhân dân với xã hội, những con người biết đau xót về những sai lầm tồn tại làm tổn hại đến việc xây dựng miền Bắc, đến công cuộc cách mạng, chúng ta không thể không bất mãn với những sai lầm ấy, với những con người làm ra những sai lầm ấy.

Chúng ta, những người làm văn nghệ phục vụ cho cách mạng, luôn luôn đòi hỏi sự tiến tới không ngừng của xã hội, chúng ta tất nhiên phải bất mãn với những lực lượng phản tiến bộ cản trở bước tiến của xã hội. Chúng ta, những người làm văn nghệ và văn hoá muốn cho chuyên môn của ngành mình phát triển để phục vụ cách mạng cho tốt, tất nhiên phải bất mãn với những cái sai lầm làm cho văn hoá văn nghệ đáng lẽ phải phát triển hơn nữa, thì bị kìm hãm. Bất mãn với những cái sai lầm là chính đáng. Chỉ có kẻ nào thoả mãn với cái sai kẻ ấy mới là kẻ có tội.

Nếu ai nói những người bất mãn ấy là phản ứng giai cấp thì hỏi giai cấp nào phản ứng trước những cái sai lầm có hại cho cách mạng? Thiệt thòi đến nông dân, đến công nhân, đến trí thức, đến cách mạng, ai thoả mãn?

Ai không phản ứng trước những sai lầm ảnh hưởng tai hại đến Cải cách Ruộng đất? Ai không phản ứng trước những sai lầm nghiêm trọng làm tổn thương cho miền Bắc chúng ta trong khi đang cần củng cố và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để mau tiến tới xã hội chủ nghĩa?

Nếu ai khuyên: Này thôi đừng nói nữa bọn Mỹ Diệm nó lợi dụng”. Tôi trả lời: Thằng Diệm nó vẫn chỉ có một luận điệu nói rằng ở miền Bắc không có tự do nên nó không hiệp thương. Thì những cái phê nình công khai trong nội bộ miền Bắc chỉ càng chứng tỏ rằng chúng ta đang thực hiện một cách đầy đủ quyền dân chủ của chúng ta. Ở miền Nam, bọn Mỹ, Diệm có dám cho nhân dân phê bình chính quyền của chúng không? Ở miền Nam, bọn Mỹ, Diệm có dám bảo đảm đầy đủ tự do dân chủ cho văn nghệ sĩ không?

Tại sao lại sợ thằng Diệm nó biết mình dân chủ? Có là ngây thơ mới nghe lời nói vô lý ấy.

Chỉ có chính quyền dân chủ nhân dân do dân làm chủ có Đảng lãnh đạo mới có những cuộc phê bình mà phong kiến, đế quốc, phát xít, đều sợ, đều cấm, đều đàn áp. Chỉ có những chính đảng thực sự làm cách mạng, mưu cầu lợi ích cho dân tộc, cho nhân dân, được quần chúng ủng hộ như Đảng Lao động Việt Nam mới dám tiến hành sự thực hiện quyền tự do dân chủ thực sự cho toàn thể chúng ta.

Ai sợ phê bình? Tôi xin nói thẳng là những ông Quan liêu, ông Địa vị, ông Sĩ diện. Đó là những đứa con của phong kiến, đế quốc. Cho nên chúng vẫn cứ dùng cái luận điệu đã kinh nghiệm từ thời thiếu dân chủ mà bảo là bất mãn, phản ứng giai cấp v.v... cho những ai dám phê bình chúng. Đảng và Chính phủ đang tiến hành những biện pháp để sửa chữa những sai lầm trong đó có biện pháp sửa chữa tác phong quan liêu, độc đoán, thiếu dân chủ để cho xã hội chúng ta thực sự là cách mạng.

Bất mãn là chưa thoả mãn với thực tế, tất nhiên không phải là muốn quyền lợi cá nhân chúng ta đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân. Chúng ta bất mãn với những cái sai lầm, người sai lầm đã làm thiệt hại cho lợi ích của cách mạng.

Còn đối với một số người cho chúng tôi là bất mãn vì địa vị hay vì quyền lợi vật chất thì chúng tôi thấy không cần trả lời những con người thấp hèn ấy.


*


Hàn Phi Tử
Ngọc bích họ Hoà [13]

Nước Sở có người họ Hoà, được một hòn ngọc ở trong núi đem dâng Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói “Đá, không phải ngọc”. Vua cho người họ Hoà là nói dối, sai chặt chân trái.

Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hoà lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem, thợ ngọc nói: “Đá, không phải ngọc”. Vua lại sai cho họ Hoà là nói dối sai chặt nốt chân phải.

Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hoà ôm hòn ngọc khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đem, chảy máu mắt ra. Vua thấy thế, sai người đến hỏi. Người họ Hoà thưa: “Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho tôi là nói dối!”. Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên là “Ngọc bích họ Hoà”.

(Cổ học tinh hoa)


*

Thông báo của Phan Khôi [14]

Tôi đi công tác Trung Quốc một thời gian chưa biết bao lâu. Về tờ báo Nhân văn tôi uỷ quyền chủ nhiệm cho ông Trần Duy, thư ký toà soạn, ông Trần Duy sẽ chịu trách nhiệm trong những ngày tôi đi vắng. Tuy vậy, tôi cũng vẫn liên đới chịu trách nhiệm.
Phan Khôi


*


Đính chính [15]

1. Trong bài thơ “Nói lớn”, trang 4, cuối cột 1:

Thơ tôi đến
trên đầu muôn thế kỷ
Vượt qua vai
các vị cầm quyền

Xin đọc là:

Thơ tôi đến
trên đỉnh muôn thế kỷ
Vượt qua đầu
các vị cầm quyền.

2. Trong bài "Mấy lời chân tình gửi bạn đọc" trang 5, đầu cột 2:

Chúng tôi để ngoài tai...

Xin đọc là: Chúng tôi không tán thành…


*


Tranh châm biếm của Y Du [16] vẽ Phạm Quỳnh (1937, bên trái) dẫn đầu một đoàn khăn đóng áo dài, khom lưng trước một quan Tây và Ngô Đình Diệm (1956, bên phải), dẫn đầu một đoàn khăn đóng áo dài, khom lưng trước một quan Mỹ, với dòng chú thích:

“Quốc hồn quốc tuý” của Ngô Đình Diệm hay là câu chuyện chiếc áo dài trên trường chính trị


*


Danh sách những người góp tiền ra báo [17]

Chu Ngọc (Ban sân khấu) 20.000 đ. Trần Quế (Bộ đội giải ngũ) 300.000 đ. Phan Vũ (Ban Sân khấu) 10.000 đ. Nguyễn Sáng (Xưởng hoạ) 50.000 đ. Dương Bích Liên (Xưởng hoạ) 10.000 đ. Lê Anh Tâm (Xưởng phim) 10.000 đ


*


Thông báo: Tại sao Nhân văn bán 300 đ? [18]

Sở dĩ báo Nhân văn bán cao hơn các báo khác là vì chúng tôi chỉ được CƠ QUAN MẬU DỊCH TRUNG ƯƠNG cung cấp giấy cho đủ để in 2000 số, trong khi chúng tôi in tới 6000 số 2 và 7000 số 3. Chúng tôi đã phải mua thêm giấy ngoài thị trường với giá đắt gấp đôi giá mậu dịch. Do đó giá báo lên cao.

Nếu rồi đây chúng tôi cũng được cung cấp giấy rẻ đầy đủ như các bạn đồng nghiệp thì giá báo sẽ hạ xuống.

N. V.


[1]Trang 3
[2]Trang 3
[3]Bài chiếm toàn bộ trang 4, kèm ký hoạ chân dung Maia, tác giả ký tắt không rõ tên
[4]Trong cuộc chiến đấu chống dịch hạch, phải hô hào nhân dân không uống nước lã. Mai-a vốn đã là người rất vệ sinh, càng ưa thích công việc ấy. Như trong vở Con rệp viết năm 1919, Mai-a mường tượng xã hội Xô-viết tương lai hệt như một buồng mổ, anh tiểu tư sản bị ướp trong một cái lồng kính của phòng thí nghiệm, coi như là một di vật kỷ niệm bệnh thổ tả (E.T.). (Các chú thích trong bản dịch này đều của nguyên bản trên báo Nhân văn.)
[5]Mitreika và Koudreika là hai thi sĩ tầm thường đương thời, tác giả viết vào đây, chỉ cốt là chơi chữ (E.T.)
[6]Essénine: nhà thơ tâm tình yếu đuối (T.D.)
[7]Nguyên văn là Léthé: bến lú, sông mê ở âm phủ (T.D.)
[8]Trang 5
[9]Trang 5
[10]Trang 5, dưới cùng, bên phải
[11]Trang 6, góc châm biếm, trên cùng, bên trái, kèm hai tranh minh hoạ
[12]Trang 6
[13]Mục "Ôn cũ biết mới", trong khung, trang 6, in chen vào giữa bài "Bất mãn" của Sỹ Ngọc.
[14]Trang 6, thông báo nhỏ, đóng khung, ở gần cuối trang
[15]Trang 6, gần cuối trang
[16]Trang 6, cuối trang
[17]Trang 6, góc gần cuối trang, bên phải
[18]Trang 6, góc cuối trang, bên phải


Nguồn: Nhân văn số 3, ngày 15.10.1956. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Nguồn: Talawas





NVGP * 3. GIAI PHẨM MÙA THU 1956 * TẬP I


  3. GIAI PHẨM MÙA THU 1956 * TẬP I




Giai phẩm mùa Thu 1956



Tập II



ab





Trương Tửu


Xã luận


Bệnh sùng bái cá nhân trong giới l.đạo văn nghệ

Hoàng Cầm


Thơ


Em bé lên sáu tuổi

Trần Lê Văn


Xã luận


Một đêm không ngủ

Quang Dũng


Thơ


Những cô hàng xén

Phan Khôi


Xã luận


Ông bình vôi

Trần Duy


Xã luận


Những người khổng lồ

Phùng Quán


Thơ


Thơ cái chổi - Chống tham ô lãng phí

Trần Công


Thơ


Một vài ý nghĩ

Lê Đại Thanh


Xã luận


Cuốn sổ tay

K.


Xã luận


Ngụ ngôn: Tìm ưu điểm

Hồng Lực


Thơ


Tiếng nói của tình yêu

Hữu Loan


Thơ


Cũng những thằng nịnh hót

Hoàng Huế


Xã luận


Một bản đề án về Đại hội Văn nghệ lần thứ hai





ab









Trương Tửu





Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ





“Phê bình và tự phê bình đúng nguyên tắc và công khai là con đường đúng nhất để củng cố Đảng hơn nữa, để nhanh chóng khắc phục khuyết điểm…



… Quần chúng càng tham gia đông đảo vào cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm thì khuyết điểm lại càng bớt đi.



… Mở rộng hơn nữa phê bình và tự phê bình, dũng cảm phát hiệt khuyết điểm trong tất cả các lĩnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”.



(Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Cộng sản Liên Xô tại Đại hội Đảng lần thứ XX, Khơ-rút-sốp trình bày)





Hiện giờ, chính phủ và Đảng lãnh đạo đang phát động và tổ chức một phong trào quần chúng rộng rãi phê bình xây dựng chính sách và cán bộ ở mọi địa hạt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá v.v… Các đại hội đại biểu nhân dân ở các khu phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá; hội nghị tổng kết đợt 5 cải cách ruộng đất, hội nghị mở rộng của Mặt trận Tổ quốc ở các tỉnh; hội nghị học tập văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX ở các cấp bộ Đảng; những cuộc kiểm điểm công tác ở các cơ quan nhà nước, phong trào học tập như Hồ Chủ tịch gửi nông dân ở các thôn xã; các buổi họp phê bình ban lãnh đạo ở các nhà máy và công trường; các buổi chuẩn bị đại hội văn nghệ toàn quốc; các cuộc thảo luận chính trị ở nhiều trại hè giáo viên v.v… đã cổ võ và phát huy đến cao độ tự do dân chủ, tự do tư tưởng, trong nhân dân cũng như trong hàng ngũ cán bộ.



Phong trào phê bình và tự phê bình có tính cách quần chúng ấy chứng tỏ rằng: Chính phủ ta thực sự là của nhân dân, Đảng Lao động thực sự là một đảng cách mạng chân chính, nhân dân dưới chế độ dân chủ cộng hoà thực sự là chủ nhân ông đất nước. Chính phủ và Đảng không sợ sự thực, muốn biết sự thực, cần nắm vững sự thực, yêu cầu nhân dân nói thực. Và nhân dân đã nói thực.



Sự thực ấy là gì?



Sự thực là: chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta, trên đường phát triển, hiện đang vướng phải những mâu thuẫn khá gay go đòi hỏi một giải quyết hợp lý và cấp bách. Những lực lượng sản xuất dân tộc, được cách mạng giải phóng thoát khỏi ách đế quốc và phong kiến, đang vấp phải, trong bộ máy quan hệ sản xuất mới, những chính sách, những tổ chức, những tác phong lãnh đạo, những cán bộ chấp hành cản đường phát triển của nó. Những sai lầm nghiêm trọng trong đợt 5 cải cách ruộng đất cản trở lực lượng sản xuất của nông thôn, những khuyết điểm nhiều mặt của mậu dịch quốc doanh, của chính sách thuế khoá cản trở lực lượng sản xuất của thành thị; những tệ lậu của bộ phận lãnh đạo văn hoá cản trở sức phát triển của mọi lực lượng sáng tạo tinh thần (khoa học, nghệ thuật v.v…).



Những lực lượng sản xuất của chế độ dân chủ nhân dân đang yêu cầu chỉnh lý cấp bách những quan hệ sản xuất mới để tự do tiến triển: đó là ý nghĩa cơ bản của phong trào quần chúng phê bình rầm rộ đang diễn ra chung quanh chúng ta.



Chính phủ và Đảng phát động phong trào ấy là có ý muốn tạo ra điều kiện tốt để nhận thức đúng nội dung của mâu thuẫn nói trên một cách cụ thể và toàn diện. Có nhận thức đúng mới giải quyết đúng. Chính phủ và Trung ương Đảng đang chăm chú lắng nghe tiếng nói của nhân dân…



Cho nên, lúc này hơn lúc nào hết, nhiệm vụ của mỗi người công dân chúng ta là nói thực, “dũng cảm phát hiện khuyết điểm ở mọi lãnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”, nhiệt liệt tham gia cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm ấy, để giúp các nhà lãnh đạo nhìn rõ toàn bộ sự thực. Trong cuộc đấu tranh này, riêng người trí thức phải can đảm tự gánh lấy một trách nhiệm xứng với cương vị xã hội của mình. Thẳng thắn phê bình những sai lầm thiếu sót của lãnh đạo, của chính sách, của cán bộ là thiết thực góp sức vào sự nghiệp hoàn thành Cách mạng tháng Tám, giữ vững hoà bình, củng cố miền Bắc, thực hiện thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ thực sự. Lúc này hơn lúc nào hết, nói thực, nói thẳng, nói hết là cái thước đo lòng trung thành của người trí thức đối với chế độ dân chủ nhân dân. Không mạnh bạo phát hiện khuyết điểm và đề nghị sửa chữa là không tin chế độ, không tin Đảng, là tự mình tước bỏ cái nhân cách trí thức của mình, là phụ cái lòng kỳ vọng của nhân dân và chính phủ vẫn đặt vào giới mình.



Nghĩ như vậy nên tôi viết bài này, nối gót nhà văn lão thành dũng cảm Phan Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ.



Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ nước ta và đã tác hại khác nhiều đến toàn bộ sinh hoạt văn nghệ. Tôi nói đó là một bệnh phổ biến trong hàng ngũ lãnh đạo văn nghệ. Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì không có cái kia được.



Bởi vậy, không phải đợi đến sau Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, văn nghệ sĩ Việt Nam mới chống sùng bái cá nhân. Ai cũng còn nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ cố Tô Ngọc Vân đã tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê bình nghệ thuật. Ngòi bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không vì uy quyền của lãnh tụ này hay lãnh tụ khác mà thủ tiêu ý kiến riêng của mình. Cũng năm 1948, nhân đi công tác qua Thanh Hoá, ông Trường Chinh có đến câu lạc bộ của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV nói chuyện với anh chị em văn nghệ về chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam. Trong bài nói, có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát hoạ phái lập thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho hoạ phái ấy, cũng như các phái nghệ thuật Đa đa, Dã thú v.v…, chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20. Sau buổi nói chuyện, anh em hoạ sĩ mạn đàm với nhau và nhất trí cho rằng ông Trường Chinh vì không am hiểu chuyên môn hội hoạ nên đã nhận định sai lầm về chủ nghĩa lập thể. Hoạ sĩ Sỹ Ngọc có viết một bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng tạo số 4 (cơ quan ngôn luận của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV) để gián tiếp bác ý kiến của ông Trường Chinh.



Ở đây, không nói đến chỗ sai hay đúng của các ý kiến Tô Ngọc Vân, Sỹ Ngọc; chỉ một việc tự do và mạnh bạo phát biểu quan điểm riêng của mình trái hẳn với quan điểm của một nhà lãnh tụ cũng đủ cho ta thấy rõ các bạn đó không có thói quen sùng bái cá nhân, hễ lãnh tụ đã đề ra một ý kiến gì là phải nhắm mắt tuân theo, ca tụng.



Đối với các nhà lãnh đạo bậc dưới, ở các khu hoặc tỉnh, anh em văn nghệ sĩ cũng thường xuyên giữ thái độ tự do tư tưởng như vậy. Tôi còn nhớ, trong Khu IV, nhiều lần văn nghệ sĩ đã xung đột kịch liệt với thiếu tướng Nguyễn Sơn lúc đó (1948-1949) làm Khu trưởng Liên Khu IV. Nhà quân sự này có tham vọng lãnh đạo cả văn nghệ trong phạm vi đất đai thuộc quyền mình. Vì thiếu học thức chuyên môn về nghệ thuật, Nguyễn Sơn đã phải dùng đến uy quyền Khu trưởng để đàn áp tư tưởng của văn nghệ sĩ, bắt anh em phải theo ý kiến chủ quan của ông, gây ra hết mâu thuẫn này đến mâu thuẫn khác giữa ông và văn nghệ sĩ suốt mấy năm trời, làm hại khá nhiều đến phong trào văn nghệ kháng chiến Liên Khu IV. Một lần, đoàn kịch Tiền tuyến, do một số kịch sĩ, hoạ sĩ và diễn viên phụ trách và công tác trong quân đội Liên Khu IV, diễn vở Dứt áo của Chu Ngọc. Kịch vừa hạ màn, quần chúng còn đang vỗ tay hoan nghênh thì ông Khu trưởng Nguyễn Sơn nhẩy ngay lên sân khấu, đả kích vở kịch, đả kích tác giả, đả kích đoàn kịch, đả kích cả khán giả trong hơn nửa tiếng đồng hồ. Theo lệnh của ông, vở kịch ấy không được phép tái diễn nữa. Vở kịch Dứt áo, lập trường đúng hay sai ở đây không bàn đến; chỉ biết rằng lối lãnh đạo “quân phiệt” ấy đã bị anh xem văn nghệ sĩ phản ứng lại mạnh mẽ: đoàn kịch Tiền tuyến tự giải tán.



Khoảng cuối năm 1948, trong trụ sở Xưởng hoạ Liên Khu IV ở Thanh Hoá, có một buổi sinh hoạt toạ đàm về lý luận văn nghệ. Hôm ấy, anh em thảo luận về vấn đề hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông Đặng Thai Mai, Bí thư thứ nhất Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV, Hội trưởng Hội Văn hoá Việt Nam, đưa ra ý kiến cho rằng ở xứ ta chưa thể áp dụng hiện thực xã hội chủ nghĩa trong sáng tác văn nghệ được. Theo ý ông thì xứ ta chưa kiến thiết xã hội chủ nghĩa nên chưa có cơ sở để vận dụng hiện thực xã hội chủ nghĩa. Rồi ông dẫn những lời nói của Maxime Gorki để chủ trì rằng văn nghệ Việt Nam chỉ nên sáng tác theo phương pháp lãng mạn cách mạng. Mặc dầu lúc đó có ông Mai ở cương vị một người lãnh đạo văn nghệ toàn Liên Khu IV, quan điểm của ông cũng không nhờ được uy thế đó mà khiến anh em văn nghệ sĩ phải rắp rắp tuân theo. Các bạn dự buổi toạ đàm, sau một hồi thảo luận, đều không tán thành ý kiến ông Bí thư thứ nhất của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV.



Năm 1949, trên Liên khu Việt Bắc, Hội Văn nghệ có tổ chức một hội nghị tranh luận về thơ, tiểu thuyết, kịch, hoạ, nhạc, nhiếp ảnh. Trong những buổi thảo luận, anh chị em văn nghệ sĩ đều hoàn toàn tự do đề xuất và bênh vực ý kiến riêng của mình. Ông Tố Hữu cũng tham gia nhiều cuộc tranh luận. Nhưng không có một văn sĩ nào lại nghĩ rằng ông Tố Hữu đã đưa ra một quan điểm thì không ai được bàn cãi nữa. Tôi thiết tưởng nếu trong hội nghị có kẻ nào xu nịnh nhà lãnh đạo định đàn áp tự do dân chủ khi thảo luận thì chắc là kẻ ấy sẽ bị anh em công kích và khinh bỉ.



Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi tìm chân lý, đi tìm chính nghĩa, đi tìm tự do chứ không đi tìm cuộc đời nô lệ dưới hình thức này hay hình thức khác. Lấy sáng tạo nghệ thuật để phục vụ cách mạng làm lẽ sống chủ yếu, họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào.



Với những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lãnh đạo độc tài, bè phái thì tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là tình trạng văn nghệ của ta từ sau 1949.



Một mặt, cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc mỗi ngày một tôi luyện tâm hồn văn nghệ sĩ thêm cứng cáp, rèn rũa lập trường tư tưởng họ một ngày một thêm chính xác; đồng thời cuộc kháng chiến đã làm nở dần ra trong bản thân họ những xúc cảm mới, phong phú, mạnh mẽ và một ý chí phục vụ cách mạng mỗi ngày một thêm sắt đá. Họ muốn đem tất cả tài năng, tất cả cuộc đời hiến cho nhân dân. Họ muốn tiến hành những thí nghiệm sáng tạo nghệ thuật táo bạo phù hợp với yêu cầu của tâm tư súc tích những căm thù và yêu nước. Như đoàn chim đã có lông cánh, họ muốn bay vút lên tầng mây xanh thắm của lý tưởng xã hội chủ nghĩa, mỗi người theo một hành trình độc đáo. Như trăm hoa đầy nhựa sống, họ muốn nở tung ra, mỗi người một hương sắc riêng, giữa thanh thiên bạch nhật của cuộc đời dân chủ tự do. Họ muốn tạo ra một nghệ thuật xứng với một chế độ mà họ yêu quý như yêu quý vận mệnh bản thân. Họ đòi những điều kiện thuận lợi tối thiểu để phục vụ…



Một mặt khác, bộ phận lãnh đạo văn nghệ - cụ thể là Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam và các ban thường vụ chi hội ở các khu – càng ngày càng tiến sâu vào con đường mệnh lệnh, độc tài, quan liêu, bè phái, hẹp hòi…, càng ngày càng trắng trợn căng lưới trên khắp các nẻo đường sáng tác văn nghệ, định biến những văn nghệ sĩ nhiều chất sống và cá tính thành những con cừu ngoan ngoãn, sợ sệt chịu để cho bọn chăn dắt lùa đi ngả nào cũng được. Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó “tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn”. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v… còn gì nữa?



Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (số ít thôi) ngã vào tay bọn thầy bùa biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất ức. Một số khác nữa “cất kín” cá tính và nghệ thuật xuống “đáy ba lô”, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – “đánh giặc đã!”. Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt sang một bên…



… Cho đến hôm nay: sự phải xẩy ra đã xẩy ra. Nhân đã đẻ ra quả. Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lãnh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà bình trở lại, đã bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Phòng Văn nghệ Quân đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v… đề đạt nguyện vọng lên ban lãnh đạo yêu cầu một chế độ công tác hợp với tính chất đặc biệt của sự sáng tạo văn nghệ, yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. Các nhà lãnh đạo văn nghệ quân đội, chủ quan và độc đoán, cương quyết đàn áp phong trào đấu tranh chính đáng ấy [1] . Kết quả là cuộc đấu tranh càng ngày càng lan rộng. Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập lý luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đã đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lãnh đạo văn nghệ. Học tập văn kiện của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (đặc biệt bản tham luận của Cholokov), học tập văn kiện “Bách khoa tề phóng, bách gia tranh minh” của ông Lục Đỉnh Nhất, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, anh em văn nghệ sĩ càng phấn khởi và mạnh bạo nêu cao khẩu hiệu tự do tư tưởng, trăm hoa đua nở, lấy đó làm mục tiêu đấu tranh chủ yếu. Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đã đọc một bản tham luận lên án đường lối lãnh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đã đứng lên sơ bộ tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lãnh đạo văn nghệ. Anh em văn nghệ sĩ chưa thoả mãn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để trình bày nguyện vọng. Cuộc đấu tranh còn tiếp tục… [2] .



Nguyên nhân nào đã xô đẩy các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta vào con đường, quan liêu, độc đoán, bè phái tai hại ấy? Nguyên nhân chính là bệnh sùng bái cá nhân. Nó phát sinh từ lúc một số người của Đảng nắm lấy độc quyền lãnh đạo văn nghệ bằng tổ chức.



Thực ra, Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất yếu lịch sử, anh chị em văn nghệ sĩ ai cũng thừa nhận với tất cả nhiệt tình thành thực của họ đối với Bộ Tham mưu Cách mạng đã lãnh đạo toàn dân làm ra tháng Tám 1945, đem quyền độc lập đến cho dân tộc đang quằn quại dưới gót phát xít Nhật, Pháp. Trông cậy vào sự giúp đỡ của Đảng để tự cải tạo, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin để phát triển tài năng, vui vẻ đứng dưới lá cờ Đảng để giết giặc cứu nước: đó là nguyện vọng tha thiết của tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ kháng chiến.



Văn nghệ sĩ tin ở Đảng và mong mỏi được Đảng lãnh đạo là bởi họ hiểu rằng Đảng đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng sự lao động trong đó có cả lao động nghệ thuật. Họ biết rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn cờ tiền phong của tự do tư tưởng. Họ biết rằng một Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sứ giả trung thành và hăng hái nhất của tự do tư tưởng. Họ biết rằng cái chế độ mà Đảng đang cùng nhân dân xây dựng bằng xương máu là thiên đường của tự do tư tưởng.



Văn nghệ sĩ kháng chiến hào hứng tiến bước theo lá cờ của Đảng tiền phong. Nhưng trên đường đi, họ đã vấp phải một số người của Đảng trong bộ phận lãnh đạo phong trào văn nghệ. Số người ấy đã làm họ thất vọng. Nói cho đúng, anh em văn nghệ sĩ cũng không bao giờ phản đối sự trạng: đảng viên nắm quyền lãnh đạo. Nếu quả là những đảng viên tốt, ưu tú, giỏi chuyên môn lãnh đạo văn nghệ thì anh em hết sức hoan nghênh. Nhưng sự thật những “đảng viên” ấy thế nào?



Năm 1950, chúng tôi ở Khu IV lên Việt Bắc dự Đại hội Văn nghệ Toàn quốc. Một buổi tối, gặp ông Tố Hữu và ông Lưu Trọng Lư ở trụ sở Hội, nhân nói đến cái trường văn nghệ nhân dân mới lập ở Việt Bắc, một bạn nhà văn Liên khu IV có phát biểu ý kiến cho rằng: Hội Văn nghệ Việt Nam, từ ngày thành lập đến giờ, rất ít chú ý đào luyện cán bộ chuyên môn cho ngành mình, ít chú ý bồi dưỡng trí thức nghiệp vụ cho văn nghệ sĩ. Rồi anh bạn kết luận: “Lúc này mới mở trường văn nghệ nhân dân kể cũng hơi muộn so với nhu cầu của phong trào văn nghệ. Nhưng muộn còn hơn không”. Anh vừa nói dứt lời thì ông Lưu Trọng Lư sừng sộ nói như thét: “Anh bảo muộn là thế nào? Bây giờ mới làm là đúng lúc lắm chứ! Sao lại muộn?” Chúng tôi bình tĩnh nhìn Lưu Trọng Lư “đảng viên” không trả lời. Riêng đối với tôi thì tâm lý và thái độ của ông Lư không làm tôi ngạc nhiên chút nào vì tôi đã gặp tâm lý và thái độ ấy ở một số đảng viên khác, khá nhiều lần. Đó là tâm lý của những kẻ “bảo hoàng hơn cả nhà vua”.



Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những người của Đảng phụ trách lãnh đạo văn nghệ, trong kháng chiến cũng như sau khi hoà bình lập lại, đều có thứ tâm lý nói trên. Ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh đạo Đảng không bao giờ sai lầm. Đứng trước một người “quần chúng” nào phê bình những điểm thiếu sót hoặc sai lệch của Đảng, nếu họ không bịt tai chạy trốn được thì thế nào họ cũng phải phản ứng lại kiểu Lưu Trọng Lư.



Những đảng viên “bảo hoàng hơn cả nhà vua” ấy cũng thừa biết câu nói bất hủ của Lênin: “Chỉ có hai hạng người không bao giờ phạm sai lầm: hạng người còn nằm trong bụng mẹ và hạng người nằm trong quan tài”.



Họ cũng biết rằng xét theo một thời gian lịch sử dài thì Đảng không sai lầm – điều này đúng – nhưng xét theo từng giai đoạn nhỏ, từng chính sách, từng kế hoạch cụ thể thì một đôi khi Đảng vẫn mắc sai lầm; - lắm lúc sai lầm nghiêm trọng là đằng khác nữa.



Họ cũng biết rằng một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin không bao giờ yêu cầu hoặc dung túng, ở người đảng viên, sự nhắm mắt phục tùng tuyệt đối cấp trên đến cái mức hủy diệt cả trí suy xét phê phán cá nhân; trái lại lúc nào Đảng cũng đòi hỏi ở người đảng viên tính sáng tạo tích cực, tinh thần dũng cảm phê bình và xây dựng mọi chính sách của Đảng.



Họ cũng biết rằng chân giá trị của Đảng Mácxít-Lêninít không phải ở chỗ không bao giờ phạm sai lầm - điều này không thể có được - mà chính là ở chỗ khi nào phạm sai lầm thì can đảm công bố cho quảng đại quần chúng biết là mình sai lầm, phân tích đúng nguyên nhân của sự sai lầm và quyết tâm sửa chữa sai lầm.



Các đảng viên lãnh đạo văn nghệ của chúng ta biết tất cả những điều sơ đẳng ấy. Họ đã học tập những văn kiện của Đảng, đọc sách báo Đảng, được theo lớp chỉnh Đảng. Họ lại là những người có điều kiện đọc được tác phẩm của Mác, Lênin, Mao Trạch Đông. Làm gì họ không biết những chân lý phổ thông ấy! Nhưng họ vẫn gào to vào tai quần chúng: Đảng không bao giờ sai lầm; lãnh tụ này hay lãnh tụ khác không bao giờ sai lầm. Và họ hành động, nói năng y như là họ tin thành thực rằng Đảng, lãnh tụ, các cấp ủy không bao giờ sai lầm cả.



Tại sao họ lại tự lừa dối như vậy? Không có gì lạ cả. Họ làm ra như vậy là vì làm thế có lợi cho bản thân họ. Đó là những đảng viên cơ hội chủ nghĩa điển hình. Họ theo phương châm sống: “khuất nhất nhân thân vạn thặng”. Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy.



Cho nên, khi vị lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu chỉ thị bỏ những tranh tĩnh vật trong một cuộc triển lãm tranh hội hoạ (1955) thì họ bỏ hết những tranh tĩnh vật; khi ông Tố Hữu tấm tắc khen bức tượng "Hướng điền" của Song Văn thì họ xô nhau vào tấm tắc khen theo; khi ông Tố Hữu chê hai bức sơn mài "Trăng lên" và "Niềm vui" của Nguyễn Sáng trong kỳ triển lãm năm ngoái thì họ ùa vào chê theo mặc dầu họ đã khen Nguyễn Sáng lúc ông Tố Hữu chưa cho ý kiến; khi ông Tố Hữu viết về bản thảo tập Thơ chiến sĩ của Hồ Khải Đại: “Đây là một tài năng mới cần cổ võ và biểu dương” thì họ nhấc tập thơ ấy từ giải khuyến khích lên giải ba [3] . Khi ban lãnh đạo văn nghệ quân đội biên thư cho thường vụ Hội Văn nghệ đề nghị (hay ra chỉ thị?) bỏ cuốn Người người lớp lớp của Trần Dần “phản động”, không chấm giải, thì họ ném Người người lớp lớp và cả nhà văn Trần Dần vào sọt giấy; khi mở ra cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc thì họ chỉ rắp tâm hướng dư luận đến chỗ ca tụng ông Tố Hữu v.v… Suy xét, hành động họ nhất nhất rập theo đúng ý kiến và sở thích của cấp trên. Họ tự tước bỏ hết cá tính, tước bỏ trí phán đoán độc lập, tước bỏ luôn nhân cách văn nghệ sĩ. Và do đó họ cũng đã tự tước bỏ luôn cái tư cách cần phải có của một người cộng sản.



Phàm đã sùng bái cá nhân “cấp trên” thì tất nhiên có tâm lý và muốn bắt những người “cấp dưới” sùng bái cá nhân mình. Do đó sinh ra lối lãnh đạo độc đoán và bè phái. Trong số báo Nhân dân ra ngày 8-9-1956, ông Phượng Cầu có lôi ra ánh sáng vụ Nọc rắn, bằng chứng của thứ lãnh đạo văn nghệ độc đoán bè phái.



Vụ Nghệ thuật giao cho Đội kịch Trung ương tập vở Nọc rắn. Khi đi nghiên cứu nông thôn về và bắt đầu diễn tập, các diễn viên đã có ý kiến là vở kịch này nó thế nào ấy diễn không được, nó không đúng thực tế, nó gượng gạo, chắp vá v.v… Nhưng đồng chí Vụ trưởng xoa tay, dõng dạc bảo:



"Căn bản vở kịch này bảo đảm là tốt rồi đấy! Không cần bàn cãi nữa!" Người ta còn phê lên trán đội kịch ba chữ: Thiếu tin tưởng. Lúc đem diễn thử thì ai cũng thấy là vở kịch hỏng về căn bản. “Thế là công lao ăn tập hơn một tháng trời và gần ba triệu đồng của kế hoạch nhà nước biến thành mây khói”. Ông Phượng Cầu thuật xong câu chuyện có viết: “Vở kịch như người bị Nọc rắn nằm lăn ra đây.” Không! Bị Nọc rắn không phải là vở kịch. Bị Nọc rắn không phải là ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật. Bị Nọc rắn chính là kế hoạch nhà nước 1956. Ba triệu đồng, mồ hôi nước mắt của nhân dân đóng góp để củng cố miền Bắc, phút chốc bị cái nọc mệnh lệnh bè phái – nguy hại hơn Nọc rắn –của ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật làm cho tiêu tán.



Những con người khinh bỉ quần chúng như thế, phá đoàn kết như thế, hách dịch độc đoán như thế, nịnh trên chèn dưới như thế mà bao lâu nay vẫn lãnh đạo văn nghệ, vẫn được cấp trên khen là tốt – lại còn tuyên dương nữa! – thì không cần nói cũng biết cái không khí văn nghệ nghẹt thở đến mức nào!



Thêm vào tư cách lãnh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là ta có tất cả cái tình trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực sáng tạo văn nghệ vì thế mà quằn quại không phát triển mạnh được.



Tôi nói không phát triển mạnh được vì rằng, mặc dầu bị các nhà lãnh đạo kìm hãm, văn nghệ Việt Nam suốt thời kháng chiến và sau khi hoà bình lập lại vẫn theo đà phát triển lịch sử của Cách mạng tháng Tám mà phát triển, không sức bảo thủ nào ngăn lại được. Vả lại, đường lối văn nghệ của Đảng, tuy chưa có hệ thống và chưa được thể hiện ra một chính sách cụ thể, cũng vẫn là kim chỉ nam cho sự hoạt động văn nghệ. Những phương châm dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng hoá, những khẩu hiệu thâm nhập quần chúng: khai thác vốn cũ dân tộc, mặc dầu thực hành thiếu sót, lệch lạc hay máy móc, cũng vẫn là hướng tiến của văn nghệ Việt Nam. Với đường lối đúng ấy, nếu lại có một chính sách cụ thể và một tổ chức lãnh đạo tốt thì không biết những khả năng sáng tạo của văn nghệ sĩ còn phát triển tưng bừng mạnh mẽ đến thế nào! Tiếc thay! Các nhà lãnh đạo văn nghệ đã kìm hãm sức phát triển ấy bằng một lề lối bè phái, độc đoán quan liêu, sùng bái cá nhân, bằng những thói quen tâm lý còn sót lại của thời thực dân phong kiến.



Họ đã làm trái hẳn ý muốn tốt của Đảng. Họ đã làm giảm sút phần nào uy tín của Đảng trong một số quần chúng văn nghệ quen đánh giá Đảng qua tư cách và hành động của những đảng viên. Họ không đủ tiêu chuẩn một cán bộ cách mạng chứ đừng nói đến tiêu chuẩn một đảng viên cộng sản.



Đã đến lúc phải sa thải những “nhà lãnh đạo” thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.



Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói.



Đã đến lúc Đảng phải nghiên cứu, xây dựng và tuyên bố một chính sách văn nghệ đúng đắn, cụ thể, sát thực tế, để tạo cho văn nghệ dân tộc một cái đà phát triển mạnh mẽ và tự do trên chiều hướng tiến đến xã hội chủ nghĩa, để cho các nhà văn nghệ có đủ điều kiện khách quan làm tròn sứ mạng của họ là “kỹ sư của tâm hồn”.



Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên xô đã rọi ánh sáng tưng bừng vào các tâm hồn khao khát tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do phê bình. Đại hội đã đánh thức dậy ở họ tinh thần dũng cảm chiến đấu vì chân lý, vì tương lai cộng sản chủ nghĩa, vì giá trị chân thực của con người. Những tâm hồn rạo rực ấy đang đòi hỏi những điều kiện tốt để hiến dâng phần cao quý nhất của họ cho cách mạng, cho tổ quốc, cho nhân dân. Đừng ai nghĩ thiển cận rằng hiện nay toàn thể anh em văn nghệ sĩ đấu tranh cho tự do tư tưởng, vạch trần những sai lầm nghiêm trọng của Hội, yêu cầu Đảng đề ra một chính sách lãnh đạo văn nghệ đúng đắn, chỉ là vì bất mãn cá nhân, vì óc địa vị, vì lương ít, vì muốn phá uy tín Đảng, vì có người xui dục, vì chịu ảnh hưởng xấu của giai cấp tư sản, muốn đòi tự do bừa bãi v.v…



Không! Văn nghệ sĩ (trừ một tối ư thiểu số) đấu tranh không phải vì những động cơ ấy. Họ đấu tranh vì họ yêu chế độ, yêu Đảng, yêu nghệ thuật, yêu con người. Họ đấu tranh là để cho chế độ tươi đẹp hơn, Đảng vững mạnh hơn, nghệ thuật phục vụ Cách mạng đắc lực hơn, con người có nhân cách cao quý hơn.



Họ muốn gì?



Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lãnh đạo văn nghệ đã cản trở sức phát triển nghệ thuật, làm đau khổ con người văn nghệ sĩ, làm rã rời tình đoàn kết thân ái trong mặt trận văn nghệ.



Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lãnh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; vì thiếu tự do tư tưởng thì nghệ thuật sẽ co quắp, mòn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời.



Họ muốn công việc lãnh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ – bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng – được quần chúng văn nghệ tự ý lựa chọn và tín nhiệm; họ đề ra khẩu hiệu: quyền điều khiển chuyên môn trả lại cho người công tác chuyên môn vì họ đã thấy rõ nếu không nắm được chuyên môn mà cứ chủ quan lãnh đạo chuyên môn thì tất yếu sẽ phạm những sai lầm làm hại đến phong trào văn nghệ.



Đề ra khẩu hiệu ấy, họ không bao giờ có ý nghĩ muốn tách chuyên môn ra khỏi chính trị. Họ vẫn chủ trì rằng mọi công tác chuyên môn đều phải phục vụ một đường lối chính trị chung có lợi cho quảng đại nhân dân, nhưng họ muốn trả lại cho người chuyên môn quyền điều khiển công việc thuộc về phạm vi chuyên môn của họ. Có như thế, chuyên môn mới phục vụ chính trị một cách đắc lực được.



Họ muốn Đảng có một chính sách văn nghệ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói”, tạo ra những điều kiện tinh thần và vật chất cần thiết để họ đem hết tài năng phục vụ cho chế độ dân chủ nhân dân tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa. Họ muốn sáng tạo ra một nền văn nghệ xứng với Cách mạng tháng Tám, xứng với dân tộc anh hùng.



Họ muốn cùng với toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nỗ lực củng cố miền Bắc để làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà bằng đường lối hoà bình trên cơ sở độc lập thực sự, dân chủ thực sự.



Những ước muốn ấy đã nổi bật lên qua mười tám ngày học tập, thảo luận, liên hệ sôi nổi tháng Tám vừa rồi, qua bản tham luận đọc hôm tổng kết. Đó là những ước muốn chính đáng, xây dựng.



Vấn đề chống sùng bái cá nhân, chống lãnh đạo quan liêu độc đoán bè phái, hiện nay, là một vấn đề rộng lớn, quan trọng. Mong rằng tất cả anh chị em nghệ sĩ nói riêng và anh chị em trí thức nói chung đem kinh nghiệm bản thân góp sức vào công cuộc tiễu trừ óc sùng bái cá nhân độc tài mệnh lệnh bất cứ ở lãnh vực nào. Đó là một cách xây dựng chế độ của chúng ta hiệu nghiệm nhất.



Để kết luận, tôi xin nhắc lại lời nói của ông Khờ-rút-sốp vang động ở Đại hội thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô: “dũng cảm phát hiện khuyết điểm trong tất cả các lãnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”.



10-9-1956





------------------------------------------------------------------



[1]Xem báo Nhân văn số I, bài "Con người Trần Dần" của Hoàng Cầm

[2]Xem báo Nhân văn số I. Bài "Đợt đầu học tập và đấu tranh của giới văn nghệ".

[3]Xem bài: “Một vài sự thật chung quanh vụ giải thưởng văn học 1954-1955”, của Yến Lan, Văn nghệ số 139.

***





Hoàng Cầm



Em bé lên sáu tuổi



Mỗi chính sách của Đảng

Là một tia nắng hồng

Nắng vướng mây xám lạnh

Cỏ hoa còn ngóng trông



Ước có nhiều trận gió

Thổi sạch quang vòm trời

Cho tia nắng nhảy múa

Vui hát thực trên đời.



I.



Em bé lên sáu tuổi

Lủi thủi tìm miếng ăn



Bố: cường hào nợ máu



Đã trả trước nông dân

Mẹ bỏ con lay lắt

Đi tuột vào trong Nam



Từ khi lọt lòng mẹ

Ăn sữa, ngủ giường êm

Áo hoa lót áo mền

Nào biết mình sung sướng



Ngọn sóng đang trào lên

Ai nghĩ thân bèo bọt

Nhưng người với con người

Vẫn sẵn lòng thương xót



Có cụ già đói khổ

Lập cập đi mò cua

Nghĩ đến loài địa chủ

Tim phồng căng oán thù



Cụ đã nuôi đứa bé

Trơn lông và đỏ da

Sáu năm, phường độc ác

Lột trơ xương thân già



Bố mẹ nó không còn

Đứa trẻ nay gày còm

Bỗng thương tình côi cút

Cụ nhường cho miếng cơm



Chân tay như cái que

Bụng phình lại ngẳng cổ

Mắt tròn đỏ hoe hoe

Mở nhìn đời bỡ ngỡ



“Lạy bà xin bát cháo

Cháu miếng cơm thày ơi”



II.



Có một chị cán bộ

Đang phát động thôn ngoài

Chợt nhìn ra phía ngõ

Nghe tiếng kêu lạc loài



Chị rùng mình nhớ lại

Năm đói kém từ lâu

Chị mới năm tuổi đầu

Liếm lá khoai giữa chợ



Chạy vùng ra phía ngõ

Dắt em bé vào nhà

Nắm cơm dành chiều qua

Bẻ cho em một nửa



Chị bần nông cốt cán

Ứa nước mắt, quay đi:

“Nó là con địa chủ

Bé bỏng đã biết gì

Hôm em cho bát cháo

Chịu ba ngày hỏi truy”



Chị đội bỗng lùi lại

Nhìn đứa trẻ mồ côi

Cố tìm vết thù địch

Chỉ thấy một bóng người



Em bé đã ăn no

Nằm lăn ra đất ngủ

Chị nghĩ: sau lấy chồng

Sinh con hồng bụ sữa



III.



Chị phải đình công tác

Vì câu chuyện trên kia

Buồng tối lạnh đêm khuya

Thắp đèn lên kiểm thảo



Do cái lưỡi không xương

Nên nhiều đường lắt léo

Do con mắt bé tẻo

Chẳng nhìn xa chân trời

Do bộ óc chây lười

Chỉ một màu sắt rỉ

Đã lâu nằm ngủ kỹ

Trên trang sách im lìm

Do mấy con-người-máy

Đầy gân, thiếu trái tim



Nào “liên quan phản động”

“Mất cảnh giác lập trường”

Trời nhập nhoạng tối sáng

Chân lý mù như sương



Mấy đêm khóc ròng rã

Ngọn đèn soi tù mù

Lòng vặn lòng câu hỏi:

“Sao thương con kẻ thù?



Giá ghét được đứa bé

Lòng thảnh thơi bao nhiêu

Nhưng bụng nó lúc đói

Giống bụng ta khi nghèo”



Em bé đến ngoài cửa

Thành quen xin miếng cơm

Nhịn cho em một nửa

Chị đưa qua khe tường



Ngồi viết lên từng chữ

Sáng tinh yêu con người

Ngoài kia sông núi mở

Thao thao đến chân trời



IV.



Có đồng chí cấp trên

Lật từng trang kiểm thảo

Nước mắt mấy giọt liền

Rơi trên tờ báo cáo:



“Đảng ta, trời nhân đạo

Còn vương vất bóng đêm

Đồng chí đã thắp đèn

Dòng mực vắt như sữa

Nhức căng hai đầu vú

Nuôi ngày mai lớn lên”



Em bé lên sáu tuổi

Được chăm nuôi lớn dần

Đã tung tăng cắp sách

Cùng trẻ em nông dân



Bướm bay quanh mắt sáng

Cỏ xanh rập rờn chân em

Cỏ đang lấp bùn đen

Của nghìn năm tội ác



Chị đội thăm trường học

Cờ lên, em đứng chào

Mắt sáng như hôm nào

Được miếng cơm của chị.





***





Trần Lê Văn



Một đêm không ngủ



Đã ba hôm nay, Lâm suy nghĩ về một đề tài truyện ngắn. Anh chàng chưa quen với lối làm việc có chương trình, kế hoạch. Cuốn sổ tay xinh xắn bìa màu gụ bóng, có in hình Tháp Rùa, đi đâu Lâm cũng mang theo trong người để tự nhắc nhở mình công việc hàng tuần, hàng ngày. Giở mấy trang đầu, quả có sự quyết tâm “đi vào kế hoạch cá nhân”. Cũng có những đề cương, dự án về sáng tác, cũng phân phối thời gian, có vẻ khoa học lắm. Nhưng mấy trang sau đã bắt đầu thấy những hình con chim con cò vẽ nguệch ngoạc, những câu thơ chữ Hán viết dở dang, những câu thơ trào phúng trao đổi ngầm với một người bạn trong một buổi họp kéo dài… Ba hôm nay, Lâm lại dùng đến quyển sổ tay một cách đều đặn. Anh ghi những ý nghĩ thoáng qua trong óc, phác ra những nhân vật, mường tượng những cảnh huống. Nhưng tối nào cũng vậy, cứ đặt bút viết được ba dòng là anh lại mặc quần áo đi ra đường. Chị vợ nguýt dài, chẳng biết trách yêu hay trách thật: “Lại đi biệt tăm, biệt tích!” Câu này Lâm nghe đã quen tai quá nên cũng chẳng quan tâm cho lắm. Cứ bước ra khỏi nhà là anh thấy “nhẹ nợ”. Ra khỏi nhà là vợ hết ỷ eo hỏi tiền chợ ngày mai, mấy đứa con hết quấn chân đòi mua đồ chơi và mắt anh khỏi trông thấy nồi niêu mắm muối ngổn ngang trên cái bàn viết. Ở nhà với vợ con, mặt anh rầu rĩ như đưa đám nhưng cứ ra đến đường là anh lại nhởn nhơ, gặp bạn thì nói huyên thuyên đủ các thứ chuyện, có khi đùa cả với con nít ngoài phố. Những lúc này, Lâm cũng cảm thấy mình hơi “vô trách nhiệm” nhưng anh chàng hay đãng trí nên dễ quên. Lên đến Hồ Tây thì cuộc đời lại thấy đẹp quá, đẹp như một bài thơ tình. Trăng non tháng Tám thấp thoáng sau những đám lá lăn tăn của hàng cây phượng bên đường Cổ Ngư. Con đường này mang một màu sắc duyên dáng đặc biệt của thời đại. Bên cạnh những bộ áo ka ki, vẫn có những tà áo màu, nhưng cũng có những cái áo thon ngắn, sau lưng tung tăng hai cái đuôi sam tết nơ con bướm. Gió mát đã hơi lành lạnh, mặt hồ gờn gợn, mênh mông. Hương lá sen thỉnh thoảng bốc lên đậm đà gợi đến một ấm trà ngon. Bên kia hồ Trúc Bạch, một cái nhà có nhiều ống khói “giống như một cái tàu thủy đỗ ở bến không bao giờ chạy”. Hình ảnh này là của một anh bạn hay ví von, thường rủ Lâm đi ngắm cảnh hồ. Trên những ghế đá ngoảng lưng ra đường, từng cặp người sát vào nhau, tưởng chập làm một. Từng hàng ô tô bóng loáng, có chấm đèn đỏ đằng sau, toả về những con đường nhẵn thín, rộng thênh thang: Hùng Vương, Phan Đình Phùng, Cửa Bắc… Hà Nội ở đây không chen chúc, chật chội, ồn ào nữa. Hà Nội ở đây khoáng đãng, thanh tao, trầm mặc, rất tốt cho sự nghỉ ngơi, suy nghĩ hoặc yêu đương. Không khí nhẹ nhàng dễ thở. Gió thổi tung bay mái tóc, lồng ngực thở căng lên như cánh buồm no gió. Thoát khỏi những căn nhà hẹp ở những phố đông người, lên đây người ta muốn cởi phanh áo, khoa chân múa tay cho sướng đời. Lâm đi tha thẩn chẳng khác gì một người vô công rồi nghề, ngắm nghía các ngôi nhà ở dọc những đại lộ. Có những cái nhà vuông vuông tròn tròn, giàn hoa, cổng sắt, phảng phất như những lâu đài cổ bên Pháp. Có những cái giống hệt cung điện quốc vương Khơ-me, đằng trước cũng giồng những cây thuộc loại dừa, loại cọ. Có cái làm theo kiểu Á đông cổng lợp ngói men sứ, mái cong cong, ngoài hiên sáng rực những đèn lồng có tua đỏ, cổ kính, uy nghi. Lâm ngước nhìn lên những căn gác, cửa sổ có riềm lụa màu, lọc ánh đèn xanh dịu. Trên ban công nhà ai, đằng sau bức lan can trạm trổ tỉ mỉ như đăng ten, hai vợ chồng đang ngắm trăng hóng gió, ríu rít chuyện trò. Lâm có một ý nghĩ ngộ nghĩnh: “Không biết họ có nặng lời với nhau bao giờ không nhỉ!”, rồi mỉm cười một mình.



Lâm về đến nhà đã mười giờ khuya. Vợ con anh đã đi ngủ hết. Trẻ con thì nó đi ngủ sớm đã đành. Vợ anh cũng có cái thói đi ngủ sớm. Như thường lệ, anh lẩm bẩm một mình: “Người đâu mà cứ lặn mặt trời đã buồn ngủ rồi!”. Anh có ai nghe nói: hay buồn ngủ là triệu chứng thiếu máu. Nhưng anh vẫn thấy bực mình về thói ngủ sớm của vợ.



Lâm vừa lau cái mặt bàn vừa hát nghêu, hát ngao, tạo “không khí” để lại bắt đầu viết cái truyện ngắn bỏ dở. Anh tợp một hớp nước chè tươi nóng, rít một mồi thuốc lào. Cái điếu này bằng nứa già đen nhanh màu gỗ mun, miệng bịt lại, Lâm coi là một vật quý giá. Anh có khắc vào mấy chữ: “Kỷ niệm Quán Giắt – Nông Cống 1954”. Lâm chắp tay sau lưng đứng ngắm bức tranh vẽ một em bé má phinh phính, tay chân bụ bẫm đang vờn một quả táo to, đỏ mọng. Tờ giấy trắng tinh giải trên bàn. Lâm chép lại những dòng đã viết, nét chữ nắn nót như chữ mẫu ở vở tập đồ. Bỗng nhiên thằng con thứ ba của anh khóc thét lên, đập chân xuống giường đành đạch. Nó nghịch ngợm suốt ngày và có thói quen là cứ đúng nửa đêm, nó nằm mê thấy bạn nó tranh mất con chuồn chuồn hoặc cái tàu bay gấp bằng giấy và khóc nằng nặc đòi trả. Anh mở màn quạt phành phạch, xoa lưng cho nó và dỗ mãi nó cũng không nín. Anh nổi nóng, phát cho nó một cái thật đau, nó càng khóc già và đạp lung tung. Thế là cả mấy đứa thi nhau vừa ho vừa khóc om nhà. Vợ anh giở mình, làu nhàu một lúc rồi lại ngủ. Dần dần không khí trở lại yên tĩnh. Lâm lại ngồi vào bàn, viết rồi lại xoá, loay hoay mãi chẳng thêm được dòng nào. Khoảng hai giờ sáng anh tắt đèn đi nằm nhưng cựa quậy mãi không tài nào nhắm mắt được. Câu chuyện anh bắt đầu viết mô tả một gia đình ở nông thôn bị mấy kẻ giá hoạ vu oan mà vẫn hết lòng tin yêu Cách mạng. Những nhân vật đang chập chờn trong trí anh, những ý nghĩ miên man về các tình tiết đang theo rõi anh, những câu những chữ đến dồn dập lộn xộn. Lâm bật đèn lên ghi vội rồi lại tắt đèn đi nằm, đầu nóng bừng lên như lên cơn sốt. Anh chợt nhớ tới lời đồng chí cấp dưỡng ở nhà báo phàn nàn về cái thói làm việc đêm của các đồng chí nhà văn sống tập thể: “Các ông ấy làm mất cả giấc ngủ của người khác. Cứ nằm một lát lại nhỏm bật dậy đèn hí hoáy viết rồi đi đi lại lại, làm ồn cả nhà. Đề nghị từ nay các ông đi ngủ sớm cho”. Một anh bạn có nói đùa một cách hơi thô trong khi luận về các nghề làm đêm… Câu đùa ấy, Lâm thấy đúng với thời xưa hơn là thời nay. Lâm không tin rằng viết văn thì cứ phải viết về đêm mới được. Giá có một gian buồng thật tĩnh, một cái bàn giấy tươm tất và một vài điều kiện lặt vặt thì viết ban ngày cũng được chứ sao?



Trong các văn nghệ sĩ Liên Xô, Lâm thích nhất Sô-lô-cốp vì theo ý ông này, mỗi nhà văn cần được ở riêng một nhà. Sô-lô-cốp đưa ra một ví dụ ngộ nghĩnh: Nếu tám nhà văn ở chung với nhau, tám cái bếp cùng sôi, tám bà vợ cùng tranh luận với nhau một lúc về ngôn ngữ học thì các ông chồng còn viết lách làm sao được! Bên Liên Xô, trình độ đã cao, các bà vợ đã biết tranh luận về ngôn ngữ học chứ bên mình, trong hoàn cảnh còn thiếu thốn, các bà văn nghệ sĩ chưa gột hết tàn tích cũ, lắm khi còn khẩu chiến với nhau về một mẩu củi hoặc một củ hành mặc dù họ có thể nhường cơm sẻ áo cho nhau được. Nếu không xảy ra những cuộc khẩu chiến ấy thì cũng sẵn có những sự lôi thôi khác ngăn cản suy nghĩ ban ngày của người viết văn. Ít lâu nay chị Lâm quen cái lối tính toán vừa buồn cười vừa sốt ruột. Nào là: bài văn tranh luận này mua được một thước vải, nào là: bài thơ kia đong được hơn một yến gạo. Lâm nhiều lần đã giảng giải cho vợ về ý nghĩa cao quý của nghề văn nhưng chị ấy nghe vẫn chưa thông. Một hôm, chị Lâm đang lúi húi thổi cơm, anh Lâm ở đâu hộc tốc chạy vào bếp đọc cho vợ nghe bài báo anh vừa viết, nhan đề là “Văn nghệ, một lợi khí đấu tranh”. Chị Lâm cúi xuống thổi lửa phù phù chẳng chú ý gì cả làm cho anh ta tưng hửng. Ngoài những nông nỗi ấy, còn chuyện trẻ con hò hét, đánh đấm nhau, khách khứa ra vào rậm rịch suốt ngày làm cho Lâm càng quen viết về đêm. Đêm là khoảng thời gian sung sướng nhất. Không gian rộng thêm ra. Mọi cái phiền nhiễu lặt vặt lắng chìm xuống. Con người hoàn toàn là của mình, hoàn toàn sống với tâm tư mình, nghe thấy rõ từng hơi thở, từng tiếng đập của tim mình. Lâm đã hiểu vì sao những người hay suy nghĩ thường lấy đêm làm ngày, lấy ngày làm đêm. Không ngủ được, Lâm đem cái chiếu võng của con giải lên thềm, ngồi nhìn ra ngoài sân, hít chút gió mát cho tỉnh người. Cây nhãn bên kia tường hàng xóm toả bóng kín nửa sân. Ánh đèn chiếu qua khung cửa hắt ánh sáng lên chòm lá xanh non của cây khế. Phần ngoạn mục nhất của nhà anh là cái khoảng sân này. Lâm thường ví nó như cái sân nhà Vương viên ngoại khi KimTrọng từ Liêu Dương trở lại tìm Kiều. Những đám rêu mọc ban ngày trông nham nhở bẩn thỉu, ban đêm trông rất nên thơ. Lúc này Lâm ngồi nhìn ra sân để tìm cảm hứng. Cảnh vật u tĩnh như trong sân ngôi chùa cổ. Trăng lặn rồi. Những ngôi sao sáng bật lên, óng ả, khiến người ta nghĩ tới người con gái đẹp buổi sáng trở dậy vừa mới rửa mặt xong. Hồi nhỏ, Lâm có đọc truyện Những ngôi sao sáng của Đi-đê-rô tả anh chàng chăn cừu một đêm có nàng con gái gục trên vai mình dưới bầu trời đầy sao khiến chàng tưởng một ngôi sao sa xuống trần biến thành người đẹp. Lâm nghĩ ngợi lan man. Những người bạn của Lâm giờ này cũng đang mải mê làm việc hay ngủ sớm không thành giấc. Công việc sáng tác đang ám ảnh, dằn vặt họ. Họ cũng đang tranh thủ lấy ít thời gian yên tĩnh, ít không gian rộng rãi của ban đêm để sống với tâm tư, để tạo cho mình một không khí thoải mái dễ chịu mà làm việc. Xã hội đang cố gắng thu xếp cho mọi người được sống thoải mái dễ chịu. Sự cố gắng của từng người thật có một ý nghĩa xã hội rất lý thú… Cuộc sống giống như một đoàn xe lửa. Lúc nó dồn toa, các toa va chạm vào nhau, có những hành khách chẳng may ngã kềnh ra. Chuyến xe chùn lại một chút, để rồi tiến nhanh trên đường vạn dặm. Kẻ nào ngồi trong cái toa xe chật vẫn nhìn lên vòm trời xanh và thích thú vì đoàn xe đang chạy, kẻ ấy thật có tâm hồn nghệ sĩ. Ví nghệ sĩ như kẻ ngồi trong xe, Lâm thấy chưa đúng hẳn. Phải ví họ như ngọn lửa đốt cháy những hòn than đun sôi cái nồi súp-de ở đầu máy. Xe không trật bánh là trông mong ở người lái máy. Hai tiếng “nghệ sĩ” khiến Lâm trìu mến nghĩ tới các bạn mình, những người Lâm gặp hàng ngày, những cái tên Lâm nhắc đến luôn luôn và đối với vợ con anh cũng đã trở nên quá quen thuộc. Ban đêm nhàn tưởng, nghĩ đến nhau cũng là một cách tiêu khiển có ý vị. Lâm không hiểu sao cuộc đời của mình lại gắn liền với cuộc đời của những con người bình thường mà kỳ dị ấy. Lũ con anh hay nhắc đến tên bác Vụ, bác Phùng, bác Long, bác Lý v.v… Chúng thấy mỗi bác một vẻ: người thì nghiêm nghị, người thì hay đùa nhưng đều giống nhau ở một vài điểm là người nào cũng ngồ ngộ một kiểu riêng, người nào cũng hay làm ồn như trẻ con và hay mua kẹo cho chúng, có khi lại chia tiền với bố chúng như trẻ con chia bánh với nhau. Con Nguyệt, đứa con gái đầu lòng của Lâm thì cứ nhăn nhó về việc đun nước và điếu đóm mỗi khi các bác đến bàn cãi với bố nó những chuyện đâu đâu. Lẫn với những tiếng lạ tai đối với trí tưởng tượng non nớt của một em bé lên tám tuổi: nào là kỹ thuật, nội dung, nào là công thức, điển hình… Nó tưởng toàn là những thứ ăn được cả. Các bác thường rủ nhau đến nhà nó bất kể buổi trưa, buổi tối. Có khi giơ chân giơ tay, tía tai đỏ mặt nói như cãi nhau, có khi giở hàng cuộn giấy ra đọc đọc ngâm ngâm một hồi lâu. Bố nó trong lúc bàn cãi với bạn hay có dáng điệu bế thằng cu Đán giơ cao lên, rúc mũi vào bụng nó, tỏ vẻ khoái trá. Thằng bé cười như nắc nẻ, đạp đạp hai bàn chân nhỏ xíu vào vai bố. Các bác đến rồi lại đi, đi rồi lại đến. Chỉ khổ cho nó phải đun nước và hót tàn đóm với bã thuốc lào. Lâm thấy diễn lại trong óc những hoạt cảnh như vậy và cũng diễn lại những mẩu đời của từng người bạn. Ý nghĩ chẳng thành hệ thống gì…



Vụ giờ này chắc cũng đang tiếp tục viết cái tiểu thuyết trường thiên Tấm tình cao cả tả đời sống và tình duyên của một anh cán bộ với một chị công nhân. Vụ là một anh chàng đã ngoại tứ tuần, lưng đã gò xuống như ông Lã Vọng, hay mặc cái áo đại cán màu xanh bạc phếch và ngày nào cũng lủi thủi đi ở các vỉa hè Hà Nội, tay cắp một cái cặp trông như một ông giáo già. Thời kháng chiến đã từng làm chủ báo, từ ngày tiếp quản, gặp ai cũng bàn về một tờ báo dự định cho ra đời, một tờ báo thật là “trăm phần trăm Hà Nội”. Cái ma-két bỏ trong cặp thỉnh thoảng lại đem ra sửa lại. Anh ta ở một gian gác, bốn năm tháng quên giả tiền nhà đến nỗi bà chủ phải nhắc nhở bằng cách khoá công-tơ điện và khoá máy nước. Vợ đứng tuổi làm nghề buôn gạo chạy chợ nhưng lắm khi phải vay gạo hàng xóm ăn. Anh ta đã có cháu gọi bằng ông ngoại. Bộ mặt hom hem nhưng mắt lại rất tình tứ, ban đêm thường ngồi bó củi ở sân gác nghĩ ra các loại truyện tình để giáo dục người lớn và truyện vui khoa học để giáo dục thiếu nhi theo một hướng mới. Anh lại tập sự viết cải lương “khai thác vốn cổ” để “cải thiện sinh hoạt”. Chẳng thuộc một điệu hát nào, anh mượn của rạp hát Tân Kỳ một vở về làm mẫu, xoay trần đếm số chữ, dò vần bằng vần trắc trong những bài vọng cổ, sàng sê, khốc hoàng thiên v.v… Công việc này nghe chừng cũng gay go, gian khổ lắm. Ngoài ra, anh đang chuẩn bị xây dựng một tiểu thuyết ba bốn trăm trang về những ngày tham gia kháng chiến ở Việt Bắc. Cốt truyện nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên anh đã thuộc lòng tuy chưa viết thành văn.



Long ở gần nhà Vụ. Người ta thường gọi là “Long đông con”. Mới băm sáu tuổi, anh đã sản xuất gần một tiểu đội thiếu nhi. Anh đã nghiên cứu các sách để hãm cái đà sản xuất ấy lại mà chưa thành công. Tính lầm lí ít nói nhưng uống rượu vào thì nói nhiều và hay khóc để tỏ lòng thương bạn. Vợ mượn được một cái máy khâu “Xanh-gie” cũ, hôm nào cũng kỳ cạch may hàng cho mậu dịch đến nửa đêm. Long có khiếu về hài kịch, tuy bề ngoài ít vẻ khôi hài. Hồi giặc Pháp đánh Thái Bình, anh suýt bị lính “rạch mặt” bắt được. Sau đó, anh viết vở Chống càn diễn khắp Liên khu Ba. Anh luôn luôn bận bịu về việc xây dựng những vở kịch bốn, năm màn. Từ ngày rút khỏi Thủ đô, anh vẫn mơ trở về diễn kịch ở Nhà hát Lớn.



Thành cũng ở một phố nhỏ. Anh là một tiểu thuyết gia có thâm niên nên được xếp vào loại “văn sĩ bậc năm” trong thang lương.



Khi mới về Hà Nội, anh đi thăm tất cả các ga-ra ô-tô để tìm một chỗ trú ngụ. Về sau có người nhường cho một gian gác xép. Bà con khu phố tốt bụng, ủng hộ gia đình anh một mớ ao len cũ. Anh có tác phong thích khề khà, thù tạc với bạn hữu. Bộ đồ trà hai mươi năm về trước còn giữ làm kỷ niệm, anh chỉ đem ra tiếp những người bạn chí thân. Hồi mới tìm được chỗ ở, việc đầu tiên là ra chợ giời tậu một mảnh gỗ đánh bóng véc-ni, dỡ ở một cái quầy hàng, đem về làm cái mặt bàn viết. Lại kiếm được một cái đĩa mài mực men xanh ở một hiệu thuốc Bắc, cho vào tí đất thành một cái chậu con, trồng một khóm thạch xương bồ, thỉnh thoảng vẩy vào mấy giọt nước cho nó tươi. Đêm đêm ngồi viết, thỉnh thoảng nhìn bụng vợ một cách ưu tư, nhưng trông thấy khóm cây xanh trên bàn, lòng lại thấy mát rượi, đủ hào hứng viết tiếp cái truyện Những người dũng cảm. Trước khi đi vắng dăm ba tháng làm phóng sự, anh không quên dặn vợ con tưới nước cho cây thạch xương bồ.



Cái tính yêu thiên nhiên của Thành cũng hơi giống tính Phùng. Anh này là một thi sĩ. Tầm vóc cao lớn, khí phách giang hồ. Lâm đã nhiều lúc say mê nghe anh kể lại những thời kỳ kéo nhị ở rạp hát, đánh vật ở cửa đền, ngao du ở Vân Nam. Phùng rất thích những phong cảnh ở nơi xa, xứ lạ. Anh hay tả lại cảnh hoa đào ở Nghi Lương, tiếng chuông cừu buổi sáng ở cổng thành Mông Tự, chim yến ở Yến Tử động. Phùng lại đã tham dự nhiều chiến dịch ở những miền rừng núi tiếp giáp đất Lào. Anh đại đội trưởng nghệ sĩ ấy có dáng dấp một hiệp khách thời xưa. Anh có hàng “co-léc-si-ông” những chuyện ly kỳ về những nơi đã qua. Quen thói hào phóng, tiêu tiền bạt mạng, thế mà ở góc nhà lại giấu một con lợn đất, thỉnh thoảng anh ta bỏ vào bụng nó dăm chục một trăm “để cuối năm có món tiêu”.



Phùng rất giàu trí tưởng tượng. Trong một bức thư, gửi cho Lâm khi Phùng công tác xa Hà Nội sáu tháng, anh vẽ và tả cái nhà tương lai của những người bạn. Lâm nhớ bức vẽ và một đoạn thư: “… Mai sau cái đời nhà văn sẽ khá. Chúng ta sẽ có một khu đất và những ngôi nhà. Anh hãy nhìn xem: cái nhà cao cao ngói đỏ là nhà đọc sách của hai chúng ta. Cái nhà ngoài sẽ là của riêng anh. Cái nhà thứ hai để tiếp đón bạn hữu những ngày chủ nhật. Cái nhà lấp sau cây và chuồng chim bồ câu đó chính là nhà tôi ở (vì tính tôi thích tĩnh mịch) Chúng ta sống với nhau thú lắm. Ngoài cổng của khu nhà sẽ đề mấy chữ: 'Vạn cổ thanh xuân trang’ hay 'Biệt thự bằng hữu’ gì đó…” Một hôm, đứng trước cửa một bệnh viện chờ giờ mở cửa để khám bệnh tê thấp kinh niên, Phùng tả cái hạnh phúc tương lai ấy như đã có thật. Phùng đang nghiên cứu viết một bài đại luận: “Thơ với nhân loại”.



Ý nghĩ về Phùng trong trí Lâm lôi kéo hình ảnh một số bạn thơ khác. Linh, nhà thơ quê ở cửa biển Thần Phù, lòng lúc nào cũng sôi lên như biển động. Anh ta thuê được một cái nhà cách Hà Nội năm cây số, ngày nào cũng đi bộ bốn lần “để nhớ những ngày kháng chiến”. Sau khi bán cái bút máy nho nhỏ xinh xinh có khắc tên người tình cũ, anh ta ân hận mãi và có làm một bài thơ thuộc loại lâm ly. Đó là trường hợp hãn hữu. Thường thường anh ta làm những bài thơ thuộc loại “sù sì” chuyên môn đả cái xấu để xây dựng cái tốt. Linh là bạn thân của một nhà thơ “sù sì” khác. Anh này tên là Trang, có bà mẹ mấy thời đại sống nương náu ở gần cái cái cống mà anh gọi là “cống Long Tu” (cống này đã được sửa lại, đời bà mẹ cũng mát mặt hơn xưa). Hồi Pháp thuộc, Trang đặt cho cống ấy một cái tên đẹp đẽ là “ Đầm Hoa sen” lấy ý rằng: sen chẳng nhuốm bùn. Trong nhóm bạn hữu này lại có Bằng nhà thơ của miền Nam, nhà thơ ngọt ngào của nhiều thành phần phụ nữ; Lý, nhà thơ của cửa biển Hải Phòng, bạc tóc vẫn có số đào hoa…



Nói cho văn vẻ thì những người ấy “như mây trôi bốn phương trời tụ lại”. Đời họ có nhiều chuyện. Họ mang nhiều tâm tư. Trong tâm tư mới còn vướng cả những tâm tư cũ. Về loại này có anh đã làm đến năm tập rồi tự ý đem đốt phăng. Thỉnh thoảng cũng hơi tiếc. Từ tập thứ sáu thì không đốt. Mở đầu có câu:



Tứ thơ giờ ấm hơi người…



Bọn họ cũng có những thói xấu, nết tốt như tất cả mọi người. Họ cũng biết hằm hè bực dọc, lo tính lặt vặt nhưng lại nhiều lúc đại lượng, đáng yêu. Cuộc đời đối với họ có khi quý chuộng, có khi quên lãng hay lạnh nhạt. Chế độ của chúng ta đang cố gắng vun trồng họ, họ cũng đem tâm huyết tưới bón cho chế độ. Kẻ địch dẫu có núi vàng cũng chẳng cám dỗ nổi họ. Ở họ chẳng có gì lạ, chỉ có một cái đáng kể là sự say mê. Ngày xưa, có nhà bác học thiêu ra tro cả nhà cửa để làm thí nghiệm một thứ men sứ. Những người nghệ sĩ cũng đã tự tay mình thiêu ra tro nhiều cái lợi lộc riêng tây để thí nghiệm sự sáng tạo nghệ thuật. Có thể thành công rực rỡ, có thể có sự thất bại đắng cay. Sự nghiệp sáng tạo vẫn quyến rũ họ như con mắt của người yêu. Bây giờ, bọn người ấy vẫn còn giữ cái thói quen chẳng biết tự bao giờ là sống về đêm. Ban đêm cái phần đẹp nhất của con người họ hiện lên, ghi lại, toả ra và có lẽ không bao giờ mất. Ngày nay, nào ai biết Ban-dắc nợ bao nhiêu món, cáu kỉnh bao nhiêu lần với người xung quanh; Nguyễn Du nhịn đói mấy bữa, lang thang những nơi nào. Nhưng Nguyễn Du, Ban-dắc còn để lại những công trình sáng tạo. Ấy là cái phần đẹp nhất của họ, cái ngọn lửa truyền từ đời này sang đời khác làm cho con đường đi của nhân loại sáng sủa ấm áp thêm. Những người nghệ sĩ Việt Nam của thời Dân chủ Cộng hoà cũng có cái hoài bão đem ngọn lửa ấy truyền đi mãi mãi, chói lọi hơn cả những thời trước. Ban đêm thường họ ngồi âm thầm, dùi mài làm việc giống những đạo sĩ thời cổ ngồi luyện đan. Có khi họ nhắm mắt mà chẳng ngủ, trằn trọc, khắc khoải hơn những người tương tư. Đầu họ bốc lửa, bốc lửa. Người họ tưởng chừng cao lớn hơn lên, vượt qua những gian gác xép, những cái ga-ra, những mái nhà thấp… Nghĩ đến đây chợt Lâm đứng bật dậy đèn. Tiếng còi tàu đêm gợi xa xôi. Tiếng chuông đồng hồ hàng xóm thủng thẳng khoan thai. Gió gần về sáng mát rợi làm cho Lâm tỉnh táo. Anh lẳng lặng đến bên giường, vén cánh màn lên, đứng một lúc lâu nhìn vợ con ngủ. Anh kéo tấm chăn nâu đắp kín ngực cho thằng bé đang ho. Anh tự hứa: hôm rằm tháng Tám phải mua cho lũ trẻ mấy con giống bằng bột. Con Nguyệt thích chơi cá vàng, thằng Hồng thích chơi con thỏ trắng… Lâm thấy vui vui nghĩ rằng lũ con anh sẽ có đồ chơi. Chủ nhật sắp tới, một nhóm bạn hẹn đến uống trà, ăn bánh và phê bình tác phẩm. Lâm giở quyển sổ tay bìa màu gụ bóng, nắn nót viết một dòng chữ bằng mực đỏ: Nhất định đêm thứ Bảy viết xong cái truyện ngắn.



Tháng 9-56



***





Quang Dũng



Những cô hàng xén

(Một bài thơ về quê hương cũ)



Rặng vải ven sông Đáy

Um tùm bóng cuối xuân

Sông cạn phơi lòng cát trắng

Người qua nâng gánh ôm quần

Những gánh hàng xén bồ căng

Má hồng thôn nữ.

Thoảng mùi thơm quê mùa

Hơi thở ấm trầu răng đen rưng rức

Mẹ già nón nhẹ bay tua.



Rặng vải um tùm quả chín

Mòng mọng căng lên sức sống chan hoà

Cuối xuân mây lạnh

Đầu hạ gió đưa

Tu hú phương nào bịn rịn



Tu hú tu hú

Mùa vải ven bờ

Nơi quê hương trời xưa ấu thơ

Mái tóc em vừa vương hương bưởi

Chân nhẹ nhàng còn dính phấn hoa

Thôn nào cô mới đi qua

Gà vừa gáy sáng

Thắt lưng đào bên sông yên lặng

Kĩu kịt đôi bồ

Các cô hàng xén ngày xưa.



Các cô hàng xén ngày xưa

Gương tròn bỏ túi, tóc dắt hoa nhài

Hay ngậm ngùi xem Nhị độ mai

Gấp trang sách lại thương đời Cúc Hoa

Trong bồ đủ loại Tây Du

Chinh Đông-Chinh Tây

Bia sơn dầu gáy mốc

Đôi cuốn Thạch Sanh

Một chồng Trê Cóc

Khi gió mùa xuân

Xanh cành tươi lộc

Bói trang Kiều xem chuyện nhân duyên.



Tiếng trống trường xa đã điểm

Đường về trường huyện xôn xao

Các cô đôi má ửng đào

Mấy anh lớp nhất lối nào vừa qua

Hàng các cô:

Ngòi bút “ba la”

Giấy Tây, phẩm tín

Mươi bó quản bút

Thước kẻ tẩy chì

Các anh sắp đến mùa thi

Lúa đồng cũng sắp đến kỳ vàng hoe.



Rặng vải quanh đường về

Quả ngả màu hoàng hôn đỏ sẫm

Sông hiu hiu chiều

Gió mát ven đê

Các cô hàng xén gánh về

Tiếng cười khúc khích

Tu hú im rồi

Vàng nghiêng nắng chếch

Các cô về qua sông

Sông Đáy xuôi dải cồn cát mênh mông

Làng bên bờ xanh mía

Thoảng mùi hoa lan hoa nhài nhè nhẹ

Tiếng nói xa dần

Chiều tím cuối mùa xuân

Sông nước trong xanh

Những bước chân tròn cát mịn



Hàng cau chiều phất phơ

Diều sáo vang lên trăng sáng tỏ

Ngõ làng rộn tiếng cười reo

Chó sủa

Hoa lan vào ngõ tối còn thơm

Các cô hàng xén về làng,



Các cô hàng xén về làng

Mai lại đi từ tối đất

Cần cù nuôi mẹ nuôi em

Những cô hàng xén tên xinh

Đẹp như ca dao nước Việt







***





Phan Khôi



Ông bình vôi



Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có bình vôi.



Theo như tôi biết, ở vùng quê chúng tôi, có hai thứ bình vôi. Đều bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa, cho nhà trung thường dùng; một thứ hình tròn mà đít bằng, trên có quai xách, miệng ở về một bên, toàn thân tô màu lục hoặc màu vàng, cho nhà sang dùng. Cả hai đều để đựng vôi trong lòng nó. Nhưng mỗi khi cho vôi vào, người ta lại cũng dùng vôi đắp cái miệng nó cho cao lên.



Nhà tôi, hồi bà nội tôi còn sống, có một cái bình vôi hạng sang ấy. Mỗi khi mua vôi ở chợ về, bà tôi ngồi tỉ mỉ lấy cái chìa quệt vôi nhét vào miệng nó, gọi là “cho ông bình ăn”. Và lâu lâu đắp thêm cái miệng nó một lần, hoá nên cái miệng càng ngày càng chêu vêu ra.



Thứ bình vôi thường, dùng chìa bằng tre: nhưng thứ bình vôi sang, bao giờ cũng dùng chìa bằng sắt, ở thân cái chìa, đôi khi lại có đeo một lưỡi dao để rọc trầu.



Nhà khác thế nào tôi không biết, còn nhà tôi, tối lại, bà tôi cứ nhớ rút cái chìa ra để ra một nơi khác. Làm như thế, bà tôi cắt nghĩa rằng “ông bình” linh lắm, đêm hôm có kẻ trộm đạo, “ông” sẽ mách cho mình, mà nếu để cái chìa lấp cái miệng thì không mách được.



Tôi nói “nhà tôi có một cái bình vôi”, không đúng. Nói đúng là từ hôi tôi còn nhỏ cho đến năm tôi hai mươi lăm tuổi, bà tôi chết, nhà tôi có ba cái bình vôi kế vị nhau. Bởi vì dùng lâu ngày, trong lòng đầy vôi khô cứng, miệng nó vì cứ đắp nên tum húm lại, không dùng được nữa, phải mua cái khác.



Lúc đó nhà tôi có một cái tran thờ Tam vị: ở giữa là Phúc đức chính thần, hai bên là Thổ công và Táo quân. Hễ cái bình vôi nào bị thải ra thì bà tôi bảo đem đặt lên cái tran ấy, thờ nhân thể.



Sự thờ phượng như thế, không phải chỉ riêng một nhà tôi đâu. Cả làng, nhà nào có bình vôi thải ra, cũng đều đem đặt trên các tường thành đình hoặc chùa; như thế, người ta cho rằng thờ “ông bình” đó.



Cái bình vôi, tại sao lại gọi bằng “ông”, đọc từ đầu đến đây, bạn đọc đã biết. Ở vùng quê chúng tôi, mà có lẽ cả nước Việt Nam cũng vậy, vật gì nó có thể làm hại mình được thì gọi bằng “ông”, vật gì nó to hay sống lâu năm thì cũng gọi bằng “ông”.



Con cọp ăn thịt mình được, gọi bằng ông Cọp, con khỉ phá hoại hoa màu của mình được, gọi bằng ông Trưởng; con chuột, cắn quần áo của mình được, gọi bằng ông Tí. Cái đầu rau, dùng năm mười năm mới thay cái khác, gọi bằng ông Núc; cái che, to, đường kính của nó có khi gần đến một mét, gọi bằng ông Che [1] . Người Việt Nam về sau thế nào chưa biết, chứ về trước, hễ vật gì làm hại được hoặc lớn hoặc nhỏ, vật gì sống lâu và to xác thì đều gọi bằng “ông” để tỏ lòng tôn kính, sùng bái.



Tôi có phạm một cái tội hồi mới mười tám tuổi, bây giờ tôi xin tự kiểm thảo và thú nhận.



Năm tôi mười tám tuổi, tôi không tin như bà nội tôi tin nữa. Một đêm mùa hè, gió nam như bão, sáng trăng mờ mờ [2] , tôi rủ mấy thằng bạn lứa tuổi với tôi đi dọc đường cái làng, đi qua đình vào chùa, bao nhiêu “ông bình vôi” thờ trên tường thành, chúng tôi đều hất một loạt xuống đất cả. Sao lại làm như thế? Chúng tôi cứ làm như thế, không cần có lý luận. Nhưng, vài hôm sau, trở lại xem, không biết là do tay ai, thấy đều đặt lại tề chỉnh trên tường thành.



Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một mình tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng có thể làm thế cả. Nếu ngày nay tôi phải tự kiểm thảo thì lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi.



Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cũ rũ trên tran hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng ông.



Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ nầy cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt:



Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi

Càng sống càng tồi,

Càng sống càng bé lại.







***





Trần Duy



Những người khổng lồ

(Gửi những người cộng sản chân chính)



Tôi xin kể các bạn nghe một câu chuyện cổ. Ngày xưa quả đất chưa có người ở, chỉ toàn là cây cỏ núi đá, sông, hồ biển rộng mênh mông. Thú dữ rất nhiều và ma vương quỷ dữ cũng nhiều. Lúc Thượng đế cho những con người đầu tiên xuống, con người hết sức khổ sở. Đời sống ở quả đất bấy giờ chỉ toàn là nước mắt và oán thán. Tiếng khóc tụ lại thành khí, nước mắt bốc lên thành mây dâng lên tận thiên đình. Ngọc Hoàng lo lắng, đau xót vô cùng. Thiên đình lo âu chẳng kém. Một vì sao tâu:



“Sức người có hạn, mà ma quỷ thì uy lực vô cùng, vậy nên phái thêm người nhà trời về giúp sức.”



Ngọc Hoàng bèn triệu tập hội nghị Thiên đình, ra chỉ nặn thêm một đoàn khổng lồ cho xuống hạ giới giúp sức loài người.



Thế là chẳng bao lâu, nặn xong lũ khổng lồ, mình cao trăm trượng, tay chân to lớn, sức lực vô địch. Ngọc Hoàng hà hơi sống, lũ khổng lồ cử động, Thiên đình mừng rỡ… Chỉ nay mai hạ giới sẽ chẳng còn tiếng khóc và nước mắt.



Đoàn khổng lồ xuống hạ giới: bạt rừng lấp bể, nhổ cây vớt rong, bóp vụn đã như nghịch bột, long trời chuyển đất. Đoàn khổng lồ vui sướng và tin chắc đã làm vừa lòng trời và thuận lòng người.



Nhưng một hôm Ngọc Hoàng mở cửa nhìn về hạ giới… Cớ sao tiếng khóc vẫn còn?



Ngọc Hoàng phán hỏi Thiên đình, Thiên đình ngơ ngác nhìn nhau. Có vì sao tâu:



“Việc hạ giới nên triệu Táo quân về đầu đuôi sẽ rõ.”



Mấy hôm sau Táo quân về. Vừa bước tới sân chầu, Táo quân đã vập đầu xuống bệ khóc nức nở. Ngọc Hoàng hỏi:



“Táo thần chưa tâu báo, đã khóc lóc, làm loạn cả quần tiên là cớ làm sao?”



Táo quân vẫn khóc. Ngọc Hoàng nói:



“Táo quân quên rằng quần tiên không có tiếng khóc, và Thiên đình chỉ có tiếng cười và vũ nhạc hay sao?”



Táo quân tâu:



“Hạ thần vẫn muốn như vậy, nhưng trọng trách của Ngọc Hoàng giao cho hạ thần là sống với loài người, chia vui sẻ buồn với họ, thần nỡ lòng nào cười múa lúc loài người còn tiếng khóc và oán hờn?”



Ngọc Hoàng hốt hoảng:



“Thế người khổng lồ hạ giới chẳng làm nên gì ư?”



Táo quân tâu:



“Người khổng lồ đã làm đầy đủ sứ mệnh của Thiên đình giao cho là sát phạt ma vương hổ báo, rẫy rừng, khai sông, lấp bể…”



Ngọc Hoàng hớn hở:



“Thật là tin vui… Nhưng cớ sao khanh còn khóc?"



"Tâu Ngọc Hoàng, tại vì loài người còn khóc."



Ngọc Hoàng chép miệng:



"Nhân thế sinh kiếp trầm luân có khác! Buồn cũng khóc, mà vui cũng khóc, ta biết làm thế nào?”



Táo quân tâu:



“Tâu Ngọc Hoàng, buồn thì phải khóc, nhưng mấy khi vui mà lại khóc?”



“Thế hạ giới chưa vui ư? Ma quỷ tan rồi, hùm beo quét sạch, rừng núi san bằng, loài người thảnh thơi, chỉ khác Thiên đình ở chỗ chưa được mùa xuân muôn thuở, tràng sinh bất tử mà thôi.”



Táo quân trả lời:



“Quả thật nhân thế nhờ người nhà trời mà thôi khóc cái hoạn nạn do ma vương quỷ dữ gây ra, nhưng chưa kịp cất lên tiếng cười thì nhân thế lại bắt đầu buồn về một ít hoạn nạn mới do…”



Ngọc Hoàng sốt ruột hỏi:



“Do ai gây ra?”



“Tâu Ngọc Hoàng… Do chính người nhà trời gây ra.”



Ngọc Hoàng và Thiên đình sửng sốt:



“Cớ sao?”



“Vì người nhà trời bạt núi, khai sông, quên mất loài người bé nhỏ sống gần sông và cạnh núi. Những bản tình ca vừa chớm nở, những hoa bướm, những đôi lứa trẻ mới yêu nhau, những tình thương nỗi nhớ vừa nhen nhúm, có một số người khổng lồ trông thấy đã xéo bừa lên, giày nát…”



Một vì sao hỏi:



“Loài người sống chính nhờ cơm, gạo, khí trời, chứ nhờ đâu tình ca, và hoa bướm.”



Ngọc Hoàng phán:



“Khi ta tạo con người, ta đã thổi vào người chúng cùng với khí nóng và máu, tình thương nỗi nhớ, oán ghét giận hờn, tiếng cười và nước mắt… Những thứ ấy sẽ sống đời đời kiếp kiếp với con người. Không tôn trọng những thứ ấy trong con người là không tôn trọng con người…”



Táo quân lại tâu:



“Vẫn cái số người khổng lồ ấy, không nghe được tiếng khóc, và tiếng cười; Họ nhổ vụt cây chết ma vương hổ báo, nhưng trong khi đánh vung vãi sướng tay, loài người cũng chết lây. Xác hoa bướm nằm cạnh xác ma vương hổ báo và xác người!”



Ngọc Hoàng đau xót nhìn Thiên đình. Thiên đình im lặng.



Một vì sao tâu:



"Nên cho đoàn khổng lồ về để biết tường gốc ngọn."



Đoàn khổng lồ về bái yết. Ngọc Hoàng thịnh nộ:



"Các người công ít tội nhiều, cớ sao đạp xéo cả lên tính mạng con người?"



Đoàn khổng lồ một số ngơ ngác nhìn nhau.



Ngọc Hoàng đập bàn:



"Sao dám đạp cả lên tâm hồn và cuộc sống con người?"



Số khổng lồ ấy càng ngơ ngác nhìn nhau.



Ngọc Hoàng vẫn chưa nguôi:



"Sao giẫm cả lên lời ca, tiếng cười và hoa bướm dưới trần thế?"



Số khổng lồ ấy lại càng ngơ ngác nhìn nhau.



Ngọc Hoàng nhìn đoàn khổng lồ:



"Và các người không đau xót ư?"



Vẫn số khổng lồ ấy ngơ ngác nhìn nhau, nhìn Ngọc Hoàng và Thiên đình… Nhất là những giọt nước mắt của Táo quân.



Sao Thái Bạch bước ra tâu:



"Cứ xem khí mạo, thì biết trong số khổng lồ có những người có thể mà không có tâm, không biết tiếng cười và tiếng khóc, thần e rằng phủ tạng họ thiếu một thứ gì."



Ngọc Hoàng truy hỏi. Nam tào Bắc đẩu cùng với La hầu và Kim tinh xét lại các sổ, đứng ra tâu:



"Đoàn khổng lồ lúc được chỉ nặn ra, chỉ cốt lấy to, nên hết nguyên liệu để nặn tim, cho nên trong đoàn khổng lồ phái xuống hạ giới có một bọn không tim."



Ngọc Hoàng biến thần sắc:



Một vì sao hỏi:



"Thiết nghĩ đoàn khổng lồ chỉ đánh ma vương quỷ dữ cần gì tim?"



Ngọc Hoàng trả lời:



"Nhưng ta tạo nên con người, con người đã có óc phải có tim. Loài người của ta cần sống giữa hoa đẹp hương thơm."



Vì sao lại tâu:



"Nhưng bộ óc to, cánh tay lớn chẳng đủ rồi ư?"



Ngọc Hoàng phán:



"Nhưng cánh tay lớn của một người không tim sẽ đập nát công trình của bộ óc hắn xây dựng."



Khi nhìn về hạ giới, nghe tiếng khóc và nước mắt vẫn còn, Ngọc Hoàng chép miệng phán bảo với đoàn khổng lồ:



"Hạ giới vẫn còn cần các ngươi, vì quỷ dữ ma vương vẫn còn hoành hành; Nhưng các ngươi phải biết yêu quý con người, tôn trọng quyền sống của họ. Quả đất là của con người, và sửa sang quả đất cũng là để cho con người. Làm công việc gì mà con người phải khổ, còn khổ thì dù công việc ấy có thành công cầm cũng như là thất bại. Chỉ có trí óc mà không có tim thì không thể sống được với loài người."



Sau lời chỉ giáo ấy, đoàn khổng lồ lại kéo nhau về hạ giới, lại như cũ, phá núi ngăn sông, tát bể, làm hì hục kỳ cho quả đất quang đãng mới thôi.



Ngọc Hoàng lại mở cửa nhìn về hạ giới: Cớ sao hãy còn tiếng khóc? Ngọc Hoàng phán hỏi Thiên đình. Có vì sao tâu:



"Lại xin cho triệu Táo quân về."



Táo quân lại lên chầu trời.



Ngọc Hoàng hỏi:



"Tiếng khóc vẫn còn ở hạ giới ư?"



Táo thần tâu:



"Nhân thế biết lượng lớn của Thiên đình, ăn chay nằm đất để tạ ơn Thượng đế, nhưng vẫn còn nước mắt!"



Ngọc Hoàng nói:



"Ta muốn ngăn những giọt nước mắt ở hạ giới phải làm thế nào?"



Táo quân tâu:



"Muốn ngăn được nước mắt ở thế gian, thì trước hết phải biết thu phục được lòng người."



Một vì sao hỏi:



"Thế nào là thu phục được lòng người?"



Táo thần đáp:



"Thu phục được lòng người là phải yêu người. Yêu người là biết được cái vui mà thật vui chung với người, đau xót trước cái đau xót của thiên hạ. Việc đáng vui nhưng thiên hạ chưa vui được cũng chớ bắt phải cười. Việc đáng khen, nhưng thiên hạ chưa rõ được cũng chớ bắt phải khen. Dù là ý trời, nhưng chưa được lòng người, ý trời vẫn sai; dù chưa phải ý trời, nhưng thuận lòng người thì vẫn cứ xem đó có là ý trời. Dù việc có hay nhưng cũng đừng cưỡng nhân tâm lúc nhân tâm chưa thuận. Lòng người lúc đã thuận rồi, không bảo vẫn cứ nghe, muôn người như một xô núi cũng đổ, tát bể cũng cạn dù có cấm hát cấm cười, người đời vẫn cứ cười cứ hát… Lúc bấy giờ nước mắt tự nó nó sẽ tan đi."



Ngọc Hoàng nhìn các vì sao. Vì sao ban nãy lại hỏi:



"Thế nào là cưỡng nhân tâm? Táo thần không hay rằng dụ chỉ của Thiên đình đã xoá bỏ những bất công ở hạ giới?"



Táo quân đáp:



"Cưỡng nhân tâm không cứ dùng gươm tên mà uy nạt mới cho là cưỡng. Bất công ở hạ giới như nước mạch thấm vào lòng đất đời đời kiếp kiếp, chẳng phải phút chốc vì một dụ chỉ mà nó tan đi. Bất công ở hạ giới là con quỷ già luyện kiếp, thiên hình vạn trạng, lúc ẩn lúc hiện, lúc to lúc nhỏ, lúc trắng lúc đen, lúc mặc áo cà sa, lúc mặc áo giấy, cười nói như người. Lúc người suy tôn thần thánh thì nó thành thần thành thánh để được suy tôn, lúc người khiếp sợ ma vương thì nó thành ma vương để uy nát, không chừng nó còn diện cả hia ngọc, hốt vàng đứng lẫn giữa các vì sao đây cũng có. Nếu Thiên đình còn cho rằng chỉ vì một dụ chỉ của Thiên đình mà hạ giới xoá bỏ được bất công, thì tiếng khóc và nước mắt ở hạ giới vẫn cứ còn đời đời kiếp kiếp."



Ngọc Hoàng nói:



"Nhưng ta đã phái người của Thiên đình xuống."



Táo quân đáp:





"Tâu Ngọc Hoàng, người của Thiên đình phái xuống có kẻ có óc có tim, thì họ ở đâu hoa thơm và tiếng cười ở đấy. Nhưng cũng có những người thiếu tim!"



Các vì sao hỏi:



"Như vậy sẽ có hại gì?"



"Thì số người nhà trời thiếu tim ấy sẽ chẳng được lòng người, ngược lại lòng thiên hạ, sẽ cưỡng nhân tâm, và sinh linh còn đồ thán, hờn oán Thiên đình."



Táo quân lại tiếp:



"Nước mắt do ma vương quỷ dữ gây ra thì loài người hợp sức với người nhà trời sẽ diệt được ma vương quỷ dữ. Nhưng nước mắt do người nhà trời gây ra, lẽ đâu loài người lại dám xúc phạm đến Thiên đình mà đụng đến người nhà trời ư? Do đó nước mắt lại ngấm ngầm chảy, tiếng khóc lại càng thầm lặng rền rĩ hơn. Nhưng đáng thương hơn cả vẫn là cái số khổng lồ không tim ấy vẫn tưởng mình đã hoàn toàn mang lại tiếng cười và niềm vui cho hạ giới!"



Ngọc Hoàng thở dài:



"Ta đã mấy lần phủ dụ…"



Táo quân đáp:



"Không biết thì dạy bảo sẽ biết. Không thấy thì chỉ giáo sẽ thấy. Không quen thì làm mãi sẽ quen… Nhưng không tim thì sách vở nào, lời lẽ nào, chỉ dụ nào có tạo nên tình cảm được!"



Ngọc Hoàng bóp trán suy nghĩ. Các vì sao im lặng. Ngọc Hoàng quay hỏi Thiên đình.



"Chư khanh nghĩ thế nào?"



Các vì sao tâu:



"Đoàn khổng lồ là đạo lính của Thiên đình phái về giúp loài người, nhất thiết không bỏ được; Máu thịt để nặn thành tim cho số khổng lồ ấy cũng chẳng còn. Hay là Thiên đình tạo thêm cho hạ giới thật nhiều hoa, nhiều bướm, nhiều tiếng hát, tiếng cười!"



Một số khổng lồ bước ra tâu:



"Nếu chúng ta làm như vậy chẳng khác nào chúng ta tạo thêm hoa thêm bướm tiếng hát và tiếng cười để cho lũ không tim ấy giẫm nát."



Ngọc Hoàng hỏi Táo quân:



„Vậy theo ý khanh nên như thế nào?"



Táo quân đáp:



"Nên làm thêm tim cho số khổng lồ ấy."



Thiên đình đồng thanh:



“Nhưng cạn sạch nguyên liệu.”



Táo quân trả lời:



“Nếu có những người khổng lồ đủ tim đủ óc thì đó là một điều hay, bằng không thà nặn những người nhà trời chỉ bằng con người hạ giới thôi, mà quả tim thật to; Bàn tay tuy có nhỏ, sức khoẻ tuy có yếu, bước đi tuy có ngắn, nhưng nếu nó có tim, nó sẽ sống cùng điệu với loài người, nghe được tiếng thở dài, và thấy được cái mỉm cười của họ, lúc bấy giờ bàn tay nó sẽ không bóp chết loài người cùng mà quỷ, sức khoẻ nó sẽ không đè chết loài người cùng hổ báo núi cây, bước chân nó sẽ không giầy xéo lên con người cùng với tình yêu và hoa bướm. Làm được như thế là thuận được với lòng người, thiên hạ hỗ trợ, thì mới trọn được ý trời; Và lúc bấy giờ hạ giới sẽ là nơi Thiên đình thứ hai, đầy tiếng cười và vũ nhạc…”



Ngọc Hoàng gật gù, nhìn Thiên đình cùng cho lời của Táo quân là phải…



Số khổng lồ có tim cũng gật gù nhìn thương hại lũ khổng lồ không tim.



Còn hạ giới thì hoan hỉ chờ mong ngày Ngọc Hoàng làm thêm tim cho số khổng lồ ấy, nhất là những người mới bắt đầu biết yêu nhau!...





----------------------------------------------------------------

[1]Che, dùng để dạp mía, ở Bắc gọi là đội hàn.

[2]Gió nam là thứ gió nóng ở Trung bộ, đêm có gió nam thì trăng kém sáng.







Nhấn vào đây F để xem tiếp
















Tags: văn
Prev: Giai phẩm mùa Thu - Tập I (Phần tiếp)
Next: Giai Phẩm Mùa Thu ( Tập II tiếp)