HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Monday 11 November 2013

SƠN TRUNG CHÍNH LUẬN IV

 
  16.CHÍNH SÁCH CỦA CỘNG SẢN ĐỐI VỚI PHẬT GIÁO


Mục tiêu của cộng sản là độc chiếm quốc gia và bá chủ toàn cầu. Trước đây Liên Xô và nay là Trung Cộng đang vùng dậy tiêu diệt các nước , mà cụ thể và trước tiên là các nước lân cận. Tây Tạng, Bắc Hàn, Mông Cổ, Việt Miên Lào và châu Phi đã và đang nằm trong miệng con cọp đói Trung Quốc. Có thể Trung Cộng, Bắc Hàn, Liên Xô và các nước Trung Đông cực đoan đang chuẩn bị cuộc thế chiến tấn công Âu Mỹ. Cuộc tấn công về quân sự chưa biết bùng nổ lúc nào, nhưng cuộc chiến tranh kinh tế đang khởi đầu.


Đề tài hôm nay là nói về mục tiêu gần của cộng sản độc chiếm quốc gia. Trong một quốc gia, ngoài đảng cộng sản, không một thế lực tôn giáo, chính trị nào được tồn tại. Nếu có thỏa hiệp chỉ là tạm thời, là khi cộng sản còn yếu. Khi đã có thế lực, cộng sản sẽ giết hết những ai mà chúng nghi ngờ, dù những người này theo chúng, hoặc không có tội tình gi. Cải cách ruộng đất ,Cải tạo công thương nghiệp, Chỉnh đốn đảng một là cướp tài sản của nhân dân, hai là giết những ai chúng muốn giết để đem lại độc quyền cho độc đảng. Các lãnh tụ tôn giáo, các lãnh tụ chính trị, các trí thức đều phải quy hàng cộng sản, nếu không sẽ bị tiêu diệt. Việt Nam Quốc Dân đảng, Đại Việt Quốc Dân đảng, Hòa Hảo, Cao Đài, Thiên chúa giáo, Tin Lành từ trước đến nay đều bị bách hại là vì tham vọng độc chiếm của cộng sản. Để thực hiện âm mưu độc quyền toàn trị, cộng sản đã thực hiện nhiều chính sách như chính sách khủng bố, chính sách lợi dụng và chính sách phá hoại. Chính sách này thông suốt từ Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam.

I. CHÍNH SÁCH KHỦNG BỐ

Ngay từ tháng 8-1945, đức Huỳnh giáo chủ và các tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài, và các đảng viên cộng sản theo Trotsky đều bị Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn trong Nam tàn sát, còn các đảng Việt Nam Quốc Dân đảng, Đại Việt Quốc Dân đảng đều bị Võ Nguyên Giáp tiêu diệt trong vụ Ôn Như Hầu (Hà Nội).Các ngài Thiện Minh, Quảng Độ, Huyền Quang, Không Tánh, Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi. . . lớp bị giết, lớp ngồi tù sau 1975.Tại Tây Tạng, các nhà sư bị đánh đập, bỏ tù và giết hại.

( Trung cộng đánh các sư Tây Tạng)


(Công an theo dõi sinh hoạt các sư Tây Tạng và tra tấn thành viên Pháp Luân công tại Trung Quốc)



(Công an giả sư tại Tây Tạng)

II.CHÍNH SÁCH LỢI DỤNG.


Mậc dầu tôn giáo bị thù ghét, cộng sản vẫn nhận thấy cần lợi dụng tôn giáo vì lợi ích của họ.


1. Ẩn náu. Chúng khoác áo tu hành hay làm nhân viên phục vụ tại các cơ sở tôn giáo để che mắt nhà cầm quyền.

2. Lợi dụng: Họ cậy nhờ các nhà tu hành đưa vào các cơ quan nhà nước như các gián điệp cộng sản tại dinh Độc lập suốt thời Ông Diệm cho đến 1975.

3. Tuyên truyền: họ dùng bọn tay sai hoặc công an giả sư để lừa dối đồng bào và quốc tế.

4. Kinh tài. Ông Phạm Minh Mẫn, Thanh Từ và Trí Dũng già 80-90 vẫn ra hải ngoại đem tiền về dâng cộng sản dưới chiêu bài từ thiện và xây cất cơ sở tôn giáo.Ngày nay, cộng sản xây chùa chiền, tu sửa đền miếu, nhà thờ cũng do mục đich kinh doanh du lịch và xin tiền Unesco mà bỏ túi.


III. CHÍNH SÁCH PHÁ HOẠI


Trước 1975, chúng triệt hạ các chùa chiền nhà thờ, lấy các nơi thờ tự làm ủy ban nhân dân, nhà kho Hợp Tác xã, hoặc giở làm cầu đường, hầm trú ẩn. Chúng bắt người tu hành vào quân đôi hay lao công chiến trường hay lao động trong các nông trường. Chúng khủng bố, phê bình những ai theo tôn giáo, chúng cấm họ theo đại học
 (Công an Trung Cộng giả sư tại Trung Quốc)
http://z15.invisionfree.com/qghcoz/index.php?showtopic=751


. Chúng đối xử bất công với những ai có tín ngưỡng.
Chúng dùng bọn quốc doanh trong đường lối triệt hạ tôn giáo. Ngoài ra chúng dùng công an giả sư để kìm kẹp chư tăng, và phá hoại hình tượng thiêng liêng của Phật giáo.
Chúng còn mở đại học và Cao đẳng Phật giáo, cho hàng ngàn thanh niên trong đó có công an để làm sư giả, đóng chốt trong các chùa chiền quốc nội và hải ngoại. Chúng cho các công an này vận tăng bào nhưng làm những hành vi phản tăng quy như đi chơi với gái, ăn mặn, uống rưọu công khai, xem đá bóng, đón tiếp các nữ giai nhân. . . Mục đích của chúng là làm cho quần chúng hiểu lầm họ là sư mà không nghĩ đó là cộng sản giả sư, rồi sinh ra chán ghét Phật giáo, xa lánh lánh Phật giáo.


Trước và sau 1975, chúng ẩn nấp trong các nơi tu hành để gây tiếng xấu cho Phật giáo. Tại Tây Tạng cũng như Việt Nam quốc nội và hải ngoại dùng đã chiếm đóng các chùa chiền, hãm hại các vị tu hành không theo chúng. Các vị sư và cư sĩ không theo chúng như Huyền Quang, Quảng Độ, Không Tánh, Chánh Lạc, Viên Lý, Võ Văn Ái. . . trong thực tế đã và đang trải qua những cơn khủng bố, vu khống và phá hoại của bọn cộng sản và tay sai như nhóm Già Lam, Liên Châu, Về Nguồn. . ..
Tuy cộng sản phá hoại là vậy, Phật giáo Thống Nhất vẫn tồn tại. Tại Trung Quốc dân chúng đêm đêm vẫn đọc chú Đại Bi, và ngày ngày luyện Pháp Luân công.

Một ngày không xa, Phật giáo sẽ cùng các tôn giáo bạn lật đổ bạo quyền cộng sản để giành lại độc lập và tự do cho tôn giáo và dân tộc.


17.CẢM NGHĨ VỀ HAI BỨC THƯ CỦA ÔNG NHẤT HẠNH

Khổng tử dạy chính danh. Vua phải yêu dân, trọng kẻ hiền. Tàn ác như Kiệt , Trụ thì không thể gọi là vua. Phật dạy chúng ta trọng tam bảo nhưng những ác tăng, theo quân ác gian thì không xứng được tôn kính và cúng dường

Trong kinh điển tạng Pali, Phât dạy:
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn. (Tăng Chi. chuong3. 26-Cần phải thân cận).

Cộng sản bách hại tôn giáo, phản quốc, hại dân nên những ai theo cộng sản, nhất là những tín đồ các tôn giáo, những kẻ tu hành, đều không phải là người tốt ngoại trừ một số người bị cưỡng bách hoặc lầm lỡ mà theo cộng sản.Tôi không coi những người theo Cộng Sản là sư mặc dù trước đây họ quy y tam bảo và nay vẫn lấy họ Thích. Trước khi viết về ông Nhất Hạnh, xin trình bày hai bức thư của ông:


I. Thư của giáo sư Nguyễn Lang gửi Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết

Kính thưa Chủ Tịch,
Tôi không biết hiện giờ Chủ Tịch đang ở đâu, nên nhờ mạng Phù Sa gửi một bản thư này đến Chủ Tịch. Đây là một tiếng chuông chánh niệm. Cửa Phật là cửa rộng, những lúc hiểm nguy ai cũng có quyền tới nương nhờ.

Ngày xưa trong Cách Mạng chống Pháp, hàng ngàn chiến sĩ cách mạng đã từng tới ẩn náu tại chùa và các thầy các sư cô luôn luôn tìm mọi cách để đùm bọc và che chở. Bây giờ đây cảnh sát và công an của Chủ Tịch đã đánh bật 400 thầy và sư cô ra khỏi chùa (Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc) và các vị ấy đã tìm tới tỵ nạn nơi một chùa khác (chùa Phước Huệ ở Bảo Lộc).

Hiện thời cảnh sát và công an của Chủ Tịch lại đang vây quanh chùa Phước Huệ buộc các vị xuất gia ấy phải ra khỏi chùa trong đêm nay. Các vị cảnh sát và công an này chắc hẳn không phải là con cháu của Cách Mạng. Tôi xin Chủ Tịch kịp thời ngăn chận hành động trái chống luân thường đạo lý này.
Trân trọng cảm ơn Chủ Tịch.
Tác giả Việt Nam Phật Giáo Sử Luận.”


II.Thư Thiền sư Thích Nhất Hạnh gửi tu sinh Bát Nhã
2009-12-30
Thầy biết rằng trong giờ phút này các con phải đi tản mác nhiều nơi, không còn được ở chung tu tập như một Tăng thân nữa, nhưng thầy tin rằng lá thư này của thầy vẫn tới được với tất cả các con.
AFP photo

Phương Khê Nội Viện, những ngày cuối năm 2009
Thân gửi các con Bát Nhã của thầy,
Ngày Chủ Nhật 20-12-2009 vừa rồi, đại chúng bốn chùa Làng Mai đã tập họp tại Xóm Thượng để làm ngày chánh niệm. Đã sáu tháng nay, chùa Pháp Vân Xóm Thượng vì không có thiền đường nên đã phải tổ chức các khóa tu và các ngày sinh hoạt chánh niệm ở ngoài trời. Hôm Chủ Nhật vừa qua, thiền đường Nước Tĩnh của Xóm Thượng đã được hoàn tất, cho nên đây là lần đầu tiên đại chúng được sử dụng thiền đường trở lại. Thiền đường mới rộng và đẹp lắm, rộng và đẹp hơn thiền đường cũ nhiều.
Các thầy, các sư chú và các cư sĩ ở Xóm Thượng đã cùng nhau tự thiết kế và xây dựng nên thiền đường này, đã làm việc như một Tăng thân, và trong suốt sáu tháng trời đã có cơ hội nuôi dưỡng và làm lớn lên tình huynh đệ. Nhìn vào thiền đường ai cũng thấy được Tăng thân và tình huynh đệ ấy. Mỗi viên gạch, mỗi tấm ngói, mỗi khung cửa đều mang dấu tích của những tiếng cười, những ánh mắt, những bàn tay và những giọt mồ hôi của mỗi người trong đại chúng. Các thầy các sư chú của chùa Sơn Hạ cũng như các sư cô của các chùa Từ Nghiêm Xóm Mới và Cam Lộ Xóm Hạ cũng thỉnh thoảng lên góp công chấp tác một ngày. Thiền đường rất đẹp, nhưng nếu nhìn thiền đường mà chưa thấy được tình huynh đệ của Tăng thân thì vẫn chưa thấy được cái đẹp đích thực của thiền đường.
Chủ đề của khóa tu mùa An Cư Kiết Đông năm nay là Nghệ Thuật Hạnh Phúc, và đại chúng đã học xong được kinh Cát Tường, Kinh Mâu Ni và bài kệ truyền thừa của Pháp Phái Liễu Quán. Đại chúng thực tập câu linh chú thứ năm rất chuyên cần và nhận diện được rất nhiều những giây phút hạnh phúc được sống và được thực tập bên nhau. Những ngày xuất sĩ tổ chức hàng tuần tại Nội Viện Phương Khê đem tới rất nhiều nuôi dưỡng và hạnh phúc cho đại chúng.
Câu linh chú thứ năm nếu ta nhớ thực tập sẽ có hiệu lực tức thời, ai cũng công nhận như thế. Chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, thấy được rằng mình (tuy vậy mà) đang có rất nhiều may mắn (hơn nhiều người khác), là mình có thể mỉm cười và đọc lên câu: “Giây phút này là một giây phút hạnh phúc”, để cho những người đang có mặt cũng trở về được với giây phút hiện tại để được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc như mình.
Thầy rất mong là dù ở đâu, các con của thầy cũng theo dõi được các bài pháp thoại của khóa an cư kiết đông và cùng thực tập theo những chỉ dẫn được đưa ra trong suốt khóa tu. Các con của thầy cần được nuôi dưỡng bằng pháp lạc và sự thực tập mới có thể đi qua được giai đoạn khó khăn này của Tăng thân Bát Nhã. Thầy có niềm tin lớn nơi các con.
Các con đã lớn lên rất mau chóng nhờ những biến cố và khó khăn xảy ra cho chúng ta trong hơn một năm qua, và thầy rất hài lòng với cách thức hành xử từ hòa bất bạo động của các con, từ Bát Nhã tới Phước Huệ. Lịch sử đã ghi nhận rằng với cách hành xử từ hòa ấy các con đã gieo trồng và tưới tẩm được hạt giống niềm tin, hiểu biết và tình thương trong trái tim của rất nhiều người, trong số ấy có những người đã thuê hoặc đã được thuê tới quấy nhiễu và đàn áp chúng ta. 
Đó là sự thành công lớn nhất mà chúng ta đã đạt được, lớn lao hơn bất cứ công trình xây dựng chùa tháp nguy nga nào. Ngày 18 tháng 12 vừa qua, thầy Trung Hải, sư cô Giác Nghiêm và một số các thầy và các sư cô khác đã đại diện Tăng thân Bát Nhã đến điện Elysées trao một lá thư gửi cho tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, xin cho 400 vị của Tăng thân Bát Nhã được tạm thời nương náu ở Pháp Quốc để tiếp tục thực tập như một Tăng thân, cho đến khi nhà nước Việt Nam mở lòng cho phép Tăng thân Bát Nhã cũng được làm như thế ở ngay trên quê hương của mình. 

Thực ra, theo pháp luật hiện thời, chúng ta có quyền sống và tu tập bất cứ ở nơi nào trên quê hương mình, nhưng không biết vì sao chúng ta lại không được hưởng cái quyền ấy khi mà chúng ta không vi phạm bất cứ một pháp luật nào, khi mà chúng ta chỉ muốn tu tập và hướng dẫn tu tập trong khuôn khổ của pháp luật và của truyền thống Phật giáo. Dư luận trong nước và trên thế giới, trong giới Phật tử cũng như trong giới không Phật tử, đang yểm trợ cho chúng ta một cách rõ rệt, vì vậy thầy tin chắc là các con của thầy sẽ không phải gánh chịu những khó khăn này dài lâu.

Có nhiều thân hữu đã hiểu được cái thiết yếu phải thực tập với một Tăng thân, cho nên đã không có hạnh phúc khi được tin là chúng ta phải phát tán đi mỗi người một ngả, mạnh ai người ấy thực tập. Truyền thống Phật giáo nói chung và truyền thống Làng Mai nói riêng không chấp nhận được sự bức ép đó. Tăng ly chúng tăng tàn, hổ ly sơn hổ bại. Đó là câu nói tự ngàn xưa: thực tập mà không có Tăng thân thì sự thực tập sẽ tàn lụi, cũng như chúa sơn lâm khi lìa bỏ rừng núi xuống tới đồng bằng thì sẽ bị con người giết chết và lột da. Truyền thống của chúng ta là phải đi như một dòng sông, không thể nào đi như một giọt nước.
Giọt nước đi một mình thì trên đường về biển cả sẽ bị bốc hơi nửa chừng và không bao giờ tới biển. Trong chúng ta ai lại không thuộc bài hát “Xin nguyện làm dòng sông, không làm hạt nước nhỏ” của sư chị Hoa Nghiêm? Bởi vậy cho nên Tăng thân bị giải tán là tai nạn lớn nhất cho người tu. Người tu phải luôn luôn quy y Tăng bảo. Tăng là đoàn thể những người tu học, xây dựng Tăng đoàn có phúc đức bao nhiêu thì phá hoại Tăng đoàn cũng bị quả báo bấy nhiêu. Thầy rất sợ cho những người có ác ý muốn phá hòa hợp tăng. Đây là tội lớn nhất trong các tội. Nếu cho phép Tăng đoàn được cư trú tại Pháp, tổng thống Pháp sẽ có phước đức nhiều lắm, có phải không các con? 

Dù cho là cư trú tạm thời.
Mỗi người trong chúng ta đều có ba thân: Phật thân, Pháp thân và Tăng thân. Phật thân trong ta còn non yếu, phải được nuôi dưỡng bằng sự thực tập hằng ngày. Đó là hạt giống của trí tuệ và từ bi trong ta, đó là Phật tính. Pháp thân là công phu thực tập của ta, có công năng nuôi dưỡng và làm lớn Phật thân. Còn Tăng thân là đoàn thể mà ta đang nương tựa, sống chung để tu học. Đoàn thể của ta là thân thể của ta, đoàn thể tan rã thì Tăng thân không còn. Tăng thân chính là môi trường bảo hộ, nuôi dưỡng và soi sáng cho ta. Ta phải nương vào Tăng thân, phải xem Tăng thân là thân của chính ta, những gì đang xảy ra cho Tăng thân là đang xảy ra cho chính ta. 

Vì vậy cho nên người tu nguyện suốt đời nương tựa Tăng thân, không bao giờ ly khai Tăng thân, cũng như chúa sơn lâm không bao giờ rời bỏ núi rừng thâm u của mình. Mất Tăng thân là một tai họa lớn, vì vậy trong những năm tháng vừa qua, các con của thầy đã hết lòng hành xử bất bạo động để bảo hộ cho Tăng thân, để Tăng thân không bị tan rã. Những người đang có quyền bính trong tay cần phải hiểu biết điều này, và vì người ta chưa hiểu thì mình phải tìm cách giúp cho người ta hiểu. Đối kháng bất bạo động là biện pháp mà đức Thế Tôn đã sử dụng khi Tăng đoàn núi Thứu bị kỳ thị và đàn áp bởi vua A Xà Thế. Vua A Xà Thế đã cố tình chia rẽ Tăng đoàn, phá hòa hợp tăng, và những năm sau đó bị bệnh tâm thần, cuối cùng phải đến với đức Thế Tôn để cầu xin chữa trị. Đọc sách Đường Xưa Mây Trắng các con đã được biết chuyện này.

Mahatma Gandhi cũng đã từng sử dụng phương pháp đối kháng bất bạo động để tranh đấu cho chủ quyền độc lập của Ấn Độ. Ngài nói: “Đối kháng bất bạo động là một sức mạnh tâm linh, một sức mạnh không có gì so sánh nổi. Sức mạnh của nó vượt lên trên cả sức mạnh của quân đội và vũ khí. Đó không phải là khí giới của kẻ yếu đâu.” (Passive resistance, that is, soul force, is matchless. It is superior to the force of arms. Not the weapon of the weak.)
Câu nói bất hủ đó của thánh Gandhi được nói ra hôm 29-04-1933 và ngài phát biểu tiếp rằng muốn thành công trong sự nghiệp phụng sự quê hương, người thực tập hành xử bất bạo động phải quyết tâm giữ giới, vì chính giới luật giúp cho ta làm chủ được thân tâm mình, và càng thực tập giới luật chừng nào thì ta càng thấy rõ được diện mục ta chừng đó. “To observe morality is to attain mastery over our mind and our passion. So doing, we know ourselves.”
Và thánh Gandhi đã chia sẻ kinh nghiệm thực tập và tranh đấu của ngài một cách cụ thể. Ngài nói: “Sau một thời gian có nhiều kinh nghiệm tranh đấu, tôi thấy rất rõ ràng rằng những ai muốn tranh đấu cho quê hương bằng phương pháp bất bạo động đều phải nên giữ trai giới cho vững chãi, sống phạm hạnh, buông bỏ dục tình một cách tuyệt đối, sống đơn giản, đi theo sự thật và nuôi dưỡng đức vô úy, không sợ hãi.” (After a great deal of experience, it seems to me that those who want to become passive resisters for the service of the country have to observe perfect chastity, adopt poverty, follow truth and cultivate fearlessness.)
Thật sự thầy chưa bao giờ tưởng tượng được là những viên chức của một chính quyền lại có thể sử dụng những cách hành xử bá đạo như vậy. Tiền đâu để họ thuê côn đồ? Đó có phải là tiền thuế mà dân nạp cho họ để họ có lương bỗng để sống và để làm những việc thất đức như vậy? Tại sao lại giả danh Phật tử để đánh phá Phật tử, giả danh nhân dân để dối gạt và đàn áp nhân dân? Đạo đức cách mạng ở đâu? Tại sao mà đạo đức cách mạng lại bị phá sản tới mức tồi tệ đến thế?

Suốt trong thời gian tranh đấu, thánh Gandhi đã sống theo tinh thần này, đã ăn chay nằm đất, sống phạm hạnh, không gần gũi nữ nhân, nếp sống không khác gì với nếp sống của một nhà tu. Đội ngũ trong phong trào tranh đấu ấy đã có niềm tin rất lớn nơi con đường họ đi và cũng đã thực tập sống theo nếp sống khổ hạnh và chay tịnh ấy. 

Phong trào tranh đấu được gọi là Satyagraha, nghĩa là nắm lấy sự thực, bám vào sự thực. Giữ tâm hồn cho trong sáng, không sử dụng bất cứ một biện pháp nào trái với đạo lý, luôn luôn tôn trọng sự thực. Đối phương có thể lừa gạt, dối trá, tráo trở, đê tiện trong những phương cách của họ, nhưng bên phía những người tranh đấu bất bạo động, đạo đức và sự thật phải là chất liệu, là nền tảng cho tất cả mọi hành xử và hành động. Bất bạo động không phải chỉ là hình thức bên ngoài mà là nội dung chất liệu của lý tưởng bên trong. Phải nuôi dưỡng từ bi, không hận thù, và có khả năng nhận chịu những bạo động mà không đánh trả, đúng với bốn cách thức xử sự mà Bụt căn dặn các thầy thực tập, và mỗi nửa tháng các vị khất sĩ phải tụng đọc một lần:
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đùa diễu và khiêu khích thì không đùa diễu và khiêu khích trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta nhiếc mắng, nhục mạ thì không nhiếc mắng, nhục mạ trở lại.
Con nguyện suốt đời, khi bị người ta đánh đập thì không đánh đập trở lại.
Con nguyện suốt đời,khi bị người ta giận thì không giận trở lại.


 
Bốn cách xử sự này, các con của thầy đã làm được trong những ngày bị côn đồ tấn công, và vì vậy cho nên các con đã có cơ hội giúp cho không biết bao nhiêu người cảm động và chuyển hóa. Các thầy Pháp Hội, Pháp Sỹ và Pháp Tụ đã bị lôi kéo, bóp cổ, liệng lên xe như những thùng rác, nghẹt thở, mặt bầm tím, cổ và vai chảy máu. Thầy Pháp Vinh bị đạp lăn lông lốc xuống lầu một, may mà thầy chưa bị gảy chân. Thầy Đồng Tịnh và em Bình Minh (bây giờ là sư chú trong cây Sen Hồng) bị đánh đến ngất xỉu mà không hề chống trả. Những côn đồ đến đánh phá bị mảnh kính làm đứt tay chảy máu đã được các sư cô băng bó và chăm sóc. Tất cả những hình ảnh ấy mà nhiều cái đã được ghi lại trong phim ảnh, đã làm chấn động tâm can của bao nhiêu người. 

Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn. Chúng ta tu tập và tổ chức cho người khác tu tập để đối phó, ngăn ngừa và gột sạch những tệ nạn ấy, và đó là cách thức yêu nước yêu dân của chúng ta. Chúng ta là công dân của một nước độc lập, có hiến pháp, có luật pháp, chúng ta phải có quyền làm việc ấy. Không ai có thể tước đoạt quyền công dân ấy của chúng ta.
Và những điểm thầy đề nghị với nhà nước liên hệ tới sự tách rời chính trị ra khỏi tôn giáo v.v... những điểm đề nghị này thật ra đã không được xuất phát từ thầy mà đã xuất phát từ các thầy khác trong Giáo Hội. 

Thầy đã lắng nghe các vị tôn túc, và đã ghi nhận nguyện vọng và nhận thức của các vị. Các vị không nói lên được, thì thầy nói giùm cho các vị,..Cũng như thầy đã lên tiếng về vấn đề Tây Tạng. Mình là một dân tộc từng bị khổ đau nhiều lần vì sự xâm lấn của phương Bắc, bây giờ một dân tộc khác đang bị rơi vào tình trạng ấy, nỡ nào mình không lên tiếng? Thầy lên tiếng thay cho cả một dân tộc, để nói lên một sự thực, biết rằng lên tiếng thì sẽ gặp khó khăn mà vẫn phải lên tiếng. Đó là lương tâm, đó là tình huynh đệ.

Trong chuyến về quê đầu tiên của thầy năm 2005, thấy những cổng chào đề các dòng chữ “thôn văn hóa”, “ấp văn hóa”, “khu phố văn hóa” v.v. thầy đã mừng thầm, nghĩ rằng đây là một chính sách thông minh và đúng lúc của nhà nước. Hỏi thăm, thầy được biết là chính sách thành lập những thôn những ấp văn hóa ấy là để đối phó với các tệ nạn xã hội đang bắt đầu lan tràn như ma túy, đĩ điếm, cờ bạc, bạo hành v.v. Nhưng sau đó chừng hơn một tháng thầy đã được báo cáo rằng nhà nước đã không thành công gì mấy với các ấp văn hóa, các thôn văn hóa kia. Chỉ có danh từ mà không có sự thật. Những biện pháp kiểm soát và trừng phạt không đủ để bài trừ tệ nạn xã hội, nhất là khi những người đứng ra kiểm soát và trừng phạt cũng đang vướng vào các tệ nạn xã hội như tham nhũng, lạm quyền và dối trá. 
Lúc đó, thầy thấy rất rõ ràng là chỉ có sự giáo huấn và hành trì của đạo đức thật sự mới có thể đối phó được với tình trạng. Các con đã biết là gia đình nào có hành trì năm giới là gia đình đó có hòa thuận, có hạnh phúc. Mà không ai có thể ép buộc mình hành trì năm giới nếu mình không có đức tin nơi giáo pháp và giới pháp. 

Cho nên trong khóa tu dành cho giới xuất gia tại tổ đình Từ Hiếu (từ ngày 07-03-2005 đến ngày 12-03-2005) thầy đã đưa ra mô thức một thôn xóm trong đó ngôi chùa đóng vai trò lãnh đạo tinh thần đạo đức; các thầy hoặc các sư cô trong ngôi chùa đó hành trì giới luật và uy nghi vững chãi, tổ chức những khóa tu cho người lớn và cho thanh thiếu niên, gây niềm tin nơi một con đường đạo đức tâm linh và khuyến khích sự tiếp nhận và hành trì năm giới, mỗi nửa tháng đến chùa tụng giới một lần và dự pháp đàm để kiểm điểm về công phu hành trì của mình. Đây không phải là một cái gì mới mẻ mà chỉ là công trình hiện đại hóa một truyền thống thực tập ngày xưa, và những người hướng dẫn thực tập phải có tư cách và khả năng hướng dẫn cho tuổi trẻ cũng như cho mọi giới kể cả giới trí thức, giới thương gia và chính trị. 

Mà muốn được như thế thì phải bắt đầu đào tạo một thế hệ người xuất gia mới. Đó là nội dung của khóa tu tại tổ đình Từ Hiếu có gần cả ngàn vị xuất gia trẻ tham dự và những bài pháp thoại này như các con đã biết đã được in lại thành sách dưới nhan đề Xây Dựng Tình Huynh Đệ. Trong óc thầy, tu viện Bát Nhã lúc ấy đã được hình thành. Tu viện Bát Nhã là mẫu mực của một trong những trung tâm để đào tạo những người xuất gia mới như thế.

Giới luật và uy nghi không phải là những gì có tác dụng gò bó và làm mất bớt quyền tự do của con người. Giới luật và uy nghi, trái lại, có công năng bảo vệ tự do. Một người hành trì giới không uống rượu và không sử dụng ma túy có tự do gấp ngàn lần so với một người không trì giới ấy, vì người này khi bị vướng vào say sưa nghiện ngập thì không còn tự do nữa và sẽ sẵn sàng phạm vào các giới khác như nói dối, ăn cắp, giết người v.v. để có tiền mua ma túy.

Không giữ giới thì một gia đình ba bốn người cũng sinh ra lục đục, làm khổ cho nhau, ai cũng biết điều ấy. Có hành trì giới luật và uy nghi thì dù là một cộng đồng 400 người ở chung với nhau, chúng ta cũng vẫn sống được trong hòa thuận, tin yêu và hạnh phúc. Tăng thân Bát Nhã đã chứng thực được một cách hùng hồn như thế. Họ vu khống chúng ta, họ nói chúng ta không giữ giới, ăn nằm với nhau, để họ có cớ triệt hạ chúng ta. Thậm chí họ đem tài liệu khiêu dâm tới để vu cáo chúng ta. Đó là một trong những lối hành xử hèn hạ nhất. Ai cũng biết rằng không hành trì giới luật và uy nghi thì không thể nào tin nhau, sống với nhau, đoàn kết với nhau và thương yêu nhau như người ruột thịt như thế được.
Ngày xưa khi Bụt còn tại thế, một nhóm người ngoại đạo cũng đã từng vu oan cho giáo đoàn khất sĩ của Bụt như vậy. Trong khi các thầy đi vào thành Xá Vệ khất thực họ đã đem xác một người kỹ nữ chôn dấu vào đất tu viện Kỳ Viên và đi báo cảnh sát. Rồi họ tuyên truyền rằng các thầy ở tu viện không giữ giới. Vua Ba Tư Nặc và dân chúng trong thành Xá Vệ rất hoang mang. Nhiều thầy không dám đi khất thực. Bụt dạy các thầy: “Các vị đừng lo, sự thực sẽ được bung ra trong vòng mười hôm. Các vị hãy cứ đi vào thành khất thực như không có chuyện gì xảy ra.”

Hồi đó, thương gia Cấp Cô Độc đang có mặt. Ông đã nhờ thám tử đi dò hỏi và tìm ra được sự thật và cuối cùng cảnh sát đã bắt được những người chủ mưu. Họ khai rằng họ làm như thế bởi vì họ thấy giáo đoàn của Bụt nổi tiếng quá, dân chúng đi theo đông đảo quá và họ sợ sẽ mất chỗ đứng trong quần chúng. Vua Ba Tư Nặc, sau khi có được bằng chứng, đã trừng trị những người vu cáo một cách thích đáng.

Vụ Bát Nhã rắc rối hơn vụ Kỳ Viên, bởi vì trong vụ Bát Nhã và Phước Huệ, bọn côn đồ được thuê mướn và những nhà chức trách thuê mướn họ đã làm việc chung với nhau. Họ là hai mà họ cũng là một, trong khi vua Ba Tư Nặc là một người rất tôn quý đức Thế Tôn.
Chúng ta cũng đã có những Cấp Cô Độc vô danh đã từng giúp ta làm bung ra sự thực, nhưng chúng ta hiện không có một vua Ba Tư Nặc để trừng phạt bọn lạm quyền và gian dối. Nhưng chúng ta cũng còn may mắn, vì quần chúng trong nước và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc với sự thực, và dư luận đã đứng về phía chúng ta để lên án những người vô đạo. 
Ba Tư Nặc ngày nay là dư luận quốc nội và quốc tế. Họ không thể nào che dấu hành động thấp hèn của họ được. Họ thuê côn đồ tới giả danh Phật tử để giăng biểu ngữ trước bàn Phật, để phá phách, đánh đập, khiêu khích, mong rằng các con sẽ phản ứng trở lại bằng bạo lực để họ có cớ bắt giam và lên án. Nhưng nhờ cách hành xử bất bạo động của các con, các nhà chức trách này đã thất bại hoàn toàn. Phật tử gì mà hành hung và chửi mắng các thầy, Phật tử gì mà mang dày dép vào chánh điện, Phật tử gì mà dám treo biểu ngữ ngay trước tượng Phật, Phật tử gì mà gọi các thầy là đồng chí, tại sao không về quê đi để sống cho gần cha, gần mẹ, gần vợ Các thầy đã xuất gia làm gì có vợ Tội nghiệp cho những người bị thuê làm côn đồ. Họ chỉ được thuê với giá 200.000 đồng một ngày và họ đã được Công An và Mặt Trận chỉ huy bằng những dấu hiệu và tiếng huýt gió. 

Viết tới đây thầy thấy rất rõ nguyên nhân vì sao chính sách thôn ấp và khu phố văn hóa không thành công. Một chính sách mà do những viên chức thừa hành không có đạo đức phụ trách thì làm sao thành công được? Nếu các viên chức này tham nhũng, lạm quyền, khi mà gia đình của họ là nạn nhân của tệ nạn xã hội thì làm sao họ có thể thành công trong sự hướng dẫn và xây dựng những thôn ấp và khu phố văn hóa? Nếu chính quyền Ngô Đình Diệm đã thất bại với chính sách “ấp chiến lược” thì nhà nước hiện tại cũng đã không thành công với chính sách “thôn ấp, khu phố văn hóa.”

Công an, Chính quyền địa phương và ban Tôn giáo, bằng hành động và bằng các văn thư của họ đã và đang làm ngược lại với luật pháp, hiến chương và với cả pháp lệnh tôn giáo, do đó chúng ta phải có bổn phận giúp cho quốc dân và các cơ quan lập pháp và hành pháp trung ương thấy được những sai trái đang gây đổ vỡ nặng nề trên đất nước và trong lòng dân.
Thầy tự hỏi không biết vị nào đã quyết định sử dụng từ văn hóa thay vì từ đạo đức? Một ý thức hệ lên án tôn giáo, cho tôn giáo là thuốc phiện, thì sẽ cảm thấy không thoải mái khi sử dụng từ đạo đức. Nhưng tại sao trong những buổi đầu cách mạng, chúng ta đã nói tới đạo đức cách mạng? Có lẽ vì đạo đức cách mạng đã bị phá sản cho nên danh từ đạo đức đã không còn chuyên chở được gì nhiều nữa. 

Từ văn hóa có thể đi đôi với văn minh, cũng như từ culture có thể đi với từ civilization. Nó không chuyên chở được ý niệm luân thường, đạo đức. Nhưng tại sao lại không dùng từ phong hóa? Trong quá khứ tổ tiên chúng ta đã dựng nên một nếp sống đạo đức lành mạnh, với sự góp công của ba nền đạo học là Khổng học, Lão học và Phật học. Dựa vào truyền thống là đi ngược với chủ thuyết mới hay sao? Cái đẹp nhất của đạo Bụt là tinh thần bao dung, không giáo điều, không cố chấp, không có nhu yếu loại trừ những truyền thống khác. Đó là nghĩa chữ xả trong bốn đức từ, bi, hỷ và xả. Xả (upeksa) là sự không kỳ thị, là tinh thần bao dung. Đạo Bụt trong quá khứ đã góp phần vào sự tạo dựng tinh thần tam giáo tịnh lập, tam giáo đồng nguyên, để ba truyền thống Phật, Nho và Lão có thể đứng bên nhau mà xây dựng đất nước. 

Trong chuyến về năm 2005, tại buổi thuyết giảng tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ở Sài Gòn, có một vị thính giả đã đặt câu hỏi: Nếu quy y Tam Bảo rồi thì ta có quyền yêu Đảng và yêu Nước không? Câu hỏi tuy đơn sơ nhưng nói lên được tất cả những lo ngại của những người muốn trở về với con đường tâm linh mà tổ tiên ngày xưa đã dày công khai mở, nhưng còn chưa dám.
Thầy đã trả lời bằng một câu hỏi khác: Nếu quy y mà mất tự do, không còn được yêu những gì mình muốn yêu thì quy y làm gì? Tiếng vỗ tay vang dậy hội trường. Giờ phút ấy đánh tan được bao nhiêu là băng giá. Quy y rồi thì ta sẽ yêu nước và yêu Đảng đúng hơn và hay hơn. Đất nước ta dân tộc ta đã từng được đạo Bụt giáo hóa, đã được hưởng cái hạnh phúc do tinh thần bao dung đưa lại. Tại sao ta không được trở về nguồn? Tại sao người ta lại sợ tinh thần bao dung? Tại sao người ta không thấy được rằng nếu tư duy được theo chiều hướng bất nhị, phá chấp và bao dung thì nhân loại sẽ tiết kiệm được biết bao nhiêu là máu xương và nước mắt?
Những lời thầy viết cho các con, thế nào các chú công an cũng sẽ tìm đọc. Điều này theo thầy cũng rất tốt vì thầy tin mọi người đều có Phật tính, nghĩa là có hạt giống của trí tuệ và từ bi. Tưới tẩm những hạt giống ấy thì rất có phước. Nhiều chú Công an đã được các con chuyển hóa.
Còn nếu những dòng thầy đang viết đây lọt vào mắt của những vị trong ban chấp hành Trung Ương Đảng, trong ban Tuyên Giáo, trong các hội đồng cấp cao của nhà nước thì sao? Thầy nghĩ các vị ấy sẽ chau mày, sẽ nói rằng đây là những sai sót của cấp thừa hành, rằng con sâu làm rầu nồi canh. Nhưng sự thực là quý vị ấy đã để cho cấp thừa hành làm như thế rồi báo cáo lên không đúng sự thực và lôi cuốn luôn quý vị ấy đi theo.

Như vậy thì thì quý vị ấy cũng không đổ trách nhiệm cho người khác được. Giới nhân sĩ trí thức trong nước đã đề nghị quý vị ấy mở một cuộc điều tra để làm sáng tỏ sự thật. Những sai lầm phạm phải trong những năm qua, những tham nhũng, lạm quyền, lừa gạt và dối trá ấy phải được đưa ra ánh sáng và phải có sự trừng phạt công minh thì họa may dân chúng trong nước mới có được niềm tin nơi guồng máy chính quyền, và chính quyền mới có thể tiếp tục “cai trị” được. 

Trong chuyến về nước đầu vào năm 2005, sau ba mươi chín năm ở hải ngoại, thầy đã hết lòng thực tập lắng nghe mọi giới và đã có một cái thấy tương đối chính xác về tình trạng. Thầy đã nói: Trong chuyến về thăm này, tôi chỉ có một thông điệp, đó là không có gì cao quý hơn tình huynh đệ. Có thể nói rằng giờ phút hào sảng nhất trong chuyến đi đã xảy ra tại chùa tổ Từ Hiếu, ngày mà tất cả các thầy và các sư cô của hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn quy tụ lại để tụng giới chung với nhau sau hơn mười năm bị chia rẽ. Thầy nhớ rất rõ cái hôm sau buổi pháp thoại tại chùa Từ Đàm thầy báo tin là cả hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn sẽ quy tụ về Chùa Tổ để tụng giới chung, tất cả mọi người đều đã khóc vì sung sướng. 

Có rất nhiều vị tôn túc trong giáo hội rất muốn che chở cho các con Bát Nhã của thầy. Các vị ấy đã cố gắng lên tiếng nhiều lần, thậm chí đã đưa ra đề nghị bảo lãnh để cho các con có pháp lý tu học, nhưng vì giáo hội không có giáo quyền thật sự cho nên những đề nghị ấy đã bị Công An và Ban Tôn Giáo nhà Nước bác bỏ. Đất nước chúng ta chưa thực sự có tự do tôn giáo, và nhà nước đang quản lý chặt chẽ guồng máy giáo hội, và giáo hội bất lực không che chở được ngay chính con em của mình. Đó là một sự thực ai cũng đã trông thấy. Làm sao che dấu được?
Công an, Chính quyền địa phương và ban Tôn giáo, bằng hành động và bằng các văn thư của họ đã và đang làm ngược lại với luật pháp, hiến chương và với cả pháp lệnh tôn giáo, do đó chúng ta phải có bổn phận giúp cho quốc dân và các cơ quan lập pháp và hành pháp trung ương thấy được những sai trái đang gây đổ vỡ nặng nề trên đất nước và trong lòng dân.
Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức. Ngày xưa Siddhartha cũng đã từ khước con đường chính trị để đi vào con đường tâm linh đạo đức. Và Siddhartha cũng đã gặp khó khăn. Chúng ta tu tập để vực dậy một nền văn hóa lành mạnh, một nếp sống có phẩm chất đạo đức và từ bi, và cách tranh đấu hay nhất của chúng ta là tu học và tổ chức tu học. 

Nhưng thầy không bi quan. Thầy tin chắc rằng tình trạng sẽ thay đổi. Lý do là các con đang có mặt đó. Tuổi trẻ Việt Nam đã bắt đầu thấy sự thật và biết là mình đang mong ước gì cho quê hương cho đất nước. Người thanh niên Việt Nam dù đang theo học trong nước hay đang du học ở nước ngoài đều đã thấy được rằng chúng ta cần có thêm dân chủ, có thêm dân quyền và nhân quyền thì người dân chúng ta mới có cơ hội đóng góp cho đất nước và đưa đất nước đi lên. Trong thời đại này đất nước không thể nào còn bế môn tỏa cảng được. Phải mở cửa và cộng tác với các quốc gia khác. Và phải tuân theo luật lệ quốc tế, trong đó có sự tôn trọng nhân quyền. Các con Bát Nhã của thầy đã chọn con đường tranh đấu bất bạo động và đã đem hết niềm tin của tuổi trẻ để làm việc ấy. Trái tim không hận thù của các con, trái tim của tình huynh đệ ấy đã làm cảm động lòng người.

Giới Phật tử trong và ngoài nước đang yểm trợ cho các con đã đành, mà tất cả các giới khác cũng thế. Các con không lẻ loi trên con đường của mình đâu. Con đường tuy khó khăn nhưng con đường rất đẹp. Thầy rất hạnh phúc khi thấy rằng thầy đã được các con tiếp nối. Dù trong số chúng ta còn có những người còn non yếu, nhưng trái tim của chúng ta luôn luôn trong sáng và hiền hậu. Chúng ta đi như một dòng sông, vừa đi lên vừa học hỏi và chúng ta cũng sẽ được tiếp nối bằng những thế hệ đi sau. Chúng ta có một con đường. Một con đường thật sáng mà tổ tiên đã khám phá. 

Thầy đã đọc chăm chú tất cả các lá thư mà các con đã gửi cho Thầy. Đôn Nghiêm nói: “Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nảy hạt bồ đề.” Áo Nghiêm nói: “Trên con đường mình đi, con đã tìm được những người anh em cùng chí hướng. Dù có gì xảy ra cho con đi nữa, con vẫn không hổ thẹn với tổ tiên và với bạn bè năm châu.”
Hôm quý vị tôn túc Lâm Đồng về bố tát tụng giới ở Phước Huệ, vì thương cảm cho tình cảnh các con, tất cả quý vị đã khóc, và tất cả các con đã có dịp cùng khóc với quý vị. Giờ phút đó rất đẹp. Đó là một cơn mưa cam lộ. Lịch sử đã ghi chép giờ phút ấy.

Đôn Nghiêm là một trong những đóa Sen Trắng, chưa đầy 18 tuổi. Bài thơ của sư em gửi thầy có giá trị của một bài kệ kiến giải mà chính em cũng không biết. Bát Nhã đối với em đã là những năm tháng hạnh phúc vì ở đấy em đã được sống trong lý tưởng và tình huynh đệ. Bát Nhã cũng đã là những dòng nước mắt khổ đau, chảy dài trong những ngày bị đánh phá và áp bức. 

Bát Nhã đã trở thành huyền thoại, đã thành chuyện ngày xưa, nhưng Bát Nhã không mất mà chỉ trở thành mưa. Những trận mưa Bát Nhã đã rơi xuống mặt đất và đã làm nẩy lên hạt giống Bồ đề, hạt giống bồ đề trong trái tim của Đôn Nghiêm, trong trái tim của các con và trong trái tim của bao nhiêu người trẻ khác. Đó là những hạt giống Kim cương bất hoại, không có ngọn lửa nào có thể đốt cháy. Bát Nhã sẽ tái sinh trong những hình thức mới vì hạt giống Bồ đề của nó đang có mặt khắp nơi. Phải thấy Bát Nhã trong những hình thái vô tướng và đa tướng của nó. Đôn Nghiêm đã thấy được, nên Đôn Nghiêm không còn khổ đau, không còn lo sợ. Bát Nhã của Đôn Nghiêm sẽ còn mãi mãi. 

Với cái thấy ấy, những con người như Đôn Nghiêm sẽ không bao giờ chùn bước, sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Vì vậy thầy không hề bi quan. Thầy tin ở tuổi trẻ Việt Nam. Thầy không cần phải dặn dò các con phải làm cái này cái nọ. Ngay trong tình trạng của mình và của đất nước, các con tự biết là phải làm gì và chắc chắn các con sẽ thực hiện được chí nguyện của mình. Đó là tại vì tâm bồ đề của các con đang có mặt. Vì vậy cho nên thầy có niềm tin nơi các con.

Ngày 06-12-2009 vừa qua, từ Mai Thôn thầy đã có dịp thuyết trình cho Hội Nghị Thượng Đỉnh Tôn Giáo ở Melbourne Úc Châu bằng phương tiện viễn thông. Thầy đã chia sẻ với các nhà lãnh đạo tôn giáo trên thế giới đang có mặt tại hội nghị về cái thấy của đạo Bụt về một nền tâm linh đạo đức toàn cầu. Thầy đã nói về năm giới tân tu của chúng ta như con đường mà nhân loại có thể sử dụng để ra khỏi tình trạng khó khăn, cứu vớt được hành tinh và đem lại hòa bình an lạc trên thế giới. Năm giới tân tu trong văn bản mới là hoa trái của công phu tu tập của Tăng thân trong hơn tám tháng trời. Đó là con đường do Bụt khai mở. Đó là đóng góp của đạo Bụt cho nhân loại, rất cần thiết cho giai đoạn toàn cầu hóa này.
Chúng ta đã có con đường, chúng ta đã có niềm tin, chúng ta đã có nhau như một Tăng thân thì chúng ta không cần phải lo lắng nữa. Nói như sư chú Pháp Đại: “Chúng con biết ngoài việc tu tập thì chúng con không cần phải lo lắng gì thêm. Chúng con nguyện sẽ tu tập tốt hơn để không phụ lòng thầy tổ.” Nghe các con nói những câu như thế, thầy biết là thầy đang có niềm tin nơi các con.
Thầy Bát Nhã của các con (như một số các con đã gọi thầy!),
Nhất Hạnh
III. Ý KIẾN VỀ HAI BỨC THƯ

1. Bức thư thứ nhất

Bức thứ thứ nhất cho ta biết ông Nhất Hạnh có tài và can đảm. Ông làm như ông xa lạ, không biết Nguyễn Minh Triết ở đâu và không có cách liên lạc với Nguyễn Minh Triết. Ông làm như ông là người quốc gia, nhà chân tu cả đời không hề giao tiếp với cộng sản! Không lẽ Nhất Hạnh không biết Nguyễn Minh Triết ở Hà Nội? Vậy thì trước khi về Hà Nội, gặp Nguyễn Minh Triết thì ông làm sao? Ông làm cách nào liên lạc với cộng sản Việt Nam, nay cần thì theo đường giây đó chứ? Ông giả bộ hay thiệt!

Khi liên lạc với cộng sản Việt Nam, và gặp Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Võ Nguyên Giáp, ông xưng là Thích Nhất Hạnh hay Nguyễn Lang? Tại sao nay ông không dùng tên Thích Nhất Hạnh mà lại xưng là Nguyễn Lang? Nếu đúng ra người dân khi gặp vua chúa thì phải xưng tên. Nếu ông là thần dân của Nguyễn Minh Triết thì phải xưng là Nguyễn Văn Bổn chứ! Không lẽ Thich Nhất Hạnh là một cái tên xấu xa nên ông không dùng? Hoặc ông tưởng thiên hạ không ai biết và cộng sản cũng không biết Thích Nhất Hạnh là Nguyễn Lang?

Bức thư thứ nhất cũng cho ta thấy một số nhà sư đã bắt tay cộng sản, nuôi nấng cộng sản, và chính nhà chùa, cũng như một số nhà thờ, thánh thất, tổ đình. . . cũng là ổ cộng sản. Bức thư thứ nhất cũng là một cách kể công (Việt cộng gọi là báo công) nhưng ông có biết bà Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên từng nuôi Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh để rồi bị cộng sản giết về tội địa chủ, và thằng con trai bà, một trung đoàn trưởng cũng phải tư tử vì CCRD? Và bức thư này cho thấy một Nhất Hạnh nuôi nhiều ảo tưởng về cộng sản. Nhưng quỷ cao tay hơn ma, ma chơi với quỷ thì ma sẽ bị quỷ ăn thịt! Ông cũng như bọn GPMN bị lợi dụng rồi bị đánh đuổi! Nếu ông có chút lương tâm thì nên sám hối!


2.Bức thư thứ hai

Bức thư thứ hai quá dài so với bức thư thứ nhất. Bức thư này có thể chia thành hai phần. Phần đầu dài hơn phần thứ hai. Trọng tâm của phần đầu, Nhất Hạnh khoe khoang về thành tích của ông. Ông quá đặt nặng vào kỹ thuật "marketing" trước khi nói về nỗi khổ của các đồ đệ của ông ở phần thứ hai!


(1). Về ngôn từ
Trong các sách và các tự điển, người ta nói Phật, Pháp Tăng là Tam bảo, còn Tam thân, là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân là nói về ba thân của Đức Phật. Chưa nghe ở đâu nói Phật Pháp Tăng là tam thân như ông Nhất Hạnh. Danh từ tăng thân là do ông đặt ra, mập mờ giữa tam thân và Tăng thân, trong khi đó ý nghĩa của Tăng thân theo ông Nhất Hạnh Tăng thân là đoàn thể mà ta đang nương tựa, sống chung để tu học nghĩa là trong đó có đủ hạng người, không thể gọi là Tăng đoàn được.

(2). Bàn về hạnh phúc.

Nhất Hạnh đã nói đến "Nghệ Thuật Hạnh Phúc". Ở đời, có nhiều thứ hạnh phúc, ông muốn nói đến Hạnh Phúc nào? Cứ cho là ông nói đến an lạc nội tâm.

Ông viết:
Câu linh chú thứ năm nếu ta nhớ thực tập sẽ có hiệu lực tức thời, ai cũng công nhận như thế. Chỉ cần trở về với giây phút hiện tại, thấy được rằng mình (tuy vậy mà) đang có rất nhiều may mắn (hơn nhiều người khác), là mình có thể mỉm cười và đọc lên câu: “Giây phút này là một giây phút hạnh phúc”, để cho những người đang có mặt cũng trở về được với giây phút hiện tại để được nuôi dưỡng bởi hạnh phúc như mình.


Ai tu thiền đều có ich lợi. Tuỳ theo căn cơ mỗi người, không phải ai ngồi thiền một năm, niệm chú một tháng là đạt được an bình. Đa số là rất lâu mới biết đến mùi vị an lạc. Có khi cả đời cả kiếp.Vì vậy mà những ai nói hiệu lực ngay, giác ngộ tức thời e chỉ là hư dối!

Nay 400 đồ đệ của ông ở Lâm Đồng đã học nghệ thuật của ông, họ có hạnh phúc không khi bị cộng sản, những " đồng chí" , những " huynh đệ " của ông đánh đuổi? Và bản thân ông có hạnh phúc không khi những người theo ông thấy mình bị đày đọa, bị lừa dối?



(3). Về tu hành tập thể:

Ông Nhất Hạnh viết về việc tu tập tập thể như sau:
"người tu nguyện suốt đời nương tựa Tăng thân, không bao giờ ly khai Tăng thân, cũng như chúa sơn lâm không bao giờ rời bỏ núi rừng thâm u của mình".

Tu tập tập thể là tốt nhưng tốt hay xấu còn tùy cá nhân.Chùa chiền chính là những nơi để cho tăng chúng tu tập dưới sự giảng dạy, rèn luyện của các vị sư tổ. Ban đầu, các vị sư độc hành, độc cư trong rừng sâu đã thành tựu. Đức Phật tổ giác ngộ là do thiền định một mình dưới cội bồ đề không phải là do việc tu tập tập thể. Đa số cư sĩ là tu tại gia, nghĩa là tu một mình, vừa lo mưu sinh, vửa lo tu tập.Như vậy, không thể chỉ đề cao tập thể mà quên vai trò cá nhân.

Nhưng thời buổi ma quỷ, bọn ác lợi dụng đám đông, dùng chùa chiền, giáo đường, thánh thất, tổ đình. . . để tuyên truyền, để lợi dụng cho nên việc tụ tập tập thể, có thể là chướng ngại, vô tình tiếp tay cho kẻ xấu.

(4). Về giới luật
Trong bức thư thứ hai, Nhất Hạnh đề cao giới luật. Trưóc đây, ông đã không còn ở trong giáo hội Phật giáo, và trong tác phẩm của ông, ông cổ võ việc sư lấy vợ và xướng xuất một đường lối hiện đại ( Hiện đại hóa Phật giáo) và chê giáo hội xưa là chật hẹp, bảo thủ và lạc hậu.. Và ông bỏ một số tiền lớn để bênh vực khủng bố và nói người Mỹ phá 300 ngàn nhà ở thị xã Bến Tre. Đó là một điều nói láo (1). Nay ông lập tông phái mới, và tuyên bố " hành trì giới luật và uy nghi vững chãi" . Vậy giới luật đó là gì ? Trong bức thư thứ hai, ông Nhất Hạnh nói rằng Các thầy đã xuất gia làm gì có vợ . . .Ông theo Ghandhi ca tụng đời sống sống phạm hạnh, buông bỏ dục tình một cách tuyệt đối, sống đơn giản, đi theo sự thật và nuôi dưỡng đức vô úy, không sợ hãi.và ông kết tội công an vu khống chúng ta, họ nói chúng ta không giữ giới, ăn nằm với nhau, để họ có cớ triệt hạ chúng ta. Thậm chí họ đem tài liệu khiêu dâm tới để vu cáo chúng ta. .

Chúng ta chưa mở cuộc điều tra về việc này nhưng chính ông trong sách trước 1975 đã có ý ly khai giáo hội truyền thống, lập ra một giáo phái hiện đại mà tăng ni có thể lập gia đình. Ông
giống như những thanh niên trác táng, lúc trẻ thì đòi tự do, nay thì tuổi già lên giọng đạo đức , giới luật thì ai mà tin cho được?

(4). Bắt tay với cộng sản
Như đoạn trên, chúng ta đã thấy một số sư và rõ ràng nhất là Nhất Hạnh đã theo cộng sản. Ông theo vì ông tin cộng sản, ông theo vì ông nghĩ rằng ông được họ tôn trọng, hứa hẹn vì ông có công giúp cộng sản trong quá khứ và giúp cộng sản thoát khỏi danh sách đàn áp tôn giáo. Nhưng ông đã bị cộng sản lừa. Ông cũng như Mặt trận giải phóng miền nam bị đánh đuổi sau khi họ thắng lợi. Nếu ông không bị lừa thì là ông gian trá.Người ta có thể nói vậy vì trong thư ông cho biết ông đã biết cộng sản ác ôn, xão trá:

Xã hội hiện giờ đầy dẫy tệ nạn: tham nhũng, lạm quyền, ma túy, bạo động, đĩ điếm, gia đình đổ vỡ, tự tử, thác loạn.

Ông mới biết hay biết từ lâu? Ông bắt tay với cộng sản, làm tôi tớ cho cộng sản, nay ông cũng như bọn Trương Như Tảng, Đoàn Văn Toại, Lê Văn Hảo mà cũng đòi tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ư?

Muốn có dân chủ và nhân quyền người dân phải biết tranh đấu, và cuộc tranh đấu có thể phải kéo dài trong nhiều thập niên. Chúng ta là những người tu, chúng ta không có mặt trong những phong trào tranh đấu chính trị mà chỉ tranh đấu trong phạm vi văn hóa và đạo đức

Nếu ông biết cộng sản xấu xa như vậy, tại sao ông bắt tay với cộng sản và đưa các đồ đệ của ông ở Mỹ, Pháp về nơi đây?Nếu ông muốn dấn thân sao ông không ở lại Việt nam mà dấn thân và tranh đấu?

Nếu ông thực tâm tranh đấu cho tự do, dân chủ, cho Phật giáo và dân tộc, tại sao xưa nay ông chỉ làm lợi cho cộng sản? Sao ông biết cộng sản ở Bến Tre chỉ có 6, 7 tên, ông kết án Mỹ thả bom nhưng tại sao Việt Cộng tàn sát dân Huế, quê hương ông thì ông im miệng? Ông muốn tranh đấu cho dân quyền, cho phát triển Phật giáo thì tại sao ông o bế Việt Cộng mà khộng tác với các hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ? Ông mất đất, bị đuổi chùa thì ông lên tiếng nhưng bao ngàn vạn dân oan bị cướp đất, cướp nhà thì ông im lặng? Bây giờ ông nói ông lên tiếng về Tây Tạng, về dân chủ với Nguyễn Minh Triết nhưng trước đây ông nói gì đâu? 


Và những điều đó có thực hay ông biạ đặt?Hay khi ngồi với Nguyễn Minh Triết thì ông lạy lục, nịnh bợ chúng? Bây giờ bị cộng sản cho một phát đá hậu, ông mới chửi cộng sản thì quá muộn rồi! Ông có 5o ngàn đô, 60 ngàn đô tại sao ông không gíúp gì cho người Việt hải ngoại thất nghiệp, học sinh hải ngoại và trẻ con tàn tật ở Việt Nam mà lại đem quảng cáo cho bọn khủng bố? Nếu vì chính nghĩa, vì Phật giáo, tại sao khi bọn Taliban phá hủy tượng Phật ở Afghanistan ông không lên tiếng? Tôi nghĩ ông chỉ mang cái áo Phật giáo chứ tâm tư ông không phải vậy.

Tôi nghĩ rằng ông đã được cộng sản cho đi tàu bay giấy. Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng đón tiếp ông. Họ trải thảm đỏ cho ông bước lên trong khi Hoà thượng Quảng Độ bị cấm đoán và linh mục Nguyễn Văn Lý bị giam cầm!. Họ ra lệnh bọn quốc doanh hoan hô ông. Họ sai công an che lọng vàng cho ông. Ông khoái chí, ông tự đắc, ông sinh tâm kiêu mạn!Ông tưởng là cộng sản nay quỳ mọp dưới chân ông, đời đời nhớ ông ông! Vì vậy mà ông mang ảo giác ở nhiều nơi như ở chùa Từ Hiếu trong khi Phật giáo thì khuyên ta đừng mê ảo giác, đừng bị ảo giác lường gạt . 


Chính ông đã viết:
Có thể nói rằng giờ phút hào sảng nhất trong chuyến đi đã xảy ra tại chùa tổ Từ Hiếu, ngày mà tất cả các thầy và các sư cô của hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn quy tụ lại để tụng giới chung với nhau sau hơn mười năm bị chia rẽ. Thầy nhớ rất rõ cái hôm sau buổi pháp thoại tại chùa Từ Đàm thầy báo tin là cả hai phía Giáo Hội và Tăng Đoàn sẽ quy tụ về Chùa Tổ để tụng giới chung, tất cả mọi người đều đã khóc vì sung sướng!

(5).Về mặt tổ chức
Về mặt này , Nhất Hạnh là người cẩu thả và thiếu từ bi. Lâm Đồng là nơi heo hút, thiếu thực phẩm, thiếu tiện nghi. Trong một cái chùa ở Lâm Đồng, dù to kiểu nào cũng khó chứa nổi 400 ngưòi ăn ở, thuốc men.Ông làm như thế là "đem con bỏ chợ".
Cũng về mặt tổ chức, ông đưa chừng ấy người vào Bát Nhã, nhất là trước đây ông đưa người ở Pháp, Mỹ về Việt Nam trong một chính thể cộng sản tàn ác, trong khi ông ung dung ở ngoại quốc thì rõ là ông thiếu sáng suốt, thiếu trách nhiệm.


Tôi nghĩ rằng Nhất Hạnh là một kẻ không có Giới Định Tuệ nên đã nghe theo Cộng sản, làm tay sai cho cộng sản.Trước khi ông chưa viết hai bức thư, có nhiều người độc mồm độc miệng, , cho rằng đấy chẳng qua là cái khổ nhục kế của ông và mưu sâu cộng sản để lấy tiền xuất cảnh . Việt Cộng và ông ở giữa thủ lợi.Tôi không tin sau vụ ông Mai Chí THọ tổ chức vượt biên bán chính thức, lại có một "affaire" lớn lao như vậy do một người mặc áo cà sa đứng ra tổ chức!

Nay thì ông đã xin
tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, xin cho 400 vị của Tăng thân Bát Nhã được tạm thời nương náu ở Pháp Quốc để tiếp tục thực tập như một Tăng thân, cho đến khi nhà nước Việt Nam mở lòng cho phép Tăng thân Bát Nhã cũng được làm như thế ở ngay trên quê hương của mình! Như vậy, 400 người này là ở Việt Nam, trong đó không biết có bao gián điệp cộng sản và bao triệu phú đỏ cài vào? Lời lẽ khôn ngoan, mưu kế thâm sâu! Diệu kế! Diệu kế! Thành công, thành công! đại thành công!

Tương lai sẽ rõ là người Pháp có dễ dàng mắc mưu họ hay không và sự việc có xảy ra như vậy hay không. Nhiều đồng bào thiếu thiện cảm với Nhất Hạnh và nghi ngờ Nhất Hạnh gian trá.

Không biết ý kiến nào đúng. Không biết Nhất Hạnh bị cộng sản lừa dối, lợi dụng hay cả hai đang băt tay nhau? Hay Nhất Hạnh  lợi dụng cộng sản? Tuy nhiên qua việc này, các Phật tử thì nên thấu hiểu lời Phật dạy về tự lực. Giác ngộ là tự mình, đừng tin vào một ai. Đức Phật
dạy trong kinh Kamala:
"Ðừng vội tin tưởng những cái gì mà người ta thường lập đi lập lại luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một tập tục cổ truyền đã trải qua nhiều thời đại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là điều người ta hay đồn và hay nói đến luôn. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do bút tích thánh nhân xưa để lại. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là một luật lệ đặt ra từ lâu và được xem như là chánh đáng. Ðừng vội tin tưởng một điều gì dù điều đó là do quyền năng của một bậc thầy hoặc do quyền lực của một nhà truyền giáo. Tất cả những gì hợp với lý trí xét định, hãy tin ".
Tóm lại, đừng tin vào bộ áo thấy tu, bất cứ thầy tu tôn giáo nào, và đừng tin vào những lời gian dối của ma quỳ!

___

Để làm sáng tỏ vấn đề, xin đính kèm hai phụ lục.
PHỤ LỤC 1
1. Để hợp thức hoá tình trạng phá giới của mình, ông đã đưa ra một phương thức tu tập mới để thanh minh hành động của mình bằng cách ra cuốn Phật Giáo Hiện Đại Hoá xuất bản tại Sàigòn vào tháng 5-1965.

Ngày 11 tháng 9 năm 2001 là ngày mà Hoa Kỳ và cả Thế giới sửng sốt và đau thương vì khủng bố đã dùng phương tiện của chính người Mỹ đánh sập toà tháp đôi tại New York khiến trên 3000 người bị chết thảm, Nhất Hạnh phải là người cầu kinh để chia xẻ niềm đau thương nầy, trái lại, vào ngày thứ ba, 25-9-2001 lúc 7 giờ chiều, ông
đến Riverside Church ở thành phố New York kêu gọi hoà giải với những tên khủng bố, lại còn quảng cáo rùm beng trên tờ New York Times nguyên 2 trang A 5 và A 22 tốn hết 45,000 USD; trong đó có đăng câu trả lời của ông do ký giả Anne A Simpkinson hỏi, ông nói trong vụ Mậu Thân 1968, chỉ có vài tên du kích bắn vu vơ, lập tức Mỹ đem bom tới dội, tàn phá thành phố Bến Tre làm hư hại 300,000 căn nhà. Đây là đoạn văn được đưa lên tờ New York Times số ra ngày 25-9-2001, có cả hình ông ngồi chắp tay như đang cầu nguyện !

Sự thật thì trong vụ Mậu Thân 68, VC đã tấn công Thị xã Trúc Giang của tỉnh Bến Tre vào lúc 3 giờ sáng rạng ngày mồng 3 Tết âm lịch. Chúng đã pháo vào toà Hành Chánh tỉnh và Bản Doanh trung đoàn 10 của sư đoàn 7 bộ binh rất ác liệt nhưng không chiếm được. Đến 10 giờ sáng, 2 tiểu đoàn 3 và 4 của trung đoàn 10 BB chiến đấu dũng cảm trong thị xã và đã đẩy lui được VC ở khu vực Toà Hành Chánh, Bản Doanh Trung đoàn và bệnh viện thị xã. Các khu vực thương mãi, VC vẫn chiếm giử các cao ốc, trừ đài phát thanh. Đến chiều, 2 tiểu đoàn thuộc lử đoàn 2 bộ binh Hoa Kỳ tăng viện. Vào ngày mồng 4 tết, VC bỏ chạy để lại trận địa 300 xác và hơn 100 vũ khí đủ loại. Phía thuờng dân có 90 người chết và 50% nhà cửa bị hư hại. Chợ Thị xã Trúc Giang bị hủy hoại hoàn toàn. Tham dự trận đánh nầy, VC đã huy động 2000 lính chiến đấu gồm 2 tiểu đoàn tân lập 3 và 4, hai đại đội địa phương, nhiều trung đội du kích và dân quân. Thế nhưng Nhất Hạnh đã ăn gian, nói dối với báo chí quốc tế với dụng ý bôi nhọ quân đội Mỹ và quân lực VNCH. Trong khi đó tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế là sinh quán và nơi tu học Phật Pháp của ông, trong vụ Mậu Thân đồng bào của ông đã bị VC chôn sống, bị chém giết dã man, ông không lên án hành động bất nhân nầy cũng như chẳng có một lời phân ưu, chia buồn đến đồng hương của mình !
Lời tác giả: Bài viết này được lược trích từ bài “Sự Thật Che Giấu Sự thật” và đổi lại tựa đề cho đúng với hoàn cảnh thực tại của Sư ông Nhất Hạnh . Sư ông Nhất Hạnh đã phản bội lý tưởng của ông ta qua hai hành động về Việt Nam để
1) giải độc cho CSVN trong thời điểm mà Thế giới lên án CSVN đang khốc liệt đàn áp Tôn giáo, và 2) bành trướng môn phái Tu sĩ có quyền lấy vợ. ... Người viết xin được đưa ra một số sự thật như sau: Sự thật về sự khủng bố: 1) Vào ngày 11.9.2001, đã có trên dưới 7 ngàn dân Mỹ và các dân khác trên thế giới đã bị thiệt mạng dưới những khối bê tông cốt sắt khổng lồ tại Nữu Ước và Ngũ Giác Đài – Đó là sự thật! 2) Qua quá trình điều tra của cơ quan FBI, chính thực rõ ràng tên trùm khủng bố Osama Bin Laden và đồng bọn đã trực tiếp gây ra vụ thảm sát đẫm máu này – Đó là sự thật! 3) Nếu vì lý do bất đồng chính kiến với một thể chế chính trị nào đó, Laden có thể nhắm ngay đầu não của một chính quyền, là một chuyện khác; nhưng thật sự Laden đã cố tình giết hại những người dân vô tội tại Trung tâm Mậu dịch Quốc tế . Rõ ràng Laden và đồng bọn là những tên sát nhân, thú vật, mất hết lương tri, cố tình diệt chủng, không thua gì Cộng sản Việt Nam– Đó là sự thật! 4) Chính quyền Taliban đã đập nát tất cả những tượng Phật, di tích Phật giáo có tầm cỡ lịch sử, hủy diệt một nền văn hóa có tự ngàn xưa, đã chứng tỏ cho thế giới thấy được sự thật về những hành động dã man của bọn chúng . Thể chế chính quyền Taliban hiện nay đang diệt chủng, diệt tông, không thể tha thứ – Điều này không thể chối cãi! Sự thật về Thiền sư Nhất Hạnh: 1) Thiền sư Nhất Hạnh đã cố tình quên đi hành động dã man của tập đoàn khủng bố, mặc nhiên trước những sinh linh vô tội, nỗi đau đớn của thân nhân và nhân dân Hoa Kỳ, nỗi lo sợ của toàn thế giới trước âm mưu tiêu diệt nhân loại của tập đoàn này qua biến cố vừa qua . Trước nỗi thống khổ của nhân loại, Thiền sư đã không thể hiện tinh thần Bồ tát đạo, cứu độ chúng sinh qua lời Phật dạy trong Lục Độ Thập Kinh: “Bồ tát thấy dân kêu ca, do vậy, xông mình vào nơi chính trị hà khắc để cứu muôn dân ra khỏi chốn lầm than” . Đó là sự thật! 2) Từ ngày bọn Cộng sản áp đặt nền chuyên chính trên toàn nước Việt, chúng ra sức bóc lột nhân dân, tham nhũng cực độ, đàn áp khốc liệt, tiêu diệt tôn giáo, khủng bố chứng nhân và các nhà ái quốc yêu tự do, thủ tiêu Hòa thượng Thích Thiện Minh, Hòa thượng Thích Trí Thủ… giam cầm và quản chế Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ… thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một Giáo hội Dân lập được truyền thừa gần 2000 năm của Lịch Đại Tổ Sư, một Giáo hội đã dày công nuôi dưỡng Thiền sư Nhất Hạnh và nhờ sự trưởng dưỡng đó mới được đến ngày nay, thế mà khi Giáo hội trong cơn Pháp nạn, kêu cứu từ hơn một phần tư thế kỷ qua mà sư vẫn thiền, vẫn còn tự cho mình là “nhất hạnh” . Đó là sự thật! 3) Sư Nhất Hạnh đã chọn thành phố New York để tổ chức một buổi thuyết trình, Thiền sư đã quảng cáo 2 lần, một lần ¼ trang và sau đó quảng cáo nguyên trang . Trong quảng cáo có đăng bài thơ với phần ghi chú rằng, Bến Tre - thị xã ba trăm ngàn dân - đã bị phá hủy chỉ vì 7 du kích bắn vu vơ. Trong quảng cáo lần thứ nhì, con số “7” bị rút đi vì gặp sự phản ứng của dư luận, nhất là qua cuộc Họp Mặt Cho Sự Thật tại miền Nam Cali vào ngày 14.10.2001 đã minh xác lời của Thiền Sư Nhất Hạnh là sai trái . Đó là sự thật! 4) Sư Nhất Hạnh đã buộc tội quân đội Việt Nam Cộng hòa và Đồng minh Hoa Kỳ một cách hàm hồ như sau: - Chỉ có “7” hoặc “vài” du kích quân Việt Cộng vào thành phố . - Du kích quân bắn máy bay Mỹ, không trúng . - Du kích quân rút đi . - Mỹ ném bom hủy diệt thành phố ba trăm ngàn dân Bến Tre . - Viên chức Mỹ tuyên bố: hủy diệt thành phố Bến Tre để cứu nó . ... Những hành vi như đã kể ra ở trên chứng tỏ Thiền sư Nhất Hạnh đã đi ngược lại với nguyện vọng đấu tranh cho công lý của mọi người, thiết thực nhất là nguyện vọng đấu tranh đòi hỏi Cộng sản phải thực thi tự do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam của toàn thể Người Việt Tỵ nạn Cộng sản ở Hải ngoại . . . .Phạm Cố Quốc http://www.thienlybuutoa.org/Misc/SuPhanBoi.htm
*

18.ĐỘC LẬP & TỰ DO CHO VIỆT NAM


Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã tích cực tranh đấu cho độc lập và tự do của Việt Nam.Sau 1945, và sau 1975, nhân dân Việt Nam lại phải lên đường làm những cuộc tranh đấu nữa cho độc lập và tự do của Việt Nam.

Cộng sản cũng hô hào tranh đấu cho độc lập và tự do cho Việt Nam nhưng đó là độc lập và tự do giả hiệu. Dưới ách cộng sản, dân ta không có tự do, dân chủ. Cộng sản sát hại, giam cầm những nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ. Chúng tước đoạt mọi quyền tự do như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do cư trú, tự do lao động. Chúng cướp đất đai, tài sản của nhân dân và của các giáo hội. . .

Dưới ách cộng sản, nước ta cũng không có độc lập vì nước ta bị lệ thuộc Nga Tàu, nhất là hiện nay, nước ta đang đứng trước hiểm họa bị Trung Cộng xâm lược.
Trung cộng không những là hiểm họa của dân tộc Việt Nam mà còn là mối đe dọa hoà bình thế giới. Sau khi Mỹ rút lui khỏi Việt Nam, và Liên Xô không còn xưng hùng xưng bá nữa, Trung Cộng quyết tâm xâm chiếm Thái Bình dương và bành trướng khắp thế giới.

Chúng đã đến Cao Nguyên và xâm chiếm nhiều địa điểm tại Việt Nam dưới hỉnh thức xâm lược kinh tế nhưng sự thực đó là những đội quân tiền phong của đế quốc Trung Cộng. Nhưng quan trọng nhất là chúng đã cho người của chúng nắm chính quyền Việt Nam. Bọn cộng sản Việt Nam nay là những tên bù nhìn, nô lệ Trung Quốc. Chúng là những Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống cắt đất dâng ngọai bang, rước voi về giày mả tổ. Trong đại hội đảng cộng sản Việt Nam kỳ trước, Hồ Cẩm Đào đã sang chủ tọa và ra lịnh cho bọn cộng sản Việt Nam phải bầu cho Nông Đức Mạnh tiếp tục làm Tổng bí thư để phục vụ quyền lợi Trung Quốc. Đó là một bằng chứng cụ thể cho việc cộng sản bán nước, nô lệ Trung Quốc.

Trước sự xâm lược của Trung Quốc, bọn lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ biết cúi đầu tuân lệnh trong khi chúng hung hãn khủng bố nhân dân, bỏ tù các nhà báo, nhà tranh đấu , sinh viên, học sinh và thanh niên lên tiếng chống Trung Quốc xâm lược.

Trước nguy cơ này, nhân dân ta có hai nhiệm vụ song song:

1-Tranh đấu cho tự do, dân chủ tại Việt Nam

Phải lật đổ, phải tiêu diệt cộng sản để đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.Còn cộng sản thì tổ quốc bị phản bội, nhân dân bị khủng bố và bị bóc lột. Chúng ta không thể nào tin tưởng vào những lời giả dối của cộng sản Việt Nam.

2-Tranh đấu chống Trung Quốc xâm lược

Ông cha ta đã tốn xưong máu xây dựng tổ quốc Việt Nam nhưng bọn Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Đỗ Mười, Nông Đức Mạnh đã bán nước cho Trung Quốc, cam tâm làm nô lệ Trung Quốc. Chúng ta phải tranh đấu đòi lại núi sông và biển cả đã và đang bị xâm lược.

Cộng sản là trở ngại chính cho công cuộc giải phóng dân tộc vì hầu hết bọn chúng đã bán linh hồn cho Trung Quốc.Còn cộng sản là còn nô lệ cho Trung Quốc và nô lệ cho giai cấp cộng sản thống trị tàn ác và hèn nhát.

Tự nhân dân ta phải tranh đấu đòi tự do, hạnh phúc cho mình và độc lập cho Tổ quốc. Phải tiêu diệt cộng sản, ta mới xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh để đem lại tự do, dân chủ cho nhân dân và đương đầu với Trung Quốc và các thế lực xâm lược. Phải tiêu diệt cộng sản, chúng ta mới được thế giới ủng hộ trong công cuộc vệ quốc và kiến quốc.
Chúng ta phải tiêu diệt cộng sản thì mới có thể đoàn kết với các nước lân bang và các các cường quốc trên thế giới để chống bá quyền Trung Quốc.
Phải giải trừ cộng sản thì nhân dân quốc nội và quốc ngoại mới cùng nhau đoàn kết xây dựng Việt Nam thực sự độc lập, tư do và dân chủ.

Nếu nhân dân ta cúi đầu theo lệnh Trung Cộng và Việt Cộng, thì không bao lâu, bản đồ Việt Nam và nòi giống Việt Nam sẽ không còn tồn tại.

                                                                               


19. HỘI NGHỊ VIỆT KIỀU TẠI HÀ NỘI


Cộng sản Việt Nam đã tổ chức hội nghị người Việt trên thế giới vào ngày 21 tháng 11 năm 2009 tại Trung Tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội và bế mạc ngày 23-11-2009.

Hà Nội loan tin có 1000 đại biểu Việt kiều về tham dự, có tin chỉ có 900. Họ là ai? Làm sao họ là đại biểu cho Việt kiều? Các dân biểu cộng sản cũng chỉ là nghị gật, là kết quả của nền dân chủ giả hiệu, không đại biểu cho ai, huống hồ các ông bà Việt kiều này ! Danh từ đại biểu là một danh từ lường gạt.

Theo Hà Nội, hội nghị sẽ thảo luận 4 chuyên đề:
- “Xây dựng cộng đồng người VN ở nước ngoài đoàn kết vững mạnh, thành đạt và hướng về đất nước”
- “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc trong cộng đồng người VN ở nước ngoài”
- “Chuyên gia, trí thức kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước”
- “Doanh nhân kiều bào góp phần vào sự nghiệp xây dựng đất nước”
http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=37&sub=130&article=162073
Không có mấy tay đặc biệt được giới thiệu ngoài Nguyễn Cao Kỳ. Cộng sản khua chiêng gióng trống nhưng xem ra không mấy thành công vì hơn bốn triệu người hải ngoại mà chỉ móc nối được một ngàn ư? Hơn nữa, phần đông là vô danh tiểu tốt. Nhìn chung, hạng trên dù là bác sĩ, kỹ sư cũng chỉ là bọn tham tiền, tham danh lợi dù chúng đã già 70- 80 như hai lão họ Nguyễn họ Phạm và các bà lão khác tân trang để thành đàn bà trẻ trong nghệ thuật kinh doanh!

*
Chúng ta không có danh sách và theo dõi cuộc họp tại Hà Nội đầy đủ, nhưng ta có thể đoán là hội nghị có nhiều thành phần:
+ Những người muốn về làm ăn.
+Những người muốn nhân cơ hội này về thăm nhà, đỡ tốn tiền và có thể hãnh diện với anh em, bà con.
+Một số lưu manh, sinh viên được mời về với hứa hẹn cung đốn mọi thứ kể cả vé may bay, khách sạn, ăn uống, du lịch và tiền biếu xén.
+ Có lẽ có khoảng 500 công an mặc veston giả làm Việt kiều để theo dõi Việt kiều và giữ gìn an ninh.
+Và một số quan khách các bộ viện, cơ quan cho đông đúc. Báo Nhân Dân thì nói 500 đại biểu .
+Một số nhạc sĩ, ca sĩ trong nước và hải ngoại như Lệ Thu, Hương Lan, Phi Nhung. . .

Như vậy hội trường chật ních, không biết thật là có mấy Việt kiều vì con số Việt cộng đưa ra luôn luôn là thổi phòng ba bốn lần, có khi mười lần hơn!


Cộng sản đã thành tinh, bao giở cũng thủ đoạn mà số người mắc câu cũng nhiều.

Mục đích chính của Cộng sản là muốn tuyên truyền cho thế giới biết rằng dù trước đây ta coi bọn Việt kiều là bọn Mỹ Ngụy, bọn bán nước, và ta đã bỏ tù chúng, khủng bố chúng, làm cho chúng thất nghiệp, đói khổ, khiến chúng phải chạy ra ngoại quốc, nhưng nay chúng lại trở về đấu hàng Cộng sản ta. Việc này chúng đã thành công vì một số Việt kiều đã về Việt nam sinh sống như gia đình Nguyễn Kỳ Cục , gia đình Phạm Phòng.

Một số về rồi lại đi hoặc bị đánh đuổi như Thích Vô Hạnh và 300 đệ tử theo ông. Dẫu sao ông già này bây giờ bị hụt hẩng, tẽn tò nhưng ông cũng đã giúp sức cho cộng sản được rút tên ra khỏi danh sách những quốc già mất tư do, đàn áp tôn giáo.

Ngoài ra còn có những tên nào chạy theo Việt cộng như tiến sĩ giáo sư Bùi Duy Tâm khăn đóng áo dài khấu đầu trước bọn cộng sản tại Houston, mà chúng có mời họ vể Hà Nội không? Ông này trước kia cũng nhi nhô theo cộng sản sao không ở lại xây dựng XHCN mà lại sang Mỹ?
www.tuoitrevhn.com/?act=news&cat=23=23&id=36750 - 53k

Mục đích thứ hai là đánh phá Việt kiều hải ngoại. Chúng đã đưa người và tiền bạc ra hải ngoại một phần để chuyển ngân, chuyển gia tài, một phần là mua chuộc, dụ dỗ và phá hoại các cộng đồng theo nghị quyết 36.
Mục đích thứ ba là vuốt ve Việt Kiều, mong muốn Việt kiều bỏ thêm tiền làm giàu cho chúng mặc dầu chúng đã tham nhũng, bán nước, bán đất, cướp nhà dân nhưng chúng vẫn muốn thiên hạ gừi tiến về cũng như Mỹ viện trợ cho chúng nào quân sự, giáo dục, y tế để chúng làm giàu thêm. Việc này chúng cũng thành công. Một số về làm ăn, đa số gửi tiền về cho thân nhân, không phải giúp Việt cộng nhưng Việt cộng có lợi là chúng chỉ việc in tiền giấy thu về đô la ngon lành.

Chúng vuốt ve những Việt kiều vì tiền vì lợi mà theo chúng chứ chúng không yêu tất cả Việt kiều.
Nếu chúng yêu Việt kiều thì phải yêu nhân dân trong nước. Chúng không yêu nhân dân trong nước, sao lại yêu Việt kiều? Đó là lừa dối. Cộng sản không yêu nhân dân, không yêu vô sản, chúng chỉ yêu chúng, yêu tiền tài và quyền lực. Chúng không yêu nhân dân vì chúng cướp tài sản và tự do, dân chủ của nhân dân. Chúng không yêu nước vì chúng bán nước cho Trung Cộng, cam tâm làm nô lệ cho Trung Cộng. Chúng cướp đất cuả các giáo hội và nhân dân. Phong trào dân oan và các vụ Thái Hà, Tam tòa là những minh chứng cụ thể về sự phản quốc hại dân của cộng sản và lòng uất hận của nhân dân đối với cộng sản.

Nếu chúng yêu nhân dân thật sự, sao chúng không trả quyền tự do cho Lm Lý, để cho hoà thượng Quảng Độ tự do đi lại và tự do hoạt động tôn giáo? Nếu chúng yêu dân, chúng phải trả tự do các tù nhân chính trị. Nếu yêu dân, tại sao chúng không trả lại đất đai cho nhân dân và các giáo hội?

Chúng nói thảo luận ư? Cộng sản độc tài đâu chịu nghe ý kiến ai. Nếu chúng biết nghe nhân dân, chúng đã cho nhân dân quyền tự do ngôn luận, cho tư nhân ra báo. Nếu chúng nghe ý kiến văn nghệ sĩ, chúng đã không hành hạ Nhân Văn Giai Phẩm. Các báo Sông Hương, Tuổi Trẻ và các blog bị đóng cửa, bị trừng phạt, và một số văn nghệ sĩ đã bị tù đày vì dám phê bình đảng độc tài, tham nhũng và cúi đầu dâng đất nước cho Trung cộng.
Cộng sản muốn Việt kiều về đóng góp ư? Góp tiền thì chúng sẵn sàng, nhưng góp người thì không. Chúng chỉ cần tiền, không cần người. Đưa tiền về chúng sẽ lột mà người còn bị tù đày. Chúng nói đoàn kết ư? Chúng thương khúc ruột ngàn dặm ư? Nếu thế, tất cả những ai muốn về nước đều có quyền về nước sao chúng không cấp chiếu khán nhập cảnh cho những ai chúng ghét. Chúng yêu Việt kiều sao chúng phá hoại công khai và âm thầm các cộng đồng Việt Nam? Nếu chúng yêu Việt kiều tại sao chúng phá nghĩa trang Biên Hòa? Phá nghĩa trang ở Pulau Galang, Indonesia? Tất nhiên chúng không ra tay, chúng chỉ đứng đàng sau gây áp lực hoặc chi tiền cho bọn lưu manh phá hoại.

Sự thật thì chúng không yêu Việt kiều, yêu dân. Các Việt kiều bị coi như CIA hay những con mồi cho chúng làm thịt.
-Trần Trường tay sai cho Việt Cộng ở Mỹ, về đầu tư đào ao nuôi cá, rồi cũng bị khốn đốn ;
-Ông Đỗ Thành Công, Việt kiều Mỹ, về thăm gia đình ở Phan Thiết, bị Công an bắt giam, chụp mũ là khủng bố, bị kết tội bịa đặt là âm mưu đánh phá Toà đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội…

Ngoài ra một số Việt kiều bị giết. . .

Cộng sản không cần Việt kiều, không cần trí thức. Trí thức chỉ để trang trí như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Ngụy Như Kontum. Gần đây nhóm trí thức Viện Nghiên Cứu Phát Triển (Institute of Development Studies, IDS), một cơ quan nghiên cứu độc lập, quy tụ nhiều trí thức hàng đầu Việt Nam, vừa công bố quyết định tự giải thể vào ngày 14 Tháng Chín, 2009, để biểu thị sự phản đối Quyết Ðịnh 97 của chính phủ Việt Nam.
http://caotraonhanban.net/index.php?option=com_content&view=article&id=599:phn-i-chinh-ph-vn-nhom-tri-thc-hang-u-t-gii-tan-&catid=23:thi-s&Itemid=42

Chúng kêu gọi Việt kiều xây dựng văn hóa ư? Nền giáo dục Việt Nam đang sa lầy, lãnh tụ Cộng sản văn hóa lớp ba, nền giáo dục XHCN đã sản xuất hàng loạt thạc sĩ, tiến sĩ giả mà dám khuyên Việt kiều lo xây dựng và bảo tồn văn hóa ư? Tại hải ngoại chúng ta đã xây dựng một nền văn học, nghệ thuật, chúng ta bảo tồn các phong tục tập quán Việt Nam về hôn nhân, y phục, lễ tết. Chúng ta có hàng trăm ngàn chuyên gia tài ba đủ loại.Sau đây là một vài vị tiêu biểu :
-GS. Nguyễn Xuân Vinh,hiện là giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) của Đại học Michigan ở Hoa Kỳ.
-TS. Đỗ Đức Cường, Canada, chế máy rút tiền ATM
-Kỹ sư Phạm Ngoc Quỳ, Pháp, xây cất công trình Hibernia để hút dầu và bơm dầu ngoài khơi
-Khoa học gia Dương Nguyệt Ánh tại Hoa Kỳ,
-Thẩm Phán Jacqueline Nguyễn được TT Obama Ðề Cử Vào Toà Án Liên Bang Hoa Kỳ
-Bộ trưởng y tế Philipp Rösler tại Đức
-Giáo sư Trịnh Xuân Thuận tại Pháp.
-Tân giám mục Nguyễn Mạnh Hiếu tại Canada.
-Nữ Tiến Sĩ Nguyễn Kiều Liên ở tuổi 25 tại đại học Cambridge Anh quốc.
-Giáo Sư Châu Kim Quới, có tên Thái Lan là Thawi Swangpanyangkoon tại Thái Lan.

http://www.thegioinguoiviet.net/forumdisplay.php?f=60

Họ kêu gọi xây dựng văn hóa trong khi họ phá hoại đình chùa . Nay chúng sơn phết các cung đình miếu mạo, chùa chiền là muốn phát triển ngành du lịch và ăn tiền UNESCO Liên Hiệp Quốc chứ không phải vì văn hóa. Nếu vì văn hóa chúng đã không phá hủy di tích Thái Hà và Tam Tòa.

Công sản không bao giờ yêu dân, nhất là những dân đã bỏ nước ra đi.. Họ đã kết tội những người này là bán nước, theo Mỹ ngụy, họ đã bị tù, bị tịch thu nhà cửa. Tại trại Hồng Kông, cộng sản nhận người hồi hương vì quốc tế trả tiền cho chúng bỏ túi. Cộng sản chấp nhận người Việt ra đi tự do cũng vì quốc tế chi tiền cho chúng. Chúng không chấp nhận dân Việt ở Đông Đức hồi hương vì chúng không muốn tăng số người thất nghiệp trong nước. Nếu nước Đức chi tiền kha khá thì Cộng sản chấp nhận.

Chúng kêu gọi Việt kiều về giúp nước là hoàn toàn giả dối. Chúng đâu muốn Việt kiều ồ ạt về chiếm chỗ ngon của chúng và con em chúng! Chúng cũng không muốn hàng chục ngàn Việt kiều về làm gia tăng người thất nghiệp trong nước và tăng giá cả thị trường.
Những lời ngon ngọt nào yêu nước, xây dựng đất nước chỉ là những lời đầu môi chót lưỡi. Làm sao có đối thoại khi họ độc tài bịt miệng nhân dân? Làm sao xây dựng kinh tế khi họ làm ăn gian dối, tham nhũng, phá hoại kinh tế và phá hoại quốc gia? Họ kêu gọi Việt kiều bỏ vốn đầu tư trong khi họ đem tiền ra ngoại quốc chuẩn bị cho một ngày tháo chạy khi nhân dân đứng lên và thế giới thay đổi!


Tổ chức hội nghị Việt Kiều tại Hà Nội là quá chậm, đáng lẽ nếu khôn họ phải tổ chức sớm hơn vào khoảng 1990-2000. Có lẽ họ cũng nghĩ như thế nhưng họ phải tốn công liên lạc, tìm kiếm những con mồi. Phải mất mười năm trời chạy ngược chạy xuôi mà chẳng thu hút được bao nhiêu Việt kiều hải ngoại.

Tổ chức khá tốn kém thì ban tổ chức có dịp no nê, và một sô quân sĩ cũng được bổng lộc khá hậu. Ngoài ra, một số ăn theo, được tặng vé máy bay, mời đi du lịch, ở khách sạn thế là cả hai bên vui vẻ. Còn thái độ Việt kiều hải ngoại thì thờ ơ, cái trò khỉ " Tiểu Diên Hồng" đó chẳng qua là một màn múa rối thôi, chẳng có gì quan trọng mà phải để tâm. Để xem sau cái vụ này, những "Việt kiều yêu nước " về cúi lạy cộng sản là ai. Cùng lắm là thêm một vài ông Kỳ Cục, ông Phạm Phòng? và các ca sĩ như Lệ Thu, Phi Nhung, Hương Lan. . . Những người này được mua giá cao. Dẫu sao Việt kiều yêu nước Thích Vô Hạnh đã bể mặt rồi, còn những người khác ra sao? Rất nhiều người đã ngậm đắng nuốt cay.

Cộng sản nhiều gian kế và con người XHCN cũng lắm âm mưu lường gạt không bao giờ có thành tín và nhân nghĩa. Cộng sản phản phúc vô lường, qua cầu rút ván, ăn cháo đá bát. Ngay cả Trung Quốc cũng đã bị Lê Duẩn đá hậu sau khi đã ký hiệp định liên minh với Nga. Việt Nam cũng đã chừi Đặng Tiểu Bình, Gorbachev mà nay họ lại lạy lục Nga Hoa. Thích Nhất Hạnh đã tin vào cuộc gặp mặt với Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Võ Nguyên Giáp mà bán mạng cho cộng sản. Giải phóng miền Nam cũng bị tiêu diệt vì tính cách phản phúc của cộng sản. Tất cả việc làm của cộng sản là lường gạt, là phản trắc, hạị dân, hại nước. Không thể tin vào một tên cộng sản nào!

Tại hải ngoại, tôi đôi khi nghe lớp già, lớp trẻ phát biểu sẽ gửi tiền cứu trợ, sẽ về giúp nước! Nếu quý bạn về trao tiền tận tay nạn nhân là điều tốt. Mà điều này cũng chưa chắc. Tại Việt Nam, có trại tỵ nạn Kampuchia ở Sài gòn. Thường ngày, các nạn nhân có quyền đi khắp nơi làm ăn, nhưng khi có quốc tế đến cứu trợ, sẽ có thông báo thì phải trở về nhận tiền gạo. Nhận xong, khi quốc tế ra đi, các nạn nhân phải trả lại tiền và tặng vật cho cộng sản. Các em, các cháu muốn về giúp nước ư? Nước Việt Nam nào? Nước Việt nam cộng sản đang bị đàn ap, bóc lột nhân dân và bán nước cho Trung Cộng. Các anh, các em, các cháu muốn tiếp tay cho kẻ ác giết hại, kìm kẹp nhân và bán nước sao?

*

Trước đây, trước 1975 những tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư học ở Pháp Mỹ thì trở về giúp nước, vì nước ta lúc đó là nước Việt Nam tư do. Họ về với đất nước và gia đình. Hơn nữa quốc gia cần người thật sự. Họ trở về và có một địa vị nhất định theo chuyên môn của họ. Các bộ viện cơ quan, các Viện Đại học Sài gòn, Huế, Cần Thơ chính là cái nôi văn hóa do các trí thức trở về giúp nước. Trước 1975, một số tướng tá và phú gia cộng hòa cho con sang Pháp du học, một số chúng trở về Hà Nội làm tay sai cho cộng sản nhưng cấp bậc cũng chỉ là đệ tử cái bang trong ban Việt kiều yêu nước! Trong hàng ngũ lãnh đạo và trí thức cộng sản hiện nay, rất hiếm người ngoài đảng, lại càng rất hiếm Việt kiều.

*
Tại ngoại quốc, ai cũng phải học để có bằng hành nghề dù làm thợ cắt tóc hay làm móng tay. Cái văn bằng tại Việt Nam là vô giá trị. Học xong phải kiếm việc làm. Không có việc làm là đau khổ mặc dù chính phủ trợ cấp xã hội nhưng việc này còn tùy ở các nước.

Nếu có vợ thì không thể bỏ vợ mà về Việt nam dài hạn. Lẽ tất nhiên tình yêu là quan trọng nhưng còn nhiều vấn đề phức tạp khác. Ai chở vợ đi làm? Ai chở con đi học? Ai chở vợ đi mua sắm hàng tuần. Vẫn biết, một số bà biết lái xe nhưng đa số thì không quen lái xe nhất là lái xe trên đường cao tốc .

Nếu mua nhà, phải kéo cày hai ba chục năm. Về Việt nam thì làm sao trả nợ nhà, nợ xe, nơ học phí đã mượn ngân hàng. Nếu thuê nhà, thuê phòng, mỗi tháng phải trả khoảng một ngàn đô la tiền nhà và vài trăm tiền điện nước, về Việt nam lương bao nhiêu để trả những thứ này nếu ông Việt kiều có vợ, có con ở lại ngoại quốc. Đem vợ con về Việt Nam, họ có chịu theo ông không?
Nếu bà vợ chịu, mấy đứa trẻ chưa chắc bằng lòng vì về Việt Nam mấy ngày chúng đã tỡn đến già! Hơn nữa, trong khi cán bộ Việt Nam cho con sang Âu Mỹ học, ông lại bắt con ông về Việt Nam học lấy cái bằng Việt Nam để trở thành tờ giấy lộn ở Âu Mỹ ư?

Một số có công ăn việc làm tại Âu Mỹ, có thể bỏ công việc mà về Việt Nam sao? Về Việt Nam lương bao nhiêu? Có chắc chắn không?
Một số ở ngành nghiên cứu, về Việt Nam đâu có phương tiện cho họ nghiên cứu?
Một số vì sức khỏe, không thể về Việt Nam, mặc dầu một số không thích khí hậu và cuộc sống hải ngoại đã trở về Việt Nam.
Hơn nữa, tình hình chính trị Việt Nam rất bấp bênh. Có thể Trung Cộng chiếm đánh, có thể dân chúng khởi loạn, và Việt Cộng có thể tàn sát bắt cứ ai. Việt kiều sẽ là nạn nhân đầu tiên vì bị nghi là CIA!

*
Hiện nay, Việt Nam không tiện cho việc trở về.
+Khí hậu khắc nghiệt. Nắng, mưa lụt, bụi bặm, ô nhiễm môi trường
+Y tế lạc hậu và tham nhũng
+Chính quyền tham nhũng, tàn ác, thuế má và luật lệ vô thường.
+ Người XHCN trong bao năm bị tuyên truyền nên ghét Mỹ và tư bản. Họ nhìn người Sài gòn và người ở ngoại quốc bằng đôi mắt thù hận và khinh bỉ.Họ muốn lừa đảo, họ muốn trấn lột hoặc chế diễu. Ngay anh em, chị em một số cũng muốn trấn lột ngoại kiều. Họ lợi dụng nhà cửa, mồ mả tổ tiên, nuôi cha mẹ để lường gạt Việt kiều.
+Nếu chính phủ hay tổ chức nào mời mọc về là có dụng ý. Để tuyên truyền. Để trang trí hoặc để lừa gạt. Họ cho anh một chức vụ gì đó, họ ăn ốc mà anh phải đổ vỏ, phải ngồi tù cho họ tháo thân.


Những người muốn về ở hay kinh doanh tại Việt Nam gặp nhiều khó khăn. (1)
+Muốn về dưỡng già chết tại quê hương, các Việt Kiều phải nộp luôn cho nhà nước các giấy tờ như passport, thẻ y tế, thẻ quốc tịch, thẻ xanh... bởi vì các Việt kiều phải từ bỏ quốc tịch ngoại quốc để nhập tịch Việt Nam trở lại..
+Một số già về thăm con có thể ở chui, tháng tháng nộp một ít tiền cho Công an phường khóm thì có thể được ở thêm một thời gian. Cứ như thế mãi.. .
+Những Việt kiều nếu bị bệnh phải chị viện phí rất đắt, tiền thuốc men, tiền trà nước. Khi chết thì còn phải chờ đảng cho phép nằm ở đâu, giá biểu là bao? Tất nhiên, Việt kiều là được ưu tiên tính giá đặc biệt. Nhưng cũng có Việt kiều về bị đụng xe chết, phải nằm ngoài đường vài ba ngày để chờ công an đến khám, điều tra lý lịch và gia thế sau mới được chôn cất. . .
+Những ai muốn kinh doanh phải làm thủ tục, trong đó phải bỏ vào 50 ngàn hay mấy trăm ngàn vào ngân hàng cộng sản. Gửi vô thì để nhà nước giữ cho, Việt kiều không được rút ra hết tất cả, mà cũng rất khó ra một số tiền nhỏ.. Tiền này coi như hụi chết. Ngoài ra còn khoản trà nước, tình cho không, biếu không không phải là nhỏ!

+Những Việt kiều về kinh doanh, mỗi năm phải bỏ về nước ba tháng để công ty cho CS kiểm soát. Nếu buồn, họ bảo Việt Kiều đừng trở lại nữa vì giấy phép hết hạn. . . Cũng có thể họ bắt giam bạn vì họ nói bạn thiếu thuế, xậy cất bất hợp pháp. Cũng có thể bạn bị kết tội vì chứa em út hay buôn xì ke, ma tuý.

Nhiều tấm gương Việt kiều kinh doanh đã bị cướp, bị tù như :
-Ông Nguyễn Trung Trực, Việt kiều Úc về đầu tư ngành ngân hàng, bảo hiểm;
-Ông Trịnh Vĩnh Bình, Việt kiều, vua chả giò Hòa Lan về đầu tư ngành dầu hỏa;
-Ông Nguyễn Gia Thiều, Việt kiều Pháp (chồng hoa hậu Hà Kiều Anh) về đầu tư ngành viễn thông ;
-Ông Nguyễn An Trung, Việt kiều Nhật, về VN làm giám đốc Công ty Sài Gòn Ôtô ;
-Ông Nguyễn Đình Hoan, Việt kiều Mỹ, về đầu tư giáo dục…


*


Trung Cộng nay cũng kêu gọi Hoa kiều trở về. Trung Cộng là thật tâm vì sau một thời gian đánh đuổi Hoa kiều và khinh miệt trí thức, nay cộng sản muốn Hoa kiều, đặc biệt là trí thức trở về giúp họ chế tạo vũ khí trong chiến lược đánh phá tư bản Mỹ và toàn cầu.

Còn Cộng sản Việt Nam là giả dối vì họ cần tiền, cần tuyên truyền, không cần người. Marx nói
" con người là vốn quý" , nhưng cộng sản nói chung và cộng sản Việt Nam quý tiền hơn quý người. Cộng sản xuất khẩu người đi không hết, đâu cần người về! Họ chỉ cần một số nhỏ lợi cho sự tuyên truyền và túi tiền của họ như ông Phạm Phòng, Kỳ Cục, Vô Hạnh và các ca sĩ Hương Lan, Lệ Thu, Phi Nhung thôi. ! Thế cũng đủ rồi!

*

CHÚ THÍCH
(1). Như trường hợp ông Nguyễn Trung Trực, Việt Kiều Úc, chủ công ty Peregrine Investment. Làm ăn thua lỗ vì luật nầy cứ quàng chéo với luật khác, luật trung ương và luật địa phương nhiều khi choảng nhau nẩy lửa. Thế mà cứ buộc phải hối lộ cho quan chức từ trung ương đến địa phương, từ công an đến thuế vụ đều đều cho đến khi kiệt huệ thì bị tịch thu tài sản và đi tù về tội "trốn thuế". Trong hồ sơ truy tố ông Trực của Viện Kiểm Soát Nhân Dân có đoạn ghi "cơ quan chức năng chỉ tìm thấy một hóa đơn mua nước đá cho công nhân uống trong dịp lễ Độc Lập, 2 tháng 9, thế mà bị can cố tình ghi vào sổ chi đến hai lần; cố tình trốn thuế; cố tình gây phương hại đến tài sản XHCN mà luật thuế đã được chính phủ ban hành qua Nghị Quyết số 723TV/CP. Căn cứ theo tang chứng trên, VKSNN đề nghị qúi tòa dành cho bị án hình phạt nặng nhất đúng với qui định của hiến pháp để làm gương cho kẻ khác". Xong... thế là xong một đời của Việt Kiều Nguyễn Trung Trực, chỉ vì mua nước đá cho công nhân có một lần mà cố tình khai tới hai lần.

Có đôi vợ chồng trẻ kia mang về đây vài trăm ngàn Mỹ Kim để đầu tư sản xuất kem đánh răng và xà bông. Qua vài chục ải giấy tờ và vài chục giấy phép khác nhau tốn gần một năm và một phần ba số vốn. Đến khi bắt đầu sản xuất thì các cơ quan thuế vụ sắp hàng đến thăm hàng ngày, không cho tiền thì bị phạt đủ thứ tội. Rồi bọn kiểm kê chất lượng sản phẩm đến thăm xã giao vài lần một tuần. Phòng lao động đến thăm công nhân, xem xét tiêu chuẩn an toàn lao động. Công an đến thăm ông chủ và nhắc nhở không được mướn người không có hộ khẩu thành phố. Cơ quan điện lực đến thanh tra thử xem có xài điện lãng phí và vượt chỉ tiêu quy định không. Cảnh sát giao thông bu lại làm khó dể các xe giao hàng. Tất cả các quan chức nhà nước nối đuôi nhau đến thăm hãng hàng ngày chỉ là cái cớ để làm tiền. Một đám ruồi đông như thế bu lại thì cái thớt có tanh tao đến mấy cũng... banh càng. Chưa hết! Đồng chí Mai Tư, xếp sòng cơ quan quản lý người nước ngoài của Sài Gòn một thuở, không muốn tiền mà chỉ muốn... tình. Muốn làm ăn lâu dài thì phải gia hạng visa sau mỗi ba tháng. Muốn được gia hạn thì cô chủ mi-nhon kia phải biết điều, phải đi nghĩ mát với quan Mai Tư ở Dà Lạt mờ sương một tuần. Thế là cặp vợ chồng trẻ đó phải bán đổ, bán tháo chạy về Mỹ vì hết hạn visạ Nếu liều mình ở lại bám lấy của thì sẽ bị trục xuất hoặc vào tù vì cư trú bất hợp pháp.

Vẫn chưa hết... Các tổ dân phố, phường, quận, sở cử người lại nườm nượp xin tiền ủy lạo thương binh, giúp trường tiểu học Măng Non, xin cho qủy kiến thiết đất nước, qủy giúp các bà mẹ chiến sĩ, qủy nhà tình nghĩa, qủy an ninh khu phố, qủy phòng cháy chửa cháy, qủy vệ sinh thành phố, qủy nâng cấp hệ thống giao thông, qủy chống tội phạm, qủy chống xì-ke, qủy tu sửa và bảo vệ hệ thống nước uống... hàng trăm thứ qủy, chỉ tiếp khách đến vòi tiền không thôi cũng đủ mệt... lắc lư con tàu ra khơi. Đó là chưa kể đến sự phiền phức đến từ các công ty do người địa phương làm chủ. Vì cạnh tranh họ cho tiền công an, cán bộ các nghành và xúi đám đó đến làm khó dễ đủ điều. Thậm chí còn mướn du đảng đến gây rối, hăm dọa và hành hung.

http://www.ausviet.net/archivesv/novcnews/read.asp?Title=inputs/9_0_154219
Ông Hồ Phùng, Việt kiều Nhật về nước cách đây 12 năm kể lại câu chuyện bị làm khó trong việc đăng ký tên doanh nghiệp là Bách Hợp tại Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.HCM. Rắc rối phát sinh khi công chức thụ lý hồ sơ không chấp nhận tên này có nghĩa tiếng Việt.
“Việc bắt buộc phải giải thích tên bằng tiếng Việt là rất khó cho doanh nghiệp khi gia nhập với nước ngoài, nhất là chủ doanh nghiệp cần có những giao dịch với doanh nghiệp ở các nước mình đang sinh sống”, ông Phùng nói.
Liên quan đến lĩnh vực rất được quan tâm là bất động sản, thì sự ngập ngừng từ phía nhà đầu tư Việt kiều rất lớn khi các quy định về quy hoạch, đền bù giải phóng mặt bằng, khung giá đất thay đổi khá liên tục.
Thậm chí, ông Võ Văn Long, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Đức cho biết, kế hoạch đầu tư trung tâm thương mại của Hội Doanh nghiệp Việt Nam tại Đức qua hai nhiệm kỳ đại hội vẫn chưa thực hiện được.
“Một số tỉnh, thành phố chưa có quy hoạch đô thị tổng thể nên việc xác định vị trí, địa điểm và lường trước tổng vốn đầu tư dành cho đền bù, giải phóng mặt bằng rất khó khăn”, ông Long băn khoăn./.
*



20. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG, VÀ CÁC HÌNH THỨC BUÔN NGƯỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

I. LỊCH SỬ BUÔN DÂN TẠI VIỆT NAM

Đảng cộng sản luôn rêu rao tranh đấu cho vô sản, nào là phục vụ nhân dân, vì nhân dân, cho nhân dân nhưng thực tế là buôn dân, bán nước.

Sau 1975, Đảng Cộng sản chủ trương cho người dân miền Bắc ưu tiên việc xuất khẩu lao động. (XKLĐ). Nhân dân đi đã đành mà cán bộ cũng xếp hàng xin đi. Lúc này đi lao động tại khối Cộng sản như Nga, Hung, Tiệp . . .cho nên phong trào này được gọi bằng một danh từ mỹ miều là " lao động xã hội chủ nghĩa" hoặc "hợp tác lao động " chứ không phải mộ phu hay bán người!

Mục đích của Việt Nam là bắt dân đi trả nợ các nước XHCN. Người lao động bị bóc lột vì một phần lương được khấu trừ để trả nợ quốc tế, một phần phải nộp cho bọn đầu gấu đảng cộng sản. Tuy vậy, phải có thế mạnh, phải là cán bộ hay con em cán bộ mới được đi. Có lẽ đi Liên Xô cũng sung sướng cho nên khi về ai nấy đều mang tủ lạnh, máy may, xe gắn máy, xe đạp, nồi, niêu, song chảo về và mặt mũi phớn phở hẳn ra. Dương Thu Hương đã nói đến việc xuất cảng laọ động trong Những Thiên Đường Mù mà nhân vật chính là Cậu Chính, một con người điển hình của chế độ cộng sản.

Phải thật lâu, người trong Nam mới được vinh hạnh đi lao động XHCN. Việc xuất cảng lao động này làm cho Liên Xô nhận rõ con người XHCN Việt Nam. Đất nước họ yên lành thì người Việt Nam sang làm đảo lộn mọi sự. Xin kể ba chiêu độc đáo của đa số con người XHCN Việt Nam anh hùng và trí tuệ.

Chiêu thứ nhất, người Việt Nam theo thói quen mua gạo tổ ở Việt Nam, trong khi dân Liên Xô trời lạnh ngủ đến 8, 9 giờ mới dậy, thì phe ta sắp hàng từ 6, 7 giờ sáng mua sạch hàng khiến cho các ông bà cô cậu Liên Xô không còn hàng mua nữa. Chiêu thứ hai, người Việt Nam hối lộ các cửa hàng cho nên bao nhiêu hàng hóa tốt biến khỏi kho hàng, khiến cho các ông Tây xếp hàng cả ngày mà đành phải trở về tay không!

Cái chiêu thứ ba là Việt Nam làm hàng mạo hóa như quần bò (Jean ), áo phong là hàng mà người Nga thích nhất, và nhiều hàng khác. Nhưng mang được vài bữa là hỏng, là rách, là phai mực. ..Từ đó người Liên Xô khinh bỉ người Việt Nam mà không coi là đồng chí anh em nữa.

Khi tôi sang Canada năm 1995, gặp gỡ những người Liên Xô thì họ nhìn tôi bằng cặp mắt khinh bỉ và thù hận mà thù hận thì nhiều hơn là khinh bỉ! Con sâu làm rầu nồi canh! Tôi biết tôi phải lãnh cái "tội tổ tông" và "tội đồng bào"! Nhưng biết làm sao!

Sau khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, những người lao động cán bộ và con em cán bộ gốc XHCN lại bỏ XHCN mà chạy sang các nước tư bản.

Thời Pháp thuộc, khoảng đầu thế kỷ XX, người Pháp đã tuyển công nhân đi làm ở Tân Đảo (Nouvelle-Calédonie) và Tân thế giới ( Vanuatu). Nay thì Cộng sản Việt Nam thay thế Pháp mộ phu đi khắp thế giới.

II. MỤC ĐÍCH BUÔN DÂN

Mỗi thời đại có một danh từ khác nhau. Thời thực dân gọi là mộ phu, nghĩa là chiêu mộ lao động. Thực dân đem lao động đi trong và ngoài nước. Mục đích là dùng lao động để khai thác thuộc địa, đặc biệt là trong nông nghiệp. Bọn thực dân bắt dân da đen sang Mỹ làm nô lệ cũng trong mục đích này. Thời này, bọn thực dân dùng súng đạn để cướp đất và bắt nô lệ. Sau này, người ta không bắt nô lệ mà dùng những hình thức tinh vi hơn. Dù sao đi nữa, cũng đi đến việc buôn bán nô lệ bằng cách này hay cách khác để thu lợi nhuận.

Ngày nay, việc đưa lao động hay buôn người ra nước ngoài đã trở thành một dịch vụ bí mật và công khai. Nhiều nước đã làm việc này như Phi Luật Tân, nhưng họ làm khác Việt Nam. Họ ăn lời vừa phải, họ để cho người lao động có thể sống. Thí dụ người công nhân viên chức quân chủ và tư bản để cho dân ăn no để có sức làm việc, còn trong chế độ cộng sản, công nhân viên lương chỉ đủ sống trong mười ngày hay nửa tháng.. Họ cũng còn nhân đạo cho nên ít nhất tù nhân cũng có bát cơm còn tù nhân cộng sản chỉ ăn khoai sắn do tù trồng lấy mà lại không được ăn no..

Trong mọi cách thức kinh doanh và cai trị, Việt Nam luôn mang tính bóc lột, lừa đảo, man rợ và bất nhân.

Trong việc mộ phu, thực dân và cộng sản có ba điểm khác nhau. Điểm thứ nhất việc mộ phu thời thực dân là do tư nhân người Pháp, chính quyền thực dân không đứng ra lãnh đạo còn nay thỉ đảng cộng sản lãnh đạo việc buôn nô lệ. Điểm thứ hai dân nghèo muốn đi thì đi, không phải trả lệ phí, không phải hối lộ, nay thì vô sản phải chi nhiều thứ cho cộng sản. Điểm thứ ba là người đi lao động thời thực dân được chủ trả trước một số tiền nay thì cộng sản trấn lột trước khi lao công bước chân lên tàu!

Các công ty xuất cảng lao động hay giới thiệu việc làm ở các nước có ba đặc tính:
+Chi phí dịch vụ hợp lý, không có nạn trung gian đưa cao tiền môi giới.
+Lao động được hướng dẫn về nhiều thứ như ngôn ngữ, kỹ thuật và văn hóa nước chủ nhà.
+Công ty nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng

Nói chung, họ có pháp luật và tình người. Còn cộng sản thì độc tài, độc quyền cho nên họ mặc tình thao túng. Họ vì lợi mà bóc lột và lừa dối nhân dân. Vì không có báo chí, vì không đa đảng, vì không có luật pháp và vì tham nhũng, đảng cộng sản đã cướp bóc và lường gạt người lao động.

Quân chủ và tư bản đều chủ trương quân bình công ích và tư lợi, trong khi cộng sản tuyên bố hy sinh cá nhân cho đoàn thể nhưng thực tế họ làm ngược lại. Stalin, Mao, Hồ chỉ nghĩ đến cá nhân, và hầu hết bọn cộng sản trên thế giới đều là những lãnh chúa, những đế vương quyền hành vô cùng rộng lớn mà toàn thể nhân dân là nô lệ.

Cộng sản ban hành mọi chủ trương, chính sách đều nhắm lợi ích cho riêng một nhóm người, cho giai cấp mới. Mục đích xuất khẩu lao động, mục đích buôn dân bán nước cũng vì tư lợi của gia đình chúng, phe nhóm chúng mà bóc lột vô cùng dã man, đẩy người lao động vào cảnh khốn cùng và con đường chết.


III. CÁC TỔ CHỨC

Cộng sản bao giờ cũng có hai mặt: mặt trái và mặt phải, mặt công khai và mặt bí mật. Về mặt công khai, cộng sản cho phép gia quyến và thủ hạ lập ra các công ty, gọi là xuất khẩu lao động (XKLĐ), giới thiệu hôn nhân. Ngoài ra họ còn làm những việc mờ ám như đưa người di dân lậu, buôn lậu, trồng cỏ, buôn bán xì ke ma túy, tổ chức bán dâm. . .Tất cả đều là dịch vụ buôn người, là sự nghiệp buôn dân bán nước. là vét cạn kiệt sức lao động con người, là cướp bóc trắng trợn, là đày đọa con người một cách dã man.


Mặc Lâm trong bài phóng sự "Đâu là thực tế của vấn đề Lao động Xuất khẩu?" trên RFA cho biết theo những số liệu chính thức của Sở Lao Động và Thương Binh Xã Hội Thành Phố Hồ Chí Minh thì hiện nay trên địa bàn thành phố có 52 công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, trong đó có 8 công ty thuộc quyền quản lý của UBND Thành Phố Hồ Chí Minh số còn lại thuộc quyền quản lý của các bộ ngành đoàn thể thuộc trung ương và các UBND các tỉnh thành phố. Tuy nhiên rất nhiều công ty tư nhân không thuộc sự quản lý của nhà nước kinh doanh lĩnh vực xuất khẩu lao động vì đây là một dịch vụ không tốn kém tiền đầu tư nhưng nguồn lợi thu vào rất đáng kể.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Labour_export_and_its_seriuos_confront_MLam-20070403.html

Tờ Thông Tin Pháp Luật ngày 11-12- 2009 cho biết cả nước hiện nay cả nước có hơn 150 doanh nghiệp có chức năng XKLĐ, các doanh nghiệp này mở các trung tâm và cơ sở một cách tràn lan và không có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ từ các doanh nghiệp, khiến cho tình trạng vi phạm pháp luật xảy ra ngày càng phổ biến
http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2009/12/11/4210/

IV. CỘNG SẢN VIỆT NAM CẮT CỔ DÂN LAO ĐỘNG

Như đã trình bày ở trên, các công ty khác nhau đã tùy tiện nâng giá, khiến cho người dân phải cầm thế, bán nhà, đất và mang công mắc nợ. Ngày xưa, cộng sản đề cao lao động. Cộng sản ghét nhất những người ngồi không hưởng lợi, trong đó, tư bản, địa chủ,. ., là bị kết tội nặng. Cộng sản cũng kết tội bọn mại bản, tức là bọn trung gian ăn lời. Trong kháng chiến, cộng sản đã giết các tay mại bản. Nay thì trong hàng ngũ cộng sản nổi lên hàng hàng lớp lớp mại bản, là bọn trung gian ăn lời. Trong dịch vụ buôn người, ngoài các tay thân tín của các ông tổng bí thư, chủ tịch, thủ tướng, đại tướng, bộ trưởng, làm giám đốc các công ty, còn có những hạng trung gian các cấp và bọn lưu manh ăn theo. Xuống mỗi cấp là giá dịch vụ tăng lên vì họ đòi thêm tiền môi giới . Mỗi lao động đã phải mắc số nợ khoảng mười lăm, hai chục ngàn đô . Như vậy người lao động phải tích lũy bao lâu mới trả xong nợ? Giá cả càng đẩy lên cao, tàn ác hơn thời thực dân. Vì nghèo đói, vì bị dụ dỗ, người dân Việt Nam đã bị cộng sản bóc lột tàn nhẫn, không còn đường sống.

Vì nghèo khổ không việc làm, và vì nghe theo những tuyên truyền xảo trá của cộng sản, dân chúng đã đua nhau đi lao động, lấy chồng Đài, chồng Hàn làm gái ở khắp nơi và nhập cư bất hợp pháp.

Cũng theo RFA trong bài trên, trung bình mỗi lao động nộp đơn xin đi lao động nước ngoài phải nộp cho công ty 1200 đôla và nhiều phí phụ thu khác như phí huấn luyện ngoại ngữ, phí huấn luyện chức năng làm việc, khám sức khỏe...

Nhân viên Công ty Hướng Dương cho đài RFA biết :Trong số tiền họ nộp trước khi đi là khỏang hơn 5000 đôla, đã bao gồm hai năm phí quản lý của Việt Nam theo quy định của Bộ cho những người đi lao động nước ngoài dù nước nào chăng nữa thì phải nộp phí này một năm là một tháng lương cơ bản. Sang bên kia thì các bạn sẽ phải chịu khấu trừ những khoảng theo quy định của Đài Loan chẳng hạn như tiền khám sức khỏe định kỳ cứ mỗi ba năm thì khám 4 lần, tiền bảo hiểm y tế, tiền phí dịch vụ Đài Loan.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Labour_export_and_its_seriuos_confront_MLam-20070403.html


Báo TTLC cho biết tổng các khoản phí thu của người lao động trước khi đi là 6.500-7.000 USD/người, gồm phí làm thủ tục tại Mỹ, phí môi giới, dịch vụ, vé máy bay khứ hồi theo qui định hiện hành. Ngoài ra, nhằm hạn chế lao động bỏ trốn, các doanh nghiệp sẽ đặt thêm mức thu tiền đặt cọc "chống trốn" khoảng 15.000 USD/người.
http://www.ttlc.vn/modules.php?name=News&opcase=detailsnews&mid=782&mcid=323&sub=&menuid=

Tờ Vật giá.com ngày 22/08/2008 cho biết như sau:
Khi được trúng tuyển, người lao động sẽ phải đóng các khoản chi phí theo quy định khoảng 12.000 đô la Úc (phía đối tác hỗ trợ 1.000 đô la Úc trau dồi kỹ năng và ngoại ngữ);
http://www.vatgia.com/hoidap/4502/39117/dieu-kien-de-duoc-di-lao-dong-xuat-khau-o-my-va-uc.html

Như vậy, người vô sản muốn đi lao động kiếm tiền hay tư sản đỏ muốn di dân chuyển tiền sang Mỹ it nhất phải nộp mỗi người cho giai cấp thống trị hay bọn buôn người trên 20 ngàn đô.Đó là một số tiền mà người bình thường ở Canada và Mỹ khó lòng dành dụm được trong một kiếp người! Tội nghiệp quá, bọn lưu manh ở Việt Nam đã trấn lột người vô sản Việt Nam!

Nếu ai đó đặt ra câu hỏi: Dù đặt ra tiền " chống trốn", công nhân có trốn không? Và một số trở về Việt Nam, công ty có trả tiền không? Tôi nghĩ rằng không!

Ngày nay, dịch vụ buôn người không còn thịnh thế nữa. Các tay đầu gấu Việt Nam nay thu nhập kém. Họ đã trả giấy phép kinh doanh vì họ không muốn phải trả lại tiền cho công nhân về trước thời hạn!

Tờ Sài Gòn Giải Phóng online đưa tin:
Trao đổi với PV Báo SGGP ngày 28-1 -2010, ông Đào Công Hải, Phó cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ LĐTB-XH), cho biết, tính cả số Doanh nghiệp (DN) bị rút giấy phép xuất khẩu lao động vì vi phạm và số DN tự nguyện trả lại giấy phép, đến thời điểm này, đã có khoảng 25 DN rút khỏi lĩnh vực XKLĐ. . .Ông Hải khẳng định, theo quy định của luật thì mặc dù các DN đã trả giấy phép hoạt động để chuyển sang lĩnh vực khác nhưng vẫn phải chịu hoàn toàn trách nhiệm cũng như nghĩa vụ với người lao động đã được ghi trong hợp đồng cho đến khi người lao động về nước.
http://www.sggp.org.vn/xahoi/2010/1/217227/

Luật Việt Nam, giấy tờ Việt Nam lại là chuyện khác. Cộng sản dùng quyền thế, mưu mẹo gian manh, và trắng trợn vi phạm luật lệ do chúng đề ra, do chúng hứa hẹn bởi vì đảng và lưu manh là một. Nay thì người cộng sản đóng vai chủ nhân tư bản bóc lột. và bóc lột tàn tệ hơn thực dân! Lẽ dĩ nhiên đảng cộng sản không công khai ra mặt mà cho chân tay đứng ra tổ chức các công ty buôn người. Bên cạnh việc này, bộ máy chính quyền và công an bao che. Tệ đoan này xảy ra bao nhiêu năm với các vụ tham nhũng, cướp tài sản quốc gia và tài sản tư nhân, nhưng báo chí cộng sản im tiếng. Vì dư luận quốc ngoại sôi nổi, vài tờ báo cộng sản đành phải đóng vai ngụy quân tử kết án các công ty mà không dám vạch mặt cộng sản gian ác đã buôn dân, bán nước.

Quốc tế và hải ngoại đã lên tiếng về việc cộng sản Việt Nam buôn người. Tiếng kêu vang dậy khắp nơi cho nên báo chí trong nước phải lên tiếng gọi rằng là!
Tạp chí điện tử "NGƯỜI LAO ĐỘNG" của Liên Đoàn Lao Động thành phố HCM, ra ngày 6-2-2010, với nhan đề Người lao động bị “bóp cổ”, nội dung như sau:

Phải mạnh tay xử lý những doanh nghiệp lợi dụng thu phí cao của người lao động

So với lao động các nước cùng khu vực Đông Nam Á, lao động VN đi làm việc ở nước ngoài đang phải gánh chịu chi phí cao nhất. Tình trạng doanh nghiệp (DN) xuất khẩu lao động (XKLĐ) thu phí tràn lan, lạm thu, trục lợi đã đẩy chi phí lên cao. Không phải ngẫu nhiên mà giám đốc một trung tâm đào tạo lao động XKLĐ đã ví von rằng: “Làm XKLĐ lời như... buôn súng!”.http://www.nld.com.vn/20091026104216853P0C1051/nguoi-lao-dong-bi-bop-co.htm
Ảnh: N.DUY

Đừng tin gì những điều cộng sản nói. Trong thế giới cộng sản, lý thuyết và thực tế là hai chuyện khác nhau. Về lý thuyết thì Việt Nam nhân dân làm chủ , người vô sản lãnh đạo đất nước và tổ quốc được độc lập, nhân dân tự do, hạnh phúc nhưng thực tế không phải vậy. Một thí dụ nhỏ. Xe bị vi phạm giao thông, công an phạt một giấy là một ngàn đồng Việt Nam. Nghe ra rất nhẹ nhưng Công an thi hành biên phạt một lần 30 giấy, 50 giấy phạt ngàn đồng. Cũng vậy, nếu ai tin vào pháp luật, báo chí cộng sản đều lầm to.

Tờ báo Người Lao động cũng nói đến Luật về người lao động (NLĐ) VN và thực tế như sau:
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các văn bản pháp luật hiện hành quy định cụ thể chi phí NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo từng thị trường. Thế nhưng chi phí thực tế mà họ bỏ ra thường cao hơn nhiều lần so với quy định. Ở Đài Loan, thị trường NLĐ bị thu vô tội vạ nhất với khoản chi phí môi giới từ 3.000 – 4.000 USD/người, cao gấp đôi quy định.

Nếu cộng phí dịch vụ, lý lịch tư pháp, khám sức khỏe, tiền vé máy bay, lệ phí visa, chi phí đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cần thiết... thì tổng chi phí NLĐ nộp trước khi sang Đài Loan khoảng 6.000 – 7.000 USD/người. Với mức chi phí này, phải mất một nửa thời hạn làm việc theo hợp đồng, NLĐ mới tích lũy được thu nhập để bù đắp chi phí.



Tờ báo trên cũng nói đến việc đi lao động ở Nhật Bản, công nhân đã bị bọn cộng sản bóc lột trắng trợn nhưng công an, chính quyền và bộ Lao Động cũng chỉ là một bọn ăn chia với nhau:

Ở thị trường Nhật Bản, theo quy định của nước này, lao động nước ngoài vào Nhật Bản theo chương trình tu nghiệp và thực tập kỹ thuật (gọi chung là chương trình tu nghiệp sinh – TNS) được chủ sử dụng lao động đài thọ một lượt vé máy bay, chi phí đào tạo ngoại ngữ, nơi ở, chu cấp dụng cụ sinh hoạt... Nhưng thực tế, để được sang Nhật Bản, chi phí một lao động phải bỏ ra khoảng 90 triệu đồng; chưa kể khoản tiền bảo lãnh hoặc tiền thế chấp, giấy tờ nhà đất thế chấp... trị giá từ 150 triệu đến 200 triệu đồng.

Tờ báo trên cũng nói đến thị trường Úc và Canada , người dân cũng bị cắt cổ mổ bụng vì bị lừa vào tròng:

Ở thị trường khác, nhất là thị trường mới, NLĐ phải nộp mức phí cao ngất ngưởng. Mức thu một lao động sang thị trường Canada, Úc hiện đang được các DN XKLĐ áp dụng xấp xỉ 200 triệu đồng/người, trong đó chỉ riêng phí môi giới đã hơn 5.000 USD. Ở Mỹ, chi phí này lên đến khoảng 13.000 - 15.000 USD, trong đó phí môi giới từ 8.000 – 10.000 USD/người, tùy đơn hàng.

Tờ Người Lao Động cũng cho biết :

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã từng lên án những mặt trái của di cư quốc tế, nổi cộm là tình trạng lợi dụng buôn người và bóc lột thông qua hình thức hợp tác XKLĐ. Để ngăn chặn tình trạng này, nhiều nước, lãnh thổ tiếp nhận lao động đã đưa ra những chính sách, quy định có lợi hơn cho lao động nước ngoài.


Tại Hàn Quốc, chương trình TNS đã được thay thế bằng chương trình cấp phép lao động EPS giúp NLĐ VN sang Hàn Quốc chỉ mất khoảng 700 USD thay vì 4.000 – 5.000 USD như trước.

Chính quyền Đài Loan cũng siết chặt quản lý bằng quy định mới áp dụng từ tháng 9 – 2009; theo đó buộc các tổ chức cung ứng, tiếp nhận lao động vào Đài Loan phải thực hiện đúng cam kết chi phí do VN và Đài Loan thống nhất; không được lợi dụng o ép NLĐ ký những khoản vay không có thật để thu phí bất hợp pháp.

Nếu làm đúng quy định thì mức phí của một lao động sang Đài Loan chỉ khoảng 3.000 USD – 4.000 USD, thay vì 6.000 – 7.000 USD như hiện tại.

Quốc tế đã ngăn chận việc buôn người, xuất cảng lao động nhưng ở Việt Nam bọn cộng sản vẫn thừa mánh khoé gian dối mà qua mặt quốc tế. Các nạn nhân trước khi đi đã nộp tiền cho chúng rồi, không ai kiểm soát và điều tra được!

V. CỘNG SẢN VIỆT NAM LƯỜNG GẠT

Mục đích cộng sản ngày nay là làm giàu bất chấp thủ đoạn. Chúng chủ trương độc đảng là muốn cướp tài sản nhân dân, bóc lột và khủng bố nhân dân. Từ trước đến nay, cộng sản chuyên lừa bịp. Một mặt chúng theo Marx chỉ trích tư bản bóc lột, nói xấu Âu Mỹ nhưng mặt khác chúng lại tuyên truyền cho việc XKLD, nào là tư bản lương cao, đời sống ở tư bản sung sướng. Ở đâu chúng cũng tuyên tuyền dụ dỗ, như ở ngoại quốc lương tối thiểu 4, 5 ngàn đô một tháng, hoặc 5 hay 6 trăm triệu Việt Nam mỗi năm. Ở Việt Nam, tư sản đỏ trong tay có hàng triêu, hàng tỷ đô la, sáu bảy biệt thự, năm mười công ty, còn dân nghèo khó kiếm việc làm giáo viên cấp ba lương hàng tháng khoảng 700 ngàn VN, công nhân khoảng nửa triệu, nghe nói lương Âu Mỹ mỗi tháng 40, 50 triệu Việt Nam ai mà không ham?

Sự thực là ở các nước tư bản không phải ai cũng giàu. Tiến sĩ, kỹ sư thất nghiệp cả đống nhất là thời kỳ kinh tế toàn cầu suy sụp. Tốt nghiệp đại học ở Canada thịnh thời là 40 ngàn mỗi năm. Ở Mỹ có người lương hàng năm một trăm hai trăm ngàn đô nhưng thuế hết một nửa, tiền nhà, tiền y tế cũng khá nặng. Lại nữa, công việc lúc có lúc không, không ai bảo đảm dài lâu.

Tại các nước tư bản, xin việc không phải dễ, nay vào buổi kinh tế khủng hoảng, công việc lại càng hiếm hoi. Có những ngành nghề đã chết hay chết gần 90% như ngành hightech. Thung Lũng Hoa Vàng California đã trở thành thung lũng chết. Và hầu hết, các công ty điện toán đều đóng cửa chuyển sang Trung Quốc, và các kỹ sư computer ở Âu, Mỹ thất nghiệp .Bao lâu nay, Mỹ, Canada, Pháp Đức, Nga, số thất nghiệp mỗi nước lên hàng chục triệu người, làm sao bảo đảm rằng công nhân ra nước ngoài có thể làm trong hai, ba năm? Thường là sau ba tháng làm thử, công nhân có thể bị thải nếu làm kém.

Phải làm trên sáu tháng hay một năm mới có tiền thất nghiệp. Tiền thất nghiệp thường chỉ kéo dài khoảng sáu tháng hoặc một năm. Đời sống ngoại quốc tự do và sung sướng hơn Việt Nam nếu có việc làm nhưng chi phí đời sống đắt đỏ so với Việt Nam. Những người bình thường, mỗi người mỗi tháng phải chi tiền nhà khoảng 4 trăm đô, tiền ăn tối thiểu 2, ba trăm, tiền xe khoảng năm trăm (chưa kể bảo hiểm, và tiền sửa chữa), tiền điện khoảng một trăm đô. Chừng đó đã khoảng ngàn rưỡi đô. Nếu mua nhà, mua xe, học đại học thì mắc nợ ngân hàng, mỗi tháng it nhất cũng phải trả thêm một ngàn hay ngàn rưỡi trong hai, ba mươi năm. Phải lương cao và hai vợ chồng đi làm thì mới cáng đáng nổi. Vì nhiều món phải trả tiền, phải thanh toán cho nên không ai dư tiền. Đa số lương ở Canada khoảng ngàn rưỡi, hai ngàn một tháng. Như vậy chỉ là đủ ăn. Nêu bị bệnh, nếu có đám cưới, tháng đó e ngân quỹ gia đình thâm thủng!

Lẽ dĩ nhiên bên cạnh những người bình thường làm đủ ăn, hoặc thiếu ít nhiều, có những người ăn ra làm nên, thành triệu phú. Cộng sản luôn lừa dối, luôn ăn cướp tiền của và thân xác nhân dân, đặc biệt là dân lao động. Họ vẽ ra những thiên đường, thiên đường cộng sản và thiên đường tư bản để lừa dân. Họ chỉ cần dân nghe theo lời đường mật của họ, đóng tiền cho họ, rồi sau đó mặc kệ, đúng là " sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi".

Nếu một người lao động sang đây dư được một tháng một hai trăm đô là giỏi, làm sao có tiền cho gia đình , và tiền trả nợ mười lăm, hai chục ngàn cho cộng sản? Làm sao đưa vợ con ra ngoại quốc như lời hứa hẹn của mấy ông Vẹm? Và làm sao hái trái trong ba tuần đã gửi về nhà ngàn rưỡi đô la?

Trong dịch vụ buôn người này, cộng sản thi hành nhiều điều mà cốt lõi là những việc sau:
+Luôn luôn dối trá. Họ không sợ bị pháp luật trừng trị vì họ có thế lãnh tụ đàng sau mà phần lớn là tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, đại tướng, bộ trưởng, chủ tịch, bí thư tỉnh, thành ủy. .
+Tuyên truyền rằng Úc, Mỹ, Canada, mỗi năm thu nhập tối thiểu năm trăm, sáu trăm triệu Việt Nam, và họ nghĩ rằng mỗi lao động sẽ dễ dàng nộp cho họ một trăm, hay hai trăm triệu Việt Nam trước khi ra đi! Người lao động đâu biết rằng con số năm trăm triệu, sáu trăm triệu thu nhập là những lời đối trá của cộng sản. Nước ta là nước nông nghiệp, ta nên biết rằng nông nghiệp là có thời vụ. Mà công nghiệp, thương nghiệp cũng vậy. Nhất là ngày nay, kinh tế hoàn cầu suy sụp, ai bảo đảm công việc dài lâu dù là nông nghiệp hay công thương nghiệp. Dân ta vì nghèo đói, vì thiếu báo chí trung thực cho nên dễ bị cộng sản lừa dối trong chiến tranh và hòa bình.

+Cộng sản hứa hẹn hão huyền. Những hứa hẹn , những bản hợp đồng, những tin tức của cộng sản là dối trá. Làm sao có số lương hai ba chục đô một giờ? Làm sao lương tháng khởi đầu ba ngàn, năm ngàn? Làm sao đi lao động mà có thể đem vợ con đi theo? Ai lo doanh trại chứa hàng mấy trăm công nhân như báo cộng sản loan tin? Khi lên máy bay, cộng sản mới bắt người lao động ký hợp đồng. Nhiều người ký hơp đồng mà khi ra máy bay mới biết bị gạt đủ thứ. . .

+Cộng sản chi cần thu tiền, sau đó cuộc sống các công nhân ra sao họ không cần biết.
+Cộng sản mượn cớ lập công ty để mượn tiền ngân hàng mà bỏ túi.
+Cộng sản lập công ty là để đưa người nhập cư lậu, để hoạt động gián điệp, buôn bán nô lệ, trồng cỏ, buôn lậu. . ..
+Cộng sản có nhiều mánh gian trá như không có giấy phép lập công ty mà cứ lập công ty, không hay chưa có giấy phép của Việt nam và Mỹ, Úc, Nhật mà cứ quảng cáo và thu tiền.
+Du học sinh, hôn nhân thực ra cũng là một cách XKLĐ, là một cách buôn người. . .


Quan chức Việt Nam và báo chí cộng sản đã tích cực quảng cáo , tích cực đóng góp vào việc dối trá của việc buôn người này.
Tờ VnExpress ngày Thứ năm, 27/10/2005, lấy tin tờ Tuổi Trẻ quảng cáo đi lao động Mỹ như sau:
10 lao động đầu tiên của Việt Nam vừa được Chính phủ Mỹ cấp visa lao động có thời hạn tại Mỹ (visa H-2A). Công việc của họ là thu hoạch quả macadamia, thời gian 10 tiếng một ngày, 6 ngày một tuần. Tiền lương mỗi giờ 9,75 USD và trả theo tuần bằng thẻ tín dụng.
Chị Phan Thị Bích Liên (phường 7, quận Phú Nhuận, TP HCM) cho biết, anh Nguyễn Thanh Long, chồng chị, là một trong 10 lao động Việt Nam đầu tiên vừa được tiếp nhận sang làm việc tại Mỹ. Qua số điện thoại do chị Liên cung cấp, anh Long kể: nhóm anh gồm 10 người, quê Hà Tĩnh, Nam Định, Hải Dương, Hà Nội và TP HCM, xuất cảnh ngày 29/9 sang Mỹ để làm việc cho Tập đoàn sản xuất nông nghiệp Global Horizons Incorporated (GHI) theo một hợp đồng có thời hạn 1 năm và có thể gia hạn đến 3 năm.
Nơi làm việc là Kanu, một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo Hawaii, dân cư thưa thớt, nhưng trang trại bạt ngàn. Nhóm của anh Long được đưa về khu ký túc xá khang trang gồm 300 chỗ, được Tập đoàn GHI xây dựng sẵn để chuẩn bị tiếp nhận lao động Việt Nam. Chỗ ở tại đây rất rộng rãi, thoáng mát, được trang bị đầy đủ điện, nước, bếp gas, tủ lạnh, dụng cụ nhà bếp... Cách chỗ ở không xa là khu ký túc xá của lao động Thái Lan và Mexico. Khí hậu ở đây khá giống với Việt Nam.
Công việc của nhóm lao động Việt Nam là thu hoạch quả macadamia (một loại trái cây vừa có thể dùng làm thực phẩm, vừa có thể bào chế mỹ phẩm và dược phẩm). Công việc đơn giản, ngoài tiền ăn (khoảng 4 USD/ngày), lao động không phải chi phí thêm bất cứ khoản nào. Sau 3 tuần làm việc, anh Long đã chuyển những đồng tiền đầu tiên về nhà, trung bình mỗi người trên 1.500 USD. http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2005/10/3B9E3798/
Ngày 16-6-2006, tờ Giao Thông Vận Tải Việt Nam đưa tin về việc Việt Nam đưa người sang Mỹ và Nhật. Họ phỏng vấn ông Trịnh Vĩnh Hội và được trả lời: Global Horizons Inc (GHI) là một trong những nghiệp đoàn của Mỹ được phép tuyển dụng lao động ngoại quốc làm việc có thời vụ trong ngành nông nghiệp cho các chủ trang trại Mỹ. Đây là một nghiệp đoàn thực, một nhu cầu công việc thực và một kế hoạch cần tuyển dụng thực và rất lớn.
http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/du-lich-thi-truong/My_con_can_rat_nhieu_lao_dong_Viet_Nam/


Tờ VnEconomy tháng 1-2007 đưa tin bộ Lao động - Thương binh và Xã hội vừa đồng ý cho hai đơn vị trong nước đưa lao động sang Mỹ làm việc thí điểm... Lương 5.000 USD/tháng, thời hạn 1-3 năm Theo bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn - Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc AIC, công ty này đã có một vài đơn hàng với đối tác đưa lao động sang Mỹ làm việc ở lĩnh vực hàn, cắt cỏ, trang trại (hái cam)... Để đủ tiêu chuẩn sang Mỹ làm việc, lao động phải trong độ tuổi từ 20-40, đã lập gia đình. Lương tháng của lao động từ 5.000 USD trở lên, chi phí đi xuất khẩu lao động tuỳ thuộc vào mức lương. Đặc biệt, trong một nhóm lao động cùng quốc tịch, cùng làm một nơi thì chỉ cần 1, 2 người biết tiếng Anh để phiên dịch cho cả nhóm. Tờ báo này cũng cho biết Cộng sản Việt Nam đặt ra lệ phí "chống trốn" là 15 ngàn đô!
http://vneconomy.vn/72953P5C11/sap-xuat-khau-lao-dong-sang-my.htm

Tờ Vậtgiá.com ngày 22 tháng 8-2008 quảng cáo cho việc đi Úc:
thu nhập khoảng 480 - 600 triệu đồng Việt Nam/năm. Ngoài ra, người lao động sẽ được mang theo gia đình qua Úc và sẽ được bố trí làm việc (đối với vợ - chồng) và học hành đối với con cái (từ lớp 12 trở xuống sẽ được miễn phí).

Điều kiện: Nam, nữ tuổi từ 21 - 45. OSC hiện đang tuyển dụng nhiều lao động qua Úc, trong đó ưu tiên thợ làm bếp. Những người muốn đi XKLĐ qua Úc hiện đang ở (hay tạm trú) tại TP.HCM có thể liên hệ: OSC Việt Nam, 92 Calmette, quận 1, TP.HCM; điện thoại: (08) 215920 - 9144593.
http://www.vatgia.com/hoidap/4502/39117/dieu-kien-de-duoc-di-lao-dong-xuat-khau-o-my-va-uc.html

Trái với tin trên, một vài tờ báo tiếng Việt ở Hoa Kỳ đã cảnh báo dư luận về những thông tin không đúng sự thực trong thông báo của hai công ty xuất khẩu lao động Việt Nam.

Tờ báo điện tử MAIYEUEM viết:
Tờ Ngày Nay, ra ở Houston, Texas số 01.02.2007 cho rằng Công Ty Cổ Phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC) và Trung Tâm Xuất Khẩu Lao Động Viracimex đã thông báo không đúng về chuyện đưa người sang Mỹ lao động. Ví dụ như họ nói rằng cần tuyển công nhân sang Mỹ hái cam, cắt cỏ thợ hàn với lương tháng 5.000 đôla ngoài lệ phí chưa biết. Ngoài ra ai đi còn phải đóng tiền thế chân 15.000 đôla. Ngoài hai cơ quan AIC và Viracimex, công ty TNHH Úc Việt đã thu lệ phí từ 5000 đến 8.000 Mỹ kim để đưa người Việt sang Thái Lan học Anh văn chờ ngày đi Mỹ lao động.

Tờ báo trên trích thuật tờ báo Tuổi Trẻ cho biết nhiều người sang Thái Lan đóng học phí rồi mới biết mình bị lừa nên lập tức đòi bồi hoàn. Ngày 8 tháng 1 vừa qua Đại sứ quán Hoa Kỳ là đã mở cuộc họp báo để đính chính những thông tin sai lạc của hai cơ quan AIC và Viracimex.
Ông Jeffrey C.Schwenk, trưởng bộ phận Lãnh sự, ông P. Matthew Gillen, trưởng phòng chiếu khán không di dân (non-immigrant visa) và bà Mary Ann Russell trưởng ban Di Trú và Nhập Tịch nói chính phủ Mỹ và Việt Nam chưa ký một thỏa thuận nào về xuất khẩu lao động.
Phía Hoa Kỳ theo họ cũng không làm việc với tổ chức môi giới hay xuất khẩu lao động nào tại Việt Nam mà sẽ làm việc trực tiếp với từng người, từng hồ sơ. Ngoài lệ phí visa (100 Mỹ kim) sứ quán sẽ không thu bất cứ lệ phí nào khác.
Nhưng chỉ một ngày sau cuộc họp báo của Sứ quán Mỹ tức ngày 09-02, Cục trưởng Cục Quản Lý Lao Động Ngoài Nước thuộc Bộ Lao Động–Thương Binh và Xã Hội cho báo chí biết chính phủ Việt Nam vừa cho phép đưa người lao động sang Mỹ làm việc và giao cho hai doanh nghiệp phụ trách việc này sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phổ biến công văn 883/VPCP-VX. . .

Báo Tuổi Trẻ trong bài “Thêm Một Chiêu Lừa Xuất Khẩu Lao Động: Giấc mơ Mỹ trên đất Thái” (11/02/07) đã có bài về chuyện lừa đảo xuất khẩu lao động sang Mỹ mà họ nói là của công ty TNHH Úc Việt, có trụ sở tại quận Tân Bình, Saigon và Trung Tâm Anh ngữ ESI ở Bangkokhttp://www.tin247.com/lua_dao_xuat_khau_lao_dong_sang_my-1-166549.html

Trong năm 2007 sao có nhiều chuyện lạ như vậy? Lao động Việt nam mới làm việc đã có lương cao hơn kỹ sư Mỹ ư?Không lẽ tòa đại sứ Mỹ nói sai? Nhiều người cho rằng thủ tướng ký công văn 883/VPCP-VX là để cứu bồ khỏi sập tiệm. Nhưng trong báo chí và chúng ta có ai thấy công văn 883/VPCP-VX ? Thủ tướng Việt Nam có lên tiếng xác nhận đâu! Nhưng chúng ta cũng nên cẩn thận, vì người ta bảo thủ tướng Việt Nam ký công văn cho phép chứ không đề cập việc Mỹ đồng ý hay không! Còn phát ngôn các công ty nói ra thì ta nên hiểu đó là dự tính, là giấc của họ trong việc buôn người sang Mỹ.

Có lẽ năm 2007, giấc mơ " quy mã " của cộng sản chưa thành. Trong tờ Giao Thông vận tải, ông Trịnh Vĩnh Hội cho biết:
Việc tạm dừng chưa đưa lao động sang Mỹ không phải đóng cửa mà là tạm ngừng để lựa chọn doanh nghiệp có đầy đủ uy tín và trách nhiệm trước người lao động và trước cả hai chính phủ. Việc này không những bảo đảm cơ hội cho doanh nghiệp khi tiếp cận với thị trường mới mà còn bảo đảm quyền được làm việc cho người lao động.Theo tôi được biết, phía Việt Nam đang tiếp tục hợp tác với cơ quan chức năng, cụ thể sẽ có đoàn sang Mỹ để khảo sát.http://www.giaothongvantai.com.vn/Desktop.aspx/News/du-lich-thi-truong/My_con_can_rat_nhieu_lao_dong_Viet_Nam/

Gần giữa năm 2007, giấc mơ " quy mã" chỉ là thí điểm do chính phủ cho phép. Tin 247.com theo báo Tuổi Trẻ cho biết trao đổi về việc đưa lao động sang Mỹ, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phó cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), cho biết đến thời điểm này Chính phủ mới cho phép (về nguyên tắc) hai đơn vị được thí điểm tuyển chọn, đưa lao động đi làm việc ở Mỹ. Đó là Công ty cổ phần Tiến Bộ Quốc Tế (AIC, 75 Âu Cơ, Hà Nội) và Trung tâm Phát triển việc làm và xuất khẩu lao động (thuộc Tổng công ty Xuất nhập khẩu và cung ứng vật tư thiết bị đường sắt - Viracimex, ở TP HCM). Hai đơn vị này được phép tuyển thí điểm đưa tám thợ hàn đi làm việc tại Mỹ.
http://www.tin247.com/lua_dao_xuat_khau_lao_dong_sang_my-1-166549.html

Con số lúc thí điểm rất khiêm nhường nhưng nhiều người đã sa bẫy! Đa số dân Bắc ghét Mỹ nhưng lại thích học tiếng Anh và đi làm ở các nước tư bản, đặc biệt là Nhật, Đài Loan, Đại Hàn Úc, Canada và Mỹ! Vì vậy mà giá cả những nơi này rất cao!

Tờ VẬTGIÁ.COM ngày 10 tháng 12-2008 trả lời người hỏi về việc XKLD tại Mỹ :
Bộ LĐTB&XH cho phép thí điểm xuất khẩu lao động sang Mỹ làm việc. Đến nay, các doanh nghiệp XKLĐ VN đã đưa được 23 lao động VN đầu tiên sang Mỹ. Trong đó có 21 lao động của Công ty cổ phần XKLĐ, thương mại và dịch vụ (TTLC - Tổng công ty Công nghiệp ôtô VN) và 2 lao động của Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC - Bộ Giao thông vận tải) đã đến làm việc tại Mỹ.
http://www.vatgia.com/hoidap/4502/63547/co-duoc-xuat-khau-lao-dong-sang-my-ko.html
Tại Việt Nam có hai hạng lừa đảo. Hạng lừa đảo chính thức là chính quyền cộng sản ẩn nấp dưới các công ty. Hạng lừa đảo thứ hai là cá nhân.Thực ra hạng này cũng chỉ là ăn theo hạng trên , thủ hạ của bọn cộng sản mà thôi!
Còn theo thống kê của Công an Hà Nội, từ đầu năm 2006 đến tháng 6-2007, chỉ tính riêng trên địa bàn TP Hà Nội, đã xảy ra 71 vụ án, liên quan đến 119 đối tượng lừa đảo đưa người đi lao động ở nước ngoài, với 2.118 nạn nhân và số tiền bị lừa đảo lên đến trên 53 tỉ đồng. Trong 4 tháng qua, lừa đảo XKLĐ vẫn thường xuyên xảy ra, tập trung nhiều ở các tỉnh, thành phía Bắc


Tình trạng lừa đảo xảy ra nhiều ở các thị trường tiềm năng, có thu nhập cao đang thực hiện thí điểm như Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Úc, Canada... Đáng chú ý là hơn 80% vụ lừa đảo trong thời gian qua đều nhắm vào đối tượng có nhu cầu đi làm việc ở Hàn Quốc.
http://www.viet.no/forum/viewtopic.php?t=1667">http://tintuc.xalo.vn/00271484734/xuat_khau_lao_dong_thi_truong_cang_mo_cang_de_bi_lua.html

Trong bài Liên Minh CAMSA Cảnh Giác Một Số Công Ty Môi Giới có đoạn
Hiện nay ở Việt Nam có hơn 150 công ty xuất khẩu lao động, tên chính thức là doanh nghiệp dịch vụ, được phép tuyển dụng và đưa người đi lao động ở nước ngoài. Các công ty này nhiều khi thành lập chi nhánh để hoạt động ở các vùng khác nhau và sử dụng hệ thống “cò”, những cá nhân hoạt động riêng lẻ, để đi vào các vùng sâu tuyển người. Nhiều công ty đã vi phạm trầm trọng luật về tuyển và đưa người đi lao động ngoài nước. Chẳng hạn có nhiều công nhân đã phải trả tiền phí trước khi ký hợp đồng, khi mà Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chuyển thẳng tiền công nhân vay mượn cho công ty xuất khẩu lao động để trả tiền phí dù công nhân chưa đặt bút ký hợp đồng.

Trong nhiều trường hợp, công nhân không được đọc bản hợp đồng và cũng không được giữ một bản sao. Nhiều lên máy bay rồi công nhân bị bắt phải ký một hợp đồng khác, gọi là hợp đồng "ngoại", với những điều khoản rất khác so với hợp đồng ký trong nước (hợp đồng nội); lúc ấy công nhân không có cách nào khác hơn là nhắm mắt đưa chân và ký dù biết là thiệt thòi cho mình. Lại cũng có những trường hợp công nhân ghi danh đi lao động ở một quốc gia nhưng ngày ra phi trường mới vỡ lẽ là bị đưa đi một quốc gia khác; họ không có quyền thoái thác mà phải tiếp tục lên đường đi nước ngoài lao động. Cũng có người không hề có tên trong danh sách đã được công ty đưa đi lao động. “Đó là chưa kể thái độ tắc trách của nhiều công ty xuất khẩu lao động. Khi công nhân lâm nạn và gọi về công ty cầu cứu, thì công ty tảng lờ, không giải quyết” . http://www.machsong.org/modules.php?name=News&file=article&sid=16615.


VI. BUÔN DÂN, SỰ NGHIỆP VĨ ĐẠI

Cộng sản thường không thành thật trong việc kê khai và tuyên bố các con số. Bao giờ cộng sản cũng dối trá, tuyên truyền và lường gạt. Trong khi chờ đợi, ta tạm dùng những số liệu hiện có.

Hiện nay, tờ Người Lao Động cho biết từ năm 2007 đến nay, cả nước chỉ có khoảng 300 người được đưa sang ba thị trường mới nói trên và hằng năm chỉ có khoảng 70.000 lao động VN ra nước ngoài làm việc, trong khi tờ Việt Nam News Network ở trên cho biết con số riêng ở Đài Loan vào 9/2004 là 80.890!

Theo tờ Lao Động và Thương Binh Xã hội, trong bài "Hợp tác lao động với nước ngoài – 30 năm hội nhập và phát triển", chỉ tính riêng từ năm 2003 đến 2009, bình quân mỗi năm Việt Nam đưa được gần 77.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Số ngoại tệ mà người Việt Nam qua con đường XKLĐ gửi về nước hàng năm đạt 1,7 tỷ USD, và hiện nay có khoảng 500.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc tại 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có 50% số lao động được đào tạo. http://www.molisa.gov.vn/news/detail/tabid/75/newsid/50583/seo/Hoi-nghi-dai-bieu-can-bo-cong-chuc-co-quan-Bo-Lao-dong-Thuong-binh-va-Xa-hoi/language/vi-VN/Default.aspx
+Tờ VIỆT BF cho biết năm 2008, bản tin của Financial Times loan tin Bulgaria cần ít nhất từ 80,000 đến 100,000 công nhân cho nhiều lãnh vực khác nhau ngay Mùa Hè 2008. Các loại công việc từ việc tay chân cho các dự án xây dựng đến các việc kỹ thuật cao.
Tờ báo trên cũng cho biết khoảng 120,000 công nhân Việt Nam đang lao động chân tay ở Mã Lai nằm trong trường hợp này . http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=49479
Tin VOA - Ả Rập Saudi dự trù thu nhận khoảng 50000 lao động Việt nam trong năm 2006.
http://www.tudovis.com/vis_forums/forum27/3505.html.
+Tạp chí Việt Vùng Vịnh và các tạp chí khác theo tin Cục quản lý Lao động ngoài nước của CSVN, hiện có gần 500 ngàn người Việt đang lao động tại hơn 30 quốc gia trên thế giới. Ở một số nước mới có người Việt lao động bắt đầu từ năm 2005 như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn và Mã Lai . Đây là những thị trường “xuất cảng lao động” lớn của VN trong những năm gần đây. http://www.vietvungvinh.com/Portal.asp?goto=VietNam/2010/20100122_04.htm
Cục Quản lý Lao Động cho biết có nửa triệu người nhưng cộng sản không bao giờ nói thực. Họ nói nửa triệu thì thật tế có thể một, hai triệu kể cả đi công khai và đi chui, đi lao động và làm nghề mãi dâm, trộm cướp, trồng cần sa. . .
Tờ Sai Gòn Giải Phóng online loan tin ngày 28-1-2010, tại Hà Nội, Bộ LĐTB-XH cho biết, sau 30 năm hợp tác lao động với nước ngoài, hiện nay cả nước đang có khoảng 500.000 lao động và chuyên gia làm việc tại 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hàng năm, lao động xuất khẩu gửi về nước khoảng 1,7 tỷ USD .http://www.sggp.org.vn/xahoi/2010/1/217227/

Sau 1975, cộng sản đưa ra bao thủ đoạn lừa đảo. Họ tổ chức làm giấy giả lên máy bay. Một vài gia đình nộp tiền cho họ, lên máy bay Mỹ nhưng kết cuộc vừa lên máy bay bị Mỹ đuổi xuống mà trở về nhà! Họ tổ chức đưa người ra ngoại quốc bằng máy bay nhưng đến Lào hay Miên hay Huế, Hà Nội thì hạ cánh. Thế là tiền mất tật mang! Nay thì nhiều tổ chức đưa người nhập cảnh sang Mỹ, Canada, Nhật Bản, Đài Loan, Sigapore, Malaysia, Anh, Pháp, Ba lan, Tiệp Khắc.. . bằng nhiều danh xưng và nhiều cách thức nào là xuất khẩu lao động, hôn nhân, du sinh, du lịch, xuất cảnh công khai và xuất cảnh bất hợp pháp.

Cộng sản ăn đơn ăn kép. Mỗi năm họ được 1,5 tỷ tiền gửi về nhà, cộng thêm tiền công nhân nộp trước khi đi. Các nạn nhân cho biết họ phải nộp 10 ngàn, hai chục ngàn đô. Cứ tính nửa triệu người, mỗi người năm ngàn đô, con số lên tới hai tỷ rưỡi Mỹ kim! Tổng cộng khoảng 4 tỷ Mỹ kim! Cộng sản lãi to trong sự nghiệp buôn dân bán nước!



6. TÌNH TRẠNG NHỮNG NGƯỜI LAO ĐỘNG Ở NƯỚC NGOÀI


Ngày nay, kỹ nghệ XKLĐ đang bế tắc. Lý do chính là kinh tế suy thoái trên toàn cầu.Ngoài ra còn có những lý do khác như người Việt Nam kỹ thuật non làm hư hỏng máy móc và sản phẩm của chủ nhà, người Việt Nam phạm tội ác, uống rượu, đánh lộn, trồng cần sa. . .Khắp nơi từ Nga, Đông Âu, Malaysia, Đài Loan , Đại Hàn.. . ta thấy người Việt Nam bỏ trốn, hoặc bị cho nghỉ việc sớm. Dù khổ một số không về vì không tiền mua vé. Một số không muốn về vì chưa trả xong nợ, hoặc về Việt Nam tương lai đen tối hơn.


Tạp chí CAND.COM ( Công an nhân dân ) ngày 7-2-2010 viết như sau về tình trạng XKLD
Trong năm 2009, thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam bị suy sụp vì nhiều lý do nhưng có hai lý do chính:
+Quốc gia chủ nhà lâm cảnh kinh tế khủng hoảng.
+Khách Việt Nam quậy phá.

Trong bài "Xuất khẩu lao động Việt Nam thời kinh tế suy thoái" 2:50, 15/02/2009 có đoạn:
Không những thế, để hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp cho lao động bản địa, mới đây Ủy ban Lao động Đài Loan quyết định thu hẹp số lượng lao động nước ngoài. Theo đó sẽ tạm dừng tiếp nhận mới lao động nước ngoài đối với ngành sản xuất chế tạo có chế độ 3 ca. Ước tính năm 2009, các nhà máy xí nghiệp ở Đài Loan sẽ giảm bớt 3 vạn lao động nước ngoài. Tại Malaysia, Chính phủ nước này cũng đang phải thực hiện chính sách tiết kiệm, cắt giảm đầu tư vào các dự án liên quan đến nhà ở và quốc phòng. Chính phủ Malaysia đang tìm cách giảm số lượng lao động nước ngoài vào từ nay cho đến năm 2010, mỗi năm 400 nghìn người. Với Hàn Quốc, do tình hình sản xuất của các doanh nghiệp Hàn Quốc đang gặp nhiều khó khăn, phải giảm nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài nên cuối năm 2008, Bộ Lao động Hàn Quốc quyết định không tổ chức đợt 2 kiểm tra tiếng Hàn cho lao động nước ngoài.

Bài trên cũng viết:
Năm 2009, mục tiêu mà Quốc hội đặt ra là sẽ đưa 90.000 người đi làm việc ở nước ngoài. Đây sẽ là cái đích không dễ dàng bởi cuộc khủng hoảng kinh tế khiến nhiều hợp đồng xuất khẩu lao động từ đối tác nước ngoài đã bị thu hẹp về số lượng tuyển dụng. Những thị trường mà số lượng vẫn ổn định thì lại có xu hướng giảm lương.

Tờ báo này viết về tình trạng công nhân Việt Nam tại Qatar như sau:
chỉ một thời gian ngắn sang đây, lao động Việt Nam đã mất điểm do quá nhiều vi phạm, từ trộm cắp, đánh nhau, nấu rượu lậu... vì vậy cuối năm 2007, Qatar đã tạm ngừng cấp visa cho lao động Việt Nam để chấn chỉnh, http://ca.cand.com.vn/news/
Trần Đức Tường trong bài "Xuất cảng lao động hay bán dân đi làm nô lệ(VNN) của tờ Việt Nam News Network cho biết con số lao động tại Đài Loan và tình cảnh của họ như sau:
Tiếp xúc với những chị em lao động bị xuất cảng sang Đài Loan, các phóng viên báo chí đã được biết là vì nghèo khổ, vì không có công ăn việc làm trong vùng của họ, nên họ đã phải vay chạy một số tiền khá lớn hàng ngàn đô la Mỹ để đặt cọc và để được "xuất cảng" đi lao động ở nước ngoài. Những nạn nhân đang tá túc tại nhà thờ của linh mục Nguyển Văn Hùng cho biết, khi còn ở trong nước, họ cũng đã nghe qua những khổ nhục, bạc đãi, hành hạ mà công nhân phải gánh chịu khi sang Đài Loan. Nhưng họ cam lòng, nhắm mắt ra đi. Họ nghĩ rằng dù sao thì cũng còn khá hơn kiếp sống họ đang lê lết nơi quê nhà. Khốn nỗi, cực khổ thì còn chịu được; nhưng nhục nhã thì họ không thể chịu được. Vì thế, theo những con số chính quyền Đài Loan thì "đến cuối tháng 9/2004, có 80.890 đang làm việc tại Đài Loan, trong đó có 7.935 người bỏ trốn." Đài Loan đã hăm dọa sẽ ngưng việc nhập cảng lao động Việt Nam nếu tình trạng bỏ trốn tiếp diễn. . . .Dư luận vô cùng thương xót, phẫn nộ. Như một định mệnh, chị em phụ nữ" dù là công nhân trong các xí nghiệp hay người giúp việc trong các gia đình Đài Loan, là những người bị gánh chịu nhiều tai họa nhất. Họ bị bắt làm việc bất kể giờ giấc. Những kẻ thuê mướn họ tha hồ chửi mắng, đánh đập họ một cách tàn nhẫn. Mang thương tật, họ không được đưa đi cứu chữa... Họ đã bị bỏ đói, bị khóa nhốt... Nhưng khốn nạn hơn hết là họ thường bị gia chủ và đàn ông trong nhà hãm hiếp tập thể. Họ bị mang bán đi, bán lại như nô lệ thời trung cổ. Nhiều người tới mức cùng quẫn của sự khổ ải, nhục nhã đã nhẩy từ lầu cao xuống đất tự vận.


Hoa kỳ là một nước giàu mạnh tuy nhiên cộng sản đã cấu kết với lưu manh Mỹ để bóc lột công nhân Việt Nam.Tờ ViệtWN viết :
Trong kế hoạch xuất cảng lao động của Việt Nam, Hoa Kỳ là một thị trường béo bở. Từ năm 1999 Việt Nam đã có kế hoạch đưa người lao động vào Hoa Kỳ, khởi đầu với nhóm 250 công nhân đưa đến đảo American Samoa. Số công nhân này bị bóc lột và ức hiếp nặng nề. Cuối năm 2000 họ được cơ quan công lực Hoa Kỳ giải cứu. Phối hợp với chính phủ Hoa Kỳ, UBCNVB giúp nhiều nạn nhân định cư ở Hoa Kỳ và làm thủ tục cho họ ở lại Hoa Kỳ làm nhân chứng. Chính phủ Liên Bang Hoa Kỳ sau đó đã truy tố chủ sử dụng lao động--ông ta bị tuyên án 40 năm tù về tội buôn người. Đồng thời toà thượng thẩm của đảo American Samoa xử hai công ty xuất khẩu lao động quốc doanh phải bồi thường $3.5 triệu Mỹ kim cho các nạn nhân; cho đến nay chính phủ Việt Nam vẫn lờ đi khoản bồi thường này.
http://vietwn.com/forum/showthread.php?t=87800

Phóng viên Thanh Quang đài RFA 29/1/2009 viết như sau:
Trước hết, chúng tôi biết được có cả ngàn đồng bào của chúng ta đã bị mất việc, đã bị sa thải ở các quốc gia như Cộng Hoà Tiệp (Czech), ở tại Đài Loan, cũng như ở Mã Lai và nhiều quốc gia khác nữa. Những công nhân bị sa thải như vậy đã không được sự trợ giúp nào cả của phía chủ sử dụng lao động; họ hoàn toàn bị bỏ rơi, họ bị đẩy ra ngoài, không được vào ở các khu ký túc xá nữa.
Thành ra bây giờ họ là những người vô gia cư. Và họ không hề được một đồng lương trợ giúp nào về vấn đề thất nghiệp hết, thành ra họ hoàn toàn trắng tay và phải đi xin ăn chỗ này chỗ kia, sống nhờ vã và sống lậu với những người bạn của mình ở những ký túc xá khác cho tới khi bị phát hiện và bị trục xuất nữa. Thành ra đó là cả một vấn nạn rất là lớn, đặc biệt ở thủ đô Praha của Cộng Hoà Tiệp thì hiện nay tình trạng này rất là trầm trọng.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng trả lời Thanh Quang về việc này như sau:
Họ không được đưa về nước, đó mới là điều oái oăm, là bởi vì họ không có tiền để trả vé máy bay về nước. Thật ra ở trong hợp đồng khi mà họ ký kết ở Việt Nam với công ty môi giới Việt Nam thì trong hợp đồng có điều khoản là tiến phí dịch vụ mà họ đóng cho công ty môi giới có bao gồm cả việc can thiệp trong trường hợp công nhân bị nghỉ việc không phải do lỗi của họ thì công ty môi giới có nhiệm vụ thứ nhất là phải can thiệp, trợ giúp;

Thứ hai là phải trả tiền vé máy bay để đưa họ về nước; thứ ba là phải hoàn trả lại cho công nhân một phần phí dịch vụ cũng như là tiền ký quỹ dựa trên tỷ lệ thời gian mà họ đã thực hiện hợp đồng, chẳng hạn như họ hứa là 3 năm theo hợp đồng, nhưng mà chỉ một năm thôi thì họ bị sa thải không phải vì lỗi của họ thì công ty môi gới phải trả lại 2/3 tiền ký quỹ cũng như là tiền dịch vụ phí.

Thế nhưng, các công ty môi giới Việt Nam hoàn toàn bỏ rơi họ, thành ra các công nhân sau khi bị sa thải thì họ đứng đường, họ không nhận được một sự trợ giúp nào cả.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/The-problems-of-Vietnams-export-workers-TQuang-02112009164011.html


Đây là hoàn cảnh cô Trương Thị Thúy Nga ở Hà Tĩnh:

Qua sự giới thiệu của người quen, bố Nga, người có thời gian đi xuất khẩu lao động dạng thuyền viên nghề cá, cũng xin đi làm xây dựng tại Nga. Để xoay được 5.700 USD chi phí cho Nga và 3.000 USD chi phí cho bố, gia đình đã phải thế chấp sổ đỏ, vay mượn họ hàng, người quen. Cuối năm 2008, hai bố con lần lượt xuất cảnh, mang theo hy vọng kiếm đủ tiền nuôi 3 đứa em Nga ăn học thành tài.
Sang đến Đài Loan, mới học việc một tuần thì Công ty Ân Mậu, nơi Nga làm việc, tuyên bố thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công vì không có đơn hàng. Mất 3 tháng chờ đợi, mỗi tháng nhận lương cơ bản 17.280 đài tệ (khoảng 8,5 triệu đồng Việt Nam), đầu tháng 2, Nga cùng nhóm bạn phải về nước. "Bố em mới đi xuất khẩu sang Nga được hơn 2 tháng, cũng gọi điện về nói ngành xây dựng không có việc nên sắp phải về", Nga kể.
Nga cho biết, gia đình như đang ngồi trên đống lửa khi con nợ hối thúc, trong khi phía công ty đưa đi Đài Loan thông báo chỉ thanh toán được 3.400 USD. "Em chưa biết làm gì bây giờ, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, xin việc trong nước rất khó khăn. Mà có xin được thì với người không có nghề như em, thu nhập cao lắm cũng chỉ 1-1,5 triệu đồng, làm sao có thể bù đắp khoản chi phí đã mất khi đi xuất khẩu", giọng Nga rưng rưng.

Cũng giống Nga, nhóm bạn 10 người cùng xuất cảnh sang Đài Loan vào tháng 10/2008, cùng đi qua Công ty Cổ phần tiến bộ quốc tế (AIC), đều thấp thỏm lo âu. Một lao động quê Hải Dương cho biết: "Hoang mang không có tiền về trả nợ, có bạn đã trốn ra ngoài làm việc bất hợp pháp tại Đài Loan. Còn em, gia đình động viên về. Nhưng về tới nhà thì mấy mẹ con ôm nhau khóc, ngày ngày ngóng tiền thanh lý hợp đồng để sớm trả khoản vay nặng lãi. Giờ em sợ nhất là chủ nợ đến đòi tiền" .http://www.vnexpress.net/GL/Xa-hoi/2009/02/3BA0B817/


Đây là hoàn cảnh một số lao động tại Nga. Đài BBC trong bài " Lao động Việt quyết "bám trụ" tại Czech" đưa tin 36 Lao động VN ở Nga gửi thư kêu cứu (Monday, 15 June 2009)
Chỉ tính riêng trong hai năm 2007-2008, cộng đồng người Việt định cư tại nước này gồm khoảng 45 ngàn người đã đón nhận thêm 15 ngàn lao động mới từ trong nước sang.
Tuy nhiên, làn sóng khủng hoảng kinh tế toàn cầu bùng nổ đúng thời gian này đã khiến cho rất nhiều người trong số họ, lâm vào cảnh mất việc làm.
Chính phủ Czech đưa ra chương trình hồi hương tự nguyện gồm hai giai đoạn, theo đó những người tự nguyện về nước được trao vé máy bay và tiền hỗ trợ, với số tiền là 500 euro cho những người về từ tháng Hai đến tháng Sáu 2009, và 300 euro nếu về từ tháng Bảy tới tháng Mười Hai 2009.Tuy nhiên đợt đầu chỉ có200 người ghi tên về, còn đợt hai it hơn. Theo ông Lê Minh Cầu nói tuy khó khăn nhưng tâm lý chung ai cũng muốn cố gắng trụ lại để tìm kiếm tương lai, đặc biệt là để bù đắp cho những khoản chi phí lớn mà họ phải bỏ ra để sang được tới Czech.

BBC lấy tin từ Báo Lao Động, cho biết công nhân Chu Văn Quân (quê ở Yên Phong, Bắc Ninh), kể rằng: Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2009, Công ty APC của Nga không thanh toán tiền lương cho công nhân Việt Nam và họ phải tự bươn chải kiếm sống qua ngày.36 công nhân này được Tổng Công Ty Thép Việt Nam k‎ý hợp đồng với Công ty APC của Nga và đưa sang Nga trong hai đợt (cuối tháng 12/2008 và đầu tháng 1/2009 để làm việc trong ngành xây dựng.
Trong 5 tháng qua, Công ty APC không thanh toán tiền lương cho công nhân Việt Nam, cũng không có bảo hiểm y tế, bảo hiểm lao động… và công ty APC tìm mọi cách bắt lỗi, quy trách nhiệm và phạt tiền nhằm nhanh chóng chấm dứt hợp đồng.Bản tin này cho biết công nhân bị trừ lương vì làm hư hỏng máy và và sản phẩm của họ và cuối cùng sa thải. http://rfvn.net/?p=10
Tại Mỹ, công nhân Việt Nam cũng gặp khó khăn.Tờ ViệtWN viết về vụ 38 công nhân làm thợ hàn tại hãng đóng tàu Southwest Shipyard thuộc vùng Pasadena, Texas. Họ đã phải đóng khoản tiền phí dịch vụ từ $6 ngàn rưởi đến $15 ngàn Mỹ kim cho các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam. Họ được hứa hẹn việc làm cho 30 tháng, tối thiểu 50 giờ một tuần, ở mức lương $15 Mỹ kim một giờ cho 40 giờ đầu tiên và thêm 50% cho những giờ làm phụ trội.
Tuy nhiên mới chỉ làm việc được tám tháng, họ được thông báo là không được gia hạn chiếu khán và phải hồi hương. Trên một chục công nhân chấp nhận hồi hương và một số bỏ trốn đi các tiểu bang khác; còn 20 công nhân ở lại Houston thì đã cầu cứu sự can thiệp của các tổ chức trong cộng đồng Việt. http://vietwn.com/forum/showthread.php?t=87800


Việt Nam hứa 30 tháng hay Mỹ hứa? Việc này có lẽ là âm mưu của cộng sản đưa người trong đó có tư sản đỏ, điệp viên CS qua Mỹ để họ ở lại trên đất Mỹ bằng cách này hay cách khác .

VIII. NHẬP CƯ LẬU

Phần lớn người Việt chán cộng sản độc tài và nghèo đói nên bỏ nước mà đi, ngay cả dân XHCN. Đúng là " cột đèn cũng muốn bỏ nước ra đi"! Nay thì nhiều cách ra đi. Nào đi lao động, đi du học, kết hôn, đi chui.
Nếu họ đi lậu qua Đông Âu hay Anh Pháp rất nguy hiểm.Họ có biết đâu họ phải vượt bao nhiêu hiểm nguy để sang Đông Đức, Ba Lan, Tiệp khắc. Họ đã bán nhà cửa, ruộng nương, nợ hàng ngàn hay hàng chục ngàn Mỹ kim .

Dù ở các nước Nga, Tiệp, Ba Lan hay Mỹ, Canada, đã nhiều năm các nước này đang lún sâu vào kinh tế khủng hoảng, nhiều người bị mất việc. Cuộc sống ở tư bản khá hơn xứ cộng sản , đa số dân có đủ ăn, không nghèo đói như ở Việt Nam nhưng không phải ai cũng dư năm, mười ngàn đô, hai chục ngàn đô! Nợ mười ngàn đô, mười lăm ngàn đô làm sao trả hết nếu không kiếm được việc làm? Nhân dân nghèo Việt Nam đã bị bọn cộng sản lừa đảo, chúng bắt nhân dân đóng hàng ngàn đô la cho chúng mà lâm vào chỗ chết!


Lại nữa, ra ngoại quốc bằng diện nào cũng phải có giấy tờ chính thức. Người Việt Nam thường dùng nhiều cách:
+Đi du lịch rồi ở lại
+Đi lao động rồi trốn ra ngoài
+Giả hôn nhân rồi trốn đi
+Làm sinh viên du học rồi không về.

Mặc dầu ở Âu Mỹ không có cảnh sát nửa đêm đến soát hộ khẩu nhưng sống bất hợp pháp đều rất khổ. Nếu không có việc làm, cac công nhân sẽ bị bọn lưu manh đưa vào các động điếm hay băng trộm cướp, ma túy. Cuối cùng cũng sẽ bị tù tội. Lại nữa, bản thân của nữ còn bị hãm hiếp, giết hại, đánh đập, và cả nam nữ bị bắt làm nô lệ hoặc lấy nội tạng đem bán.

Rất nhiều vụ đưa người nhập cảnh bất hợp pháp tại Sigapore, Malaysia, Đài Loan, Nga, Tiệp, Hung, Pháp, Anh, Mỹ. ..rồi họ bị bắt làm nô lệ như trường hợp Đài BBC loan tin ngày 12-2-2010 trong bài "Lãnh án nặng vì đưa lậu người


Vũ Văn Hạnh và Vũ Thị Đức
Tòa nói Hạnh và Đức sẽ bị trục xuất
Tòa án ở Northampton tuyên án công dân Anh gốc Việt, Vũ Văn Hạnh, 40 tuổi, 11 năm tù vì nhiều tội danh liên quan đến việc đưa lậu cả trăm người vào nước Anh.Vũ Thị Đức 37 tuổi, bảo lãnh em cùng cha khác mẹ là Vũ Văn Hạnh, sau tổ chức đưa người nhập lậu Anh quốc. Một nạn nhân tên Lê Đức nhập cư lậu năm 2000 khai rằng những ngưồi này phải nộp 20 ngàn bảng Anh, còn anh phải làm móng tay trong bảy năm không lương. Anh bị đánh đập nên trình cảnh sát.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/02/100212_humantraffickersjailed.shtml
Việc buôn người và nhập cảnh trái phép đã có từ lâu. Trước đây, dân châu Phi đã trốn qua các nước Âu châu như Pháp, Đức, Anh. Chính những con người văn hóa cao, giàu sang của Âu Mỹ đã nhúng tay vào việc buôn bán người và đưa di dân lậu.


C. Chocat và con trai Benjamin (Ảnh : AFP)
C. Chocat và con trai Benjamin
(Ảnh : AFP)



Ngày 5/2 bà Christiane Chocat, dân biểu hội đồng thành phố Lumigny Nesles-Ormeaux, vùng Seine-et-Marne, ngoại ô Paris đã bị tư pháp Anh Quốc tuyên án 3 năm tù giam vì đã tham gia vào việc chuyên chở 16 người Việt nhập cư trái phép vào nước này. Con trai bà Chocat là Benjamin, 20 tuổi, bị phạt tù 5 năm với tội danh đưa người nhập cư trái phép để kiếm tiền.

Từ Portsmouth, thông tín viên Adrien Moss tường trình.
« Cả hai người đã bị bắt ngày 01/10/2009, tại Portsmouth, lúc nhập cảnh vào Anh từ một chuyến tàu từ Pháp sang. Họ lái một chiếc xe tải nhỏ chở hơn một chục người nhập cư trái phép.
Những người này ngồi trong một chiếc thùng gỗ cao khoảng 1,2 mét, chỉ ăn đường và ngậm gừng để lấy sức trong một chuyến hành trình 7 tiếng đồng hồ, từ Paris sang Anh Quốc. Thùng xe được khoan thủng nhiều lỗ để họ có thể thở được. Bà Chocat trực tiếp lái xe. Cảnh sát Anh phát hiện ra có người trốn trong xe khi nhìn thấy hơi nước đọng trên các cửa kính của thành xe.

Cả hai mẹ con bà Chocat đã nhận tội trước thẩm phán, do vậy, theo luật pháp của Anh Quốc, thì không cần phải mở phiên xét xử nữa và tòa đã tuyên án ngay lập tức. Bà Chocat bị ba năm tù giam, Benjamin, con trai của bà bị kết án 5 năm tù. Theo tư pháp Anh Quốc, thì bà Chocat đã tỏ ra tận tụy giúp con không đúng chỗ và đúng lúc. Nếu vụ việc trót lọt, Benjamin sẽ nhận được một khoản tiền 24 ngàn Euro khi quay lại Pháp.
http://www.rfi.fr/actuvi/articles/122/article_6784.asp
Cộng sản là một lũ tàn ác, không bao giờ biết thương dân yêu nước. Họ chỉ biết quyền lực và tiền bạc. Họ đem con bỏ chợ. Sau khi chiếm Kampuchia, Việt nam thi hành chính sách thực dân, đem khoảng một triệu dân mà phần lớn là dân XHCN sang Kampuchia. Các báo chí hải ngoại nói tình trạng nghèo khổ của người Việt tại Kampuchia nào là bán dâm, bán con. . .nhưng thực tế họ là những thực dân Việt Nam. Nay thì cộng sản Việt Nam bỏ mặc họ bên đó. Nếu mai đây có vụ " cáp duồng" nữa, cộng sản Việt Nam cũng làm ngơ vì mấy ông tướng một số nay sắp xuống lỗ, một số thì quá mập, không còn thích đánh đấm nữa! Sau khi Đông Âu và Liên xô tan rã, cộng sản cũng để mặc cho họ muốn đi đâu thì đi. Đức đòi hồi hương những người lao động và nhập cư bất hợp pháp. Việt Nam trâng tráo đòi tiền mới đưa người về! Ôi, những người lao động XHCN này là cán bộ, là con em XHCN, là đích thực "khúc ruột ngàn dặm" sao không thương họ với? Sao không đưa họ về để xây dựng XHCN giàu sang và tươi đẹp?
VNEXPRESS loan tin như sau:
Lần đầu tiên, lực lượng an ninh đường biên của EU là Frontex hỗ trợ tài chính để một nhóm người Việt ở Đức và Ba Lan về nước. Đối với nhiều người trong số họ, cuộc trở về nhà này chấm dứt hành trình dài và gian khổ. Họ đã trả những khoản tiền rất lớn để được sang Đức nhưng đơn xin tị nạn của họ bị bác bỏ.
Bị những kẻ môi giới lừa gạt, nhiều người Việt từ bỏ mọi thứ nơi quê nhà để sang Đức và rồi bị từ chối cho tị nạn. . . .Dọc các bãi đỗ xe lại là một nhóm đàn ông Việt Nam khác và câu chuyện của họ khác hẳn. Những người này bán thuốc lá lậu. Sắc phục cùng ánh đèn lóe sáng trên nóc xe của cảnh sát là nỗi kinh hoàng. Họ sẵn sàng liều chết băng qua đường hoặc các thanh ray tàu điện ngầm để chạy trốn. http://www.vnexpress.net/GL/The-gioi/Nguoi-Viet-5-chau/2009/06/3BA0FE2F/
IX. THỊ TRƯỜNG HÔN NHÂN TÌNH DỤC .
Cộng sản ngày nay chủ trương buôn người vì đây là một thị trường dễ kiếm ăn nhất. Bên cạnh kỹ nghệ XKLD, cộng sản còn phát triển thị trường tình dục trong và ngoài nước.
Tờ VietBF cho hay giới tội phạm buôn bán người tại Việt Nam không chỉ nhắm vào các đối tượng phụ nữ và trẻ em, mà còn cả vào nam giới để khai thác sức lao động và bán nội tạng.
Tờ Viêt BF cũng viết rằng tin của Bernama và của Tân Hoa Xã cho hay Văn Phòng Ban Chỉ Đạo 130/CP của Việt Nam tiết lộ trong một hội nghị rằng người ta ước tính là đã xảy ra các vụ buôn bán khoảng 2,800 phụ nữ và trẻ em trong khoảng thời gian từ năm 2005 tới tháng 6 năm 2008. http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=61447
Tin trong nước, tháng giêng năm 2006, bộ công an Hà Nội cho biết khoảng 6000 người bị đưa ra nước ngoài hành nghề mại dâm. http://www.tudovis.com/vis_forums/forum27/3505.html
Đài VOA cho biết theo một báo cáo của Cục Cảnh sát Điều tra tội phạm về Trật tự Xã hội của Bộ Công an Việt Nam, chỉ tính trong 6 tháng đầu năm 2009, đã xảy ra 191 vụ mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới, với 362 đối tượng được xác định là có dính dáng đến hoạt động môi giới, mua bán và 417 người là nạn nhân của nạn buôn người.

Những phụ nữ và em gái này đã bị bán đi khắp nơi như Campuchia, Trung Quốc, Thái Lan, Hong Kong, Macau, Malaysia, Đài Loan, Nam Triều Tiên, v.v. nơi họ bị cưỡng bức lao động hoặc bị bán vào các nhà chứa và bị ép làm nô lệ tình dục.

Đặc biệt rất nhiều phụ nữ Việt Nam ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp bị bán sang Campuchia. Hồi năm 2004, cảnh sát Campuchia ước tính có tới 50 ngàn em gái bị bán vào các nhà chứa ở nước này, trong đó có rất nhiều em là người Việt Nam. Tổ chức Nhân quyền Thế giới và UNICEF ước tính rằng 1/3 số gái mại dâm ở Campuchia ở độ tuổi dưới 18, trong đó đa số là các em gái người Việt Nam. http://www1.voanews.com/vietnamese/news/women/a-19-2009-10-23-voa25-81426302.html
Tờ Truyền thanh Mạch sống viết rằng Đại Sứ Lagon cho biết việc chống nạn buôn người là một việc làm rất khó khăn, được ông tóm gọn vào ba phần chính: Trừng phạt kẻ môi giới, giúp đỡ nạn nhân, và tìm ra biện pháp ngăn ngừa. Ông chia sẻ: Khoảng 800 ngàn người được buôn bán qua biên giới mỗi năm, 80 % những người này là phụ nữ, và hơn một nửa là trẻ em. Con số này không kể hàng triệu người bị bán thành nô lệ tình dục hay cưỡng bách lao động ngay trong nước mình”. Khi được hỏi về tình trạng buôn người tại Việt Nam, Đại Sứ Mark Lagon đã đơn cử một trường hợp cụ thể, là vào tháng 9 năm 2008, tại Jordan, ông đã gặp khoảng 200 người lao động đến từ VN.

Theo ước tính của cơ quan UNICEF và các tổ chức khác, có khoảng 400,000 phụ nữ và trẻ em Việt Nam đã bị bán ra nước ngoài, hầu hết là sau khi chấm dứt Chiến Tranh . Nhiều phụ nữ, trẻ em Việt Nam bị bán qua Căm Bốt, Trung Hoa, Đài Loan, Nam Hàn, và Thái Lan để phục vụ trong các nhà chứa, lao động cưỡng bức trong các xí nghiệp, hay làm đầy tớ tư nhân. http://tvvn.org/forum/showwiki.php?title=Island:4228

Việc hôn nhân với chồng Đài, chồng Hàn cũng là một hình thức buôn người bao hàm kỹ nghệ tình dục.
Tờ Việt Báo loan tin tại Cần Thơ, con số phụ nữ lấy chồng Đài, chồng Hàn gia tăng. Tờ Việt Báo tháng 12-2000 cho biết từ năm 1995 đến nay, toàn tỉnh có 3.780 phụ nữ lấy chồng người nước ngoài, trong đó có 2.391 trường hợp kết hôn với người Đài Loan. Riêng trong năm nay (tính đến hết tháng 11/2000), có hơn 1.800 phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, tăng trên 600 trường hợp so với năm trước. Trong đó có 29 trường hợp phải trở về nước do bị ngược đãi.
Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh đã giáo dục được 26 đối tượng môi giới bán phụ nữ bỏ nghề, thuyết phục 121 gia đình từ bỏ ý định bán con.TheoViệt Báo (Theo_VnExpress.net).
.http://vietbao.vn/Xa-hoi/Can-Tho-So-phu-nu-lay-chon

Cũng tờ Việt Báo loan tin ngày 15/6, UBND TP Cần Thơ đã tổ chức hội nghị sơ kết 3 năm thực hiện chương trình phòng, chống tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em. Từ năm 2004 - 2006, Cần Thơ phát hiện có 27 phụ nữ và 1 trẻ em bị bán ra nước ngoài, chủ yếu là qua Campuchia. Có 2.485 trường hợp phụ nữ kết hôn với người nước ngoài, trong đó có 1.920 trường hợp kết hôn với người Đài Loan (chiếm 77,26%), 228 trường hợp kết hôn với người Hàn Quốc; 158 trường hợp kết hôn với người Mỹ.
http://vietbao.vn/Xa-hoi/Can-Tho-3-nam-gan-2.500-phu-nu-lay-chong-nuoc-ngoai/45242727/157/

Bộ LĐ-TB&XH đưa ra tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2009 của Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ về tình hình xuất khẩu lao động và phụ nữ lấy chồng nước ngoài, và kết quả là tại đồng bằng sông Cửu Long Phụ nữ lấy chồng “ngoại” nhiều gấp 4 lần đi XKLĐ (Dân trí) - Từ năm 2006 đến nay khu vực Tây Nam Bộ có 70.000 phụ nữ lấy chồng nước ngoài, nhưng chỉ có gần 16.500 lao động nữ xuất khẩu chủ yếu sang các nước Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước Trung Đông.
http://tinmoi.phanvien.com/197/dbscl-phu-nu-lay-chong-ngoai-nhieu-gap-4-lan-di-xkld.html..
Chúng ta chưa có con số về phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài, chồng Hàn trên toàn quốc.
Tờ VNN (V ietnamNews Network) cho biết thống kê của Bộ Công An CSVN, từ năm 1998 đến nay, có 10,711 phụ nữ Việt Nam vượt biên "trái phép" ra nước ngoài lấy chồng. Theo một bản phúc trình nhân một hội nghị về phụ nữ Việt lấy chồng ngoại quốc cách đây hai tuần lễ, lối 180.000 phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài hoặc lấy người Việt định cư ở nước ngoài. Trong tổng số vừa kể khoảng phân nửa là lấy chồng Đài Loan.
http://www.vnn-news.com/spip.php?breve6692


Con số phụ nữ Việt lấy chồng Hàn ít hơn là lấy chồng Đài Số các cuộc hôn nhân giữa đàn ông Hàn Quốc và phụ nữ Việt Nam tăng vọt từ 95 năm 2000 lên 5.822 năm 2005, vượt xa so với Đài Loan là 3.212.( The Chosun IlboNgày 27-3-2008)
http://hoangquang.wordpress.com/tag/anhbasam/
Việc xuất khẩu lao động là một hiện tượng phức tạp, nó là đem người lao động, những nó cũng là buôn người, đưa phụ nữ và thiếu nhi vào đường phục vụ thị trường tình dục. Xuất khẩu lao động nửa triệu người xuất khẩu cho thị trường tình dục cũng khoảng nửa triệu người. Cộng sản đã thu lợi trên xương máu nhân dân nghèo!

Nói tóm lại, cộng sản gian ác, bóc lột nhân dân một cách tàn tệ. Cuối thế kỷ XX, loài người đã qua cơn mê, đã nhận thức Marx lừa gạt, cộng sản bóc lột nặng nề hơn tư bản. Ôi Marx, ôi Mao và Hồ! Đâu rồi những lời kêu gào đấu tranh cho vô sản? San bằng bất công xã hội? Đâu rồi những người thương nước yêu dân? Họ đi đâu cả mà bây giờ rõ mặt một lũ bán nước buôn dân!


 

No comments:

Post a Comment