SẤM KÝ TRẠNG TRÌNH TOÀN TẬP
Trong các bản Sấm Ký Trạng Trình dịch ra quốc ngữ thì bản Sở Cuổng sớm nhất. Cụ Sở Cuồng là nho gia yêu nước, yêu văn chương Việt Nam cho nên cụ là người đáng kính, đáng tin. Trong bản này có đoạn sau đây là thần kỳ nhất:
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380.Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385. . Một gió một yên ai sùng bái
110.Cha con người Vĩnh Bảo cho hay (34)
Đoạn này nói việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa tại Yên Bái ngày10 tháng 2 năm 1930 . Đến ngày16 tháng 2 năm 1930 Pháp cho 5 phóng pháo cơ đến ném 57 quả bom xuống khắp làng Cổ Am biến làng nầy thành bình địa và làm cho 21 thường dân bị thiệt mạng. Vào ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại làng Cổ Vịt, gần đồn Chi Ngại, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Về phần Ký Con Đặng Trần Nghiệp, ông bị mật thám Pháp lùng bắt gắt gao ở Hà Nội phải xuống Hải Phòng trốn tránh, tại đây cũng không yên nên ông đến Nam Định và bị mật thám Pháp bắt giữa tháng 6-1930. Sau khi thất bai, một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lánh sang Trung Hoa tiếp tục hoạt động và xây dựng lại cơ sở. Riêng Nhượng Tống không tham gia được cuộc khởi nghĩa vì ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo từ năm 1929 đến năm 1936 mới được thả ra.
Các tài liệu cho biết quyển Sấm Trạng Trình do Sở Cuồng dịch quốc ngữ -Bản quốc ngữ đầu tiên của Sở Cuồng trong Quốc Học tùng thư, Nam Ký xuất bản tại Hà Nội 1930; 53 trang, in tại nhà in Trịnh Văn Bích. Trong quyển Thư Mục Đông Dương (Bibliographie en l' Indochine ), quyển V, xuất bản ở Đông Dương năm 1935, ông Paul Boudet có ghi" Bạch Vân Am Thi Tập, văn thơ sấm ký của cụ trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm , recueilli par Sở Cuồng, Nam Ký Thư quán, 1930, Impr Trịnh Văn Bích- Coll Quốc Học Tùng Thư.(Phạm Đan Quế).
Quyển Sấm Trạng Trình của Sở Cuồng in năm 1930 nghĩa là cùng lúc với vụ Pháp thả bom làng Cổ Am ngày 16-2-1930 . Tin tức ngày xưa đến rất chậm, phải rất lâu người ta mới biết chi tiết. Hơn nữa việc dịch thuật, kiểm duyệt, và gửi cho in, có thể phải có trước 1930. Nếu chúng ta nắm được:
- Bản nôm của bản Sở Cuồng để xem có đoạn trên hay không.
-Bản quốc ngữ của Sở Cuồng để xem ngày tháng in sách, kiểm duyệt hoặc đề tựa.
Phải chăng Sở Cuồng thêm vào khi sửa bản in, hay tái bản sau 1930?
Nếu bản nôm có đoạn trên, hoặc bản Sở Cuống in trước tháng 2-1930 thì chắc chắn bản Sở Cuồng chân thực chứ không do ai thêm vào. Ngoài ra bản Sở Cuồng cũng cho ta thấy các bản quốc ngữ nào dài trên 200 câu có thể là hai bài sấm ký khác nhau mà người chép làm một.
Một số bản khác cũng có đoạn trên.
Dẫu sao, bản của Sở Cuồng và các bản ra đời trước 1945 cũng cho ta tin tưởng, còn sau 1945, đất nước ta dối trá lên ngôi, cho nên một số tác phẩm văn học, lịch sử, triết học đã mất đi sự thật.
1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ (1) tập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật (2) phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề (3).
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngũ ( 4)
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay
Thập bát tử (5) (giầy) rày quyền đã nổi lên
15. Ðông A (6) âm vị nhi truyền
Nam phương kỳ mộc (7) bỗng liền lại sinh
Chấn cung hiện nhật (8) quang minh
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật ( việc) cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25.Kìa (khi ) liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở riếng ( giếng) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35.Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn than
Dưới trên dốc trí lo toan
40.Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống rủ nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có chí an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45.Dư đồ chia rẽ càn khôn
Mối giường man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi ( 9)
Việc làm bất chính tơi bời
50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia (10) ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá (11), làng phân điếm tuần (12)
Tiếc là những suất (13) dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ ( 14 ) sửa sang một mình
75.Nội thành ông ổng hư kinh
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Ðứng ( Đấng) hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai thủa đã nguôi
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra (14)
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới
Gặp nước bung con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
110.Tìm non có rẫy (16) chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.
115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian (17)
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến đã dời đất cũ (18)
120. Thì phụ nguyên(19) mới chổ (trổ) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
125. Lại nói sự Hoàng Giang (20) sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh ( 21) hộ mai
Chọn Đẩu, Thai những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ (22) điều hoà hôm mai
Song thiên nhật (23) rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vi vương
140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó (24) anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long ( 25)
Thánh nhân cư có thụy cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô (26) sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy, thần kinh
Ðược vào trận chiến mới rành ( 27) biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
185.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh (28) liệu rạo (rảo, tháo?) (29)cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm (30) mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền (31) đầu khỉ cuối thu
200.Tái binh (32) mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215.Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225,Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình
235.Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250.Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255.Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê
Có thầy Nhân thập ( 33) đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265.Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
II
181- 1. Vừa năm nhâm tí tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
285. 5. Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
(Đoạn này Vikisource không gián đoạn- Tạp chí Thời Tập (1973-1975, Viên Linh. -Wikisource 2010--Bản Trịnh Vân Thanh, 1966- Bản Phạm Đan Quế , 1992)
... . . . . . . . . .
... . . . . . . .
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
.290. 10. Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn (34) mà đi
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
300. 20. Tai nghe bằng một ti hào (35) biết hay
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn (34) hết sau ,
310. 30. Ðến chưng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (ác?) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
(Vikisource không bỏ trống)
. . . . . . . . .
. . . . . . . .
. . . . . . . .
315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
320. 40.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
330. 50.Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này (36)
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt ( nghiêm ngặt) cho tường
340. 60. Bảo Giang (37) thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345. 65.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chan
350. 70. Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355. 75. Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
360. 80. Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
365 85. .Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370. 90. Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến thời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này
375. Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang (37) môn
Khỉ ôm con ngồi khóc
Gà chuồng vỡ tổ bay
Chó vẫy đuôi mừng thánh chúa
Lợn ăn no ngủ cả ngày. (38)
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
380.Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385. . Một gió một yên ai sùng bái
110.Cha con người Vĩnh Bảo cho hay (39)
Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
390. 110.Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.
395. 115. Canh niên tân phá
庚年辛破
Tuất hợi phục sinh
戌亥復生
Nhị ngũ dư bình
二五餘平
Long vĩ xà đầu khổ chiến tranh
龍尾蛇頭苦戰爭
Can qua xứ xứ khởi đao binh
干戈 處處起刀兵
400. 120. Mã đề dương cước anh hùng tận
馬啼 羊腳英雄盡
Thân dậu niên gian kiến thái bình.
申酉年間見太平
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405. Lợn kia làm quái phải sai đầu
130. Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.
410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định
九九乾坤已定
Thanh minh thời tiết hoa tàn
清明時節花殘
Trực đáo dương đầu mã vĩ
直到 羊頭馬尾
Hồ binh bát vạn nhập trường an.
胡兵八萬入長 安
Bảo Giang thiên tử xuất
寳江天子出
415. Bất chiến tự nhiên thành
不戰自然成
140. Lê dân đào bão noãn
梨民陶抱煖
Tứ hải lạc âu ca
四海樂謳歌
Dục thức thánh nhân hương
欲識聖人鄕.
Quá kiều cư Bắc phương
過橋 (僑)居北方
420. Danh vi Nguyễn gia tử
名為阮家子
Kim tịch sinh ngưu lang
金席生牛 郞
Thượng đại nhân bất nhân
上大人不仁
Thánh ất dĩ vong ân
聖乙已忘恩
Bạch hổ kim đai ấn
白虎金帶印
425. Thất thập cổ lai xuân
七十 古 來 春
150. Bắc hữu kim thành tráng
北 有金城壯
Nam tạc ngọc bích thành
南鑿玉璧 城
Hỏa thôn đa khuyển phệ
火村多犬吠
Mục dã dục nhân canh
牧野欲人 耕
430. 150. Phú quí hồng trần mộng
富貴 紅塵 夢
Bần cùng bạch phát sinh
貧窮白 髮生
Anh hùng vương kiếm kích
英雄王剑戟
Manh cổ đổ thái bình
盲瞽睹太平
Nam Việt hữu Ngưu tinh
南越有牛精
Quá thất thân thủy sinh
過七身始 生
160. Ðiạ giới xĩ vị bạch
地界齒未白
Thủy trầm nhĩ bất kính
水 沈耳不驚
Ký mã khu dương tẩu
驥馬驅羊走
Phù kê thăng đại minh
扶雞 升大明
440.Trư thử giai phong khởi
猪鼠 皆蜂起
Thìn mão xuất thái bình
辰昴 出 太平
Phân phân tùng Bắc khởi
紛紛從北起
Nhiễu nhiễu xuất Ðông chinh
擾擾出東征
Bảo sơn thiên tử xuất
寳山 天子出
Bất chiến tự nhiên thành
不戰自然成
170. Thủy trung tàng bảo cái
水中藏 寳蓋
Hứa cập thánh nhân hương
許及 聖人鄕.
Mộc hạ châm châm khẩu
木下針針口
Danh thế xuất nan lường
名世出 難量
450. Danh vi Nguyễn gia tử
名為阮家子
Tinh bản tại Ngưu lang
精 本在 牛 郞
Mại dữ lê viên dưỡng
賣與棃 園 養
Khởi nguyệt bộ đại giang
起月步大 江
Hoặc kiều tam lộng ngạn
或橋三弄 岸
Hoặc ngụ Kim lăng cương
或寓金 陵岡
180.Thiên dữ thần thực thụy
天與神食瑞
Thụy trình ngũ sắc quang
瑞呈五色光
Kim kê khai lựu diệp
金雞開橊葉
Hoàng cái xuất quí phương
黄 蓋出癸 方
460. Nhân nghĩa thùy vi địch.
仁義誰為敵
Ðạo đức thùy dữ đương
道 德誰與當
Tộ truyền nhị thập ngũ
祚 傳二十五
Vận khải ngũ diên trường
運啓五 延長
Vận đáo dương hầu ách
運到羊猴厄
Chấn đoài cương bất trường
震兌綱不長
190. Quần gian đạo danh tự群奸盜名字
Bách tính khổ tai ương
百姓苦災殃
Can qua tranh đấu khởi
干戈争鬥起
Phạm địch thán hung hoang.
犯敵嘆兇荒
470. 194. Ma vương sát đại quỉ
魔王殺 大鬼
Hoàng thiên tru ma vương
皇天.誅魔王
Kiền khôn phú tái vô lường
乾坤覆載無量
Ðào viên đỉnh phí quần dương tranh hùng (40)
桃園 鼎沸 群羊争雄
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
機二五 雌雄未決
Đảo Hoành sơn tam liệt ngũ phân. (41)
搗橫山三裂五 分
200. Ta hồ vô phụ vô quân
嗟乎!無父無君
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ thành.
桃園散落吾民 守 城
Ðoài phương phúc điạ giáng linh
兌方福地降靈
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân
九重瑞應龍成五雲
Phá điền thiên tử giáng trần,
破 田 天子降塵
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
勇士若海謀臣如林
Trần công nãi thị phúc tâm
陳公乃 是腹心
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.
江湖處士 陶潛出遊
Tướng thần hệ xuất Y Chu
相臣 系出 [伊周
Thứ ky phục kiến Đường Ngu thi thành
庶機復見唐虞施成
Hiệu xưngthiên hạ thái bình (42)
號 稱天下太平
487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
東西無事南城 國家
Sơn Trung
sưu tập và chú thích.
Thủ đô Ottawa ngày 29-9-2010.
sưu tập và chú thích.
Thủ đô Ottawa ngày 29-9-2010.
_____
CHÚ THÍCH
(1).Quốc ngữ hay Quốc Âm là chữ nôm.
(2). xe nhật : Nguyễn Khuê theo bản Đại La chú là xe Phật
(3). nên lề: nên lề thói, thành thói quen, thành tập quán.
( 4) .cửu ngủ: Quẻ Càn, hào củu ngũ , Hào từ có câu: Cửu ngũ: phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. 九五。飛龍在天,利見大人。Cửu ngũ laf hào đẹp nhất (hào số 5 trong quẻ Càn . Quẻ càn đại diện cho Dương trong âm dương, cho Nhật
trong nhật nguyệt, vua chúa. Chi tôn (chí tôn), người có địa vị tối cạo
Cửu ngũ chi tôn, nói ngắn gọn là để chỉ hoàng đế, là ngôi vua. Đinh hoàng cửu ngũ: Đinh Bộ Lĩnh làm vua.
(5) .Thập bát tử : họ Lý 李, Lý công Uẩn.十八 子 là do chữ Lý chiết tự mà thành.Rày, bấy giờ.
(6). Ðông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
(7). Nam phương kỳ mộc hay Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao. Dị mộc chỉ họ Lê.
(8).Chấn cung hiện nhật hoặc Chấn cung nhật hiện:.Chỉ họ Trịnh 鄭 vì chữ Trịnh có chữ nhật, và cũng chỉ họ Mạc 莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
(9). Ai đòi (bản Đại La).
(10). giơ hay đưa?
(11). mõ cá : mõ làm bằng gỗ theo hình dáng con cá.
(12). điếm tuần : nơi tuần phu tụ họp để canh gác.
(13). suất: đốc suất, ra lệnh, đôn đốc dân làm biệc tàn bạo.
(14). Ai để (ĐL)
(15) 100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra : Nguyễn Kim phù Lê diệt Mạc đem quân từ Thanh Hóa ra Thăng Long dẹp họ Mạc.
(16). có rẫy (ĐL)
(17). lục thất nguyệt gian: ( hay niên gian):
Lục thất cho biết ngày dầy (rày).Bản Phùng Thượng thư chú:
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ).
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260)
Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo.Lục thất 六七ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua là giòng họ Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa.
(18). Hễ nhân kiến đã dời đất cũ.Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn.
Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn Huệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
(19). Phụ nguyên: họ Nguyễn.阮. Chữ Nguyễn là do chữ nguyên元 với bộ Phụ 阝 (阜)
(20). Hoàng Giang : giòng Nguyễn Hoàng sinh ra các vị vua triều Nguyễn. (20). Bạch sĩ: không rõ
(21). Điều tỉnh ( ĐL) nhưng điều đỉnh hộ mai mới đúng. Điển này ý nói việc chính trị cũng như việc nấu canh nấu cơm phải biết điều hòa củi lửa, nêm nếm. Câu này giống câu Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai 若作和羹, 爾惟鹽梅 (Thuyết mệnh hạ 說命下) Nếu nấu canh ăn, chỉ nên dùng muối và mơ. § Muối mặn, mơ chua làm gia vị cho canh ngon, ý nói việc lương tướng hiền thần giúp vua trị nước. Nay gọi quan Tể tướng là điều mai 調梅 hay hòa mai 和梅 là bởi ý đó.
(22). Bạch xỉ: không rõ.
(23).Song thiên :Tuổi quý 癸.(trên là chữ song, dưới là chữ thiên)
(24). SC thiếu 2 chữ, Mai Lĩnh có đủ.
(25).Thành long.(Sở Cuồng).Thánh Long đúng hơn.
(5) .Thập bát tử : họ Lý 李, Lý công Uẩn.十八 子 là do chữ Lý chiết tự mà thành.Rày, bấy giờ.
(6). Ðông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
(7). Nam phương kỳ mộc hay Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao. Dị mộc chỉ họ Lê.
(8).Chấn cung hiện nhật hoặc Chấn cung nhật hiện:.Chỉ họ Trịnh 鄭 vì chữ Trịnh có chữ nhật, và cũng chỉ họ Mạc 莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
(9). Ai đòi (bản Đại La).
(10). giơ hay đưa?
(11). mõ cá : mõ làm bằng gỗ theo hình dáng con cá.
(12). điếm tuần : nơi tuần phu tụ họp để canh gác.
(13). suất: đốc suất, ra lệnh, đôn đốc dân làm biệc tàn bạo.
(14). Ai để (ĐL)
(15) 100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra : Nguyễn Kim phù Lê diệt Mạc đem quân từ Thanh Hóa ra Thăng Long dẹp họ Mạc.
(16). có rẫy (ĐL)
(17). lục thất nguyệt gian: ( hay niên gian):
Lục thất cho biết ngày dầy (rày).Bản Phùng Thượng thư chú:
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ).
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260)
Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo.Lục thất 六七ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua là giòng họ Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa.
(18). Hễ nhân kiến đã dời đất cũ.Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn.
Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn Huệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
(19). Phụ nguyên: họ Nguyễn.阮. Chữ Nguyễn là do chữ nguyên元 với bộ Phụ 阝 (阜)
(20). Hoàng Giang : giòng Nguyễn Hoàng sinh ra các vị vua triều Nguyễn. (20). Bạch sĩ: không rõ
(21). Điều tỉnh ( ĐL) nhưng điều đỉnh hộ mai mới đúng. Điển này ý nói việc chính trị cũng như việc nấu canh nấu cơm phải biết điều hòa củi lửa, nêm nếm. Câu này giống câu Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai 若作和羹, 爾惟鹽梅 (Thuyết mệnh hạ 說命下) Nếu nấu canh ăn, chỉ nên dùng muối và mơ. § Muối mặn, mơ chua làm gia vị cho canh ngon, ý nói việc lương tướng hiền thần giúp vua trị nước. Nay gọi quan Tể tướng là điều mai 調梅 hay hòa mai 和梅 là bởi ý đó.
(22). Bạch xỉ: không rõ.
(23).Song thiên :Tuổi quý 癸.(trên là chữ song, dưới là chữ thiên)
(24). SC thiếu 2 chữ, Mai Lĩnh có đủ.
(25).Thành long.(Sở Cuồng).Thánh Long đúng hơn.
(26) số sinh (ĐL)
( 27).rành: mới dành (ĐL). Rành đúng hơn.
(28) . Thấy vĩ tinh: sao chổi. Cổ nhân cho rằng sao chổi xuất hiện là bào hiệu nước loạn.
(29). Rạo (rảo, tháo): chạy trốn
(30). Tam hiểm ( Tìm nơi tam hiểm mà hầu lánh thân): Ba nơi hiểm trở có đủ
yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Quyển Phùng Thượng Thư Ký cho
biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên, Tản Viên (Sơn Tây), và Vị
Khê ( không rõ ở đâu).
(31).
Phá điền: quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền 田giống chữ Quốc 国, cả
hai chữ thuộc bộ vi 囗.Cũng có người giải là năm sửu vì chữ sửu 丑 giống nửa chữ điền.
(32) .Tái binh : binh ở biên cương.
(33). Nhân thập: trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?
Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ 午
chiết tự thành nhân thập)
(34). Nhân Kiến,Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn. Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn Huệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
(35). ti hào : i là sợi tơ, hào là cái lông. Nói sư nhỏ nhặt, một tí, một ít.
(36). Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này: không rõ
(37). Bảo Giang: Phải chăng là Bảo Đại?
(38). Đoạn này Sở Cuồng thiếu, Nguyễn Khuê lấy bản Đại La mà bổ túc.
(39).Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385.Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Nguyễn Thái Học khởi nghĩa tại Yên Bái ngày10 tháng 2 năm 1930.Ngày 16 tháng 2 năm 1930 Pháp cho 5 phóng pháo cơ đến ném 57 quả bom xuống khắp làng Cổ Am biến làng nầy thành bình địa và làm cho 21 thường dân bị thiệt mạng. Vào ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại làng Cổ Vịt, gần đồn Chi Ngại, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Về phần Ký Con Đặng Trần Nghiệp, ông bị mật thám Pháp lùng bắt gắt gao ở Hà Nội phải xuống Hải Phòng trốn tránh, tại đây cũng không yên nên ông đến Nam Định và bị mật thám Pháp bắt giữa tháng 6-1930. Sau khi thất bai, một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lánh sang Trung Hoa tiếp tục hoạt động và xây dựng lại cơ sở. Riêng Nhượng Tống không tham gia được cuộc khởi nghĩa vì ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo từ năm 1929 đến năm 1936 mới được thả ra.
40. Bản Mai Lĩnh không có các câu này.
(41). Bản Mai Lĩnh không có đoạn này
(42). Bản Mai Lĩnh không có đoạn này (33). Nhân thập: trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?
Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ 午
chiết tự thành nhân thập)
(34). Nhân Kiến,Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn. Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn Huệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
(35). ti hào : i là sợi tơ, hào là cái lông. Nói sư nhỏ nhặt, một tí, một ít.
(36). Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này: không rõ
(37). Bảo Giang: Phải chăng là Bảo Đại?
(38). Đoạn này Sở Cuồng thiếu, Nguyễn Khuê lấy bản Đại La mà bổ túc.
(39).Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385.Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
Nguyễn Thái Học khởi nghĩa tại Yên Bái ngày10 tháng 2 năm 1930.Ngày 16 tháng 2 năm 1930 Pháp cho 5 phóng pháo cơ đến ném 57 quả bom xuống khắp làng Cổ Am biến làng nầy thành bình địa và làm cho 21 thường dân bị thiệt mạng. Vào ngày 20-2-1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại làng Cổ Vịt, gần đồn Chi Ngại, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương. Về phần Ký Con Đặng Trần Nghiệp, ông bị mật thám Pháp lùng bắt gắt gao ở Hà Nội phải xuống Hải Phòng trốn tránh, tại đây cũng không yên nên ông đến Nam Định và bị mật thám Pháp bắt giữa tháng 6-1930. Sau khi thất bai, một số đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng lánh sang Trung Hoa tiếp tục hoạt động và xây dựng lại cơ sở. Riêng Nhượng Tống không tham gia được cuộc khởi nghĩa vì ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo từ năm 1929 đến năm 1936 mới được thả ra.
40. Bản Mai Lĩnh không có các câu này.
(41). Bản Mai Lĩnh không có đoạn này
No comments:
Post a Comment