TẬP III.BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 272
ngày 23 tháng 7 năm 2013
36. Sau chuyến đi Mỹ với chủ tịch nước mục sư Y Ky Ê Ban nói gì?
Hải Huỳnh (Danlambao) - Chuyến
đi Mỹ vừa qua của ông chủ tịch nước đã được truyền thông lề dân soi
từng cử chỉ và hành động. Chúng tôi liên lạc với mục sư Tin Lành là mục
sư Y Ky Ê Ban để hỏi thêm về chuyến đi. Từ Buôn Ma Thuột mục sư Y Ky Ê
Ban cho chúng tôi biết như sau:
Ngày 21.7 là ngày cả đoàn tháp tùng với chủ tịch nước tập trung về Hà
Nội. Ngày 22.7 thì đoàn lo visa đi Mỹ. Ngày 23.7 lúc 10 giờ sáng thì bắt
đầu rời Hà Nội bằng chuyên cơ riêng của chủ tịch nước. Từ Hà Nội đi
thẳng đến Alaska là 10 tiếng đồng hồ và dừng chân tại đây 2 tiếng sau đó
bay tiếp về Washington DC là 6 tiếng nữa.
Cùng tháp tùng với chủ tịch nước khoảng 200 người đầy chuyên cơ.
Đoàn tôn giáo chỉ cỏ có 5 người là 2 mục sư Tin lành và 3 hòa thượng của giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
Ngày 28.7 lúc sáng sớm thì máy bay đã đáp xuống Hà Nội và sau đó thì mục sư Y Ky Ê Ban về Buôn Ma Thuột ngay trong ngày 28.7
Đoàn chức sắc tôn giáo tháp tùng chủ tịch nước đi Mỹ thì chỉ có 1 mục sư
Đinh Thiên Tứ ở lại Mỹ thăm thân nhân còn 3 vị hòa thượng và mục sư Y
Ky Ê Ban là quay về Việt Nam cùng với chủ tịch nước.
Trong suốt chuyến đi thì mục sư Y Ky Ê Ban cho biết là chủ tịch nước rất
quan tâm các chức sắc tôn giáo. Ông chủ tịch nước có đến bắt tay các
chức sắc tôn giáo và thăm hỏi về vấn đề ăn uống ngủ nghĩ khoảng 4 lần
như vậy trong suốt chuyến đi.
Khi ra Hà Nội họp chờ đợi 2 ngày thì ông không được người ta định hướng
dặn dò cái gì. Ông vẫn liên lạc bằng điện thoại với gia đình và cho đến
ngày máy bay cất cánh. Khi đến Mỹ thì điện thoại không dùng được.
Mục sư Y Ky Ê Ban cho biết là trong suốt chuyến đi ông và các chức sắc
tôn giáo khác không có cuộc tiếp xúc hay trao đổi gì với người Mỹ hay
các quan chức của Mỹ.
Theo mục sư Y Ky Ê Ban thì chỉ có các nhà báo Việt Nam phỏng vấn ông và
các chức sắc tôn giáo. Mục sư Y Ky Ê Ban cũng nói rõ là đây là các nhà
báo từ trong nước đi cùng và một số nhà báo Việt Nam đang làm nhiệm vụ
của nhà nước Việt Nam ở Mỹ phỏng vấn mà thôi.
Mục sư Y Ky Ê Ban cho biết là đoàn tôn giáo hoàn toàn không vào gặp mặt tổng thống Mỹ trong tòa Nhà Trắng.
Chúng tôi hỏi là ông có gặp các mục sư người sắc tộc đang ở Mỹ không thì
ông cho biết là không gặp ai. Theo ông là họ ở thành phố khác còn ông
thì chỉ quanh quẩn trong khách sạn chứ không có ra ngoài tiếp xúc ai.
Chúng tôi hỏi ông là có gặp người Việt Nam nào không thì ông cho biết là
gặp một số người ở sân bay và trong khách sạn nhưng ông không biết tên
của họ. Ông hoàn toàn không biết gì về chuyện bà con Việt Kiều đi biểu
tình chống đoàn nhà nước Việt Nam.
Chúng tôi hỏi là trong khách sạn ông có gặp phụ nữ nào từ Bình Dương cầm
biểu ngữ biểu tình đòi đất hay không thì mục sư nói là hình như bà ta
là người Miên lai Tàu gì gì đó nhưng vấn đề của bà ta thì mục sư Y Ky Ê
Ban không tiếp xúc nên không biết.
Đánh giá về chuyến đi thì mục sư Y Ky Ê ban cho là “thành công tốt
đẹp về mọi phương diện kể cả tôn giáo thì ở Việt Nam có tự do tín ngưỡng
và người theo đạo Tin lành sau năm 1975 nhiều hơn dưới chế độ cũ”.
Trong bài phỏng vấn của phóng viên Lê Vũ (Vietweekly) phỏng vấn 3 vị
chức sắc tôn giáo ngay trong khách sạn họ trú thì ông Lê Vũ có hỏi mục
sư Y Ky Ê Ban là: “Xin mục sư đánh giá các buổi trao đổi với các quan
chức nước ngoài về tình hình tôn giáo ở Việt Nam mấy ngày qua” thì mục
sư Y Ky Ê Ban trả lời rằng: “Mấy ngày qua tôi chưa hề tiếp xúc hay trả
lời phỏng vấn báo đài nào, đây là lần đâu tiên tôi tham gia phỏng vấn
trong suốt chuyến đi”.
Chúng tôi hỏi sau cuốc phỏng vấn này thì ông có tiếp xúc với ai nữa
không thì mục sư Y Ky Ê Ban cho hay là ông không có tiếp xúc hay trả lời
phỏng vấn nào nữa cả.
Mục sư Y Ky Ê Ban cho biết là vì chuẩn bị tổ chức hôn lễ cho hai thanh
niên trong Hội Thánh nên xin ngừng buổi nói chuyện hôm nay. Chúng tôi
cám ơn ông vì buổi trò chuyện cũng như những thông tin từ chuyến đi Mỹ
của ông.
Ngày 30.7.2013
Hải Huỳnh
LienLacDanLamBao@GMail.com
37. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: ‘Đường lưỡi bò’ của Trung Quốc là phi lý’
BienDong.Net: Hôm 25/7, phát biểu trong chuyến thăm Mỹ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phản đối rằng các tuyên bố chủ quyền biển đảo của Trung Quốc tại Biển Đông là không có cơ sở.
Trong khuôn khổ chuyến thăm tới thủ đô Washington của Mỹ, Chủ tịch Trương Tấn Sang hôm 25/7 đã có cuộc hội đàm với Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Phát biểu tại cuộc hội đàm, ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết phản đối cái gọi là “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông, vốn được coi như một tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp liên quan tới gần như toàn bộ các đảo của những nước láng giềng.
“Chúng tôi không tìm thất bất kỳ cơ sở pháp lý hoặc cơ sở khoa học nào cho những tuyên bố chủ quyền lãnh hải của chính quyền Bắc Kinh. Vì vậy, chính sách nhất quán của Việt nam là phản đối kế hoạch “đường chín đoạn” phi lý của Trung Quốc”, Chủ tịch Trương Tấn Sang nhấn mạnh.
Khi được hỏi về vấn đề liệu Việt Nam có thể sát cánh với Philippines trong vụ kiện chống lại các tuyên bố bất hợp pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, ông Trương Tấn Sang đã từ chối đưa ra bình luận cụ thể và chỉ nhấn mạnh: “Là một thành viên của Liên Hợp Quốc, Philippines có quyền để thực hiện bất kỳ thủ tục pháp lý nào mà họ muốn”.
Việt Nam đã rất nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động xâm lấn chủ quyền trên Biển Đông bằng mọi cách của Trung Quốc, đồng thời cũng đã dẫn ra nhiều tư liệu, tổ chức nhiều hội thảo chứng minh bằng chứng xác đáng và tin cậy về chủ quyền đối với những đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép, cũng như đối với những vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền một cách phi pháp.
Các căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc phần nào “hạ nhiệt” sau chuyến thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang tới Bắc Kinh hồi tháng trước. Sau cuộc gặp này, Bộ Ngoại giao hai nước đã bắt đầu thiết lập đường dây nóng nhằm kiểm soát khủng hoảng trên biển. Mục tiêu của Việt Nam cũng như nhiều nước khác ở ASEAN, trong đó có Philippines, là thúc đẩy Trung Quốc chấp nhận Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), điều mà nước này luôn né tránh từ trước đến nay.
Nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền trên biển, COC cũng đã được đề cập đến trong cuộc gặp ngày 25/7, giữa Chủ tịch nước Trương Tấn với Tổng thống Mỹ Barack Obama. Hai nhà lãnh đạo đã ra tuyên bố chung, kêu gọi “giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh hải bằng các biện pháp hòa bình” và tiếp tục hỗ trợ xây dựng các quy tắc ứng xử quản lý rủi ro tiềm năng.
http://www.baomoi.com/Chu-tich-nuoc-Truong-Tan-Sang-Duong-luoi-bo-cua-Trung-Quoc-la-phi-ly/122/11562143.epiBDN
Chuyến công du của Chủ tịch Nước của Việt Nam sang Hoa Kỳ
được những ý kiến trong và ngoài nước nhận xét khá khác biệt, khác
biệt ngay cả giữa những ý kiến từ bên ngoài Việt Nam. GS Nguyễn Mạnh
Hùng trả lời cuộc phỏng vấn của Việt-Long, nói lên nhận định của một
chuyên gia trong lãnh vực bang giao quốc tế. GS dạy môn bang giao quốc
tế tại đại học George Mason ở Virginia, Hoa Kỳ.
Còn lần này thì thông cáo chung có nói đến vấn đề nhân quyền. Có nhấN mạnh rằng vấn đề nhân quyền rất quan trọng.
Cuộc gặp ở Washington này lại chỉ
diễn ra sau cuộc gặp tại Bắc Kinh, và sau khi nguyên thủ hai cường
quốc của hành tinh đã có tiếp xúc ở California vào đầu tháng
Sáu.
Trong bối cảnh đó, liệu có một nhà lãnh đạo nào của Việt Nam đủ dũng khí để đứng ra tuyên bố sẽ ngả hẳn về phương Bắc hay sang phương Tây?
Tức sẽ không có một thỏa thuận nào gây ấn tượng,
dù chỉ là thỏa thuận khung, về các vấn đề TPP, an ninh khu vực biển
Đông và đối tác chiến lược toàn diện. Thay vào đó, sẽ chỉ là những lời
hứa hẹn trên bàn ngoại giao – một loại quỹ ngôn từ không hề thiếu thốn
nếu các nhà ngoại giao thấy chưa cần thiết phải làm đầy đặn hơn nữa.
Một hệ quả hầu như chắc chắn là cho dù không xảy ra kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang, nhưng không phải vì thế mà mọi điều khoản của TPP đều dễ dàng thuận thảo.
Giáo sư Dalpino, hiện là Giám đốc
chương trình Chất độc Da cam ở Việt Nam của Viện Aspen, cũng từng là
chuyên gia nghiên cứu của Viện Brookings và chuyên về an ninh Đông Nam
Á.
Bà cũng là tác giả của ba cuốn sách về chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á cũng như có bài đóng góp cho nhiều sách, báo khác nhau.
Trong chuyến thăm tới Nhà Trắng lần này, Chủ tịch Việt Nam dự định sẽ kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Được hãng tin Mỹ AP hỏi qua email về lệnh cấm, ông Trương Tấn Sang nói “nay là lúc để bình thường hóa đầy đủ quan hệ song phương trong mọi lĩnh vực”.
Chủ tịch Việt Nam nói thêm với AP rằng có khác biệt giữa Washington và Hà Nội về nhân quyền, nhưng điều này “hoàn toàn bình thường”.
RFA – 2013-07-31
Trước khi đi vào nhận định mục tiêu chuyến Mỹ du của ông Trương Tấn
Sang chúng ta nhận định về hiện tình của đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội tình ĐCSVN hiện nay
Xin dẫn lời của nhà bình luận thời cuộc Elle Bork của US News để kết thúc bài này:
dannlambaovn.blogspot.com
Chiều 19/6 sau cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, nguyên thủ hai nước đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác. Có bốn khoản trong 10 văn kiện hợp tác này đáng chú ý vì khi đọc kỹ thì cán cân nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Bảng thông báo đã dùng ngôn từ ngoại giao để che đậy sự yếu ớt của Việt Nam trong đó khoản thứ nhất đã khỏa lấp tất cả khi viết: "Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc".
Sự "hợp tác chiến lược toàn diện" phải được hiểu dưới hàm ý giữa "hai đảng" chứ không phải hai nước, hai chính phủ. Chỉ có Đảng cộng sản của hai nước mới có thể có cái nhìn chung về mục tiêu và chính sách vì sự khác biệt sâu xa giữa hai chính phủ không thể hợp tác toàn diện khi Bắc Kinh luôn mang "hải giám" ra để làm tê liệt ý chí Việt Nam qua mũi thuốc gây mê "cộng sản".
Chấp nhận ký vào chương trình này Việt Nam đã chấp nhận đi chung chuyến xe với Trung Quốc mà tài xế thuộc về người đàn anh mạnh bạo và hung dữ.
Động thái ngoại giao dưới kèo này chỉ có thể giải thích: 10 văn kiện hợp tác này có bốn món quà của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đại diện cho toàn thể Bộ chính trị trao cho Trung Quốc nhằm bảo đảm trung thành, chấp nhận hợp tác không tranh cãi để giữ mối giao tình giữa hai đảng đã từng chung vai đấu cật nhiều chục năm qua.
Chung vai đấu cật vì sự nghiệp cao cả chung của hai đảng nên những cái chết chưa từng giải oan và những cái chết khác trên Biển Đông sắp tới nếu có, chỉ là những hiểu lầm cần được che đậy bằng đồng nhân dân tệ trong các dự án do chính Trung Quốc làm chủ hay thi công.
Điều này được xác định ở các khoản Trung Quốc sẽ hỗ trợ tài chánh. Cái cách mà Việt Nam thường làm mỗi khi muốn phân bua một nhượng bộ nào khó giải thích với quần chúng.
Món quà "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc phòng" một lần nữa có hàm ý mê muội hóa người dân "hãy vững tin vào sự hợp tác" mặc dù bài học Biển Đông đang sờ sờ trước mắt và việc cố xóa dấu vết lịch sử trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 của nhà nước Việt Nam vẫn đang gây bức xúc trong xã hội.
"Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển" cũng không ngoài ý đồ cấy ghép niềm tin "ăn liền" cho người ngư dân để họ tiếp tục làm con thiêu thân cho chế độ.
Đường giây đỏ ấy chỉ có trên giấy và không bao giờ xuất hiện. Màu đỏ của máu không tô trên đường giây nóng mà chảy lai láng trên Biển Đông ngay sau khi 10 điều được ký kết.
Ngày 6 tháng Bảy, nửa tháng sau khi ông Sang từ Bắc Kinh quay về Hà Nội, 2 tàu cá với thủy thủ đoàn gần 30 người do ông Võ Minh Vương và Mai Văn Cường ở Lý Sơn, Quảng Ngãi làm thuyền trưởng cùng bị “tàu lạ” có võ trang hung hãn đập phá, cướp bóc.
Ông Sang đã bị đàn anh xỏ lá bỉ mặt trước người dân của mình.
Món quà cuối cùng: "Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4" giữa Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ.
"Lần thứ 4" có nghĩa là chuyện khai thác nguồn lợi dầu khí giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ lâu nhưng vùng dầu khai thác ấy nằm ở đâu và trữ lượng bao nhiêu, có dính gì tới chủ quyền biển đảo của Việt Nam hay không thì cả nước hoàn toàn mù tịt.
Thông tin nhỏ giọt không thoát ra khỏi hệ thống báo chí quốc doanh và vì vậy tiết lộ này chỉ làm mạnh thêm giả thuyết chính phủ đã âm thầm nhượng cho Trung Quốc một số vùng nào đó để đánh đổi lại những chiếc ghế trong Bộ chính trị được an toàn hơn trong bối cảnh tranh chấp hiện nay.
Bốn món quà "nhỏ" này có đủ để làm yên lòng Bắc Kinh cho chuyến đi Mỹ của ông Sang hay không chỉ có ông Chủ tịch nước và các vị trong Bộ chính trị biết. Tuy nhiên hệ thống công an có vẻ khá vụng về trong công tác làm hài lòng "đối tác chiến lược và toàn diện" khi tiếp tục cảnh cáo những ai có hành động chống lại Trung Quốc. Bỏ mặc Blogger Điếu Cày tuyệt thực là một điển hình.
Khi ông Chủ tịch nước bước lên máy bay sang Mỹ vào ngày 22 tháng 7 cũng là lúc người blogger chống Trung Quóc nổi tiếng đã tuyệt thực trong tù đúng một tháng trời. Điếu Cày tuyệt thực để chống lại chế độ cai tù hà khắc và cũng nhắc nhở mọi người ghi nhớ bản án của anh: Bản án chống Trung Quốc.
Trong chiếc cặp ngoại giao của ông Sang có nhiều hồ sơ được công an chuẩn bị sẵn để chứng minh họ đối xử rất hợp luật pháp quốc tế đối với những từ nhân chính trị như Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha. Những tù nhân này ông Sang có thể không cần biết nhưng blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải thì ông Sang phải biết. Ông biết không phải để trả lời với ông Obama mà vì ông buộc phải biết để kịp thời làm Trung Quốc hài lòng để không lấy cớ chèn ép Việt Nam thêm nữa.
Việc trả lời về vấn đề nhân quyền với ông Obama không phải là cốt yếu vì nước Mỹ không thể là "đối tác chiến lược và toàn diện" với Bộ chính trị Việt Nam. Nước Mỹ ngăn cấm doanh nghiệp của họ hối lộ ở nước ngoài và vì vậy Bộ chính trị khó lòng dùng quà cáp ngoại giao như với Trung Quốc để lót đường cho một mong muốn nào đó.
Nòi chuyện với ông Obama nhưng phải chọn từng lời để không làm phật ý "đối tác chiến lược và toàn diện" là sự khó khăn của ông Sang. Có lẽ vì vậy mà ông dẫn phái đoàn cả trăm người để họ trấn an ông hay chăng?
Đến Mỹ trong tâm thức bất an như vậy thì làm sao nói lời sáng suốt?
http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/blog-07232013-canhco-07242013130529.html
48. TRẺ RANH LUẬN CHÍNH CHUYỆN NƯỚC NON
Sau cuộc gặp giữa Tổng thống Barack
Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang, Hoa Kỳ và Việt Nam ra tuyên bố chung
về quan hệ "đối tác toàn diện" (comprehensive partnership).
Tuyên bố chung, được đăng trên
trang web Nhà Trắng, nói ông Obama và Trương Tấn Sang "quyết định xác
lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ để đem lại khuôn khổ
tổng thể cho việc thúc đẩy quan hệ".
Dưới đây là toàn văn bản tuyên bố chung đăng tải trên trang web của Nhà Trắng, bản dịch của Thông tấn xã Việt Nam.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama chào mừng Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tới Nhà Trắng ngày 25-7. Tại cuộc gặp, hai nhà Lãnh đạo khẳng định cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung.
Trong khuôn khổ quan hệ Đối tác Toàn diện Việt
Nam - Hoa Kỳ, hai bên nhất trí tăng cường trao đổi cấp cao, tiếp xúc ở
tất cả các cấp và ủng hộ việc tăng cường các cơ chế đối thoại và hợp
tác. Tổng thống Obama khẳng định Hoa Kỳ ủng hộ độc lập, chủ quyền, thịnh
vượng và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chủ tịch Trương Tấn Sang hoan
nghênh Hoa Kỳ tăng cường hợp tác tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
đóng góp vào hòa bình, ổn định và thịnh vượng ở khu vực.
Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao, và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ
tiếp tục hợp tác về quốc phòng và an ninh. Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ sự
hài lòng đối với Bản ghi nhớ về thúc đẩy hợp tác quốc phòng song
phương ký năm 2011 và tái khẳng định cam kết triển khai đầy đủ Bản ghi
nhớ. Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhất trí tiếp
tục Đối thoại chính sách quốc phòng Việt Nam - Hoa Kỳ và Đối thoại Chính
trị - An ninh - Quốc phòng song phương nhằm đánh giá quan hệ quốc
phòng và an ninh và thảo luận về hợp tác trong tương lai.
37. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: ‘Đường lưỡi bò’ của Trung Quốc là phi lý’
BienDong.Net: Hôm 25/7, phát biểu trong chuyến thăm Mỹ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã phản đối rằng các tuyên bố chủ quyền biển đảo của Trung Quốc tại Biển Đông là không có cơ sở.
Trong khuôn khổ chuyến thăm tới thủ đô Washington của Mỹ, Chủ tịch Trương Tấn Sang hôm 25/7 đã có cuộc hội đàm với Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS).
Phát biểu tại cuộc hội đàm, ông Trương Tấn Sang nhấn mạnh Việt Nam kiên quyết phản đối cái gọi là “đường lưỡi bò” của Trung Quốc trên Biển Đông, vốn được coi như một tuyên bố chủ quyền bất hợp pháp liên quan tới gần như toàn bộ các đảo của những nước láng giềng.
“Chúng tôi không tìm thất bất kỳ cơ sở pháp lý hoặc cơ sở khoa học nào cho những tuyên bố chủ quyền lãnh hải của chính quyền Bắc Kinh. Vì vậy, chính sách nhất quán của Việt nam là phản đối kế hoạch “đường chín đoạn” phi lý của Trung Quốc”, Chủ tịch Trương Tấn Sang nhấn mạnh.
Khi được hỏi về vấn đề liệu Việt Nam có thể sát cánh với Philippines trong vụ kiện chống lại các tuyên bố bất hợp pháp của Trung Quốc trên Biển Đông, ông Trương Tấn Sang đã từ chối đưa ra bình luận cụ thể và chỉ nhấn mạnh: “Là một thành viên của Liên Hợp Quốc, Philippines có quyền để thực hiện bất kỳ thủ tục pháp lý nào mà họ muốn”.
Việt Nam đã rất nhiều lần lên tiếng phản đối các hành động xâm lấn chủ quyền trên Biển Đông bằng mọi cách của Trung Quốc, đồng thời cũng đã dẫn ra nhiều tư liệu, tổ chức nhiều hội thảo chứng minh bằng chứng xác đáng và tin cậy về chủ quyền đối với những đảo mà Trung Quốc đang chiếm đóng trái phép, cũng như đối với những vùng biển mà nước này tuyên bố chủ quyền một cách phi pháp.
Các căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc phần nào “hạ nhiệt” sau chuyến thăm của Chủ tịch Trương Tấn Sang tới Bắc Kinh hồi tháng trước. Sau cuộc gặp này, Bộ Ngoại giao hai nước đã bắt đầu thiết lập đường dây nóng nhằm kiểm soát khủng hoảng trên biển. Mục tiêu của Việt Nam cũng như nhiều nước khác ở ASEAN, trong đó có Philippines, là thúc đẩy Trung Quốc chấp nhận Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), điều mà nước này luôn né tránh từ trước đến nay.
Nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền trên biển, COC cũng đã được đề cập đến trong cuộc gặp ngày 25/7, giữa Chủ tịch nước Trương Tấn với Tổng thống Mỹ Barack Obama. Hai nhà lãnh đạo đã ra tuyên bố chung, kêu gọi “giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh hải bằng các biện pháp hòa bình” và tiếp tục hỗ trợ xây dựng các quy tắc ứng xử quản lý rủi ro tiềm năng.
http://www.baomoi.com/Chu-tich-nuoc-Truong-Tan-Sang-Duong-luoi-bo-cua-Trung-Quoc-la-phi-ly/122/11562143.epiBDN
38.Việt-Long-GS Nguyễn Mạnh Hùng. 2013-08-01 .Thành quả và bất cập trong chuyến công du lớn
Tính chất của hai hiệp ước với Trung Quốc và Hoa Kỳ
Việt-Long: Việt Nam và Hoa Kỳ ký
kết thoả thuận thiết lập đối tác toàn diện, giữa những thoả ước khác về
TPP, hợp tác an ninh quốc phòng, khoa học, giáo dục... trong đó có thoả
thuận tăng cường hợp tác tại các diễn đàn an ninh quốc phòng khu vực.
Trước đó Việt Nam đã ký với Trung Quốc một hiệp định chiến lược trong đó
quy định hai nước phối hợp và điều phối với nhau trong chính sách ngoại
giao. Những hiệp định này với nội dung như vậy có gì tương đồng hay mâu
thuẫn về quyền lợi không?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Hai hiệp
định này khác nhau. Với Trung Quốc, Việt Nam ký hiệp ước hợp tác chiến
lược toàn diện, còn với Hoa Kỳ, đó là hiệp ước đối tác toàn diện, không
có từ "chiến lược", hai cái khác nhau nhiều, không có gì mâu thuẫn. Tại
Trung tâm nghiên cứu chiến lược và bang giao quốc tế CSIS ở Washington
D.C. khi được hỏi liệu thoả ước giữa Mỹ với Việt Nam có anh hưởng đến
bang giao với các nước khác không, ông Trương Tấn Sang đã khẳng định
Việt Nam là một nước thành viên Liên Hiệp Quốc, có quyền ký kêt hiệp ước
với bất kỳ thành viên nào của Liên Hiệp Quốc.
Việt-Long: GS cho biết thành quả nào quan trọng nhất trong Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ-Việt vừa qua.
Những bất cập
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Một cách tổng quát, thành quả không đúng như dự đoán, nhưng cũng có một số điều
thuận lợi. Trước hết, về những gì không đúng theo tiên đoán, hay ước
vọng, thì trong hội nghị Shagri La, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đoc một
diễn văn rất lớn, nói rằng Việt Nam muốn thiết lập đối tác chiến lược
với tất cả các hội viên thường trực của Hội đồng Bảo An; ba năm trước đó
Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cũng nói Hoa Kỳ muốn tạo đối tác chiến
lược với Việt Nam, Hai bên đều có ý muốn đó. Sau đó Việt Nam đi nhiều
nước để ký các hiệp ước đối tác chiến lược. Riêng đối với Mỹ khi đến đây
người ta không thấy chuyện đó.Như vậy rõ ràng đã không như tiên đoán,
hay kỳ vọng.
Điểm thứ hai: Khi Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh rồi sau đó
là Tổng tham mưu trưởng Đỗ Bá Tỵ sang Mỹ trước ông Sang có một tháng
thôi, có nói Việt Nam muốn thiết lập quan hệ toàn diện với Mỹ, trong đó
có quan hệ quốc phòng nữa. Như vậy chuyến đi của ông Sang cũng không đưa
đến những gì khác biệt với những điều như ông Tỵ đã nói, và kém với
những gì mong muốn của ông Dũng.
Điểm kế tiếp, ông Thanh cùng ông Tỵ đều nói nếu bình thường hoá quan
hệ quốc phòng thì dĩ nhiên phải bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương với
Việt Nam, nhưng việc đó cũng không xảy ra. Vì vậy một chuyến thăm lớn mà
không đạt được những kết quả đó thì không đúng với dự đoán hay ước
vọng.
Những thành đạt
Tuy nhiên, ngược lại, có những điểm khác phản ảnh mối quan tâm của
Việt Nam. Có một điều ít người để ý là trong bản tuyên bố chung của hai
nhà lãnh đạo, thường thường có những điều khoản tôn trọng lẫn nhau,
lưỡng lợi, không can thiệp nội bộ... thì lần này có câu "tôn trọng thể
chế chính trị" của nhau. Điều đó phản ảnh sự quan tâm của Việt Nam. Một
điểm khác cũng ít được để ý, là hai ông đều nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc học tiếng Anh ở Việt Nam để Việt Nam có thể hoạt động hữu hiệu hơn
khi TPP được lập ra. Đó là mối quan tâm của hai người, và là điều ông
Mỹ muốn. Trong lãnh vực hợp tác thì Việt Nam cũng được một điều là lần
đầu tiên thông cáo chung nói đến vấn đề biển Đông, gọi là biển Nam Trung
hoa. Trong đó Tổng thống Mỹ có ý muốn quốc tế không sử dụng võ lực;
điều này đúng với lập trường của Việt Nam, hay có thể nói Mỹ thiên về
lập trường của Việt Nam rõ rệt hơn trong vấn đề biển Đông.
Một điểm quan trọng nữa, là hiệp ước giữa công ty dầu khí Mỹ với
Petro Vietnam. Trung Quốc thường doạ là nước ngoài không nên phát triển
khai thác gần vùng tranh chấp (ở biển Đông), nay Mỹ xác nhận là những
công ty này sẽ hoạt động ở (nơi đó) tại Việt Nam. Điều này giúp Việt
Nam được an tâm hơn, với sự giúp đỡ của Mỹ.
Đó là những điều tôi thấy có positive.
Vấn đề an ninh quốc phòng
Việt-Long: Thoả thuận hợp tác
an ninh quốc phòng trong hội nghị thượng đỉnh vừa rồi có quy định tiếp
tục cộng tác theo tinh thần "bản ghi nhớ năm 2011 về tăng tiến hợp tác
quốc phòng song phương"; vậy thoả thuận này có đem lại cho Việt Nam một
bảo đảm nào về lãnh hải, lãnh thổ không?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Không có
bảo đảm nào, chỉ có tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng thôi. Tăng
cường như vậy thì đến đâu mới hay đến đó, Mỹ không bảo đảm gì cả. Chỉ có
việc là năm 2008 Tổng thống Bush có cam kết trong thông cáo chung với
ông Dũng , có nói là Mỹ "ủng hộ sự vẹn toàn lãnh thổ và độc lập chủ
quyền của Việt Nam. Ủng hộ không có nghĩa là cam kết bảo vệ, hai cái
khác nhau, thì nguyên tắc đó vẫn tiếp tục. Còn có cam kết bảo vệ nhau
không thì tuỳ diễn tiến trong khi hai bên có quan hệ quốc phòng.
Lợi ích của TPP
Việt-Long: Hiệp ước kinh tế
xuyên Thái Bình Dương TPP một khi hoàn tất có đem lại lợi ích gì cho
Việt Nam khi sức sản xuất của Việt Nam thua kém hầu hết các nước thành
viên hiệp ước?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Có nhiều
cái lợi. Trước hết là mở được thị trường lớn của nước Mỹ. Những rào cản
cản trở những gì Việt Nam làm được sẽ mở ra, có lợi cho rât nhiều. Dĩ
nhiên có những rắc rối về sự đòi hỏi nguồn nhiên liệu (của hàng dệt may
là một ví dụ) nhưng TTP vẫn là điều lợi hiển nhiên nếu được thực hiện.
Ngoài ra còn những điều lợi khác, không thuần kinh tế mà có thể cũng
gián tiếp liên quan đến kinh tế, chẳng hạn khi tham gia hiệp ước đó thì
phải cải tổ rất nhiều, tức là đụng chạm đến vấn đề SOE, các công ty xí
nghiệp quốc doanh, mà hiện nay như là vùng cấm kỵ. Nên Việt Nam muốn
cạnh tranh, bắt buộc phải cải tổ lãnh vực đó. Và khi vào TPP thì có một
initiative, có pressure, có áp lực bắt buộc cải tổ, thì đó là điều tốt
cho Việt Nam.
Thêm nữa, khi Việt Nam vào TPP thì đại đa số trong đó là những nền
kinh tế thị trường, nên Việt Nam đương nhiên được chấp nhận như một nền
kinh tế thị trường với những quyền lợi của kinh tế thị trường mà hiện
nay Việt Nam chưa có.
Trong TPP thì Việt Nam là nước Cộng Sản duy nhất, các nước khác đều
là không cộng sản, họ đều là dân chủ hay bán dân chủ. Sự trao đổi này
cũng có ảnh hưởng khuyến khích Việt Nam cải tổ chính trị, học Việt-Long
được kinh nghiệm của các quốc gia để cải tổ cho thể chế của mình phù hợp
với thể chế các nước khác, đưa đến những sự cộng tác mật thiết hơn.
Những điều lợi đó là những điều quan trọng mà không phải là tính bằng tiền.
Vấn đề nhân quyền
Việt-Long: Trong lãnh vực nhân
quyền hai bên không nói tới một trường hợp cụ thể nào, trong khi người
mà Tổng thống Obama từng nhắc đích danh, lá blogger Điếu Cày, thì vẫn
đang tuyệt thực. Những người khác từng được hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ
yêu cầu Việt Nam trả tự do cũng không được nhắc tới trong thông cáo
chung cũng như trong buổi họp báo. Như vậy Hoa Kỳ đã đạt được lợi ích
nào về mặt ủng hộ dân chủ và nhân quyền trên thế giới, là lý tưởng và
cũng là nhiệm vụ mà nước Mỹ tự gánh vác?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Tôi đã nói nhiều lần là
quyền lợi quốc gia có ba loại: chiến lược, kinh tế và quyền lợi về giá
trị của mình, tức là value. Hoa Kỳ nói đến việc đó từ thời Tổng thống
Carter, và càng ngày vấn đề nhân quyền càng trở thành quan trọng trong
nội bộ nước Mỹ. Từ sau ông Carter nhiều định chế nhân quyền được lập ra.
Đã có định chế thì người ta phải hoạt động. Vì thể nhân quyền là vấn đề
không bỏ được.Còn lần này thì thông cáo chung có nói đến vấn đề nhân quyền. Có nhấN mạnh rằng vấn đề nhân quyền rất quan trọng.
Những thành quả nhỏ, và nhãn quan tích cực
Việt-Long: GS vui lòng cho một nhận định tổng quát và toàn diện về hội nghị thượng đỉnh vừa rồi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Về phương
diện quốc gia, người ta thấy có một số điểm tiến tới giữa Việt Nam và
Mỹ, nhưng tương đối nhỏ. Phải chờ xem sau khi lập ra chín cơ chế tăng
cường quan hệ, người ta có làm được gì không, tiến bộ tới đâU. Nói cách
khác đây là một dự án chưa hoàn thành; tuy nhiên cũng đạt được một số
điểm để tiến tới đó, đó là điểm thứ nhất mà tôi thấy.
Điểm thứ hai là, không đúng như người ta tiên đoán, hay kỳ vọng, như
ký được TPP, ký được đối tác chiến lược, thì chưa tới được chỗ đó.
Ngược lại có vài điểm tuy nhỏ những cũng có positive đối với (trong
nhãn quan của) người Mỹ. Ví dụ cung cách hành xử của ông Trương Tấn
Sang. Ông Sang là một nguyên thủ Việt Nam đầu tiên đến phát biểu trong
một thinktank hàng đầu của nước Mỹ, là Trung tâm nghiên cứu chiến lược
và bang giao quốc tế CSIS (Center for Strategic and International
Studies); dĩ nhiên bài nói chuyện của ông Sang thì đã được soạn sẵn,
nhưng phần trả lời thì ông trả lời rất lưu loát, rất thoải mái trước một
cử toạ toàn là những chuyên viên.
Và tôi đã thấy người ta vỗ tay ông ấy trong một số những câu trả lời. Điểm thứ hai, mà tôi thấy ông cũng khôn khéo, là sau cuộc gặp gỡ ở CSIS thì ông Sang đi New York, qua ngày hôm sau, sau một số buổi họp, tiếp tân, ông ấy đã đặc biệt gặp riêng ông bà Clinton. Việc này là một hành động khá khéo léo, người ta có thể gọi là "dùng hòn đá ném chết hai con chim". Thứ nhất ông ấy chứng tỏ Việt Nam cảm nhận, cám ơn vị Tổng thống đầu tiên ra quyết định dỡ bỏ hàng rào với Việt Nam, là người đầu tiên sang thăm Việt Nam khi ông (Clinton) còn tại chức. Điều thứ hai là ông tìm cách, có thể là làm thân với ba Clinton, người có thể trở thành Tổng thống Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tới. Đó là hành động đầu tư cho tương lai, có ý nghĩa về phương diện bang giao giữa hai nước.
Và tôi đã thấy người ta vỗ tay ông ấy trong một số những câu trả lời. Điểm thứ hai, mà tôi thấy ông cũng khôn khéo, là sau cuộc gặp gỡ ở CSIS thì ông Sang đi New York, qua ngày hôm sau, sau một số buổi họp, tiếp tân, ông ấy đã đặc biệt gặp riêng ông bà Clinton. Việc này là một hành động khá khéo léo, người ta có thể gọi là "dùng hòn đá ném chết hai con chim". Thứ nhất ông ấy chứng tỏ Việt Nam cảm nhận, cám ơn vị Tổng thống đầu tiên ra quyết định dỡ bỏ hàng rào với Việt Nam, là người đầu tiên sang thăm Việt Nam khi ông (Clinton) còn tại chức. Điều thứ hai là ông tìm cách, có thể là làm thân với ba Clinton, người có thể trở thành Tổng thống Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ tới. Đó là hành động đầu tư cho tương lai, có ý nghĩa về phương diện bang giao giữa hai nước.
Việt-Long: Xin cám ơn giáo sư đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn hôm nay.
39. Sợ Trung Quốc, Hà Nội tìm điểm tựa ở Washington
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry và Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang, Washington DC - REUTERS /L. Downing
"Tổng thống Obama và tôi sẽ thảo luận các phương án thắt chặt
quan hệ đối tác giữa hai nước trong tinh thần bảo vệ hòa bình, ổn định
và an ninh hàng hải tại Biển Đông , quyền lợi và quan tâm chung của
nhiều nước trong và ngoài khu vực". Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn
Sang đã trả lời như trên câu hỏi của hãng tin Bloomberg về mục tiêu
chuyến công du Mỹ với trọng điểm là cuộc hội kiến tại Nhà Trắng vào hôm
nay 25/07/2013.
Không hẹn mà các bài nhận định của giới phân tích quốc tế cũng
như thông điệp của giới nhân sĩ trí thức, blogger tại Việt Nam nhân
chuyến công du Hoa Kỳ của chủ tịch Trương Tấn Sang có cùng một nhận
định : phải bắt tay với Mỹ để thoát gọng kềm Trung Quốc.
David Brown, nguyên là nhà ngoại giao từng phục vụ tại Việt Nam phân
tích rằng Hà Nội đang tìm cách thoát mối đe dọa từ Trung Quốc. Sự kiện
ông Trương Tấn Sang, sau từ Trung Quốc trở về, đã cấp tốc sang Mỹ là
dấu hiệu Hà Nội « đã bị chấn động vì những gì mà Tập Cận Bình đã nói
riêng với ông Sang » tại Bắc Kinh hồi tháng 6 vừa qua.
Chuyên gia Úc Carl Thayer nhận định lãnh đạo Việt Nam sang Mỹ để thực
hiện Nghị quyết của Bộ chính trị về Hội nhập Quốc tế chủ yếu là Quan hệ
đối tác xuyên Thái bình dương TPP, không có Trung Quốc.
Trong khi đó, giới nhân sĩ, chuyên gia, blogger Việt Nam kêu gọi
giới lãnh đạo Việt Nam, mà đặc biệt là ông Trương Tấn Sang hãy « nắm lấy
thời cơ chứng tỏ bản lãnh » đưa đất nước ra khỏi bàn tay của « chủ
nghĩa Đại Hán ».
Trong bức tâm thư công bố trên mạng Bauxitvn, các nhân sĩ nhấn mạnh
hiệp ước thương mại đối tác xuyên Thái Bình dương TPP do Hoa Kỳ đề
xướng, là giải pháp quan trọng giúp Việt Nam « tháo gỡ » gọng kềm
Trung Quốc và giải quyết những khó khăn kinh tế hiện nay song song
với cởi mở chính trị.
Liệu Hà Nội cần phải nắm bắt thời cơ như thế nào để bảo vệ quyền lợi
của dân và đất nước ? RFI đặt câu hỏi với nhà phân tích Lưu Tường Quang
từ Sydney.
« Hà Nội đang đi tìm điểm tựa ở Washington để may ra đối trọng
lại phần nào với Trung Quốc Nếu chính phía Việt Nam đề nghị gặp tổng
thống Obama thì đây là một bước tiến có thể gọi là tích cực của Hà Nội
nhằm tạo một môi trường mới trong việc bang giao với Bắc Kinh, tương tự
như Miến Điện đã đi tìm điểm tựa ở Washington để từ bỏ cái quá khứ lệ
thuộc »
40.Hậu Obama-Sang: Bao lâu cho lộ trình TPP?
Tổng
thống Hoa Kỳ Barack Obama gặp Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang
tại phòng Bầu dục của Tòa Bạch Ốc tại Washington, ngày 25/7/2013.
Tin liên hệ
- Xây dựng một di sản mới của Mỹ ở Việt Nam
- Thứ trưởng Ngoại giao VN: Những người biểu tình đòi nhân quyền là vì tiền
- Việt Nam - Thách thức và cơ hội
- Một giai đoạn mới cho quan hệ Việt-Mỹ?
- TT Obama đàm phán 'thẳng thắn' với Chủ tịch Sang về nhân quyền
- Chủ tịch Trương Tấn Sang muốn người Mỹ gốc Việt làm ‘cầu nối’
Ðường dẫn
TPP chỉ có thể sinh ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều
kiện về dân chủ và nhân quyền. Bài toán gần như rõ ràng: đáp số của nó
sẽ được đáp ứng khi và chỉ khi Nhà nước Việt Nam tự cam kết về thế ưu
tiên trong mối tương quan “đi dây” – chọn Trung Quốc hay Mỹ.
Triển vọng lạc quan?
Trước và trong cuộc hội kiến Obama-Trương Tấn Sang ở Washington, theo quán tính chỉ đạo của Ban tuyên giáo trung ương, một số tờ báo đảng đã ồn ã trong “chiến dịch” cổ xúy cho điều được xem là “triển vọng lạc quan” của TPP, tức Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam trông ngóng bấy lâu nay.
“Sẽ thông qua sớm nhất vào cuối năm 2013” – như một hứa hẹn của Tổng thống Obama cho viễn cảnh Việt Nam tham dự vào buổi tiệc đứng TPP.
Nhưng Việt Nam liệu có chờ đợi được hai năm nữa, khi bóng dáng một cuộc khủng hoảng kinh tế đang lộ diện?
Mắt xích còn lại là giới lãnh đạo mang xu hướng và cả xu thời cải cách ở Việt Nam có biết biến tâm tưởng thành hành động hay không mà thôi.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Triển vọng lạc quan?
Trước và trong cuộc hội kiến Obama-Trương Tấn Sang ở Washington, theo quán tính chỉ đạo của Ban tuyên giáo trung ương, một số tờ báo đảng đã ồn ã trong “chiến dịch” cổ xúy cho điều được xem là “triển vọng lạc quan” của TPP, tức Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam trông ngóng bấy lâu nay.
Việt Nam sẽ là nước hưởng lợi nhiều nhất từ Hiệp định TPP - những tờ báo
này “dự báo”. Một lần nữa sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ
150 của WTO vào năm 2007, giới quan chức ngoại giao và thương mại Việt
Nam lại vẽ ra một bức tranh khá xán lạn cho các doanh nghiệp sản xuất và
xuất khẩu – những đối tượng đã bị biến thành một loại “con tin” của các
nhóm lợi ích đầu cơ trong suốt gần ba năm suy thoái đến mức trầm uất
khó tin từ đầu 2011 đến nay.
Nhưng nếu suy xét một cách tỉnh táo, giới quan sát độc lập có thể trông đợi gì về TPP cùng ánh hồng lạc quan của nó?
Giám đốc xin giấu tên của một doanh nghiệp thủy sản ở Sài Gòn không quá che đậy cảm nghĩ của bà: “Từ hồi gia nhập WTO đến giờ, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp tôi cũng chẳng tăng được bao nhiêu. Không hẳn là thị trường Mỹ tăng sức ép cạnh tranh và làm khó doanh nghiệp Việt bằng các vụ kiện cáo bán phá giá, mà từ bộ ngành đến các cơ quan của chính quyền địa phương đều quá quan liêu trong việc hỗ trợ và bảo vệ cho doanh nghiệp, thua xa nhà nước Thái Lan. Cứ cái cung cách này mà có “tiến ra biển lớn” theo TPP thì cũng không có mấy hy vọng quen được với sóng nước. Không cẩn thận có khi còn lật thuyền cũng nên”.
Thực tế 6 năm dầm sương dãi nắng trên bàn tiệc WTO đã trở thành một trải nghiệm đắt giá cho các doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý kinh tế Việt Nam nếu muốn ăn chắc mặc bền với TPP. Năng lực điều hành yếu kém, công tác dự báo hoàn toàn chưa ngang tầm với một quốc gia tham gia vào các hiệp định thương mại đa phương, quá nhiều vấn đề còn tồn tại trong hoạt động quản trị vi mô tại các doanh nghiệp…đã khiến cho lượng hàng hóa và giá trị xuất khẩu từ Việt Nam đi các nước trong khu vực và trên thế giới không mấy khả quan, dù đã được dán cái mác “WTO”.
Cho tới nay, cá basa và tôm vẫn là những khúc mắc luôn bị kiện cáo và tranh chấp giữa các doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam. Hiện trạng này cũng đóng góp cho thực trạng còn xa mới được xem là tốt của doanh nghiệp Việt khi chuẩn bị để tham gia thị trường quốc tế, trong đó không thể không nhấn nhá đến thực tế thiếu am hiểu về luật pháp quốc tế.
Phép thử bình đẳng
Lịch sử và các vận hội thương mại đã chứng minh hùng hồn là cùng với nhiều tham vọng thiếu chân đứng của Việt Nam, không phải những gì mong đợi đều có thể xảy đến một cách trọn vẹn. Khác với thái độ “ưu ái” của cơ chế WTO cách đây 6 năm, nhiều rào cản đã được thiết lập đối với lộ trình tham gia vào TPP. Kể cả nếu Việt Nam có được chấp nhận tham gia vào hiệp định này, vẫn còn nhiều rào cản khác xuất hiện.
Một trong những rào cản sâu kín nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam chính là vấn đề xuất xứ của hàng hóa.
Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được đề xuất ở TPP, các sản phẩm xuất khẩu trong các nước thành viên phải có xuất xứ nội khối TPP mới được hưởng ưu đãi. Ngay lập tức, giới chuyên gia trong nước nhận ra rằng đây là một bất lợi vì Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu từ các nước bên ngoài TPP để gia công hàng xuất khẩu. Hiển nhiên, nếu không chuyển đổi được vùng nguyên liệu, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ không được hưởng ưu đãi thuế.
Nhưng nếu suy xét một cách tỉnh táo, giới quan sát độc lập có thể trông đợi gì về TPP cùng ánh hồng lạc quan của nó?
Giám đốc xin giấu tên của một doanh nghiệp thủy sản ở Sài Gòn không quá che đậy cảm nghĩ của bà: “Từ hồi gia nhập WTO đến giờ, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp tôi cũng chẳng tăng được bao nhiêu. Không hẳn là thị trường Mỹ tăng sức ép cạnh tranh và làm khó doanh nghiệp Việt bằng các vụ kiện cáo bán phá giá, mà từ bộ ngành đến các cơ quan của chính quyền địa phương đều quá quan liêu trong việc hỗ trợ và bảo vệ cho doanh nghiệp, thua xa nhà nước Thái Lan. Cứ cái cung cách này mà có “tiến ra biển lớn” theo TPP thì cũng không có mấy hy vọng quen được với sóng nước. Không cẩn thận có khi còn lật thuyền cũng nên”.
Thực tế 6 năm dầm sương dãi nắng trên bàn tiệc WTO đã trở thành một trải nghiệm đắt giá cho các doanh nghiệp và cả các cơ quan quản lý kinh tế Việt Nam nếu muốn ăn chắc mặc bền với TPP. Năng lực điều hành yếu kém, công tác dự báo hoàn toàn chưa ngang tầm với một quốc gia tham gia vào các hiệp định thương mại đa phương, quá nhiều vấn đề còn tồn tại trong hoạt động quản trị vi mô tại các doanh nghiệp…đã khiến cho lượng hàng hóa và giá trị xuất khẩu từ Việt Nam đi các nước trong khu vực và trên thế giới không mấy khả quan, dù đã được dán cái mác “WTO”.
Cho tới nay, cá basa và tôm vẫn là những khúc mắc luôn bị kiện cáo và tranh chấp giữa các doanh nghiệp Mỹ và Việt Nam. Hiện trạng này cũng đóng góp cho thực trạng còn xa mới được xem là tốt của doanh nghiệp Việt khi chuẩn bị để tham gia thị trường quốc tế, trong đó không thể không nhấn nhá đến thực tế thiếu am hiểu về luật pháp quốc tế.
Phép thử bình đẳng
Lịch sử và các vận hội thương mại đã chứng minh hùng hồn là cùng với nhiều tham vọng thiếu chân đứng của Việt Nam, không phải những gì mong đợi đều có thể xảy đến một cách trọn vẹn. Khác với thái độ “ưu ái” của cơ chế WTO cách đây 6 năm, nhiều rào cản đã được thiết lập đối với lộ trình tham gia vào TPP. Kể cả nếu Việt Nam có được chấp nhận tham gia vào hiệp định này, vẫn còn nhiều rào cản khác xuất hiện.
Một trong những rào cản sâu kín nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam chính là vấn đề xuất xứ của hàng hóa.
Theo điều khoản về xuất xứ hàng hóa được đề xuất ở TPP, các sản phẩm xuất khẩu trong các nước thành viên phải có xuất xứ nội khối TPP mới được hưởng ưu đãi. Ngay lập tức, giới chuyên gia trong nước nhận ra rằng đây là một bất lợi vì Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nguyên phụ liệu từ các nước bên ngoài TPP để gia công hàng xuất khẩu. Hiển nhiên, nếu không chuyển đổi được vùng nguyên liệu, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ không được hưởng ưu đãi thuế.
Nhưng làm thế nào để chuyển đổi vùng nguyên liệu, một khi phần lớn
nguyên phụ liệu lại được Việt Nam nhập khẩu chủ yếu từ Trung Nam Hải chứ
chẳng phải từ địa chỉ nào khác?
Chưa hết, một số chuyên gia cũng đánh giá rằng hàng Việt Nam còn có thể phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp nhiều hơn nếu tăng được kim ngạch xuất khẩu vào các nước TPP. Bởi không giống như các hiệp định khác, TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, không phân biệt quốc gia phát triển hay đang phát triển nên không có chính sách ưu tiên như khi Việt Nam đàm pháp gia nhập WTO...
Hệ quả của quá khứ lại là tiền đề cho tương lai. Sau WTO, nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị đối diện với một phép thử mới là TPP. Nhưng liệu các doanh nghiệp Việt Nam có rút ra được bài học nào sắc nét để cải thiện tình thế quẫn bách của họ hay không?
Phép thử này, tất nhiên, không thể không liên quan đến cuộc gặp ở Washington của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào những ngày cuối tháng 7/2013.
Chỉ có điều, sau gần hai năm sốt ruột, tất cả chỉ mới bắt đầu đối với người Việt.
Hai năm?
Trong các chuyến làm việc trước đây với những người chủ trì TPP, giới chức lãnh đạo Việt Nam từng tha thiết đề nghị rút ngắn lộ trình tham gia hiệp định này vào tháng 10/2013. Trương Tấn Sang là người nằm trong số đó.
Nhưng cho đến nay và sau đến 18 vòng đàm phán TPP, xem ra mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ. Vẫn không có bất kỳ tín hiệu nào cho thấy những quốc gia chủ chốt của TPP, đặc biệt là Nhà trắng, sẽ động não xem xét việc kết nạp Việt Nam vào hiệp định này.
Cuộc hội kiến Obama – Sang vào cuối tháng 7/2013 lại càng trở nên mù mờ khi cảm giác nào cũng có mà thực chất lại chẳng có xúc giác nào được chứng thực. Phía sau bản tuyên bố chung Việt – Mỹ người ta không nhận ra bóng dáng một thỏa thuận chi tiết nào về TPP.
Chưa hết, một số chuyên gia cũng đánh giá rằng hàng Việt Nam còn có thể phải đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp nhiều hơn nếu tăng được kim ngạch xuất khẩu vào các nước TPP. Bởi không giống như các hiệp định khác, TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, không phân biệt quốc gia phát triển hay đang phát triển nên không có chính sách ưu tiên như khi Việt Nam đàm pháp gia nhập WTO...
Hệ quả của quá khứ lại là tiền đề cho tương lai. Sau WTO, nền kinh tế Việt Nam đang chuẩn bị đối diện với một phép thử mới là TPP. Nhưng liệu các doanh nghiệp Việt Nam có rút ra được bài học nào sắc nét để cải thiện tình thế quẫn bách của họ hay không?
Phép thử này, tất nhiên, không thể không liên quan đến cuộc gặp ở Washington của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào những ngày cuối tháng 7/2013.
Chỉ có điều, sau gần hai năm sốt ruột, tất cả chỉ mới bắt đầu đối với người Việt.
Hai năm?
Trong các chuyến làm việc trước đây với những người chủ trì TPP, giới chức lãnh đạo Việt Nam từng tha thiết đề nghị rút ngắn lộ trình tham gia hiệp định này vào tháng 10/2013. Trương Tấn Sang là người nằm trong số đó.
Nhưng cho đến nay và sau đến 18 vòng đàm phán TPP, xem ra mọi chuyện vẫn giậm chân tại chỗ. Vẫn không có bất kỳ tín hiệu nào cho thấy những quốc gia chủ chốt của TPP, đặc biệt là Nhà trắng, sẽ động não xem xét việc kết nạp Việt Nam vào hiệp định này.
Cuộc hội kiến Obama – Sang vào cuối tháng 7/2013 lại càng trở nên mù mờ khi cảm giác nào cũng có mà thực chất lại chẳng có xúc giác nào được chứng thực. Phía sau bản tuyên bố chung Việt – Mỹ người ta không nhận ra bóng dáng một thỏa thuận chi tiết nào về TPP.
“Sẽ thông qua sớm nhất vào cuối năm 2013” – như một hứa hẹn của Tổng thống Obama cho viễn cảnh Việt Nam tham dự vào buổi tiệc đứng TPP.
Còn Ernest Z. Bower, cố vấn cao cấp và cũng là giám đốc Chương trình
Đông Nam Á của Trung tâm nghiên cứu chiến lược và quốc tế Hoa Kỳ, lại ám
chỉ rằng lộ trình thủ tục TPP dành cho Việt Nam còn phải phụ thuộc vào
Quốc hội Hoa Kỳ - cơ quan có vai trò thông qua vấn đề này vào năm 2014,
và nếu mọi chuyện không có gì trắc trở, phải sau hai năm nữa tính từ
thời điểm này, giới chính trị gia Việt Nam mới có thể được thỏa mãn tham
vọng trở thành đối tác xuyên Thái Bình Dương của họ.
“Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm với nhau” - đại diện thương mại Mỹ Michael Froman nêu ra quan điểm xuyên suốt như thế sau cuộc gặp với ông Trương Tấn Sang vào cuối tháng 7/2013.
Quãng đường vẫn còn dài, thậm chí rất dài.
“Chúng ta vẫn còn nhiều việc phải làm với nhau” - đại diện thương mại Mỹ Michael Froman nêu ra quan điểm xuyên suốt như thế sau cuộc gặp với ông Trương Tấn Sang vào cuối tháng 7/2013.
Quãng đường vẫn còn dài, thậm chí rất dài.
Nhưng Việt Nam liệu có chờ đợi được hai năm nữa, khi bóng dáng một cuộc khủng hoảng kinh tế đang lộ diện?
Trong trường hợp xảy ra suy thoái hoặc khủng hoảng kinh tế thế giới vào
những năm tới, những lô cốt cuối cùng của nền kinh tế Việt Nam sẽ có thể
bị tàn phá kiệt quệ cùng nhiều hệ lụy không còn là gián tiếp. Vốn đang
nằm trong xu thế không chỉ suy thoái gần như toàn diện nội lực mà còn
quá kém hiệu quả trong cơ chế xuất khẩu và chịu ảnh hưởng không nhỏ từ
làn sóng thoái vốn đầu tư nước ngoài, Việt Nam sẽ nhanh chóng rơi vào
tình thế bĩ cực không lối thoát. Một cuộc khủng hoảng toàn diện đối với
nền kinh tế Việt Nam cũng từ đó rất có thể khởi phát.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.
Nếu cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới kỳ vọng được bắt nguồn từ nguồn cơn suy thoái nặng nề và khủng hoảng của nền kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, nặng nề hơn nhiều so với giai đoạn suy thoái kinh tế gần ba năm qua; và một do ảnh hưởng từ bầu không khí hỗn loạn và có thể cả động loạn xã hội ở Trung Quốc.
Lòng thành chính trị?
Muốn vượt qua cơn khủng hoảng trầm kha rất có thể diễn ra trong trung hạn, nền kinh tế Việt Nam cần có tiền và thị trường xuất khẩu. Những nguồn vốn mới và thị trường mới sẽ giúp đất nước này hồi phục phần nào năng lực sản xuất và do đó sẽ kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp cùng nhiều hệ quả xã hội.
TPP là một trong rất ít lối thoát có thể có cho Việt Nam.
Nhưng với thái độ không cần che giấu của người Mỹ, TPP lại chỉ có thể sinh ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền. Bài toán gần như rõ ràng: đáp số của nó sẽ được đáp ứng khi và chỉ khi Nhà nước Việt Nam tự cam kết về thế ưu tiên trong mối tương quan “đi dây” – chọn Trung Quốc hay Mỹ.
Về mặt lý thuyết, cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ từ an ninh biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ. Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong nước và mục tiêu chiến lược địa - chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền ở Hà Nội mới có được cơ may tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh. Cũng khi đó, Hà Nội sẽ nhận được sự hậu thuẫn của Washington và những thủ phủ chính của Cộng đồng châu Âu về TPP. Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Trong trường hợp đó, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một cơ chế cởi mở hơn về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang trí về một xã hội dân sự manh nha, kể cả phải thỏa hiệp với sự hình thành và vận hành của một lực lượng phản biện đối lập nào đó tại đất nước này …, họ vẫn có thể duy trì kinh tế tạm ổn định, để logic tiếp theo là vẫn tiếp tục bám giữ quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo trong một thời gian nào đó.
Có lẽ, đã có những con người lãnh đạo trong chính đảng cầm quyền ở Việt Nam tâm tưởng về những kết quả kỳ lạ mà Thein Sein và Myanmar đã làm được và nhận được từ ba năm qua, về một lối thoát khả dĩ cho những chính khách khôn ngoan, biết thời thế và không cam nhận sống lưu vong hoặc mất trắng.
Cuộc khủng hoảng có thể như thế còn cần được tính thêm một yếu tố cộng hưởng rất “láng giềng”: Trung Quốc.
Nếu cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới kỳ vọng được bắt nguồn từ nguồn cơn suy thoái nặng nề và khủng hoảng của nền kinh tế Trung Quốc, Việt Nam sẽ phải chịu hiệu ứng kép: một do suy thoái kinh tế giai đoạn cuối, nặng nề hơn nhiều so với giai đoạn suy thoái kinh tế gần ba năm qua; và một do ảnh hưởng từ bầu không khí hỗn loạn và có thể cả động loạn xã hội ở Trung Quốc.
Lòng thành chính trị?
Muốn vượt qua cơn khủng hoảng trầm kha rất có thể diễn ra trong trung hạn, nền kinh tế Việt Nam cần có tiền và thị trường xuất khẩu. Những nguồn vốn mới và thị trường mới sẽ giúp đất nước này hồi phục phần nào năng lực sản xuất và do đó sẽ kéo giảm tỷ lệ thất nghiệp cùng nhiều hệ quả xã hội.
TPP là một trong rất ít lối thoát có thể có cho Việt Nam.
Nhưng với thái độ không cần che giấu của người Mỹ, TPP lại chỉ có thể sinh ra từ lòng thành chính trị, tương ứng với các điều kiện về dân chủ và nhân quyền. Bài toán gần như rõ ràng: đáp số của nó sẽ được đáp ứng khi và chỉ khi Nhà nước Việt Nam tự cam kết về thế ưu tiên trong mối tương quan “đi dây” – chọn Trung Quốc hay Mỹ.
Về mặt lý thuyết, cơ hội để “thoát Trung” cùng vô số nguy cơ từ an ninh biển Đông có thể được giải thoát bởi người Mỹ. Nếu tận dụng cơ hội này, với điều kiện phải thể hiện được bản lĩnh của mình trong mối giao hòa với tâm cảm của đại đa số người dân trong nước và mục tiêu chiến lược địa - chính trị của phương Tây, chính đảng cầm quyền ở Hà Nội mới có được cơ may tránh thoát một phần ảnh hưởng của Bắc Kinh. Cũng khi đó, Hà Nội sẽ nhận được sự hậu thuẫn của Washington và những thủ phủ chính của Cộng đồng châu Âu về TPP. Cuộc khủng hoảng kinh tế tiềm tàng ở Việt Nam cũng do đó có thể sẽ được khuôn hẹp với những hậu quả không quá lớn.
Trong trường hợp đó, chính đảng cầm quyền ở Việt Nam dù có phải “trả giá” bằng một cơ chế cởi mở hơn về dân chủ nhân quyền và chấp nhận sự tồn tại của một hình ảnh mang tính trang trí về một xã hội dân sự manh nha, kể cả phải thỏa hiệp với sự hình thành và vận hành của một lực lượng phản biện đối lập nào đó tại đất nước này …, họ vẫn có thể duy trì kinh tế tạm ổn định, để logic tiếp theo là vẫn tiếp tục bám giữ quyền lực một đảng chi phối và quyền lợi của giới lãnh đạo trong một thời gian nào đó.
Có lẽ, đã có những con người lãnh đạo trong chính đảng cầm quyền ở Việt Nam tâm tưởng về những kết quả kỳ lạ mà Thein Sein và Myanmar đã làm được và nhận được từ ba năm qua, về một lối thoát khả dĩ cho những chính khách khôn ngoan, biết thời thế và không cam nhận sống lưu vong hoặc mất trắng.
Mắt xích còn lại là giới lãnh đạo mang xu hướng và cả xu thời cải cách ở Việt Nam có biết biến tâm tưởng thành hành động hay không mà thôi.
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Phạm Chí Dũng
Phạm Chí Dũng là nhà báo tự do hiện đang sinh sống tại Sài Gòn41.Bốn kịch bản cho cuộc gặp Mỹ-Việt
Phạm Chí Dũng
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
Cập nhật: 07:01 GMT - thứ tư, 24 tháng 7, 2013
Ngay sau khi
cuộc gặp Obama - Trương Tấn Sang được Nhà Trắng chính thức thông báo
vào ngày 11/7, không khí bình luận trong nước và quốc tế bất chợt sôi
động hẳn lên. Người ta nói về và đặt câu hỏi về sự vội vã đáng hoài nghi
về chuyến đi của ông Sang.
Lần thứ hai trong năm nay, sau thông báo đột
ngột về cuộc diện kiến ông Tập Cận Bình ở Bắc Kinh, cuộc gặp ông Obama
của ông Sang là một sự kiện có tính bất ngờ.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Trong bối cảnh đó, liệu có một nhà lãnh đạo nào của Việt Nam đủ dũng khí để đứng ra tuyên bố sẽ ngả hẳn về phương Bắc hay sang phương Tây?
Hiện thời, chưa có ai trả lời được câu hỏi này.
Nhưng nếu bạn là người Việt Nam và cảm nhận được vô số điều khó xử của
giới chức lãnh đạo cao cấp ở đất nước đầy phức hợp này, có lẽ bạn sẽ
không thể tìm thấy đáp số, ít ra trong ngắn hạn.
Phần đông dư luận vẫn nhìn nhận về cuộc gặp Sang
– Obama như một cái gì đó có tính xã giao và có thể cả tính quảng bá –
tuyên truyền cho một thế đứng chính trị trên trường quốc tế và có thể cả
thế “đi dây” mang nội hàm chính thể lẫn lợi ích cá nhân.
Còn nếu nhìn từ hệ quy chiếu của Nhà Trắng, liệu có xảy đến một kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang?
Với những gì đã được “quy chiếu” bởi trục thương
mại Mỹ - Trung với những móc xích khóa chặt giữa hai nền kinh tế lớn
nhất thế giới, cùng hai chuyến diện kiến con thoi như được mặc định của
người Việt Nam, gần như chắc chắn sẽ không có kịch bản xấu, bởi điều dễ
hiểu là sẽ khó có một mâu thuẫn đủ lớn, ít ra trong ngắn hạn, có thể gây
tác động không tốt đến chuyến đi Washington.
Cũng sẽ chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham vọng của Việt Nam.Những kịch bản lạc quan
"Sẽ chẳng có một sự quay lưng hoàn toàn nào của Hoa Kỳ đối với những nguyện vọng và cả tham vọng của Việt Nam"
Cuộc gặp Việt - Mỹ năm 2007
Vài ngày trước cuộc gặp giữa hai ông Obama –
Sang, một nhóm nhân sĩ, trí thức Việt Nam đã gửi thỉnh nguyện thư cho
người chuẩn bị bước qua cửa Nhà Trắng.
Không thể nói khác hơn là tâm tư trong bản thỉnh
nguyện thư trên, được khởi tả chủ yếu từ các nhân sĩ và trí thức trong
nhóm “Kiến nghị 72”, vẫn nặng lòng với vận mệnh dân tộc và vẫn trông
đợi, dù chỉ bằng một xác suất rất nhỏ, vào cơ hội “thoát Trung” từ
chuyến đi Hoa Kỳ của ngài chủ tịch nước.
Một chuyên gia quốc tế còn nhận định có thể ông
Trương Tấn Sang sẽ quyết định “trả một cái giá” để đổi lại sự ủng hộ của
người Mỹ trong các vấn đề đối tác chiến lược toàn diện, an ninh khu vực
biển Đông và cả những quyền lợi kinh tế liên quan đến Hiệp định TPP.
Một lần nữa, nhiều người lại kỳ vọng vào một sự
thay đổi, sau cuộc gặp Nguyễn Minh Triết – George W. Bush cách đây sáu
năm mà đã hầu như chẳng tạo ra một hiệu ứng đổi thay nào.
Tất nhiên, hy vọng vẫn là hy vọng, bởi đó là một trong số không nhiều thực tồn có thể tồn tại ở Việt Nam mà không bị đánh thuế.
Những người theo xu thế lạc quan đã vẽ ra một
kịch bản tốt nhất có thể, với kết quả cuộc gặp Obama - Sang đi đến thống
nhất ký kết những văn bản thỏa thuận ở cấp độ không thấp về sự hỗ trợ
hải quân của Hoa Kỳ ở khu vực biển Đông, tiến trình rút ngắn thủ tục cho
Việt Nam gia nhập TPP và có thể cả một văn bản hợp tác chiến lược toàn
diện giữa hai quốc gia – điều mà giới ngoại giao Hà Nội luôn xem là một
món quà hậu hĩ.
Có lẽ phần lớn con mắt lạc quan trên thuộc về giới chức Đảng và chính phủ.
Trong trường hợp kém khả quan hơn, những văn bản
trên có thể chỉ mang tính khung cảnh mà không đề cập vào chi tiết. Đây
cũng là trường hợp mà như người ta thường nói, tất cả cần phải có thời
gian, mà thời gian lại phụ thuộc vào sự cố gắng của không chỉ một bên mà
cả hai phía.
Nếu kịch bản này xảy ra, sẽ có một chỗ giao thoa
về quan điểm giữa “hai phía” khác: chính giới cầm quyền và một bộ phận
giới quan sát độc và phản biện độc lập trong nước.
Nhưng bộ phận còn lại của giới phản biện độc lập
trong nước, và có lẽ đa số trong giới quan sát quốc tế, lại không mấy
kỳ vọng vào sự giải quyết rốt ráo những hiện tồn đang ám ảnh.
Bởi sau mọi mục đích, nội lực để đạt được mục
đích lại phụ thuộc rất lớn vào lợi thế so sánh của nhà nước Việt Nam và
bản lĩnh chính trị của chính khách Việt.
Vậy chính khách Việt đang có trong tay cái gì?
'Đường biểu diễn' nhân quyền
Một trong những hiện tồn nặng nề nhất ở Việt Nam
là chủ đề “nhân quyền và dân chủ” mà người Mỹ chắc chắn sẽ đặt ra đối
với nhà nước cựu thù vào lần gặp gỡ sắp diễn ra.
Quá khứ đã có thể dễ dàng gác lại, và càng có
nhiều lý do để bỏ qua vào thời điểm “nhạy cảm” này, nhưng làm thế nào để
những người Việt rời Sài Gòn vào ngày 30/4/1975, và trên hết là những
người bất đồng chính kiến đang hiện hữu tại Việt Nam, có thể chia sẻ với
chính đảng cầm quyền về hệ lụy mà phương Tây luôn căn vặn: đàn áp nhân
quyền?
Với những gì mà Hà Nội đã bộc lộ từ sau cuộc đối
thoại nhân quyền Việt – Mỹ vào trung tuần tháng 4/2013 đến nay, điều rõ
ràng là chưa có một biểu hiện lộ diện nào về khả năng cải thiện tình
hình.
Thậm chí, đường biểu diễn quyền làm người ở Việt
Nam còn được chia thành hai phân đoạn khá rõ rệt trong nửa đầu năm
2013: trước và sau tháng Tư năm nay.
Ở phân đoạn trước, giới quan sát quốc tế đã
chứng kiến một sự kiện chưa có tiền lệ: chuyến làm việc của Tổ chức ân
xá quốc tế tại Việt Nam, lần đầu tiên từ năm 1975, với việc các quan
chức của tổ chức này còn được tiếp cận những “đối tượng” do họ đề nghị
đích danh. Và có thể, ý nghĩa của lần viếng thăm này còn lớn lao hơn cả
một ẩn ý nào đó của chuyến “hành hương” đến Vatican của nhân vật số một
trong Đảng – ông Nguyễn Phú Trọng – vào đầu năm 2013.
Cùng trong phân đoạn biểu diễn nhân quyền trên,
những kiến nghị chưa từng thấy của nhóm “72” về Hiến pháp và điều 4 độc
đảng đã tạo nên một xung chấn đủ mạnh trong đời sống chính trị phi chính
thức ở Việt Nam – một hiện tượng tâm lý xã hội được xem như không chỉ
phản ánh ý thức đối lập của người dân mà còn dắt dây sang tâm trạng “suy
thoái” của một bộ phận không quá nhỏ trong khối đảng viên và công chức
nhà nước.
Chỉ có điều, sau phân đoạn sôi trào không khí phản biện như thế lại là một sóng xuống khá trầm lắng.
Ngay sau khi cuộc đàm phán nhân quyền Việt – Mỹ
kết thúc tại Hà Nội, trưởng phái đoàn là Dan Baer đã không làm cách nào
tiếp xúc được với những nhà hoạt động nhân quyền là bác sĩ Phạm Hồng Sơn
và luật sư Nguyễn Văn Đài. Cuộc gặp duy nhất mà Dan Baer đạt được chỉ
là với linh mục Nguyễn Văn Lý trong nhà tù chế độ. Cha Lý lại là một con
chiên nổi tiếng bất đắc dĩ với hình ảnh bị những người không mặc sắc
phục bịt miệng tại tòa án.
Hình như Hà Nội vẫn chưa sẵn sàng đối thoại về
nhân quyền, dù một số quan chức đã hé mở tâm trạng riêng tư của họ với
ngành ngoại giao Cộng đồng châu Âu “hãy cho chúng tôi thêm thời gian”.
."Song nếu thời gian đã được chứng nghiệm ở
Myanmar với những cam kết đã biến thành hiện thực của Tổng thống Thein
Sein bằng vào lệnh thả hàng trăm tù chính trị trong hai năm 2011, 2012
và sẽ thả hết trong năm 2013, thì ở Việt Nam lại chưa hiện ra một tinh
thần tự nguyện nào.
Kịch bản chiếm ưu thế?
Từ sau cuộc đối thoại nhân quyền Việt – Mỹ, làn
sóng bắt bớ blogger lại trào lên. Bất kể vì lý do và động cơ gì, vì an
ninh quốc gia hay một động lực riêng tư nào đó, việc bắt giữ ba blogger
Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào và Đinh Nhật Uy đã làm dấy lên mối nghi
ngờ chưa bao giờ kết thúc của giới nhân quyền Mỹ và châu Âu về điều chưa
bao giờ được xem là “thành tâm chính trị” của nhà cầm quyền Hà Nội.
Vậy làm sao có thể hy vọng vào một kịch bản tốt
đẹp, hoặc tương đối tốt đẹp, trong cuộc gặp Obama - Sang vào lần này,
khi nhân quyền và dân chủ lại là đối trọng mà người Mỹ đang đặt ra như
một điều kiện cần?
Chỉ có thể nghĩ đến một kịch bản khá trung dung, thậm chí rất bình thường – kịch bản thứ tư – với xác suất xảy ra lớn nhất.
Những nhà ngoại giao Hoa Kỳ lại không hề muốn bị
dư luận dân chúng Mỹ và quốc tế đánh giá về một sai lầm tiếp nối của
họ, nếu họ “buông” cho Hà Nội vượt vũ môn để tiếp cận một cách quá dễ
dàng với những mục đích tự thân về kinh tế và danh vọng.
WTO 6 năm về trước và Hiệp định thương mại Việt –
Mỹ cách đây đúng một “con giáp” là những bài học sần sùi khó nuốt của
người Mỹ.
Nếu năm 2007 đánh dấu cuộc đối thoại đầu tiên
giữa hai nguyên thủ nhà nước Bush – Triết, thì trước đó một năm, nước Mỹ
cũng nhấc Việt Nam ra khỏi danh sách CPC về những quốc gia cần quan
ngại đặc biệt về nhân quyền và tôn giáo. Nhưng cũng kể từ thời gian đó,
tình trạng nhân quyền và tôn giáo ở Việt Nam lại không có dấu hiệu khả
quan hơn, nếu không muốn nói là bị đánh giá “thụt lùi sâu sắc”.
Hiển nhiên, bài học về nhân quyền khép kín không
tương xứng với độ mở tối đa về kinh tế đã hằn sâu trong não trạng người
Mỹ, cho tới giờ và cho cả những năm tháng trong tương lai.
Sự bất tương xứng như thế lại còn như được gia
cố bởi mối quan hệ đang có chiều hướng bền vững giữa Bắc Kinh - một hậu
duệ mao - ít vốn chẳng mấy quan tâm đến vấn đề quyền con người và mới
đây còn bắt luôn cả một luật sư đang bào chữa cho thân chủ hoạt động
nhân quyền mới bị bắt của mình - với Hà Nội.
Cái gì mang tính hệ thống luôn có thể dẫn đến
chuỗi logic trong hành xử. Mối quan hệ “mười sáu chữ vàng” có thể đã hữu
hảo đến mức mà người Mỹ không còn mơ hồ về việc nhà nước Việt Nam sẽ
khó tránh khỏi ảnh hưởng của Trung Nam Hải về chính sách nội trị, đối
với những gì và những ai không đồng nhất với ý thức hệ và quyền lợi
chính trị của họ.
Lối tắt
Một hệ quả hầu như chắc chắn là cho dù không xảy ra kịch bản tiêu cực cho cuộc hội kiến Obama – Sang, nhưng không phải vì thế mà mọi điều khoản của TPP đều dễ dàng thuận thảo.
Nhận định gần đây của một quan chức châu Âu cho
biết khác nhiều với mong muốn của Hà Nội, TPP sẽ không kết thúc lộ trình
đàm phán nào vào tháng 10/2013, mà khả năng sớm nhất của hiệp định này
là được thông qua bởi Quốc hội Hoa Kỳ vào năm sau. Còn nếu mọi việc
thuận lợi, nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể tìm ra lối mở qua TPP sau hai
năm nữa, tức vào năm 2015.
Khoảng cách từ đây đến năm 2015 có lẽ lại là quá
lâu so với thế nôn nóng của những người đang muốn gỡ gạc nền kinh tế
khỏi khủng hoảng.
Mà cũng chưa biết chừng, nền kinh tế ấy hoàn toàn có thể bị hoại thư toàn phần chỉ sau hai năm nữa.
Nhưng vẫn còn một lối mở khác - ngắn hơn, cũng
là một lối tắt thu rút con đường hòa hợp và hòa giải quốc tế của giới
lãnh đạo Việt Nam. Không còn nhiều lựa chọn, đó phải là một hoặc những
biểu hiện của lòng thành tâm chính trị - điều đã được phương Tây ghi
nhận ở Myanmar, đối với Thein Sein.
Không có thành tâm chính trị, người ta sẽ không đạt được bất kỳ một mục tiêu và kịch bản tốt đẹp nào, dù cho cá nhân.
Bài phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả, nhà báo hiện sống ở TP HCM.
42. Trước giờ gặp nguyên thủ Việt - Mỹ
Nguyễn Hoàng
BBC tiếng Việt, gửi từ Washington
Cập nhật: 11:28 GMT - thứ ba, 23 tháng 7, 2013
Ít có chuyến công du của nào của
lãnh đạo nhà nước Việt Nam được bình luận từ trước như chuyến đi tới
Hoa Kỳ vào tuần này của Chủ tịch Trương Tấn Sang, đặc biệt đáng chú ý là
từ một số học giả và nhà quan sát nước ngoài.
Jonathan London, công dân Mỹ tự nhận mình là “người bạn thân của Việt Nam”, mới đây viết trên trang Bấm
blog của mình về điều mà ông gọi là “rõ ràng đây là cơ hội
lịch sử” mặc dù cho biết ông “không phải là chuyên gia về quan hệ song
phương”.
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Theo ông London, thực trạng kinh tế
“đặc biệt yếu kém” của Việt Nam, hồ sơ Biển Đông và hợp tác quân sự song
phương là những mảng để người đứng đầu nhà nước Việt Nam có thể tìm
kiếm sự hợp tác và hỗ trợ của Washington.
“Vấn đề cơ bản cho Ba Đình là muốn có những bước
đột phá trong hai lĩnh vực quan trọng này, phải có một số thay đổi thực
sự mà chưa chắc ĐCSVN có thể làm được”, ông London nhận định.
Vào chiều hôm thứ Ba 23/07 (giờ Washington),
chưa đầy hai ngày trước khi Chủ tịch Sang gặp Tổng thống Obama, một nhà
báo Mỹ đã đăng bài “Bấm
Mr. Sang Comes to Washington”.
Ông Greg Rushford, nhà báo chuyên về phóng sự
điều tra chính trị trong mậu dịch quốc tế, đánh giá liệu chính phủ Mỹ có
những đề xuất gì có lợi ích thực sự cho ông Sang để ông về “chào hàng”
cho Bộ Chính Trị khi trở về Hà Nội.
Bài báo này đưa ra điều mà ông Rushford gọi là
những khúc mắc, nếu không muốn nói là có thể làm bẽ mặt, chẳng hạn như
khả năng ông Sang phải giải thích cho người đồng nhiệm ông nghĩ rằng
Việt Nam có lợi ích gì khi xử tù nhiều nhà hoạt động mà “tội” của họ chỉ
là thực thi quyền tự do ngôn luận.
"Nhưng nếu cách ăn nói của ông Obama về nhân
quyền làm ông Sang cảm thấy bị xúc phạm, Chủ tịch Nhà nước Việt Nam có
thể nêu chủ để dioxin".
Tác giả nhận định vào thời điểm này cách “đi
dây” trong chính sách ngoại giao của Việt Nam [giữa Trung Quốc và Hoa
Kỳ] sẽ vẫn tiếp tục.
"Và bởi vì các chủ đề và những bất đồng chia rẽ
Việt Nam, Trung Quốc, và Hoa Kỳ là hết sức khó để giải quyết một cách
gọn gàng, tình hình sẽ vẫn còn tiếp tục rối ren hơn nữa", tác giả nhận
định.
Vấn đề của phía Mỹ là những gì họ muốn từ Việt
Nam trong hiệp định TPP không may sẽ chỉ mang lại thêm sự e ngại từ Hà
Nội, chẳng hạn như chủ đề quyền của người lao động, tức là Hoa Kỳ sẽ ép
Việt Nam theo một cơ chế mà chính phủ Mỹ đóng vai trò giám sát như
Washington đã từng làm với nhiều nước Mỹ Latinh, đó là một trong số các
chi tiết đáng chú ý trong bài viết này.
Trong cuộc phỏng vấn dành cho BBC, ông Rushford
nói trong đàm phán TPP, chính quyền Obama gây khó khăn cho Việt Nam tiếp
cận thêm thị trường hàng may mặc và giầy da của Hoa Kỳ bằng cách đặt
điều kiện theo đó để không bị đánh thuế cao khi xuất hàng vào Mỹ thì
doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải mua vải và sợi từ nhà cung cấp Mỹ.
Nhân quyền và vũ khí
Vào sáng hôm 23/07, một số dân biểu tiểu bang
California trong đó có một “người bạn” quen thuộc của Việt Nam về mảng
nhân quyền là bà Loretta Sanchez tổ chức họp báo tại Quốc hội.
Trước câu hỏi của BBC tại cuộc họp báo này rằng
bà nghĩ gì khi báo Quân đội Nhân dân có bài cảnh báo về điều báo này gọi
là thứ 'Bấm
nhân quyền ngoại nhập', nữ Dân Biểu Sanchez, người cũng là
thành viên cao cấp của Ủy Ban Quân Sự Hạ Viện, nói bà sẽ tiếp tục vận
động để Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, đào tạo và thao tập với quân đội
Việt Nam.
Thông cáo của các dân biểu trong đó có ông
Royce, Lofgren và Lowenthal biện luận rằng trong khi cuộc gặp của người
đứng đầu nhà nước Hoa Kỳ và Việt Nam sẽ tập trung vào mậu dịch, chủ đề
nhân quyền phải được coi là một ưu tiên trong quan hệ song phương hiện
đang tiếp tục có những thành công.
Nhân quyền, trong đó có quyền thành lập công
đoàn độc lập, không chỉ là chủ đề có trong các vòng đàm phán để Việt Nam
gia nhập TPP mà còn là rào cản đối với lệnh cấm bán vũ khí sát thương
cho Việt Nam."Sửa chữa vũ khí và quân dụng cũ cho Việt Nam cũng mang lại lợi ích lớn cho Hoa Kỳ nhưng quốc hội Mỹ đã cương quyết từ chối nhiều lần"
Bác sỹ Nguyễn Quốc Quân
“Sửa chữa vũ khí và quân dụng cũ cho Việt Nam
cũng mang lại lợi ích lớn cho Hoa Kỳ nhưng quốc hội Mỹ đã cương quyết từ
chối nhiều lần”, bác sỹ Nguyễn Quốc Quân, nhà vận động dân chủ tại
Virginia nói với BBC.
“Ở Mỹ nó không như Việt Nam, ông Obama không có quyền quyết định, quyết định tối hậu là quốc hội Mỹ”.
Trong khi đó giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học
George Mason nói với BBC rằng “thực ra hành pháp có quyền quyết định bán
vũ khí cho Việt Nam và không cần phải đi qua Quốc hội nhưng dĩ nhiên
hành pháp phải phụ thuộc Quốc hội về ngân sách và phải trả lời các câu
hỏi của Quốc hội”
“Việc mua vũ khí có tầm quan trọng chiến lược và ngoại giao rất lớn”, ông nói thêm.
43. 'Chưa đủ ủng hộ để bán vũ khí cho VN'
Cập nhật: 11:20 GMT - thứ ba, 23 tháng 7, 2013
Cựu Phó Trợ lý Ngoại
trưởng Hoa Kỳ Catharin Dalpino nói Mỹ vẫn sẽ chưa đồng ý bán vũ khí cho
Việt Nam trong chuyến đi của Chủ tịch Trương Tấn Sang vì không đủ ủng hộ
trong chính giới Mỹ.
Bà nói thêm Hiệp định thương mại tự do và đầu tư
đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và động thái của Trung Quốc trên
Biển Đông cũng là hai vấn đề quan trọng trong quan hệ.Bà cũng là tác giả của ba cuốn sách về chính sách của Hoa Kỳ ở Châu Á cũng như có bài đóng góp cho nhiều sách, báo khác nhau.
Trong chuyến thăm tới Nhà Trắng lần này, Chủ tịch Việt Nam dự định sẽ kêu gọi Mỹ chấm dứt lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Được hãng tin Mỹ AP hỏi qua email về lệnh cấm, ông Trương Tấn Sang nói “nay là lúc để bình thường hóa đầy đủ quan hệ song phương trong mọi lĩnh vực”.
Chủ tịch Việt Nam nói thêm với AP rằng có khác biệt giữa Washington và Hà Nội về nhân quyền, nhưng điều này “hoàn toàn bình thường”.
Trước chuyến đi của Chủ tịch Việt Nam sang Hoa Kỳ, bà Dalpino trả lời ba câu hỏi của BBC qua điện thư.
BBC: Bà có ngạc nhiên trước thời điểm ông Sang thăm Mỹ không khi mà chuyến đi có vẻ diễn ra gấp gáp?
Catharin Dalpino: Tôi không coi
khoảng cách ngắn giữa lúc tuyên bố được đưa ra và thời điểm chuyến thăm
diễn ra là quan trọng, cho dù khoảng cách hơi ngắn hơn bình thường chút
ít.
"Sau chuyến thăm của ông Sang, câu hỏi được đưa ra sẽ là: khi nào Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam."
Thông thường các chuyến thăm của các nguyên thủ
quốc gia được thảo luận trong vài tuần, thậm chí vài tháng trước khi
diễn ra nhưng thời điểm chính xác sẽ không được quyết định cho tới trước
khi đi một hay hai tuần.
Phối hợp lịch của hai nguyên thủ không phải là
điều dễ dàng. Trong trường hợp này, lên lịch cho chuyến thăm của ông
Sang vào tháng Bảy là tốt nhất. Tháng Tám là tháng nghỉ hè ở Washington.
Trong tháng Chín, các nhà lãnh đạo thế giới bay
tới New York dự phiên họp Đại hội Đồng Liên Hiệp Quốc và cũng có một vài
chuyến thăm chính thức nhưng mọi thứ luôn vội vã vì số lượng quá nhiều.
Tới tháng Mười Tổng thống Obama sẽ đi Bali dự hội nghị APEC và Thượng đỉnh Đông Á ở Brunei.
Như vậy cơ hội tiếp theo để tiếp Chủ tịch Sang sẽ là tháng 11.
Sau chuyến thăm của ông Sang, câu hỏi được đưa ra sẽ là: khi nào Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam.
Từ khi trở thành tổng thống ông vẫn chưa sang Việt Nam và sẽ chịu chút sức ép phải làm như vậy trong nhiệm kỳ thứ hai.
BBC: Vấn đề nhân quyền quan trọng tới
mức nào trong cuộc gặp ở Nhà Trắng? Hay là cuộc gặp sẽ tập trung vào
Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối tác xuyên Thái Bình Dương và
động thái của Trung Quốc trên Biển Đông?
Catharin Dalpino: Chính quyền Obama chắc chắn sẽ giữ vấn đề nhân quyền trong nghị trình cuộc gặp giữa Chủ tịch Sang và Tổng thống Obama.
Nhưng Hiệp định thương mại tự do và đầu tư đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và động thái của Trung Quốc trên Biển
Đông cũng là hai vấn đề quan trọng trong quan hệ. Tôi nghĩ bất cứ đề cập
nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng
lời lẽ cẩn trọng.
"...Tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng."
Chính quyền Obama đang chịu sức ép phải kết thúc
TPP (mặc dù vẫn có những phức tạp từ phía Hoa Kỳ chẳng hạn Tổng thống
vẫn chưa có Thẩm quyền Thúc đẩy Thương mại), nhưng thời hạn Hoa Kỳ tự
đặt ra vào tháng Mười là khá tham vọng.
Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là hai nước trong nhóm
lớn hơn các nước đang đàm phán TPP nên cuộc gặp sẽ không giải quyết được
hết mọi vấn đề nhưng sẽ là cơ hội để hai bên thảo luận các vấn đề song
phương trong khuôn khổ TPP.
Về vấn đề Biển Đông, tôi cho rằng đây sẽ là đề
tài được hai bên thảo luận. Nhưng ASEAN và Trung Quốc sẽ có cuộc gặp
không chính thức vào tháng Tám và cuộc gặp này sẽ bị ảnh hưởng nếu tuyên
bố chính thức từ cuộc gặp giữa ông Sang và ông Obama quá rõ ràng.
Bởi vậy tôi nghĩ bất cứ đề cập nào tới an ninh hàng hải trong tuyên bố chính thức sẽ được đưa ra bằng lời lẽ cẩn trọng.
BBC: Liệu hai bên có đạt được đột phá
nào về quốc phòng trong tương lai gần không? Chẳng hạn như một thỏa
thuận cụ thể về Cam Ranh hay bán vũ khí cho Việt Nam?
Catharin Dalpino: Dĩ nhiên quan
hệ an ninh giữa Hoa Kỳ và Việt Nam lớn hơn Vịnh Cam Ranh hay là bán vũ
khí và bao gồm cả những lĩnh vực như đào tạo cho lực lượng gìn giữ hòa
bình.
Mặc dù vậy, tôi không tin rằng Hoa Kỳ dự kiến
đạt thỏa thuận cụ thể về Vịnh Cam Ranh tương tự như các hiệp định gần
đây với Australia (để Thủy quân lục chiến có thể luân phiên tới Darwin)
hay với Singapore (để tàu chiến có thể luân phiên tới).
Việt Nam hiện vẫn mở Vịnh Cam Ranh cho hải quân
nước ngoài nói chung và sẽ cho phép sử dụng cảng để sửa chữa và tôi nghi
ngờ chuyện Lầu Năm Góc muốn nhiều hơn thế trong tương lai gần.
Vấn đề bán vũ khí sẽ liên quan tới cả Quốc hội và chính quyền và Quốc hội thường hay gắn bán vũ khí với nhân quyền.
Nhìn từ phía Hoa Kỳ, không có vẻ là đã có đủ ủng hộ cho việc bán vũ khí.
44.Nhận định về chuyến Hoa du và Mỹ du của ông Trương Tấn Sang
Posted by chuyenhoavietnam ⋅
Nhà văn Huỳnh Ngọc TuấnRFA – 2013-07-31
Nội tình ĐCSVN hiện nay
Đảng CSVN hiện nay đang lâm vào thế đấu đá tranh giành quyền lực giữa
ba nhóm thế lực: một của ông Nguyễn Tấn Dũng, một của ông Nguyễn phú
Trọng và một của ông Trương Tấn Sang.
Ba nhóm quyền lực này hình thành thế “chân vạc” trong đảng CSVN. Nhưng
cả ba nhóm quyền lực này đang lâm vào thế tranh giành để độc chiếm quyền
lực. Thay vì tạo sự ổn định, họ luôn luôn có xu hướng muốn thay đổi
thực trạng quyền lực. Đây là điều rất thường xảy ra ở các chế độ Cộng
sản, nhất là tại Trung cộng hậu Mao trạch Đông và Đặng tiểu Bình, hay ở
Việt Nam hiện nay. Vì trong số những lãnh đạo đảng CSVN, không có nhân
vật nào đủ uy tín độc tôn và sự hậu thuẫn của quốc tế Cộng sản cũng
không còn để xác lập một trật tự ổn định như trong thời của Hồ chí Minh
hay Lê Duẩn.
Nhưng phải xác định rõ là những cuộc đấu đá này mang tính tranh giành
quyền lực chứ không phải do bất đồng chính kiến. Cho nên dù mâu thuẫn
giữa các phe nhóm là rất sâu sắc nhưng họ vẫn thống nhất với nhau về
những nguyên tắc căn bản: Duy trì và bảo vệ chế độ “XHCN” với đảng Cộng
sản độc quyền lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên đa đảng và dân chủ hóa
Việt Nam.
Chính sự định hướng này quyết định chính sách đối nội và đối ngoại của
chế độ độc tài. Cho nên trong đường lối đối ngoại hay đối nội , nhất là
đối ngoại, sự chỉ đạo của Bộ chính trị và Trung ương đảng là kim chỉ nam
hành động của bất cứ nhân vật lãnh đạo nào.
Hoa du “kiên định” tình đồng chí
Chuyến công du của ông Trương Tấn Sang đến Trung quốc vừa qua cũng
chỉ là một sự tiếp tục của đường lối chung đã được Bộ chính trị và Ban
bí thư “nhất trí”. Cho nên chúng ta không lạ gì khi thấy trong Thông cáo
chung Trung–Việt có đến 29 lần “nhất trí”.
Theo thiển ý của tôi với chuyến đi Trung quốc vừa qua CSVN đã xác
định rõ vị trí và định hướng của mình trong quan hệ giữa hai siêu cường
Mỹ- Trung, đó là, coi mối quan hệ Trung- Việt là nền tảng, giống như
quan hệ Việt-Xô trước đây bất chấp một thực tế phũ phàng là Trung cộng
đang từng bước thôn tính Việt Nam trên mọi lãnh vực mà mục đích cuối
cùng là biến Việt Nam thành quận huyện của Tàu.
Còn đối với Trung cộng thì họ luôn dành cho đảng CSVN sự ủng hộ “mạnh
mẽ”, “kiên định” vì Trung cộng biết rằng không ai phục vụ quyền lợi cho
họ tốt hơn người đồng chí CSVN trong bối cảnh Mỹ đang xoay trục chiến
lược sang vùng châu Á – Thái Bình Dương.
Trung cộng không hài lòng khi thấy nội bộ đảng CSVN đang hục hặc với
nhau để tranh giành thế lực. Và theo thiển ý của tôi chắc chắn là trong
lần diện kiến chủ tịch nước Trung QuốcTập cận Bình vừa qua của ông
Trương Tấn Sang, Trung cộng có nêu lên sự lo lắng này vì họ muốn nội
tình của đảng CSVN ổn định để không phương hại đến chiến lược của Trung
Quốc tại biển Đông và khu vực.
Còn đối với nhân dân và đất nước Việt Nam thì những hậu quả tai hại
của chuyến công du sang Trung quốc này của ông Trương Tấn Sang khó lòng
lường hết được, e rằng nó sẽ như chiếc vòng kim cô trên đầu CSVN và như
những sợi dây trói chặt thân thể Việt Nam.
Mỹ du để “đối trọng”: Vì dân, vì nước hay vì đảng?
Câu hỏi đặt ra ở đây là ông Trương Tấn Sang Mỹ du để làm gì?
CSVN đủ khôn ngoan để biết rằng nếu chỉ “thân thiện” với Trung quốc
mà không tỏ ra “biết điều” với Hoa kỳ sẽ là một sai lầm chiến lược, cho
nên Bộ chính trị đảng CSVN quyết định vội vàng cho ông Trương Tấn Sang
gấp rút công du Hoa Kỳ để “tái cân bằng” quan hệ quá thiên lệch mang
nặng màu sắc chiến tranh Lạnh.
Bộ chính trị cử ông Trương Tấn Sang đi Mỹ để làm yên lòng đối tác Mỹ
rằng: Việt Nam vẫn giữ thế “trung lập” giữa hai siêu cường. CSVN không
muốn làm Mỹ thất vọng và “nổi giận”.
Nhưng định hướng ngoai giao của đảng CSVN rất rõ ràng:
- Với Trung cộng là “đồng chí”, “anh em”, là hợp tác đối tác chiến lược toàn diện trên tinh thần “16 chữ vàng” và “4 tốt”.
- Còn với Mỹ chỉ là đối tác kinh tế vì VN muốn “làm bạn với tất cả các nước” trong “quan hệ đa phương” mà thôi.
Hiện nay Hoa kỳ là thị trường lớn và đầy hứa hẹn để cân bằng cán cân
thương mại bị thâm thủng nặng của Việt Nam. Trong tương lai việc gia
nhập Hiệp ước Đối tác xuyên Thái bình dương TPP do Mỹ chủ xướng sẽ là
cứu tinh cho nền kinh tế Việt Nam đang hụt hơi.
Với áp lực của một nền kinh tế đang xuống dốc dẫn đến nguy cơ bất ổn
xã hội là một thực tế, nên CSVN rất cần Mỹ. Nhưng sẽ không có chuyện hợp
tác với Hoa Kỳ để ngăn chận sự hoành hành của Trung cộng tại biển Đông
vì biển Đông và chủ quyền của đất nước không bao giờ là quan trọng đối
với đảng CSVN. Hơn nữa, Việt cộng ngầm hiểu rằng Biển Đông là “quyền lợi
cốt lõi” của Trung cộng nên không dám đụng đến hồ sơ “tế nhị” này.
CSVN luôn ý thức rằng Trung cộng còn –Việt cộng còn, Trung cộng mất –
Việt cộng mất, cho nên họ sẽ không có bất cứ một “hợp tác” nào với Mỹ
nếu nó đe dọa đến quyền lợi và mục tiêu chiến lược của Trung Quốc.
Người Mỹ không nên kỳ vọng điều này ở CSVN, nếu nước Mỹ muốn bảo vệ
lợi ích chiến lược của mình thì cách duy nhất là giúp thúc đẩy tiến
trình dân chủ hóa Việt Nam và khu vực để Việt Nam có cùng một giá trị
với Hoa Kỳ trong mục tiêu bảo vệ hòa bình và sự thịnh vượng của nhân
loại trong thế kỷ 21 này.
Hậu ý thâm độc của Việt cộng: Duy trì chế độ
Chuyến Mỹ du vừa rồi của ông Trương Tấn Sang còn nhắm đến một mục
tiêu chính trị nữa, đó là nhân chuyến thăm này những người lãnh đạo Việt
Nam mong muốn Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam để lòe với dân chúng
và ngầm gởi một thông điệp đến những người đấu tranh cho Dân chủ và Nhân
quyền tại VN cũng như cộng đồng người Việt quốc gia khắp thế giới là họ
(VC) mới là đối tác của Mỹ!!
Hồ sơ khó khăn nhất mà những người cộng sản phải giải quyết trong
thời gian tới đó là hồ sơ vi phạm Nhân quyền tại VN mà người Mỹ đã đặt
ra như một điều kiện để được Mỹ chấp nhận nâng tầm quan hệ ngoại giao và
mở đường cho CSVN gia nhập TPP mà không bị sự phủ quyết của quốc hội
Mỹ.
Chúng ta phải chờ xem nhưng theo tôi lúc này người Mỹ đã ít nhiều mất
kiên nhẫn vì thái độ “nước đôi” của CSVN và sự quyết đoán của Trung
cộng mỗi ngày một dữ dội hơn trên nhiều khu vực nhất là tại châu Á- Thái
Bình Dương.
Xin được nhắc lại, trước chuyến Mỹ du của ông Trương Tấn Sang, tướng
Đỗ bá Tỵ – Tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân VN cũng đã đến thăm
Ngũ giác đài. Tất cả những hành động này chỉ nhằm mục đích tuyên truyền
không hơn không kém nên sẽ chẳng mang lại sự “đột phá” nào như mong đợi
của một số người.
Chúng ta nên nhớ rằng người dân Việt Nam vốn thực dụng và hiểu rõ sức
mạnh của người Mỹ, họ luôn coi mối quan hệ với Mỹ là một “bảo đảm” cho
sự thành công và vững chắc của một chế độ. Những người lành đạo cộng sản
luôn biết khai thác tâm lý này.
Cuối cùng, theo tôi, chuyến Mỹ du của Trương Tấn Sang vừa qua chẳng
mang lại kết quả gì to lớn cho cả hai phía Mỹ- Việt và điều gì tốt đẹp
cho đất nước Việt Nam, nó chỉ phục vụ ý đồ tuyên truyền của CSVN thôi.
Vì vậy quan hệ Mỹ- Việt cũng không thể tiến xa hơn được trong thời gian
tới và như vậy CSVN vẫn tiếp tục lộ trình trong quỹ đạo của Trung Hoa.Xin dẫn lời của nhà bình luận thời cuộc Elle Bork của US News để kết thúc bài này:
- “Lời mời ông Sang viếng thăm Hoa Kỳ là một quyết định thiếu khôn
ngoan nếu xem xét những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Vì cuộc gặp sẽ được
diễn ra nên việc yêu cầu Tổng thống Obama chia sẻ công khai và rõ ràng
với Chủ tịch Sang về vai trò của dân chủ trong chính sách châu Á của Hoa
Kỳ là vô cùng cấp bách. Và sau đó Tổng thống Obama nên hành động cụ thể
như những gì ông đã nói”.
- “Thực tế là dân chủ cuối cùng sẽ giúp cho ‘trục châu Á’ thành công,
chứ không phải các cuộc trao đổi ‘thực tế’ với một quốc gia như Việt
Nam”.
Nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn ởQuảng Nam. Thường có nhiều bài viết tranh
đấu cho tự do, dân chủ tại Việt Nam. Ông từng bị cầm tù suốt từ năm
1992 tới năm 2002 vì gửi một số bài viết ra nước ngoài.
*****
Nguồn:
45. Ông Sang xây một, Nguyễn Thanh Sơn phá mười
Phạm Trần (Danlambao) - Chủ
tịch Nước Cộng sản Việt Nam Trương Tấn Sang và Thứ trưởng Ngoại giao,
Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài Nguyễn Thanh
Sơn đã không biết đánh giá chính xác về sức mạnh chính trị của người Mỹ
gốc Việt ở Hoa Kỳ để đưa ra những lời nói gây bất bình, đãi môi, xúc
phạm, gây chia rẽ và đẩy hận thù dân tộc lên một tầm cao mới.
Trước hết, hãy nói về ông Trương Tấn Sang, trong chuyến thăm Hoa Kỳ từ ngày 24 đến 26/07 (2013).
Ông Sang được Đài Tiếng nói Việt Nam tường thuật phát biểu tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế (Center for Strategic and International Studies, CSIS) chiều ngày 25/7:
“Đối với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng chắc chắn rằng, bà con Việt kiều sẽ là chiếc cầu vững chắc để thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa 2 nước, nhất là trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Theo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người Mỹ gốc Việt đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đưa quan hệ 2 nước lên một bước phát triển mới.”
“Đối với cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ, Chủ tịch nước bày tỏ tin tưởng chắc chắn rằng, bà con Việt kiều sẽ là chiếc cầu vững chắc để thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa 2 nước, nhất là trong khuôn khổ đối tác toàn diện. Theo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người Mỹ gốc Việt đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình đưa quan hệ 2 nước lên một bước phát triển mới.”
Phát biểu của ông Sang trùng hợp với tuyên bố của Tổng thống Barack
Obama vài giờ trước đó tại Tòa Bạch Ốc khi ông Obama tiếp ông Sang. Nhà
lãnh đạo nước Mỹ nói với báo chí sau khi họp riêng với Phái đòan Việt
Nam:
“Finally, we agreed that one of the great sources of strength between our two countries is the Vietnamese American population that is here but obviously has continued strong ties to Vietnam. And ultimately, it's those people-to-people relations that are the glue that can strengthen the relationship between any two countries.”
“Finally, we agreed that one of the great sources of strength between our two countries is the Vietnamese American population that is here but obviously has continued strong ties to Vietnam. And ultimately, it's those people-to-people relations that are the glue that can strengthen the relationship between any two countries.”
(Tạm dịch: “Cuối cùng thì chúng tôi cũng đồng ý với
nhau rằng một trong những yếu tố quan trọng trong quan hệ tốt đẹp giữa
hai quốc gia là Cộng đồng người Mỹ gốc Việt tuy ở Hoa Kỳ nhưng vẫn có
mối quan hệ mật thiết với quê hương mẹ Việt Nam. Và kết qủa là mối giao
hảo giữa con người với con người là chất keo sơn gắn bó làm tăng sức
mạnh giao hảo giữa bất kỳ hai nước nào.”)
Và cũng tại cuộc họp này, ông Sang đã nói với Tổng thống Obama, qua lời của người phiên dịch:
“I also expressed my appreciation for the care that the U.S. has extended to the Vietnamese who came to settle in the United States and now they have become American citizens and contributing to the overall development of the U.S. And thanks to the support and assistance from the U.S. government as well as the American people, the Vietnamese-American community here in the U.S. has become more and more prosperous and successful in their life as well as work.
“I also expressed my appreciation for the care that the U.S. has extended to the Vietnamese who came to settle in the United States and now they have become American citizens and contributing to the overall development of the U.S. And thanks to the support and assistance from the U.S. government as well as the American people, the Vietnamese-American community here in the U.S. has become more and more prosperous and successful in their life as well as work.
And I also would like to take this opportunity to convey a message
from our government to the Vietnamese-American community here in the
U.S. that we would like to see you contributing more and more to the
friendship between our two countries as well as further development of
our relationship in the future.”
(Tạm dịch: “Tôi cũng bày tỏ lời biết ơn về sự cưu mang
của Hoa Kỳ đã dành cho người Việt Nam định cư tại đây, và bây giờ họ đã
là công dân Hoa Kỳ và đang đóng góp vào sự phát triển toàn diện của Hiệp
Chủng Quốc. Tôi cũng cảm ơn vì nhờ có sự giúp đỡ của Chính phủ và nhân
dân Hoa Kỳ mà Cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở đây đã giàu mạnh và thành
công trong đời sống cũng như trong việc làm của họ.
Tôi cũng nhân cơ hội này gửi một lời kêu gọi của Nhà nước ta đến Cộng
đồng người Mỹ gốc Việt rằng chúng tôi mong đồng bào hãy đóng góp nhiều
hơn cho mối giao hải giữa hai nước, đồng thời phát triển cao hơn mối
quan hệ trong tương lai.”
Tuyên bố của Tổng thống Obama mang nhiều ý nghĩa ngoại giao, nhưng cũng
có nghĩa nói về vai trò của người Mỹ gốc Việt phải được quan tâm trong
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
Lời nói của ông Sang thì khác. Nó đã phản ảnh quan điểm “tự nhận về phần
mình” có trách nhiệm bảo vệ người Việt Nam ở nước ngoài nói chung và
người Mỹ gốc Việt nói riêng của đảng và nhà nước CSVN.
Nhà cầm quyền CSVN luôn luôn cho rằng “cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”,
nhưng họ lại quên “liên hệ máu thịt giữa đồng bào” với nhau khác với
“liên hệ giữa “một bộ phận” người Việt Nam ở nước ngoài với nhà nước và
đảng CSVN.”
Một bộ phận nhỏ trong tổng số lối 4 triệu người Việt sống ở bên ngoài
Việt Nam, có chăng chỉ đại diện cho thành phần lao động được nhà nước
Việt Nam gửi đi làm việc ở nước ngoài để giải quyết nạn thất nghiệp ở
trong nước và số công nhân Việt Nam, đa phần từ miền Bắc, được gửi đi
lao động ở các nước Cộng sản trong khối Liên Xô và Cộng sản Đông Âu cũ
đã ở lại sau khi Chủ nghĩa Cộng sản tan rã ở các nước này từ 1989 đến
1991.
Vì vậy, nếu có thể thay mặt cảm ơn Chính phủ và nhân dân Mỹ thì ông Sang
chỉ có thể nói thay cho những ai đã nhận được sự giúp đỡ của Chính phủ
và đảng CSVN. Còn đối với tuyệt đại đa số người Mỹ gốc Việt từ thế hệ
phải bỏ nước chạy trốn Cộng sản tìm tự do trên thế giới và tại Hoa Kỳ
trước và sau ngày tàn cuộc chiến 30 tháng 04 năm 1975 thì “sự lạm dụng
đại diện” của ông Sang nói trước mặt ông Obama tại Tòa Bạch Ốc là không
thành thật, nếu không phải hoàn toàn bất xứng, không chấp nhận được vì
ông Sang không có quyền làm như thế.
Hơn nữa khi ông Trương Tấn Sang nói những điều này với ông Obama và sau
đó, với hàm ý ngoại giao tại CSIS, thì cũng đã có gần 2,000 người Mỹ,
Canada và Úc gốc Việt biểu tình chống chính sách cai trị độc tài của
đảng CSVN và đòi quyền con người và các quyền tự do tự do khác, trong đó
có tự do tôn giáo và tự do ngôn luận phải được tôn trọng ở Việt Nam.
Tất nhiên là ông Sang không thể nhân danh những người này để cảm ơn ông
Obama vì họ chống Chính phủ của ông bằng những khẩu hiệu và tiếng hát
vang chống Cộng vào tận bên trong Tòa nhà Bạch Ốc.
Nguyễn Thanh Sơn hại ông Sang
Nhưng nếu những gì ông Sang đã làm cho người Mỹ gốc Việt mất cảm tình
trong chuyến đi Mỹ chỉ tác hại một thì những lới nói xúc phạm có chủ ý
mạ lỵ những người gốc Việt biểu tình trước Tòa Bạch Ốc hôm 25 tháng 07
(2013) của Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ nhiệm Ủy ban người Việt Nam ở nước
ngoài Nguyễn Thanh Sơn còn gây bất lợi cho chính sách hòa giải, hòa hợp
dân tộc gấp ngàn lần hơn !
Hãy nghe ông Sơn nói những lời “chói tai” như thế này:
“Tôi thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số qúy vị, các bác, các anh các chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc... Tôi nghĩ rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tức là các qúy vị, các bác, các anh các chị còn cố tình giữ trong lòng mình một cái “chút hận thù cuối cùng...”
“Tôi thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số qúy vị, các bác, các anh các chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc... Tôi nghĩ rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch nước Trương Tấn Sang, tức là các qúy vị, các bác, các anh các chị còn cố tình giữ trong lòng mình một cái “chút hận thù cuối cùng...”
“... Quý vị không có lý gì các vị “đứng ở ngang giữa đường các vị ngăn cản cái quan hệ Mỹ-Việt”. Điều đó chỉ làm cho các quý vị thêm khổ tâm, thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thân những người bạn Mỹ của chúng ta lại trách qúy vị là “cản cái con đường hội nhập của Việt Nam và cản cái quá trình quan hệ Mỹ-Việt” mà họ đang mong muốn...
“... Thì tôi cho là các bác, các anh chị - “những người đang còn
có những tư tưởng như vậy hãy hết sức tĩnh tâm suy nghĩ lại để chúng ta
xóa bỏ tất cả những cái hận thù... còn có những cái suy nghĩ cực đoan
chống lại đất nước hoặc là có một cái suy nghĩ lệch lạc thì đó thực sự
nó chỉ là ảo tưởng... hãy gác lại những cái tư thù cá nhân, hãy gác lại những cái suy nghĩ cá nhân...”
“Tôi cho rằng là những cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở
bên ngoài đối với chủ tịch nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng.
Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có
những người chì vì đồng tiền, có những người chì vì nhu cầu cuộc sống,
có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động
đó, chứ trong lòng tôi nghĩ qúy vị cũng không có những suy nghĩ muốn
phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.” (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV).
Đọc những dòng chữ có “gạch dưới” để tạo chú ý đến tư duy và ý nghĩ chủ
quan một chiều, cực đoan và hậu ý xấu của ông Nguyễn Thanh Sơn, hẳn sẽ
thấy nổi lên không thiếu những hàm ý chỉ gây chia rẽ hận thù thêm giữa
đảng CSVN và người Mỹ gốc Việt ở Mỹ.
Nhưng đây cũng là lần đầu tiên một viên chức cao cấp Bộ Ngoại giao của
Nhà nước CSVN như ông Sơn đã công khai nói đến một cuộc biểu tình chống
lãnh đạo Việt Nam khi đến Mỹ, một điều đã cố tình che dấu trong nhiều
năm kể từ khi có cuộc thăm Hoa Kỳ của Thủ tướng Phan Văn Khải từ 19 đến
26/6/2005.
Thay vì khôn khéo lựa lời để nói thì ông Sơn đã vụng về và mất bình tĩnh
để cố tình đi ra ngoài khuôn khổ của ngành ngoại giao để “đổ dầu vào
lửa” đốt cho cháy hết những gì còn sót lại trên chặng đường "hòa giải,
hòa hợp dân tộc" giữa nhà nước cộng sản Việt Nam với người Mỹ gốc Việt.
Vì vậy ông Sơn đã đưa mối hận thù Cộng Sản của những người phải bỏ nước
ra đi sống ở xứ người lên tầm cao mới. Chẳng những thế, ông còn nhắc
người Việt Nam ở nước ngoài rằng:
“Hãy nhìn vào những người đi trước, hãy nhìn vào những người cụ thể. Tôi nói ngay kể cả Nghị viên Hoàng Duy Hùng ở Houston cũng là một con người có thể nói là chống Cộng rất quyết liệt, có thể nói là một con người đã có thành tích truyền thống trong vấn đề mong muốn phá hoại cái sự đi lên của đất nước. Nhưng đến bây giờ ông Hoàng Duy Hùng cũng đã thấy rằng thì là cái biện pháp đó, cái cách thức đó nó hoàn toàn là không phù hợp với cái truyền thống của ông cha ta và nó cũng không đúng với lại cái mong muốn của nhân dân cả nước cũng như là của bà con cô bác chúng ta.”
“Hãy nhìn vào những người đi trước, hãy nhìn vào những người cụ thể. Tôi nói ngay kể cả Nghị viên Hoàng Duy Hùng ở Houston cũng là một con người có thể nói là chống Cộng rất quyết liệt, có thể nói là một con người đã có thành tích truyền thống trong vấn đề mong muốn phá hoại cái sự đi lên của đất nước. Nhưng đến bây giờ ông Hoàng Duy Hùng cũng đã thấy rằng thì là cái biện pháp đó, cái cách thức đó nó hoàn toàn là không phù hợp với cái truyền thống của ông cha ta và nó cũng không đúng với lại cái mong muốn của nhân dân cả nước cũng như là của bà con cô bác chúng ta.”
Nhưng có ai sáng giá mà đã ngậm đắng nuốt cay cho đến cuối đời bằng
“những người đi trước” như hai ông nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng
Hòa Nguyễn Cao Kỳ (08 tháng 09 năm 1930 - 23 tháng 7 năm 2011) về Việt
Nam nuôi hy vọng “bắc nhịp cầu hòa giải” giữa người Việt tị nạn ở nước
ngoài với người Cộng Sản và Nhạc sỹ Phạm Duy (05 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 01 năm 2013), về Việt Nam năm 2005, cũng với hoài bão mở đường “hòa giải dân tộc”?
Cả hai ông trước khi ra đi cũng đều “tay trắng” trong “sự nghiệp hòa giải, đoàn kết và hòa hợp dân tộc” với người Cộng sản.
Ông Kỳ từng có ý nguyện khi chết được chôn xác tại Sơn Tây, nơi ông sinh
ra nhưng gia đình ông đã quyết định hỏa thiêu ngay nơi ông qua đời,
Kular Lumpur (Mã Lai Á), rồi đem tro cốt về một ngôi Chùa ở California.
Nhạc sỹ Phạm Duy, cây Cổ thụ của lịch sử Tân Nhạc Việt Nam, khi qua đời
tại Sài Gòn, đã không có đến một vòng hoa thăm viếng của Hội Nhạc sỹ
Thành phố, nói chi đến có người nhà nước đến thăm!
Đám tang ông, một nhạc sỹ tài ba nhất Việt Nam, tẻ lạnh đến não lòng chỉ
vì người Cộng sản vẫn còn nuôi thù Phạm Duy đã bỏ hàng ngũ kháng chiến
năm xưa, hay chỉ vì ganh ghét mà ra nông nỗi vậy?
Nếu như hai ông Nguyễn Cao Kỳ và Phạm Duy không trở về Việt Nam, một
thời gian dài đã bị lợi dụng để cho nhà nước tuyên truyền, và không có
những lời nói làm phật lòng nhiều người chạy trốn Cộng Sản thì đám ma
các ông chắc phải linh đình ở Hoa Kỳ và được nhiều người thương tiếc và
ghi ơn cho những đóng góp cho đất nước và âm nhạc.
Rất tiếc hai ông đã không làm như thế và chắc gì giờ này, những người
từng vồn vã đón hai ông hồi hương về Việt Nam như ông Phạm Thế Duyệt, Ủy
viên Bộ Chính trị và Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam còn nhớ đến cái
ngày “quay về” lịch sử ấy, nói chi đến hàng Thứ trưởng Nguyễn Thanh
Sơn?
Nhưng khi ông Sơn xỏ xiên người đi biểu tình chống Chủ tịch Nhà nước
Trương Tấn Sang ngày 25/07 (2013) trước Tòa Bạch Ốc “chỉ vì đồng tiền”
thì cũng chính cái ông Sơn này đã muối mặt khi nói với báo Thanh Kiên
trong cuộc phỏng vấn ngày 30/4/2013: “Năm 2012, lượng kiều hối gửi về
VN qua con đường chính thức đạt khoảng 10,5 tỉ USD, qua đường không
chính thức ước khoảng 1/3 số đó nữa, rồi hơn 6 tỉ USD đầu tư vào các dự
án trong nước… Như vậy ước tính nguồn lực kiều bào đạt tới 20 tỉ
USD/năm, tương đương 1/5 GDP cả nước, bằng cả hợp tác thương mại của ta
với EU.”
Như vậy thì “Việt kiều” giàu cũng cần đi biểu tình để kiếm tí tiền còm hay ông Nguyễn Thanh Sơn đã nhìn gà ra cáo đến mất khôn?
(07/013)
Phạm Trần
dannlambaovn.blogspot.com
46. Toàn diện về cái gì?
Jonathan London
Vài ngày sau khi Việt Nam và Mỹ đã kết thúc cuộc gặp lịch sử tại
Washington, và sau một vài ngày cho phép sự kiện này ‘bơi’ trong đầu của
tôi, xin chia sẻ vài suy nghĩ về sự quan trọng của cuộc gặp gỡ này đối
với nền kinh tế chính trị của Việt Nam, với dân Việt Nam, và với tương
lai của quan hệ giữa hai nước (không chỉ là hai nhà nước) trong bối cảnh
lịch sử thế giới.
Đối với nền chính trị kinh tế của Việt Nam, muốn đánh giá sự quan
trọng của cuộc gặp trước hết phải hỏi quan trọng đối với cái gì?
Theo một quan điểm ban đầu, cuộc gặp gỡ này là một thành công đối với
nhà nước Việt Nam vì hình như nó sẽ mang lại nhiều tiến bộ nhất định
trong quan hệ song phương giữa hai bên, đặc biệt về một số lãnh vực quan
trọng như hợp tác kinh tế, giáo dục, quân sự, môi trường, v.v… Tôi chưa
biết chi tiết gì về kết quả cụ thể của cuộc gặp gỡ này. Thế nhưng, nếu
nó tạo ra nhiều cơ hội tốt cho Việt Nam về thương mại, giáo dục, quân
sự, thì tất nhiên là tốt.
Bốn tốt
Riêng đối với giới lãnh đạo Việt Nam và cụ thể là ĐCSVN, tôi cho cuộc
gặp này là ‘thành công’ trong một số khía cạnh khác nhau. Có bốn lý do
chủ yếu khiến tôi nghĩ như vậy – và nếu thích chơi chữ về lịch sử ta có
thể gọi là “bốn tốt”.
Một là về quốc tế: Việt Nam đã gửi thông điệp khá rõ tới Mỹ (và Bắc
Kinh) về ý định muốn hợp tác một cách “toàn diện” với Mỹ (tức là chính
phủ Obama nói riêng và nhà nước và cả nước Mỹ nói chung). Đây là một
bước đi tốt cho một đảng mà nhiều năm qua đã vấp phải chân của chính
mình trong quan hệ song phương.
Hai là cuộc gặp này rất có thể sẽ mang lại nhiều lợi ích thực sự cho
nền kinh tế Việt Nam và qua đó sẽ tạo ra những cơ hội quan trọng cho nhà
nước Việt Nam nói chung và ĐCSVN nói riêng, để giúp họ đối phó với một
số thách thức lớn của đất nước, như thiếu vốn, công nghệ, ngành giáo dục
Đại Học quá yếu., v.v.
Ba là cuộc gặp gỡ này rất có thể sẽ giảm vai vế của những thế lực bảo
thủ trong đảng vốn không muốn Việt Nam cải cách. Là người Mỹ, tôi cũng
đồng ý Việt Nam nên thận trọng trong mối quan hệ với Mỹ. Thế nhưng, có
quan hệ tốt với Mỹ là cần thiết cho Việt Nam.
Cái tốt thứ tư của cuộc gặp này là nó là một cơ hội tốt cho lãnh đạo
Việt Nam để họ nghe trực tiếp những lý luận của TT Obama về sự quan
trọng của nhân quyền trong việc phát triển quan hệ với Mỹ. Dù nhiều
người trong đội ngũ lãnh đạo của Việt Nam có thể phủ nhận điều đó, việc
lãnh đạo Việt Nam bắt buộc phải suy nghĩ lại về hành vi trấn áp các nhân
vật chống đối là một điều tốt cho toàn dân Việt Nam. (Việc chính phủ Mỹ
có vấn đề với nhân quyền không phải là cớ để tiếp tục vi phạm nhân
quyên tại Việt Nam. Không như ở Việt Nam, chính quyên và đảng cầm quyền ở
Mỹ bắt buộc phải tôn trọng hiến pháp.)
Chẳng giải quyết gì
Thế nhưng, dù có bốn tốt, vấn đề là gặp gỡ này chẳng giải quyết gì
đối với những vấn đề cơ bản của ĐCSVN. Cuộc gặp gỡ này không trực tiếp
ảnh hưởng đến những căng thẳng, mâu thuẫn, và điểm yếu trong nội bộ của
nền chính trị Việt Nam và cụ thể là trong ĐCSVN.
Một vấn đề cơ bản của Đảng xuất phát từ hai cái. Mô hình này không
hữu hiệu. Không cho phép có một chế độ minh bạch, tránh né trách nhiệm
giải trình cao đối với dân, và không cho phép phát triển của một chế độ
thực sự pháp trị. Theo tôi, muốn Việt Nam thể hiện tiềm năng của đất
nước, ĐCSVN phải cải cách các thể chế chính trị kinh tế một cách sâu
rộng. Và theo tôi, bất kỳ ai yêu nước, dù trong hay ngoài Đảng, nên nỗ
lực để nhận định đâu là mục tiêu hệ trọng của Việt Nam.
Và dân thường?
Đối với dân thường Việt Nam, sự quan trọng của cuộc gặp khó được đánh
giá hơn vì phần lớn hậu quả của nó là gián tiếp. Vấn đề là những kết
quả của cuộc gặp chỉ sẽ hiện rõ sau một thời gian. Nhiều khi những lợi
ích mà các giai cấp bên trên được hưởng sẽ không rỉ xuống các giai cấp
bên dưới (the ‘trickle down effect’ mà người Mỹ đã quá biết!). Nếu quá
trình ‘hợp tác toàn diện’ làm cho Việt Nam an khang thịnh vượng hơn thì
tốt.
Thông thường, kết quả của những mối quan hệ giữa Việt Nam và kinh tế
thế giới đều bị các cơ chế trong nước chi phối. Như vậy, nói cho cùng,
quan hệ Việt-Mỹ có cải thiện được gì hay không phụ thuộc nhiều vào việc
Việt Nam có cải cách hay không và như thế nào. Những thành công và thất
bại trong xã hội Việt Nam trong thời gian tới – Việt Nam có tăng trưởng
nhanh hay không, xã hội có công bằng ở mức độ nào – sẽ được quyết định
bởi những diễn biến chính trị trong và ngoài ĐCSVN.
Về tương lai
Nhà nước nào cũng là sản phẩm của những quá trình cạnh tranh xã hội
giữa các thế lực chính trị xã hội trong nước. Cả hai nhà nước Viêt Nam
và Mỹ đều là tổ chức quan liêu. Cả hải phản ánh những giá trị của những
giai cấp xã hội đã và đang cạnh tranh quyền lực với nhau. Ở Việt Nam, đó
là những phe cánh trong ĐCSVN. Ở Mỹ đó là những tập đoàn tư sản lớn. Ở
dưới là dân thường của cả hai nước.
Con người là con người chứ, không chỉ đơn thuần là đối tượng của
những tổ chức quan liêu. (People are human beings, not merely subjects.)
Hai nước Việt Nam – Mỹ đều có nhiều vấn đề phức tạp. Ở cả hai nước,
trách nhiệm của mỗi công dân là đòi hỏi các đảng phái cầm quyền và nhà
nước phải nghiêm túc thực hiện trách nhiệm giải trình về các chính sách
của họ, phải tôn trọng nhân quyền.
Nếu “quan hệ toàn diện” với Mỹ giúp người dân Việt Nam về mực sống và
cũng có tiến bộ cả về quyền chính trị lẫn nhân quyền thì mới là thành
công toàn diện cho Việt Nam.
QUÊ CHOA47. Quà ngoại giao
2013-07-24
|
Cánh Cò, viết từ Việt Nam
Câu chuyện đã cũ nhưng khi ông
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bước lên phi cơ sang Mỹ vào ngày hôm nay,
22 tháng 7 thì người ta chợt nhớ lại chuyến đi của ông sang Bắc Kinh
cách nay một tháng.Chiều 19/6 sau cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, nguyên thủ hai nước đã chứng kiến lễ ký kết 10 văn kiện hợp tác. Có bốn khoản trong 10 văn kiện hợp tác này đáng chú ý vì khi đọc kỹ thì cán cân nghiêng hẳn về phía Trung Quốc.
Bảng thông báo đã dùng ngôn từ ngoại giao để che đậy sự yếu ớt của Việt Nam trong đó khoản thứ nhất đã khỏa lấp tất cả khi viết: "Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc".
Sự "hợp tác chiến lược toàn diện" phải được hiểu dưới hàm ý giữa "hai đảng" chứ không phải hai nước, hai chính phủ. Chỉ có Đảng cộng sản của hai nước mới có thể có cái nhìn chung về mục tiêu và chính sách vì sự khác biệt sâu xa giữa hai chính phủ không thể hợp tác toàn diện khi Bắc Kinh luôn mang "hải giám" ra để làm tê liệt ý chí Việt Nam qua mũi thuốc gây mê "cộng sản".
Chấp nhận ký vào chương trình này Việt Nam đã chấp nhận đi chung chuyến xe với Trung Quốc mà tài xế thuộc về người đàn anh mạnh bạo và hung dữ.
Động thái ngoại giao dưới kèo này chỉ có thể giải thích: 10 văn kiện hợp tác này có bốn món quà của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đại diện cho toàn thể Bộ chính trị trao cho Trung Quốc nhằm bảo đảm trung thành, chấp nhận hợp tác không tranh cãi để giữ mối giao tình giữa hai đảng đã từng chung vai đấu cật nhiều chục năm qua.
Chung vai đấu cật vì sự nghiệp cao cả chung của hai đảng nên những cái chết chưa từng giải oan và những cái chết khác trên Biển Đông sắp tới nếu có, chỉ là những hiểu lầm cần được che đậy bằng đồng nhân dân tệ trong các dự án do chính Trung Quốc làm chủ hay thi công.
Điều này được xác định ở các khoản Trung Quốc sẽ hỗ trợ tài chánh. Cái cách mà Việt Nam thường làm mỗi khi muốn phân bua một nhượng bộ nào khó giải thích với quần chúng.
Món quà "Thỏa thuận hợp tác biên phòng giữa hai Bộ Quốc phòng" một lần nữa có hàm ý mê muội hóa người dân "hãy vững tin vào sự hợp tác" mặc dù bài học Biển Đông đang sờ sờ trước mắt và việc cố xóa dấu vết lịch sử trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 của nhà nước Việt Nam vẫn đang gây bức xúc trong xã hội.
"Thỏa thuận giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Bộ Nông nghiệp Trung Quốc về việc thiết lập đường dây nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển" cũng không ngoài ý đồ cấy ghép niềm tin "ăn liền" cho người ngư dân để họ tiếp tục làm con thiêu thân cho chế độ.
Đường giây đỏ ấy chỉ có trên giấy và không bao giờ xuất hiện. Màu đỏ của máu không tô trên đường giây nóng mà chảy lai láng trên Biển Đông ngay sau khi 10 điều được ký kết.
Ngày 6 tháng Bảy, nửa tháng sau khi ông Sang từ Bắc Kinh quay về Hà Nội, 2 tàu cá với thủy thủ đoàn gần 30 người do ông Võ Minh Vương và Mai Văn Cường ở Lý Sơn, Quảng Ngãi làm thuyền trưởng cùng bị “tàu lạ” có võ trang hung hãn đập phá, cướp bóc.
Ông Sang đã bị đàn anh xỏ lá bỉ mặt trước người dân của mình.
Món quà cuối cùng: "Thỏa thuận sửa đổi lần thứ 4" giữa Tập đoàn dầu khí Quốc gia Việt Nam và Tổng công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc liên quan tới Thỏa thuận thăm dò chung trong khu vực thỏa thuận ngoài khơi trong Vịnh Bắc Bộ.
"Lần thứ 4" có nghĩa là chuyện khai thác nguồn lợi dầu khí giữa Việt Nam và Trung Quốc đã có từ lâu nhưng vùng dầu khai thác ấy nằm ở đâu và trữ lượng bao nhiêu, có dính gì tới chủ quyền biển đảo của Việt Nam hay không thì cả nước hoàn toàn mù tịt.
Thông tin nhỏ giọt không thoát ra khỏi hệ thống báo chí quốc doanh và vì vậy tiết lộ này chỉ làm mạnh thêm giả thuyết chính phủ đã âm thầm nhượng cho Trung Quốc một số vùng nào đó để đánh đổi lại những chiếc ghế trong Bộ chính trị được an toàn hơn trong bối cảnh tranh chấp hiện nay.
Bốn món quà "nhỏ" này có đủ để làm yên lòng Bắc Kinh cho chuyến đi Mỹ của ông Sang hay không chỉ có ông Chủ tịch nước và các vị trong Bộ chính trị biết. Tuy nhiên hệ thống công an có vẻ khá vụng về trong công tác làm hài lòng "đối tác chiến lược và toàn diện" khi tiếp tục cảnh cáo những ai có hành động chống lại Trung Quốc. Bỏ mặc Blogger Điếu Cày tuyệt thực là một điển hình.
Khi ông Chủ tịch nước bước lên máy bay sang Mỹ vào ngày 22 tháng 7 cũng là lúc người blogger chống Trung Quóc nổi tiếng đã tuyệt thực trong tù đúng một tháng trời. Điếu Cày tuyệt thực để chống lại chế độ cai tù hà khắc và cũng nhắc nhở mọi người ghi nhớ bản án của anh: Bản án chống Trung Quốc.
Trong chiếc cặp ngoại giao của ông Sang có nhiều hồ sơ được công an chuẩn bị sẵn để chứng minh họ đối xử rất hợp luật pháp quốc tế đối với những từ nhân chính trị như Lê Quốc Quân, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên hay Đinh Nguyên Kha. Những tù nhân này ông Sang có thể không cần biết nhưng blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải thì ông Sang phải biết. Ông biết không phải để trả lời với ông Obama mà vì ông buộc phải biết để kịp thời làm Trung Quốc hài lòng để không lấy cớ chèn ép Việt Nam thêm nữa.
Việc trả lời về vấn đề nhân quyền với ông Obama không phải là cốt yếu vì nước Mỹ không thể là "đối tác chiến lược và toàn diện" với Bộ chính trị Việt Nam. Nước Mỹ ngăn cấm doanh nghiệp của họ hối lộ ở nước ngoài và vì vậy Bộ chính trị khó lòng dùng quà cáp ngoại giao như với Trung Quốc để lót đường cho một mong muốn nào đó.
Nòi chuyện với ông Obama nhưng phải chọn từng lời để không làm phật ý "đối tác chiến lược và toàn diện" là sự khó khăn của ông Sang. Có lẽ vì vậy mà ông dẫn phái đoàn cả trăm người để họ trấn an ông hay chăng?
Đến Mỹ trong tâm thức bất an như vậy thì làm sao nói lời sáng suốt?
http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/blog-07232013-canhco-07242013130529.html
48. TRẺ RANH LUẬN CHÍNH CHUYỆN NƯỚC NON
Truyện dài
đấu đá trong hàng ngũ lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN
Ông Trương Tấn Sang chủ tịch nước thuộc phe ông Tổng bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã làm
hai cuộc công du qua Tầu và
qua Mỹ để xin sự ủng hộ của các
cường quốc này hầu hạ địch
thủ là thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng,nhưng coi bộ ông chẳng nhận đươc hứa hẹn
gì .Có lẽvì thế sau khi về nước ông Sang
đã cùng ông Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trong tổ chức buổi lễ trao huy hiệu 75 tuổi Đảng cho ông đai tướng Lê Đức Anh người đang sụm bà chè
đi phải có người
diu đứng phải có ngươi đỡ.Ông
Lê Đức Anh người mà những người theo phe tướng Võ
Nguyên Gíáp đã tố cáo là một tay cộng
sản nhiều mặt lúcthì làm chỉ điểm cho cò
Bazin[trùm mật thám Pháp]
lúc làm tay sai cho hiến binh Nhật lúc làm
nội gián cho CIA.Chính ông Lê
Đưc Anh là ngươi dựng lên vụ án
Sáu Xứ tố tướng Võ Nguyên Gíap là
con nuôi chánh mật thám Marty khiến tướng Gíap phải ra khỏi bộ chánh trị.về làm chủ tịch Ủy ban kế hoạch hóa gia đình
khiến dân gian có câu vè ""Ngày xưa đại tướng cầm quân.Ngày nay đại tướng tụt quần chị
em"
"Cũng chính ông Lê
Đức Anhđã hạ bệ Tổng bí thư Đỗ Mươi
đưa tướng Lê Khả Phiêu nên làmTổng
bí thư Đảng Cộng Sản VN rồi lại
bị tướngPhiêu lột trần chân tướng ông Lê Đức Anh khiến ông Anh phải hạ tướng Phiêu đưa ông người Thổ con chợ
đen của Hồ Chí Minh là
tên Nông Đức Mạnh lên phá nát
bấy Đảng CSVN.Ngày nay hai ông
Sang và Trọng bốc ông Anh lên với mưu đồ lợi dụng đám đệ tử ông Anh hạ ông thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng.
Ông Nguyễn Tấn Dũng ngửi thấy mùi âm mưu đen tối trong việc các ông Sang và Trong làm nên
đã vắng mặt trong buổi lễ trao huy hiệu 75 tuổi
Đảng cho ông Lê Đức Anh tổ chức tại hội trường Bộ Quôc Phòng mà cùng
các ông Phó thủ tướng Vũ Văn Ninh và bộ trưởng chủ nhiệm văn phòng Phủ Thủ Tướng tới nhà riêng
ông Lê Đức Anh mừng đàn anh đươc lãnh huy hiệu 75 tuổi
Đảng.Như vậy là cuộc đấu đá giữa các ông Sang Trọng
và Dũng đang lại gay cấn và hứa hẹn còn nhiều màn
cụp lạc diễn ra trong Hội Nghị trung ương Đảng lần thư tám sắp diễn ra một ngày gần đây.
Chủ tịch Hội Nhà
Văn VN nhà thơ Hữu Thỉnh vinh danh thơ Lý
Đợi
Nhà thơ Hữu thỉnh chủ tịch Hội nhà văn VN cầmcác
trong hội nghị ban chấp hành Hội Nhà Văn ViệtNam cầm các nhằm đánh
cái bản luận văn thạc sĩ của nghiên
cứu sinh Đỗ Thi Thoan (nhà văn Nhã
Thuyên) nói về nhóm
Mở Miệng và nhà xuất bản Giấy Vụn của các nhà
thơ Lý Đợi,Bùi Chát,Khúc Duy,Nguyễn Quán với tựa đềVị trí của kẻ bên lê. Thưc hành
thơ của nhóm Mở miệng.Từ
góc nhìn Văn hóa (luận
văn thạc sĩ này đươc bảo vệ
từ 2010 và được chấm điểm 10/10).
Sau khi
ba điều bốn chuyện công kích bản luận
văn của Đỗ ThiThoan theo lệnh của ban Tuyên
Gíao trung ương Đảng Cộng Sản VN
nhà thơ Hữu Thỉnh đã hùng hồn đọc bài thơ của Lý Đợi mà ông cho là
đai phản động Hữu Thỉnh đọc bài thơ tựa đề Chúng nói:" "sông
có thể cạn núi
có thể mòn"" của Lý Đợi như người nhập đồng say sưa
tới độ người nghe có cảm giác Hữu Thỉnh đang ca ngơi thơ Lý
Đợi.Sau đây là nguyên văn bài thơ của Lý Đợi
Chúng nói sông có thể cạn
Núi có
thể mòn
Và tôi thấy chúng làm
Chúng đuổi người
đi đường
Chúng không cho
người dân cất tiếng nói
Chúng bao vây và tấn công người biểu tình chống xâm lăng
Chúng cho ngươi
trà trộn vào đám
đông biểu tình để phá thối gây chia rẽ
Chúng bảo chúng ta bị xúi dục
Chúng coi thường
sự hiểu biết của nhân dân
Chúng bảo mất
Hoàng Sa Trường Sa không phải lo
Hãy về nhà
ngủ tin vào cộng sản và nhà
nước{Tin chúng mày để hôm nay thấy Saigon và
Hà nội đầy một lũ tay sai Bắc
Kinh à?}
Chúng vu khống
những người yêu nươc là phản động
Chúng muốn chúng ta vĩnh viễn là nô lệ
Chúng lăng mạ lòng tự trọng dân tộc
Chúng đã phỉ nhổ
vào lịch sử
Chúng đập bàn thờ tổ quốc
Chúng đã ném cứt vào xương máu
những ngươi đã chết cho quê
hương
Chúng tóm cổ các nhà
báo tự do
Chúng đe dọa đánh đập văn nghệ sĩ
Chúng khủng bố
các nhà trí
thưc
Chúng theo dõi
điện thoại email
Chúng hiếp dâm
nhân quyền
Và chúng nói tiếp sau khi làm""song
chân lý không bao giờ thay đổi""
Tin mới nhất nhà
văn Nhã Thuyên tức thạc
sĩ Đỗ Thị Thoan giảng viên trường Đại học sư phạm Hà nội bị cho thôi viêc chỉ vì là
tác giả luận văn nói về nhóm Mở Miệng còn
Phó giáo sư tiến sĩ Nguyễn Thị Bình người bảo
trợ và chấm luận văn của Nhã Thuyên
Đỗ Thi Thoan thì bị về
hưu non[hiện tượng này bị nhà phê bình
Phạm xuân Nguyên chủ tịch Hội
Nhà Văn Hà nội công khai lên
án trên nhật báo
Pháp Luật TPHCM là hoàn toàn phi pháp] Giới bình luận cho rằng những chuyện ban tuyên giáo trung ương hành
xử với nhà văn Nhã Thuyên Đỗ Thị Thoan và
phó giáo sư NguyễnThị Bình
chỉ là một vụ giận cá chém thớt vì
ban tuyên giáo trung ương để tới ba năm mới đem tác giả luận văn ra hạch tôi trên các báo
văn nghệ TPHCM rồi Văn Nghệ trung ương nhưng hạch tội 'đao to búa lơn"" tuy nhiên
kết quả thì đầu voi đuôi
chuột ngay ông Hữu Thỉnh chủ tịch Hội
Nhà Văn cầm các VN còn
bị thơ Mở Miệng cuốn hút thì nói ai nghe đây.
Ly kỳ nhất là
trong dịp này nhiều nhà khoa bảng học hàm tiến sĩ học vi giáo sư đã viết bài
lộ nguyên hình là
những nhà trí thức không theo kịp
những tiến bộ của thời đai nhận thưc sơ cứng với những quan điểm văn học
nghệ thuật vừa lạc hậu vừa bảo thủ lỗi
thời có vị bị nhà phê
bình Phạm Xuân Nguyên gọi là nhà
phê bình chỉ điểm ngay giữa Hội Nghị của Hội Đồng Lý Luận
phê bình trung ương.
Thú vị nhất là nhà văn Nguyên
Ngọc một nhà văn có Đảng tịch Đảng CSVN lâu năm từng
một thời làm Tổng biên tập tuần báo Văn Nghệ đã viết một bài báo
nói về thời kỳ ông làm Tổng biên tập báo
Văn Nghệ ông đã có dự án
kế hoạch làm việc hai
mươi năm để đưa văn nghê VN gia nhập
thời đại và đat đỉnh
cao thời đai,Nhà văn Nguyên Ngọc đem bản dự án kế hoạch trình tướng Trần Độ lúc
đó là ủy trung ương Đảng phụ trách tiểu ban Văn hóa Văn nghệ trung ương Đảng tướng
Trần Độ xem xong bản dự án kế hoach ông nói đươc lắm nhưng theo ông nghĩ
muốn văn nghệ VN gia nhập thời đại đạt đỉnh cao thời đai thì văn nghệ VN cần có
nhiều trường phái văn nghệ
khác nhau.Thế mà nhà
văn Nhã Thuyên mới viết
luận văn thạc sĩ về nhóm Mở Miệng[một
trường phái mới nhen nhóm] đã bị ban tuyên
giáo rồi Hội Đồng lý luận phê bình trung ương
ra lệnh đánh tơi bời.
Hiện tượng này khiến nhà
văn Nguyên Ngọc nghĩ tới lời giáo sư nhà
văn Nguyễn Đăng Mạnh nói với Tổng bí thư Đảng CSVN hồi cuối thập niên 80 thế kỷ trước rằng Đảng Cộng Sản VN khinh văn nghệ sĩ quá
Tập đoàn tư bản đỏ Nguyển Sinh Hùng
Dư luận đang ồn ào
về chuyện cô em út ông Nguyễn
Sinh Hùng chủ tịch quốc hội đã dính
líu tới vụ nhóm Mai Fa ở Hà
nội chiếm đoạt ngân hàng Bảo Việt.Bây
giờ thì mọi ngươi mới vỡ lẽ ra ông
Nguyễn Sinh Hùng nhờ giây
mơ rễ má với cha ông Nguyễn Sinh Cung
[Nguyễn Tất Thành,Hồ Chí Minh]một bước lên bộ trưởng tài chánh
giầu có cỡ nào
và các em của ông ăn theo tiền bạc rủng rỉnh ra sao chỉ
riêng cô út Hồng Phương đã có
nhiều ngàn tỷ.Cũng dịp này thiên hạ mới biết ông Hùng bi vợ cắm sừng nên cươi vợ kê
là gái bia ôm ở Nam Định.
Tội nghiệp ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang
Ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang Mỹ với tư cách quốc trưởng VN nhưng không
đuôc đón tiếp như một vị quôc trưởng
không có đai diện tổng thống ra phi
trường đón cấp bộ trưởng mà chỉ có ông đại sừ Mỹ tại VN đón không có đoàn quân danh dự dàn chào không có một tiếng súng
đai bác không có tặng hoa.Đã thế tiếp ông chủ tịch nước VN Trương Tấn
Sang ông tổng thống Mỹ Obama quá
ngạo mạn không thèm nghe ông
Sang nói lấy giấy trong túi ra đọc khi ông Sang nói rồi sau đó
vạch tay áo xem đồng hồ có ý cho
ông Sang biết sắp hết giờ nói
in ít thôi[chuyện này có nhà
báo ghi lại đươc hình
ảnh và nhà văn Phạm Thị Hoài đem lên mạng internet cho bàn dân thiên
hạ xem
Kết quả chuyến đi Mỹ ôpng Sang bị đối xử tồi tệ nhưng vẫn đá giò lái
Trung Quôc lên án bản đô biển Đông hình lưỡi bò là
phi pháp phi lý không chấp nhận được.
Những người lãnh lương khủng ở VN
Theo những tiết lộ trên
mạng Internet thì chuyên viên ở công ty điện thoại di động Viettel lãnh lương tháng 200 triệu tuynhiên còn thua ông Đoàn
Văn Đức chủ tịch HĐQT công ty Hoàng Anh Gia Lai lĩnh 240 triệu đồng tháng.Khôi hài nhất là
mấy ông lãnh đao Hiệp Hội Lương Thưc VN cơ quan chuyên xuất khẩu gạo ăn lời có ông lãnh lương cả trăm triệu
một tháng trong khi nông dân sản xuất
ra lúa gạo đói dài.
Ông nhà báo trung tướng công an Hữu Ước
khôn thật
Nhật báo Công An Nhân
Dân nhận đươc lệnh phải bôi bác
nhà báo Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải đang tuyệt thưc tại trai
giam ở Nghệ An Tổng biên tập nhật báo Công An Nhân Dân trung tướng
Công An nhà báo
nhà văn nhà họa nhà
thơ nhà nhạc nhà kịch Hữu Ứơc tuy đươc lưu dung thêm hai năm mới nghỉ hưu nhưng thấy vụ này khó nhằn nên
vội vàng nhường chức Tổng biên tậpnhật báo Công An Nhân Dân cho đai tá Miên
người đang nhòm ngó chiếc ghế này. Ông
đai tá Miên nhậm chức Tổng biên tập nhật báo
Công An Nhân Dân gọi phóng viên tầm cỡ nhất của báo là Vũ Đai Phong
bảo làm sao liên
lạc với trại giam viết bài bôi bác cuộc tuyệt thưc của nhà báo Điếu Cầy Nguyễn Văn Hải nổ như làm vụ bôi bác
luật sư Cù Huy Hà Vũ ,
Nhà
báo Vũ Đại Phong tới trại giam số
6 ở huyện Thanh Chương Nghệ An rồi về trình
với'""sếp"" là
khó quá nhà
báo Điếu Cầy đang ở biệt giam phòng giam 1m2m không có một tí đồ ăn nào
trong đó cả[Điều cầy đã bị biệt giam
trước khi tuyệt thưc] và đang tuyệt
thực sức khỏe ""bết "" lắm.Tổng biên tập Miên
ra lệnh cho phóng viên Vũ Đại Phong liên lạc với trại giam số 6 kiếm hình
nhà báo Điêu
Cầy khám
sức khỏe rồi ghép sao như Điếu
Cầy đang nhận khẩu phần ăn của trại và không hề tuyệt thực gì cả tuy có hơi gầy nhưng đó
là tạng ngươi Điếu Cày như vậy.
Bài báo của nhà báo
Vũ Đai Phong vừa đươc nhật báo Công An Nhân Dân tung ra thì gia đình Điếu Cầy nhất là
con trai Nguyễn Trí Dũng và vợ li dị Dương Thị Tân đã phản bác
cho biết Nguyễn Trí Dũng đã ghi
âm đươc lời ông Thái Văn Thủy
phó giám thị trại giam số 6 xác nhận nhà
báo Điều Cày bị biệt giam và
không nhận khẩu phần ăn. Biệt giam thì
làm sao có bạn cùng
phòng giam cho đươc như bài báo của Vũ Đai Phong bôi bác
biệt giam bị cắt đồ thăm nuôi thì
lấy gì ăn mà bảo không tuyệt thưc còn cái
hình nhận khẩu phần ăn là hình ghép
kiểu photoshop [tất cả những điều này
vợ con Điêu Cầy đã nói với phóng
viên đài BBC.
Tội nghiệp ông tân Tổng biên
tập nhật báo Công An Nhân
Dân đai tá Miên và
cái ông phóng
viên Vũ đai Phong khi bị vợ con
nhà báo Điếu Cầy cùng
bạn bè kéo tới tòa
soạn biều tình phản đối
bài báo bôi bác
cuộc tuyêt thưc của nhà báo
Điếu Cầy đã ú ớ không làm sao phản bác đươc các
lý lẽ đầy sự thật của người biểu tình
phản đốinhà báo trung tương công an Hữu Ươc
thoát hiểm cười ha hả với chức Tổng
biên tập đai truyền ANTV còn lại.
TRẺ RANH BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 273.
49. Tuyên bố chung Việt-Mỹ
Cập nhật: 03:28 GMT - thứ sáu, 26 tháng 7, 2013
Các bài liên quan
Chủ đề liên quan
Dưới đây là toàn văn bản tuyên bố chung đăng tải trên trang web của Nhà Trắng, bản dịch của Thông tấn xã Việt Nam.
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama chào mừng Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang tới Nhà Trắng ngày 25-7. Tại cuộc gặp, hai nhà Lãnh đạo khẳng định cam kết mở ra một giai đoạn mới cho quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và những lợi ích chung.
Chuyến thăm của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
diễn ra vào một thời điểm quan trọng đối với cả hai nước, phản ánh mong
muốn chung cùng xây dựng mối quan hệ hướng tới tương lai giữa hai nước.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống
Obama quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ
nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Hai nhà Lãnh
đạo nhấn mạnh các nguyên tắc trong quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam -
Hoa Kỳ, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc
tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ của nhau.
Hai nhà Lãnh đạo tuyên bố quan hệ Đối tác toàn
diện nhằm góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng của mỗi
nước, trong khu vực và trên toàn thế giới. Quan hệ Đối tác Toàn diện
mới sẽ tạo ra các cơ chế hợp tác trên nhiều lĩnh vực, trong đó có quan
hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ thương mại và kinh tế, khoa học và
công nghệ, giáo dục và đào tạo, môi trường và y tế, giải quyết hậu quả
chiến tranh, quốc phòng và an ninh, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người,
văn hóa, thể thao và du lịch.
Hợp tác chính trị và ngoại giao
Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh việc thiết lập cơ chế đối thoại thường kỳ giữa hai Bộ trưởng Ngoại giao, và khuyến khích các cuộc đối thoại và trao đổi giữa các cơ quan đảng của hai nước.
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
nhất trí tăng cường hợp tác tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, trong
đó có Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF),
Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS), và Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+) nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát
triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hai nhà Lãnh đạo tái khẳng
định ủng hộ giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp
với luật pháp quốc tế, trong đó có những quy định của Công ước Luật
Biển của Liên hợp quốc (UNCLOS).
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
đồng thời tái khẳng định ủng hộ nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc
đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên biển và tranh chấp
lãnh thổ. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama nhấn mạnh
giá trị của việc tuân thủ đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển
Đông (DOC), và tầm quan trọng của việc khởi động đàm phán để hoàn tất
một bộ Quy tắc ứng xử (COC) có hiệu quả.
Chủ tịch Trương Tấn Sang đánh giá cao Sáng kiến
Hạ nguồn sông Mê Công (LMI). Hai nhà Lãnh đạo nhất trí hai bên nỗ lực
cùng với các nước thành viên LMI khác và Nhóm Những người bạn của khu
vực hạ nguồn sông Mê Công, tăng cường hơn nữa hợp tác khu vực nhằm thúc
đẩy sự thịnh vượng và phát triển bền vững, thu hẹp khoảng cách phát
triển, tăng cường kết nối và ứng phó với các thách thức xuyên quốc gia
trong khu vực.
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
chỉ đạo các cơ quan liên quan hoàn thành trong thời gian sớm nhất
có thể thỏa thuận song phương về việc xây dựng các sứ quán và cơ quan
đại diện của hai nước. Hai nhà Lãnh đạo khẳng định các cơ quan đại diện
ngoại giao của Việt Nam và Hoa Kỳ tại thủ đô mỗi nước cần phản ánh sự
phát triển của quan hệ song phương.
Quan hệ kinh tế và thương mại
"Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama tái khẳng định cam kết hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) toàn diện và tiêu chuẩn cao vào thời điểm sớm nhất có thể trong năm nay"
Nhắc lại các cuộc thảo luận tại Campuchia vào
tháng 11-2012, Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama tái khẳng
định cam kết hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) toàn diện và tiêu chuẩn cao vào thời điểm sớm nhất
có thể trong năm nay. Hiệp định TPP của thế kỷ 21 sẽ tăng cường hội
nhập kinh tế khu vực, thúc đẩy các mục tiêu phát triển và giúp tạo việc
làm ở Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước thành viên TPP khác, trong khi
tính đến sự đa dạng về trình độ phát triển của các thành viên trong
khuôn khổ một thỏa thuận cân bằng và toàn diện.
Hai nhà Lãnh đạo hoan nghênh những nỗ lực không
ngừng nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song
phương và Tổng thống Obama ghi nhận những nỗ lực cải cách của
Việt Nam với tư cách một nền kinh tế đang phát triển. Hai nhà
Lãnh đạo nhấn mạnh giá trị then chốt của các nỗ lực này đối với quan
hệ song phương và tầm quan trọng của hợp tác kinh tế như một nền tảng
và động lực của Đối tác Toàn diện mới Việt Nam - Hoa Kỳ.
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tăng cường hợp tác
trong khuôn khổ Hội đồng Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư (TIFA),
cũng như theo sáng kiến Gắn kết Kinh tế Mở rộng ASEAN và trong APEC
nhằm tăng cường liên kết kinh tế và thương mại phù hợp với Đối
tác Toàn diện song phương và các mục tiêu chung trong Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), APEC và các diễn đàn của ASEAN.
Tổng thống Obama hoan nghênh những tiến bộ
của Việt Nam trong cải cách kinh tế. Tổng thống Obama ghi nhận
quan tâm của Việt Nam trong việc đạt được quy chế kinh tế thị
trường và cam kết tăng cường hợp tác mang tính xây dựng với
Việt Nam về cải cách kinh tế. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận việc Việt
Nam dự định tham gia Công ước Cape Town về lợi ích quốc tế đối với
thiết bị di dộng (CTC).
Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận tầm quan trọng của
quan hệ thương mại ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế và đặc biệt nhắc
tới: Bản ghi nhớ giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Ngân hàng
Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ về hỗ trợ thương mại và đầu tư trong
lĩnh vực dầu khí và năng lượng ở Việt Nam, Thỏa thuận khung
triển khai dự án phát triển mỏ Cá Voi Xanh ngoài khơi Việt Nam
giữa Tập đoàn Dầu khí Việt Nam và Công ty Exxon Mobil, Thỏa thuận
hợp tác giữa Tổng Công ty thăm dò, khai thác dầu khí (PVEP) và Công ty
dầu khí Murphy, Bản ghi nhớ giữa Công ty bảo hiểm Metropolitan Life
(Metlife) và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, chấp thuận của Bộ
Tài chính Việt Nam về chủ trương thành lập công ty quản lý quỹ của Công
ty bảo hiểm ACE.
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
hoan nghênh sự hỗ trợ của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đối với các chương trình
xây dựng năng lực và đào tạo nhằm giúp Việt Nam tiếp nhận và áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến, mang lại lợi ích cho nông dân, các công ty
nông nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo thừa nhận tầm
quan trọng của việc bảo vệ thành phần dân cư dễ bị tổn thương trong khi
phát triển kinh tế, trong đó có việc cùng nhau đấu tranh chống lao động
trẻ em và lao động cưỡng bức.
Hợp tác khoa học và công nghệ
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
trao đổi về tầm quan trọng của hợp tác khoa học và công nghệ. Hai nhà
Lãnh đạo hoan nghênh cuộc họp lần thứ 8 của Ủy ban hỗn hợp về hợp tác
khoa học và công nghệ sẽ được tổ chức vào mùa thu năm nay, nhấn mạnh các
nỗ lực nhằm xây dựng quan hệ giữa các cộng đồng khoa học tại Việt Nam
và Hoa Kỳ để tăng cường hợp tác song phương, ứng phó với biến đổi khí
hậu và các thách thức toàn cầu khác, và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dựa
trên sự sáng tạo.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng
thống Obama nhấn mạnh việc hai bên kết thúc thành công chương
trình chuyển đổi thanh nhiên liệu có độ giàu uranium cao ra khỏi
Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tiếp tục hợp tác để hỗ trợ chương
trình năng lượng hạt nhân hòa bình của Việt Nam với các tiêu chuẩn cao
nhất về bảo đảm an toàn, an ninh.
Hợp tác giáo dục
Hai nhà Lãnh đạo nhất trí về sự cần thiết tăng
cường hợp tác giáo dục, văn hóa và giao lưu nhân dân giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ. Hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh sự gia tăng nhanh chóng số lượng
sinh viên Việt Nam theo học tại các trường đại học và cao đẳng tại Hoa
Kỳ và bày tỏ hy vọng ngày càng nhiều sinh viên Hoa Kỳ tìm kiếm cơ hội du
học tại Việt Nam. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí rằng hợp tác chặt chẽ về
giáo dục, đào tạo là nhân tố quan trọng trong giai đoạn tới của quan hệ
giữa hai nước. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận việc thúc đẩy đào tạo tiếng Anh
sẽ giúp Việt Nam cạnh tranh trong nền kinh tế toàn cầu thế kỷ 21.
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi
nhận sự thành công của các sáng kiến giáo dục, trao đổi song phương,
đặc biệt là chương trình Fulbright và Chương trình Liên minh Giáo dục
Đại học ngành kỹ thuật (HEEAP). Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng
thống Obama ghi nhận thành công của Chương trình giảng dạy kinh
tế Fullbright và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh sáng
kiến thành lập trường Đại học Fullbright ở Việt Nam.
Môi trường và Y tế
"Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama ghi nhận thành công của Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh sáng kiến thành lập trường Đại học Fullbright ở Việt Nam."
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
hoan nghênh hợp tác song phương ngày càng tăng nhằm giảm khí thải nhà
kính tại Việt Nam bằng việc gia tăng năng lượng sạch, hiệu suất năng
lượng và lâm nghiệp bền vững và tăng cường khả năng của Việt Nam ứng phó
với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và thảm họa thiên nhiên, trong đó
có Chương trình Năng lượng sạch và Chương trình Rừng và Đồng bằng của Cơ
quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID). Tổng thống Obama tái khẳng định
Hoa Kỳ cam kết tăng hỗ trợ về chăm sóc y tế và các hình thức chăm sóc,
trợ giúp khác cho người khuyết tật vì bất cứ nguyên nhân nào ở Việt Nam.
Hai nhà lãnh đạo đồng thời nhất trí hợp tác với
các nước đối tác LMI thúc đẩy nghiên cứu khoa học, xây dựng năng lực và
đối thoại để bảo đảm sức sống lâu dài và bền vững của đồng bằng sông Mê
Công và lưu vực hạ nguồn sông. Tổng thống Obama đánh giá cao vai trò
lãnh đạo của Việt Nam trên cương vị đồng chủ tịch Trụ cột Môi trường và
Nước trong khuôn khổ LMI, trong đó có hai đề xuất nghiên cứu chung của
Việt Nam về quản lý nguồn nước lưu vực sông.
Hai nhà lãnh đạo bày tỏ hài lòng về việc ký kết
Hiệp định Hợp tác Y tế và Khoa học Y học gần đây và mong muốn thúc đẩy
hợp tác y tế công nhằm tăng cường an ninh y tế toàn cầu. Chủ tịch Trương
Tấn Sang đánh giá cao việc Chính phủ Hoa Kỳ, thông qua Kế hoạch cứu trợ
khẩn cấp về phòng chống AIDS của Tổng thống Hoa Kỳ (PEPFAR), tiếp tục
hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam nhằm xây dựng hệ thống phòng ngừa,
điều trị và chăm sóc HIV/AIDS bền vững.
Các vấn đề hậu quả chiến tranh
Tổng thống Obama đánh giá cao việc Việt Nam tiếp
tục hợp tác tìm kiếm đầy đủ quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến
tranh. Tổng thống Obama tái khẳng định cam kết của Hoa Kỳ hỗ trợ những
nỗ lực của Việt Nam trong việc tìm kiếm bộ đội mất tích. Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang ghi nhận những đóng góp của Chính phủ Hoa Kỳ đối với các
nỗ lực của Việt Nam trong việc rà phá các vật liệu nổ còn sót lại
(UXO), hỗ trợ những nạn nhân bị thương do các vật liệu nổ còn sót lại,
và ngăn chặn thương vong trong tương lai.
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
bày tỏ sự hài lòng đối với những tiến triển của dự án tẩy độc đioxin tại
sân bay Đà Nẵng giữa Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và Bộ
Quốc phòng Việt Nam. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hoan nghênh các kế
hoạch của Chính phủ Hoa Kỳ về việc tiến hành đánh giá về mức độ nhiễm
độc đioxin đối với môi trường tại sân bay Biên Hòa.
Quốc phòng và An ninh
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
nhất trí mở rộng hợp tác cùng có lợi nhằm tăng cường năng lực trong lĩnh
vực tìm kiếm cứu nạn và ứng phó thiên tai. Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang và Tổng thống Obama cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy
hợp tác trong các vấn đề an ninh phi truyền thống và nhất trí hợp tác
chặt chẽ hơn nữa trong lĩnh vực chống khủng bố; tăng cường hợp tác thực
thi pháp luật trên biển; đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, trong
đó có chống cướp biển, buôn lậu ma túy, buôn bán người, buôn bán động
vật hoang dã; ứng phó với tội phạm công nghệ cao và vấn đề an ninh mạng.
Tổng thống Obama hoan nghênh quyết định của Việt
Nam tham gia Hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và nhấn mạnh
Hoa Kỳ mong muốn hỗ trợ đào tạo và các hình thức hỗ trợ khác cho hoạt
động này thông qua Sáng kiến hoạt động hòa bình toàn cầu (GPOI).
Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người
"Hai bên tái khẳng định cam kết ủng hộ Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người."
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
ghi nhận lợi ích của việc đối thoại thẳng thắn và cởi mở nhằm tăng cường
hiểu biết lẫn nhau, thu hẹp khác biệt về quyền con người. Hai nhà Lãnh
đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người. Chủ tịch Trương Tấn Sang thông báo với Tổng thống Obama những nỗ
lực và thành tựu của Việt Nam trong việc thúc đẩy quyền con người, nhà
nước pháp quyền và bảo vệ quyền của các tín đồ tôn giáo.
Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng khẳng định Việt
Nam sẵn sàng ký Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc vào cuối năm
nay và tuyên bố Việt Nam sẽ mời Báo cáo viên Đặc biệt về Tự do tôn giáo
và tín ngưỡng vào năm 2014. Hai bên tái khẳng định cam kết ủng hộ Hiến
chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.
Văn hóa, du lịch và thể thao
Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thúc đẩy hợp tác văn hóa, thể thao và
du lịch nhằm tăng cường giao lưu nhân dân và hiểu biết lẫn nhau. Hai
nhà Lãnh đạo ghi nhận những thành công của người Mỹ gốc Việt và
khuyến khích cộng đồng tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của quan hệ
song phương. Chủ tịch Trương Tấn Sang và Tổng thống Obama khuyến khích
giao lưu nhân dân thông qua các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, hòa
nhạc, triển lãm và các sự kiện văn hóa và thể thao khác giữa hai nước.
50. Xây dựng một di sản mới của Mỹ ở Việt Nam
Tin liên hệ
- Thứ trưởng Ngoại giao VN: Những người biểu tình đòi nhân quyền là vì tiền
- Vì sao vấn đề nhân quyền quan trọng trong chuyến đi Mỹ của Chủ tịch Trương Tấn Sang?
- Việt Nam - Thách thức và cơ hội
- Chủ tịch Trương Tấn Sang muốn người Mỹ gốc Việt làm ‘cầu nối’
- TT Obama đàm phán 'thẳng thắn' với Chủ tịch Sang về nhân quyền
- Biểu tình trước Tòa Bạch Ốc nhân cuộc họp thượng đỉnh Việt-Mỹ
- Chủ tịch nước Việt Nam đến Washington mưu tìm quan hệ mới
- Quan hệ Việt-Mỹ-Trung nhân chuyến thăm Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang
- Đại sứ Mỹ đầu tiên tại VN nghĩ gì về chuyến đi của ông Sang?
- Nhân quyền Việt Nam và chuyến đi Mỹ của Chủ tịch Trương Tấn Sang
- Chủ tịch nước VN tới Mỹ: Một chuyến viếng thăm gây nhiều tranh cãi
- Chủ tịch Việt Nam tới Hoa Kỳ, các dân biểu Mỹ lên tiếng
Luật sư Vũ Đức Khanh và Blogger Lê Anh Hùng viết riêng cho VOA Tiếng Việt
Cuộc gặp giữa Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barack Obama tuy không đạt được nhiều kết quả thực chất nhưng đã mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai nước.
Cuộc gặp giữa Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Nhà Trắng đã diễn ra đúng như những gì mà người ta có thể chờ đợi.
Bất chấp những khác biệt, cả Mỹ và Việt Nam đều có ý định phát triển mối quan hệ, với điều kiện, dĩ nhiên, là một số tiến bộ về phía Việt Nam.
Kết quả nổi bật nhất của cuộc gặp chính là việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác lập mối quan hệ “đối tác toàn diện” nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Ý nghĩa lớn nhất của cuộc gặp có lẽ mang tính biểu tượng: cuộc gặp gỡ đã tạo cơ hội để hai vị nguyên thủ cho thế giới thấy rằng hai cựu thù đã sẵn sàng cho những bước kế tiếp.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là liệu chuyến thăm này có dẫn đến những điều lớn lao hơn và tốt đẹp hơn hay không?
Những bước tiếp theo
Chủ nghĩa Đại Hán đang hồi sinh mạnh mẽ ở Trung Quốc – thực ra nó chưa bao giờ ngủ quên mà như lời của cố lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình là chỉ “náu mình chờ thời” thôi – và phả hơi nóng gay gắt vào Việt Nam. Cả thế giới đang phải dè chừng với Trung Quốc chứ không riêng gì Việt Nam, một đất nước luôn phải đứng trước âm mưu thôn tính từ hàng ngàn năm nay của họ.
Chính vì vậy, Hoa Kỳ không được phép nương nhẹ Việt Nam trên những vấn đề có tính nguyên tắc như nhân quyền hay cải cách trong khu vực doanh nghiệp nhà nước (khi đàm phán TPP).
Thông điệp thay đổi
Cuộc gặp giữa Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Mỹ Barack Obama tuy không đạt được nhiều kết quả thực chất nhưng đã mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai nước.
Cuộc gặp giữa Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama tại Nhà Trắng đã diễn ra đúng như những gì mà người ta có thể chờ đợi.
Bất chấp những khác biệt, cả Mỹ và Việt Nam đều có ý định phát triển mối quan hệ, với điều kiện, dĩ nhiên, là một số tiến bộ về phía Việt Nam.
Kết quả nổi bật nhất của cuộc gặp chính là việc Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác lập mối quan hệ “đối tác toàn diện” nhằm xây dựng một khuôn khổ tổng thể để thúc đẩy quan hệ. Ý nghĩa lớn nhất của cuộc gặp có lẽ mang tính biểu tượng: cuộc gặp gỡ đã tạo cơ hội để hai vị nguyên thủ cho thế giới thấy rằng hai cựu thù đã sẵn sàng cho những bước kế tiếp.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là liệu chuyến thăm này có dẫn đến những điều lớn lao hơn và tốt đẹp hơn hay không?
Những bước tiếp theo
Những gì diễn ra tiếp sau cuộc gặp này thì còn phải chờ thời gian trả
lời. Tuy nhiên, sự can dự sâu sắc hơn về ngoại giao và chính trị dường
như là mong muốn của cả hai bên.
Việc đối thoại giữa các nước để xóa nhòa sự khác biệt, đặc biệt là về dân chủ và nhân quyền, chắc chắn sẽ cho thấy là khó khăn nhất, song đó lại là một thách thức xứng đáng để chinh phục.
Người Mỹ phải xây dựng một di sản mới ở Việt Nam thay vì chỉ là những mục tiêu chiến lược và lợi ích kinh tế.
Mười tám năm sau khi tái lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995, di sản của Mỹ ở Việt Nam vẫn gần như không thay đổi: một cường quốc bên ngoài mà Việt Nam (hay đúng hơn Bắc Việt Nam trước năm 1975) từng chống lại trong một cuộc chiến, với hậu quả ngoài mong muốn là chất độc màu da cam cùng hiệu ứng phụ kéo dài cho đến tận hôm nay của nó.
Người Mỹ gọi cuộc xung đột này là chiến tranh Việt Nam, nhưng người Việt Nam lại gọi đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sự thù nghịch có thể không còn hiện diện ở đây nữa, thay vào đó là những quan ngại tức thời khác; song cho dù người ta có cố gắng thoát khỏi quá khứ để tiến về phía trước thì quá khứ cũng không bao giờ bị lãng quên.
Mặc dù cả hai nước đã xích lại gần nhau hơn kể từ năm 1995, song từ “gần nhau hơn” kia lại mang tính tương đối nếu xét tới thực tế là trước đây quan hệ giữa hai quốc gia không tồn tại. Hoa Kỳ tiếp tục duy trì lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam cho đến khi thành tích nhân quyền của nó tiến bộ rõ rệt.
Thật không may là trước đây, sự phê phán của Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền của Việt Nam lại rơi vào những cái tai điếc ở Hà Nội. Như thể một bài toán chi phí - lợi ích, Hoa Kỳ không có nhiều để mất khi yêu cầu Việt Nam làm nhiều hơn để cải thiện tình hình nhân quyền, còn Việt Nam lại không có nhiều để mất khi phớt lờ yêu cầu đó.
Trên phương diện kinh doanh, cả hai nước đều khá hài lòng với tình trạng hiện thời. Hoa Kỳ coi Việt Nam như một thị trường mới khác để khám phá, còn Việt Nam thì xem Hoa Kỳ như một nhà đầu tư mới trong nền kinh tế đang phát triển của họ. Đối với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, điều quan trọng là Việt Nam làm nhiều hơn để cải thiện thành tích nhân quyền. Tuy nhiên, đơn giản là Việt Nam chưa bao giờ đủ quan trọng đối với chính phủ của các tổng thống kế tiếp nhau ở Mỹ để họ phải dốc hết năng lượng ngoại giao và chính trị cho chủ đề ấy.
Việc đối thoại giữa các nước để xóa nhòa sự khác biệt, đặc biệt là về dân chủ và nhân quyền, chắc chắn sẽ cho thấy là khó khăn nhất, song đó lại là một thách thức xứng đáng để chinh phục.
Người Mỹ phải xây dựng một di sản mới ở Việt Nam thay vì chỉ là những mục tiêu chiến lược và lợi ích kinh tế.
Mười tám năm sau khi tái lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam năm 1995, di sản của Mỹ ở Việt Nam vẫn gần như không thay đổi: một cường quốc bên ngoài mà Việt Nam (hay đúng hơn Bắc Việt Nam trước năm 1975) từng chống lại trong một cuộc chiến, với hậu quả ngoài mong muốn là chất độc màu da cam cùng hiệu ứng phụ kéo dài cho đến tận hôm nay của nó.
Người Mỹ gọi cuộc xung đột này là chiến tranh Việt Nam, nhưng người Việt Nam lại gọi đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sự thù nghịch có thể không còn hiện diện ở đây nữa, thay vào đó là những quan ngại tức thời khác; song cho dù người ta có cố gắng thoát khỏi quá khứ để tiến về phía trước thì quá khứ cũng không bao giờ bị lãng quên.
Mặc dù cả hai nước đã xích lại gần nhau hơn kể từ năm 1995, song từ “gần nhau hơn” kia lại mang tính tương đối nếu xét tới thực tế là trước đây quan hệ giữa hai quốc gia không tồn tại. Hoa Kỳ tiếp tục duy trì lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam cho đến khi thành tích nhân quyền của nó tiến bộ rõ rệt.
Thật không may là trước đây, sự phê phán của Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền của Việt Nam lại rơi vào những cái tai điếc ở Hà Nội. Như thể một bài toán chi phí - lợi ích, Hoa Kỳ không có nhiều để mất khi yêu cầu Việt Nam làm nhiều hơn để cải thiện tình hình nhân quyền, còn Việt Nam lại không có nhiều để mất khi phớt lờ yêu cầu đó.
Trên phương diện kinh doanh, cả hai nước đều khá hài lòng với tình trạng hiện thời. Hoa Kỳ coi Việt Nam như một thị trường mới khác để khám phá, còn Việt Nam thì xem Hoa Kỳ như một nhà đầu tư mới trong nền kinh tế đang phát triển của họ. Đối với các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, điều quan trọng là Việt Nam làm nhiều hơn để cải thiện thành tích nhân quyền. Tuy nhiên, đơn giản là Việt Nam chưa bao giờ đủ quan trọng đối với chính phủ của các tổng thống kế tiếp nhau ở Mỹ để họ phải dốc hết năng lượng ngoại giao và chính trị cho chủ đề ấy.
Bây giờ thì điều này không còn đúng nữa. Với việc Mỹ thực hiện chiến
lược tái cân bằng ở Châu Á – Thái Bình Dương, hay chính sách xoay trục
như người ta vẫn thường đề cập đến, Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam, đã
trở thành một nhân tố trong chiến lược mới của Hoa Kỳ.
Ngược lại, như cách mà chiến lược tái cân bằng làm tăng giá trị của Việt Nam đối với Hoa Kỳ, sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc cũng làm tăng giá trị của Mỹ đối với Việt Nam.
Bắt tay vào hành động
Bất kể là Tổng thống Obama hay một ai khác, Hoa Kỳ cũng cần nỗ lực để xây dựng một di sản mới ở Việt Nam. Một di sản được xây dựng dựa trên cải cách dân chủ và nhân quyền sẽ không chỉ đạt được những gì mà Hoa Kỳ từng đề ra để phấn đấu trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà còn đem đến cho nhân dân Việt Nam một xã hội tự do và cởi mở. Thay vì bom đạn, thứ vũ khí mà người ta lựa chọn ở đây sẽ là ngoại giao và giáo dục.
Ngược lại, như cách mà chiến lược tái cân bằng làm tăng giá trị của Việt Nam đối với Hoa Kỳ, sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc cũng làm tăng giá trị của Mỹ đối với Việt Nam.
Bắt tay vào hành động
Bất kể là Tổng thống Obama hay một ai khác, Hoa Kỳ cũng cần nỗ lực để xây dựng một di sản mới ở Việt Nam. Một di sản được xây dựng dựa trên cải cách dân chủ và nhân quyền sẽ không chỉ đạt được những gì mà Hoa Kỳ từng đề ra để phấn đấu trong thời kỳ chiến tranh lạnh, mà còn đem đến cho nhân dân Việt Nam một xã hội tự do và cởi mở. Thay vì bom đạn, thứ vũ khí mà người ta lựa chọn ở đây sẽ là ngoại giao và giáo dục.
Chủ nghĩa Đại Hán đang hồi sinh mạnh mẽ ở Trung Quốc – thực ra nó chưa bao giờ ngủ quên mà như lời của cố lãnh tụ Trung Quốc Đặng Tiểu Bình là chỉ “náu mình chờ thời” thôi – và phả hơi nóng gay gắt vào Việt Nam. Cả thế giới đang phải dè chừng với Trung Quốc chứ không riêng gì Việt Nam, một đất nước luôn phải đứng trước âm mưu thôn tính từ hàng ngàn năm nay của họ.
Cho dù rồi đây Hoa Kỳ có trở thành đối tác chiến lược toàn diện hay đồng
minh của Việt Nam đi chăng nữa thì đó vẫn chỉ là yếu tố ngoại lực, điều
kiện đủ; còn điều kiện cần, điều kiện tiên quyết để Việt Nam có thể tồn
tại và phát triển bên cạnh một gã láng giềng luôn lăm le nuốt chửng
mình phải là nội lực, là một Việt Nam hùng mạnh. Muốn vậy, Việt Nam phải
là một đất nước tự do - dân chủ; chỉ với một thể chế dân chủ, minh
bạch, các nguồn lực xã hội mới được phân bổ theo những cách thức đạt
hiệu quả cao nhất.
Vượt qua sức ỳ của cả một bộ máy khổng lồ, bảo thủ, trì trệ, cũng như sự kháng cự mạnh mẽ của các nhóm lợi ích đang tác oai tác quái trong hệ thống hiện hành ở Việt Nam để hướng tới cải cách là chuyện không đơn giản.
Vượt qua sức ỳ của cả một bộ máy khổng lồ, bảo thủ, trì trệ, cũng như sự kháng cự mạnh mẽ của các nhóm lợi ích đang tác oai tác quái trong hệ thống hiện hành ở Việt Nam để hướng tới cải cách là chuyện không đơn giản.
Muốn vậy, ngoài sự lên tiếng mạnh mẽ của các lực lượng tiến bộ trong
nước, sự quyết đoán của các nhà lãnh đạo cấp tiến cũng như sự thức tỉnh
của các nhà lãnh đạo bảo thủ thì áp lực bên ngoài là hết sức quan trọng.
Cao trào dân chủ hoá trên thế giới và trong khu vực đang tạo ra một áp lực lên giới lãnh đạo Việt Nam, nhưng đó chỉ là thứ áp lực vô hình, gián tiếp. Áp lực này đôi khi lại gây ra tác dụng ngược là đẩy giới lãnh đạo bảo thủ Việt Nam vào con đường cố thủ, như những gì mà chúng ta đã chứng kiến thời gian qua. Áp lực cụ thể, trực tiếp tác động đến lên hệ thống hiện hành là từ các đối tác mà Việt Nam buộc phải hợp tác như Liên Hợp Quốc, EU … và đặc biệt là Hoa Kỳ.
Cao trào dân chủ hoá trên thế giới và trong khu vực đang tạo ra một áp lực lên giới lãnh đạo Việt Nam, nhưng đó chỉ là thứ áp lực vô hình, gián tiếp. Áp lực này đôi khi lại gây ra tác dụng ngược là đẩy giới lãnh đạo bảo thủ Việt Nam vào con đường cố thủ, như những gì mà chúng ta đã chứng kiến thời gian qua. Áp lực cụ thể, trực tiếp tác động đến lên hệ thống hiện hành là từ các đối tác mà Việt Nam buộc phải hợp tác như Liên Hợp Quốc, EU … và đặc biệt là Hoa Kỳ.
Chính vì vậy, Hoa Kỳ không được phép nương nhẹ Việt Nam trên những vấn đề có tính nguyên tắc như nhân quyền hay cải cách trong khu vực doanh nghiệp nhà nước (khi đàm phán TPP).
Thông điệp thay đổi
Lớp lãnh đạo hiện nay của Việt Nam cần phải hiểu rằng thế giới đang thay
đổi rất nhanh, rằng người dân Việt Nam đang ngày càng trở nên bất an,
và rằng chính sách cầu hoà thường thấy của giới lãnh đạo Việt Nam không
còn hiệu quả nữa.
Lớp trẻ Việt Nam ngày nay đã quá hiểu những hạn chế của chính phủ. Ngoài ra, họ cũng ý thức được rằng họ có nhiều lựa chọn.
Việc Việt Nam và Hoa Kỳ xác lập quan hệ đối tác toàn diện diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992. Đây là cơ hội tuyệt vời để Việt Nam bắt tay vào tiến trình cải cách, dân chủ hoá đất nước bằng một bản hiến pháp mới tự do, dân chủ, phù hợp với xu thế của thời đại.
Lớp trẻ Việt Nam ngày nay đã quá hiểu những hạn chế của chính phủ. Ngoài ra, họ cũng ý thức được rằng họ có nhiều lựa chọn.
Việc Việt Nam và Hoa Kỳ xác lập quan hệ đối tác toàn diện diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992. Đây là cơ hội tuyệt vời để Việt Nam bắt tay vào tiến trình cải cách, dân chủ hoá đất nước bằng một bản hiến pháp mới tự do, dân chủ, phù hợp với xu thế của thời đại.
Điều này không chỉ phát đi tín hiệu rõ ràng và tích cực nhất đến một Hoa
Kỳ vẫn đang còn hồ nghi, lưỡng lự, mà quan trọng hơn là mở đường cho sự
phát triển bền vững của nước nhà, vì một Việt Nam tự do, dân chủ, nhân
văn và cường thịnh.
Với cán cân quyền lực đang thuận lợi cho phía Mỹ, nhất là khi mà chính sách xoay trục sang Châu Á – Thái Bình Dương của họ không nhất thiết phải dựa vào sự hợp tác của Việt Nam, Hoa Kỳ có thể điều đình để đòi hỏi Việt Nam phải cải cách.
Hoa Kỳ cần nêu rõ với Đảng CSVN rằng họ không phải là mối đe doạ đối với Việt Nam, rằng họ có thể đem đến sự hỗ trợ nào đó cho Việt Nam song chỉ khi một số điều kiện nhất định được thoả mãn.
Di sản Hoa Kỳ
Việc Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang trao tặng Tổng thống Obama một bản sao lá thư mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng gửi Tổng thống Truman là thông điệp nhiều ý nghĩa.
67 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn lối rẽ cộng sản sau khi thất bại trong việc thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ năm 1946 buộc họ phải dựa vào khối cộng sản để phát động 9 năm kháng chiến chống Pháp mà hệ quả sau đó là sự can thiệp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam 1954-1975.
67 năm sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở Ba Đình lại cảm thấy cần đến Mỹ hơn bao giờ hết. Thông điệp không thể nhầm lẫn mà Chủ tịch Sang chuyển tới Tổng thống Obama là hãy hợp tác với chúng tôi vì quyền lợi của tất cả chúng ta; Việt Nam đã sẵn sàng bước qua khúc quanh lịch sử 67 năm để hướng tới một tương lai tươi sáng trong quan hệ Việt-Mỹ, như buổi sáng đẹp trời ấm áp hôm 25/7/2013, khi Chủ tịch hiện thời của Việt Nam bước vào Nhà Trắng mang theo bức thông điệp 67 năm trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - là hãy giúp Việt Nam chúng tôi!
Vài năm tới đây là cơ hội thuận lợi để Hoa Kỳ củng cố hình ảnh của họ không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp cả khu vực, khẳng định rằng họ vẫn là nguồn cảm hứng cho tự do và dân chủ. Tuy nhiên, để biến điều này thành hiện thực, Hoa Kỳ phải hành động tương ứng. Liệu Hoa Kỳ còn có thể tạo ra một di sản nào lớn hơn ở Việt Nam so với việc thiết lập một nền tự do - dân chủ trên đất nước này?
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Với cán cân quyền lực đang thuận lợi cho phía Mỹ, nhất là khi mà chính sách xoay trục sang Châu Á – Thái Bình Dương của họ không nhất thiết phải dựa vào sự hợp tác của Việt Nam, Hoa Kỳ có thể điều đình để đòi hỏi Việt Nam phải cải cách.
Hoa Kỳ cần nêu rõ với Đảng CSVN rằng họ không phải là mối đe doạ đối với Việt Nam, rằng họ có thể đem đến sự hỗ trợ nào đó cho Việt Nam song chỉ khi một số điều kiện nhất định được thoả mãn.
Di sản Hoa Kỳ
Việc Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn Sang trao tặng Tổng thống Obama một bản sao lá thư mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng gửi Tổng thống Truman là thông điệp nhiều ý nghĩa.
67 năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn lối rẽ cộng sản sau khi thất bại trong việc thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ năm 1946 buộc họ phải dựa vào khối cộng sản để phát động 9 năm kháng chiến chống Pháp mà hệ quả sau đó là sự can thiệp của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Nam-Bắc Việt Nam 1954-1975.
67 năm sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở Ba Đình lại cảm thấy cần đến Mỹ hơn bao giờ hết. Thông điệp không thể nhầm lẫn mà Chủ tịch Sang chuyển tới Tổng thống Obama là hãy hợp tác với chúng tôi vì quyền lợi của tất cả chúng ta; Việt Nam đã sẵn sàng bước qua khúc quanh lịch sử 67 năm để hướng tới một tương lai tươi sáng trong quan hệ Việt-Mỹ, như buổi sáng đẹp trời ấm áp hôm 25/7/2013, khi Chủ tịch hiện thời của Việt Nam bước vào Nhà Trắng mang theo bức thông điệp 67 năm trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - là hãy giúp Việt Nam chúng tôi!
Vài năm tới đây là cơ hội thuận lợi để Hoa Kỳ củng cố hình ảnh của họ không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp cả khu vực, khẳng định rằng họ vẫn là nguồn cảm hứng cho tự do và dân chủ. Tuy nhiên, để biến điều này thành hiện thực, Hoa Kỳ phải hành động tương ứng. Liệu Hoa Kỳ còn có thể tạo ra một di sản nào lớn hơn ở Việt Nam so với việc thiết lập một nền tự do - dân chủ trên đất nước này?
Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Vũ Đức Khanh
Vũ Đức Khanh là luật sư và giáo sư luật bán
thời gian tại Đại học Ottawa, chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam,
quan hệ quốc tế và luật pháp quốc tế.
Lê Anh Hùng
Lê Anh Hùng là một blogger tự do trẻ trong nước tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam.
THƯ TỊCH &MỤC LỤC
TẬP III. BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 272
36.Hải Huỳnh .Sau chuyến đi Mỹ với chủ tịch nước mục sư Y Ky Ê Ban nói gì?
danlambaovn.blogspot.com
37. Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: ‘Đường lưỡi bò’ của Trung Quốc là phi lý’
http://www.baomoi.com/Chu-tich-nuoc-Truong-Tan-Sang-Duong-luoi-bo-cua-Trung-Quoc-la-phi-ly/122/11562143.epiBDN
38.Việt-Long-GS Nguyễn Mạnh Hùng. 2013-08-01. Thành quả và bất cập trong chuyến công du lớn
http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/gain-and-no-gain-in-vn-s-president-s-visit-to-the-us--itw-with-prof-nguyen-manh-hung-08012013125003.html
39. Sợ Trung Quốc, Hà Nội tìm điểm tựa ở Washington. http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130725-so-trung-quoc-ha-noi-tim-diem-tua-o-washington
40. Phạm Chí Dũng. Hậu Obama-Sang: Bao lâu cho lộ trình TPP?
http://www.voatiengviet.com/content/hau-obama-sang-bao-lau-cho-lo-trinh-tpp/1713795.html
41.Phạm Chí Dũng.Gửi cho BBC từ Sài Gòn.Bốn kịch bản cho cuộc gặp Mỹ-Việt
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/07/130724_sang_us_visit_possible_outcomes.shtml
42.Nguyễn Hoàng. BBC tiếng Việt, gửi từ Washington.Cập nhật: 11:28 GMT - thứ ba, 23 tháng 7, 2013. Trước giờ gặp nguyên thủ Việt - Mỹ. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/07/130723_viet_my_truoc_gio_gap_cua_nguyen_thu.shtml
43.Chưa đủ ủng hộ để bán vũ khí cho VN'.http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/07/130723_hoa_ky_chua_ban_vu_khi_cho_vn.shtml
44.Nhà văn Huỳnh Ngọc Tuấn. Nhận định về chuyến Hoa du và Mỹ du của ông Trương Tấn Sang
chuyenhoavietnam .Tháng Tám 1, 2013
45. Phạm Trần. Ông Sang xây một, Nguyễn Thanh Sơn phá mười.dannlambaovn.blogspot.com
46.Jonathan London. Toàn diện về cái gì?.http://bolapquechoa.blogspot.ca/2013/08/toan-dien-ve-cai-gi.html
47.Cánh Cò, viết từ Việt Nam. 2013-07-24 |.. Quà ngoại giao.
http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/blog-07232013-canhco-07242013130529.html
48. TRẺ RANH LUẬN CHÍNH.BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 273
49. Tuyên bố chung Việt-Mỹ.Cập nhật: 03:28 GMT - thứ sáu, 26 tháng 7, 2013. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2013/07/130726_joint_statement_vn_us.shtml
50. Xây dựng một di sản mới của Mỹ ở Việt Nam.
http://www.voatiengviet.com/content/xay-dung-mot-di-san-moi-cua-my-o-vietnam/1712892.html
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple @ gmail)
ReplyDelete