CHƯƠNG XV
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
PHẬT GIÁO TRIỀU TIÊN
I. LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TRIỀU TIÊN
Phật giáo Triều Tiên trong thời Tam Quốc: Cao Ly ( Koguryo): Vào năm 372 Tây lịch, một tăng sĩ được thỉnh cầu từ Trung Hoa đến nước Cao Ly. Ngài đã mang theo số Kinh và một vài tượng Phật. Phật giáo đã được vua chúa và dân chúng tiếp nhận rất nhanh.
Nước Bách Tế (Paekje): Phật giáo được truyền vào nước Bách Tế từ Cao Ly vào năm 384 vào, tại đây vua chúa và quần thần cũng rất mộ đạo. Vua Asin (392-450), đã khuyên bảo quần thần và nhân dân rằng: "Nên tin tưởng vào Pháp Phật để mưu tìm hạnh phúc". Trong triều đại của vua Song ( 523-554), có một tăng sĩ tên là Kyomik, trở về từ Ấn Độ với nhiều bản kinh mới . Ngài được xem là vị Tổ khai sơn của một trong những tông phái phật giáo chính tại Triều Tiên. Đầu năm 530, một số tăng sĩ Triều Tiên đã lên đường đi truyền bá Phật Pháp tại Nhật Bản. Trong chuyến đi này có một vài kiến trúc sư và họa sĩ tháp tùng. Nhờ những người này mà những ngôi chùa ở Nhật bản được xây dựng lên không lâu sau khi họ đặt chân đến Nhật .
Nước
Tần
La
(Shilla):
Đối
với
nước
Shilla
thì
Phật
pháp
phát
triển
một
cách
chậm
chạp
cho
đến
thời
kỳ
vua
Pháp
Hưng
(Pophung,
514-540)
thì
Phật
giáo
mới
được
thừa
nhận
là
quốc
giáo
(
national
religion)
của
Shilla.
Vua
Chân
Hưng
(Chihung,
540-575)
đặc
biệt
khuyến
khích
phát
triển
Đạo
Phật.
Trong
thời
gian
trị
vì,
ông
đã
cho
thành
lập
Trường
Phật
Giáo
Hwarangdo,
tuyển
chọn
những
người
trẻ
tuổi
rồi
đào
tạo
theo
nguyên
tắc
của
Phật
giáo
để
ra
phục
vụ
cho
nước
nhà.
Trong
thời
đại
của
Shilla,
những
tác
phẩm
nghệ
thuật
Phật
giáo
có
giá
trị
đã
bắt
đầu
xuất
hiện,
chẳng
hạn
như
tượng
đá
Phật
Thích
Ca
ở
Kyongju
và
chùa
Hwangnyong
đã
được
xây
dựng
trong
thời
kỳ
này.
- Phật giáo Hàn quốc từ thời thống nhất của Tần La đến ngày nay:
-
Triều
đại
Tần
La
(
668-935):Năm
668,
Triều
đại
Tần
La
đã
có
công
thống
nhất
đất
nước,
và
PG
nhờ
vậy
mà
cũng
được
thống
nhất.
Trong
suốt
triều
đại
Shilla
PG
đã
tiếp
tục
phát
triển
cả
về
mặt
học
thuật
lẫn
văn
hóa.
Trong
thời
đại
này,
nhiều
tác
phẩm
nghệ
thuật
PG
đã
xuất
hiện,
nhiều
chùa,
tháp,
tượng
Phật
có
tính
lịch
sử
cũng
đã
được
tạo
dựng.
Kinh
Hoa
Nghiêm
(
Avatamsaka
Sutra)
và
Kinh
Pháp
Hoa
(
Saddharmapundarika
Sutra)
đã
bắt
đầu
được
nghiên
cứu,
trong
khi
Đức
Phật
Di
Đà
(the
Buddha
of
Light)
và
Bồ
Tát
Quán
Âm
(the
Bodhisattva
of
Compassion)
được
thờ
phượng
khắp
nơi.
Đến
cuối
triều
đại
Tần
La
Thiền
Tông
đã
được
giới
thiệu
từ
Trung
Hoa,
và
chính
trường
phái
này
đã
giúp
cho
PGTT
lật
qua
một
trang
sử
mới.
-
Triều
đại
Cao
Ly
(
935-1392):
Sau
khi
triều
đại
Tần
La
suy
tàn,
nhà
Cao
Ly
tiếp
nối
vào
thế
kỷ
thứ
mười.
PG
tiếp
tục
là
quốc
giáo,
nhiều
vị
vua
đã
phát
tâm
xây
dựng
chùa
tháp
và
ủng
hộ
nhiều
mặt
cho
Chánh
Pháp.
Tuy
nhiên
vào
thời
điểm
này
có
quá
nhiều
sự
tập
trung
vào
lễ
nghi
và
điều
này
đã
tạo
ra
một
tình
cảnh
không
thích
hợp
cho
việc
phát
triển
tâm
linh.
Trong
nỗ
lực
gạn
lọc
và
tái
tạo
lãnh
vực
tu
tập
tâm
linh,
nhiều
tăng
sĩ
đã
chống
lại
khuynh
hướng
lễ
nghi
này.
Một trong ba thiền sư là ngài Nghĩa Định (Ui- chon, 1055-1101), con trai của vua Minh Tôn (Munjong, 1047-1083), người đã mang về cho Triều Tiên 4000 Kinh sách các loại khi ngài còn du học ở Trung Hoa, từ những bộ kinh này mà bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên (Tripitaka Koreana) đã được thành lập vào thế kỷ thứ 11, đây là một trong những thành công rực rỡ của PG dưới triều đại của Koryo.
Thiền sư Nghĩa Định cũng được xem là người có công mang hạt giống thiền của tông Thiên Thai về cho TT và thiền phái này đã tạo ra một không khí mới cho PG Triều Tiên thời bấy giờ.
Một trong ba thiền sư là ngài Nghĩa Định (Ui- chon, 1055-1101), con trai của vua Minh Tôn (Munjong, 1047-1083), người đã mang về cho Triều Tiên 4000 Kinh sách các loại khi ngài còn du học ở Trung Hoa, từ những bộ kinh này mà bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên (Tripitaka Koreana) đã được thành lập vào thế kỷ thứ 11, đây là một trong những thành công rực rỡ của PG dưới triều đại của Koryo.
Thiền sư Nghĩa Định cũng được xem là người có công mang hạt giống thiền của tông Thiên Thai về cho TT và thiền phái này đã tạo ra một không khí mới cho PG Triều Tiên thời bấy giờ.
Tiếp
đó,
thiền
sư
Tri
Nột
(Chi-nul,
1158
-
1210),
đã
trở
thành
người
lãnh
đạo
cho
PG
TT.
Ngài
đã
khai
sơn
chùa
Songgwang
trên
núi
Tào
Khê
(Chogye),
đây
là
một
ngôi
tổ
đình
của
tông
phái
thiền
hơn
300
năm.
Chín
tông
phái
thiền
đã
được
thiền
sư
Thái
Cổ
(Tae-go,
1301
-
1382)
thống
nhất
với
tên
gọi
là
thiền
phái
Tào
Khê
(Chogye),
một
tông
phái
chính
của
PG
TT
vẫn
còn
duy
trì
cho
tới
ngày
hôm
nay.
PG
vẫn
duy
trì
và
ảnh
hưởng
mạnh
mẽ
trong
giới
trí
thức
vào
cuối
triều
đại
Cao
Ly.
Khổng
giáo
được
truyền
đến
bán
đảo
Triều
Tiên
cùng
thời
với
PG
nhưng
không
đạt
được
kết
quả
như
vậy.
-
Triều
đại
Triều
Tiên
(Choson
,
1392-1910):
Với
sự
suy
sụp
của
triều
đại
Cao
Ly
vào
năm
1392,
PG
cũng
theo
đó
mà
đi
xuống
khi
những
vị
vua
của
tân
triều
đại
Triều
Tiên
theo
Khổng
giáo.
Trong
thời
kỳ
này
nhiều
tăng
sĩ
PG
đã
tham
gia
vào
chính
sự.
Các
vua
của
triều
đại
này
từng
có
những
chiến
lược
đàn
áp
PG
một
cách
thẳng
tay.
Chùa
chiền
không
được
xây
dựng
gần
thành
phố
mà
phải
xây
ở
tận
nơi
rừng
sâu
núi
thẳm,
nhiều
ngôi
chùa
đã
bị
phá
hủy,
tăng
sĩ
bị
coi
rẽ
và
không
được
phép
đặt
chân
đến
thành
phố.
Tuy
nhiên
cũng
có
một
vài
vị
vua
trong
triều
đại
này
đã
bảo
hộ
PG
và
một
điều
quan
trọng
là
dân
chúng
vẫn
giữ
niềm
tin
đối
với
Chánh
Pháp.
Đến
cuối
thế
kỷ
16,
trong
khoảng
thời
gian
Nhật
Bản
xâm
lược
Triều
Tiên,
PG
đã
trở
lại
cứu
hộ
cho
đất
nước.
Ở
tuổi
72,
thiền
sư
Tây
Sơn
(So-
san
1520
-1604)
và
người
đệ
tử
là
Tứ
Minh
Đường
(Sa-myong
1544-1610)
cùng
với
5000
tăng
binh
(
Buddhist
monk
soldiers)
đã
đổ
ra
chiến
trường.
Theo
sau
cuộc
chiến
bại
của
Nhật
Bản,
thiền
sư
Tứ
Minh
Đường
đã
dẫn
đầu
một
phái
đoàn
tới
Nhật
Bản
vào
năm
1604
và
ngài
đã
hoàn
tất
sứ
mạng
của
mình
với
một
bản
hiệp
ước
hòa
bình
giữa
Nhật
và
Triều
Tiên.
Từ 1910 - đến nay: Vào năm 1910 triều đại Triều Tiên đã tàn lụi với sự thôn tính của đế quốc Nhật Bản. Trong thời kỳ thuộc địa, PG đã được thừa nhận và ủng hộ bởi chính quyền Nhật Bản. Tuy nhiên, các tông phái PG bản xứ không được phát triển và tăng sĩ được khuyến khích lấy vợ. Vị trù trì của mỗi chùa phải được bổ nhiệm từ chính quyền. Trong thời kỳ này, nhiều tác phẩm nghệ thuật PG đã bị mang về Nhật Bản. Gần đây, chính quyền TT đã có những cuộc thương thuyết với phía Nhật Bản để đòi lại những bảo vật của Phật Giáo. Sau cuộc cách mạng 1945, tăng sĩ thanh tịnh của thiền phái Tào Khê đã thay thế cho những tăng sĩ có gia đình để trù trì những ngôi chùa từng bị Nhật Bản chiếm đóng. Trong bốn thập niên qua, nhiều chùa chiền đã được xây dựng trở lại trong thành phố. Có rất nhiều chương trình tu học cho mọi giới trong xã hội. Một nửa dân số TT là Phật Tử. Một số lượng lớn nam nữ Phật Tử TT đã xuất gia và PGTT đã được phục hưng rất nhanh.
-
Về
các
Tông
Phái
Phật
giáo
tại
Triều
Tiên:
Hiện
tại
ở
TT
có
tất
cả
là
18
tông
phái
PG
khác
nhau
xuất
phát
từ
bốn
tông
phái
chính
là
Thiền
tông,
Mật
tông,
Pháp
Hoa
tông
và
Hoa
Nghiêm
tông.
Tất
cả
đều
theo
truyền
thống
Phật
giáo
Mahayana
và
phần
lớn
được
thành
lập
vào
sau
năm
1945.
18
tông
phái
trên,
nổi
bật
và
có
tầm
ảnh
hưởng
sâu
rộng
nhất
là
Thiền
phái
Tào
Khê
(Tào
Khê
là
một
tên
gọi
khác
của
Lục
tổ
Huệ
Năng,
638-713)
được
thiền
sư
Thái
Cổ
(1301
-
1382),
một
tăng
sĩ
Hàn
Quốc
nổi
tiếng
trở
về
từ
Trung
Hoa
vào
năm
1346
và
lập
nên
thiền
phái
này.
Ngài
cho
rằng
thiền
là
một
pháp
tu
tốt
nhất
để
đạt
tới
giác
ngộ.
Những
bộ
kinh
căn
bản
của
thiền
phái
này
là
Kinh
Bát
Nhã,
Kinh
Kim
Cang,
Kinh
Pháp
Bảo
Đàn,
Kinh
Hoa
NghiêmẨ
có
khoảng
1632
ngôi
chùa
là
chi
nhánhở
khắp
trong
và
ngoài
Triều
Tiên,
và
có
khoảng
18.000
tăng
ni
và
khoảng
6.000.000
tín
đồ
qui
y
theo
phái
này.
II. KIẾN TRÚC CHÙA CHIỀN TẠI TRIỀU TIÊN
1. CHÙA HẢI ẤN
Chùa được xây năm 802. Truyền thuyết cho biết có hai vị sư Triều Tiên du học tại Trung Quốc, khi trở về, được nhà vua Triều Tiên sai lập chùa. Chùa đưọc sửa chữa nhiều lần vào 900, 1488, 1622, và 1644. Tòa có thư viện. Vào 1817 tàng Kinh các này còn gọi là Bát Vạn Đại Tạng Kinh đã may mắn thoát khỏi cơn hỏa hoạn . Nhưng rủi thay, số phận của bộ ĐTK này đã bị thiêu rụi bởi ngọn lửa xâm lăng của Mông Cổ. Đến thế kỷ 13 bộ ĐTK mới được khắc trở lại theo chiếu chỉ của vua Kojong ( 1213-1259) và được bảo trì tại chùa Hải Ấn (Haein-sa) thuộc tỉnh Nam Gyeongsang cho đến ngày nay.
Bộ
Đại
Tạng
Kinh
Triều
Tiên
khắc
trên
gỗ
tại
thư
viện
Chùa
Hải
Ấn Một
vài
ghi
nhận
về
quá
trình
chạm
khắc
bộ
Đại
tạng
Kinh
bằng
gỗ
này:
Chọn
loại
gỗ
bu-lô
trắng
rồi
đem
ngâm
dưới
nước
biển
ba
năm,
sau
đó
vớt
lên
phơi
khô
ba
năm,
rồi
mới
sử
dụng
để
khắc
chữ.
Người
ta
ghi
nhận
rằng
công
trình
vĩ
đại
này
chỉ
do
một
nam
Phật
tử
thực
hiện
ròng
rã
trong
16
năm
để
hoàn
thành
52.382.960
chữ,
gồm
6791
quyển. Vào năm 1995, Tổ
chức giáo dục, khoa học và văn hoá (UNESCO) đã công nhận Tàng Kinh Các
này là di sản văn hoá thế giới.
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn
Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn
Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn
Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn
Thư viện cất giữ bộ Đại Tạng Kinh Triều Tiên
khắc trên gỗ tại thư viện Chùa Hải Ấn
Toàn cảnh Chùa Hải Ấn
Toàn cảnh Chùa Hải Ấn
Toàn cảnh
Chùa
Hải Ấn
Toàn cảnh Chùa Hải Ấn
2. CHÙA BORIAM
Ngôi chùa Boriam cổ kính được đại sư Wonhyo Daisa (617 - 686) xây
cất năm 683 trên một vách đá cheo leo ở lưng chừng núi Chuwolsan nổi
tiếng với phong cảnh đẹp nhất nhì xứ sở Triều Tiên. Chốn linh
thiêng, cổ kính được thiên nhiên ưu ái ban tặng một khoảng không
gian núi đồi điệp trùng, cỏ cây hoa lá chen nhau đua nở này, hằng
năm vẫn đón nhận những Phật tử lòng thành từ khắp nơi đổ về, nguyện
cầu bình an và lắng lòng với thiên nhiên.
3. CHÙA SAMWHASA
Là
một ngôi đền cổ có từ hàng nghìn năm trước, bao quanh bốn bề linh
thiêng là những dãy núi cao sừng sững trong thung lũng Mureung ở chân
núi Datasan, đền Samwhasa mặc dù từng bị quân đội Nhật Bản đốt phá, vẫn
giữ được nét “ngọa hổ tàng long” uy nghiêm cùng cảnh trí độc đáo, tinh
tế đủ sức hấp dẫn cho các thi sĩ, thư pháp và các nhà sư đức độ năng
viếng thăm, ngoạn cảnh.
4. OEOSA
Ngôi chùa với cảnh trí đẹp độc đáo này được Hoàng Đế thứ 26 của triều
đại Silla Jinpyeong (579 - 632) xây cất cách đây hàng nghìn năm, hiện là
một trong những nơi thu hút nhiều Phật tử cũng như du khách viếng thăm
nhất Tri62u Tiên. Nằm bên bờ kinh có hàng cây xanh mướt giữa trùng trùng
điệp điệp là các ngọn đồi thấp phủ đầy sắc vàng, xanh của cỏ cây hoa
lá, ngôi chùa hiện lên linh thiêng, bình dị đến tĩnh mặc. Ai từng đến
đây, hẳn không thể quên bức mặc thủy đẹp hút hồn của Oeosa.
5. CHEONGRYANGAA
Được một đại sư
sống vào thời Hoàng đế Munmu (661 - 681) dưới triều đại Silla xây cất và
sau này được Hoàng đế Taejo (877 - 943) tái thiết lại vào cuối triều
đại Goryeo (918 - 1392), Cheongryangsa là một ngôi đền độc đáo, mặt sau
đền tựa vào vách đá cheo leo giữa lưng chừng núi, mặt trước của đền lại
hướng về xa xa, nơi có những ngọn đồi, vách đá trùng điệp, xanh mướt.
Rất nhiều học giả huyền thoại của Tri62u Tiên như nhà sư Wonhyo Daisa
(617 - 686) - người xây cất chùa Boriam và Toegye Yi Hwang (1501 -
1570), nhà triết học Nho giáo vĩ đại thời Joseon tùng học tại ngôi đền
linh thiêng này.
5. MA CỐC CỔ TỰ (MAGOKSA)
Ma Cốc Cổ Tự (Magoksa) tọa lạc tại 966, Thôn magoksa-ro, Phường myeon Sagok, Thành phố Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do,
Do Hòa thượng Luật sư Từ Tạng (Jajangyulsa) khai sơn vào thế kỷ thứ 7, khoảng năm 640. Nằm phía đông sườn núi Thái Hoa sơn (Taehwasan) và được bao quanh bởi dòng sông uốn cong hình âm dương, tạo thế phong thủy địa lý tuyệt vời. Có lẽ thiên nhiên ban tặng cho thế đất thiêng vượng khí, cho nên ngôi Thánh địa Già Lam mãi hưng thịnh bền vững, không bao giờ bị hư hỏng, bởi bất kỳ cuộc chiến tranh lớn nào, nhất là trong thời kỳ Triều Tiên (Joseon) (1392-1910).
Ma Cốc Cổ Tự (Magoksa) tọa lạc tại 966, Thôn magoksa-ro, Phường myeon Sagok, Thành phố Công Châu (Gongju-si), tỉnh Thanh Trung Nam đạo (Chungcheongnam-do,
Do Hòa thượng Luật sư Từ Tạng (Jajangyulsa) khai sơn vào thế kỷ thứ 7, khoảng năm 640. Nằm phía đông sườn núi Thái Hoa sơn (Taehwasan) và được bao quanh bởi dòng sông uốn cong hình âm dương, tạo thế phong thủy địa lý tuyệt vời. Có lẽ thiên nhiên ban tặng cho thế đất thiêng vượng khí, cho nên ngôi Thánh địa Già Lam mãi hưng thịnh bền vững, không bao giờ bị hư hỏng, bởi bất kỳ cuộc chiến tranh lớn nào, nhất là trong thời kỳ Triều Tiên (Joseon) (1392-1910).
Magoksa, ngôi chùa nằm trên sườn phía đông của ngọn núi Taehwasan, ở
thành phố Gongju, tỉnh Nam Chungcheong là một ngôi chùa cổ, rộng lớn,
xây cất năm 640 dưới triều đại Silla với khoảng 30 phòng, được xem là
đại diện đứng đầu Tông phái Tào Khê Phật giáo Triều Tiên ở Gongji. Bên
cạnh vẻ linh thiêng, cổ kính được rừng cây xanh bao phủ trên sườn núi,
Mogoksa còn là ngôi chùa Phật giáo lưu giữ rất nhiều di sản văn hóa cổ
xưa rất quý giá.
7. TAPSA
Tapsa là ngôi chùa nổi tiếng bởi rất nhiều điều bí ẩn xoay quanh, từ
việc xây dựng gần 100 ngọn tháp cổ mà không cần đến xi-măng hay trát vữa
mà vẫn sừng sững, hiên ngang trước gió bão đến truyền thuyết có một học
giả sống vào thế kỷ 19 đã xây hẳn một ngọn tháp bằng đá làm nơi cầu
nguyện cho toàn nhân loại được bình an. Tapsa thu hút du khách không chỉ
bởi là chốn linh thiêng có nhiều điều bí ẩn mà nơi đây còn có hẳn con
đường hai hàng cây hoa anh đào khoe sắc xuân dài 500m dẫn lối vào chùa.
8. UNJUSA
Ngôi đền Unjusa ở tỉnh Nam Jeolla nổi tiếng toàn xứ sở hoa anh đào bởi hàng nghìn bức tượng Đức Phật điêu khắc bằng đá rất tinh xảo dưới muôn hình vạn trạng được xem là vô cùng bí ẩn này, được vị sư nổi tiếng Doseon Guksa (826 - 898) sống dưới triều đại Silla xây cất. Ngôi đền hiện chỉ còn lưu giữ khoảng 80 bức tượng Phật bằng đá và một số di tích quý hiếm khác.
9. YEONGOKSA
“Ông tổ” của ngôi đền gắn liền với truyền tích thú vị này là Yeongi
Josa. Tương truyền, một lần tình cờ đi ngang qua vùng đất này, Yeongi
nhìn thấy một cái ao, ở giữa là dòng xoáy nước, bất chợt có một cánh
chim nhạn bay ra từ xoáy nước đó. Như một lời nhắn nhủ từ Đức Phật linh
thiêng, Yeongi đem lấp cái ao và xây dựng lên nền đất đó một ngôi chùa
và đặt tên là Yeongoksa (Yeon nghĩa là sen, gok nghĩa là xoáy nước).
Ngày nay, ngôi chùa Yeongoksa là một thiền viện linh thiêng mà nhiều tín
đồ Phật giáo vẫn đến để tụng kinh, cầu nguyện.
10. BULYOUNGSA
Khuôn viên rộng lớn của ngôi chùa Bulyoungsa (Bóng Đức Phật) khép mình
giữa chốn núi rừng xanh bao phủ, ở giữa thung lũng Bulyoungsa ngút ngàn
của tỉnh Gyeongsangbuk-do, phía đông Triều Tiên này được xây dựng vào
năm 651 dưới thời triều đại Shinla. Do có bức tượng bằng đá to lớn của
Đức Phật, uy nghiêm chiếu bóng xuống mặt hồ tĩnh lặng mà ngôi chùa được
đặt là Bulyoungsa. Hiện nay, Bulyoungsa vẫn còn lưu giữ rất nhiều di
tích văn hóa quý giá của xứ Hàn.
11. DAEHEUNGSA
Trên một quần đảo ở bờ biển phía tây và nam Hàn Quốc, có một di tích
lịch sử nằm ẩn mình trong một khung cảnh thiên nhiên vô cùng lộng lẫy,
nơi khu rừng cây xanh rậm rạp bao quanh, hòa cùng cánh đồng cỏ bạt ngút
ngàn, được xây dựng trước khi triều đại Silla thống nhất, ngôi chùa
Daeheungsa rộng lớn, cổ kính hiện lên như dải thiêng, nơi vẳng văng đâu
đây tiếng chuông nguyện cầu, nơi hàng năm vẫn quy tụ rất nhiều Phật tử
viếng thăm và thưởng ngoạn cảnh sắc tuyệt vời.
12. DAEJEONSA
Daejeonsa là ngôi đền lớn nhất ở tỉnh Cheongsong-gun, nằm gọn trong
khung cảnh tuyệt đẹp của dãy núi Juwang. Công trình nổi tiếng nhất ở
Daejeonsa là Bogwangjeon - vốn được coi là quốc bảo của đất nước. Bên
trong nó lưu giữ bản thảo khắc gỗ và những lá thư tay của Lee Yeo-song,
vị tương quân dưới triều đại nhà Minh ở Triều Tiên.
13. GANGCHEONSA
13. GANGCHEONSA
Năm 1316 là một năm quan trọng với khu di tích Gangcheonsa, khi ngôi
chùa đá 5 tầng được xây cất trên khuôn viên đền chùa cổ. Người ta cho
rằng, 1.000 nhà sư có thể cùng sống ở trong chùa. Bên cạnh nhóm đền chùa
Gangcheonsa, còn có một loạt những điểm đến hấp dẫn đang chờ đón du
khách như pháo đài trên núi Geumseong, thác nước Yongso, hồ Gangcheon,
hồ Damyang và công viên quốc gia Naejang.
14. TAEANSA
Đền Taeansa mang một vẻ đẹp xốn xang, đặc biệt là vào tiết trời thu khi
những cánh rừng rậm bao quanh đền chuyển sắc vàng và đỏ. Con đường dài
2,3 km lên vãn cảnh cũng như thung lũng nơi ngôi đền tọa lạc đều đẹp đến
nao lòng. Nếu ghé thăm Taeansan, chư Phật tử đừng quên tới ngọn tháp
Neungpa gần đó, với kiến trúc truyền thống được bảo tồn gần như nguyên
vẹn và thăm Gok-song Haneulnari-một ngôi làng thơ mộng cách đó 5 km.
15. MANGGYONGSA
Nằm trên đỉnh núi Taebaek ở độ cao tới 1.460m, đền Manggyeongsa được cho
là nơi tọa lạc của bức tượng đá Phật Bodhisattva. Một nhà sư dưới triều
đại Silla (năm 57 trước công nguyên tới năm 935 sau công nguyên) có tên
Jajang đã cho xây cất ngôi đền để thờ bức tượng. Ngoài ra, khi tới thăm
đền, khách du lịch còn được tắm trong dòng suối nước nóng ở địa thế cao
nhất Triều Tiên- suối Long.
16. BUSEOKSA
Nằm trong danh sách 10 ngôi đền lớn nhất Triều Tiên, chùa Buseoksa lưu giữ tới 5 quốc bảo của đất nước. Muryangsujeon, quốc bảo số 18 của xứ Hàn là một trong những tòa nhà gỗ cổ nhất, cũng là điểm sáng trong khu vực kiến trúc Buseoksa.
17 NAEJANGSA
Bao quanh bởi rừng lá phong đẹp mê hồn trong công viên quốc gia Naejang,
khu vực kiến trúc Phật giáo Naejangsa được khởi công xây cất năm 636,
tuy nhiên phải đến sau thời Jeongyujeran (năm 1579), Naejangsa mới được
hoàn thiện.
18. BEOPUSA
18. BEOPUSA
Với hơn 60 đại liêu và 70 tu viện, chùa Beopjusa là khu vực đền chùa lớn
và lộng lẫy nhất Triều Tiên trước khi bị thiệu rụi trong trận hỏa hoạn
năm 1592 gây ra bởi cuộc chiến tranh xâm lăng của Nhật Bản vào Triều
Tiên. Hiện tại, Beopjusa còn 30 tòa nhà với rất nhiều di cảo văn hóa.
Nổi bật nhất trong khuôn viên Beopjusa là một quốc bảo quan trọng khác
của xứ Hàn - ngôi chùa cao nhất Triều Tiên (22,7 mét với 5 tầng) làm
bằng gỗ.
19. CHEONEUNSA
Cheoneunsa là một trong ba ngôi đền lớn nhất trên núi Jiri. Nó được xây
cất năm 828 nhưng bị thiêu rụi sau cuộc xâm lăng của quân Nhật năm 1592.
Đến năm 1610, nó lại bị đốt cháy. Đền tiếp tục được xây lại vào năm sau
đó, nhưng tiếp tục cháy vào năm 1773. Năm 1775, đền được trùng tu.
Theo tương truyền, khi trùng tu đền vào năm 1592, người dân quanh vùng
đã giết một con rắn lớn xuất hiện ở con suối gần ngôi đền. Dòng suối đột
nhiên khô cạn và ngôi đền tiếp tục bắt lửa. Người dân tin rằng con rắn
chính là linh hồn của nước. Khi Wongyo Lee Gwangsa, một trong bốn nhà
thư pháp nổi tiếng thời Joseon (1392 - 1910) biết tới truyền thuyết này,
ông đã dùng thư pháp điêu luyện của mình, viết tên ngôi đền và treo nó
trước cổng đền. Kể từ đó, ngôi đền đã không cháy nữa.
20. ChEONGPYEONGSA
Khi tới thăm đền Cheongpyeongsa, du khách sẽ được ngắm cảnh đẹp tuyệt
vời của thung lũng và những thác nước thần tiên trên hồ Soyang, và được
nghe kể một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Truyện kể rằng, ở
vùng Gangwon-do, có một chàng trai yêu một nàng công chúa tới mức biến
thành một con rắn để theo sát những bước nàng đi. Vào những năm đói kém,
loạn lạc, công chúa đi xin cơm cho người dân.
Khi tới đền Cheongpyeongsa để xin cơm, nàng đã bảo con rắn ở ngoài đợi.
Con rắn nằm thu mình, đợi công chúa, tuy nhiên bỗng một cơn bão lớn kéo
tới, một vệt sét dài đánh trúng con rắn khiến nó chết. Quá thương tâm,
công chúa đã chôn cất con rắn ngay tại ngôi đền.
21. GOLGULSA
Đền Golgulsa được xây dựng giữa những hang động, vách đá vôi của ngọn
núi Hamwol. Có tới 12 hang động đá vôi lớn trong quần thể đền, chùa và
một tượng Phật bằng đá được tạc vào trong núi. Đây được coi là nơi khai
sinh môn võ sunmudo, một bộ môn thiền được lưu truyền qua nhiều thế hệ ở
Hàn Quốc.
22. CHÙA BULGUKSA
Bulguksa hay Phật Quốc tự (chữ Hàn: 불국사, chữ Hán: 佛國寺) là một ngôi chùa ở tỉnh Bắc Gyeongsang của Hàn Quốc. Đây là nơi có 7 quốc bảo Triều Tiên, bao gồm các tháp đá Dabotap và Seokgatap,
Cheongun-gyo (cầu mây xanh), và tượng Phật bằng đồng dát vàng. Ngôi
chùa này được xếp loại danh lam thắng cảnh và lịch sử số 1 của Hàn Quốc.[1] Năm 1995, Bulguksa cùng với động Seokguram cách đó 4 km được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.Với
phong cách kiến trúc độc đáo và có niên đại hơn một ngàn năm, chùa
Bulguksa ở Gyeongju, Hàn Quốc, là một ví dụ quan trọng của kiến trúc
Silla là nơi thăm viếng có giá trị.
Đây là ngôi chùa Bulguksa với kiểu kiến trúc hùng vĩ nguy nga. Phong cảnh xung quanh xanh tươi thanh thản làm cho một ngôi chùa một vẻ tôn nghiêm yên bình.
Truyền thuyết kể rằng ngôi chùa được thiết lập bởi Thủ tướng Kim Dae Seong, người đã cống hiến để tưởng niệm tổ tiên của mình. Ngôi chùa được hoàn thành năm 774 bởi triều đình hoàng gia Silla và được đặt tên là Bulguksa - có nghĩa là "Chùa văn học của đất Phật".
Khi ngôi chùa được hoàn thành, bao gồm 80 tòa nhà nằm trên đỉnh cao của một triền đá. Ngôi chùa đã bị đốt cháy trong cuộc xâm lược của Hideyoshi Toyotomi vào năm 1592. Được tái tạo một phần trong thời gian Nhật chiếm đóng từ 1910-1945 và hoàn toàn phục hồi dưới thời Tổng thống Park Chung-hee trong những năm 1970. Mặc dù toàn bộ ngôi đền được xây dựng lại, nhưng kiến trúc vẫn thanh lịch và uy nghi.
Chùa Bulguksa không lớn như các ngôi chùa nổi tiếng khác trong nước. Tuy nhiên, ngôi chùa là một trong những kiến trúc nổi bật của thời đại kiến trúc Silla còn tồn tại ngày hôm nay.Chánh điện là phần xây dựng quan trọng nhất - Daeungjeon, hội trường của Đại Giác Ngộ, là nơi thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phía trước chánh điện là hai ngôi tháp, tháp Seokgatap và tháp Dabotap, được thiết kế bởi vị thủ công bậc thầy huyền thoại trong thế kỷ thứ 8.
Tháp Seokgatap bằng đá cao ba tầng với chiều cao 8 mét là một phong cách truyền thống Hàn Quốc với đường nét đơn giản và trang trí tối thiểu. Được bao quanh bởi tám tòa hoa sen bằng đá, tượng trưng cho tám đóa hoa sen rơi từ trên trời như được ghi trong Kinh Pháp Hoa.
Tháp đá Dabotap.
Trong thời gian tái thiết ngôi bảo tháp đã phát hiện bên trong những bảo vật như một tập kinh, một hộp sari, đĩa để kinh bằng bạc và một một bản khắc gỗ chép Kinh Dharani in trong những năm đầu của thế kỷ thứ 8.
Tòa tháp Dabotap cao 10,4 mét và dành riêng cho Đa Bảo Như Lai, Ngài đã thực hiện một lời tiên tri về tháp bảo kỳ diệu trong Kinh Pháp Hoa. Tượng trưng sự phức tạp của vũ trụ, tòa bảo tháp này trang trí rất công phu.
Du khách đến thăm viếng chùa Bulguksa không nên bỏ lỡ dịp tham quan chùa Seokguram là một phần của chùa Bulguksa gần đó. Du khách đi bộ khoản một cây số, phong cảnh với đường món đi qua một khu rừng tươi tốt làm đoạn đường dường như thu ngắn lại.
Vào cuối của đường mòn là ngôi chùa Seokguram, nó là nơi trú ngụ của Seokguram Grotto Hermitage, là một hang động nhân tạo nằm trên các ngọn đồi ở trên Bulguksa. Được dựng lên khi trong thế kỷ thứ 8, trong các hang động được thiết kế bởi vị thủ tướng Dae Kim Seong.
Đây là ngôi chùa Bulguksa với kiểu kiến trúc hùng vĩ nguy nga. Phong cảnh xung quanh xanh tươi thanh thản làm cho một ngôi chùa một vẻ tôn nghiêm yên bình.
Truyền thuyết kể rằng ngôi chùa được thiết lập bởi Thủ tướng Kim Dae Seong, người đã cống hiến để tưởng niệm tổ tiên của mình. Ngôi chùa được hoàn thành năm 774 bởi triều đình hoàng gia Silla và được đặt tên là Bulguksa - có nghĩa là "Chùa văn học của đất Phật".
Khi ngôi chùa được hoàn thành, bao gồm 80 tòa nhà nằm trên đỉnh cao của một triền đá. Ngôi chùa đã bị đốt cháy trong cuộc xâm lược của Hideyoshi Toyotomi vào năm 1592. Được tái tạo một phần trong thời gian Nhật chiếm đóng từ 1910-1945 và hoàn toàn phục hồi dưới thời Tổng thống Park Chung-hee trong những năm 1970. Mặc dù toàn bộ ngôi đền được xây dựng lại, nhưng kiến trúc vẫn thanh lịch và uy nghi.
Chùa Bulguksa không lớn như các ngôi chùa nổi tiếng khác trong nước. Tuy nhiên, ngôi chùa là một trong những kiến trúc nổi bật của thời đại kiến trúc Silla còn tồn tại ngày hôm nay.Chánh điện là phần xây dựng quan trọng nhất - Daeungjeon, hội trường của Đại Giác Ngộ, là nơi thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Phía trước chánh điện là hai ngôi tháp, tháp Seokgatap và tháp Dabotap, được thiết kế bởi vị thủ công bậc thầy huyền thoại trong thế kỷ thứ 8.
Tháp Seokgatap bằng đá cao ba tầng với chiều cao 8 mét là một phong cách truyền thống Hàn Quốc với đường nét đơn giản và trang trí tối thiểu. Được bao quanh bởi tám tòa hoa sen bằng đá, tượng trưng cho tám đóa hoa sen rơi từ trên trời như được ghi trong Kinh Pháp Hoa.
Tháp đá Dabotap.
Tháp Seokgatap
Trong thời gian tái thiết ngôi bảo tháp đã phát hiện bên trong những bảo vật như một tập kinh, một hộp sari, đĩa để kinh bằng bạc và một một bản khắc gỗ chép Kinh Dharani in trong những năm đầu của thế kỷ thứ 8.
Tòa tháp Dabotap cao 10,4 mét và dành riêng cho Đa Bảo Như Lai, Ngài đã thực hiện một lời tiên tri về tháp bảo kỳ diệu trong Kinh Pháp Hoa. Tượng trưng sự phức tạp của vũ trụ, tòa bảo tháp này trang trí rất công phu.
Du khách đến thăm viếng chùa Bulguksa không nên bỏ lỡ dịp tham quan chùa Seokguram là một phần của chùa Bulguksa gần đó. Du khách đi bộ khoản một cây số, phong cảnh với đường món đi qua một khu rừng tươi tốt làm đoạn đường dường như thu ngắn lại.
Vào cuối của đường mòn là ngôi chùa Seokguram, nó là nơi trú ngụ của Seokguram Grotto Hermitage, là một hang động nhân tạo nằm trên các ngọn đồi ở trên Bulguksa. Được dựng lên khi trong thế kỷ thứ 8, trong các hang động được thiết kế bởi vị thủ tướng Dae Kim Seong.
Hang Seokguram và chùa Bulguksa -
Hang động này bao gồm một lối vào cong dẫn vào một tiền sảnh hình chữ nhật và sau đó là một hành lang hẹp, được trang trí với các phù điêu, và sau đó cuối cùng dẫn vào phòng tròn chính. Các tiền sảnh và hành lang đại diện cho trái đất trong khi vòng tròn tượng trưng cho trời.
Vòm tròn chính là nơi thờ tôn tượng Đức Phật, được coi là một trong những kiệt tác của đất nước nghệ thuật Phật giáo. Tôn tượng cao 3,5 mét được chạm khắc từ một khối đá granite duy nhất và ngồi trên một bệ sen 1,34 mét chiều cao.
23. CHÙA BULGUKSA, CHÙA VÀ HANG SEOKGURAM
Cửa vào động
Nằm trên đỉnh những ngọn núi phía Đông Nam bán đảo Triều Tiên, nhìn ra biển Đông, Seokguram như một bằng chứng đầy tự hào về những trang sử truyền thống chói lọi của kiến trúc Phật giáo truyền thống. Seokguram nằm gần núi Tohamsan, phía Đông thành phố cổ Gyeongju, thủ phủ của triều Silla (từ năm 57 trước CN đến năm 935 sau CN).
Mất một tiếng đồng
hồ đi bộ qua những con đường núi ngoằn ngoèo dài 4km, bạn sẽ đến Bulguksa, một
ngôi chùa nổi tiếng thế kỷ thứ 8 khi Silla đang ở trên đỉnh cực thịnh của quyền
lực. Thủ phủ Silla sánh ngang hàng về sự nguy nga với thủ phủ của nhà Đường –
Jangan cũng như văn hóa của nhà Đường, khi khu vực Đông Á đang hưởng một nền hoà
bình và thịnh vượng chưa từng thấy.
Phật giáo lần đầu tiên được du nhập vào Hàn Quốc từ thế kỷ thứ 4 qua Trung Quốc, song nó chỉ thực sự nở rộ chỉ sau khi cung điện Silla chính thức công nhận Phật giáo là quốc giáo.
Được dựng lên vào thế kỷ thứ 8 trên sườn núi Toham, ngôi đền trong hang Seokguram lưu giữ một bức tượng khổng lồ của Đức Phật nhìn ra biển Đông theo vị trí bhumisparsha mudra (Xúc Địa Ấn). Những bức họa về các vị thần, Bồ Tát và các môn đồ cũng được khắc chìm và nổi một cách tinh tế và sống động. Vì thế, Hang Seokguram được xem là một kiệt tác của nghệ thuật Phật giáo vùng Viễn Đông. Ngôi đền Bulguksa (xây dựng năm 774) cùng với Hang Seokguram đã tạo thành một khu kiến trúc tôn giáo với ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Công trình Hang Seokguram được đặt trên sườn đông nam Núi Toham đối mặt với biển đông bắt đầu xây dựng vào năm 751 sau Công nguyên, năm thứ 10 dưới thời cai trị của Vua Kyongdyok triều Shilla và được hoàn thành vào năm 774, năm thứ 10 dưới thời cai trị của Vua Hyegong. Theo sử sách, đầu tiên, công trình này được mang tên Đền Sokbulsa. Ngôi đền trong hang được xây dựng từ đá hoa cương với 39 hình khắc Phật giáo trên bức tường chính và một bức tượng Bồ Tát ở trung tâm
Hang động bao gồm một phòng chờ, một hành lang và một phòng chính có mái vòm. Tám vị Thần Bảo vệ được khắc nổi trên tường của căn phòng chờ hình chữ nhật, mỗi bên có bốn hình. Hai hình khắc của Đức phật Kim Cương Trì được đứng trên lối vào hành lang dẫn từ phòng chờ đến phòng mái vòm chính. Các vị Tứ Đại Thiên Vương được khắc từng cặp trên mỗi bên hành lang khá hẹp. Có hai cột đá tròn, mỗi cột đứng một bên lối vào phòng mái vòm nơi bức tượng Bồ Tát được đặt hơi chếch trung tâm. Những bức tường bên trái và bên phải được trang trí với rất nhiều hình khắc nổi của hai chư Thiên, hai vị Bồ Tát và mười vị môn đồ. Ở giữa bức tường đăng sau tượng Bồ Tát là một bức chạm khắc tinh tế của Bồ Tát Quan Thế Âm 11 mặt - Bồ Tát Từ bi
Những phiến đá bên dưới mỗi hình khắc trên các bức tường phòng chờ và phòng mái vòm chính cũng được chạm khắc. Trong thời gian xây dựng, có một bảo tháp bằng đá cẩm thạnh ở phía trước Quan Thế Âm, tuy nhiên sau này nó đã bị bỏ đi khi Nhật Bản xâm chiếm Hàn Quốc. Một đóa hoa sen tròn được khắc trên tường phía trên hình khắc Quan Thế Âm đằng sau bước tượng Bồ Tát chính, tạo ra ảo ảnh một vầng hào quang của Đức Phật nếu nhìn từ đằng trước. Có 10 hốc tường dọc theo hai bên tường của đóa hoa sen này, trước đây mỗi hốc tường đều có hình của Bồ Tát và các tín đồ Phật giáo, tuy nhiên đến nay đã bị mất hai hình. Trần nhà hình vòm được làm từ đá hoa cương đã mài nhẵn và cũng khắc một hình đóa sen khác trên đỉnh phòng chính.
Tượng Phật Thích Ca Mâu Ni chính cao 3,45m và được đặt trên một bệ hình hoa sen. Đầu tóc búi thành nhiều búi xoăn nhỏ, đầu đội một chiếc usnisa đặc biệt, những vùng nổi lên trên đỉnh đầu biểu trưng cho Trí tuệ Tối cao. Dưới vầng trán rộng là đôi lông mày hình trăng lưỡi liềm và ánh mắt hé mở nhìn ra phía Biển Đông. Áo choàng của Đức Phật được treo bên vai phải; họa tiết của phần áo che cánh tay trái và ngực được miêu tả rất thật. Đức Phật được mô tả ngồi quàng chân, hai tay đang ở vị trí bhumisparsha mudra, là cử chỉ khi Đức Phật trong lịch sử báo cho chúng sinh biết Ngài đã chánh đẳng chánh giác. Tất cả những hình khắc khác như Đức Phật Kim Cương Trì, các Đại Thiên Vương, chư Thiên, Bồ Tát, các môn đồ và Thần Bảo vệ đều được chạm khắc tinh tế và kĩ lưỡng đến từng chi tiết.
No comments:
Post a Comment