CHƯƠNG IV
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
PHẬT GIÁO MIẾN ĐIỆN
I. PHẬT GIÁO TẠI MIẾN ĐIỆN
Miến
Điện có dân số 55 triệu với 89% theo đạo Phật. Có nhiều truyền thuyết
về nguồn gốc lịch sử Phật giáo Miến Điện. Có lẽ Phật giáo được truyền
vào miền bắc Miến Điện (Thượng Miến) vào thế kỷ 3 TL, qua đường bộ từ
Bắc Ấn, trong vương quốc của người Pyu (nước Phiêu). Trong khi đó, miền
nam Miến Điện (Hạ Miến) của người Mon tiếp nhận đạo Phật từ các đoàn
truyền giáo Nam Ấn và Sri Lanka đến bằng đường biển. Sau khi vua
Anawrahta (1044-1077) nắm quyền, chinh phục người Mon và các vương quốc
khác, Miến Điện chuyển sang truyền thống Thượng tọa bộ, vốn bắt nguồn từ
hệ phái Đại Tự (Mahavihara) của Sri Lanka, và truyền thống đó được lưu
truyền cho đến ngày nay, qua 10 thế kỷ.
Dù
có nhiều nền văn hóa bản xứ tồn tại ở Myanma, nền văn hóa chiếm vị trí
trọng yếu là Phật giáo và Bamar. Văn hóa Bamar từng bị ảnh hưởng từ các
nền văn hóa các nước xung quanh. Nó được biểu hiện qua ngôn ngữ, ẩm
thực, âm nhạc, nhảy múa và sân khấu. Nghệ thuật, đặc biệt là văn học,
trong lịch sử từng bị ảnh hưởng bởi phong cách Phật giáo tiểu thừa Miến
Điện. Nếu coi thiên sử thi quốc gia của Myanma, Yama Zatdaw, là một sự
phóng tác theo Ramayana, thì nó đã mang nhiều nét ảnh hưởng lớn từ các
văn bản Thái, Mon và Ấn Độ của vở kịch này[60]. Phật giáo cùng sự thờ
phụng nat liên quan tới những nghi lễ phức tạp hay đơn giản từ một đền
bách thần gồm 37 nat.
Những
người đi tu được kính trọng trên khắp Myanma, đây là một trong những
quốc gia có đa số Phật giáo tiểu thừa trên thế giớiTrong các làng Myanma
truyền thống, chùa chiền là trung tâm của đời sống văn hóa. Các nhà sư
được sùng kính và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng họ.
Lễ nhập tu được gọi là shinbyu là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng
nhất của một chú bé khi vào chùa tu trong một khoảng thời gian ngắn.
Các cô bé cũng có lễ xuyên lỗ tai khi đến tuổi trưởng thành. Văn hóa
Myanma được thể hiện rõ rệt nhất tại những ngôi làng nơi các lễ hội địa
phương được tổ chức trong suốt năm, lễ hội quan trọng nhất là lễ chùa.
Nhiều làng xã ở Myanma có quy ước, các phong tục mê tín và những điều
cấm kị riêng.
Thời
kỳ cai trị thuộc địa của Anh cũng đã để lại một số ảnh hưởng phương Tây
trong văn hóa Myanma. Hệ thống giáo dục Myanma theo khuôn mẫu hệ thống
giáo dục Anh Quốc. Những ảnh hưởng kiến trúc thuộc địa là điều dễ nhận
thấy nhất tại các thành phố lớn như Yangon. Nhiều dân tộc thiểu số, đặc
biệt là người Karen ở phía đông nam và người Kachin, người Chin sống ở
phía bắc và tây bắc, theo Thiên chúa giáo nhờ công của các nhà truyền
giáo.
Hiện nay, khách hành hương thường đến chiêm bái: các trung tâm Phật giáo tại các thành phố Yangon (Rangoon), Mandalay, Bagan.
II. KIẾN TRÚC CÁC CHÙA CHIỀN TẠI MIẾN ĐIỆN
Tuy Myanmar không có những công trình đền tháp nổi tiếng như Angkor của Campuchia hay Borobudur của Indonesia, nhưng các công trình Phật giáo ở đây rất đa dạng, chi tiết và phát triển toàn diện. Chúng thể hiện qua hai dạng công trình: Chùa (stupa) và Đền. Đền chùa ở đây không làm bằng đá mà xây gạch trát vữa stucco, dễ điêu khắc và trang trí hơn chất liệu đá.
Trong những quốc gia Nam Á chịu ảnh hưởng Ấn Độ, mỹ thuật Miến Điện
thấm nhuần sâu sắc nhất. Những vốn là một nước đa chủng, với chính sách
khép kín, cho nên kiến trúc và điêu khắc tại đây khó phá vỡ dạng thức
cũ. Cho đến thời kỳ "Pagan rực rỡ" (thế kỷ XI -XIII), thời hoàng kim của
mỹ thuật PG mới tạo được bản sắc độc đáo. Không có những kiến trúc quy
mô như Kampuchia hay Indonésia, nhưng các công trình PG ở đây rất đa dạng,
chi tiết và phát triển toàn diện. Nhìn chung, mỹ thuật Miến Điện thể
hiện trên 2 dạngcông trình: Chùa (stupa) và đền. Stupa ở đây thường bố
cục theo các loại hình trụ, hình chỏm, hình chuông, chân tháp mở rộng,
trên chóp khắc chạm hình Hrâna.
Những stupa mới nhất có kích thước lớn, trở thành trung tâm của những
quần thể kiến trúc phức tạp; điển hình là khu chùa chiền Shwedgon tại thủ
đô Rangoon. Cònnhững ngôi đền thờ tuân thủ theo 2 bình đồ: một bình
đồ hìnhvuông dùng làm điện thờ, với nhiều phù điêu nổi tiếng; một bìnhđồ
khác kiến trúc hang động, bố cục hình chữ thập. Phần điêu khắcchiếm phần
lớn các trần nhà có dạng vòm hình cung hay vòm cuốn bán nguyệt. Đề tài
dựa theo kinh "Bổn sanh" (Jataka) về tiền thân đức Phật, Bồ Tát, nhất là
đức Quan Thế Âm (Avalokitesvara).
Một góc thị trấn Bagan với hơn 2.000 bảo tháp lớn nhỏ
Chùa cổ ở Bagan
Stupa thường bố cục theo các loại hình trụ, hình chỏm, hình chuông, chân tháp mở rộng, trên chóp khắc chạm hình búp sen. Chùa cổ ở Bagan
Các stupa ( THÁP) thường có kích thước lớn, trở thành trung tâm của những quần thể kiến trúc đền chùa phức tạp. Điển hình là khu Chùa Vàng Shwedagon tại thủ đô Yangon.
Những ngôi đền thờ lại tuân thủ theo 2 lối bố cục mặt bằng: hình vuông dùng làm điện thờ, với nhiều phù điêu nổi tiếng; hình chữ thập phỏng theo kiểu kiến trúc đền trong hang động Ấn Độ. Điêu khắc luôn chiếm phần lớn các trần nhà có dạng vòm hình cung hay cuốn bán nguyệt. Đề tài dựa theo kinh “Bổn sanh” (Jataka) về tiền thân Đức Phật, Bồ-tát, nhất là Đức Quan Thế Âm (Avalokitesvara).
Hoa tiết trang trí trên trần chánh điện
Một góc chùa với rất nhiều bảo tháp
Trong các làng Myanmar
truyền thống, ngôi chùa là trung tâm của đời sống tâm linh và văn hóa.
Lễ hội quan trọng nhất trong năm là lễ chùa. Các nhà sư được sùng kính
và người dân luôn quỳ trước mặt để tỏ lòng tôn trọng. Lễ nhập tu được
gọi là “shinbyu” là lễ đánh dấu sự trưởng thành quan trọng nhất của một
chú bé khi vào chùa tu trong một khoảng thời gian ngắn.
Mặc dù các chùa Myanmar được xem là di tích lịch sử - văn hóa độc đáo
nhất ở Đông Nam Á, có thể sánh ngang với đền Angkor (Campuchia) và đền
Borobudur (Indonesia), tuy nhiên đến nay vẫn chưa được ghi vào danh sách
các di sản văn hóa thế giới của Unesco. Nguyên nhân chính là việc trùng
tu các công trình đền tháp đã không thực hiện theo đúng quy định quốc
tế, do việc sử dụng những vật liệu hiện đại, hay mở thêm nhiều con đường
mới làm ảnh hưởng đến giá trị của di tích.
III. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO MIẾN ĐIỆN
1. CHÙA VÀNG SHWEDAGON PAYA
Nổi tiếng nhất là chùa Shwedagon Paya xây dựng suốt các thế kỷ thứ 6 - 10 ở thủ đô Yangon.
Đây là biểu tượng vàng của đất nước
Myanmar, ngôi chùa có tuổi đời 2500 năm, tương truyền nó ra đời trước
khi Đức Phật Thích Ca qua đời, được coi là ngôi chùa linh thiêng nhất
Myanmar. Tuy nhiên các nhà khảo cổ học cho rằng nó được xây lần đầu vào
khoảng thời gian từ thế kỷ 6 đến thế kỷ 10.
Quần thể chùa Vàng
Tại đây có lưu giữ 4 báu vật thiêng
liêng đối với các tín đồ Phật giáo, gồm cây gậy của Phật Câu Lưu Tôn,
cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, một mảnh áo của Phật Ca Diếp, và 8 sợi
tóc của Phật Thích Ca. Stupa dát vàng của chùa cao tới 98 mét. Chùa lại
nằm trên đồi Singuttara, từ đây có thể quán sát được cả thành phố
Yangon. Cổng phía Nam chùa có một đôi tượng sư tử cao 9m, hướng ra phía
trung tâm thành phố. Tuy trải qua chiến tranh và thiên tai, nhưng đến
nay Swedagon vẫn là ngôi chùa bề thế bậc nhất thế giới.
Một căn phòng với 14 tượng Phật
Quần thể Chùa Vàng bao gồm 1.000 đơn thể
chùa bao quanh toà tháp trung tâm. Trong đó có 72 ngôi chùa bằng đá có
thờ tượng Phật bên trong. Dưới ánh sáng ban ngày cũng như ánh đèn đêm,
ngôi chùa vàng luôn phát những tia sáng vàng lấp lánh.
Ngoài vẻ nguy nga hoành tráng của ngôi
chùa cổ, du khách sẽ bị choáng ngợp bởi cách bài trí cả bên trong và
ngoài của ngôi chùa. Chỉ tính riêng nội thất của ngôi chùa đã được chạm
khắc tinh vi, cầu kỳ với khoảng 8.690 lá vàng dát cực mỏng. Toàn bộ ngôi
chùa còn được tô điểm bằng 5.450 viên kim cương đủ kích cỡ và 2.320
viên hồng ngọc, lam ngọc.
Hằng trăm tượng Phật trong chùa
Tại đây có lưu giữ 4 báu vật thiêng liêng đối với các tín đồ Phật giáo,
gồm cây gậy của Phật Câu Lưu Tôn, cái lọc nước của Phật Câu Na Hàm, một
mảnh áo của Phật Ca Diếp, và 8 sợi tóc của Phật Thích Ca. Ngôi tháp dát
vàng của chùa cao tới 98 mét. Chùa lại nằm trên đồi Singuttara, từ đây
có thể quan sát được toàn cảnh thành phố Yangon.
Tượng Đức Thích Ca được tôn trí trong chùa
Một pho tượng tại chùa A-nan
Hơn 700 bia đá ghi Tam tạng thánh điển
Từ chân đồi có 4 lối lên chùa. Mỗi lối lên có một cặp “chinthe” (sư tử thần) canh gác. Lối phía Đông và phía Nam có rất nhiều cửa hàng bán dụng cụ thờ Phật và dụng cụ tu hành. Tại các bậc thang cuối của lối lên phía Nam có chân dung hiện thân thứ hai của Phật, tức là Phật Câu Na Hàm.
Đế tháp bằng gạch trát vữa stucco, dát bên ngoài là những tấm vàng. Trên đế tháp là sân hiên mà chỉ có các nhà sư và nam giới mới được phép đi vào. Tiếp theo là khối hình chuông của tháp. Phần trên cùng là chóp mũ tháp, mang dạng các cánh sen, hoa chuối, rồi đến vương miện. Vương miện còn gọi là lọng (hti) được nạm 5.448 viên kim cương và 2.317 viên hồng ngọc. Trên cùng là cánh hình cờ và ở vị trí cao nhất là búp kim cương gắn một viên kim cương 76 carat(15g).
2. CHÙA KYAIKTIYO
hùa Kyaiktiyo (còn gọi là chùa Đá Vàng) là một trong 3 điểm hành hương
nổi tiếng nhất ở Myanmar (hai điểm kia là chùa Shwedagon và chùa
Mahamuni). Chùa Kyaiktiyo chỉ là một ngôi chùa nhỏ, cao 7,3m, tọa lạc
trên đỉnh của một tảng đá lớn được phủ bởi các miếng vàng lá do khách
hành hương dán lên khi mỗi đến viếng thăm chùa. Cả ngôi chùa và tảng đá
đều nằm cheo leo trên đỉnh của ngọn núi Kyaiktiyo. Núi Kyaiktiyo có độ
cao là 1.100m so với mực nước biển, nằm gần thị trấn Kyaiktiyo, quận
Thaton, tỉnh Mon, Myanmar.
Theo
truyền thuyết, trong một lần đến thăm Myanmar, Đức Phật đã tặng một sợi
tóc của mình cho vị ẩn sĩ tên là Taik Tha. Vị ẩn sĩ này đã giữ gìn sợi
tóc của Phật rất cẩn thận. Trước khi qua đời, ông trao sợi tóc lại cho
người con nuôi là vua Tissa, vị vua cai trị Myanmar vào thế kỷ thứ XI,
với lời trăn trối: Hãy cất giữ xá lợi ấy trong một hòn đá có hình dáng
như đầu của vị ẩn sĩ. Vâng lời cha và nhờ sự giúp đỡ của các thần linh,
vua Tissa đã tìm thấy tảng đá vàng nằm trên đỉnh núi Kyaiktiyo, và vua
đã xây một ngôi chùa trên đỉnh của tảng đá để tôn thờ xá lợi Phật. Người
ta tin rằng, chính nhờ có sợi tóc của Đức Phật mà tảng đá này vẫn nằm
yên bất động trong một vị thế hết sức cheo leo qua hàng mấy thiên niên
kỷ. Tảng đá cheo leo ấy như thách thức trước lực hút của trái đất và
trước quy luật thăng bằng của tự nhiên, như thể là có một năng lực siêu
nhiên nào đó đang chống đỡ, đang giữ thăng bằng cho tảng đá. Chính vì
điều này mà người ta đã gọi tảng đá này là “Tảng Đá Thiêng” và tất cả
mọi khách hành hương mỗi khi đến thăm chùa Kyaiktiyo đều phủ phục kính
lễ trước tảng đá thiêng liêng này.
Khoảng
thời gian kỳ ảo nhất trên đỉnh núi là lúc ánh tà dương sắp tắt và lúc
ánh bình minh vừa ló dạng. Những lúc ấy, ánh mặt trời rực rỡ chiếu vào
tảng đá, tạo nên một không gian tâm linh vô cùng huyền ảo và thiêng
liêng. Những lúc ấy cũng là lúc mà rất nhiều người đến cầu nguyên và
kính lễ xung quanh tảng đá thiêng. Từ chân núi Kyaiktiyo có những con
đường khác nhau dẫn lên chùa Kyaiktiyo. Lên gần đến đỉnh núi thì có hình
hai con sư tử lớn án ngự hai bên lối đi vào chùa. Từ vị trí này, tất cả
các du khách, tín đồ Phật tử đều phải cởi giáy dép và leo bộ lên núi
bẳng đôi chân trần. Theo truyền thống của Phật giáo Myanamr, chỉ có
người nam mới được phép đến gần khu vực tảng đá vàng để có thể chạm vào
tảng đá hoặc dát những lá vàng miếng lên tảng đá, hoặc áp đầu vào tảng
đá và cầu nguyện. Còn người nữ thì không được đi vào khu vực tảng đá
vàng, nên họ chỉ có thể lặng lẽ dâng vật cúng lên các bàn thờ rồi đứng
từ xa để chiêm ngưỡng, kính lễ và cầu nguyện.
Trong chùa còn lưu giữ 8 sợi tóc của Đức
Phật Thích Ca, bảo vật linh thiêng nhất của Phật giáo. Tháp trung tâm
là một tuyệt tác nghệ thuật, được phủ kín bằng 9.300 lá vàng với tổng
khối lượng là 500kg và được trang trí bằng hàng ngàn viên đá quí, kim
cương và hồng ngọc, cùng với hàng trăm chiếc chuông vàng. Trên đỉnh tháp
là lá cờ đuôi nheo được làm hoàn toàn bằng vàng, khảm kín với 5.448
viên kim cương và 2.317 viên đá quí. Đỉnh tháp treo tất cả 1.065 chiếc
chuông vàng và 421 chiếc chuông bạc.
3. CHÙA MAHAMUNI (Mandalay)
Mandalay là cố đô của Miến Điện, nơi đây tập trung rất nhiều đền, chùa và số lượng người tu hành kỷ lục. Đền Mahamuni là biểu tượng vàng của Mandalay, được xây dựng từ thế kỷ 18. Ở đây có tượng Phật cao 4m, nặng 6,5 tấn và được dát một lớp vàng dày tới 15cm – do hàng năm các tín đồ Phật giáo vẫn tới đây cúng lễ và tiếp tục dát thêm vàng lên tượng.
Bức tượng Phật trong chùa lớn hơn so với tượng gốc ban đầu do nó được đắp vàng lá hàng ngày bởi những mộ đạo.
3. CHÙA MAHAMUNI (Mandalay)
Mandalay là cố đô của Miến Điện, nơi đây tập trung rất nhiều đền, chùa và số lượng người tu hành kỷ lục. Đền Mahamuni là biểu tượng vàng của Mandalay, được xây dựng từ thế kỷ 18. Ở đây có tượng Phật cao 4m, nặng 6,5 tấn và được dát một lớp vàng dày tới 15cm – do hàng năm các tín đồ Phật giáo vẫn tới đây cúng lễ và tiếp tục dát thêm vàng lên tượng.
Cặp Sinta (sử tử) trước cổng chùa Maha Myat Muni. Chùa Maha Myat Muni
còn được gọi là chùa Mahamuni. Theo tiếng Miến Điện : Mahamuni có nghĩa là nhà hiền triết vĩ đại.
còn được gọi là chùa Mahamuni. Theo tiếng Miến Điện : Mahamuni có nghĩa là nhà hiền triết vĩ đại.
Đỉnh tháp của chùa Mahamuni.
Tượng phật Mahamuni ở Mandalay
Tượng phật Mahamuni ở Mandalay
Bức tượng Phật trong chùa lớn hơn so với tượng gốc ban đầu do nó được đắp vàng lá hàng ngày bởi những mộ đạo.
Những ngọn Stupa trắng toát xung quanh chùa Mahamuni
4. CHÙA VÀNG SHWEZIGON (Bagan)
Nằm ở Bagan (kinh đô của vương quốc Pagan xưa, nơi vẫn còn tập trung hàng ngàn ngôi đền lớn nhỏ), Shwezigon là ngôi chùa Vàng lớn thứ hai ở Myanmar, được xây dựng từ thế kỷ 12 và cũng có cấu trúc chùa tháp lộng lẫy giống như chùa Swedagon.
5. Đền SHWESANDAW (Bagan)
Ở Bagan, bạn hãy tìm đến Shwesandaw vào mỗi buổi hoàng hôn để ngắm mặt trời lặn. Đứng từ đây, bạn có thể ngắm cả vùng đất Bagan huyền thoại với hàng nghìn ngôi đền, tháp lớn nhỏ, chìm dần vào bóng chiều tà, một cảnh tượng vô cùng ấn tượng và huyền ảo.
6. Đền ANANDA (Bagan)
Cũng nằm ở Bagan, Ananda được xây dựng vào cùng khoảng thời gian thế kỷ 11-12. Đây là minh chứng cho một thời kỳ vàng son của vương quốc Bagan dưới sự trị vì của đức vua Tilinman vĩ đại. Ananda có qui mô đồ sộ cùng lối kiến trúc độc đáo, không giống như hai ngôi chùa Vàng nổi tiếng ở trên và cũng không giống bất kỳ ngôi đền tháp nào ở khu vực Bagan.
7. Làng MINGUN (Mandalay)
Mingun cũng có rất nhiều di tích và danh thắng nhưng nổi bật nhất là quả chuông Mingun và đôi tượng Chinthe được người dân xem như những báu vật. Chinthe (linh vật nửa sư tử nửa rồng) là một đôi tượng khổng lồ đứng canh giữ sát bờ sông. Còn bảo tháp Mingun mang đến cho người đối diện cảm giác choáng ngợp, khối gạch nung màu vàng cam nổi bật trên nền trời xanh cao sừng sững.
No comments:
Post a Comment