CHƯƠNG XI
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
I. LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO MÔNG CỔ
Thời kỳ suy đồi của PG Mông Cổ:
Cửa vào Ngũ tháp tự
Từ Đăng tự tháp (慈灯寺塔) tại Hohhot được xây từ năm 1732, tức thời Ung Chính Đế nhà Thanh
8. WUDANG LAMASERY (Wudang Lamasery)
CÁC ĐỀ TÀI LIÊN HỆ
PHẬT GIÁO MÔNG CỔ
I. LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO MÔNG CỔ
Mông Cổ là một quốc gia kế
thừa“Vương quốc những đồng cỏ” của Thành
Cát Tư Hãn (Genghis Khan, 1162-1227). Ðộc lập năm 1911 và theo
chế độ Cộng Sản vào năm 1924, có quan hệ mật thiết với
Liên Xô (cũ). Từ năm 1989, tiến trình dân chủ hóa đã bắt
đầu và đưa tới sự cải tổ sâu rộng về các mặt kinh
tế và chính trị. Các ngành kinh tế chính: công, nông
nghiệp. Tài nguyên khoáng sản có: than đá, than nâu, dầu
mỏ, vàng, bạc, chì, thạch cao.... Ngành chăn nuôi: cừu,
lừa, lạc đà. Các ngành công nghiệp có: khai thác than, chế
biến thực phẩm, sản xuất len. Thu nhập bình quân đầu
người: 803 đô la/năm.
Theo nhà nghiên cứu sử học người Anh Andrew Skilton[1], Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Ðộ, Trung Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch bằng con đường tơ lụa (Silk Road) qua các nhà buôn người Aán. Từ đó PG dần dà phát triển đến thế kỷ thứ 13 Tây lịch với nhiều đợt truyền giáo của Phật Giáo Tây Tạng và Phật Giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, PG Tây Tạng chiếm ưu thế và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông Cổ. Ðỉnh cao của sự ảnh hưởng này là Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 4 là người Mông Cổ (1588). Trước khi PG được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo bản địa là Shamartistic, một tôn giáo chịu ảnh hưởng từ truyền thống tâm linh của người Ba Tư.
Theo nhà nghiên cứu sử học người Anh Andrew Skilton[1], Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Ðộ, Trung Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ thứ 4 trước Tây Lịch bằng con đường tơ lụa (Silk Road) qua các nhà buôn người Aán. Từ đó PG dần dà phát triển đến thế kỷ thứ 13 Tây lịch với nhiều đợt truyền giáo của Phật Giáo Tây Tạng và Phật Giáo Trung Hoa. Tuy nhiên, PG Tây Tạng chiếm ưu thế và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông Cổ. Ðỉnh cao của sự ảnh hưởng này là Ðức Ðạt Lai Lạt Ma thứ 4 là người Mông Cổ (1588). Trước khi PG được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo bản địa là Shamartistic, một tôn giáo chịu ảnh hưởng từ truyền thống tâm linh của người Ba Tư.
Thời
kỳ hưng thịnh của Phật Giáo Mông Cổ:
PG
Mông Cổ trải qua nhiều thời kỳ thăng trầm, trôi nổi theo
vận nước, thời kỳ thứ nhất xảy ra vào thế kỷ thứ 13
theo sau các cuộc xâm lăng của Mông Cổ trên khắp Á Châu.
Kết quả của sự mở rộng bờ cõi này đã mang về Mông
Cổ các truyền thống văn hóa và tôn giáo từ ngoại quốc,
trong số đó, Phật giáo Tây Tạng (Phái Thích Ca - Sakya
Order) chiếm phần ưu thế, được người dân Mông Cổ ưa
chuộng và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người
dân. Trong số những Hoàng đế Mông Cổ thời bấy giờ có
Kublai Khan (Hốt Tất Liệt, 1216-94) là cháu nội của Thành Cát
Tư Hãn, là người kế thừa và hoàn thành việc chinh phục hoàn
toàn Trung Hoa bằng cách lật đổ triều đại nhà Tống (1279)
và lập nên triều Nguyên (Yuan, 1279-1368). Kublai Khan là người
ngưỡng mộ và quy y theo Ðạo Phật, đặc biệt ông từng
tham dự lễ điểm đạo quan trọng về pháp tu Mật tông
Kalachakra[2]
và ông là người có công lao trong việc khuyến khích và bảo
trợ công việc phiên dịch Kinh điển sang tiếng Mông Cổ.
Thời
kỳ Phật giáo hưng thạnh thứ hai bắt đầu từ triều đại
của Hoàng đế Altan Khan (1507-83), khi Mông Cổ có cuộc tiếp
xúc mới với Tây Tạng, chính vì thế mà phái Hoàng Giáo (Gelugpa)[3] của Tây Tạng được chính thức truyền vào Mông Cổ và phát triển rất
nhanh trên đất nước này qua sự bảo trợ của hoàng đế
Altan Khan , và từ đó trở đi, Hoàng Giáo phái (Gelugpa)
đã thay thế vị trí của phái Thích Ca để lám công tác
truyền giáo ở Mông Cổ.
Trong thời điểm ấy, một sự kiện quan trọng xảy ra cho
Phật giáo Tây Tạng là sau cuộc chinh phục hoàn toàn Tây
Tạng vào 1614, để lấy lòng dân, triều đình Mông Cổ đã
ban hành một pháp lệnh rằng Ðức Ðạt Lai Lạt Ma của phái
Hoàng Giáo là vị “đế sư”, đứng đầu ở thủ đô
Lhasa, có quyền quản lý thế quyền và giáo quyền ở Tây
Tạng.
Cả
dân tộc Tây Tạng lẫn Mông Cổ đều tin tưởng rằng Ðức
Ðạt Lai Lạt Ma là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm
(Avalokitesvara), nên việc điều hành chính trị và tôn giáo
ở Tây Tạng được người dân tin tưởng vào khả năng của
vị tái sinh và được thừa nhận là Dalai Lama.
Thời
kỳ thứ ba, dưới triều đại nhà Thanh (1662-1911), là triều
đại ủng hôï Phật giáo ở Trung quốc, khi họ xâm chiếm
Nội Mông (Inner Mongolia) họ có những ưu đãi cho Phật giáo,
nhiều tông phái của Phật giáo Trung Quốc cũng được
truyền vào Mông Cổ. Từ năm 1622 đến năm 1749, có nhiều
Kinh điển được dịch từ tiếng Trung Hoa sang tiếng Mông
Cổ.
Thời kỳ suy đồi của PG Mông Cổ:
Thế
kỷ 20, Mông Cổ chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, xung đột chính trị từ
các cường quốc bên ngoài, sau Trung quốc (1912), Nhật Bản đánh chiếm
vào Manchuria vào năm 1931, và sau thế chiến thứ 2 vào năm 1945, Hồng
quân của Liên Xô bắt đầu cuộc giải phóng cho Mông Cổ. Và từ đó trở đi,
với chính sách không khoan nhượng tôn giáo của chính quyền Xô Viết, có
20 ngàn tăng ni và cư sĩ Phật tử trí thức bị giết, 40 ngàn người khác bị
tống giam, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi không được xuất gia, hơn 800
tự viện bị phá hủy hoàn toàn trên khắp Mông Cổ.
Từ năm 1989 đến nay, quốc gia Mông Cổ
trở nên độc lập, các rào cản về sinh hoạt tín ngưỡng
được tháo bỏ, các hoạt động của Phật giáo đã từng bước
trở lại bình thường, có hơn 160 ngôi Tu Viện được xây
dựng hoặc mở cửa trở lại và rất nhiều người xuất gia
tu học và làm công tác truyền giáo.
II. CÁC KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TẠI MÔNG CỔ
1. ĐỀN NGŨ THÁP TỰ HAY NGŨ TỰ ( Thành phố Hô Hòa Hạo Đặc-Nội Mông)
( Five Pagoda Temple, Inner Mongolia China -Wuta (Five-Pagoda) Temple )
Đền Ngũ Tháp tự ở thành phố Hohhot ở Nội Mông. Chùa xây năm thứ 10 đời Thanh ( 1731), thuộc phái Lat Ma. Ở Hohhot có 50 chùa.
1. ĐỀN NGŨ THÁP TỰ HAY NGŨ TỰ ( Thành phố Hô Hòa Hạo Đặc-Nội Mông)
( Five Pagoda Temple, Inner Mongolia China -Wuta (Five-Pagoda) Temple )
Đền Ngũ Tháp tự ở thành phố Hohhot ở Nội Mông. Chùa xây năm thứ 10 đời Thanh ( 1731), thuộc phái Lat Ma. Ở Hohhot có 50 chùa.
2. CHÙA ĐẠI CHIÊU ( Da Zhao Temple in Hohhot)
Chùa Đại Chiêu ở Hohhot, được xây dựng từ năm 1579.
Chùa Đại Chiêu ở Hohhot, được xây dựng từ năm 1579.
Thành phố Hu-hơ-hớt, Thủ phủ Khu Tự trị Nội Mông Trung Quốc
là một thành phố cổ tươi đẹp lấy dân tộc Mông Cổ làm chủ
thể, nhiều dân tộc khác chung sống hòa thuận. Ở đây không những
nổi tiếng vì có thảo nguyên mênh mông, phong cảnh tươi đẹp, còn
có rất nhiều chùa chiền Phật giáo cổ, được tôn vinh là "Chiêu
thành".
Chùa Chiêu, tức là chùa Phật giáo Tạng, trong đông đảo chùa
chiền của khu vực thành phố Hu-hơ-hớt nổi tiếng nhất là chùa
Đại Chiêu. Chùa Đại Chiêu nằm ở phía tây nam khu phố cổ thành
phố Hu-hơ-hớt, là một ngôi chùa Phật giáo Tạng đầu tiên của
khu vực Nội Mông, cũng gọi là chùa Lạt-ma, cách đây hơn bốn
trăm năm trước, chùa này đã nổi tiếng gần xa.
3. THÁP XÂY DỰNG THẾ KỶ 18
Gilded stupa and a prajnaparamita, Mongolian from the 18th century CE
4. CHÙA LẠT MA TSET TSERLEG Ở MÔNG CỔ
Tsetserleg Цэцэрлэг, garden) là thị trấn của tỉnh Arkhangai Aimag ở Mông Cổ , nằm đông bắc của núi Khangai Mountains, cách 360 miles (600 km) phía tây nam của Ulaanbaatar
5. THÁP Khitan ,ở thành phố Bars-Hot (Mông Cổ )
6. CHÙA XIRET PHÁI LATMA (Xiret Lamasery)
Xây
năm 1585 ở cuối đường Shitou ở quân Yuquan District, thành phố
Hohhot -Mông Cổ. Chùa này do Đức Đat Lai Lạt ma thứ tư truyền dạy.
7. CHÙA TRẮNG (White Pagoda:)
Xây vào triều Liêu ( 907-1125 ) của Khiết Đan, chùa Trắng có tháp cao 55,5m, ở làng Baita, về phía đông Hohhot.White Pagoda towers
55.5 meters high in Baita Village in the eastern suburbs of Hohhot City. Chùa làm bằng gạch và gỗ cao 7 tầng
It is an octagonal, pavilion-style brick and wooden structure with
seven stories. Chùa có nhiều hình Phật.
8. WUDANG LAMASERY (Wudang Lamasery)
Chùa
này nằm sâu trong thung lũng Wudang núi Yinshan về phía tây thị trấn
Baotu. Đây là một chi nhánh của tự viện Ta- shilhunpo ở Tây Tạng. Xây
vào triều Khang Hy nhà Thanh. Có2,538 gian, chia thành 6 đại sảnh, ba
đại sảnh để cư trú, 94 phòng cho các lạt ma. Có 1500 pho tượng bằng
vàng bạc, đồng, gỗ..
9. CHÙA LẠT MA MEIDAI (Meidai Lamasery)
Chùa ở thị trấn Baotu, do Altan Khan , là cháu đời 17 của Genhis Khan xây. Đây là nơi Altan Khan truyền bá Phật giáo Tây Tạng. Đây là một công trình to lớn, gồm đại sảnh Mahavira đại sảnh Glazed Hall, chùa Naiqiong , Tu viện Lạt ma, và đại sảnh Taihou.
Chùa ở thị trấn Baotu, do Altan Khan , là cháu đời 17 của Genhis Khan xây. Đây là nơi Altan Khan truyền bá Phật giáo Tây Tạng. Đây là một công trình to lớn, gồm đại sảnh Mahavira đại sảnh Glazed Hall, chùa Naiqiong , Tu viện Lạt ma, và đại sảnh Taihou.
CÁC ĐỀ TÀI LIÊN HỆ
- CÁC CHÙA VIỆT NAM HẢI NGOẠI
- CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI VIỆT NAM
- DI TÍCH PHẬT GIÁO TẠI AFGHANISTAN
- THẮNG TÍCH PHẬT GIÁO TẠI INDONÉSIA
- CÁC NGÔI CHÙA CỔ KÍNH TẠI TRIỀU TIÊN
- CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI TRUNG QUỐC
- CÁC CHÙA DANH TIẾNG TẠI NHẬT BẢN
- CÁC NGÔI CHÙA DANH TIẾNG TẠI THÁI LAN
- THÁNH TÍCH PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
- CÁC NGÔI CHÙA NỔI TIẾNG TRÊN THẾ GIỚI
Những địa danh nhìn đẹp quá, qua đây mình cũng muốn chia sẻ đến bạn và mọi người địa chỉ cung cấp DV phiên dịch, dịch t khảo chi tiết ngôn ngữ thuật đa ngôn ngữ, đa ngành nghề. Công Ty Phiên Dịch - Dịch THuật A2Z, đơn vị cung cấp DV số 1 tại VIệt Nam, với DV nhanh chóng, uy tín, chất lượng, điểm lợi khi khách hàng sử dụng DV tại A2Z: tiết kiệm tối đa chi phí, thời gian, hoàn phí khi có lỗi từ DV. Tham khảo chi tiết ngôn ngữ phiên dịch: Phiên dịch tiếng anh, Phiên dịch tiếng đức, Phiên dịch tiếng pháp, Phiên dịch tiếng Nga, Phiên dịch tiếng Nhật, Phiên dịch tiếng Hàn, Phiên dịch tiếng Trung .........................
ReplyDelete