NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO NGA
I. LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TẠI NGA
Nga hiện nay là một nước cộng hoà, diện tích 17,075,400km2, dân số 142 triệu người.Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo và Phật giáo là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997. Con số thống kê ở Nga không chính xác. Số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số. Chính thống giáo Nga là tôn giáo thống trị ở Nga 95% dân số. Các tôn giáo khác thì nhỏ hơn như Công giáo La mã, và nhiều phái Tin Lành. Người Nga chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống ở thế kỷ thứ 10. Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.
Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga, 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do Thái giáo. Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.. Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia.
Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga, 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do Thái giáo. Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.. Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia.
Nga là một quốc gia rộng lớn và có những vùng khác nhau. Về Phật giáo thì Phật giáo Tây Tạng mạnh nhất. Phật gáo Tây Tạng qua Mông cổ rồi vào đất Nga. Cũng có thuyết nói rằng khi quân Mông Cổ xâm lăng Tây Tạng thế kỷ 13nên đã thâu thaíi Phật giáo Tây Tạng. Sau đó, Phật giáo các nước theo di dân mà nhập vào Nga như Triều Tiên, Trung Quớc Việt Nam, Nhật bản. Về phương diện Phật giáo, chúng ta có thể chia làm ba vùng chính: Đó là vùng Burvartia, Kalmikia và Turva.
1. Phật giáo ở Burvatia (Buryatia)
Phật giáo đã đến xứ Mông cổ ( Xiongnu, Xianbei, và Khitans) vào thế kỷ thứ hai sau TL.Trong đó lãnh thổ Ivolginsk xứ Xiongnu ) đã có dấu tích Phật giáo trong các nấm mộ. Vào thế kỷ 17, Phật giáo Tây Tạng phát triển tại Mông Cổ rồi truyền đến dân chúng Transbaikalia ( vùnh gần đông hồ Baikal) thuộc Buvat. Khoảng cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, Phật giáo trải rộng khắp vùng Transbaikal. Một nhóm khác đi từ tu viện Labrang ở Amdo của Tây Tạng. Ban đầu họ lập những chùa nhỏ gọi là Dugan .
Dzogchen Dugan (temple) at the Ivolga Datsan, 2012
Green Tara Dugan at the Ivolga Datsan, 2012Phật giáo đã đến xứ Mông cổ ( Xiongnu, Xianbei, và Khitans) vào thế kỷ thứ hai sau TL.Trong đó lãnh thổ Ivolginsk xứ Xiongnu ) đã có dấu tích Phật giáo trong các nấm mộ. Vào thế kỷ 17, Phật giáo Tây Tạng phát triển tại Mông Cổ rồi truyền đến dân chúng Transbaikalia ( vùnh gần đông hồ Baikal) thuộc Buvat. Khoảng cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, Phật giáo trải rộng khắp vùng Transbaikal. Một nhóm khác đi từ tu viện Labrang ở Amdo của Tây Tạng. Ban đầu họ lập những chùa nhỏ gọi là Dugan .
Năm 1701 có 11 dugans ở Transbaikalia. Năm 1722, biên giới Mông Nga bị đóng cửa, và phía bắc Mông cổ thuộc Nga, là đất Buryat, Nga cho xứ này có quyền về tôn giáo, cho nên xứ này lập các tu viện đại học Phật giáo gọi là Datsan ở Buryatia. Tu viện đại học thứ nhất lập ở Tsongol xây xong thập niên 1740. Năm 1741 Nữ hoàng Elizabeth (Yelizaveta Petrovna)
công nhận Lạtma giáo , và công nhận 11 datsan cùng 150 lạt ma. Thế là Phật giáo Tây Tạng trở thành tôn giáo chính thức tại Nga. (Tháng 7 năm 1991, Phật giáo Buryatia làm lễ 250 năm được công nhận chính thức). Khoảng 1846, có 343 datsan lập ở Buryatia.
Các đại học ở đây đã thâu thái các văn chương, tập quán của phái Lat ma áo vàng ( Gelugpa lineage), và các tông phái khác của Phật giáo. Năm 1869, Lat ma Mông Cổ là Choi-Manrambađã dạy về y học tại Tu viện đại học Tsugol Datsan. Và từ đấy , y học phát triển. Năm 1878, trường Duynhor Kalachakra đưọc lập ở Aga datsan thì nâng cao giá trị tinh thần của tu viện đại học. Năm 1887, sách in ra, có 29 nhà in hoạt động,cho đến năm 1930 bị hủy hoại thì các nhà in đã in 2000 nhan sách viết bằng chữ Tây Tạng và Mông Cổ. Đến cuối thế kỳ 19, Phật giáo đã phát triển đến vùng Cisbaikalia (nay là Bắc Buryatia).
Các đại học ở đây đã thâu thái các văn chương, tập quán của phái Lat ma áo vàng ( Gelugpa lineage), và các tông phái khác của Phật giáo. Năm 1869, Lat ma Mông Cổ là Choi-Manrambađã dạy về y học tại Tu viện đại học Tsugol Datsan. Và từ đấy , y học phát triển. Năm 1878, trường Duynhor Kalachakra đưọc lập ở Aga datsan thì nâng cao giá trị tinh thần của tu viện đại học. Năm 1887, sách in ra, có 29 nhà in hoạt động,cho đến năm 1930 bị hủy hoại thì các nhà in đã in 2000 nhan sách viết bằng chữ Tây Tạng và Mông Cổ. Đến cuối thế kỳ 19, Phật giáo đã phát triển đến vùng Cisbaikalia (nay là Bắc Buryatia).
The Devajin Dugan at the Tamcha Datsan.
Triển lãm tại Bảo Tàng Nhân Dân Transbaikalia.
Tại Ivolga Datsan
Hambo Lama (ngồi giữa) của Tu viện đại học Tamcha, 1886
Năm 1918, Cộng sản ra lệnh tách rời nhà chùa với Chính quyền, và bãi bỏ giáo dục tôn giáo. Đạo luật này có hiệu lực tại Buryatia năm 1925, phá hoại giáo dục Phật giáo. 47 tu viện đại học và chùa nhỏ không hoạt động được. 1800 lạt ma học giả bị giam, lưu đày, hoặc vào trại cưỡng bách lao động. Hơn 100 vị lạt ma bị bắn chết.
Trong thập niên 1920, vài nơi trong xứ Transbaikalia ( nhất là ở
Aga) cho đến vùng Shenehen của Nội Mông thì còn tiếp tục truyền thống Phật giáo. Ngày 2-5 -1945, Hội đồng Nhân Dân Buryat ra nghị định mở cửa chùa Phật giáo. Các chùa chiền, tu viện được mở lại như Hambyn Sume ở Srednyaya Ivolga, Ivolga Datsan ở Buryatia và Aga Datsan ở Aga Buryat của Chita
Oblast... được mở cửa từ 1946. Năm 1991, một học viện cao cấp gọi là Dashi
Choynhorlin mở tại Ivolga Datsan để đào tạo tăng sinh, giáo sư, dịch giả , nghệ sĩ...Việc đào tạo theo quy mô của tu viện đại học Goman . Năm 1991, số đại học tu viện ở Buryatia lên đến 12.
2. Phật giáo tại Kalmykia
Kalmykia ở phía tây nước Nga. Kalmyks là một quốc gia châuy Âu the only nation of Europe có liên hệ nguồn gốc Mông Cổ , và cả quốc gia đều theo Phật giáo. Đây là quốc gia theo thể chế cộng hòa , là cộng hòa Kalmykia, là một liên bang phụ thuộc của liên bang Nga .Dân Kalmykia đã di cư sang châu Âu, theo đạo Phật, lấy lạt ma làm vị lãnh đạo tinh thần.
Những người tị nạn chính trị Kalmykia mở chùa Phật ở Trung Âu, như ở Belgrade, Serbia,
vào những năm 1920. Một số di cư sang Hoa Kỳ vào cuối 1951-1952, họ lập chùa ở Monmouth County, New Jersey vả vùng lân cận. Geshe Wangyal, là một nhà tu người Kalmykia đã lập Trung tâm Học viện và Tu viện Tây Tạng ở Washington, NJ.
Golden Temple Elista Kalmykia
3. Phật giáo tại Tyva
Nước Tyva cộng hòa (hoặc Tuva) là một liên bang phụ thuộc Nga, nằm trong vùng Trung Á, phía nam Siberia, thủ đô Kyzyl, dân số 307,930 (2010 Census).
Ở đây có ba tôn giáo chính: Phật giáo Tây Tạng, Chính thống giáo và Sa man giáo (1). Lãnh tụ Tây Tạng Phật giáo hiệen nay là Tenzin Gyatso, là vị Lạt ma thứ 14. Tháng 9 năm 1992, Ngài đã đến thăm Tuya ba ngày. Dân Tuvan theo Phật giáo cộng với tôn giáo Saman bản xứ.
Phật giáo phát triển suốt 16, 17 thế kỷ. Phật giáo suy tàn thời Cộng sản. Nay đang phục hưng. Chùa chiền mở rộng đào tạo tăng ni và lạt ma. Đạo shaman của bản xứ cũng phát triển.Cuộc khảo sát dân số năm 2012 cho biết 61% dân số theo Phật giáo, 8% theo đạo saman, 1,5% theo Chính thống giáo và Tin Lành giáo
Thời Nga Hoàng còn tại vì, Phật Giáo cũng rất thịnh hành ở nước Nga, có rất nhiều người quy y, tu học.
Nhiều chùa và tu viện Phật Giáo được xây cất khắp nơi. Năm 1741,
Hoàng hậu Nga Elizabeth đã có một tuyên ngôn, theo đó Phật giáo được
công nhận là một trong những tôn giáo của nhà nước Nga. Hoàng gia luôn
luôn thân thiện với Phật giáo. Năm 1764, Nữ hoàng Ecatherina II đặt ra
chức vụ người đứng đầu Phật tử Nga. Do đó, Phật tử Nga đã thừa nhận bà
là hiện thân của Tara Trắng. Tara Trắng là một trong những vị thần Phật
giáo. Kể từ đó, tất cả các hoàng đế Nga - bất kể họ là phụ nữ hoặc nam
giới, đều được tín đồ Phật tử Nga coi là hiện thân của Tara Trắng trên
cõi nhân gian."
Chính em ruột của Nga Hoàng Nicholas II là hoàng thân Ukhtomsky cũng là một nhà nghiên
cứu Phật Học và Ðông Phương học nỗi danh. Vị hoàng đệ này đã ủng hộ và
thuyết phục Nga Hoàng về việc cho phép xây cất ngôi chùa Kuntsechoinei
Datsan ở thành phố Petersburg vào năm 1908. Ðức Ðạt Lai La Ma thứ 13
cũng cúng dâng nhiều công đức về tịnh tài và pháp cụ cho ngôi chùa đầu
tiên ở nước Nga.
Những nhà Phật Học nổi danh là những Phật Tử Nga hồi đầu thế kỷ 20 như: Ivan Minayev, Sergei Oldenburg, Fyodor Stcherbatsky, Theodore Stcherbatsky và Cibikov là những Phật Tử tiên phong ở nước Nga. Thời đó Phật Giáo phát triển đến độ có cả trăm ngôi chùa và tu viện. Số Tăng, Ni xuất gia tu học lên tới cả nghìn người.
Nhưng cuộc biến loạn tháng 10 năm 1917 do những người Cộng Sản chủ xướng
đã tàn phá tất cả các tôn giáo, trong đó Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng
nặng nề .Nhưng cuộc bạo động lật đỗ chế
độ quân chủ ở Nga vào năm 1917 đã làm thay đổi tất cả chỉ trong vài
năm, chế độ sắt máu cuả Lenin rồi Stalin đã hũy diệt tất cả các
chùa, tu viện. Lại thanh toán tất cả những vị Tăng, Ni nào trái lệnh
không chịu hoàn tục vào năm 1939, Phật Giáo và các tôn giáo khác hầu như
mất hẳn ở nước Nga.
Ðến cuối thập niên 1960 thì nhà cầm quyền trở nên lưu ý vì nhận thấy
nhiều nhà trí thức ở khắp nơi đang quy tụ quanh nhà Phật Học nổi danh
là cư sĩ Bidya Dandaron. Mật vụ KGB đã chụp bắt và lên án tù chung thân
vị cư sĩ này trong trại lao động khổ sai chỉ vì tội danh duy nhất là:
" Truyền bá Phật Giáo". Hội Ân Xá Quốc Tế đã can thiệp nhiều
lần, yêu cầu chính quyền Cộng Sản Liên Xô phóng thích vị cư sĩ này.
Tiến sĩ Andrei Sakharov - người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1975
- củng tích cực can thiệp để trả tự do cho cư sĩ Bidya Dandaron.
Nhưng tất cả đều thất vọng và vị Bồ Tát Hoá Thân này đã tử đạo
trong trại lao động khổ sai, trong khi một chân đã bị đánh gẫy vì những
lần tra tấn dả man mà vẫn phải bò lết (vì đi không được) lao động.
Sự hà khắc này làm xúc động nhiều người. Nhưng những Phật Tử trung
kiên phần lớn là học trò cuả vị cư sĩ này vẫn tiếp tục tu học Phật
Pháp một cách kín đáo và nhiệt thành trước sự đàn áp của Cộng Sản.
Sau này các Phật Tử người Nga đã kể lại những chuyện tu học thầm
kín đó như sau:
" Khi tham dự một hoạt động Phật sự nào như Thiền, tụng niệm,
thuyết pháp, đọc kinh sách, báo Phật Giáo v.v...ở một nơi nào đó. Các
Phật Tử thường không đến thẳng nơi đó mà hẹn ở một trạm xe điện
chẳng hạn.
Rồi được một Phật Tử tới đón về nơi đó. Phật sự diễn ra trong căng phòng chật cứng những người yêu đạo; những bức tường quanh phòng có các hàng kệ xếp đầy kinh sách Phật Giáo. Ðiều nầy chứng tỏ sự học hỏi giáo pháp một cách thuần thành và uyên bác của người Phật Tử Nga. Không còn nghi ngờ gì nữa về sự nhiệt tâm và lòng thành của họ đối với Tam Bảo. Có nhiều người đã chọn những nghề bình thường để thích ứng hơn với sự tu học Phật Pháp thay vì những nghề cao sang. Có người thường xuyên đến tu học vào mùa hè ở Transbaikalia. Ðoàn Phật Tử nầy lại tiếp xúc với các đoàn Phật Tử tương tự và do đó tin tức về Phật Giáo được loan truyền rất nhanh. Do vậy mà ai cũng biết rằng điều gì đang xãy ra và đức tin của họ lại càng vững chắc hơn. Phật Tử Nga vẫn tích cực tu học sau thời Josef Stalin.
"Họ tổ chức luân phiên tại nhà riêng các đạo hữu những buổi lễ tụng niệm, thiền, thuyết pháp, trao đổi những tin sinh họat Phật Giáo ở trong nước và tin Phật Giáo ở các nước trên thế giới mà họ có được hay chuyền cho nhau những sách báo Phật Giáo từ nước ngoài. Mỗi khi tổ chức như vậy phải đặt người canh gác mật vụ KGB và công an NKVD vì nếu bị bắt, sẽ lãnh án cải tạo khó có ngày về vì tội truyền bá tôn giáo. Thời Cộng Sản, hiến pháp Liên Xô có ghi hai điều: "Quyền tự do không tín ngưỡng " và " Quyền tự do chống tín ngưỡng", bên cạnh điều : "Quyền tự do tín ngưỡng"." "Sự tu học của Phật Tử Nga rất đáng khâm phục.
Có người phải đi bộ hàng trăm cây số dù nắng, mưa, bảo, tuyết để đến nơi tu học nói trên. Có người cố học thuộc các đoạn kinh Phật, sách hay tin Phật sự ở các báo nước ngoài vì không thể đem theo các tài liệu này sợ bị bắt, để phỗ biến cho các Phật Tử khác. Những chuyện như thế sau này được kể lại đã làm xúc động thế giới."
Rồi được một Phật Tử tới đón về nơi đó. Phật sự diễn ra trong căng phòng chật cứng những người yêu đạo; những bức tường quanh phòng có các hàng kệ xếp đầy kinh sách Phật Giáo. Ðiều nầy chứng tỏ sự học hỏi giáo pháp một cách thuần thành và uyên bác của người Phật Tử Nga. Không còn nghi ngờ gì nữa về sự nhiệt tâm và lòng thành của họ đối với Tam Bảo. Có nhiều người đã chọn những nghề bình thường để thích ứng hơn với sự tu học Phật Pháp thay vì những nghề cao sang. Có người thường xuyên đến tu học vào mùa hè ở Transbaikalia. Ðoàn Phật Tử nầy lại tiếp xúc với các đoàn Phật Tử tương tự và do đó tin tức về Phật Giáo được loan truyền rất nhanh. Do vậy mà ai cũng biết rằng điều gì đang xãy ra và đức tin của họ lại càng vững chắc hơn. Phật Tử Nga vẫn tích cực tu học sau thời Josef Stalin.
"Họ tổ chức luân phiên tại nhà riêng các đạo hữu những buổi lễ tụng niệm, thiền, thuyết pháp, trao đổi những tin sinh họat Phật Giáo ở trong nước và tin Phật Giáo ở các nước trên thế giới mà họ có được hay chuyền cho nhau những sách báo Phật Giáo từ nước ngoài. Mỗi khi tổ chức như vậy phải đặt người canh gác mật vụ KGB và công an NKVD vì nếu bị bắt, sẽ lãnh án cải tạo khó có ngày về vì tội truyền bá tôn giáo. Thời Cộng Sản, hiến pháp Liên Xô có ghi hai điều: "Quyền tự do không tín ngưỡng " và " Quyền tự do chống tín ngưỡng", bên cạnh điều : "Quyền tự do tín ngưỡng"." "Sự tu học của Phật Tử Nga rất đáng khâm phục.
Có người phải đi bộ hàng trăm cây số dù nắng, mưa, bảo, tuyết để đến nơi tu học nói trên. Có người cố học thuộc các đoạn kinh Phật, sách hay tin Phật sự ở các báo nước ngoài vì không thể đem theo các tài liệu này sợ bị bắt, để phỗ biến cho các Phật Tử khác. Những chuyện như thế sau này được kể lại đã làm xúc động thế giới."
Một tu viện Phật Giáo bị đóng cửa từ năm 1930 trong thời kỳ chống báng
tôn giáo của Josef Stalin đã được sửa chữa và mở cửa lại cho các
tín đồ Phật Giáo sinh hoạt.Nhưng vào cuối thập niên 1980, chế độ đã hoàn toàn sụp đổ
ở nước Nga và các nước ở Ðông Âu nên đã có nhiều chuyển đổi thuận
lợi cho Phật Giáo có cơ hội phục hồi lại như xưa ở nước Nga.
Thành phố Petersburg có truyền thống nghiên cứu và sưu khảo về Phật Giáo
. các học giả trong quá khứ đã giảng giải những cổ ngữ và kinh sách
Phật Giáo. Truyền thống nầy lại được tiếp tục bởi các nhà nghiên cứu
và sưu khảo ngày nay. Phật Giáo là một sinh lực linh động ở vùng đông
Siberia thuộc nước Cộng Hòa Phật Giáo Buryatia. Những vùng khác như Chita,
Irkutsk đã có những cơ sở lớn nhất của các Phật Tử Nga để tu học.
Vào tháng 6-1990, tại một buổi lễ ở chùa Ivolginsky Datsan trụ sở của các Phật Tử Nga, các vị Tăng, Ni và cư sĩ Phật Tử Á Châu đã tham dự phiên họp Hội Ðồng Chấp Hành Thế Giới về Ðại Hội Hòa Bình Phật Giáo Á Châu, một tổ chức cổ vũ hòa bình và hài hòa dựa trên những lời dạy của Ðức Phật. Các nhà lãnh đạo và học giả Phật Giáo từ nhiều nước Á Châu tham dự hội nghị củng kêu gọi sự nghiên cứu về di sản và văn hóa Phật Giáo có tính sử học. Các vị đại biểu Phật Giáo Nga trong Hội Ðồng Chấp Hành còn đề nghị thành lập ũy ban văn hóa, truyền thống và di sản Phật Giáo nằm trong cơ cấu tổ chức Ðại Hội Hòa Bình Phật Giáo để ủng cố sự đoàn kết giữa các Phật Tử Á Châu và các Phật Tử thế giới.
Trong bầu không khí "Glasnot" tự do ở cuối thập niên 1980, và cuộc
chuyển đổi ôn hòa từ Cộng Sản sang Dân chủ của ông Mikhail Gorbachev
và ông Boris Yelsin, người dân Nga đã được hưởng đầy đủ các quyền
tự do, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng. Do đó, Phật Giáo đang sinh
động và phục hồi trên khắp nước Nga.
Ðể tránh sự khó khăn và không an toàn của tình trạng bất hợp pháp,
các đoàn thể Phật Giáo trên khắp nước Nga phải đăng ký để được
phép hoạt động. Trên lý thuyết không còn một trở ngại nào nghiêm trọng
vì Phật Giáo và các tôn giáo ở nước Nga không còn bị coi như thành phần
tranh chấp về chính trị như thời Cộng Sản. Do đó rất nhiều tổ chức,
hội đoàn Phật Giáo đã được thành lập và đăng ký sinh hoạt ở nhiều
nơi trên nước Nga.
Hội Phật Giáo Petersburg (The Petersburg Religion Society Of Buddhists) đã có năm
nghìn Phật Tử ghi danh chính thức gia nhập hội. Còn nhiều Phật Tử khác
chưa ghi danh. Hội nầy cũng được chính phủ trao trả lại ngôi chùa cổ
Kuntsechoinei. Chùa đã được sửa chữa, tu bổ và hiện do Thượng Tọa
Gelong Sameyev, người Nga, trụ trì. Lúc nầy chùa đang có hai mươi sa di người
Nga tu học.
Hội Phật Giáo Estonia (The Estonian Buddhist Association) với hai nghìn Phật Tử
hội viên.
Còn nhiều hội đoàn Phật Giáo khác ở Riga, Latvia, Novosibirsk, Kiev, và
Khalev cũng được thành lập.Hai ngôi chùa Ago và Ivolga đã được trùng tu và là nơi sinh hoạt cho hai
mươi đoàn Phật Tử ở Siberia. Cộng đồng Phật Giáo Tashkent đã đăng bạ
và khởi sự sinh hoạt.
Một trung tâm Phật Giáo mới được khánh thành ở Kalmykia. Cộng đồng Phật
Giáo ở thủ đô Moscow rất phát triển với hai mươi nghìn Phật Tử. Các
Phật Tử ở đây có hai hạnh nguyện là xuất bản một tờ báo Phật
Giáo để có phương tiện tu học, nghiên cứu về giáo lý, triết lý, kinh
sách Phật Giáo; cũng như phương tiện truyền thông tin tức, sinh hoạt và
tình hình Phật Giáo ở nước Nga và các nước trên thế giới. Hạnh nguyện
này đã thành. Tờ báo Phật Giáo đã xuất bản do cô Sasha Iakoleva làm chủ
nhiệm. Báo phát hành toàn nước Nga. Ở thủ đô Moscow đã có mười nghìn
độc giả. Hạnh nguyện thứ hai là tìm kiếm một vùng đất thật rộng lớn
để kiến tạo một cảnh chùa thật hùng vĩ, đồ sộ tượng trưng cho Phật
Giáo phát triển dũng mãnh ở thủ đô và các thành phố khác ở nước
Nga.
Việc tìm kiếm vùng đất trống ở ngay thủ đô lúc này rất khó khăn và không thể làm được. Do đó Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã mua một cao ốc ba tầng rất to lớn, nguyên là một nhà kho để cải biến thành ngôi chùa Phật. Phật Giáo Nga cần một số tiền rất lớn: một triệu (1,000,000) Mỹ kim để mua cao ốc và vùng đất bao quanh. Nhờ đạo tâm cao cả vì Phật Pháp, các Phật Tử Nga đã cúng dâng đầy đủ số tiền này. Khu cao ốc đã mua xong và hiện đang ở giai đoạn chỉnh trang, biến cải và xây dựng bên trong cũng như bên ngoài để tạo tác thành ngôi chùa thờ Phật uy nghi ở thủ đô. Các kiến trúc sư và kỹ sư các ngành đang thực hiện Phật sự to lớn này.
Việc tìm kiếm vùng đất trống ở ngay thủ đô lúc này rất khó khăn và không thể làm được. Do đó Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã mua một cao ốc ba tầng rất to lớn, nguyên là một nhà kho để cải biến thành ngôi chùa Phật. Phật Giáo Nga cần một số tiền rất lớn: một triệu (1,000,000) Mỹ kim để mua cao ốc và vùng đất bao quanh. Nhờ đạo tâm cao cả vì Phật Pháp, các Phật Tử Nga đã cúng dâng đầy đủ số tiền này. Khu cao ốc đã mua xong và hiện đang ở giai đoạn chỉnh trang, biến cải và xây dựng bên trong cũng như bên ngoài để tạo tác thành ngôi chùa thờ Phật uy nghi ở thủ đô. Các kiến trúc sư và kỹ sư các ngành đang thực hiện Phật sự to lớn này.
Moscow (Mạc Tư khoa) sẽ có một ngôi chùa và tu viện Phật Giáo đầu tiên ở
thủ đô. Từ khi thủ đô nước Nga chỉ có một số ít Phật Tử thì nhu cầu cho
một ngôi chùa và tu viện chưa bao giờ được nghĩ tới trước đó. Nhưng bây
giờ thì số người Nga quy y Phật Giáo ở thủ đô Moscow mỗi ngày một gia
tăng đáng kể nên Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã quyết định xây cất một ngôi
chùa không những chỉ dành cho các Phật Tử người nước ngoài thuộc các
phái đoàn ngoại giao có tín ngưỡng Phật Giáo nữa.
Trong những ngày này, Mười ngày văn hóa Phật giáo bắt đầu được khai trương tại thủ đô phía Bắc của Nga.
Đây là Festival lần thứ ba của những người theo giáo huấn Đức Phật ở St
Petersburg. Năm nay, lễ hội được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 270 năm ngày
Phật giáo chính thức được công nhận là một trong những tôn giáo của nhà
nước Nga.
Tại Liên Hịêp Nga (The Russian Federation), Phật Giáo vừa hồi sinh, vừa phát triển rất nhanh, và mạnh. Hiện có hàng triệu người Nga tín ngưỡng Phật Giáo.Ba nước Cộng Hòa Phật Giáo (The Three Buddhist Republics):Kalmykia, Tuva, Buryatia dân chúng đều là tín đồ Phật Gíáo. Chỉ riêng nước Cộng Hòa Phật Giáo Buryatia đã có dân số hai triệu (2.000.000) người hoàn toàn là Phật Tử.
Tại Liên Hịêp Nga (The Russian Federation), Phật Giáo vừa hồi sinh, vừa phát triển rất nhanh, và mạnh. Hiện có hàng triệu người Nga tín ngưỡng Phật Giáo.Ba nước Cộng Hòa Phật Giáo (The Three Buddhist Republics):Kalmykia, Tuva, Buryatia dân chúng đều là tín đồ Phật Gíáo. Chỉ riêng nước Cộng Hòa Phật Giáo Buryatia đã có dân số hai triệu (2.000.000) người hoàn toàn là Phật Tử.
II. KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO NGA
A. ST. PETERSBURG
1. TU VIỆN ĐẠI HỌC ST.PETERSBURG
Tu viện này trước mang tên là St Peterburg Datsan nhưng sau đổi tên là
Gunzechoyney Datsan.
Từ năm 2009, lễ hội Mười ngày do chùa
Gunzechoyney ở St Petersburg khởi xướng được tổ chức hàng năm. Chùa được
xây dựng trên bờ sông Neva vào năm 1915. Đây không chỉ là một trong
những ngôi chùa cổ nhất ở Nga, mà còn là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở
châu Âu. Đầu thế kỷ XX, ở St Petersburg chỉ có
khoảng hai trăm Phật tử. Mặc dù ở nước Nga không có nhiều người theo đạo
Phật, các vị hoàng đế Nga luôn luôn đối xử với họ tử tế và giúp đỡ họ
về mọi mặt. Để hỗ trợ Phật giáo, thậm chí nhà nước đã thông qua một văn
kiện đặc biệt, đặt nền móng cho sự phát triển của hệ thống tôn
giáo-triết học này.
Bảo tàng dân tộc học ở St Petersburg sẽ có món quà bất
ngờ dành cho các Phật tử. Tại Mười ngày văn hóa Phật giáo, lần đầu tiên
trưng bày bảy tặng vật độc đáo, do Lạtma Pandito Hambo Dashi-Dorji
Itigelov tặng Nga hoàng Nicolai II vào ngày kỷ niệm lần thứ 300 của
triều đại Romanov. Trong một thời gian dài, các vật báu này được coi là
mất tích. Bà Alla Namsaraeva nói :
Đối với các Phật tử, việc tìm lại những món quà này là một biểu tượng
thiêng liêng. Năm 1927, khi đang thiền định, Lạt ma Itigelov Hambo, bây
giờ được gọi là "Lạt Ma thánh cốt” đã qua đời, thọ 75 tuổi. Ông được
chôn cất ở ngoại ô Ulan-Ude, thủ phủ của Buryatia. Gần mười năm trước,
cỗ quan tài với thánh cốt đã được cải táng.
Và thật ngạc nhiên, thi thể
ngài Itigelov, người ngay trước khi chết đã tuyên bố sẽ đầu thai, rất ít
bị phân hủy. Ngày nay, thánh cốt Lạtma Pandito Hambo Dashi-Dorzho
Itigelov trở thành một trong những thánh tích thiêng liêng của đạo Phật.
Ba năm trước, để bảo vệ hiện vật quý giá, trong điện thờ Ivolginsk đã
xây dựng một cung điện thủy tinh đặc biệt gọi là Cung hồ quang Etigel.
Tín đồ Phật Giáo chỉ có thể vào thăm cung này trong những ngày lễ lớn
của Phật giáo.
The Datsan Gunzechoinei
Saint Petersburg Datsan
2. CHÙA KALACHAKRA
Khoảng năm 1909, Lat ma Agvan Dorjiev tuân lệnh Nga hoàng Nikolai Romanov khởi sự xây chùa cho dân Buriat và Kalmyk trong thành phố. Agvan Dorjiev (1854-1938) là người Mông Cổ ở Buryat, đã tu học ở Lhasa và trở thành giáo viên phụ giảng của Đat Lai Lat ma thứ 13.Chùa này là chùa đầu tiên ở châu Âu. Chùa mở cửa năm 1915, vào giữa đế nhất thế chiến. Năm 1917, chùa bị Hồng quân phá hoại phải đóng cửa. Chùa hoạt động vào 1990 vào thời Perestroika của Gorbachev .
Phật giáo đoàn này là một tổ chức Phật giáo được chính quyền Slovenia chấp thuận. Trung tâm này do Lạt ma tối cao giảng dạy theo lời Phật, và thích hợp cho mọi quốc gia. Trung tâm được Lama Shenpen Rinpoche là vị lat ma thường trú tại Slovenia dạy. Ngài sinh ở miền tây nước Pháp, sau theo Phật giáo và được các lạt ma chấp nhận từ 1992. Năm 2000, ngài được mời dạy tại Slovenia và nhiều quốc gia khác.Trung tâm và chùa thành lập từ January 1, 2007.
Giáo đoàn này có cơ sở chính tại Slovenia, và nhiều chi nhánh tai Hungary, Autria, Romania, Pháp..
Địa chỉ tại Nga:
Buddhist centre and Temple in Ljubljana, Slovenia
Address: Saint-Petersburg, Russia
Tradition: Tibetan, Vajrayana
mekikova11000 Ljubljana, Slovenia
Email
office@dharmaling.org
Website
http://www.dharmaling.o
* E-mail: spb @ dharmaling.org
B. BURYATIA
Số chùa chiền và tu viện tại Buryatia rất phát triển trong thời Nga hoàng. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại tên các chùa và tu viện thời ấy và hiện nay như sau ở Buyatia, Chita và Irkutsk Oblasts:
2. CHÙA KALACHAKRA
Khoảng năm 1909, Lat ma Agvan Dorjiev tuân lệnh Nga hoàng Nikolai Romanov khởi sự xây chùa cho dân Buriat và Kalmyk trong thành phố. Agvan Dorjiev (1854-1938) là người Mông Cổ ở Buryat, đã tu học ở Lhasa và trở thành giáo viên phụ giảng của Đat Lai Lat ma thứ 13.Chùa này là chùa đầu tiên ở châu Âu. Chùa mở cửa năm 1915, vào giữa đế nhất thế chiến. Năm 1917, chùa bị Hồng quân phá hoại phải đóng cửa. Chùa hoạt động vào 1990 vào thời Perestroika của Gorbachev .
Năm 2003 và 2005, Ngài Kirti Tsenshab Rinpoche giảng dạy tại đây.
KALACHAKRA có một hệ thống chùa và học viện tại nhiều quốc gia :Tây Tạng,Ấn Độ, Mông Cổ, Hawaii, Spain, Australia...
Địa chỉ:
The Saint Petersburg Temple of Kalachakra
197183, St. Petersburg, Primorsky prospect, 91
3. PHẬT GIÁO ĐOÀN DHAHARMALING (Buddhist Congregation Dharmaling)
Phật giáo đoàn này là một tổ chức Phật giáo được chính quyền Slovenia chấp thuận. Trung tâm này do Lạt ma tối cao giảng dạy theo lời Phật, và thích hợp cho mọi quốc gia. Trung tâm được Lama Shenpen Rinpoche là vị lat ma thường trú tại Slovenia dạy. Ngài sinh ở miền tây nước Pháp, sau theo Phật giáo và được các lạt ma chấp nhận từ 1992. Năm 2000, ngài được mời dạy tại Slovenia và nhiều quốc gia khác.Trung tâm và chùa thành lập từ January 1, 2007.
Giáo đoàn này có cơ sở chính tại Slovenia, và nhiều chi nhánh tai Hungary, Autria, Romania, Pháp..
Địa chỉ tại Nga:
Buddhist centre and Temple in Ljubljana, Slovenia
Address: Saint-Petersburg, Russia
Tradition: Tibetan, Vajrayana
mekikova11000 Ljubljana, Slovenia
office@dharmaling.org
Website
http://www.dharmaling.o
* E-mail: spb @ dharmaling.org
Dharmaling Buddhist Centre
Vẽ Mạn Đà La
Dharmaling Buddhist Centre
B. BURYATIA
2.Aga Datsan: Chita, Aga Buryat Autonomous Area, village of Aginskoye
3.Atsagat Datsan: Republic of Buryatia, village of Atsagat
4.Kurumkan Datsan: Republic of Buryatia, Kurumkansky (Huramhaanai in Buryat) District, village of Kurumkan
5.Sartul-Gegetuy Datsan: Republic of Buryatia, Jidinsky (Zede) District, village of Gegetuy
6.Atagan-Dyrestuy Datsan: Republic of Buryatia, Jidinsky (Zede) District, village of Dyrestuy
7.Tabangut-Ichotuy Datsan: Republic of Buryatia, Jidinsky (Zede) District, village of Dodo-Ichotuy
8.Egita Datsan: Republic of Buryatia, Yeravninsky (Yaruunyn) District, village of Egita
9.Sanaga Datsan: Republic of Buryatia, Zakamensky (Zahaaminai) District, village of Sanaga
Ivolga Datsan: Republic of Buryatia, Ivolginsky (Ebilge) District, village of Vyerkhnyaya Ivolga website
10.Kizhinga Datsan: Republic of Buryatia, Kizhinginsky (Hezhengyn) District, village of Kizhinga
11.Baldan Breybun Datsan: Republic of Buryatia, Kyakhtinsky (Hyaagtyn) District, village of Murochi
12.Tugnui Datsan: Republic of Buryatia, Mukhorshibirsky (Muhar-Sheber) District, village of 13.Mukhorshibir
14.Okinsky Datsan: Republic of Buryatia, Okinsky (Ahyn) District, village of Orlik
15.Tamcha (Gusinoozyorsk) Datsan: Republic of Buryatia, Selenginsky (Selenge) District, village of Gusinoye Ozero (Tamcha)
16.Kyren Datsan: Republic of Buryatia, Tunkinsky (Tünhen) District, village of Kyren
17.Hoymor Datsan: Republic of Buryatia, Tunkinsky (Tünhen) District, Arshan resort
18.Ugdan Datsan: Transbaikalia District, Chita Oblast, village of Ugdan
19.Ust-Orda (Abaganat) Datsan: Irkutsk Oblast, village of Ust-Orda
20.Ana Datsan: Republic of Buryatia, Khorinsky (Hori) District, village of Ana
21.Chesan Datsan: Republic of Buryatia, Kizhinginsky (Hezhengyn) District, village of Chesan
22.Chita Datsan: Transbaikalia Kray, Chita Oblast, city of Chita
23.Tsugol Datsan: Chita Oblast, village of Tsugol
4. ĐẠI HỌC TU VIỆN HAMBYN-HURE
Datsan Hambyn-Hure là đại học tu viện Phật giáo ở Ulan-Ude ở bắc Siberia (Transbaykal), nước Nga. Đại học này mở 1994.
Datsan Hambyn-Hure (Ulan-Ude).jpg
5. TU VIỆN ĐẠI HỌC IVOLGINSKY
Ivolginsky datsan (Russian: Иволгинский Дацан) là chùa Phật ở Buryatia, Russia, cách Ulan Ude, 23 km, gần làng Verkhnyaya Ivolga. village. Tu viện mở cửa năm 1945, và là trung tâm Phật giáo duy nhất ở Liên Xô. Ban đầu là một chùa nhỏ, sau trở thành trung tâm tu viện do lat ma Pandido Khambo lama, vị lãnh đạo toàn thể lat ma Liên Xô làm trụ trì.
Đó là trung tâm tinh thần Phật giáo Liên Xô , sau đó là cơ quan của Giáo hội Tăng già Phật giáo Nga. Viện đại học Phật giáo «Dashi Choinkhorling» mở cửa năm 1991, và gắn bó với tu viện đại học này.
Ngày 20/01/2005, Viện đại học Buryatia chính thức cấp giấy phép công nhận
Học viện Phật giáo tại Buryatia thành Viện đại học Phật giáo
Damba-Dorzho Zayayev, lấy danh hiệu của Lạt-ma Khambo, đặt tại Tu viện
Ivolgin. Đây là Viện đại học Phật giáo đầu tiên ở Nga.
Viện đại học Phật giáo này đạo tạo từ cử nhân đến tiến sĩ theo quy định
chung của Bộ giáo dục Nga. Sinh viên muốn theo học ở Viện đại học này ít
nhất phải tốt nghiệp phổ thông trung học và phải trải qua đợt thi tuyển
sinh. Theo các giáo sư ở các học viện Phật giáo
nước ngoài, sinh viên Nga rất giỏi các môn học như toán, vật lý, hóa
học, thiên văn, v.v... Vì thế, khi nghiên cứu về đạo Phật, họ đã nhanh
chóng tiếp thu giáo lý đạo Phật một cách hữu hiệu.Phật
tử ở Nga hy vọng rằng, sự ra đời của viện Đại học này sẽ là nơi đào
tạo nhiều người con Phật để có thể truyền bá tư tưởng Phật giáo rộng
rãi hơn, lợi ích hơn, góp phần giữ gìn trật tự và an bình cho đất nước.
Những người có công rất lớn trong phong trào nghiên cứu Phật giáo tại Nga
phải kể đến viện sĩ hàn lâm Vasily Vasiliyey, sinh năm 1818, người kế
thừa ông là người học trò Ivan Minayev, và nhiều nhà nghiên cứu Phật học
khác như ông Sergei Oldenburg, (1863-1934), Fyodor Ippolitovich
Shcherbatskoy (1866-1942), v.v…
Trong số đó, đặc biệt là ngài Agvan Dorzhiev (1854-1928), Ngài đã từng làm cố vấn giảng
dạy cho đức Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 thời thơ ấu. Sau này, Ngài trở về Nga
để chỉnh đốn và xây dựng Phật giáo tại Buryatia.
Ivolga Monastery
Ivolga Monastery - Etigel Khambin Temple.
Tổng thống Putin đến thăm Ivolghinsky Datsan
Ivolghinsky Datsan
Ivolghinsky Datsan
6. TU VIỆN ĐẠI HỌC ANINSKY
Aninsky Datsan (bur. Ana Dothan) - một trong những datsan lâu đời nhất của Nga. Nằm ở phía đông của nước cộng hòa Buryatia ngày nay . Aninski Datsan được xây năm 1775 và là một trung tâm y học Tây Tạng. Ở thế kỷ XIX, tu viện đại học này rất lớn, là nhà của 1000 lạt ma, hàng trăm sinh viên. Tu viên đại học này được dân trong vùng kinh trọng.
Aninsky
Datsan là trung tâm của tôn giáo, giáo dục, xuất bản, biểu tượng, đồ
họa, nghệ thuật sân khấu . Tu viên lúc này là tòa nhà bằng gỗ đã bị đốt cháy một lần vào năm 1811 . Dugan là một tòa nhà hai tầng có lan can, ban công, hang động và hốc. Tầng đầu tiên bắt đầu với chiều cao của con người. Thay vào đó, mái nhà được xây dựng một kim tự tháp bằng đá. Chiều cao của kim tự tháp từ 10 đến 15 mét. Kim tự tháp đã được hỗ trợ 30 cột.Năm 1825, ông tách ra khỏi Aninskogo Egituysky Datsan.Vào cuối thế kỷ IXX xung quanh Aninskogo datsans sống hàng chục ngàn người.
Datsan là một ngôi làng lớn, chiếm trung tâm của đền thờ và tu viện phức tạp, là trung tâm buôn bán gần Chita đường, toàn bộ thung lũng đã được xây dựng với những ngôi nhà và cửa hàng của Bukharan người Do Thái (burzhahe), các thương gia Trung Quốc, Nga, Mông Cổ doanh nhân, những người hành hương Tây Tạng.Sau cuộc bạo loạn năm 1917 Datsan đã được đóng lại. Năm 1931, quân Liên Xô đem đại pháo phá hủy datsan này, một số lạt ma chết, số còn lại bị đày đi Gulag. Trong thời Xô Viết các datsans xây dựng sử dụng như là chuồng ngựa, nhà để xe, vv.. Cho đến những năm 1950, các tòa nhà sụp đổ, và trở thành hoang phế suốt triều đại cộng sản. Từ những năm 1990, tu viện được phục hồi.
Datsan là một ngôi làng lớn, chiếm trung tâm của đền thờ và tu viện phức tạp, là trung tâm buôn bán gần Chita đường, toàn bộ thung lũng đã được xây dựng với những ngôi nhà và cửa hàng của Bukharan người Do Thái (burzhahe), các thương gia Trung Quốc, Nga, Mông Cổ doanh nhân, những người hành hương Tây Tạng.Sau cuộc bạo loạn năm 1917 Datsan đã được đóng lại. Năm 1931, quân Liên Xô đem đại pháo phá hủy datsan này, một số lạt ma chết, số còn lại bị đày đi Gulag. Trong thời Xô Viết các datsans xây dựng sử dụng như là chuồng ngựa, nhà để xe, vv.. Cho đến những năm 1950, các tòa nhà sụp đổ, và trở thành hoang phế suốt triều đại cộng sản. Từ những năm 1990, tu viện được phục hồi.
C. KALMYKIA
7.TU VIỆN BURKHAN BASKIN ALTAN (GOLDEN ABODE OF SHAKYAMUNI)
Tu viện Golden Abode of Buddha Shakyamuni xây năm 2005 ở phía nam Nga, vùng Elista là một ngôi chùa Phật lớn nhất châu Âu . Trong thởi cộng sản, chùa chiền là đạo Phật bị phá hoại, nay đang phục hưng.Đức Đạt Lai lạt ma thứ 14 đã làm lễ khánh thành vào ngày 27-12-2005, có trên 5,000 người tham dự.Trong buổi lễ,Tổng thống Cộng hòa Kalmykia Kirsan Ilyumzhinov đã tưởng niệm tại chùa những ai đã bị cộng sản giết và đày Siberia vào ngày 27-12- 1943.
8. TU VIỆN GEDEN SHEDDUP CHOIKORLING
Tu viện Geden Sheddup Choikorling là một tu viện Tây Tạng ở Elista, nước cộng hòa Kalmykia, thuộc Nga. Tu viện mở cửa ngày 5-10- 1996 với sự tham dự của trên 30,000 dân chúng. Đây là tu viện Tây Tạng đầu tiên được xây trong vùng kể từ 1920. Đây là tu viện đầu tiên của nền Cộng hòa kể từ khi Stalin ra lệnh phá hoại chùa chiền trong thời Tập thể hóa và thời Đại khủng bố của thập niên 1930.
Tu viện Geden Sheddup Choikorling là một tu viện Tây Tạng ở Elista, nước cộng hòa Kalmykia, thuộc Nga. Tu viện mở cửa ngày 5-10- 1996 với sự tham dự của trên 30,000 dân chúng. Đây là tu viện Tây Tạng đầu tiên được xây trong vùng kể từ 1920. Đây là tu viện đầu tiên của nền Cộng hòa kể từ khi Stalin ra lệnh phá hoại chùa chiền trong thời Tập thể hóa và thời Đại khủng bố của thập niên 1930.
Theo tiếng Tây Tạng, Geden Sheddup Choikorling co nghĩa là "Nơi an trú thiêng liêng cho lý thuyết và thực hành của Phái Lạt ma áo vàng"( "A Holy Abode for Theory and Practice of the School of Gelugpa) .Đức Đạt lai lạt ma đời14 chọn đất và đặt tên khi ngài ra ngoài thủ đô Elisa trong dịp ngài viếng cộng hòa Kalmykia vào mùa hè 1991. Chùa có tượng Phật Thích Ca.
D. CZECH
10. TRUNG TÂM DHARMA CENTER
Tushita Meditation Centre là trung tâm học tập va thực hành Phật pháp theo truyền thống Đại Thừa Tây tạng . Trung tâm này nay ở Bắc Ấn Độ, giữa những núi đồi rậm rạp.gần thành phố McLeod Ganj - là nơi Ngài Đat Lai Lat ma thứ 14.
Trung tâm Tushita nhắm truyền thụ Phật pháp cho mọi người ở mọi quốc gia. Trung tâm Tushita được thành lập năm 1972 do Lama Thubten Yeshe, là giáo sư về Phật giáo Tây Tạng truyền thống. Vì Ngài Yeshe viên tịch năm 1984, đệ tử chinh của Ngài là Lama Zopa Rinpoche thay Ngài điều khiển Tushita và FPMT (Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition).
Tushita là thành viên của FPMT - là một mạng lưới của trên 40 trung tâm thiền và phục vụ xã hội trên 30 quốc gia trên thế giới
Địa chỉ tại Nga:
Tushita Dharma Center
Address: pr. Oktyabrya, 101/1a, 102 Ufa 450000Tradition: Vajrayana, Tibetan, Gelugpa
Phone: +7 347 2355622
E-mail: mail@@tushita.ru
Website: http://www.tushita.ru
Find on:
Spiritual Director: Venerable Geshe Jampa Tinley
Tushita Meditation Centre
E. MAC TƯ KHOA
Trung tâm này có gần 40 chi nhánh trên các quốc gia trên thế giới.
Argentina / australia /Austria /Canada /Chile /Croatia /Czech Republic /Estonia /France
/Germany /Hong Kong /Hungary /India /Israel /Italy /Japan /Latvia /Libanon /Lithuania
/Malaysia /Mexico /Mongolia /Nepal /New Zealand / /Neru /Poland /Russia /Singapore
/Spain / Sweden /Switzerland /Taiwan /Tibet /Ukraine /United Kingdom /United States /Vietnam
Tại nước Nga, trung tâm chính là:
Drikung Kagyu Ratna Shrin/a
n/a Moscow Russia
http://drikung.ru
Contact Person: Alexander Bedcher,
Alexander Dogaev
Phone: +7 (926) 9035959
Tại Nga có trung tâm ở Moscow và Estonia .
Trung tâm Phật giáo Tây Tạng “Drikung Kagyu Ratna Shri” ở Mạc Tư Khoa được thành lập năm 2009 do Ngài Kyabje Garchen Rinpoche và Ngài H.H. Drikung Kyabgon Chetsang, viện trưởng viện Drikung Kagyu school. Khoảng năm 2003, Ngài Kyabje Garchen Rinpoche đã thăm Moscow nhiều lần và ngỏ ý xây một trung tâm Phật giáo để dạy Phật pháp cho dân chúng tại đây.
Drikung Kagyu Ratna Shri” ở Mạc Tư Khoa
Drikung Kagyu Ratna Shri” ở Mạc Tư Khoa
Trung tâm Estonia thành lập từ 1992.Trung tâm Drikung Kagyu Ratna Shri là trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở Tallinn, có mục đich dạy Thiền, dạy Phật pháp. Có nhiều cách thiền theo phái Drikung Kagyu cổ truyền. Mỗi cá nhân có thể tìm thấy con đường thích hợp cho mình.
Địa chỉ: Vilmsi 45A-2
Tallinn
Estonia 10412
Ain Starast, President
+372 56479868
drikung@drikung.ee
Lineage
Tibetan: Drikung Kagyu
Lineage holder / Director
Drupon Konchok Sangyas Rinpoche
Members & Friends 22
Language(s) Estonian, English
Drikung Kagyu Ratna Shri ở Estonia
Đây là một phái Thiền tên là Vipassanā do Satya Naravan Goenka (sinh năm 1924), người Miến Địện giảng dạy . Ông là đệ tử củaSayagyi U Ba Khin.Ông Goenkađã đào tạo hơn 800 đạo sư, và mỗi năm dạy 100,000 đệ tử theo phép thiền Vipassana. Ông nhấn mạnh rằng đức Phật dạy pháp, dạy Tự do, là những điều phổ quát toàn cầu, không riêng rẽ địa phương nào, sắc tộc nào.
Ông nói rằng Thiền Vipassana là một khoa học kinh nghiệm, hiểu biết sâu xa, đưa ta đến chân hạnh phúc và hòa bình. Mỗi khóa thiền là 10 ngày.
Ông đã xây được một cơ sở Thiền, và khánh thành vào tháng 11-2008, gọi tên là Chùa Vipassana Toàn Cầu ( Global Vipassana Pagoda) ở gần Mumbai. Ông hy vọng đây là cái cầu nối kết các dân tộc , các cộng đồng trên thế giới để đi đến hòa đổng và hòa bình.Chùa này có đặc điểm là có cái vòm rất lớn mà không có cột đá. Vòm lớn gấp đôi điện Basilica của St. Peter tại Vatican. Đại điện để ngồi Thiền có chu vi 280 feet, có 8,000 chỗ ngồi, cao 325 feet, ngang với tòa nhà 30 tầng lầu. Khoảng 2,5 triệu tấn đá đã đem dùng trong việc xây cất.
Chùa có chi nhánh tại Nga:
Address: 111555 Moscow, Molostovih Street, 1-4-593; Russia
Tradition: Theravada, S.N. Goenka Vipassana
E-mail: vipassana@mail.ru
Contact: Vladimir & Sveta Karpinsky.
Chùa Vipassana Toàn Cầu ở Mumbai
Cổng vào
Chánh điện
Một thiền phòng
Chùa Vipassana Toàn Cầu ở Munbai
Trung tâm Vipassana ở Moscow
Trung tâm Vipassana ở Moscow
13. TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TAM BẢO ,Moscow Sangha
Địa chỉ:
Novogireevskaya Street 14-2-34
Moscow 111401
Email:
mcfmosk@online.ru
Tel:
(7) 095.304.4562
14. TĂNG ĐOÀN DZOGCHEN (Dzogchen Sangha in Moscow )
Tăng đoàn này do Sergey Doudko thành lập này năm 1997 và do Sergey Gladkih làm chủ tịch, Dzogchen Khenpo Choga Rinpoche giảng dạy.
Tăng đoàn Dzogchen có chi nhánh ở Hongkong, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga.
Ban Quan trị trung ương có:
Robert Lapham
DzogchenConnect@gmail.com
Managing Editor
Jeffrey Harker
Assistant Editor & Technical Staff
Lily Shushan
Assistant Editor
Jack Gordon
Assistant Editor
Kristen Jennings-Manners
For ideas, comments, suggestions,
photos or contributions
contact us at: DzogchenConnect@gmail.com
Trung tâm mong ước thành lập Đại học Tăng Đoàn Dzoghen của Phật giáo tại Nga.
Email: eugene.golyuk@gmail.com
Website: http://www.dzogchenlineage.ru/
13. TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TAM BẢO ,Moscow Sangha
Địa chỉ:
Novogireevskaya Street 14-2-34
Moscow 111401
Email:
mcfmosk@online.ru
Tel:
(7) 095.304.4562
14. TĂNG ĐOÀN DZOGCHEN (Dzogchen Sangha in Moscow )
Tăng đoàn này do Sergey Doudko thành lập này năm 1997 và do Sergey Gladkih làm chủ tịch, Dzogchen Khenpo Choga Rinpoche giảng dạy.
Tăng đoàn Dzogchen có chi nhánh ở Hongkong, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga.
Ban Quan trị trung ương có:
Publisher – Editor
Robert Lapham
DzogchenConnect@gmail.com
Managing Editor
Jeffrey Harker
Assistant Editor & Technical Staff
Lily Shushan
Assistant Editor
Jack Gordon
Assistant Editor
Kristen Jennings-Manners
For ideas, comments, suggestions,
photos or contributions
contact us at: DzogchenConnect@gmail.com
Trung tâm mong ước thành lập Đại học Tăng Đoàn Dzoghen của Phật giáo tại Nga.
Email: eugene.golyuk@gmail.com
Website: http://www.dzogchenlineage.ru/
___
(1). Schamanism: sa-man giáo: Một tôn giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ, có hình thức như đồng bóng, cầu khẩn thần linh, thờ tổ tiên.
(2). Tông phái Bon (Bonpo) là một hệ phái Phật giáo Tây Tạng cổ truyền, bắt nguồn đất Olmo Lungring là giải đất ở phía tây Tây Tạng ngày nay, thuộc Tazig , rồi lan đến Zhang Zhung là vùng phía tây Tây Tạng.
No comments:
Post a Comment