CHƯƠNG XX
NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
PHẬT GIÁO MALAYSIA
I. LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO TẠI MALAYSIA
Mặc dù Hội Phật Giáo Penang thuộc trường phái Bắc
Tông, nhưng hội luôn cung thỉnh nhiều tăng sĩ Nam Tông đến để
hoằng Pháp như cố trưởng lão K. Gunaratana Maha Nayaka, Hòa thượng P. Pemaratana
Maha Nayaka từ Tích Lan.
Mã Lai
(Malaysia) một quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến (constitutional
monarchy) nằm ở Ðông Nam Châu Á. Nam giáp với Thái Lan, Bắc giáp với
Singapore, là một thành viên của khối thịnh Vượng Chung (Commonwealth of
Nations), thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất Mã lai là Kuala Lumpur.
Diện tích: 329.750 km2. Dân số: 17.890.000 người. Mật độ dân cư:
54,2 người/km2. Dân số dưới 15 tuổi: 36,2%. Tuổi thọ trung bình: 70,1 tuổi.
Tử suất trẻ em: 22%. Học sinh từ 12-17 tuổi: 70%. Nguyên thủ quốc gia: quốc
vương Azlan Muhibuđin Shah. Thu nhập bình quân đầu người: 2.420 đô la. Ðơn
vị tiền tệ: Ringgit. Ngôn ngữ thông dụng: tiếng Mã Lai, tiếng
Hoa, tiếng Ấn và tiếng Anh. Giành lại nền độc lập từ năm 1957,
Mã Lai có được vị trí nằm ở ngã tư đường giao thông quốc tế.
Dân số đa phần là người Mã Lai rất đa tạp (khoảng
62%). Người Hoa (khoảng 30% dân số) nắm về ưu thế kinh tế. Ngoài ta
còn có người Ấn, Nam Dương, Thái Lan... sống trong quốc gia này. Người
theo đạo Hồi, chiếm đa phần trong dân số, ít được ưu đãi trong lĩnh
vực kinh tế nhưng lại nắm giữ độc quyền về chính trị. Mã lai có
nhiều tài nguyên thiên nhiên như thiếc, cao su, dầu hỏa, rừng. Trong ba
thập niên qua, Mã lai đã hướng theo con đường công nghiệp hóa năng
động, ưu tiên cho ngành xuất khẩu, và có mức độ đầu tư của nước ngoài
cao nhất so với các quốc gia láng giềng.
Tôn giáo chính của Mã Lai là Hồi Giáo (Islam) và Phật
giáo (Buddhism), những tôn giáo nhỏ khác là Khổng giáo, Lão giáo, Ấn Ðộ
giáo và Ky Tô giáo.
1. Thời kỳ đầu của Phật giáo tại Mã
Lai
Tầm ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Ðộ đã
vượt qua biên giới để đến với vùng Ðông Nam châu Á. Nhu cầu
thương mại lúc ấy là động lực chính làm chiếc cầu nối giữa các
nền văn hóa và tôn giáo lại với nhau. Mặt khác, Ấn Ðộ thành lập
một số Chính quyền Thực dân ở bán đảo Mã Lai vào khoảng 5 thế
kỷ đầu của Tây lịch. Phật Giáo nhờ thế mà được truyền vào Mã
Lai trong thời điểm ấy. Có nhiều bằng chứng cho thấy điều này
hoàn toàn hợp lý qua những địa danh của Mã Lai bắt nguồn từ nguyên ngữ
Pali như Niddesa và Milindapanha.
Phật Giáo được truyền vào Mã Lai vào khoảng đầu
thế kỷ thứ 3 Tây lịch. Nhiều sách sử đã ghi nhận rằng các nhà
sư Sona và Uttara đã đến miền Ðông Nam châu Á theo sau kỳ đại hội
kết tập Kinh điển lần thứ 3 tại Ấn Ðộ vào năm 325 trước Tây
lịch ( sau Phật Niết bàn 218 năm. Ðại hội lần này do Hoàng đế A Dục
đề xướng và bảo trợ.) Một tài liệu của Phật Giáo Tây Tạng cũng
đề cập đến ngài Dharmapala đã đến đảo Malay vào thời điểm
này. Và theo hồi ký của Ngài Pháp Hiển (Fa-Hsien, 337-422), một nhà
chiêm bái người Trung Hoa, từng du học sang Ấn (khoảng thời gian: 399-414
Tây lịch), trên đường hồi hương bằng đường biển, ngài có ghé ngang
trung tâm văn hóa Java ( Indonesia) , Tích Lan và Mã Lai trước khi ngài trở
về Trung Hoa vào năm 414 Tây lịch. Trong dịp này, ngài Pháp Hiển đã
có ghé thăm và nghỉ lại một ngôi chùa ở tỉnh Milindapanha, thuộc miền
Bắc mã Lai.
Từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 13
Tây lịch, Java và Sri Vijava đều nằm dưới sự kiểm soát của triều
đại hùng mạnh Sailendra. Những vị vua của triều đại này đã cho xây
nhiều công trình kiến trúc Phật Giáo vĩ đại như vườn Tháp nổi
tiếng thế giới Borobodur ở Trung tâm Java. Pháp sư Nghĩa Tịnh (I-Tsing,
635-713 một nhà phiên dịch Kinh điển, chiếm bái của Phật Giáo Trung Hoa
khác, cũng mô tả rằng vào năm 671 Tây lịch thủ đô Sti Vijayan ở Bukit
Seguntang được xem là một trung tâm văn hóa Phật Giáo quan trọng, với hơn
một ngàn tăng sĩ đang tu học tại đây. Sau khi triều đại Sri Vijaya
sụp đổ, Phật Giáo vẫn tiếp tục truyền vào Mã Lai.
2. Những bằng chứng lịch sử và khảo
cổ
Những nhà khảo cổ tìm thấy những bằng chứng của
thời kỳ đầu này qua những tác phẩm điêu khắc Phật Giáo tại Mã lai. Tuy
nhiên những bằng chứng lịch sử có thể tìm thấy trong văn học Trung hoa
rằng Phật Giáo đã được thiết lập tại Mã Lai vào thế kỷ thứ 6
Tây lịch. Theo biên niên sử Trung Hoa ghi nhận rằng Hoàng đế của Mã Lai
đã gởi một phái đoàn ngọai giao đến Trung Hoa vào những năm 527, 530
và 536 Tây lịch với những món quà bao gồm xá lợi Phật (relics), tranh ảnh
Phật Giáo, và vài lá Bồ Ðề. Tài liệu này cũng xác nhận rằng những
thành viên trong đoàn ngoại giao này có tên là Tan-Tan, Chip-Tu và Fo-Lo-An. Và
tại nơi đây, hàng năm lễ Phật Ðản được tổ chức vào ngày trăng tròn
tháng sáu với những đám rước và lễ nhạc và pháp danh của vị Thầy chủ trì
cuộc lễ lúc ấy là Tỳ kheo Pi-ch’iu.
Ngành thương mại của Trung hoa bắt đầu tiếp xúc
với Ðông Nam châu Á vào khoảng đầu thế kỷ thứ 3 TL, khi triều
đại nhà Võ (Wu) gởi một phái đoàn đến Ðông Nam châu Á để tìm
hiểu tình hình chính trị và thương mại ở vùng này. Từ đó, thị trường
của Trung Hoa đã trở thành quan trọng đối với vùng Ðông Nam châu Á này,
và phần lớn các thương gia thời bấy giờ đều là Phật tử, nên Phật Giáo
đã chẳng bao lâu đã truyền đến và phát triển mạnh tại các quốc
gia trong khu vực.
Các cuộc khai quật ở tỉnh Kedak và Penang ( Mã Lai), các
nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều tàn tích về các ngôi chùa, tháp và
tượng Phật còn sót lại ở đó. Tại hai nơi này, vào khoảng đầu thế
kỷ thứ 4 hay 5 TL đã có những bia đá khắc Kinh Phật bằng tiếng
Sanskrit. Một trong những bia đá quý báu này được tìm thấy dưới một
ngôi nhà đổ nát ở tỉnh Kedah.
Một di vật quan trọng khác được thấy là một bia
bằng đất sét ở Kedak với ba bài kệ chữ Sanskrit khắc vào thế kỷ
thứ 6 TL và hai bức tượng Quan Thế Âm Bồ tát cũng được tìm thấy ở tại
địa danh này.
Những tác phẩm điêu khắc Phật Giáo vào thế kỷ
thứ 4 TL đều được tìm thấy ở nơi khác của bán đảo Malaysia, đặc
biệt là Cheruk Tekun và tỉnh Wellesley. Những hình Phật và những di vật
khác cũng được tìm thấy ở Kuala Selinsing, Kinta Valley, Tanjung Rambutan, Bidor
and Sungei Siput và Perak.
Trong khi đó, một bằng chứng lịch sử khác vào năm 1006
TL cũng được ghi nhận, Vua Kataka ở Kedak đã xây dựng một ngôi chùa ở
Negapatam. Vua Rajaraja đệ nhất đã ban hành những đạo luật miễn thuế
cho chùa chiền. Những ngôi chùa cổ cũng đã được khai quật ở phía đông
bờ biển Mã Lai. Dù có một số nơi bây giờ thuộc về phần đất của
Thái Lan. Nhiều tượng Phật bằng đồng và đá từ thế kỷ thứ 13 TL
cũng được khám phá trong vùng này. Theo biên niên sử Trung Hoa, cho thấy rằng
Phật Giáo đã truyền vào vùng P'an P'an này vào thế kỷ thứ 6 TL và
kéo dài đến 700 năm sau.
Còn rất nhiều di vật khảo cổ được tìm thấy vào
đầu những năm 1900, trong khoảng thời gian Thực dân Anh xâm chiếm Mã Lai,
một số khác cũng được khám phá vào những năm 1970 ở Kedah. Trong khi đó có
nhiều dấu tích của chùa chiền cũng được tìm thấy ở thung lũng
Bujang, điều này cung cấp thêm nhiều dữ kiện cho sự có mặt của
Phật Giáo ở Mã Lai từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14 TL.
Hiện tại tất cả những di sản khảo cổ này được bảo trì và trưng bày
tại Viện bảo tàng quốc gia ở tỉnh Bukit Batu Pahat mà mọi du khách
đều có thể đến viếng thăm.
3. Phật giáo tại Mã Lai - Thời kỳ
suy tàn
Phật giáo đã suy yếu dần theo sau sự tấn công của
Hồi giáo vào Mã Lai ở thế kỷ thứ 14 TL của người Ả Rập và
thương gia Ấn Ðộ. Ðầu thế kỷ thứ 15, một vị vua Mã Lai dựng Kinh
đô ở Malacca, vốn là tín đồ của Ấn Ðộ giáo, đã cải đạo theo Hồi
giáo và vì thế mà đạo này có cơ hội để truyền bá rộng khắp
trên toàn bán đảo Mã Lai. Lúc bấy giờ Phật Giáo lui dần về ngoại ô và
sau đó chỉ còn để lại bóng dáng của mình trên nền văn học,
trong truyện cổ tích, huyền thoại và địa danh của đất nước Mã Lai.
4. Phật giáo tại Mã Lai - Thời kỳ phục
hưng
Sau 300 năm tàn lụi, Phật Giáo Mã Lai lại phục hồi theo
sau làn sóng di dân của người Trung Hoa đến Mã Lai vào thế kỷ thứ
17. Tuy nhiên, sự phục hưng này được xác định rõ ràng nhất là vào thế
kỷ thứ 19 khi di dân người Hoa đổ xô qua Mã Lai. Phật Giáo ở thời kỳ
này mang sắc thái tổng hòa: Tam giáo đồng nguyên, Phật (phần lớn theo tông
phái Tịnh Ðộ/Pure Land), Lão (Taoism) và Khổng giáo (Confucianism), để đem
lại niềm an lạc và lợi ích tâm linh cho người tín đồ.
Theo thống kê của chính phủ Mã Lai vào năm 1991, có
tất cả 3,2 triệu tín đồ theo Ðạo Phật và 0,9 triệu người theo Ðạo
Lão và Ðạo Khổng trong tổng số 17.6 triệu người Mã Lai. Con số này đã
minh chứng rằng Phật Giáo đã thực sự hồi sinh và phát triển mạnh trên
quốc gia này.
5. Phật giáo Bắc Tông tại Mã Lai
Một số chùa Bắc Tông được xây dựng rất sớm tại
Penang. Chùa Kuan Imm Teng xây dựng vào khoảng đầu những năm 1800, chùa Cheng
Hoom Teng xây dựng rất sớm ở Malacca vào khoảng thời điểm ấy. Hai ngôi
chùa này hiện nay là những ngôi chùa cổ nhất ở Mã Lai, tuy nhiên những
nơi này chỉ được xem là danh lam để du khách viếng thăm hơn là nơi
để đến nghiên cứu và tu học Phật Pháp.
Năm 1887, Pháp sư Miao Lian đến Penang từ Fuchow,
Trung Hoa và bắt đầu xây dựng chùa Tịnh Ðộ (Kek Lok/ Sukhavati). Ngôi chùa
được thiết kế tổng hợp theo lối kiến trúc Phật Giáo Thái Lan,
Miến Ðiện và Trung Hoa. Ngôi chùa này đã chính thức khánh thành vào
năm 1905 và nó được xem là một trong những ngôi chùa lớn nhất của vùng
Ðông Nam châu Á. Từ thập niên tám mươi đến nay, chùa Tịnh Ðộ là tụ
điểm an cư tu học của đông đảo Tăng Ni Bắc Tông của Mã Lai.
Hiện tại chùa cũng đang được mở rộng thêm và cũng được xem là nơi
thu hút khách du lịch.
Hội Phật giáo Penang (The Penang Buddhist Association)
được thành lập năm 1925 với mục đích truyền bá lời Phật dạy. Ngôi
chùa của Hội này được xây dựng trên đường Anson và hoàn thành năm 1931.
Hội này đã trở thành một tổ chức hoằng Pháp sớm nhất tại xứ sở này. Thời
gian đầu, hội này đã gặp sự chống phá của truyền thống mê tín địa
phương lâu đời tại Mã Lai này. Nhưng sau đó do nỗ lực hoạt động, nên
Hội đã cảm hóa được quần chúng và đưa họ trở về với ánh sáng
của Chánh Pháp.
Năm 1955, Hội Thanh Niên Phật Tử Penang ra đời (Youth
Circle of the Penang Buddhist Association) dưới sự khởi xướng và lãnh đạo của
một tăng sĩ người Mỹ, ngài Venerable Sumangalo, người đến Mã Lai vào năm
1955 và có những chương trình hoạt động hoằng Pháp đổi mới, như mở
trường Phật Pháp Chủ Nhật (Dharma Sunday School) cho thanh thiếu niên, thành
lập Hội Liên Hữu Phật Giáo Mã Lai (Malaysian Buddhist Youth Fellowship) cho
mọi giới Phật tử có thể tham dự tu học. Năm 1956, Thượng tọa
Sumangalo đã viếng thăm Úc châu, và ngài đã nhanh chóng thu hút thính
giả qua các buổi giảng giáo lý ở Melbourne và Sydney trong nhiều tuần
lễ. Sau đó ngài trở lại Mã Lai làm việc cho đến ngày viên tịch vào
năm 1963.
Một vị nữ tu Bắc tông, sư cô Fang Lian, xây dựng Ni
Viện Phor Thay vào năm 1936. Sư cô đã có những hoạt động tích cực như
xây dựng một trung tâm nuôi trẻ mồ côi, một trường Tiểu học và một
trường Trung học, chương học có kèm môn Phật Pháp. Cả ba trường này
hàng năm thu nhận hơn 3000 học sinh đến ghi danh để học.
Năm 1950, 14 thành viên của Hội Phật giáo Penang đã
đến tham dự Ðại hội khoáng đại của Hội Liên Hữu Phật giáo Thế
giới (The World Fellowship of Buddhists / WFB) nhóm tại Colombo, Tích Lan. Theo sau
kỳ đại hội này, Phật tử ở Mã Lai đã thành lập một chi nhánh trung tâm của
WFB tại Penang vào năm 1951.
Tiếp đó, Giáo Hội Phật Giáo Mã Lai (The Malaysian
Buddhist Association / MBA) được thành lập vào ngày 19 tháng 4 năm 1959, với sự
hợp mặt của hầu hết các chùa chiền người Mã Lai và người Hoa. Vị
chủ tịch Giáo hội đầu tiên là Hòa Thượng Chuk Mor. Giáo hội đã thành lập
một Học viện Phật giáo (Buddhist Institute) để đào tạo tăng ni và
mở một trường Phật học miễn phí dành cho người lớn tuổi. Trường dạy
nhiều ngôn ngữ khác nhau như tiếng Mã Lai, tiếng Hoa và Anh văn.
Hòa thượng Chuk Mor là một Pháp sư rất nổi tiếng
ở Mã Lai, Ngài sinh ngày 13 tháng 8 năm 1913 tại Trung Hoa. Ngài xuất gia năm 12
tuổi (1924) và đến hoằng Pháp tại Mã Lai vào tháng 5 năm 1954. Vào tháng
7 năm 1962, Ngài đã xây dựng Thiền Ðường Tam Trí (Triple Wisdom Hall)
để dạy thiền cho Phật tử Mã Lai. Một trong những đệ tử của Hòa
thượng là Ðại Ðức Sik Chi Chern, là người kế thừa sự nghiệp của
Bổn sư và cũng là Chủ Tịch Hội Thanh Niên Phật Tử Mã Lai (Young Buddhist
Association of Malaysia / YBAM) trong hai nhiệm kỳ từ 1990 đến 1996.
Vị chủ tịch thứ hai của MBA là Hòa thượng Kim Beng,
viện chủ chùa Cheng Hoon Teng ở Malacca, cũng là Pháp sư giảng dạy Phật
Pháp nổi tiếng ở Mã Lai. Chính phủ Mã Lai đã trao tặng Ngài giải thưởng
Jasa Setia Mahkota để biểu dương cho sự đóng góp và làm lớn mạnh
nền văn hóa Phật giáo tại xứ sở này.
Vị Chủ tịch hiện nay (2000) của MBA là Hòa Thượng
Negri Sembilan. Ngài cũng là một Pháp sư nổi tiếng ở Mã Lai, ngài vốn
được xem là một vị Thầy thuốc bắc lừng danh tại Mã Lai.
Ngôi chùa chính của trường phái Bắc Tông ở thủ đô
Kuala Lumpur là chùa Kuan Imm Teng do Ðại đức Keng Aun, đây là ngôi chùa Tàu
lớn nhất ở thủ đô.
Trong những năm gần đây, các Pháp sư của Hội Phật
Quang Sơn (Fo Kuang Shan) cũng đến hoằng Pháp tại Mã Lai, đặc biệt là
Hòa Thượng Tinh Vân đến dự lễ khánh thành Chùa Phật Quang (Buddha’s
Light Vihara) vào năm 1998. Trong dịp này, một đảng phái chính trị người Hoa
(đảng này là liên minh với Thủ tướng đương nhiệm, Tiến sĩ Mahathir
Mohamed) đã cung thỉnh HT. Tinh Vân thuyết pháp cho quần chúng Phật tử.
Ðây là lần đầu tiên chính quyền Mã Lai đã tham gia và đóng góp
thiết thực cho sinh hoạt Phật Giáo có ý nghĩa nhất tại quốc gia này.
Mặt khác, cố Hòa thượng Tuyên Hóa (Hsuan-Hua, 1908-1995)
và nhiều đệ tử người Hoa và Mỹ của Ngài cũng từng đến hoằng
Pháp tại Mã Lai vào hai thập niên tám mươi và chín mươi. Những hoạt động
thuyết giảng này đã làm cho Phật giáo tại Mã Lai lớn mạnh nhiều hơn
trong những năm gần đây.
Một sự ảnh hưởng Bắc tông khác đến từ Ðài Loan
là Hiệp Hội Từ Thiện Phật Giáo Từ Tế (Buddhist Tzu Chi Merit Society)
do Ni sư Chứng Nghiêm thành lập ở Taiwan vào năm 1966. Tại Mã Lai, Hội có trụ
sở chính ở Kuala Lumpur và có những hoạt động từ thiện xã hội từ năm
1990. Hiện nay hội đã có thêm nhiều chi nhánh khác ở Penang, Melaka và
Ipoh.
Nếu như phần lớn người Trung Hoa theo Bắc Tông Phật Giáo, thì ngược lại, người Thái Lan, Miến Ðiện và Tích Lan lại theo Nam Tông Phật Giáo. Cộng đồng người Thái Lan tập trung ở Perlis, Kedah và Kelantan. Ước lượng có khoảng 200 ngôi chùa Thái Lan nằm về các tỉnh này của miền Bắc Mã Lai. Các chùa Thái cũng thu hút nhiều người Hoa để chiêm bái và tu học.
Ngôi chùa cổ nhất của Nam Tông tại Mã Lai là chùa
Candaram ở Green Lane, Penang, hiện nay chùa này đổi sang làm Trung Tâm
Thiền Phật Giáo Mã Lai (Malaysian Buddhist Meditation Centre), chùa được xây
dựng vào năm 1918. Ðầu thập niên 1970, Thượng tọa Abhidhammapalanana, một
tăng sĩ trí thức Thái Lan đã đến trụ trì ngôi chùa này và ngài bắt
đầu dạy về Thiền quán niệm và luận Abhidhamma cho Phật tử Mã Lai.
Các buổi thuyết giảng của ngài đã thu hút giới trẻ Mã Lai, cả học
sinh Trung học và sinh viên đại học đều đến tham dự. Hiện
nay sự nghiệp hoằng Pháp này được đệ tử của ngài thừa kế là
Ðại đức Sujivo, một tăng sĩ Mã Lai. Một tu sĩ Thái Lan khác có công
truyền bá Phật Giáo tại Mã Lai là Thượng tọa Silananda, trụ trì chùa
Pin Wang ở Penang ( chùa này xây dựng năm 1889) ngài cũng thành lập trường
Phật Pháp Chủ nhật và dạy thiền hằng tuần cho Phật tử trong địa phương.
So với người Thái Lan, cộng đồng người Miến và
Tích Lan thì nhỏ hơn. Người Miến Ðiện phần lớn ở tỉnh Penang và
ngôi chùa sinh hoạt chính của họ là Dhammikarama, xây dựng 1828, đây là
ngôi chùa duy nhất của người Miến tại xứ sở này. Chùa do Ðại đức U
Pannavamsa trụ trì, ngài là người làu thông về luận Tạng và Thiền
quán niệm, ngài cũng cho mở trường Phật Pháp chủ nhật để phổ
biến giáo lý. Nhiều tăng sĩ Miến khác cũng có công truyền
bá lời Phật dạy ởủ Mã Lai là các Ðại đức Dhammabanchanvud, Mahasi Sayadaw,
Sayadaw U Pandita, Sayadaw U Janaka, các ngài đến Mã lai vào cuối những năm
1980 và thành lập nhiều Trung Tâm Thiền Học ở Johor, Perak, Malacca,
Petaling Jaya và Selangor.
Sự đóng góp chính cho Phật Giáo Nam Tông ở Mã Lai
phải nói là đến từ phía các Tăng sĩ người Tích Lan. Phần lớn họ
đều nói tiếng Anh và được đào tạo trong môi trường Phật học
chính quy tại quê nhà. Các chùa Tích Lan tập trung ở tỉnh Penang, Taiping, và
hai chùa lớn khác ở thủ đô Kuala Lumpur, những ngôi chùa này đều có số
1ượng lớn tín đồ người bản xứ nói tiếng Anh đến tham học.
Ngôi chùa chính của Phật Giáo Tích Lan là Mahindarama ở
đường Kampar, Penang, do Hòa thượng A. Pemaratana xây dựng vào năm 1918. Ngôi
chùa đã một thời nổi tiếng là trung tâm tu học dưới sự dẫn dắt của
Trưởng lão K. Gunaratana Maha Nayaka Thera (1933-1964). Là một pháp sư hùng
biện, ngài Gunaratana đã tổ chức nhiều khóa tu học và thuyết
giảng cho Phật tử địa phương cũng như đi diễn giảng trên khắp xứ Mã Lai.
Sau khi ngài viên tịch, Hòa thượng P. Pemaratana Maha Nayaka Thera đã kế
thừa sự nghiệp hoằng Pháp tại ngôi chùa này.
Một trong những tăng sĩ Tích Lan thành công nhất trong
sự nghiệp hoằng Pháp tại Mã Lai là Ðại lão Hòa thượng K. Sri Dhammananda
Maha Nayaka Thera, sự xuất hiện của ngài đã làm cho Phật Giáo tại xứ sở
này lật qua một trang sử mới. Ngài Dhammananda sinh năm 1919 và đến Mã Lai
vào ngày 2 tháng giêng năm 1952. Ngài thành lập ngay một Hiệp Hội
Truyền Bá Chánh Pháp (Buddhist Missionary Society) vào năm 1963 và tổ chức
thuyết giảng, hội thảo Phật Pháp trên toàn quốc. Bên cạnh đó, ngài
viết và xuất bản nhiều tác phẩm Phật học quan trọng để
phổ biến giáo lý. Trong thời gian đầu, các tác phẩm của ngài đặc
biệt tập trung nhắm đến sự loại bỏ những quan niệm sai lầm về
Phật Giáo và đưa ra một đường hướng tu tập rõ ràng để giúp cải cách
đời sống tâm linh của người Phật tử xứ sở này. Các tác phẩm đáng chú
ý của ngài như "Người Phật Tử phải tin gì ?" (What Buddhists
believe); "Làm thế nào để sống khỏi sợ hải và lo lâu" (How to
live without fear and worry); "Hạnh Phúc lứa đôi" (A happy married life);
"Thiền Ðịnh , con đường duy nhất" (Meditation, the Only way);
"Kho báu của Chánh Pháp" (Treasures of the Dhamma)... đã nhanh chong thu
hút mọi giới Phật tử và đến nay những tác phẩm này đã được dịch
ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
Một trong những đệ tử xuất gia của HT. Dhammananda,
là Thượng tọa Mahinda, người có khả năng kế thừa sự nghiệp to
lớn của Bổn sư.
7. Phật Giáo Nhật Bản ở Mã Lai
Phật giáo Nhật Bản (Thiền tông và Pháp Hoa tông)
được giới thiệu ở Mã Lai vào đầu những năm 1960 bởi các thương gia
người Nhật đến làm việc tại Mã Lai, hoặc do một số tổ chức của
người Mã Lai sang Nhật du học rồi về nước thành lập. Thập niên tám
mươi, chính quyền Mã Lai với chính sách "Hướng về Phương
Ðông" (Look East Policy) Nhật Bản là một trong những quốc gia để
họ hướng về học hỏi. Về công nghiệp hóa, hệ thống
quản lý, đạo đức nghề nghiệp và những thứ khác mà Nhật Bản đã
thành công, trong đó Phật Giáo Nhật Bản là một trong những chủ đề
để Mã Lai nghiên cứu và học hỏi. Ngày nay Tông Pháp Hoa đều có
chi nhánh ở các thành phố lớn của Mã Lai, bao gồm Kuala Lumpur, Penang, Ipoh,
Malacca và Kuantan.
Phật Giáo Tây Tạng được giới thiệu ở Mã Lai trễ
nhất nhưng lại được đại đa số quần chúng biết đến theo sau các sự
kiện: giải thưởng Nobel Hòa Bình của Ðức Dalai Lama vào năm 1989; tác
phẩm "Tạng Thư Sống Chết" (Tibetan Book of Living and Dying) của Lama
Sogyal Rinpoche; Phong trào giải phóng cho Tây Tạng do các ca sĩ, diễn viên nổi
tiếng của Hollywood khởi xướng, hai cuốn phim "Bảy năm ở Tây
Tạng" và "KunDun"... đã làm khuấy động và thu hút mọi giới
Phật tử hay những tín đồ đạo khác ở Mã Lai đều chú ý đến
Phật Giáo Tây Tạng.
Tuy nhiên trước đó, vào tháng 12 năm 1980, Lạt ma
Gwalya Karmapa đã đến hoằng Pháp tại Mã lai. Sự xuất hiện của ngài
đã đánh dấu chính thức của sự truyền nhập của Phật Giáo Tây Tạng vào
Mã Lai. Từ đó đến nay đã có nhiều Lạt ma Tây Tạng đến
thuyết Pháp và nhiều Trung tâm tu học đã xây dựng rải rác ở khắp
Mã Lai.
9. Một số Tổ chức Phật giáo tại Mã
Lai
* Hội Thanh Niên Phật Tử Mã Lai (the Young Buddhist
Association of Malaysia/ YBAM): Hội được thành lập vào 1970, kết quả từ sự
thống nhất của 243 tổ chức thanh niên Phật tử trên toàn quốc với tổng số
hội viên là 3000. Tổ chức này đã có các sinh hoạt như giảng dạy Phật Pháp,
cắm trại tu học, và đóng góp cho các hoạt động từ thiện xã hội.
Hội này hàng năm đã kết hợp với Giáo Hội Phật Giáo Mã Lai tổ chức kỳ
thi Phật Pháp cho Phật tử trên toàn quốc. Hội YBAM cũng từng nhận được giải
thưởng Hội đoàn thanh niên xuất sắc của Mã Lai. Hội cũng có những phương
cách để tạo ngân quỹ cho tổ chức như mở nhà hàng cơm chay và trung tâm
dạy điện toán..... Số tiền thu được dùng để xây dựng tổ chức,
cúng dường Tăng Ni, cấp học bổng và các công tác từ thiện xã hội
khác.
* Các tổ chức in ấn và phát hànhh kinh sách Phật giáo
(Dharma publications): Một số Hội đoàn Phật Giáo Mã Lai nổi bật trong việc
in ấn và phát hành kinh sách Phật Giáo bằng tiếng Trung Hoa, tiếng Anh
như Hiệp Hội Truyền Bá Chánh Pháp; Tổ chức thu sang băng Trí Tuệ
(Wisdom Audio Visual) ở Kuala Lumpur; và Giáo Hội PH Mã Lai ở
Penang..v.v...đều tổ chức in và ấn tống miễn phí rất nhiều Kinh, sách,
truyện Phật Giáo để phát không cho người đọc, không những cho
Phật tử ở Mã Lai và còn gởi đi ấn tống cho các trung tâm Phật Giáo có liên
hệ trên khắp thế giới.
10. Kết Luận
Mặc dù Hồi giáo là quốc giáo nhưng con số tín đồ
Phật giáo đã gia tăng ở Mã Lai trong những thập niên qua. Phật tử Mã Lai
luôn yêu chuộng hòa bình và tinh tấn thực hành đạo Pháp. Cũng giống như
Việt Nam, Phật Giáo Mã Lai là một hình ảnh tổng hòa giữa các trường
phái Nam và Bắc Tông, Thiền tông và Kim cang tông đều sinh hoạt hài
hòa trong niềm tương kính để đem lại ánh sáng và bình yên cho xứ
sở.
Rất nhiều chùa chiền do Phật tử Mã Lai đứng ra
xây dựng trong vòng hai mươi năm qua. Nhiều người Mã lai đã phát tâm
xuất gia tu học và trở thành những nhà hành đạo và truyền đạo cho
đất nước. Nhiều hội đoàn thanh niên, Phật tử trẻ tuổi đã và đang tìm
về với ánh sáng của Chánh Pháp qua các khóa học Trường Phật Pháp
ngày chủ nhật ở thủ đô Kuala Lumpur và nhiều thành phố khác. Rõ ràng
họ thích thú khám phá ra cái đẹp trong lời Phật dạy hơn là dựa theo
truyền thống tín ngưỡng mà cha mẹ hay ông bà từng tin theo.
Tương lai của Phật Giáo Mã Lai tương đối rất sáng
sủa với tầng lớp, thế hệ trẻ của Mã Lai đang hướng về Chánh
Pháp, nhất là xuyên qua lãnh vực giáo dục và từ thiệm xã hội. Nguyện
cầu cho Phật Giáo Mã Lai đầy đủ tiềm lực, phương tiện và thuận
duyên để chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới với đầy niềm tin
và hy vọng trong sứ mệnh mang hạnh phúc đến cho cuộc đời./.
-oOo-
Tổng hợp theo các tài liệu:
- Dr Sukumar Sengupta (1994), Buddhism in South-East Asia,
Atisha Memorial Publishing Society, Calcutta,
- Benny Liow Woon Khin (1989), Buddhist Temples and
Associations in Penang, 1945-1948, Journal of the Malaysian Branch of the Royal
Asiatic Society, Vol LXII Part 1.
- Venerable Sumangalo - 40 Years of Appreciation, a
collection of some of Venerable Sumangalo’s Dharma talks with biographical notes by
Dato’ Khoo Keat Soo, a free distribution publication of the Penang Buddhist
Association Dharma Sunday School, undated.
- Buddhism in Malaysia, Volume 2 (1987), Young Buddhist
Association of Malaysia, Buddhist Digest Publication Board.
- Paul Croucher (1989), Buddhism in Australia 1848-1988,
New South Wales University Press.
- Unpublished Notes on The history and contemporary status of
Buddhism in Malaysia compiled by Mr Yeap Tor Hor & Kerry Trembath, Malaysia
(1999).
- Buddhism in Malaysia, Volume 1, Young Buddhist
Association of Malaysia, 1984.
II .NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC
Phật giáo Malaysia có từ lâu nhưng đã hư hại. Sau này chùa Phật giáo do các cộng đồng di dân đến xây dựng cho nên mang nhiều màu sắc khác nhau. Các yếu tố Trung Quốc, Thái Lan và Miến Điện được tìm thấy trong kiến trúc của chùa là một biểu tượng của hai truyền thống Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa.
Phật giáo Malaysia có từ lâu nhưng đã hư hại. Sau này chùa Phật giáo do các cộng đồng di dân đến xây dựng cho nên mang nhiều màu sắc khác nhau. Các yếu tố Trung Quốc, Thái Lan và Miến Điện được tìm thấy trong kiến trúc của chùa là một biểu tượng của hai truyền thống Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa.
A. KUA LAMPUR
1.BUDDHIST MAHAVIRA, BRICKFIELD
Đây là một kiến trúc Phật giáo ở Sinhalese gần Kuala Lumpur do Phật giáo Theravada Sri Lankan thành lập. Chùa xậy khoảng 50 năm, do Ven. Dr. K. Sri Dhammananda xây dựng
.
2. CHÙA PHẬT GIÁO THAI LAN CHETAWAN
Chùa Wat Chetawan (Thai: วัดเชตวัน) là chùa Thái Lan nổi tiếng ơ thung lũng Klang , Malaysia. Chùa tọa lạc ở Jalan Pantai, xa Jalan Gasing, Petaling Jaya, Selangor. Chùa được xây năm 1956, do Phra Kru Palat Vieng, thuộc tăng đoàn Phật giáo. Chùa rộng 2 sào tây, Chùa cũng được vua
Bhumibol Adulyadej vua Thailand' trợ giúp.
3. CHÙA THIÊN HẬU (THEAN HOU)
Chùa Thean Hou (Chinese: 天后宫; pinyin: Tiānhòu gōng; Cantonese Yale là chùa người Hoa ở Kuala Lumpur. rộng 1.67 acres (6,760 m²) ,xây xong năm 1987 và mở cửa năm 1989. Đây là chùa của bang hội Hải Nam.
Joss sticks burner
B. MALACCA
4. CHÙA THANH VÂN (CHENG HOON TENG )
Chùa Thanh vân hay Thanh vân đình (The Cheng Hoon Teng temple (Chinese: 青云亭; Pe̍h-ōe-jī: Tshinn-hûn-tîng; lit. "Temple of Green Cloud") là chùa người Hoa thờ tam giáo tọa lạc ở số 25 Jalan Tokong, thành phố Malacca Town, Malaysia. Đây là chùa xưa nhất ở Malaysia.C. PENANG
5. CHÙA CỰC LẠC ( KEK LOK )
Chùa Kek Lok - Cực lạc tự (simplified Chinese: 极乐寺; traditional Chinese: 極樂寺; Pe̍h-ōe-jī: Ki̍k-lo̍k-sī; Penang Hokkien for "Temple of Supreme Bliss" or "Temple of Sukhavati") là chùa Phật ở Air Itam ( Penang ) > Đây là một chùa lớn ở Đông Nam Á châu. Đây là chùa tổng hợp, theo Đại thừa cộng với truyền thống Trung Quốc.Chùa Cực Lạc tự, tọa lạc ở Air Itam, Penang, Malaysia, được cho là ngôi chùa Phật giáo nổi tiếng nhất và lớn nhất châu Á. Việc xây dựng chùa Cực Lạc được xem như một quá trình liên tục, với nhiều bổ sung theo thời gian. Ngôi chùa được thành lập vào năm 1890 bởi một người mộ đạo tên là Beow Lean để làm nơi bày tỏ lòng sùng kính Phật giáo của người dân ở Penang.
6. CHÙA DHAMMIKARAMA
Dhamikarama Burmese Temple là chùa Phật của người Miến Điện ở Penang ( Malaysia), xây năm 1803. Chùa tọa lạc ở đường Burmah ở Pulau Tikus , gần chùa Thái Lan Wat Chayamangkalaram (A Thai Buddhist temple).
7.WAT CHAYAMANGKALARAM
.
8.CHÙA QUẢNG PHÚC
Chùa Quảng Phúc (Kong Hock Keong Temple - 廣福宮) cũng gọi là Quan Âm tự ( Kuan Ying Teng Temple (觀音寺) là chùa ở Georgetown, Penang, ở phía tây bắc Malaysia, là chủa thờ Quan Âm bồ tát.ở Jalan Kapitan Keling.9. CHÙA RẮN
Chùa Rắn (The Snake Temple - Chinese: 蛇庙; pinyin: Shé Miào; Pe̍h-ōe-jī: Tsuâ-biō) ở Sungai Kluang, Bayan Lepas, Penang, Malaysia , là chùa độc nhất thuộc loại này. Chùa thắp nhiều hương và có nhiều rắn nhưng chúng vô hại. Chùa xây năm 1850 . Chùa cũng có tên là Thanh Vân tự nổi tiếng ở Penang.
No comments:
Post a Comment