NGUYỄN THIÊN THỤ
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
TẬP VI
MỤC LỤC
82. CHỐN BỒNG LAI
83. THIÊN ĐÀNG VÀ HẠNH PHÚC
84. ÔNG BÀ ĐẠO CUỘI
85. NGƯỜI BUÔN MUỐI VÀ CON CHỒN
86.NGƯỜI CON GÁI HỒ LY
87. LỤC ĐẠO
88.NHỮNG CÔ GÁI TÓC VÀNG HOE
89. CÚC HOA
90. DIÊM VƯƠNG XỬ ÁN
83. THIÊN ĐÀNG VÀ HẠNH PHÚC
84. ÔNG BÀ ĐẠO CUỘI
85. NGƯỜI BUÔN MUỐI VÀ CON CHỒN
86.NGƯỜI CON GÁI HỒ LY
87. LỤC ĐẠO
88.NHỮNG CÔ GÁI TÓC VÀNG HOE
89. CÚC HOA
90. DIÊM VƯƠNG XỬ ÁN
82. CHỐN BỒNG LAI
Một đêm nằm ngủ, chàng thấy một đạo sĩ trẻ mặc áo đỏ đến quỳ xuống trước mặt sinh và nói:
-Bần đạo được lệnh đạo sư đến đón tiếp tôn giá.
Sinh hỏi:-Đạo sư của thầy là ai?
-Đạo sĩ đáp:-Tôn giá đến thì rõ.
Sinh bèn thay y phục, rồi cùng lên xe phụng hoàng mà bay lên cõi trời. Xe do hai con phụng hoàng kéo, chạy như bay. Chàng hỏi sứ giả:
-Đạo sĩ đưa ta lên Thiên Đàng hay xuống Địa Ngục.
Đạo sĩ đáp:-Không phải Thiên Đàng cũng không phải Địa Ngục. Người ta ít hiểu, đầu óc đơn giản theo trường phái lưỡng nghi nên chỉ nghĩ đến hai cực đối lập là
-xấu/ tốt
-cao /hạ
hạnh phúc /đau khổ
-thiên đường/địa ngục. . .
Thật ra giữa hai cực này còn có nhiều cực khác, nhiều bực cao thấp khác nhau. Thí dụ giữa hai loại mập và gầy ít nhất có thêm một hạng vừa, nghĩa là không mập, không gầy. Còn giàu nghèo thật ra có thể chia ra chín bậc, trăm bậc hay năm trăm bậc.
Vũ trụ cũng vậy. Vũ trụ rất phức tạp. Có thể là hai, là ba, là năm, hai mươi, ba ngàn yếu tố tạo ra . Vũ trụ có thể có ba ngàn thế giới, ba chục ngàn hay ba trăm ngàn thế giới. Và có thể có ba ngàn đức Phật, ba trăm ngàn thượng đế. . .
Danh khả danh, phi thường danh. Tuy nhiên, nếu tôn giá muốn thì ta có thể gọi đây là Bồng Lai.
Xe phượng hoàng đến Bồng Lai thì dừng lại. Đây là một nơi thanh tĩnh, nửa giống chùa chiền, nửa giống cung điện. Một tiểu đồng mang áo vàng từ một đạo quán chạy ra, cúi đầu thưa cùng sinh:
-Đạo sư chúng tôi mời tiên sinh tới đạo quán.
Sinh bước vào, thấy trên bồ đoàn, một đạo trưởng tay cầm phất trần, tóc bối ngược, đội mũ đỏ, mặc áo đỏ.
Đạo trưởng mời sinh ngồi, rồi sai tiểu đồng rót trà mời.
Sinh chào đạo trưởng, rồi xin phép uống trà.
Đạo trưởng cười mà nói:
-Bần đạo nghe tiên sinh ham đường tu tiên nhưng chưa chọn ai làm thầy. Ta rất ngưỡng mộ tinh thần cầu đạo của tiên sinh nên mời tiên sinh đến đạo quán cho thỏa lòng mong ước đưọc gặp hiền sĩ.
Nghe chuyện đạo sĩ nói một hồi, sinh vô cùng kính phục. Lại nghĩ đạo sĩ trên trời tất pháp thuật và đạo hạnh ắt cao hơn người thường. Sinh bèn xin thụ giáo. Đạo trưởng bèn dạy cho sinh phép ngồi thiền và cách ăn chay.
Đạo sĩ nói:-Quan trọng nhất trong phép tu, dù là tu Phật hay tu Tiên đều phải ăn chay và thiền định. Ăn chay là tránh tội sát sinh, sau là làm cho mình bớt ô trưọc và diệt dục. Thiền Định thì mau thành Phật, thành Tiên. Đạo sĩ nhấn mạnh:" Thiền định, trường trai thị Tiên Phật đạo"( Tu thiền và ăn chay là đường lốí của đạo Phật, đạo Tiên).
Giảng xong mấy điều, đạo trưởng bảo sinh ra về, cứ chuyên chú tập năm, mười năm sẽ có kết quả. Lúc đó, đạo trưởng sẽ cho người thường xuyên đón sinh lên Bồng Lai học tiếp. Lần này, đạo trưởng sai một lão già mặc áo đen đánh xe cọp đưa chàng về.
Tu thiền rất khó khăn. Hễ ngồi vào bồ đoàn là toàn thân chàng nóng như lửa cháy nên không thể ngồi thiền được. Còn ăn chay thì chàng phải cố gắng nhưng lòng rất chán chường. Lòng luôn muốn rưọu thịt. Càng ăn chay thì dục vọng càng tăng. Tuy vậy, vì mộng ước muốn thành Tiên cho nên chàng đã ép xác, rốt cuộc thân thể gầy mòn, gió thổi bay chàng được. Sau vài năm, dù gặp khó khăn, chàng thấy mình khác trước dường như cao hơn mọi người, giỏi hơn mọi người.
Một thời gian sau, khoảng năm mười năm, một đêm nằm ngủ, sinh lại thấy một tiểu đồng mặc áo đen bước vào, quỳ trước mặt sinh nói:
-Đạo trưởng sai đệ tử đến đón tôn giá.
Sinh theo tiểu đồng, lên xe hươu mà lên Bồng Lai. Sinh bước vào đạo quán thì gặp một đạo trưởng mũ đen, áo vàng ngồi trên bồ đoàn. Sinh nhìn kỹ thì thấy đạo trưởng này khác đạo trưởng trước đây. Sinh lạy đạo trưởng, dâng lời chúc bình an và hỏi đạo trưởng cũ ở đâu. Đạo trưởng mới nói rằng:-Đạo trưởng cũ đã đi thăm Thái thượng lão quân!
Khi ở ngoài đạo quán, sinh thấy bên ngoài chăng đầy cờ xí và khẩu hiệu:
-Phải tích cực ăn chay và ngồi thiền để chóng thành Tiên đạo!
-Thái thượng Lão quân muôn năm!
Nhưng bước vào đạo quán sinh gửi thấy mùi thịt nướng, mùi rượu nồng thơm ngát cả đạo quán. Sinh nhìn vào bên trong đạo quán, trong những phòng ốc, trên những bàn ở thiền đường và giảng đường, có những đạo sinh mặc đạo bào, tay cầm nguyên cả con gà hay đùi heo nhai ngấu nghiến. Sinh nhìn đạo trưởng và nhắc lại lời dạy của đạo trưởng tiền nhiệm mà nói:":" Thiền định, trường trai thị Tiên Phật đạo".
Vị đạo trưởng sai tiểu đồng bưng trà mời sinh, và giảng giải:
-Đạo trưởng tiền nhiệm là bậc đại thánh nhưng đã quá khắt khe và sai lầm trong tư tưởng và quản lý khiến cho nhiều đồ đệ phải hy sinh oan uổng và đạo quán mất uy tín. Chính bần đạo cũng đã bị sư huynh kết tội là sa ngã, là phản bội Tiên giáo mà bị tù đày nhục nhã. Nay sư huynh qua đời, bần đạo vẫn theo đường lối tu tiên cũ, chỉ khác một điểm là cho phép đạo sinh và đạo sĩ ăn mặn, uống rựơu.
Sinh vội hỏi:
-Phải chăng là đạo trưởng đã trần tục hóa đạo Thánh?
-Không, đây vẫn là đạo Tiên, nhưng theo đặc tính thời đại mà gọi là "đạo tiên định hướng." Lối ăn uống và Thiền định bây giờ là" ăn chay định hướng", "thiền định định hướng".
Sau khi giảng thuyết một hồi, đạo trưởng bèn cho một lão bà lấy xe loan đưa sinh về.
Sinh cảm thấy đường lối trước là cực đoan, còn bây giờ là một thứ hổ lốn, một thứ trần tục nhưng khoác áo tiên đạo. Sinh cảm thấy hoảng hốt, nghi ngờ. Một hôm qua Ninh Bình, ghé chùa Bích Động, thấy ngoài Tam quan, một đạo sĩ, đúng hơn là một lão ăn mày đang nằm ngủ. Bước chân của sinh làm tỉnh giấc của lão ăn mày. Lão nhướng mắt hỏi sinh:
-Bồng Lai ở đâu? Thượng Đế ở đâu?
Sinh thảng thốt chỉ lên trời:
-Bồng Lai ở trên trời. Thượng Đế ở trên trời!
-Ngươi đã đến Bồng Lai? Đã gặp Thượng đế?
-Đúng! Tôi đã đến Bồng Lai. Tôi chưa gặp Thượng Đế nhưng đã gặp đại diện của Thượng Đế.
-Vạn pháp do tâm sinh, vạn pháp do tâm diệt. Các thứ Bồng Lai, Tiên Đạo, Thượng Đế mà ngươi thấy là giả hết!
-Làm sao phân biệt giả chân?
-Lúc nào ngươi tu đạo mà không thấy Phật Tiên, không mơ Thiên Đàng , Địa ngục thì tâm ngươi sáng suốt, sẽ nhận được chân giả.
Nói xong, lão ăn mày nhỏm dậy, chống gậy mà bỏ đi. Sinh trở về, bỏ tâm cầu mong sớm thành Tiên, sớm về Thiên Đàng. Tâm trạng ngày trước là thấy mình là thánh, là Phật, bây giờ thấy mọi việc bình thường. Thấy mây là mây, thấy núi là núi, và thấy mình chỉ là người bình thường.
Vài năm sau, một thiếu nữ áo vàng đến chào sinh và mời sinh lên Bồng Lai. Sinh bước vào đạo quán, thì thấy trên bồ đoàn là một đạo cô trẻ, tuổi khoảng 15, mặc áo tía, thắt lưng màu vàng, đầu đội vương miện, cổ, tay và chân đeo đầy vàng ngọc, tay chống thiền trượng tiêu biểu cho quyền uy trong thánh giáo. Sinh bước tới chào hỏi và chúc đạo trưởng vạn vạn tuế. Đạo cô mỉm cười.
Nữ đạo trưởng kêu đạo cô phục vụ mang ghế cho sinh ngồi bên cạnh. Sinh từ chối vì chàng là một đệ tử mới nhập môn, không dám ngồi ngang hàng cùng đạo trưởng. Nữ đạo trưởng ân cần đứng dậy nắm tay sinh kéo lên ghế ngồi. Chàng đành vâng lời ngồi. Sau khi an tọa, chàng hỏi thăm đạo trưởng cũ thì biết đạo trưởng đã đi thăm Thượng Đế. Nàng là con gái của đạo trưởng nên được hội đồng Tiên giáo cử làm đạo trưởng thay cha.
Sinh hỏi:- Luật Thánh là đạo sĩ không được lấy vợ, tại sao có con?
Đạo cô đáp:- Đó là đầu mối quan trọng. Đạo ta bây giờ là "Tiên đạo định hướng" nên một số có thể ăn mặn. Và đạo cô cũng có thể thành Đạo trưởng. Đó là tinh thần Tiên Đạo hiện đại hóa.
Sinh hỏi:-Tại sao chỉ một số có thể "ăn mặn" chứ không phải là toàn thể? Và ăn mặn là gì? Ở trần gian, ăn mặn có nhiều nghĩa. Trần gian nói về thuyết nhân quả có câu:
" cha ăn mặn, con khát nước". Dâm dục, giết người, cướp của đều có nghĩa là "ăn mặn." Nói chung, như bên đạo Phật, phạm tam quy, ngũ giới đều bị gọi là " ăn mặn". Xin đạo trưởng chỉ dẫn cho tường tận.
Đạo trưởng trả lời:-Trước đây, các Đại Thánh trong phái tu tiên cực lực chỉ trích phái hưởng lạc và phái tự nhiên, và chủ trương tiến nhanh, tiến mạnh , bắt các đệ tử tu hành xác cho nên họ chẳng thành tiên mà thành quỷ. Nay thân phụ ta chủ trương hiện đại hóa, ban thánh luật cho mọi người đều có thể khoái lạc, có thể ăn mặn. Kẻ tu đạo theo lối tiệm tu nhưng thành quả mau chóng. Nhưng đừng hiểu là ta bỏ đạo, bỏ giới luật, chạy theo phái hưởng lạc. Đó chỉ là nguyên tắc mà thôi . Muốn đạt điều này, ta phải tiến từ từ, tiến có kỹ luật, có phương pháp, có kỹ thuật.Nếu tự do toàn thể thì đạo ta loạn mất, cho nên phải theo chủ trương chọn lọc và tiêu chuẩn. Chỉ một số chọn lọc, chỉ một số được tiêu chuẩn có tự do hơn kẻ khác.
Họ là những ngừời có công lao, có pháp thuật siêu phàm, là giai cấp ruột thịt của Đạo giáo thì mới có quyền ăn mặn, được hưởng quy chế mới, còn tuyệt đại đa số thì không được như thế, hay nói cách chính trị là sau này họ được ưu đãi tùy theo khả năng tu tập và thành tích của họ. Họ phải tôn trọng đường lối cũ, ai phạm giáo quy nhẹ thì bị tù, nặng thì bị giết. Sau này, vài chục năm, vài trăm năm, ai trong đại chúng nếu tiến bộ thì cũng sẽ được nâng cấp, có quyền hưởng thụ như tầng lớp tăng lữ tiên tiến.
Sau buổi thuyết pháp, Đạo cô mời sinh ở lại. Nàng sai các tiểu đồng dọn phòng, làm giường cho chàng nghỉ lại. Nửa đêm, nàng tìm đến bên sinh, ôm hôn sinh và muốn cùng sinh hoan lạc. Sinh bây giờ có tuệ nhãn, nhìn thấy đạo cô và các đạo trưởng là một lũ chồn, còn cõi Bồng Lai chính là một hang chồn. Chàng gở tay đạo cô mà chạy ra ngoài thì bỗng rớt xuống một biển sâu. Chàng giật mình tỉnh dậy hóa ra chỉ là một giấc mộng!
83. THIÊN ĐÀNG VÀ HẠNH PHÚC
Trình Cương ở Biên Hòa và Lương Hoa ở Bình Định đều đến kinh đô Phú
Xuân du học. Nhân dịp ngày thượng nguyên, hai chàng cùng đi chùa Từ
Đàm lễ Phật. Điện Phật, giải vũ, phòng tăng đều rộng rãi. Hàng trăm,
hàng ngàn Phật tử vào ra lễ bái tấp nập. Hai du sinh bèn bước vào
tăng phòng bên cạnh. Chỉ có một vì sư già trong đó, thấy khách vào bèn
xốc áo ra đón, rồi dẫn khách đi xem khắp đó đây. Hai chàng được nhà
sư dẫn vào một điện thờ khác.Trong điện có tô tượng Phật ngồi dưới
cội Bồ Đề, hình Quan Âm, hình Đạt Ma sư tổ, và các tượng khác như
mục đồng chăn trâu, người chèo thuyền. . .Các hình trên tường đều vẽ
vời rất tinh xảo, nhân vật thảy đều như sống thật. Tường bên Đông vẽ
bức" Thiên nữ tán hoa" (1), ở trong có một thiếu nữ buông mái tóc thề,
tay cầm bông hoa, miệng hé cười, đôi môi anh đào muốn nhấp nháy, làn
sóng mắt dường như đong đưa.
Chàng Trình chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên mây. Chàng bay lên cao và thấy hạ xuống ở một nơi rừng rậm, cây cối um tùm, muôn hoa đua nở. Trình đang đứng ngắm thì thấy tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo. Rừng rậm không người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.
Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nồng, thì bỗng đâu nghe tiếng chó sủa huyên náo, và tiếng hổ gầm, cô gái sợ hãi biến thành con Cáo Đỏ nhảy trốn thoát, còn Trình sợ hãi chạy rớt xuống hang sâu, kêu thét lên rồi tỉnh giấc mà còn run cầm cập.
Còn người bạn họ Lương cùng lúc đó ngắm bức tranh Tiên giới. Bỗng chốc chàng thấy mê đi, lạc vào một nơi lầu các cao sang. Trong đó có đủ loại người già trẻ trai gái các quốc tịch, ai nấy đền an nhiên tự tại. Khắp nơi có tiếng ca hát, ai cũng ăn mặc lụa là sang trọng. Trai thì thanh tú, gái thì diễm lệ, ông già, bà lão đều phương phi, mạnh khỏe , vui tươi. Người nghe ca nhạc, kẻ thì đánh cờ, đọc sách, người thì ngồi câu cá hay đứng ngắm hoa. Lương được đưa vào trình diện Thánh vương. Thánh vương tiếp đãi ân cần, mời Lương dùng các thực phẩm, bánh trái quý hiếm trên đời. Lương được giao làm Tể tướng, quyền uy khắp chốn. Thánh vương bảo Lương:
-Đây là tiên cảnh, mọi người bình đẳng, tự do .
Chàng rất vui mừng vì đã đạt mộng tưởng công bằng xã hội của mình. Chàng ra lệnh già trẻ trai gái đều phải lao động, đều phải đi lính, đều hưởng mức lương như nhau, đều phải học tập giống nhau. Chàng bắt mọi người phải ăn một số thực phẩm như nhau, mặc y phục giống nhau và nói năng, hoan hô, giơ tay chào như nhau.
Sau hai mươi năm làm tể tướng chàng nhận thấy Tiên cảnh ngày càng buồn thảm, ngày càng hóa ra một trại lính. Và đau đớn nhất là chàng thấy chính Triều đình đã tạo ra nhiều giai cấp.
Hiến pháp và Thánh vương dạy mọi người bình đẳng, tự do và hạnh phúc nhưng có một số có người có quyền bình đẳng, tự do hơn những người khác. Đó là những người đã cố công xây dựng Tiên cảnh và con cháu họ. Những người này cao hơn cả pháp luật, có quyền uy tuyệt đối, chàng phải luân luôn tuân lệnh họ mặc dù chàng là Tể Tướng. Chàng xưa nay cho mình là thông minh tài giỏi, nay mới biết mình ngu, bị người lường gạt.
Chàng được chọn làm Tể Tướng là do Triều đình chỉ định, chàng không có quyền từ chối. Ở đây lãnh đạo tập thể. Chàng không có quyền đưa ra sáng kiến cá nhân, chàng chỉ có quyền gật đầu và ký các văn kiện do tập thể quyết định. Tuy nhiên, chàng có quyền bắt bớ, chém giết những ai chống Tiên Cảnh. Chàng muốn giết ai và giết bao nhiêu cũng được. Trừ trên trời thuộc phạm vi của Thượng Thiên và Triều Đình, chàng muốn bán gì, lấy gì là tùy thích. Nói chung, chàng có tự do triệu lần hơn ở trần gian.
Lương sinh làm tể tướng được khá lâu thì các tiên nổi lên chống đối Thánh vương và đồng đảng đã cướp của, giết người và bán Tiên cảnh. Họ bán Tiên Cảnh và định bán cả Mặt Trăng, Mặt Trời. Thánh vương không nhận tội mà lại đổ cho Lương. Té ra người ta đưa Lương làm cái bung xung cho họ. Lương bị hy sinh, bị Cảnh vệ bắt trói bỏ vào vạc dầu. Lương tức giận kêu oan và bỏ chạy rớt từ trời cao xuống đất. Tỉnh dậy thì thấy mình cũng như Trình sinh đều ở trong phòng. Cả hai hỏi vị sư già tại sao họ ở đây.
Vị sư cười đáp:
- Tất cả pháp sinh diệt là do tâm. Kẻ muốn quyền uy thì nằm mơ thấy làm quan lớn, kẻ thích dâm dục thì thấy giai nhân. Thiên Đàng, Địa ngục, hạnh phúc hay đau khổ là do mình. Thiên Đàng ở trong tâm, Thiên Đàng cũng có thể ở trong trần thế. Quan trọng nhất là tránh tự cao, đừng cho mình là tài ba có thể tạo được Thiên Đàng tại thế. Đừng nhân danh Thiên Đàng mà tạo ra Địa ngục cho nhân gian.
Hai chàng nghe xong sợ hãi bèn lạy tạ mà ra về.
__
(1). Thiên nữ tán hoa: Cô gái trên trời cầm nhiều đóa hoa mà tung lên.
Chàng Trình chú mục giây lâu, bất giác như bị mất hồn, bàng hoàng thờ thẫn. Rồi thân thể bỗng nhiên phơi phới, như cưỡi trên mây mù, thoắt cái đã bay lên mây. Chàng bay lên cao và thấy hạ xuống ở một nơi rừng rậm, cây cối um tùm, muôn hoa đua nở. Trình đang đứng ngắm thì thấy tựa như có người ngầm kéo vạt áo, quay lại thì ra cô thiếu nữ có mái tóc thề, đang vừa cười vừa quay đi. Chàng lập tức trở gót bước theo. Rừng rậm không người, chàng vội ôm chầm lấy, nàng cũng không kháng cự gì lắm, bèn cùng nhau giao hoan thỏa thích.
Hương lòng rạo rực, lạc thú đang nồng, thì bỗng đâu nghe tiếng chó sủa huyên náo, và tiếng hổ gầm, cô gái sợ hãi biến thành con Cáo Đỏ nhảy trốn thoát, còn Trình sợ hãi chạy rớt xuống hang sâu, kêu thét lên rồi tỉnh giấc mà còn run cầm cập.
Còn người bạn họ Lương cùng lúc đó ngắm bức tranh Tiên giới. Bỗng chốc chàng thấy mê đi, lạc vào một nơi lầu các cao sang. Trong đó có đủ loại người già trẻ trai gái các quốc tịch, ai nấy đền an nhiên tự tại. Khắp nơi có tiếng ca hát, ai cũng ăn mặc lụa là sang trọng. Trai thì thanh tú, gái thì diễm lệ, ông già, bà lão đều phương phi, mạnh khỏe , vui tươi. Người nghe ca nhạc, kẻ thì đánh cờ, đọc sách, người thì ngồi câu cá hay đứng ngắm hoa. Lương được đưa vào trình diện Thánh vương. Thánh vương tiếp đãi ân cần, mời Lương dùng các thực phẩm, bánh trái quý hiếm trên đời. Lương được giao làm Tể tướng, quyền uy khắp chốn. Thánh vương bảo Lương:
-Đây là tiên cảnh, mọi người bình đẳng, tự do .
Chàng rất vui mừng vì đã đạt mộng tưởng công bằng xã hội của mình. Chàng ra lệnh già trẻ trai gái đều phải lao động, đều phải đi lính, đều hưởng mức lương như nhau, đều phải học tập giống nhau. Chàng bắt mọi người phải ăn một số thực phẩm như nhau, mặc y phục giống nhau và nói năng, hoan hô, giơ tay chào như nhau.
Sau hai mươi năm làm tể tướng chàng nhận thấy Tiên cảnh ngày càng buồn thảm, ngày càng hóa ra một trại lính. Và đau đớn nhất là chàng thấy chính Triều đình đã tạo ra nhiều giai cấp.
Hiến pháp và Thánh vương dạy mọi người bình đẳng, tự do và hạnh phúc nhưng có một số có người có quyền bình đẳng, tự do hơn những người khác. Đó là những người đã cố công xây dựng Tiên cảnh và con cháu họ. Những người này cao hơn cả pháp luật, có quyền uy tuyệt đối, chàng phải luân luôn tuân lệnh họ mặc dù chàng là Tể Tướng. Chàng xưa nay cho mình là thông minh tài giỏi, nay mới biết mình ngu, bị người lường gạt.
Chàng được chọn làm Tể Tướng là do Triều đình chỉ định, chàng không có quyền từ chối. Ở đây lãnh đạo tập thể. Chàng không có quyền đưa ra sáng kiến cá nhân, chàng chỉ có quyền gật đầu và ký các văn kiện do tập thể quyết định. Tuy nhiên, chàng có quyền bắt bớ, chém giết những ai chống Tiên Cảnh. Chàng muốn giết ai và giết bao nhiêu cũng được. Trừ trên trời thuộc phạm vi của Thượng Thiên và Triều Đình, chàng muốn bán gì, lấy gì là tùy thích. Nói chung, chàng có tự do triệu lần hơn ở trần gian.
Lương sinh làm tể tướng được khá lâu thì các tiên nổi lên chống đối Thánh vương và đồng đảng đã cướp của, giết người và bán Tiên cảnh. Họ bán Tiên Cảnh và định bán cả Mặt Trăng, Mặt Trời. Thánh vương không nhận tội mà lại đổ cho Lương. Té ra người ta đưa Lương làm cái bung xung cho họ. Lương bị hy sinh, bị Cảnh vệ bắt trói bỏ vào vạc dầu. Lương tức giận kêu oan và bỏ chạy rớt từ trời cao xuống đất. Tỉnh dậy thì thấy mình cũng như Trình sinh đều ở trong phòng. Cả hai hỏi vị sư già tại sao họ ở đây.
Vị sư cười đáp:
- Tất cả pháp sinh diệt là do tâm. Kẻ muốn quyền uy thì nằm mơ thấy làm quan lớn, kẻ thích dâm dục thì thấy giai nhân. Thiên Đàng, Địa ngục, hạnh phúc hay đau khổ là do mình. Thiên Đàng ở trong tâm, Thiên Đàng cũng có thể ở trong trần thế. Quan trọng nhất là tránh tự cao, đừng cho mình là tài ba có thể tạo được Thiên Đàng tại thế. Đừng nhân danh Thiên Đàng mà tạo ra Địa ngục cho nhân gian.
Hai chàng nghe xong sợ hãi bèn lạy tạ mà ra về.
__
(1). Thiên nữ tán hoa: Cô gái trên trời cầm nhiều đóa hoa mà tung lên.
84. ÔNG BÀ ĐẠO CUỘI
Tại
miền Nam ta lúc bấy giờ đang ở vào thời kỳ phát triển, dân cư thưa
thớt, ruộng đồng hoang vu, ma quỷ lộng hành , cọp cáo phá phách khắp
nơi làm cho nên dân chúng sợ hãi. Do vậy mà tục ngữ có câu: " Cọp Biên Hòa, ma Bình Thuận".
Tuy vậy, vì nhu cầu cuộc sống, dân Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thái Bình,
Tuyên Quang, Sơn Tây và Thanh Nghệ Tĩnh đã lần lượt vào đây lập
nghiệp. Lúc bấy giờ tại Bình Thuận có một ngôi chùa tranh do bà Đạo
Cuội dựng lên. Sở sĩ bà có danh Đạo Cuội vì chỗ ngồi, bà cho xây
thành một cái đài, dùng cuội đắp bên ngoài. Nghe đồn rằng bà có tài
nhiếp phục quỷ thần, trừ tà, trị bệnh cho dân chúng nên được dân
chúng tôn sùng.
Chùa của bà thờ Ngọc Đế, ngày đêm hương khói nghi ngút. Trương sinh là một nho sinh đang ngày đêm dùi mài kinh sử để thi Hương. Nghe tin đồn cũng đến chiêm bái. Bước vào chùa, chưa lễ Thánh, sinh đã ngây ngất vì một nữ nhân trong chùa rất đẹp ra vào tiếp khách. Sinh không biết nữ nhân là khách thập hương đến đây tạm trú, hay là tín đồ đến làm công quả, hay là một nữ nhân đang chờ đợi ngày xuống tóc. Sinh liếc mắt đưa tình. Lợi dụng khi vào lễ Thánh, sinh cầm tay nàng, chạm vào người nàng thì nàng im lặng, hai má ửng hồng. Thấy nàng không có vẻ chống cự, sinh càng ngây ngất, những muốn ôm nàng vào lòng.Vì quá say mê người đẹp, sinh bỏ học hành, xin vào chùa làm công quả để sớm hôm gần gũi giai nhân.
Tại Biên Hòa, thời ấy cũng có ông Đạo Cuội nổi danh. Không giống như chùa bà Đạo Cuội ngoài Bình Thuận, chùa của ông xây gạch ngói khá khang trang. Nhưng chùa ông cũng giống bà Cuội Bình Thuận là chỗ ngồi đắp cao thành bệ, xung quanh, trên dưới, trong ngoài đều lát cuội vàng và cuội đỏ.
Bà Cuội Bình Thuận nói rằng bà là do Thượng đế sai xuống cứu chúng sinh vì sắp đến ngày tận thế. Bà bắt những ai muốn gặp bà thì phải gọi bà bằng danh hiệu " Đức bà". Còn ông Đạo Biên Hòa thì bắt mọi người gọi ông là thiền sư, và gọi Phật bằng Bụt. Ai gọi là Phật thì ông tức giận, vác gậy đánh đuổi.
Viên Tú tài Lâm Ly ở đất Gia Định vốn là kẻ khinh thế ngạo vật. Ông nói rằng thời buổi này Chồn Cọp tung hoành rừng núi, ma quỷ lộng hành thôn trang, không thể tin vào cái áo tu hành. Ông bảo rằng tại Trường An ngày xưa thời vua Lê, chúa Trịnh, dân chúng đã mỉa mai một số tu hành tham danh hám lợi bằng những câu : "Nhứt đĩ nhì cha", "Nhất đĩ nhì sư" hoặc " Nhất đĩ nhì cha, tam sư, tứ tướng" là như vậy. Ông cười mà nói: "Cái lão Tú Xương thế mà nói rất đúng."Công đức tu hành sư có lọng!" Ngày nay, đã đi tu mà lắm thằng còn đòi che lọng vàng"! Còn có kẻ ngã mạn quá đáng tự xưng là "Thượng Đẳng Sư" (Super Master)!
Các đạo sĩ mời ông gia nhập giáo phái thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, ông lắc đầu mà bảo:
-Thượng đế hiện hữu khắp nơi, cần gì phải vào miếu, vào nhà thờ mà đọc kinh, cầu nguyện!
Các nhà tu hành các tôn giáo thường đi hóa duyên, ông cười mà bảo:
-Các ông khuyên dân làm việc thiện và bố thí nhưng các ông chỉ lấy tiền của người mà bỏ túi. Tại sao các ông không xuất tiền túi bố thí chúng sinh một lần xem sao?
Có lần ông đến thăm đạo Cuội Biên Hòa, đạo Cuội bảo ông gọi Phật Thích Ca là Bụt Thích Ca.
Ông cười mà hỏi:
-Ông muốn lập dị hay thật tâm yêu Việt Nam, yêu tiếng Việt thuần tuý? Gọi Phật là Bụt rất có lý nhưng Thích Ca cũng là chữ Hán, vậy gọi Thích Ca bằng tiếng Việt là gì? Nếu ông muốn dùng tiếng Việt thay thế chữ Hán, thế thì tôi gọi ông là gì ? Sư, Thiền Sư, Tăng .. . đều là tiếng Hán, ông tính sao? Có thể gọi "Thiền Tăng" là "Thằng Tiền" được chăng? Nếu tôi không lầm thì đạo hiệu ông là Bách Đức và Bách Hạnh. Hai hiệu này đều là chữ Hán. Vậy tôi theo đường lối Việt hóa của ông gọi ông là "ông Bức cái đách " hay "ông Làm Trăm Cái " thì có được không? Lần nữa xin hỏi ông, ông yêu nước thiệt hay giả vờ yêu nước như cái bọn Hồ ly tinh kia? Ông chống Mãn Thanh không? Ngày nay, Lê Chiêu Thống chạy theo Tàu, dâng nước cho Tàu, ông chống Mãn Thanh xâm lược sao lại chạy theo hầu hạ bọn Lê Chiêu Thống?
Ông Đạo Cuội im lặng không trả lời được.
Người ta đồn rằng cả hai ông bà Đạo Cuội này đều là giòng giống họ Hồ. Hai ông bà này đều có bùa mê thuốc lú làm cho người ta mê say. Cũng có kẻ bảo hai ông bà này học được ngải nói và có mê dược cho nên nói gì thiên hạ cũng nghe. Thầy cãi, thầy thuốc, cử nhân, chánh tổng, tri huyện, phú gia, thương gia đều bỏ vợ con, sự nghiệp mà theo hai ông bà này. Những người này còn say mê đến độ bỏ vài chục lượng vàng và giành nhau để được uống một ly nước tắm rửa của bà Đạo Cuội! Chắc là thơm tho, ngon lành lắm lắm!
Về đường lối, hai ông bà này có vài chỗ giống nhau và khác nhau.Họ giống nhau vì đường lối biến thiên, mềm dẽo. Ông thì thời trước tuyên bố giải phóng tăng lữ, đòi thầy tu lấy vợ và tự do luyến ái. Quan điểm này được lớp tu hành trẻ yêu thích và quần chúng một số ngưỡng mộ, không phải ngưỡng mộ chân lý mà ngưỡng mộ hành động
" chịu chơi" của ông! Sau này, nói là làm, ông lấy vợ nhưng vẫn khoác áo đạo nhân, và xưng là ông đạo, là thiền sư. Và chùa của ông đủ thứ người ăn ở chung chạ. Ông gọi lối tu hành này là "Phật giáo dấn thân" , "Phật giáo định hướng"!
Còn Bà Đạo Cuội ở Bình Thuận cũng vậy. Đạo của bà rất mềm dẽo. Lúc thì bà nói bà trên trời xuống theo lệnh Thượng Đế, bà là con Ngọc Đế. Lúc thì bà nói bà được chơn truyền của Thiền Tông bên Tàu, lúc thì nói bà đắc mật pháp Tây Tạng. Ban đầu bà thờ Phật, sau bà thờ Ngọc Hoàng, rồi sau nữa, bà dạy các đệ tử đừng niệm Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hay Nam Mô A Di Đà Phật mà niệm " Nam mô đạo Cuội Bình Thuận"thì sẽ thấy linh nghiệm, cầu tài đắc tài, cầu lợi đắc lợi, cầu duyên đắc duyên". Bà hết lấy ông này lại tổ chức đám cưới với ông khác, thay cả hàng tá chồng. Nay bà đóng vai Quan Âm, mai bà mang đóng vai Đức Mẹ Maria, nay bà mang y phục hoàng hậu, sau đó lại mang y phục hoa hậu thế giới. Tháng nào bà cũng đi mỹ viện, tuổi năm, sáu mươi mà trông như gái hai mươi, ba mươi.
Nhưng cuộc đời có lúc thịnh, lúc suy, có vay, có trả, hai ông bà Đạo Cuội dù khôn lanh, tài giỏi cũng không thoát lưới trời và quy luật trời!
Ông Đạo Cuội thì tham danh. Có danh thì ông mới có nhiều nhà cửa, đất đai, đệ tử , đàn bà và tiền bạc. Ông móc ngoặc với một quan đại thần trong cung để xin nhà vua ban chức "Quốc sư" cho ông. Ông đại thần này vốn là một gian thần, một tay hô phong hoán vũ trong triều. Và vị đại quan kia đã cho lính giả tăng ni đón rước và che lọng vàng cho ông khi ông lên kinh đô thuyết pháp tại "Quốc Ân tự" ở kinh đô. Nhân dịp này, ông đại gian thần kia bố trí cho ông Đạo gặp Đức vua, Tể tướng, Đại tướng và Đại tướng phu nhân, như thế là đủ bảo đảm cho lời hứa của ông, và ông càng yên chí cái chức " Quốc sư' chắc ăn như bắp rang! Thấy như vậy, được như vậy và tin như vậy, ông Đạo đã nộp hàng vạn lượng vàng, dâng hàng ngàn mẫu đất và đã làm biểu dâng lên ca tụng đất nước hòa bình thịnh vượng; triều đình nhân đức, yêu dân, yêu nước và tôn trọng các tôn giáo!
Nhưng quan đại thần này ăn mà không thực hiện lời hứa. Đã thế, quan bèn chơi một cú đá ngược. Sau một thời gian hợp pháp hóa tài sản do ông Đạo cúng dường, quan bèn bảo hồ sơ của ông Đạo không hợp pháp. Hình bộ và Lại bộ không rõ lai lịch ông đạo là người hay hồ ly. Cần phải chờ một thời gian điều tra. Ông Đạo nhờ linh tính, cảm thấy mình bị ngón " đà đao" của quan đại thần nên lén sang Miên, Lào ẩn nấp. Quả nhiên, it lâu, triều đình hạ lệnh khám xét chùa của ông Đạo, khám phá ra chùa này là hang ổ hồ ly, là động chứa. Bao nhiêu đệ tử của ông gồm mấy trăm nam nữ bị bắt giam, hoặc bị đuổi về. Ông đạo mất chùa, mất đất và mất uy danh. Trước các quan triều đình, một số đệ tử (có thể là tay sai của đại quan cài vào) khai rằng trong chùa, họ được mọi thứ tự do: tự do dùng ma túy, tự do làm tình và tự do ăn nhậu! Thiên hạ bảo ông là ngu và tham. Cũng có kẻ bảo ông là hồ ly lừa người nhưng yêu ma làm sao mà chơi được với quỷ!
Còn bà Đạo Cuội cũng có biến cố. Trong vùng bà, nhiều trẻ con, thanh niên thiếu nữ mất tích. Họ đưa đơn lên kiện quan phủ. Quan phủ trình quan Tổng Đốc. Quan Tổng Đốc hạ lệnh quan Tổng binh điều tra và hành binh tiêu diệt ác đảng. Quan Tổng binh cho cảnh vệ đi điều tra. Họ khoanh vùng và nhận thấy cơ sở của bà Đạo Cuội nằm trong trung tâm điểm tình nghi. Họ dùng hàng ngàn lính bao vậy, hàng chục chó sục sạo và tiến vào chùa của bà Đạo Cuội. Quan quân bắt đưọc hàng trăm con hồ ly và hàng đống xương người. Họ thả các trẻ con, thanh niên nam nữ, đã bị Hồ ly bắt cóc và xử chém toàn bộ bọn Hồ Ly. Trương sinh cũng bị xử tử theo đám Hồ Ly!
Chùa của bà thờ Ngọc Đế, ngày đêm hương khói nghi ngút. Trương sinh là một nho sinh đang ngày đêm dùi mài kinh sử để thi Hương. Nghe tin đồn cũng đến chiêm bái. Bước vào chùa, chưa lễ Thánh, sinh đã ngây ngất vì một nữ nhân trong chùa rất đẹp ra vào tiếp khách. Sinh không biết nữ nhân là khách thập hương đến đây tạm trú, hay là tín đồ đến làm công quả, hay là một nữ nhân đang chờ đợi ngày xuống tóc. Sinh liếc mắt đưa tình. Lợi dụng khi vào lễ Thánh, sinh cầm tay nàng, chạm vào người nàng thì nàng im lặng, hai má ửng hồng. Thấy nàng không có vẻ chống cự, sinh càng ngây ngất, những muốn ôm nàng vào lòng.Vì quá say mê người đẹp, sinh bỏ học hành, xin vào chùa làm công quả để sớm hôm gần gũi giai nhân.
Tại Biên Hòa, thời ấy cũng có ông Đạo Cuội nổi danh. Không giống như chùa bà Đạo Cuội ngoài Bình Thuận, chùa của ông xây gạch ngói khá khang trang. Nhưng chùa ông cũng giống bà Cuội Bình Thuận là chỗ ngồi đắp cao thành bệ, xung quanh, trên dưới, trong ngoài đều lát cuội vàng và cuội đỏ.
Bà Cuội Bình Thuận nói rằng bà là do Thượng đế sai xuống cứu chúng sinh vì sắp đến ngày tận thế. Bà bắt những ai muốn gặp bà thì phải gọi bà bằng danh hiệu " Đức bà". Còn ông Đạo Biên Hòa thì bắt mọi người gọi ông là thiền sư, và gọi Phật bằng Bụt. Ai gọi là Phật thì ông tức giận, vác gậy đánh đuổi.
Viên Tú tài Lâm Ly ở đất Gia Định vốn là kẻ khinh thế ngạo vật. Ông nói rằng thời buổi này Chồn Cọp tung hoành rừng núi, ma quỷ lộng hành thôn trang, không thể tin vào cái áo tu hành. Ông bảo rằng tại Trường An ngày xưa thời vua Lê, chúa Trịnh, dân chúng đã mỉa mai một số tu hành tham danh hám lợi bằng những câu : "Nhứt đĩ nhì cha", "Nhất đĩ nhì sư" hoặc " Nhất đĩ nhì cha, tam sư, tứ tướng" là như vậy. Ông cười mà nói: "Cái lão Tú Xương thế mà nói rất đúng."Công đức tu hành sư có lọng!" Ngày nay, đã đi tu mà lắm thằng còn đòi che lọng vàng"! Còn có kẻ ngã mạn quá đáng tự xưng là "Thượng Đẳng Sư" (Super Master)!
Các đạo sĩ mời ông gia nhập giáo phái thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, ông lắc đầu mà bảo:
-Thượng đế hiện hữu khắp nơi, cần gì phải vào miếu, vào nhà thờ mà đọc kinh, cầu nguyện!
Các nhà tu hành các tôn giáo thường đi hóa duyên, ông cười mà bảo:
-Các ông khuyên dân làm việc thiện và bố thí nhưng các ông chỉ lấy tiền của người mà bỏ túi. Tại sao các ông không xuất tiền túi bố thí chúng sinh một lần xem sao?
Có lần ông đến thăm đạo Cuội Biên Hòa, đạo Cuội bảo ông gọi Phật Thích Ca là Bụt Thích Ca.
Ông cười mà hỏi:
-Ông muốn lập dị hay thật tâm yêu Việt Nam, yêu tiếng Việt thuần tuý? Gọi Phật là Bụt rất có lý nhưng Thích Ca cũng là chữ Hán, vậy gọi Thích Ca bằng tiếng Việt là gì? Nếu ông muốn dùng tiếng Việt thay thế chữ Hán, thế thì tôi gọi ông là gì ? Sư, Thiền Sư, Tăng .. . đều là tiếng Hán, ông tính sao? Có thể gọi "Thiền Tăng" là "Thằng Tiền" được chăng? Nếu tôi không lầm thì đạo hiệu ông là Bách Đức và Bách Hạnh. Hai hiệu này đều là chữ Hán. Vậy tôi theo đường lối Việt hóa của ông gọi ông là "ông Bức cái đách " hay "ông Làm Trăm Cái " thì có được không? Lần nữa xin hỏi ông, ông yêu nước thiệt hay giả vờ yêu nước như cái bọn Hồ ly tinh kia? Ông chống Mãn Thanh không? Ngày nay, Lê Chiêu Thống chạy theo Tàu, dâng nước cho Tàu, ông chống Mãn Thanh xâm lược sao lại chạy theo hầu hạ bọn Lê Chiêu Thống?
Ông Đạo Cuội im lặng không trả lời được.
Người ta đồn rằng cả hai ông bà Đạo Cuội này đều là giòng giống họ Hồ. Hai ông bà này đều có bùa mê thuốc lú làm cho người ta mê say. Cũng có kẻ bảo hai ông bà này học được ngải nói và có mê dược cho nên nói gì thiên hạ cũng nghe. Thầy cãi, thầy thuốc, cử nhân, chánh tổng, tri huyện, phú gia, thương gia đều bỏ vợ con, sự nghiệp mà theo hai ông bà này. Những người này còn say mê đến độ bỏ vài chục lượng vàng và giành nhau để được uống một ly nước tắm rửa của bà Đạo Cuội! Chắc là thơm tho, ngon lành lắm lắm!
Về đường lối, hai ông bà này có vài chỗ giống nhau và khác nhau.Họ giống nhau vì đường lối biến thiên, mềm dẽo. Ông thì thời trước tuyên bố giải phóng tăng lữ, đòi thầy tu lấy vợ và tự do luyến ái. Quan điểm này được lớp tu hành trẻ yêu thích và quần chúng một số ngưỡng mộ, không phải ngưỡng mộ chân lý mà ngưỡng mộ hành động
" chịu chơi" của ông! Sau này, nói là làm, ông lấy vợ nhưng vẫn khoác áo đạo nhân, và xưng là ông đạo, là thiền sư. Và chùa của ông đủ thứ người ăn ở chung chạ. Ông gọi lối tu hành này là "Phật giáo dấn thân" , "Phật giáo định hướng"!
Còn Bà Đạo Cuội ở Bình Thuận cũng vậy. Đạo của bà rất mềm dẽo. Lúc thì bà nói bà trên trời xuống theo lệnh Thượng Đế, bà là con Ngọc Đế. Lúc thì bà nói bà được chơn truyền của Thiền Tông bên Tàu, lúc thì nói bà đắc mật pháp Tây Tạng. Ban đầu bà thờ Phật, sau bà thờ Ngọc Hoàng, rồi sau nữa, bà dạy các đệ tử đừng niệm Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, hay Nam Mô A Di Đà Phật mà niệm " Nam mô đạo Cuội Bình Thuận"thì sẽ thấy linh nghiệm, cầu tài đắc tài, cầu lợi đắc lợi, cầu duyên đắc duyên". Bà hết lấy ông này lại tổ chức đám cưới với ông khác, thay cả hàng tá chồng. Nay bà đóng vai Quan Âm, mai bà mang đóng vai Đức Mẹ Maria, nay bà mang y phục hoàng hậu, sau đó lại mang y phục hoa hậu thế giới. Tháng nào bà cũng đi mỹ viện, tuổi năm, sáu mươi mà trông như gái hai mươi, ba mươi.
Nhưng cuộc đời có lúc thịnh, lúc suy, có vay, có trả, hai ông bà Đạo Cuội dù khôn lanh, tài giỏi cũng không thoát lưới trời và quy luật trời!
Ông Đạo Cuội thì tham danh. Có danh thì ông mới có nhiều nhà cửa, đất đai, đệ tử , đàn bà và tiền bạc. Ông móc ngoặc với một quan đại thần trong cung để xin nhà vua ban chức "Quốc sư" cho ông. Ông đại thần này vốn là một gian thần, một tay hô phong hoán vũ trong triều. Và vị đại quan kia đã cho lính giả tăng ni đón rước và che lọng vàng cho ông khi ông lên kinh đô thuyết pháp tại "Quốc Ân tự" ở kinh đô. Nhân dịp này, ông đại gian thần kia bố trí cho ông Đạo gặp Đức vua, Tể tướng, Đại tướng và Đại tướng phu nhân, như thế là đủ bảo đảm cho lời hứa của ông, và ông càng yên chí cái chức " Quốc sư' chắc ăn như bắp rang! Thấy như vậy, được như vậy và tin như vậy, ông Đạo đã nộp hàng vạn lượng vàng, dâng hàng ngàn mẫu đất và đã làm biểu dâng lên ca tụng đất nước hòa bình thịnh vượng; triều đình nhân đức, yêu dân, yêu nước và tôn trọng các tôn giáo!
Nhưng quan đại thần này ăn mà không thực hiện lời hứa. Đã thế, quan bèn chơi một cú đá ngược. Sau một thời gian hợp pháp hóa tài sản do ông Đạo cúng dường, quan bèn bảo hồ sơ của ông Đạo không hợp pháp. Hình bộ và Lại bộ không rõ lai lịch ông đạo là người hay hồ ly. Cần phải chờ một thời gian điều tra. Ông Đạo nhờ linh tính, cảm thấy mình bị ngón " đà đao" của quan đại thần nên lén sang Miên, Lào ẩn nấp. Quả nhiên, it lâu, triều đình hạ lệnh khám xét chùa của ông Đạo, khám phá ra chùa này là hang ổ hồ ly, là động chứa. Bao nhiêu đệ tử của ông gồm mấy trăm nam nữ bị bắt giam, hoặc bị đuổi về. Ông đạo mất chùa, mất đất và mất uy danh. Trước các quan triều đình, một số đệ tử (có thể là tay sai của đại quan cài vào) khai rằng trong chùa, họ được mọi thứ tự do: tự do dùng ma túy, tự do làm tình và tự do ăn nhậu! Thiên hạ bảo ông là ngu và tham. Cũng có kẻ bảo ông là hồ ly lừa người nhưng yêu ma làm sao mà chơi được với quỷ!
Còn bà Đạo Cuội cũng có biến cố. Trong vùng bà, nhiều trẻ con, thanh niên thiếu nữ mất tích. Họ đưa đơn lên kiện quan phủ. Quan phủ trình quan Tổng Đốc. Quan Tổng Đốc hạ lệnh quan Tổng binh điều tra và hành binh tiêu diệt ác đảng. Quan Tổng binh cho cảnh vệ đi điều tra. Họ khoanh vùng và nhận thấy cơ sở của bà Đạo Cuội nằm trong trung tâm điểm tình nghi. Họ dùng hàng ngàn lính bao vậy, hàng chục chó sục sạo và tiến vào chùa của bà Đạo Cuội. Quan quân bắt đưọc hàng trăm con hồ ly và hàng đống xương người. Họ thả các trẻ con, thanh niên nam nữ, đã bị Hồ ly bắt cóc và xử chém toàn bộ bọn Hồ Ly. Trương sinh cũng bị xử tử theo đám Hồ Ly!
85. NGƯỜI BUÔN MUỐI VÀ CON CHỒN
Ngày
xưa, có một nông dân nghèo, không có tấc đất, phải đi cày thuê,
cấy mướn cho người ta. Năm nọ, mất mùa, không ai thuê anh gặt lúa,
gánh thóc và đạp lúa nữa. Anh bèn mượn tiền bà con, mua một ít
muối mang trên lưng rồi lên mạn ngược bán cho người thượng du.
Anh đi bộ từ làng lên miền núi, từ làng này sang làng khác, từ bản này sang bản khác. Đêm đến, anh lạc giữa rừng núi, tư bề cây cối rậm rạp, nghe vượn hót, cọp gầm. Anh đi tìm một cái hốc núi nào để qua đêm. Anh thấy một tảng đá lớn và sau tảng đá là một cái hang. Anh bèn chui vào nương náu. Anh đặt cái bao rỗng xuống đất và nằm xuống nghỉ ngơi. Hang khá rộng rãi, anh có thể nằm dài ra mà ngủ. Mí mắt anh nặng trĩu dần và anh mơ màng nghe tiếng động lạ. Anh tỉnh giấc và sợ hãi, tóc dựng đứng.
Anh đi bộ từ làng lên miền núi, từ làng này sang làng khác, từ bản này sang bản khác. Đêm đến, anh lạc giữa rừng núi, tư bề cây cối rậm rạp, nghe vượn hót, cọp gầm. Anh đi tìm một cái hốc núi nào để qua đêm. Anh thấy một tảng đá lớn và sau tảng đá là một cái hang. Anh bèn chui vào nương náu. Anh đặt cái bao rỗng xuống đất và nằm xuống nghỉ ngơi. Hang khá rộng rãi, anh có thể nằm dài ra mà ngủ. Mí mắt anh nặng trĩu dần và anh mơ màng nghe tiếng động lạ. Anh tỉnh giấc và sợ hãi, tóc dựng đứng.
Anh tự hỏi:
"Cái gì vậy"?
"Cái gì vậy"?
Anh
rón rén bò ra khỏi hang. Anh không thấy gì cả , anh nghe một
giọng nói phụ nữ nhưng anh không thấy ai cả. Anh ngạc nhiên tự
hỏi:
-Tại sao có tiếng đàn bà nơi núi rừng vào lúc khuya khoắt như thế này?
Anh bèn trở vào hang mà nằm ngủ.
Anh định nằm ngủ nhưng anh lại nghe tiếng động như là ở bên trên hang. Anh liền nhẹ nhàng bò ra khỏi hang lần nữa và nhìn lên trên tảng đá cao. Anh suýt buột miệng la lên vì anh thấy một con Cáo trắng, đuôi dài, ngồi trên tảng đá, đang mài một cái đầu lâu và tảng đá. Người bán muối rất sợ hãi. Anh bò ra, nấp sau một thân cây lớn để quan sát con Hồ ly tinh. Con Hồ ly không biết anh đang đứng sau lưng nó. Nó cứ mài dũa dường như nó muốn tạo cái đầu lâu thành một cái mũ đội đầu. Ban đầu thì không vừa. Nó tức tối, cằn nhằn. Mài mãi thì cũng vừa cái đầu của nó.
Người buôn muối thấy Con Hồ Ly đột nhiên biến mất, và một bà lão hiện lên ngay tại chỗ đó. Bà ta nói một mình:
-Tại sao có tiếng đàn bà nơi núi rừng vào lúc khuya khoắt như thế này?
Anh bèn trở vào hang mà nằm ngủ.
Anh định nằm ngủ nhưng anh lại nghe tiếng động như là ở bên trên hang. Anh liền nhẹ nhàng bò ra khỏi hang lần nữa và nhìn lên trên tảng đá cao. Anh suýt buột miệng la lên vì anh thấy một con Cáo trắng, đuôi dài, ngồi trên tảng đá, đang mài một cái đầu lâu và tảng đá. Người bán muối rất sợ hãi. Anh bò ra, nấp sau một thân cây lớn để quan sát con Hồ ly tinh. Con Hồ ly không biết anh đang đứng sau lưng nó. Nó cứ mài dũa dường như nó muốn tạo cái đầu lâu thành một cái mũ đội đầu. Ban đầu thì không vừa. Nó tức tối, cằn nhằn. Mài mãi thì cũng vừa cái đầu của nó.
Người buôn muối thấy Con Hồ Ly đột nhiên biến mất, và một bà lão hiện lên ngay tại chỗ đó. Bà ta nói một mình:
-Ồ
trễ quá rồi. Chúng nó nhọc lòng chờ ta! Nói xong thì bà già nhảy
xuống tảng đá và đi về ngôi làng mà hôm trước anh đã ghé!
Quá ngạc nhiên, anh theo bà bén gót. Bà đi rất nhanh, nhiều khi
anh phải chạy mới kịp. Cuối cùng, bà già đến làng và vào ngôi nhà
giàu nhất. Mọi người trong nhà túa ra chào bà, và hỏi tại sao bà
đến trễ. Bà đi thẳng vào phòng khách. Người bán muối bèn bước qua
cửa và xin ngủ lại một đêm. Vì anh quen biết chủ nhà nên anh được
người nhà dẫn vào phòng khách cách chỗ bà già một quảng ngắn. Gần
nửa đêm, người bán muối nằm xuống sàn nhà, lắng tai nghe các tiếng
động từ phòng bà già kia. Anh nghe vài tiếng động, sau thì im
lặng. Bỗng nhiên anh nghe tiếng cồng kêu vang và tiếng kinh cầu
theo sau những tiếng cồng nho nhỏ. Anh biết chắc giọng đọc kinh là
giọng của bà lão Hồ Ly vì anh đã nghe bà nói khi ở trong núi. Anh
hỏi một người nhà nằm cùng phòng với anh:
-Việc gì xảy ra thế?
Anh người nhà bảo rằng bà chủ bị bệnh nên ông chủ rước thầy về trừ tà. Bà là một phù thủy nổi tiếng trong vùng. Anh này nói xong thì ngủ say. Thỉnh thoảng tiếng cồng vang lên và mọi người trong nhà đều ngủ say.
-Việc gì xảy ra thế?
Anh người nhà bảo rằng bà chủ bị bệnh nên ông chủ rước thầy về trừ tà. Bà là một phù thủy nổi tiếng trong vùng. Anh này nói xong thì ngủ say. Thỉnh thoảng tiếng cồng vang lên và mọi người trong nhà đều ngủ say.
Người
bán muối bèn lẻn ra khỏi phòng khách và đi nhè nhẹ đến phòng lão
Hồ Ly. Anh đi trên ngón chân và đẩy nhẹ tấm cửa bằng giấy rồi
bước vào phòng. Một bà già nằm ngủ. Bà lão Hồ ly thì nhắm mắt
tụng niệm, còn tay phải thì đánh chuông. Anh lắng nghe kỹ những
lời tụng niệm. Bà ấy thì thầm:
- Tất cả là của ta. Gà vịt của ta, thịt của ta. Chết đi! Hãy chết đi! Sau khi mi chết, linh hồn mi thuộc về ta. Chết đi! Chết đi! Hãy chết gấp đi! Càng nhanh càng tốt!
Anh bán muối nghĩ rằng mình phải cứu gia đình này. Anh bèn ra ngoài vườn, lấy một cái xẻng, rồi bước vào phòng phang vào lão Hồ Ly mấy cái. Mọi người trong nhà tỉnh dậy, hoảng sợ khi thấy cảnh anh bán muối đánh bà lão phù thủy. Sau mấy cái xẻng vào đầu và mình, bà lão phù thủy té xuống biến thành con Cáo trắng, miệng tru như Cáo với cái đầu lâu đội trên đầu! Người bán muối thuật lại những điều anh thấy trên núi. Ai cũng lo lắng, sợ bà chủ nhà chết mất.
- Tất cả là của ta. Gà vịt của ta, thịt của ta. Chết đi! Hãy chết đi! Sau khi mi chết, linh hồn mi thuộc về ta. Chết đi! Chết đi! Hãy chết gấp đi! Càng nhanh càng tốt!
Anh bán muối nghĩ rằng mình phải cứu gia đình này. Anh bèn ra ngoài vườn, lấy một cái xẻng, rồi bước vào phòng phang vào lão Hồ Ly mấy cái. Mọi người trong nhà tỉnh dậy, hoảng sợ khi thấy cảnh anh bán muối đánh bà lão phù thủy. Sau mấy cái xẻng vào đầu và mình, bà lão phù thủy té xuống biến thành con Cáo trắng, miệng tru như Cáo với cái đầu lâu đội trên đầu! Người bán muối thuật lại những điều anh thấy trên núi. Ai cũng lo lắng, sợ bà chủ nhà chết mất.
Ngày hôm sau, bà chủ tỉnh dậy và lành bệnh. Anh bán muối được
thưởng một số tiền. Kể từ đó, anh sống hạnh phúc, không còn phải
lang thang đi bán muối nữa.
86. NGƯỜI CON GÁI HỒ LY
Ngày
xưa có một nhà giàu nọ sinh được một trai. Ông rất mong có một
mụn gái cho nên ông đã đi cầu tự khắp nơi, và cũng đi coi thầy bói
khắp chốn. Lời cần khẩn của ông đã thành sự thực, ông đã sinh được
một gái.
Khi
cô gái 15 tuổi thì cô ta vào rừng hái nấm. Cô ta say sưa hái nấm
cho nên lạc lối về. Ở nhà, cha mẹ cô lo lắng, bèn sai gia nhân đi
tìm kiếm. Cuối cùng thì họ đã thấy cô ở dưới thung lũng. Người cha
mừng rỡ hỏi con:-Tại sao con đi mà không sớm trở về để bố mẹ lo âu? Con đi xa như vậy thì thú vật có thể ăn thịt con!
Cô con gái nói:
-Xin lỗi cha, lần sau con không tái phạm. Con quá mệt nên ngủ quên dưới gốc cây. Tỉnh dậy thì đã thấy mặt trời trên đỉnh đầu!
Câu
chuyện đó dần trôi vào lãng quên nhưng vài bữa sau xuất hiện
nhiều điều kỳ dị. Ban đêm, các con bò của phú ông lần lượt bị
chết. Hết con nọ đến con kia bị chết. Phú ông ra lệnh cho người
nhà canh gác chuồng bò kỹ lưỡng. Một thanh niên bèn ngồi trong
đống rơm ở chuồng bò và chờ đợi. Anh thấy cô con gái phú ông lẻn
vào chuồng bò và đến gần con bò. Cô thò tay vào bụng con bò rồi
moi lấy lá gan con bò mà ăn sống. Con bò lăn xuống rồi chết. Đến
sáng, người nhà bèn trình phú ông những việc y thấy tối qua.Phú ông
thương con gái, tức giận tên nô bộc đã nói xấu con gái ông nên
đuổi tên đầy tớ.
Hôm
sau, tên đầy tớ khác được lệnh bí mật canh gác chuồng bò. Y cũng
nấp sau đống rơm và thấy mọi sự xảy ra giống như tên đầy tớ trước
kia. Sáng sớm, y tường thuật cho chủ nghe. Ông chủ yêu con gái, không tin những lời như vậy, bèn đuổi nó đi!
Đêm
thứ ba cũng vậy. Người đầy tớ này cũng bị đuổi. Các con bò chết
hết, rồi đến đàn heo. Hết heo thì đến gà vịt. Rốt cuộc, các đầy tớ
trai gái đều bị đuổi, và trong làng, chẳng ai làm việc cho gia
đình này nữa. Trong gia đình phú ông, chỉ còn con ngựa. Con ngựa
này dùng để chở đồ và đưa phú ông đi chơi gần xa.
Ông
giao nhiệm vụ an ninh và trinh sát cho người con trai. Anh ta
nấp sau đống rơm và thấy nửa đêm, em gái anh ta xuất hiện. Anh
định cất tiếng la mắng em nhưng anh khựng lại. Đôi mắt của cô em
như đen tối và kéo xếch lên gần tai, miệng máu to rộng và đỏ ngòm.
Mặt đanh lại và hung dữ như quỷ sứ. Cô ta thọc tay vào bụng con
ngựa lôi gan ngựa ra ăn sống, rồi chưa đã, cô ta lấy tay xé từng
miếng thịt ngựa và nhai nhồm nhoàm.
Anh ta chết đứng, không dám thở cho đến khi cô em gái trở về phòng. Sáng hôm sau, anh ta thưa với cha việc đã xảy ra và chỉ cho cha thấy xác ngựa.
Anh ta nói:
-Thưa cha, con biết cha không thích những điều con nói nhưng con phải nói sự thật. Con đã thấy chính em gái con ăn thịt ngựa.Người cha tức giận , thét lên:
-Mày ghen ghét em mày nên bịa chuyện. Hoặc là mày nằm chiêm bao thấy ác mộng rồi đổ tội cho em mày. Mày cút đi, tao không muốn thấy mày trong ngôi nhà này!
Người con trai không biết đi về nơi nào, bèn lang thang vào rừng. Sau mấy tháng, anh ta gặp một vị Sư già tại một con suối. Anh ta giúp nhà sư vượt suối an toàn cho nên nhà sư mời anh ta ngủ lại ở chùa. Nhà Sư hỏi tại sao anh ta lang thang trong rừng, anh ta kể lại câu chuyện. Nhà Sư nói:-Tôi hiểu chuyện đó. Em gái anh đã bị Hồ Ly ăn thịt rồi đội lốt em gái anh mà về nhà. Chính nó đã giết hại súc vật nhà anh.
Người con trai nói:Anh ta chết đứng, không dám thở cho đến khi cô em gái trở về phòng. Sáng hôm sau, anh ta thưa với cha việc đã xảy ra và chỉ cho cha thấy xác ngựa.
Anh ta nói:
-Thưa cha, con biết cha không thích những điều con nói nhưng con phải nói sự thật. Con đã thấy chính em gái con ăn thịt ngựa.Người cha tức giận , thét lên:
-Mày ghen ghét em mày nên bịa chuyện. Hoặc là mày nằm chiêm bao thấy ác mộng rồi đổ tội cho em mày. Mày cút đi, tao không muốn thấy mày trong ngôi nhà này!
Người con trai không biết đi về nơi nào, bèn lang thang vào rừng. Sau mấy tháng, anh ta gặp một vị Sư già tại một con suối. Anh ta giúp nhà sư vượt suối an toàn cho nên nhà sư mời anh ta ngủ lại ở chùa. Nhà Sư hỏi tại sao anh ta lang thang trong rừng, anh ta kể lại câu chuyện. Nhà Sư nói:-Tôi hiểu chuyện đó. Em gái anh đã bị Hồ Ly ăn thịt rồi đội lốt em gái anh mà về nhà. Chính nó đã giết hại súc vật nhà anh.
-Tôi phải trở về báo cho cha mẹ tôi hay sự thể.
Nhà Sư đáp:
-Bây giờ thì muôn rồi. Nên làm ban ngày hơn ban đêm. Mai hãy trở về.
Nhà sư trao trao cho anh ba chai nhỏ: chai đỏ, chai xanh lá cây và chai xanh dương. Nhà sư bảo anh cưỡi ngựa mà về và dùng thuốc đúng theo lời ta chỉ dẫn.
Chàng trai cảm ơn nhà sư và cưỡi ngựa về. Ngôi nhà bây giờ như hoang phế, cỏ mọc tư bề. Cô em gái của anh, ngồi giữa vườn ăn ếch nhái và sâu bọ.
Thấy anh, cô ta reo lên:-Anh Cả đi đâu lâu thế? Em nhớ anh!Cô ta xông lên ôm anh nhưng anh hất cô ra xa, và bảo nhẹ nhàng:
-Em nên gìn giữ, không nên làm thế. Nam nữ thụ thụ bất thân!
-Thế bố mẹ đâu?
-Bố mẹ chết hết cả rồi!
Anh nghe tin mà sợ toát mồ hôi. Làm sao thoát khỏi tay con Hồ Ly này?Anh bỗng nảy ra một ý kiến. Anh nói:
-Anh đói bụng. Em nấu cơm cho anh ăn nhé.
Anh muốn nhân cơ hội cô em nấu cơm mà trốn thoát nhưng con Hồ Ly tinh quá khôn ngoan, nó nói:
-Anh phải chịu cho em buộc anh với lưng em nhé.
Con
Hồ Ly lo việc nấu cơm nên bỏ người con trai ngoài vườn. Thỉnh
thoảng nó kéo sợi giây để xem người anh còn đó hay đã trốn mất.
Người con trai đã tháo được sợi giây rồi cột vào cỗng. Anh ta nhẹ
nhàng leo lên lừa chạy trốn. Đến khi biết mình bị lừa, con Hồ ly
đuổi theo gấp. Khi thấy con Hồ ly sắp nắm lấy đuôi ngựa, anh ta
nhớ lời ông sư dặn bèn ném cái chai đỏ ra đằng sau lưng. Cái chai
đỏ biến thành một quả bóng lửa đỏ ngăn chân lối đi con Hồ Ly.
Mặc dầu lửa cháy y phục, tóc tai, con Hồ ly chạy xung quanh lửa và tóm được người con trai. Anh ta bèn ném cái chai xanh chàm. Một lùm cây rậm rạp hiện ra chắn lối đi của Hồ Ly. Mặc dầu cây làm mặt mũi, chân tay chảy máu, con Hồ Ly vẫn rượt theo và sắp tóm được anh ta. Anh liền ném chai xanh dương ra đằng sau. Bỗng chốc một cái hồ lớn hiện ra làm cho con Hồ Ly tinh chìm xuống nước. Cuối cùng thì anh ta giết chết con Hồ ly tinh mang lốt em gái anh.
Mặc dầu lửa cháy y phục, tóc tai, con Hồ ly chạy xung quanh lửa và tóm được người con trai. Anh ta bèn ném cái chai xanh chàm. Một lùm cây rậm rạp hiện ra chắn lối đi của Hồ Ly. Mặc dầu cây làm mặt mũi, chân tay chảy máu, con Hồ Ly vẫn rượt theo và sắp tóm được anh ta. Anh liền ném chai xanh dương ra đằng sau. Bỗng chốc một cái hồ lớn hiện ra làm cho con Hồ Ly tinh chìm xuống nước. Cuối cùng thì anh ta giết chết con Hồ ly tinh mang lốt em gái anh.
87. LỤC ĐẠO
Địa ngục và Thiên Đàng là danh từ xưa rồi, sau này thì người ta dùng hai danh từ khác thay vào. Nghe đâu đó cũng là một huyết sử vì phe Sa Tăng kiện Thượng Đế kỳ thị, dám khinh miệt thế giới của ông bằng danh từ Địa Ngục. Sa tăng tuyên bố Thượng đế vu khống vì ở xứ sở của Sa Tăng chỉ có nhà trường, không có ngục tù. Tại đây mọi người có quyền tự do dân chủ gấp ngàn lần ở cái gọi là "Thiên Đường" của Thượng Đế. Trong vụ kiện này, Thượng Đế chịu thua, vì Sa Tăng thuê hết tất cả luật sư giỏi. Tòa án Vũ Trụ ra lệnh đổi danh hiệu. Hai bên từ nay đều gọi là thiên đàng chỉ khác nhau màu sắc. Người ta gọi Địa Ngục là Thiên Đàng Đỏ và Thiên Đàng là Thiên Đàng Xanh. Cũng có người tế nhị gọi vắn tắt là xứ Đỏ và xứ Xanh cho khỏi mất lòng!
Người và vật sau khi chết đều phải qua một cuộc phỏng vấn, sau đó mới đưọc chuyển qua thế giới thứ ba, là Thiên Đường Đỏ , Thiên Đường Xanh, Súc sanh hay Ngạ quỷ.
Phán quan hỏi một anh Ong:
-Nhà ngươi nghĩ thế nào về "độc lập" và "tự do"?
-Bẩm đại vương. Tôi là một thi sĩ ngông, suốt đời uống rượu và làm thơ chích thiên hạ.
Thơ của tôi nhiều lắm. Và đây là những vần thơ về độc lập, tự do, xin đại vương nghe thử. Nói xong Ong lấy giọng ngâm:-Đi theo Mèo Chó thì không ấm no,
Đứng cạnh sư tử làm sao độc lập?
Ở cùng Gấu, Báo có đâu tự do?
Sống với Cọp Sói ắt chết không kịp ngáp!
Độc lập, tự do, ôi ! toàn là chuyện ba láp!
Diêm vương nghe xong, cười mà phán:
-Thằng này tâm địa tốt, cho nó vào ở chung với Trần Tế Xương, Tam Nguyên Yên Đổ.
Đến lượt Ve sầu vào, phán quan hỏi:
-Nhà ngươi nghĩ như thế nào về thế giới?
Ve sầu lấy giọng rồi đọc:
-Không nơi nào trăng tròn bằng trăng nước Sư tử,
Không đâu nhiều mỹ nữ như xứ Hồ Ly.
Diêm vương nói:
-Cho y toại nguyện làm kiếp ve sầu để ca hót
Quỷ sứ bèn cho Ve sầu đầu thai làm kiếp ve sầu lần nữa!
Đến phiên Cú Mèo vào phỏng vấn, Phán quan hỏi:
-Kiếp trước ngươi có công trạng gì không?
Cú Mèo thưa:
-Tôi ca tụng chiến đấu. Chỗ nào có người chết là có tôi. Tôi luôn luôn ca tụng cách mạng, cho thế giới đại đồng. Tôi có bài thơ như sau:
Công bằng, dân chủ, tự do,
Thiên đàng hạ giới để cho muôn loài.
Tiến lên chém giết không thôi,
Xương trắng thành núi, máu tươi thành dòng!
Đại tàn sát! Đại tấn công!
Dựng xây thế giới đại đồng khắp nơi!
Diêm vương ngồi giữa che mặt phán:
-Cho y làm bọ hung!
Đến khi Cáo già chết, xuống âm phủ, được phán quan hỏi:
-Nhà ngươi lúc sống trên trần gian theo tôn giáo nào?
-Con theo duy vật giáo?
-Duy vật giáo của ngươi thờ ai?
-Duy vật chủ nghĩa của con chủ trương "Vật chất đi trước, tinh thần đi sau."
-Người ta báo cáo rằng ngươi cũng thường lớn tiếng tuyên bố:" Không gì quý hơn độc lập, tự do". Vậy độc lập, tự do là tinh thần hay vật chất?
-Chúng con theo vật chất giáo cho nên độc lập và tự do đều là vật chất cả.
-Vậy nhà ngươi có sờ, có thấy độc lập, tự do không?
-Có! Chúng con quan niệm tất cả tình yêu, độc lập, tự do, dân tộc, hạnh phúc mà phái triết học hủ lậu quan niệm là trừu tượng thì chúng con đều cho là vật chất tất. Này nhé, chúng con biến độc lập của tổ quốc thành vũ khí, lương thực và tiền bạc; chúng con bán tự do cho những ai muốn đi tìm tự do với giá mỗi người sáu cây vàng; chúng con dùng quyền tự do trấn áp để cướp ruộng đất, nhà cửa của nhân dân để làm giàu và xây dựng quyền uy.Nay độc lập và tự do của chúng con đã lên hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn tỷ mỹ kim!
Nghe Cáo già nói như vậy, Diêm vương cười mà phán:
-Tay này không phải thứ vừa. Thôi, cho ông " đồng chí " này vào Thiên Đường chung với Lão tổ Dao và Đại Thánh Mác đi.
Cáo già hăm hở xách va ly bước vào Thiên Đường thì bị mấy Hộ Pháp cản lại mà bảo:
- Thôi đi cha nội! Thiên Đường của các ông bên kia kìa!
88.NHỮNG CÔ GÁI TÓC VÀNG HOE
Gia
đình ông Tư sống trong núi, gồm có hai con. Đứa đầu là thằng
Đại, đứa sau là thằng Tiểu. Thỉnh thoảng họ phải vào chợ ở gần
thành phố để kiếm lương thực. Bình thường ông Tư và con trai đi
chợ, nhưng sau này ông Tư bệnh phải nằm nhà. Thằng Đại phải đi
chợ một mình. Ông Tư căn dặn con:
-Từ nhà mình ra chợ xa lắm. Đi qua núi thì đường ngắn nhưng nguy hiểm. Con phải đi đường vòng ra ngoài núi thì an toàn hơn.
-Từ nhà mình ra chợ xa lắm. Đi qua núi thì đường ngắn nhưng nguy hiểm. Con phải đi đường vòng ra ngoài núi thì an toàn hơn.
Mặc
dầu bố dặn dò, Đại vẫn đi đường núi cho đỡ mệt, và nó cũng muốn
xem trong núi có những gì mà bố nó sợ hãi như thế. Nó vừa vào
rừng thì thấy một cô gái tóc nửa đỏ nửa vàng đang bưng một cái
rổ đựng trái dâu. Đại thấy cô gái lạ bèn ẩn nấp sau thân cây. Có
gái đi dần dần tới chỗ Đại nầp. Đại thấy rõ cô ta rất đẹp, rất
quyến rũ. Thấy Đại, cô quăng cái rổ nằm lăn ra đường, và kêu gào
ghê gớm. Lúc đó, một chàng trai khác chạy đến. Chàng bảo cô gái:
- Liên ơi Liên! Sao em lại làm cho anh sợ hãi?
Cô gái kêu:-Anh Lành! Anh Lành!
Đại quay lại thấy chàng trai là một người cao, to, có vẻ là một tay thợ săn. Đại nghe họ gọi nhau thì biết cô gái tên Liên, còn chàng trai tên Lành. Người con trai hỏi Đại:
-Anh là ai?
Đại tiến lên tự giới thiệu:
-Tôi tên Đại. Tôi ở trong núi ra đi chợ.
Liên mỉm cười với Đại, và hỏi:
-Anh đi một mình sao?
Đại trả lời:-
Hôm nay, bố tôi ốm nên tôi đi chợ một mình.
Liên nói:-Anh thật là một chàng trai can đảm.
Nàng vừa nói, vừa cười, vừa liếc nhìn Đại làm cho Đại đắm say.
Liên cười mà hỏi:
-Tại sao anh lại nhìn em với ánh mắt kỳ dị như thế?
Đại ngượng ngùng, lắp bắp thốt không nên lời!
Chàng trai tiến lên giới thiệu:
-Tôi tên Lành. Đây là Liên, em gái vợ tôi.
-Nhà tôi gần đây, xin mời anh về chơi.
Anh nhận lời. Khi đến nhà của Lành, anh được vợ chồng Lành mời uống rượu và ăn thịt. Lành giới thiệu vợ chàng với Đại và nói nàng tên Cúc. Ăn uống no say thì trời đã về chiều, anh phải ngủ lại nhà Lành. Nửa đêm tỉnh dậy, anh quên hết mọi việc. Anh chỉ nhớ là anh rất yêu Liên.
Liên tiến đến bên anh, nhẹ nhàng bảo:- Liên ơi Liên! Sao em lại làm cho anh sợ hãi?
Cô gái kêu:-Anh Lành! Anh Lành!
Đại quay lại thấy chàng trai là một người cao, to, có vẻ là một tay thợ săn. Đại nghe họ gọi nhau thì biết cô gái tên Liên, còn chàng trai tên Lành. Người con trai hỏi Đại:
-Anh là ai?
Đại tiến lên tự giới thiệu:
-Tôi tên Đại. Tôi ở trong núi ra đi chợ.
Liên mỉm cười với Đại, và hỏi:
-Anh đi một mình sao?
Đại trả lời:-
Hôm nay, bố tôi ốm nên tôi đi chợ một mình.
Liên nói:-Anh thật là một chàng trai can đảm.
Nàng vừa nói, vừa cười, vừa liếc nhìn Đại làm cho Đại đắm say.
Liên cười mà hỏi:
-Tại sao anh lại nhìn em với ánh mắt kỳ dị như thế?
Đại ngượng ngùng, lắp bắp thốt không nên lời!
Chàng trai tiến lên giới thiệu:
-Tôi tên Lành. Đây là Liên, em gái vợ tôi.
-Nhà tôi gần đây, xin mời anh về chơi.
Anh nhận lời. Khi đến nhà của Lành, anh được vợ chồng Lành mời uống rượu và ăn thịt. Lành giới thiệu vợ chàng với Đại và nói nàng tên Cúc. Ăn uống no say thì trời đã về chiều, anh phải ngủ lại nhà Lành. Nửa đêm tỉnh dậy, anh quên hết mọi việc. Anh chỉ nhớ là anh rất yêu Liên.
-Anh bị bệnh bất ngờ nên bất tỉnh nhân sự. Anh nên ở lại đây. Nay mai chúng mình sẽ làm lễ kết hôn.
Kể từ đó anh ở lại cùng Liên, hai người sống chung như vợ chồng.
Cúc và Lành cũng đến. Cúc nói :
-Anh ở lại cho khoẻ rồi sẽ tổ chức đám cưới.
Khi hai vợ chồng Cúc đến, Đại nhìn thấy một chiếc nhẫn vàng lớn trên ngón tay Lành.
Ngày hôm sau, Đại và Liên tổ chức đám cưới rất đơn giản. Đại cảm thấy hạnh phúc vì có mái nhà ấm, cô vợ trẻ đẹp và anh em tốt.
Vài tháng sau đám cưới, Lành mời anh đi săn. Trên đường đến túp lều của Lành , anh thấy một con Cáo đỏ xuất hiện. Con Cáo đỏ này miệng đầy máu, lại ngậm một chiếc nhẫn vàng rất to. Anh chợt nhớ Lành cũng đeo một cái nhẫn vàng rất to ở ngón tay. Anh đánh đuổi con Chồn, anh la lớn:
-Đứng lại! Tại sao mày có cái nhẫn vàng giống của anh Lành? Mày đã hại anh Lành hay ăn trộm của anh Lành? Mày đứng lại. Mày trả cái nhẫn cho tao!
Con Chồn đỏ bỏ chạy, Đại đuổi theo thì mất dấu. Theo dấu chân chồn, Đại đến túp lều của Lành. Đại kêu mở của, Đại hỏi:
-Anh Lành có nhà không? Anh Lành có bình an không? Chị có thấy một con Cáo đỏ chạy qua không?
Chỉ có tiếng Cúc nói ra:
-Anh Lành đi vắng! Mời chú vào nhà. Chú vào uống chén rượu cho ấm bụng trong khi chờ đợi Lành.
Đại đáp:
-Tôi vừa đuổi một con Cáo đỏ chạy qua đây nên qua đây làm phiền chị. Chị cho tôi ly rượu . . .Đại ngồi vào ghế thì thấy chiếc nhẫn vàng nằm trên nền nhà. Cúc trao ly rượu cho Đại thì anh thấy miệng Cúc dính máu, nhìn móng tay và bàn tay cũng thấy máu.
Anh hỏi tại sao miệng chị dính máu. Cúc bảo mùa Đông lạnh, nàng hay bị khô môi và chảy máu. Anh uống ly rượu rồi ra về. Về nhà anh kể chuyện với Liên. Bỗng nhiên anh nghe giọng Cúc ngoài cửa:
-Liên! Liên! Hãy giết nó đi!
Cúc hô hào ầm ĩ rồi xông vào nhà, liên tiếp ra lệnh:
-Liên! Liên! Hãy giết nó đi!
Liên nói:-Tôi không thể giết chồng tôi!
Cúc tru tréo lên:
-Mi phải giết nó đi! Mi phải thẳng tay trừng trị quân thù! Nợ máu phải trả bằng máu!
Liên nói:
-Tôi không giết chồng tôi!
-Mi phản nòi giống! Mi phản tổ chức! Mi phải đền tội!
Liên nói:
-Xin chị dừng tay! Chúng mình là chị em mà!
Cúc nói:-Tổ chức trên hết. Phải trả thù cho Tổ tiên. Phải đấu tranh cho độc lập, tự do của chủng tộc. Hãy giết loài người! Hãy giết sạch quân thù! Hãy bỏ riêng tình cảm cá nhân thấp hèn! Hãy đặt quyền lợi chủng tộc trên hết! Tổ chức sẽ không tha thứ cho mi. Mi hãy giết nó đi!
Cúc xông vào Đại thì trong nháy mắt Liên nhảy ra trước mặt Đại để bảo vệ chồng. Đại nhìn thấy cả hai đều là trang tuyệt thế giai nhân, đều má đỏ môi hồng và tóc vàng hơi nhuốm đỏ như nhau. Bỗng chốc, Liên và Cúc đều hóa thành hai con Cáo đỏ nhảy xổ vào nhau!
Đại cầm gậy muốn xông vào giúp Liên nhưng hai bên ôm nhau, cấu xé mãnh liệt, từ bên trong xông ra nhà ngoài, từ bếp vào phòng ngủ, không phân biệt ai là Cúc, ai là Liên cho nên Đại đành đứng nhìn.
Một lúc sau, cả hai bên nằm vật ra, thở đứt đoạn. Cúc đã chết. Liên hấp hối. Nàng thì thào bảo Đại:
-Em sắp chết. Anh hãy tìm gấp cho em một con gà lấy máu bôi vào vết thương thì may ra em sẽ sống lại . Anh nên đem xác chị Cúc chôn đi. Em sắp chết. Anh hãy nghe kỹ lời em dặn. Đằng sau nhà sau gốc cây bàng, em chôn một chai rượu. Anh hãy lấy uống, rồi tìm đường về nhà. Câu chuyện dài lắm. Em xin kể sơ anh nghe. Nguyên tổ tiên em là loài Cáo Đỏ. Loài người tàn ác đã lên núi đào hang bắt cho tuyệt để lấy da làm áo mũ và khăn quàng cổ. Da Cáo rất mịn đẹp, da cừu, da gấu thua xa cho nên ai cũng tìm cách giết hại tổ tiên em.
Sau này, mẹ em mới đứng ra tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí
hội, đề xướng chủ trương đấu tranh chủng tộc chống lại loài
người tàn ác đã phá hoại núi rừng, xâm chiếm quê hương chúng em và
tàn sát chúng em. Mẹ em đã tìm đến một bà phù thùy, xin bà giúp
đỡ. Bà hứa giúp đỡ. Bà chế ra một loại thần dược khiến cho những
con chồn Cái trở thành những thiếu nữ xinh đẹp, quyến rũ những
chàng thợ săn vào rừng hay những chàng trai đi ngang qua khu
rừng. Bà lại chế một thứ rưọu đặc biệt, uống vào thì quên quá khứ,
dùng để phục rượu những chàng trai đi vào rừng. Những chàng trai
này bây giờ quên hết mẹ cha, anh em, vợ con, làng xóm, cam tâm ở
lại làm nô lệ cho phụ nữ xứ này.
Sau
khi chàng trai vào rừng, các thiếu nữ Hồ Ly liền kết hôn và sống
chung với mục đích là phát triển dân số. Sinh gái thì nuôi, còn
sinh trai thì giết cả chồng lẫn con, lấy trái tim người chồng
dâng cho bà phù thủy để bà làm phép. Bây giờ, chàng đi tìm chai
rượu, uống vào cho tỉnh trí, rồi tìm đường mà về làng.
Đại khóc lóc:-Anh không thể xa em. Anh sẽ ở lại với em!
Đại đi tìm gà, lấy máu bôi vào vết thương của nàng. It lâu sau, nàng bình phục. Đại giấu việc Lành và Cúc đã chết. Chàng nói cho cả làng biết vợ chàng có thai, sắp sinh con và chàng muốn đãi cả làng một bữa. Mọi người đưọc mời đến. Họ ăn uống, đàn hát say sưa. Bà phù thủy nói:
-Trên bàn cao còn có hai thùng gì lớn thế?Đại khóc lóc:-Anh không thể xa em. Anh sẽ ở lại với em!
Đại đi tìm gà, lấy máu bôi vào vết thương của nàng. It lâu sau, nàng bình phục. Đại giấu việc Lành và Cúc đã chết. Chàng nói cho cả làng biết vợ chàng có thai, sắp sinh con và chàng muốn đãi cả làng một bữa. Mọi người đưọc mời đến. Họ ăn uống, đàn hát say sưa. Bà phù thủy nói:
Đại bèn lấy hai thùng ra, và thưa với dân làng:
-Thưa quan khách, vợ tôi có thai, chúng tôi vui mừng vô cùng, xin đặt tiệc rượu mừng. Sau buổi tiệc là trò chơi. Xin chia ra hai bên nam nữ. Đây mỗi bên có 10 chai rượu, hẹn đốt xong cây nhang phải uống hết. Phe nào say trước là thua!
Phụ nữ được ưu tiên. Họ lấy chai rượu ghi tên "đàn bà" mà uống. Đốt xong cây nhang thì ai nấy về ghế ngồi nghỉ. Đến lượt phe nam, họ lấy những chai rượu có ghi là "đàn ông" mà uống.
Uống xong, các phụ nữ Cáo quên hết quá khứ, không còn căm thù loài người, không còn nghĩ đến đấu tranh chủng tộc và chém giết nữa. Còn đàn ông thì nhớ lại quá khứ, ai có cha mẹ, vợ con thì trở về làng. Ai chưa vợ con muốn ở lại thì xin ở lại.
Đại dẫn vợ về làng, chàng rất vui mừng khi gặp lại cha mình. Cả làng khen Liên xinh đẹp. Từ đó cả nhà sống trong hạnh phúc.
89. CÚC HOA
Bùi
sinh là học trò quan Đốc, học giỏi có tiếng, thi ca lừng danh nhưng
đi thi thì rớt hoài. Một hôm, sinh nằm ngủ, không bao lâu có hai thể
nữ tới, một áo xanh, một áo vàng , thưa với sinh rằng Thái lão quân
cho lệnh mời sinh. Sinh bèn theo hai thể nữ ra đi. Đi một lúc có khi
như bay trên mây, rồi đến một toà lâu đài, trên cao đề hai chữ "Hồ
phủ". Sinh vào mấy lần cửa , đến nội phủ thì thấy một bà già đầu đội
mũ vàng đính hồng ngọc, mặt trắng, áo vàng, tay cầm trượng đầu rồng,
hai thể nữ bảo chàng quỳ xuống.
Sinh vội quỳ làm lễ ra mắt. Thái lão quân ngồi trên điện, thấy sinh thì bước xuống thềm đón theo lễ chủ khách. Làm lễ tương kiến xong thì vào tiệc. Trong bàn tiệc có khoảng hai mươi khách, món ngon vật lạ bày lên la liệt. Sinh bối rối không biết nói gì. Thái lão quân nói:
-Ta là láng giềng của tiên sinh, nghe tiếng tiên sinh là người chánh trực, ta đây rất ái mộ, xin tiên sinh cứ tự nhiên đừng ái ngại".
Sinh bèn vâng dạ tuân lệnh. Rượu được vài tuần, dưới thềm sênh ca trỗi lên, có chiêng trống hòa điệu nhưng âm thanh rất nhỏ.
Một lát, Thái lão quân nói với các quan khách:
-Ta có một câu đối: Hằng Nga đăng nguyệt điện ( Hằng Nga lên cung trăng)". Cả tiệc còn đang suy nghĩ, sinh đối ngay “Ngũ Liễu ái cúc hoa" (2) . Lão thái quân cười mà nói:
-Sao lại ngẫu nhiên trùng hợp thế nhỉ? Phải chăng duyên trời dun dủi? Cúc Hoa là tiểu tự của con gái út của ta. Hãy truyền gọi Cúc Hoa ra chào quân tử". Giây lát tiếng vòng ngọc khua vang, hương thơm sực nức, Cúc Hoa ra tới, tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo tuyệt thế. Vương sai nàng lên lạy chào sinh, nói "Đây là tiểu nữ Cúc Hoa". Cúc Hoa chào xong trở vào.
Sinh thấy nàng tâm thần rúng động, ngồi thừ ra tơ tưởng, vương nâng chén mời cũng như không thấy. Lão Thái quân biết ý, nói:
-"Con gái ta cũng có thể sánh đôi với tiên sinh nhưng tự thẹn không cùng loài thì làm thế nào?"
Sinh vẫn còn ngơ ngẩn cũng không nghe thấy, người bên cạnh đạp nhẹ vào chân. Sinh bừng tỉnh, đứng lên nói:
-"Tiểu sinh xin cắn cỏ ngậm vành đội ân sâu. Lấy được mỹ nhân lá ngọc cành vàng thì dù khác loài vẫn trân quý và thỏa nguyện.
Nói xong, sinh bèn lạy tạ. Thái lão quân bèn sai Tổng quản và nội nhân soạn sửa giăng đèn, kết tụ, bày đại yến.Tiệc tan, thể nữ bước lên nói "công nương đã trang điểm xong”, liền thấy mấy mươi thể nữ đỡ công nương ra, che mặt bằng khăn gấm đỏ, nhẹ nhàng yểu điệu bước lên nệm lông chiên làm lễ giao bái với sinh. Kế đưa hai vợ chồng về phòng riêng, lúc động phòng nàng rất nhu thuận. Sinh nói:- "Có nàng trước mắt thật vui mừng quên chết, nhưng e cuộc gặp gỡ hôm nay chỉ là giấc mộng thôi". Công chúa bịt miệng sinh nói "Rõ ràng là thiếp với chàng đang ở đây, sao lại là mộng!”
Sau đêm động phòng, lão thái quân cho xe ngựa đưa hai vợ chồng sinh trở về nhà. Từ đó hai vợ chồng sống rất vui vẻ. Nhờ lão thái quân tặng một số vàng bạc, châu báu, nên công nương xây nhà cửa, mua ruộng vườn, thuê gia nhân, sinh hoạt chẳng khác gia đình quyền quý. Cúc Hoa lo việc nội trợ rất tài giỏi, quản lý gia nhân rất nghiêm nhặt.
Sau khi cưới vợ, Bùi sinh vẫn tiếp tục việc học. Mùa thu thi Hương, chàng lại thi rớt, lòng phiền muộn khôn nguôi. Công nương bèn bảo sinh đưa văn bài của chàng cho nàng xem. Nàng đọc xong, không khen ngợi lắm, nói:
- “Văn chương của chàng thi khảo khóa thì đỗ đầu có thừa, mà vào trường thi thì đội bảng cũng không thiếu”. Sinh nói:- "Vậy thì nàng bảo ta làm thế nào?"
Nàng đáp: - “Chuyện này không khó. Phật dạy xã kỷ vong ngã, trừ ngã chấp. Muốn thi đỗ thì chàng phải bỏ cái cá nhân của chàng mà phải theo luật lệ của người đời, quy tắc của trường thi. Văn chương của chàng là văn chương vượt không gian và thời gian nhưng lại sụp trong vũng lầy của thế tục. Một là chàng cứ theo cái bản ngã của chàng, uống ruợu ngâm thơ, vui cùng vợ con, cùng cảnh vật thiên nhiên, đừng tưởng tới khoa danh và hoạn lộ. Hai là chàng phải theo trường quy và thời thượng. Chàng hãy xem đây là những văn bài khuôn sáo nhưng là văn bài của tiến sĩ, cử nhân. Hai đường xuất xử chàng hãy chọn một.
Mùa thu năm ấy, sinh thi hương lại rớt, sầu muộn bất đắc chí, chợt nhớ lời vợ nói, bèn tìm những bài văn khuôn mẫu trong học đường miễn cưỡng đọc. Chưa hết bài thì buồn ngủ díp mắt, trong lòng ngờ vực không rõ là vì sao. Cứ như vậy, ba năm, trôi qua, sắp đến kỳ thi, công nương dọn ra bảy đề bài mình nghĩ ra bảo sinh làm. Qua hôm sau đòi xem, cho là không được, bảo làm lại, làm xong lại chê. Sinh đùa, bèn xào xáo những câu văn sáo rỗng không ai nghe được trong các bài thi rớt ghép lại thành bài, chờ nàng tới đưa cho xem. Nàng mừng nói :-“Thế này thì được rồi!", rổi bảo phải học thuộc lòng, dặn đi dặn lại bảo đừng có quên.
Gần ngày thi, công nương vẽ một đạo bùa rồi đốt, bắt sinh uống. Đến khi vào trường thi thì bảy đề bài đều đúng như đề bài mà công nương đã soạn sẵn. Tất cả sách thánh hiền, những thi hứng cũ không còn nữa, chỉ nhớ vanh vách các bài đã làm tập với công nương. Không bao lâu ra bảng, quả sinh đỗ đầu. Lại lấy bản thảo cũ ra xem, đọc tới đâu toát mồ hôi tới đó, đọc xong thì áo ướt đẫm, tự nhủ "Văn chương này mà truyền ra thì làm sao dám gặp kẻ sĩ trong thiên hạ nữa?"
Công nương bảo:- Chàng là bậc đạt nhân, quân tử không tham danh nhưng muốn đem tài ra giúp nước thì phải chứng tỏ cho nhân thế biết là mình có tài. Cái gần nhất mà kẻ sĩ phải làm là thi đỗ. Có thi đỗ thì mới có cơ hội đem tài ra kinh bang tế thế. Thi đỗ rồi, chàng phải lo việc giúp dân, cứu nước, bỏ đi việc văn bài hay dở. Chàng đừng mặc cảm. Trong triều bây giờ tiến sĩ, thạc sĩ cả đống không biết chữ nhất là một. Có ai lấy việc học kém mà buồn khổ đâu?
Sau khi sinh đỗ tiến sĩ, trong triều Trương thái sư nắm quyền. Trương thái sư coi khinh ấu chúa , đè nén ấu chúa. Trương cho bà con em út nắm quyền khắp nơi. Ông và thủ hạ đua nhau đục khoét cướp bóc công khai. Sinh thi đỗ tiến sĩ nhưng không chịu đút lót và luồn cúi cho nên bọn họ đẩy ra làm Đốc học là ngành giáo, một ngành đói rách, không quyền không lợi. Quan bèn làm thơ, làm văn chỉ trích Trương thái sư là độc tài, chuyên chế, tham nhũng, phản quốc, hại dân.
Công nương than khóc mà nói:
-Tai họa sắp đến rồi! Lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì gãy! Chàng thủ khẩu như bình và không nên chỉ trích họ nữa. Người ta bày ra trò nói thật, nói hết và phê bình nhưng sự thực họ chỉ thích nịnh hót, giả dối, ai thành thật, cương trực là bị bỏ tù và giết hại. Xin chàng nghe lời thiếp, bỏ thơ rượu và hội họp bằng hữu đi.
Quan cười mà bảo:
Trời đất sinh ta rượu với thơ,
Không thơ, không ruợu sống như thừa!
Văn thơ và lời nói của chàng được an ninh trình Trương thái sư. Ngài tức giận, cho quan Hình bộ bắt giam, kết án quan phản động, chống triều đình, tay sai ngoại bang, và bị xử tù chung thân.
Công nương vào tù thăm quan Đốc học, nói rằng quốc vận suy biến nhưng không lâu sẽ có thay đổi, rồi quan cũng được tự do. Bà khuyên quan nên ẩn nhẫn chờ đợi.
Vài năm sau, một đảng cướp núi nổi lên chiếm thành trì, giương cờ nhân nghĩa, treo khẩu hiệu "Thế thiên hành đạo"(3) và tuyên bố "lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo". Dân chúng tin tưởng, về theo rất đông. It lâu, quân khởi nghĩa cướp phá kinh đô, giết Trương Thái sư, phò ấu chúa lên ngôi, sau họ giết ấu chúa, tự xưng vương.
Quan nghè được tân triều trả tự do. Muốn lấy lòng dân chúng và sĩ phu, họ đưa quan ra làm chức Ngự sử, cũng là một chức vị rách rưới nhưng đầy hiểm nguy. Sống vài năm với tân triều, quan cũng chán nản . Quân khởi nghĩa mượn danh bình đẳng xã hội mà cướp của giết người, lấy nghĩa trung quân mà thực tế là giết chúa, mang danh đạo đức mà anh cướp vợ em, chú cướp đất đất đai, lâu đài của cháu và giết cháu. Quan dâng thập điều chỉ trích vua quan và nhất là các đô đốc. Ngài uống rưọu, làm thơ, ở chỗ đông người lên tiếng chỉ trích chế độ. Vua bèn ra lệnh Cấm vệ bắt quan giam vào ngục.
Trước khi quan quân vây bắt, quan nghè bày tỏ với vợ muốn vào núi ẩn dật. và tu hành. Công nương bèn đưa quan vào Ngũ Hành sơn, tìm tới một tòa động phủ, bên trong như một cõi trời đất riêng biệt. Thấy có một ông già ngồi trong sảnh đường, công nương dẫn quan vào ra mắt, gọi là thầy.
Ông già hỏi:- “Sao con về núi sớm thế?".
Công nương thưa: -" Chồng con chán nhân thế, muốn lánh xa trần tục và dốc lòng tu đạo, xin thầy thu nạp".
Ông già nói với quan:- “Ngươi đã tới đây, thì phải cương quyết dứt trần tục, hôm sớm chăm tu tập thì mới đắc đạo được". Quan dạ dạ vâng lời. Từ đó hai vợ chồng sống trong động phủ, tu luyện thành tiên. Những khi nhìn về quá khứ, quan than thở:
-Lòng người hiểm độc, tham tàn, it kẻ thiện tâm! Người đời thường cho beo, cọp, rắn, rết, yêu hồ là tàn độc nhưng thử mấy ai dám vỗ ngực xưng là thánh thiện hơn những loài này?
Sinh vội quỳ làm lễ ra mắt. Thái lão quân ngồi trên điện, thấy sinh thì bước xuống thềm đón theo lễ chủ khách. Làm lễ tương kiến xong thì vào tiệc. Trong bàn tiệc có khoảng hai mươi khách, món ngon vật lạ bày lên la liệt. Sinh bối rối không biết nói gì. Thái lão quân nói:
-Ta là láng giềng của tiên sinh, nghe tiếng tiên sinh là người chánh trực, ta đây rất ái mộ, xin tiên sinh cứ tự nhiên đừng ái ngại".
Sinh bèn vâng dạ tuân lệnh. Rượu được vài tuần, dưới thềm sênh ca trỗi lên, có chiêng trống hòa điệu nhưng âm thanh rất nhỏ.
Một lát, Thái lão quân nói với các quan khách:
-Ta có một câu đối: Hằng Nga đăng nguyệt điện ( Hằng Nga lên cung trăng)". Cả tiệc còn đang suy nghĩ, sinh đối ngay “Ngũ Liễu ái cúc hoa" (2) . Lão thái quân cười mà nói:
-Sao lại ngẫu nhiên trùng hợp thế nhỉ? Phải chăng duyên trời dun dủi? Cúc Hoa là tiểu tự của con gái út của ta. Hãy truyền gọi Cúc Hoa ra chào quân tử". Giây lát tiếng vòng ngọc khua vang, hương thơm sực nức, Cúc Hoa ra tới, tuổi khoảng mười sáu mười bảy, dung mạo tuyệt thế. Vương sai nàng lên lạy chào sinh, nói "Đây là tiểu nữ Cúc Hoa". Cúc Hoa chào xong trở vào.
Sinh thấy nàng tâm thần rúng động, ngồi thừ ra tơ tưởng, vương nâng chén mời cũng như không thấy. Lão Thái quân biết ý, nói:
-"Con gái ta cũng có thể sánh đôi với tiên sinh nhưng tự thẹn không cùng loài thì làm thế nào?"
Sinh vẫn còn ngơ ngẩn cũng không nghe thấy, người bên cạnh đạp nhẹ vào chân. Sinh bừng tỉnh, đứng lên nói:
-"Tiểu sinh xin cắn cỏ ngậm vành đội ân sâu. Lấy được mỹ nhân lá ngọc cành vàng thì dù khác loài vẫn trân quý và thỏa nguyện.
Nói xong, sinh bèn lạy tạ. Thái lão quân bèn sai Tổng quản và nội nhân soạn sửa giăng đèn, kết tụ, bày đại yến.Tiệc tan, thể nữ bước lên nói "công nương đã trang điểm xong”, liền thấy mấy mươi thể nữ đỡ công nương ra, che mặt bằng khăn gấm đỏ, nhẹ nhàng yểu điệu bước lên nệm lông chiên làm lễ giao bái với sinh. Kế đưa hai vợ chồng về phòng riêng, lúc động phòng nàng rất nhu thuận. Sinh nói:- "Có nàng trước mắt thật vui mừng quên chết, nhưng e cuộc gặp gỡ hôm nay chỉ là giấc mộng thôi". Công chúa bịt miệng sinh nói "Rõ ràng là thiếp với chàng đang ở đây, sao lại là mộng!”
Sau đêm động phòng, lão thái quân cho xe ngựa đưa hai vợ chồng sinh trở về nhà. Từ đó hai vợ chồng sống rất vui vẻ. Nhờ lão thái quân tặng một số vàng bạc, châu báu, nên công nương xây nhà cửa, mua ruộng vườn, thuê gia nhân, sinh hoạt chẳng khác gia đình quyền quý. Cúc Hoa lo việc nội trợ rất tài giỏi, quản lý gia nhân rất nghiêm nhặt.
Sau khi cưới vợ, Bùi sinh vẫn tiếp tục việc học. Mùa thu thi Hương, chàng lại thi rớt, lòng phiền muộn khôn nguôi. Công nương bèn bảo sinh đưa văn bài của chàng cho nàng xem. Nàng đọc xong, không khen ngợi lắm, nói:
- “Văn chương của chàng thi khảo khóa thì đỗ đầu có thừa, mà vào trường thi thì đội bảng cũng không thiếu”. Sinh nói:- "Vậy thì nàng bảo ta làm thế nào?"
Nàng đáp: - “Chuyện này không khó. Phật dạy xã kỷ vong ngã, trừ ngã chấp. Muốn thi đỗ thì chàng phải bỏ cái cá nhân của chàng mà phải theo luật lệ của người đời, quy tắc của trường thi. Văn chương của chàng là văn chương vượt không gian và thời gian nhưng lại sụp trong vũng lầy của thế tục. Một là chàng cứ theo cái bản ngã của chàng, uống ruợu ngâm thơ, vui cùng vợ con, cùng cảnh vật thiên nhiên, đừng tưởng tới khoa danh và hoạn lộ. Hai là chàng phải theo trường quy và thời thượng. Chàng hãy xem đây là những văn bài khuôn sáo nhưng là văn bài của tiến sĩ, cử nhân. Hai đường xuất xử chàng hãy chọn một.
Mùa thu năm ấy, sinh thi hương lại rớt, sầu muộn bất đắc chí, chợt nhớ lời vợ nói, bèn tìm những bài văn khuôn mẫu trong học đường miễn cưỡng đọc. Chưa hết bài thì buồn ngủ díp mắt, trong lòng ngờ vực không rõ là vì sao. Cứ như vậy, ba năm, trôi qua, sắp đến kỳ thi, công nương dọn ra bảy đề bài mình nghĩ ra bảo sinh làm. Qua hôm sau đòi xem, cho là không được, bảo làm lại, làm xong lại chê. Sinh đùa, bèn xào xáo những câu văn sáo rỗng không ai nghe được trong các bài thi rớt ghép lại thành bài, chờ nàng tới đưa cho xem. Nàng mừng nói :-“Thế này thì được rồi!", rổi bảo phải học thuộc lòng, dặn đi dặn lại bảo đừng có quên.
Gần ngày thi, công nương vẽ một đạo bùa rồi đốt, bắt sinh uống. Đến khi vào trường thi thì bảy đề bài đều đúng như đề bài mà công nương đã soạn sẵn. Tất cả sách thánh hiền, những thi hứng cũ không còn nữa, chỉ nhớ vanh vách các bài đã làm tập với công nương. Không bao lâu ra bảng, quả sinh đỗ đầu. Lại lấy bản thảo cũ ra xem, đọc tới đâu toát mồ hôi tới đó, đọc xong thì áo ướt đẫm, tự nhủ "Văn chương này mà truyền ra thì làm sao dám gặp kẻ sĩ trong thiên hạ nữa?"
Công nương bảo:- Chàng là bậc đạt nhân, quân tử không tham danh nhưng muốn đem tài ra giúp nước thì phải chứng tỏ cho nhân thế biết là mình có tài. Cái gần nhất mà kẻ sĩ phải làm là thi đỗ. Có thi đỗ thì mới có cơ hội đem tài ra kinh bang tế thế. Thi đỗ rồi, chàng phải lo việc giúp dân, cứu nước, bỏ đi việc văn bài hay dở. Chàng đừng mặc cảm. Trong triều bây giờ tiến sĩ, thạc sĩ cả đống không biết chữ nhất là một. Có ai lấy việc học kém mà buồn khổ đâu?
Sau khi sinh đỗ tiến sĩ, trong triều Trương thái sư nắm quyền. Trương thái sư coi khinh ấu chúa , đè nén ấu chúa. Trương cho bà con em út nắm quyền khắp nơi. Ông và thủ hạ đua nhau đục khoét cướp bóc công khai. Sinh thi đỗ tiến sĩ nhưng không chịu đút lót và luồn cúi cho nên bọn họ đẩy ra làm Đốc học là ngành giáo, một ngành đói rách, không quyền không lợi. Quan bèn làm thơ, làm văn chỉ trích Trương thái sư là độc tài, chuyên chế, tham nhũng, phản quốc, hại dân.
Công nương than khóc mà nói:
-Tai họa sắp đến rồi! Lưỡi mềm thì còn, răng cứng thì gãy! Chàng thủ khẩu như bình và không nên chỉ trích họ nữa. Người ta bày ra trò nói thật, nói hết và phê bình nhưng sự thực họ chỉ thích nịnh hót, giả dối, ai thành thật, cương trực là bị bỏ tù và giết hại. Xin chàng nghe lời thiếp, bỏ thơ rượu và hội họp bằng hữu đi.
Quan cười mà bảo:
Trời đất sinh ta rượu với thơ,
Không thơ, không ruợu sống như thừa!
Văn thơ và lời nói của chàng được an ninh trình Trương thái sư. Ngài tức giận, cho quan Hình bộ bắt giam, kết án quan phản động, chống triều đình, tay sai ngoại bang, và bị xử tù chung thân.
Công nương vào tù thăm quan Đốc học, nói rằng quốc vận suy biến nhưng không lâu sẽ có thay đổi, rồi quan cũng được tự do. Bà khuyên quan nên ẩn nhẫn chờ đợi.
Vài năm sau, một đảng cướp núi nổi lên chiếm thành trì, giương cờ nhân nghĩa, treo khẩu hiệu "Thế thiên hành đạo"(3) và tuyên bố "lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo". Dân chúng tin tưởng, về theo rất đông. It lâu, quân khởi nghĩa cướp phá kinh đô, giết Trương Thái sư, phò ấu chúa lên ngôi, sau họ giết ấu chúa, tự xưng vương.
Quan nghè được tân triều trả tự do. Muốn lấy lòng dân chúng và sĩ phu, họ đưa quan ra làm chức Ngự sử, cũng là một chức vị rách rưới nhưng đầy hiểm nguy. Sống vài năm với tân triều, quan cũng chán nản . Quân khởi nghĩa mượn danh bình đẳng xã hội mà cướp của giết người, lấy nghĩa trung quân mà thực tế là giết chúa, mang danh đạo đức mà anh cướp vợ em, chú cướp đất đất đai, lâu đài của cháu và giết cháu. Quan dâng thập điều chỉ trích vua quan và nhất là các đô đốc. Ngài uống rưọu, làm thơ, ở chỗ đông người lên tiếng chỉ trích chế độ. Vua bèn ra lệnh Cấm vệ bắt quan giam vào ngục.
Trước khi quan quân vây bắt, quan nghè bày tỏ với vợ muốn vào núi ẩn dật. và tu hành. Công nương bèn đưa quan vào Ngũ Hành sơn, tìm tới một tòa động phủ, bên trong như một cõi trời đất riêng biệt. Thấy có một ông già ngồi trong sảnh đường, công nương dẫn quan vào ra mắt, gọi là thầy.
Ông già hỏi:- “Sao con về núi sớm thế?".
Công nương thưa: -" Chồng con chán nhân thế, muốn lánh xa trần tục và dốc lòng tu đạo, xin thầy thu nạp".
Ông già nói với quan:- “Ngươi đã tới đây, thì phải cương quyết dứt trần tục, hôm sớm chăm tu tập thì mới đắc đạo được". Quan dạ dạ vâng lời. Từ đó hai vợ chồng sống trong động phủ, tu luyện thành tiên. Những khi nhìn về quá khứ, quan than thở:
-Lòng người hiểm độc, tham tàn, it kẻ thiện tâm! Người đời thường cho beo, cọp, rắn, rết, yêu hồ là tàn độc nhưng thử mấy ai dám vỗ ngực xưng là thánh thiện hơn những loài này?
_
(2).Đào Tiềm 365 - 427), hiệu Uyên Minh (淵明), tự Nguyên Lượng (元亮) biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh, người đất Tầm Dương, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, là một trong những nhà thơ lớn của Trung Quốc vào đời Tấn, rất thích hoa cúc, thường ca tụng thú ẩn dật.
(3). Thế thiên hành đạo: Thay trời thi hành công đạo.
90. DIÊM VƯƠNG XỬ ÁN
Cao tú tài ở Bình Dương là người đạo cao đức trọng. Sau khi thi đỗ tú
tài mà nhiều phen không lấy được cử nhân, ông tú biết phúc đức nhà
mình chỉ có vậy, bèn mở trường dạy học, chuyên tâm dạy trẻ và hành
thiện. Cao tú tài cũng chuyên ngồi thiền, đọc kinh điển. Đạo hữu có ai
thắc mắc về nghĩa kinh, ông đều giải đáp thông suốt.
Ít lâu sau, ông đắc pháp nhiệm màu. Ông bảo rằng ông được Quan Âm bồ tát cử làm Phán quan tạm thời ở điện Diêm vương. Mỗi khi có công vụ, phải đi công tác, ông dặn vợ con để ông nằm yên trong phòng vắng, đừng động đậy đến thân xác ông. Đừng lo lắng, vài ba bữa thì ông sẽ tỉnh dậy.
Quả vậy, ông xuống cõi âm nhiều phen nhưng khi trở lại dương thế, ông kín tiếng, không hề hở môi kể chuyện âm cung.
Ít lâu sau, ông đắc pháp nhiệm màu. Ông bảo rằng ông được Quan Âm bồ tát cử làm Phán quan tạm thời ở điện Diêm vương. Mỗi khi có công vụ, phải đi công tác, ông dặn vợ con để ông nằm yên trong phòng vắng, đừng động đậy đến thân xác ông. Đừng lo lắng, vài ba bữa thì ông sẽ tỉnh dậy.
Quả vậy, ông xuống cõi âm nhiều phen nhưng khi trở lại dương thế, ông kín tiếng, không hề hở môi kể chuyện âm cung.
Ở
Đồng Nai có cử nhân Lê Văn Quan làm tri huyện. Một hôm, ông bị đòi
đến âm cung. Nguyên khoa mậu thân tại trường thi Gia Định có sĩ tử
tên Lục Tử Hà bị đánh rớt uất ức mà chết, cầm quyển thi tới âm ty
kiện. Đơn kiện vừa đưa lên, những sĩ tử thi rớt mà chết kéo tới hàng
vạn người, tôn họ Lục đứng đầu, và gây loạn ở chốn âm ty. Diêm vương
sai quỷ sứ đi bắt những giám khảo trong kỳ thi này.
Quỷ sứ bắt Lê tri huyện xuống âm ty đối chất. Diêm Vương hỏi Lê tri huyện chấm thi tại sao lại đánh rớt người tài giỏi mà lấy đỗ kẻ tầm thường. Lê tri huyện quỳ trước điện Diêm vương phân trần rằng ở trên còn có quan Thái sư Chánh chủ khảo, Thượng thư tiến sĩ Phó phủ khảo, và năm Hàn lâm viện Đại học sĩ giám khảo, tri huyện chẳng qua chỉ là kẻ đứng ngoài dòm vào, lo trầu cau, thuốc lào cho các quan mà thôi, chứ không có trách nhiệm về thi hỏng của các sĩ tử! Diêm Vương lập tức phát lệnh bài sai đi bắt các viên giám khảo . Họ đến trước Sum La điện, quỳ xuống nghe Diêm vương thuật lại lời Lê Tri huyện, họ đều nói họ chẳng qua chỉ là người xem lại lần cuối. Còn trước họ có các viên sơ khảo chấm rồi. Các viên tiến sĩ, cử nhân sơ khảo cũng khai rằng họ chỉ chấm thi, còn kết quả là do "Ban Tổ chức " quyết định. Diêm vương hỏi "Ban tổ chức" là ai thì các quan im lặng, tái mặt nhìn nhau.
Một viên sơ khảo nói:- Chúng thần nghe quan Chánh chủ khảo nói chung cuộc là do ban tổ chức định đoạt thì nói theo chứ không biết là ai.
Diêm Vương nói :
- “Không được đổ lỗi cho nhau như thế, các ngươi đều không làm tròn phận sự như nhau thôi". Diêm vương ra lệnh tha bổng các quan, riêng phạt Lê tri huyện phải đầu thai làm chó.
Quỷ sứ bắt Lê tri huyện xuống âm ty đối chất. Diêm Vương hỏi Lê tri huyện chấm thi tại sao lại đánh rớt người tài giỏi mà lấy đỗ kẻ tầm thường. Lê tri huyện quỳ trước điện Diêm vương phân trần rằng ở trên còn có quan Thái sư Chánh chủ khảo, Thượng thư tiến sĩ Phó phủ khảo, và năm Hàn lâm viện Đại học sĩ giám khảo, tri huyện chẳng qua chỉ là kẻ đứng ngoài dòm vào, lo trầu cau, thuốc lào cho các quan mà thôi, chứ không có trách nhiệm về thi hỏng của các sĩ tử! Diêm Vương lập tức phát lệnh bài sai đi bắt các viên giám khảo . Họ đến trước Sum La điện, quỳ xuống nghe Diêm vương thuật lại lời Lê Tri huyện, họ đều nói họ chẳng qua chỉ là người xem lại lần cuối. Còn trước họ có các viên sơ khảo chấm rồi. Các viên tiến sĩ, cử nhân sơ khảo cũng khai rằng họ chỉ chấm thi, còn kết quả là do "Ban Tổ chức " quyết định. Diêm vương hỏi "Ban tổ chức" là ai thì các quan im lặng, tái mặt nhìn nhau.
Một viên sơ khảo nói:- Chúng thần nghe quan Chánh chủ khảo nói chung cuộc là do ban tổ chức định đoạt thì nói theo chứ không biết là ai.
Diêm Vương nói :
- “Không được đổ lỗi cho nhau như thế, các ngươi đều không làm tròn phận sự như nhau thôi". Diêm vương ra lệnh tha bổng các quan, riêng phạt Lê tri huyện phải đầu thai làm chó.
Lục
Tử Hà tức giận lớn, lớn tiếng chỉ trích Diêm vương tham ô, bè phái.
Đám ma đứng dưới thềm cũng hô đả đảo bất công! Lục nói trừng phạt
như vậy quá nhẹ, phải khoét cả hai mắt để trị tội không biết đọc
văn. Diêm Vương không chịu, đám ma càng la hét tợn, Diêm Vương nói
:- Tạm thời ta xử như thế .Các ngươi hãy chờ đợi quyết định của Thiên
Đình. Nghe nói vậy, họ liền lui ra.
Tại Hà Tĩnh có Văn Đình Mỹ, Thị Lang Công bộ hưu trí, một hôm nằm ngủ thấy Quỷ sứ mang lệnh bài bắt. Đến điện Sum La, quan mới biết vì xây chùa Từ Bi cẩu thả, làm chùa sập làm chết ba ông sư và hai mươi tín đồ trong ngày Phật đản tại Phú Xuân. Sư và Phật tử chết oan liền đầu đơn kiện ở Diêm vương.
Diêm vương tra hỏi quan:
-Tại sao chùa mới xây mà sập? Hoàng thượng giao cho ngươi năm vạn lạng vàng để lo việc xây chùa, ngươi có lo toan đầy đủ hay xén bớt, làm cẩu thả mà gây ra thiệt mạng người?
Quan Thị lang kêu rằng quan vô tội. Quan phụ trách trông coi xây cất, vàng bạc là do quan Thượng Thư bộ Công nhận chứ quan không xơ múi gì cả. Việc xây cất cũng do thợ chứ không do tay quan làm.
Diêm
vương bèn sai quỷ sứ đòi quan Thượng Thư Công bộ và bắt kê khai về
việc sử dụng năm vạn lượng vàng. Thượng thư Công bộ nhìn nhận rằng
quan đã nhận năm vạn lượng vàng nhưng lại có mật lệnh của Hoàng hậu
phải bớt hai vạn lạng trao cho Hoàng hậu để cứu tế dân nghèo theo luân
lý thực tiễn truyền thống:
"Dù xây chín đợt phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người!"
"Dù xây chín đợt phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người!"
Diêm
vương tra sổ sách và điều tra thì đúng như vậy nên quan Thị Lang
được tha. Diêm vương xử viên coi kho công bộ về tội đã giao những vật
liệu xây cất không bảo đảm, giam vào hỏa ngục nhưng sau đó theo lệnh
của Thiên Đình, viên quan coi kho này được giải về Thiên Đình chờ lệnh
sau đó nghe nói anh ta được phóng thích.
Khi về Phú Xuân, quan thuật chuyện âm ty, ông kể rằng xuống dưới đó ông thấy có thấy một người An Nam tên là Cao tú tài cũng ngồi trong đám phán quan nhưng ông chỉ ngồi ngủ gục mà thôi!
Khi về Phú Xuân, quan thuật chuyện âm ty, ông kể rằng xuống dưới đó ông thấy có thấy một người An Nam tên là Cao tú tài cũng ngồi trong đám phán quan nhưng ông chỉ ngồi ngủ gục mà thôi!
Lúc
bấy giờ khắp nơi dân chúng bị cướp nhà, cướp đất. Đồng thời triều
đình bán lãnh thổ , biên cương cho ngoại bang. Dân chúng nổi lên chống
đối, kẻ vì miếng đất, cái nhà của mình, người vì giang sơn, tổ quốc
mà lên tiếng. Tất cả bị đánh đập và bị bắn giết. Một vài kẻ uất hận
xuống Diêm đình kiện cáo.
Diêm vương nhận đơn họ mà hỏi:
-Các nguơi ở xứ nào?
Họ đồng thanh thưa:
-Chúng con ở xứ Đại Đồng.Diêm vương nhận đơn họ mà hỏi:
-Các nguơi ở xứ nào?
Họ đồng thanh thưa:
Diêm vương cười mà nói:
-Ở xứ Đại Đồng thì làm gì có quyền tư hữu! Ruộng vườn, nhà cửa các nguơi bị cướp là chắc chắn rồi. Ta nghe xứ Đại Đồng có độc lập, tự do, hạnh phúc, và các ngươi đã nhiệt liệt hoan hô Hồ Đại vương vạn tuế. Tiếng hô vang dậy, ta đây cũng nghe, sao các ngươi lại đến đây kể khổ?
Họ đồng thanh nói:-Chúng con bị bọn Hồ ly lừa dối và khủng bố. Nay xin Đại vương ra tay cứu oan, giải nạn!
Diêm vương bảo:-Chuyện này lớn lắm, các nguơi về đi, ta sẽ tâu trình Thượng Đế!
Sau
khi được các văn kiện do Diêm vương gửi lên, Ngọc Hoàng thượng Đế bèn
sai các sứ giả đi điều tra. Một mặt, Ngài lập một ủy ban điều tra đặc
biệt gồm Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái thượng Lão quân, Quan Âm Bồ Tát,
Vương Mẫu, Chu An, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ban Điều tra kết luận những vụ
án quan trọng đều do họ Hồ gây ra.
Chu An bèn đứng lên tâu thêm:
Chu An bèn đứng lên tâu thêm:
Muôn tâu Ngọc Hoàng,
Thần xin được nói,
Bởi vì chính Ngài.
Gây ra nên nỗi.
Đã đem dân lành
Giao lũ Cáo đói!
Chúng hô tự do,
Lại cấm dân nói.
Chúng hứa ấm no,
Mà dân luôn đói!
Chúng bảo Đại Đồng
Mà bán bờ cõi!
Nói xóa bất công,
Mà dân làm mọi!
Muôn điều tội lỗi,
Ấy bởi Thiên ĐìnhBất lực, bất minh
Ngu si, tăm tối,
Và tại Diêm vương
Làm càn, nói dốiKinh xin Ngọc Hoàng
Phải nên thay đổi!
Ngọc Hoàng nghe xong, ôm đầu mà nói:
-Nhức đầu quá! Thôi thôi dẹp hết cả đi!
Từ đó trong dân gian có những từ ngữ mới xuất hiện như "ngâm tôm", "chìm xuồng". Và Cao tú tài cũng không còn phải xuống Diêm Đình xét án nữa!
No comments:
Post a Comment