NGUYỄN THIÊN THỤ
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
Tập IV
MỤC LỤC
61. NGÔI NHÀ VÀNG
62. CẢNH ĐẸP THIÊN ĐƯỜNG
63. ĐẠO SĨ Ở THẤT SƠN
64. PHÁP THUẬT CỦA HỒ LY
65. CẢ TIN VÀO SÁCH
66.GIA ĐÌNH HỒ LY
67.NHỮNG ĐẠO SĨ CÁO
68. LONG CUNG
69. GIÁM SINH ĂN TRỘM
70. LÝ TƯỞNG XÃ HỘI
MỤC LỤC
61. NGÔI NHÀ VÀNG
62. CẢNH ĐẸP THIÊN ĐƯỜNG
63. ĐẠO SĨ Ở THẤT SƠN
64. PHÁP THUẬT CỦA HỒ LY
65. CẢ TIN VÀO SÁCH
66.GIA ĐÌNH HỒ LY
67.NHỮNG ĐẠO SĨ CÁO
68. LONG CUNG
69. GIÁM SINH ĂN TRỘM
70. LÝ TƯỞNG XÃ HỘI
71. LA CHÂN NHÂN
61. NGÔI NHÀ VÀNG
Ở
Việt Trì, tại Ngã Ba Hạc có một cây đa rất lớn, mà bên dưới là hang
hốc chồn cáo. Nhiều đêm, bọn ma quỷ, bọn hồ tinh thường hội họp bàn
tán. Chúng bàn mọi việc trên trời dưới đất, trong xóm ngoài làng. Một
con Ma chê bọn Cáo:
-Bọn bây nghe nói pháp thuật tinh thông mà ở chỗ hang hốc thấp kém, hôi thối.
-Bọn bây nghe nói pháp thuật tinh thông mà ở chỗ hang hốc thấp kém, hôi thối.
Hồ
ly nói:- Đó là nét văn hóa đặc thù của loài Cáo chúng tôi. Dù có tài
thiên biến vạn hóa, chúng tôi vẫn giữ truyền thống cũ:
Ta về ta ở hang ta,
Dù to, dù nhỏ, hang nhà vẫn hơn!
Có một độ chúng ma nói chuyện với nhau về ngọc vàng. Một con nói:
-Tôi đã xuống Long vương thấy trong phòng Long vương chưng vô số ngọc, viên nào cũng to bằng quả trứng gà, đủ màu sắc.
Một Hồ Ly nói:
-Tôi thấy ở trong cung, hoàng hậu đội một cái vương miện bằng vàng to bằng cái rổ, xung quang đính những viên ngọc to bằng trái nhãn lồng!
Con ma khác nói:
-Ăn thua gì, bên Thái Lan có những ngôi chùa và tượng Phật bằng vàng thật.
Một con quỷ lên tiếng:
- Bên Thái Lan thì nói làm gì. Ở tại thôn Đoài, xứ Đoài có một cái nhà vàng .
Các ma tranh nhau hỏi:-Thật không?
-Thật chứ. Cái nhà toàn bằng vàng, ở trong có đủ thứ bửu vật. Ma thuật chuyện ấy cho nhau nghe, và bảo rằng cái nhà quý báu hiện có trên thế gian, ngay gần đây không xa.
Ta về ta ở hang ta,
Dù to, dù nhỏ, hang nhà vẫn hơn!
Có một độ chúng ma nói chuyện với nhau về ngọc vàng. Một con nói:
-Tôi đã xuống Long vương thấy trong phòng Long vương chưng vô số ngọc, viên nào cũng to bằng quả trứng gà, đủ màu sắc.
Một Hồ Ly nói:
-Tôi thấy ở trong cung, hoàng hậu đội một cái vương miện bằng vàng to bằng cái rổ, xung quang đính những viên ngọc to bằng trái nhãn lồng!
Con ma khác nói:
-Ăn thua gì, bên Thái Lan có những ngôi chùa và tượng Phật bằng vàng thật.
Một con quỷ lên tiếng:
- Bên Thái Lan thì nói làm gì. Ở tại thôn Đoài, xứ Đoài có một cái nhà vàng .
Các ma tranh nhau hỏi:-Thật không?
-Thật chứ. Cái nhà toàn bằng vàng, ở trong có đủ thứ bửu vật. Ma thuật chuyện ấy cho nhau nghe, và bảo rằng cái nhà quý báu hiện có trên thế gian, ngay gần đây không xa.
Câu chuyện lọt vào tai Thổ công. Ông nghĩ rằng ông là thổ công xứ này, đưọc thiên đình giao cho việc theo dõi tình hình địa phương. Dưới ông là các đội trưởng, toán trưởng , tổ trưởng và hàng trăm quan lại thượng thừa đủ chủng loại và cấp bậc gồm những thằng tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư, trung tướng, thiếu tướng, và hàng chục vạn nhân viên , cứ mỗi nhân viên coi mười nhà. Nhân dân chúng nó ăn gì, vợ chồng chúng nó chửi nhau ra sao, yêu nhau ra sao đều báo cáo đầy đủ về bộ An Ninh Thiên Đình. Thế mà một cái nhà vàng nằm chình ình trong khu vực của ông lại không ai báo cáo việc này. Nhân viên ông, thủ hạ ông toàn là những tay cốt cán, đã có thành tích phá tan hàng vạn cuộc nổi dậy và biểu tình chống đối. Chúng rất tích cực đến độ trước mắt quốc tế, chúng đánh đập nhân dân công khai, và trước tòa án, trước các phóng viên báo chí trong ngoài, chúng lấy tay bịt miệng người ta không cho nói. Danh từ " bịt miệng" không còn là nghĩa bóng mà là nghĩa đen rùng rợn, rõ rệt và man rợ! Chúng luôn trung thành với ông, với Thiên Đình, không lẽ chúng lo làm giàu mà quên nhiệm vụ? Không lẽ tất cả chúng nó đã chạy theo "diễn biến hòa bình" mà bỏ ngũ? Không lẽ kẻ thù tài ba ghê gớm có thể che thần nhãn của ông?
Việc to lớn như thế mà ông không biết, chứng tỏ ông và thủ hạ bất lực, sớm muộn sẽ bị thiên đình phát giác và trừng phạt. Lúc đó thì ông ăn cám, và về đuổi gà cho vợ cũng không xong!
Theo thói quen nghề nghiệp, ngay đêm ấy ông đến chơi đức Thành hoàng bổn cảnh để hỏi xem có tin tức về câu chuyện của ma nói xem thử hư thực như thế nào. Thành hoàng rất ngạc nhiên khi nghe ông bạn An Ninh kể chuyện. Ngài bảo:
- Ông còn không rõ, tôi thì đi đâu mà biết được. Tôi quanh năm nằm trong đình làng thôi thì làm sao biết việc ở làng khác, tỉnh khác!
Hai ông ngẩn người, bèn bảo nhau qua nhà Đông Trù Tư mạnh Táo quân, rồi cùng nhau đem việc lạ ấy hỏi Đông trù tư mệnh Táo quân. Đông trù nghe hai ông khách, lại tưởng chuyện Phong thần, cười và nói:
- Tôi chỉ công tác trong nhà chứ đâu công tác ngoài xã hội. Nếu có nhà vàng thì phải do cấp trên cao hơn theo dõi, chứ tôi chỉ công tác trong xó bếp nhân dân thôi! Nước ta nghèo, theo XHCN, làm gì có kiểu sang giàu như vua chúa đời xưa! Lạ quá. Xin các ông hãy kể nốt câu chuyện cho tôi nghe.
Thấy hai ông kia ngơ ngác, bấy giờ mới suy ra là chuyện thực. Đông trù thú thật rằng, chưa biết việc ấy bao giờ.
- Tôi tra xét việc thế gian, năm năm tâu lên Thượng đế, và nghe các đồng nghiệp trình tâu tình hình các nơi mà không thấy một việc lạ như thế. Vả lại ở thế gian, nếu có lâu đài vĩ đại, bất quá chỉ làm bằng đá bằng cây, chạm trổ đủ hình, đủ kiểu, hoặc vài nơi mạ vàng như bàn thờ hoặc câu đối chớ có nghe đâu nhà toàn bằng vàng như các ông bảo.
Thành hoàng nói:
-Vùng Sơn Tây thuộc Tản Viên linh thần. Ta nên lên Tản Viên hỏi thử.
Cả ba lên Tản Viên nhưng không được gặp vì Tản Viên sơn thần đi đự hội nghị ngoài biển đông với Long vương.
Táo quân nói:-Âu chúng ta nên hỏi Nam tào giữ sổ nhân gian xem sao.
Cùng nhau lên xe mây, để thiên ngưu kéo về thiên đình, thì bỗng gặp một nhà tu hành kỳ quái, không biết ở đâu lại hiện ra giữa không trung chặn đường.
Các thần đều hỏi:
- Ông là ai? Xin cho biết quý danh?
Người lạ đáp:
- Tôi là nhà tu Thích Đủ Thứ, sống trong một thế giới khác, nên các ngài không biết được. Nhưng về sau rồi các ngài có thể biết.
Các thần hỏi:
- Vậy ông chận đường chúng tôi có việc gì?
Nhà sư kỳ dị đáp:
- Tôi cũng vừa nghe các ngài bàn việc lên trên kia hỏi một vị thần khác giữ sổ thế gian, xem cái nhà vàng ở đâu. Tôi sợ các ngài đi xa nhọc nhằn mà sẽ không kết quả gì, vì chắc chắn trên kia, vị thần mà các ngài đến hỏi chuyện cũng không thấu rõ cái kỳ quan đó. Bọn họ chỉ lo kiếm vàng chứ không biết chuyện nhà vàng đâu. Các ông một là phải theo thủ tục đầu tiên, hai là phải có quyền thế, vây cánh và phải có giấy giới thiệu của cơ quan và của lệnh bài của Thiên Đình. Nếu không, chúng chỉ sang Nam Tào, Nam Tào lại chỉ về Bắc Đẩu, Bắc Đẩu lại chỉ sang Thái Thượng Lão Quân, Thái Thượng lão quân lại chỉ sang Vương Mẫu, Vương mẫu lại chỉ sang Đông Hải Long vương. Các ông chạy trăm năm cũng không có ai giải quyết vấn đề cho đâu!
Các thần nhìn nhau, rồi hỏi:
- Thế ông có cách gì cho chúng tôi biết không?
Nhà sư kỳ lạ gật đầu rồi dẫn các thần trở lại thế gian, về thôn Đoài, tỉnh Đoài. Đến đây thì trời rạng đông, các ma đã tản lạc theo đêm tối về phương khác. Người lạ rút trong tay áo ra một hạt ngọc trong như thuỷ tinh, hạt ngọc chiếu những tia sáng tinh anh. Rồi cho những tia sáng ấy rọi về phía xa, trỏ cho các thần xem. Các thần chăm chú
nhìn tức thì thấy cách đó ba dặm, trong một cảnh thật huyền ảo, cái nhà vàng rực rỡ xuất hiện giữa một vườn cây kỳ dị.
Các thần rú lên:
- Đích rồi! Hoàng kim ốc!
Vừa nói xong, hạt ngọc và người lạ bỗng dưng biến mất. Các thần nhìn nhau, rồi nhìn về chốn huyền ảo khi nãy, thì chỉ thấy ánh sáng ban mai nhuộm hồng rừng núi và đồng ruộng. Ở đấy rải rác một vài nóc nhà, và chính nơi cái nhà vàng vừa thấy, thì lại là một túp lều tranh nhỏ.
Lúc bấy giờ trong ngôi nhà tranh, một chàng thư sinh vừa buông sách xuống, định ngả lưng nằm nghỉ. Bỗng nhiên ngó lên mái nhà, thầy ba bóng người đang vạch mái tranh nhìn xuống. Một ông mặt đen như nhọ chão, một ông đội mũ vàng, một ông bịt khăn rằn che mặt. Cả ba ông bàn cãi nhau và trong giấc mộng, chàng nghe ba ông bảo:
-Sao lại thế nhĩ?
Chàng thở ra, thở vào đều đều, rồi an giấc.
Đông trù cằn nhằn Thổ công:
- Hắn ta chỉ là một anh học trò khó, nghèo xơ xác, mà lại bảo ở nhà vàng. Hoang đường quá! Mộng mị quá ! Các ông là nhà cách mạng lại đi tin những điều yêu hồ nhảm nhí! Nếu dân chúng và thiên đình biết được thì uy tín các ông không còn, mà lại có thể bị rút thẻ "Ưu tiên" và đuổi xuống hạ giới!
Thành hoàng cũng bực mình:
- Tôi bỏ qua hết ba cuộc lễ kỳ yên rồi còn gì. Mấy ông thần hoàng bạn tôi ở Hà Nội, Hà Đông, Nam Định mời tôi về ăn nhậu, chơi bời, có em út và ca sĩ khắp bốn bể năm châu về, có sòng bài, đủ thứ vui. Khi về còn được hàng chục phong bao dày cộm. Thế mà vì việc chẳng ra chi mà đành lỡ hẹn với các ông trên ấy. Thật đáng tiếc, mất cả chỉ lẫn chài! Chẳng cái dại nào bằng cái dại nào!
Thổ công vuốt râu cười hắt:
- Thôi các ông đừng trách móc nhau nặng lời. Ta thử xem trên đường có gặp thằng nhà sư quỷ quái kia không mà cho nó một trận nên thân!
Ba ông vừa đi vừa nhìn kỹ, quả nhiên thấy bên gốc cây vệ đường, nhà sư kỳ dị đang nằm ngủ.
Cả ba thần đánh thức nhà sư và quát lón:
-Ông là nhà sư sao lại nói dối hả?
Nhà sư cười:
-Các ông quyền cao chức trọng nhưng sức học lớp ba, lớp năm trường làng cho nên chẳng biết chữ nghĩa của thánh hiền. Tôi xin mời ông trở lại ngôi nhà vàng.
Ba vị thần linh theo nhà sư bước vào ngôi nhà tranh. Người học trò đang nằm ngủ. Nhà sư mở cửa cùng ba thần linh đi vào nhà . Vị sư chỉ hai câu đối treo trên tường nhà người học trò:
Ngã độc thư, ngô mao lư thị hoàng kim ốc,
Quân hành thiện, quân Phật tâm tức bích ngọc thành.
(Ta đọc sách, nhà tranh ta là nhà vàng,
Ông làm thiện, tâm Phật của ông ấy thành ngọc)
Ông sư lại mở bồ sách, lấy ra một quyển nhan đề là "Trạng Nguyên Thi" và chỉ cho ba thần xem thì thấy hàng chữ:
"An cư bất dụng giá cao đường. Thư trung tự hữu hoàng kim ốc.Thiện tâm mao ốc hóa lâu đài."
( Ở yên là đưọc, không cần làm nhà cao. Trong sách có nhà vàng. Có lòng thiện thì nhà tranh thành lâu đài.)
Sau cả ba lên thiên đình, trình tấu sự việc. Thượng Đế cười:
-"Chúng nó lý tưởng quá, lý tưởng quá thì khổ. Nhà tranh sao là nhà vàng, sách nói hoang đường. Ta đây sống trên trời nhưng rất thực tế. Ta tranh đấu là tranh đấu cho ta, cho chúng ta, cho địa vị, tiền bạc cho vật chất vì chúng ta theo Duy Vật chủ nghĩa mà! Nhà của ta đây mới là nhà vàng, cung điện của ta giá hàng tỷ mỹ kim, nơi nghỉ mát của ta giá hàng triệu mỹ kim, tối tân hơn vạn lần cái nhà vàng trong mộng của chúng nó! Nhưng thằng đó nghèo mà dám nói nhà nó là nhà vàng. Đó là tư tưởng duy tâm thần bí! Nói như thế là nó bảo nó giàu sang hơn ta, đó là hành động chống phá triều đình! Các khanh nên đem nó đi học tập Đại Học Trường Kỳ."
Các thần bèn lạy tạ mà lui ra!
62. CẢNH ĐẸP THIÊN ĐƯỜNG
Lư sinh quê ở Thuận Hóa, lấy vợ ở Hà Tiên. Sở dĩ sinh lấy vợ xa như vậy là vì ngày trước, Lư công được triều đình biệt phái vào Nam giúp việc cho Tổng trấn Gia Định thành.
Còn bố vợ là Đào công, quê Hà Tiên, đỗ cử nhân được bổ nhậm làm
quan tại Gia Định thành, Hai ông gặp nhau, rồi kết bạn uống rượu,
ngâm thơ. Hai gia đình trở nên thân thiết, bèn kết thành thông gia.
Hai vợ chồng lấy nhau đã năm năm, sinh được hai trai, hai gái. Sau hai
ông về hưu trí, Lư sinh theo cha về Thuận Hóa, còn bố vợ thì lui về
Hà Tiên.
Mười
năm sau, nghe tin nhạc phụ lâm trọng bệnh, sắp qua đời, Lư công tử
bèn đem vợ con theo đường biển mà về Hà Tiên. Một đêm, thuyền đậu
gần Tháp Chàm, công tử nằm ngủ thì thấy có một mỹ nhân áo tía bước
tới cúi chào xin cùng công tử vui chơi. Công tử nghĩ rằng nơi sông
hồ, núi non trùng điệp, làm gì mà có giai nhân. Chắc nàng là giống ma
Hời hoặc giống Hồ Ly nên không dám gần gũi. Hôm sau, lại có một nữ
nhân áo vàng đến, hỏi chàng có muốn đi ngao du không. Công tử nhận lời.
Chàng theo nàng áo vàng ra ngoài dạo cảnh. Nàng hỏi chàng có đi thăm chốn Thiên Đàng hay không. Công tử nghĩ Thiên Đàng chắc phải xa lắm. Chàng hỏi:
-Thiên Đàng ở đâu? Có xa không?
Nàng bảo Thiên Đàng gần đây thôi. Nàng nắm tay chàng đưa chàng bay lên không. Giây phút đến một vùng đất bao la, cung điện trùng trùng điệp điệp. Một bức tường cao rộng bao vây xung quanh Thiên Đàng. Muốn vào phải qua một cánh cỗng lớn, có lính canh gác. Nàng đưa Công tử đến cỗng, giao Công tử cho người mấy lính gác và nói nhỏ với họ điều gì đó. Một lát sau, bên trong có một mỹ nhân áo xanh chạy ra, chào đón chàng, và nói với người thiếu nữ áo vàng:
-Công tác của đồng chí đến đây là hoàn tất. Đồng chí nên trở về cơ quan.
Thiếu nữ áo vàng chào chàng và chàng cũng chào lại và ngõ lời cám ơn giai nhân.
-Thiên Đàng ở đâu? Có xa không?
Nàng bảo Thiên Đàng gần đây thôi. Nàng nắm tay chàng đưa chàng bay lên không. Giây phút đến một vùng đất bao la, cung điện trùng trùng điệp điệp. Một bức tường cao rộng bao vây xung quanh Thiên Đàng. Muốn vào phải qua một cánh cỗng lớn, có lính canh gác. Nàng đưa Công tử đến cỗng, giao Công tử cho người mấy lính gác và nói nhỏ với họ điều gì đó. Một lát sau, bên trong có một mỹ nhân áo xanh chạy ra, chào đón chàng, và nói với người thiếu nữ áo vàng:
-Công tác của đồng chí đến đây là hoàn tất. Đồng chí nên trở về cơ quan.
Thiếu nữ áo vàng chào chàng và chàng cũng chào lại và ngõ lời cám ơn giai nhân.
Thiếu
nữ áo xanh mời chàng vào một văn phòng khá rộng rãi, có bình hoa
hồng và vài loại hoa khác. Trên sàn nhà trải tấm thảm Ba Tư rất đẹp.
và trên tường treo tranh mỹ nữ theo nghệ thuật Trung Quốc đời xưa.
Trên án thư có lò hương trầm , mùi trầm bay thoang thoảng trong không
gian. Nàng hỏi chàng :-"Đại biểu" quê quán ở đâu? Đến đây du lịch
hay tính việc đầu tư? Đại biểu mang vào đây bao nhiêu vàng? Đại biểu
có mang châu báu gì không? Đại biểu có quen ai nơi đây không?
Chàng bảo rằng chàng chỉ đi du lịch theo đề nghị của thiếu nữ áo vàng hôm trước. Chàng không có ý định đầu tư. Chàng chẳng quen ai, chẳng có vàng bạc hay châu ngọc gì cả.
Chàng bảo rằng chàng chỉ đi du lịch theo đề nghị của thiếu nữ áo vàng hôm trước. Chàng không có ý định đầu tư. Chàng chẳng quen ai, chẳng có vàng bạc hay châu ngọc gì cả.
Nghe
xong, thiếu nữ đưa cho chàng giấy bút bảo khai lý lịch, trong đó
phải ghi rõ tam đại tổ tông. Chàng chỉ khai tên cha mẹ, nhưng không
biết tên ông nội và ông cố vì thân phụ chàng là một trẻ mồ côi, được
một phú ông đem về nuôi dạy. Giai nhân xem qua lý lịch, sắc diện có vẻ
giận dữ. Nàng hỏi tại sao lại giấu diếm lý lịch. Nàng gọi một nhân
viên đến và nói nhỏ với người này. Người này cúi đầu ra đi, một lát
trở lại, nói nhỏ với nàng. Nàng lấy lại sắc mặt bình thường, hỏi chàng
muốn đi đâu. Chàng trả lời là muốn đi xem cảnh Thiên Đường.
Nàng vui vẻ nói:-Trên thượng giới, nơi này thuộc Thiên Đường nhưng tên thật là Xứ" Cáo Lông Đỏ Mặt Trắng". Xứ này có ba nơi là Thượng Thiên Đàng, Trung Thiên Đàng và Hạ Thiên Đàng. Đại biểu muốn tham quan nơi nào?
-Chàng đáp muốn tham quan cả ba.
Nàng đáp:-Đại biểu chỉ có thể tham quan Trung Thiên Đàng và Thượng Thiên Đàng. còn Hạ Thiên Đàng nay đang sửa chữa và xây dựng cho to đẹp hơn mười lần xưa nên chưa cho du khách tham quan.
Chàng bằng lòng.
Thiếu
nữ áo xanh bèn ra hiệu cho hai nhân viên dẫn chàng đi. Họ dẫn chàng
vào Thượng Thiên Đàng. Quả thật nơi đây sang trọng hết sức, hơn cả
vua chúa xứ Ba Tư. hay Anh Quốc. Đi một hồi, hai nhân viên này kêu
mệt và khát. Chàng bèn bảo họ dừng chân, tìm nơi nghỉ ngơi, ăn uống.
Họ đưa chàng vào một tửu lâu to lớn. Chàng bảo họ cứ tự do ăn uống,
tốn bao nhiều, chàng sẽ trả. Hai nhân viên này kêu rượu thịt. Giây
lát, rưọu thịt được bưng ra, và lập tức có hơn mười thiếu nữ khác bu
xung quanh. Kẻ đấm lưng, người lấy khăn ướp lạnh, người đề nghị khui
rưọu này, người thì ân cần mở chai rượu khác, rất nhiệt tình. Có một
vài nàng ngồi trong lòng chàng và hai nhân viên kia. Tất cả đều vui
vẻ, trẻ trung, không bút mực nào tả xiết. Chàng ở lại với họ thâu
đêm. Hôm sau thì đi tham quan Trung Thiên Đường.
Vừa ra đầu đường là chàng thấy nhiều thanh thiếu niên tập võ, đấu kiếm rất ngoạn mục, chỗ nào cũng có những cô gái cầm hoa nhảy múa, cảnh tượng rất vui vẻ. Chàng đi một đoạn thì thấy hàng trăm thanh thiếu niên, ông già, bà cả cầm sách mài miệt đọc.
Chàng hiểu rằng xứ này là Thiên Đường nhưng rất có tổ chức như vua chúa ngày xưa. Thượng Thiên Đàng chính là nơi vua chúa ở, ngày xưa ở trần gian thì gọi là nội cung, nội thành hay cấm cung. Còn Trung Thiên Đường thì chia ra nhiều loại. Một là các cơ quan, bộ viện, nhà thương, trường học và hai là các công xưởng, các nhà hàng, các công ty. Nơi đây là nơi làm việc của các quan lại và nhân viên, nhân dân phải có giấy phép mới được vào. Nhà thương, trường học hay các cửa hàng nơi đây là để dành cho các quan lại. Chàng hỏi nhà tù ở đâu. Cả hai nhân viên rùng mình sợ hãi, đồng thanh bảo rằng đây là thiên đàng, không có nhà tù, chỉ có các trường đại học. Chàng lấy làm ngạc nhiên vì trong kinh thánh có nói đến Thượng Đế đã giam Sa Tăng, sao lại ở đây bảo rằng không. Không lẽ có nhiều thiên đàng, và thiên đàng nơi đây là tốt nhất?
Vừa ra đầu đường là chàng thấy nhiều thanh thiếu niên tập võ, đấu kiếm rất ngoạn mục, chỗ nào cũng có những cô gái cầm hoa nhảy múa, cảnh tượng rất vui vẻ. Chàng đi một đoạn thì thấy hàng trăm thanh thiếu niên, ông già, bà cả cầm sách mài miệt đọc.
Chàng hiểu rằng xứ này là Thiên Đường nhưng rất có tổ chức như vua chúa ngày xưa. Thượng Thiên Đàng chính là nơi vua chúa ở, ngày xưa ở trần gian thì gọi là nội cung, nội thành hay cấm cung. Còn Trung Thiên Đường thì chia ra nhiều loại. Một là các cơ quan, bộ viện, nhà thương, trường học và hai là các công xưởng, các nhà hàng, các công ty. Nơi đây là nơi làm việc của các quan lại và nhân viên, nhân dân phải có giấy phép mới được vào. Nhà thương, trường học hay các cửa hàng nơi đây là để dành cho các quan lại. Chàng hỏi nhà tù ở đâu. Cả hai nhân viên rùng mình sợ hãi, đồng thanh bảo rằng đây là thiên đàng, không có nhà tù, chỉ có các trường đại học. Chàng lấy làm ngạc nhiên vì trong kinh thánh có nói đến Thượng Đế đã giam Sa Tăng, sao lại ở đây bảo rằng không. Không lẽ có nhiều thiên đàng, và thiên đàng nơi đây là tốt nhất?
Chàng
định bí mật đi thăm Hạ Thiên Đường. Khi hai nhân viên khác đến tìm
chàng thì chàng cáo bệnh, xin ở nhà một ngày dưỡng sức. Ăn sáng xong,
chàng bèn đi dạo quanh. Chàng kêu xe đưa ra khỏi Thượng Thiên Đàng,
qua Trung Thiên Đàng. Hôm nay đường sá vắng tanh, không rộn ràng như
hôm chàng đăng ký tham quan. Chàng đi dạo trong Trung Thiên Đàng thì
thấy một người đàn bà ốm yếu dắt con đi trong cửa hàng. Nhìn kỹ thì
bà chính là người đàn bà đã nhảy nhót ca múa rồi đứng lên choàng
một tràng hoa vào cổ chàng trong ngày hôm qua. Chàng tiến lại chào
hỏi. và hỏi nàng đi đâu. Nàng đáp nàng được tuyển vào ban ca vũ trong
đoàn Công tác ngoại kiều để khi có quan khách đến thì ra biểu diễn.
Vì vậy nàng có giấy phép ra vào mua hàng hóa.
Chàng khen nàng múa đẹp. Nàng cười mà bảo: -Đói mê tơi! Đói rụng rời nhưng được lệnh phải biểu diễn.
Chàng khen:- Nhân dân đây từ trẻ con cho đến ông già đều ham học, ham đọc quá nhỉ!
Nàng cười:-Tất cả là trò biểu diễn để chứng tỏ đất nước phần thịnh, dân chúng vui vẻ, yêu chế độ, thích đọc sách báo của Thiên Đình! Thực ra, dân chúng chỉ dùng sách báo của Thiên đình mà chùi. . . .
Nàng cười:-Tất cả là trò biểu diễn để chứng tỏ đất nước phần thịnh, dân chúng vui vẻ, yêu chế độ, thích đọc sách báo của Thiên Đình! Thực ra, dân chúng chỉ dùng sách báo của Thiên đình mà chùi. . . .
Đi
qua một khu hoang vắng, có hàng rào kẽm gai xung quanh, chính giữa
là một toà nhà mấy chục tầng, phía dưới là khu lô cốt, có hàng trăm
lô cốt. Chàng hỏi khu này là gì. Nàng đáp đây là nhà tù. Trên kia là
tù thường, dưới lô cốt là trọng phạm. Năm mười trọng phạm chung một
lô cốt.Tội nhân nơi đây bị xích lại, nhốt trong phòng kín. Trong
phòng có hàng trăm, hàng ngàn con vật hình dáng như gián, kiến càng,
bò cạp đủ màu sắc, đủ chủng loại và kích cở bu vào cắn chân tay và
thân mình. Vào đây coi như bị xử tử vì sau vài ngày không ăn uống và
bị hút máu là chết.
Nói đến đây, chàng bỗng nghe tiếng chân người chạy thình thịch, và tiếng chó sủa. Người đàn bà cùng chàng chạy trốn. Nàng đưa chàng chạy qua bụi rậm rồi chạy vào một cao ốc. Cả hai leo đưọc đến tầng ba thì bị lính đuổi kịp. chúng nắm chàng và người đàn bà ném xuống đất qua cửa sổ. Chàng sợ hãi kêu to lên. Giật mình tỉnh dậy mới biết mình nằm mơ.
63. ĐẠO SĨ Ở THẤT SƠN
Tây Ninh có hai chàng họ Quách và họ Tân vốn ở gần nhau, cùng là nông dân hay việc cày bừa. Hai chàng vốn có đạo tâm, nghe ở Thất Sơn có nhiều bậc đạo sư pháp thuật cao cường, đạo hạnh siêu thâm cho nên hai chàng muốn lên Thất Sơn tầm sư học đạo. Hai chàng định ngày xuất hành, khăn gói lên Thất Sơn. Đi bộ, đi thuyền quanh co gần một tháng mới lên núi Thất Sơn. Lên đến núi, vào rừng sâu, thấy có nhiều đạo sư đóng khố, ngày đêm mưa nắng đều ở ngoài trời. Có những đạo sư ở trong hang núi, có kẻ ở lều tranh. Cũng có đạo quán lợp tranh nhưng vách lá hay vách đất, thỉnh thoảng mới có vách ván. Hai chàng thấy có đạo quán vách ván rất tịch mịch u nhã, thấy có một đạo sĩ ngồi trên nệm cỏ tròn, tóc trắng xõa tới vai nhưng dung mạo tráng kiện. Lại chào bắt chuyện, thấy thầy rất tinh thông đạo lý huyền diệu, hai chàng xin làm đệ tử.
Đạo sĩ nói: -Cửa từ bi rộng mở , chỉ sợ hai ngươi không chịu nổi cực khổ”.
Hai chàng thưa rằng- Chúng đệ tử là nông dân quen chịu cực, chịu khổ, xin thầy đừng ngại".
Hai người vái chào và lui vào trong tìm nơi ăn, chốn ở. Học trò của đạo sĩ rất đông, chiều tối kéo hết về. Mờ sáng đạo sĩ gọi hai người, đưa búa sai theo mọi người đốn củi, hai chàng kính cẩn nghe theo. Hơn một tháng tay chân nổi chai, không chịu nổi khổ cực ngầm có ý muốn về.
Một chiều hái củi về, hai chàng thấy đạo quán bằng tranh đã thành lâu đài đồ sộ, trong ngoài đèn sáng như sao, đám học trò xúm quanh lui tới hầu hạ. Cỗ bàn bày biện sang trọng, có khoảng mười khách lạ dự tiệc.
Một người khách nói:
-Họp mặt mà không bày biện hoa quả thì thật thiếu sót. Để ta tặng chủ nhân vài thứ hoa quả làm vui. Khách chỉ tay ra ngoài vườn thì thấy ba tiểu đồng bước vào dâng hoa và trái cây, toàn là những thứ mà cả miền Nam đều không có.
Một người khách gõ bàn mà ca:
"Đêm hôm nay say tiệc liên hoan,
Việc đời trần tục chớ bàn làm chi!Uống đi! Uống đi, không say không về!
Nói xong khách cầm bầu rượu nhỏ xíu đi khắp nơi mời uống.
Hai chàng tự nhủ :-“Có một bầu rượu làm sao mà đủ cho cả chục người ?”.
Ai nấy đều đi tìm tô chén tranh nhau rót trước, chỉ sợ hết rượu nhưng rót đi rót lại mà rượu trong bầu vẫn không vơi, thầm lấy làm lạ.
Giây lát một vị khách nói: -"Có rưọu thịt mà không có ca nhạc thì tẻ lắm!
Đạo sĩ bèn lấy năm đóa hoa ném vào bóng trăng xế mành, thì thấy năm mỹ nhân từ ánh trăng sáng bước vào, ai cũng xinh đẹp tuyệt trần. Điệu múa và trang phục các mỹ nhân phảng phất như Thái Lan. Họ nhảy múa xung quanh bàn tiệc. Cuối cùng, một mỹ nhân vừa đánh đàn vừa ca, một mỹ nhân thổi tiêu:
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai.
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
Làm chi cho mệt một đời!
Âm thanh trong trẻo cao vút sánh với tiếng tiêu. Hát xong lại múa vòng rồi nhảy lên bàn, trong chớp mắt lại hóa thành năm đóa hoa. Khách cười rộ. Lát sau khách ra về hết, lâu đài cũng biến mất, đạo quán trở lại tối tăm, học trò đốt đuốc tới thì chỉ có đạo sĩ ngồi một mình ở bàn. Đạo sĩ hỏi mọi người:- "Đã ăn uống đủ chưa?”
- Thưa "Đã đủ rồi".
-"Đủ rồi thì đi ngủ cho sớm, đừng để lỡ việc kiếm củi sáng mai", mọi người vâng dạ lui ra. Hai chàng thầm thích thú hâm mộ, không muốn về nữa.
Một năm trôi qua, cho đến một hôm thấy khổ cực không thể chịu nổi mà đạo sĩ vẫn không dạy cho một phép thuật nào, không chờ được nữa, hai chàng bèn thưa cùng đạo trưởng :
- "Đệ tử từ mấy trăm dặm tới học đạo, giả như không được dạy phép trường sinh thì cũng mong được dạy chút thuật nhỏ cho thỏa lòng cầu đạo. Thế nhưng đã hơn một năm qua, chẳng qua chỉ sáng đi hái củi chiều trở về, lúc đệ tử ở nhà chưa quen khổ cực thế này bao giờ".
Đạo sĩ cười nói:- “Ta đã nói rằng hai ngươi không chịu nổi cực khổ, nay quả đúng thế, sáng mai sẽ đưa hai ngươi về".
Tân nói:- "Đệ tử làm lụng nhiều ngày, xin thầy dạy qua vài thuật nhỏ để không phụ công tới đây”.
Đạo sĩ hỏi muốn học thuật gì?
Tân nói:- “Thường thấy thầy có phép xuyên bích, độ giang, đi đâu, tường vách đều không ngăn cản được, qua sông không cần thuyền, nếu học được hai phép ấy cũng là đủ rồi”.
Đạo sĩ cười nhận lời rồi truyền cho khẩu quyết, sai tự niệm lấy xong, hô lớn- “Vào đi!”
Tân thấy vách không dám bước vào, đạo sĩ lại nói -:“Thử vào xem!"
Tân lại thong thả bước vào vách, nhưng gặp tường lại bị ngăn lại. Đạo sĩ nói:- "Cúi đầu vào mau, đừng chần chừ". Tân lại tránh ra mấy bước rồi chạy mau vào, tới tường thấy trống không như không có gì, quay lại nhìn thì đã ở phía ngoài rồi. Cả mừng trở vào tạ ơn, đạo sĩ nói “Về tới nhà nên giữ mình trong sạch, không thì phép không nghiệm đâu”, rồi cấp cho lộ phí về nhà.
Riêng họ Quách thì suy nghĩ ở đây ở dẫu sao cũng sướng hơn, có sẵn cơm áo lại được thiên hạ kính trọng lạy quỳ dù phải chặt củi đốn tre, hơn là về làm một nông dân đói rách nên xin ở lại.
Tân về tới nhà , vui vẻ cùng vợ con. Một hôm Tân cùng vợ ra sông, khoe là đã học qua phép tiên, có thể nhảy qua bờ sông này sang bờ sông kia. Vợ không tin, Tân bèn đứng trên bờ sông cao mấy thước rồi niệm chú, phóng mình qua sông, nhưng hụt chân nhảy xuống sông, không biết lội nên chới với giữa dòng, suýt chết đuối. Người vợ bèn la lên, người làng nhảy xuống vớt lên mới thoát chết. Cả làng cười nhạo, Tân thẹn thùng tức tối, chửi đạo sĩ già bất lương mà thôi.
Họ
Quách ở lại một thời gian thì đạo trưởng một hôm bỏ đi vân du,
giao đạo quán cho Quách trông coi. Quách bây giờ đã thành một đạo
sĩ, quản lý đạo quán.
Một chiều nọ trong am vắng vẻ, Quách nằm thiếp ngủ, bỗng thấy bên ngoài vườn có một nữ nhân áo xanh, tiến vào phòng cười tươi như hoa. Nàng hỏi:
-Đạo sĩ ở một mình có buồn chăng?Đạo sĩ có vợ chưa?
Quách im lặng thì thiếu nữ ôm Quách. Quách lòng xuân rộn rã, muốn cùng nàng ân ái. Chợt nhớ lời sư phụ dặn là phải tránh nữ sắc, giữ chân nguyên thì pháp thuật mới linh nghiệm, nên bừng tỉnh mà xô cô nàng ra. Cô nàng tức giận, ngúng nguẩy ra về.
Một ngày nọ, Quách thấy một bà già và con gái vào đạo quán lễ Thánh. Lễ xong thì bà già ngã bệnh. Cô con gái xin đạo sĩ tạm trú tại chùa vài bữa để chữa trị. Quách bèn theo các phương thuốc của thầy mà chữa trị cho bệnh nhân. Người con gái ở lại săn sóc mẹ, đồng thời lo cơm nước cho Quách. Hôm sau, Quách đương ở trong liêu, thiếu nữ vào nói:
-Tiện thiếp xin cảm tạ lòng từ bi của đạo sĩ. Đạo sĩ có tài cải tử hoàn sanh lại có tâm Bồ tát, xin đem tấm thân bồ liễu báo đền.
Quách sung sướng khi nghe người ca tụng mình nhưng lại nghĩ đến lời thầy dạy phải giữ "giới định tuệ". Vì vậy, Quách nén dục vọng, nghiêm nghị tiễn đưa người con gái ra khỏi phòng. Hôm sau, bà mẹ khỏi bệnh, hai mẹ con từ tạ mà về, người con gái nhìn Quách bằng con mắt oán hận .
Vài tháng sau, nhân ngày thượng nguyên, Quách thấy ba nữ nhân vào đạo quán xin lễ Thánh. Quách đứng gõ chuông cho họ làm lễ. Chàng thấy ba người con gái đều xinh đẹp. Cả ba đều nhìn Quách đạo sĩ mà cười rất tươi. Lễ xong, cả ba nàng ngõ ý muốn đi dạo xung quanh đạo quán. Quách bèn dẫn họ đi quanh xem phong cảnh. Cả ba cô có lúc đi sát vào người Quách đạo sĩ khiến cho đạo sĩ trẻ ngửi thấy mùi thơm êm dịu từ tấm thân ngọc ngà bay ra khiến đạo sĩ ngất ngây. Có lúc, một trong ba nàng vô tình nắm tay đạo sĩ mà không buông. Cũng có lúc họ vô tình dựa vào người chàng mà cười nói.
Kể từ đó, ba nữ nhân thường đến đạo quán lễ bái và cúng dường. Quách đạo sĩ biết ba nàng tên là Thanh Hương, Hồng Ngọc, và Hoàng Mai, quê ở Châu Đốc.
Một hôm, ba cô cùng đến lễ Thánh. Họ đem bánh trái mời đạo sĩ thưởng thức xoài, măng cụt và sầu riêng của Mỹ Tho, Bình Dương. Quách đem trà ra đãi khách. Khi Quách quay mặt sang nói chuyện với Hoàng Mai thì Hồng Ngọc lén bỏ thuốc vào ly trà của Quách. Thanh Hương kêu là chóng mặt, đạo sĩ bèn đưa vào thiền phòng. Khi đạo sĩ dắt nàng vào thiền phòng thì nàng ôm chặt đạo sĩ, cả người nàng rung lên. và miệng môi nàng cứ áp sát vào ngực và mặt của đạo sĩ, khiến đạo sĩ mê man, cởi áo quần nàng ra. Nàng càng kêu to thảm thiết khiến Hồng Ngọc và Hoàng Mai cùng một lúc chạy vào. Cả hai lên tiếng chửi bới đạo sĩ tham dâm.
Một chiều nọ trong am vắng vẻ, Quách nằm thiếp ngủ, bỗng thấy bên ngoài vườn có một nữ nhân áo xanh, tiến vào phòng cười tươi như hoa. Nàng hỏi:
-Đạo sĩ ở một mình có buồn chăng?Đạo sĩ có vợ chưa?
Quách im lặng thì thiếu nữ ôm Quách. Quách lòng xuân rộn rã, muốn cùng nàng ân ái. Chợt nhớ lời sư phụ dặn là phải tránh nữ sắc, giữ chân nguyên thì pháp thuật mới linh nghiệm, nên bừng tỉnh mà xô cô nàng ra. Cô nàng tức giận, ngúng nguẩy ra về.
Một ngày nọ, Quách thấy một bà già và con gái vào đạo quán lễ Thánh. Lễ xong thì bà già ngã bệnh. Cô con gái xin đạo sĩ tạm trú tại chùa vài bữa để chữa trị. Quách bèn theo các phương thuốc của thầy mà chữa trị cho bệnh nhân. Người con gái ở lại săn sóc mẹ, đồng thời lo cơm nước cho Quách. Hôm sau, Quách đương ở trong liêu, thiếu nữ vào nói:
-Tiện thiếp xin cảm tạ lòng từ bi của đạo sĩ. Đạo sĩ có tài cải tử hoàn sanh lại có tâm Bồ tát, xin đem tấm thân bồ liễu báo đền.
Quách sung sướng khi nghe người ca tụng mình nhưng lại nghĩ đến lời thầy dạy phải giữ "giới định tuệ". Vì vậy, Quách nén dục vọng, nghiêm nghị tiễn đưa người con gái ra khỏi phòng. Hôm sau, bà mẹ khỏi bệnh, hai mẹ con từ tạ mà về, người con gái nhìn Quách bằng con mắt oán hận .
Vài tháng sau, nhân ngày thượng nguyên, Quách thấy ba nữ nhân vào đạo quán xin lễ Thánh. Quách đứng gõ chuông cho họ làm lễ. Chàng thấy ba người con gái đều xinh đẹp. Cả ba đều nhìn Quách đạo sĩ mà cười rất tươi. Lễ xong, cả ba nàng ngõ ý muốn đi dạo xung quanh đạo quán. Quách bèn dẫn họ đi quanh xem phong cảnh. Cả ba cô có lúc đi sát vào người Quách đạo sĩ khiến cho đạo sĩ trẻ ngửi thấy mùi thơm êm dịu từ tấm thân ngọc ngà bay ra khiến đạo sĩ ngất ngây. Có lúc, một trong ba nàng vô tình nắm tay đạo sĩ mà không buông. Cũng có lúc họ vô tình dựa vào người chàng mà cười nói.
Kể từ đó, ba nữ nhân thường đến đạo quán lễ bái và cúng dường. Quách đạo sĩ biết ba nàng tên là Thanh Hương, Hồng Ngọc, và Hoàng Mai, quê ở Châu Đốc.
Một hôm, ba cô cùng đến lễ Thánh. Họ đem bánh trái mời đạo sĩ thưởng thức xoài, măng cụt và sầu riêng của Mỹ Tho, Bình Dương. Quách đem trà ra đãi khách. Khi Quách quay mặt sang nói chuyện với Hoàng Mai thì Hồng Ngọc lén bỏ thuốc vào ly trà của Quách. Thanh Hương kêu là chóng mặt, đạo sĩ bèn đưa vào thiền phòng. Khi đạo sĩ dắt nàng vào thiền phòng thì nàng ôm chặt đạo sĩ, cả người nàng rung lên. và miệng môi nàng cứ áp sát vào ngực và mặt của đạo sĩ, khiến đạo sĩ mê man, cởi áo quần nàng ra. Nàng càng kêu to thảm thiết khiến Hồng Ngọc và Hoàng Mai cùng một lúc chạy vào. Cả hai lên tiếng chửi bới đạo sĩ tham dâm.
Họ nói họ sẽ mách đạo trưởng và tố cáo lên quan
tỉnh Châu Đốc. Quách đạo sĩ phải van xin lạy lục, hai nàng mới nguôi
giận. Một thời gian sau, cả ba cho biết họ là đệ tử của Hồ Ly đại
thánh, từ nay Quách phải theo mệnh lệnh của họ nếu không thì họ sẽ
cáo quan, hoặc làm phép cho thuốc độc hành hạ Quách. Từ đó Quách phải
vâng lệnh ba cô. Việc đầu tiên là họ sửa sang đạo quán, mang
chục Hồ ly về đạo quán, con thì hóa thành đạo sĩ, con thì làm đạo
cô, con thì làm người giúp việc. Quách lo việc tiếp khách. Nhiệm
vụ Quách là kêu gọi tín đồ đóng góp tiền bạc cứu trợ đồng bào nạn
lụt, trẻ mồ côi, làm đường, xây cầu. . .để cho họ ở đàng sau thu
lợi.
Họ cũng ra lệnh cho Quách ra miền Trung, sang Miên, Lào mở đạo quán. Từ đó thế lực Hồ Tiên phát triển. Khắp nơi, ban đêm gà vịt, vàng bạc bị mất trộm, thanh niên, thiếu nữ bị hồ ly quyến rũ mà bỏ học học hành, bỏ vợ, bỏ chồng con rồi suy nhược mà chết.
Họ cũng ra lệnh cho Quách ra miền Trung, sang Miên, Lào mở đạo quán. Từ đó thế lực Hồ Tiên phát triển. Khắp nơi, ban đêm gà vịt, vàng bạc bị mất trộm, thanh niên, thiếu nữ bị hồ ly quyến rũ mà bỏ học học hành, bỏ vợ, bỏ chồng con rồi suy nhược mà chết.
64. PHÁP THUẬT CỦA HỒ LY
Tào
ông ở Nam Định tính tình hào hiệp, thích quyền thuật, sức có thể
gánh hai chum nước, vừa chạy nhảy từ mô đất này sang mô đất khác mà
không mệt mỏi. Trong những ngày hội Xuân, ông từng tham dự nhiều
trận đấu và lần nào ông cũng thắng. Ông cương trực, hay giúp người
lại không mê tín, thường lên tiếng bài bác thánh thần, ma quỷ.
Trong
vùng có đền Vạn Linh, trước kia do một đạo sĩ với vài đệ tử trông
coi Nhưng rồi đền nghèo, không ai cúng dường hoặc mời đạo trưởng
làm ma chay cho nên đạo trưởng và các đồ đệ bỏ đi lên kinh thành mở
đạo quán khác mà sinh sống.
Đền
Vạn Linh ở đây thành hoang vắng. Một hôm có một bà già từ phương
xa đến, thấy đền bỏ trống, bèn ở lại nơi đây lo việc khói nhang,
cúng tế Thượng Đế và Thánh Thần. Bà hay đạp đồng lên truyền lời dạy
của Thần Thánh.
Một
hôm bà đạp đồng lên nói cha con Tào ông sẽ lâm bệnh, nặng. Tào bà
nghe tin bèn tìm đến đền lễ bái. Bà đồng nói gia chủ phải nộp hai
trăm quan tiền để bà làm lễ cúng vái với thần linh xin cho khỏi
bệnh.
Tào bà về nói với Tào ông thì Tào ông nổi giận đùng đùng. Ông vỗ bàn mà quát thét:
-Quân lưu manh, lừa đảo! Nếu số trời bắt chết, hối lộ hai trăm quan tiền mà hết bệnh ư?
Tháng sau, quả nhiên con ông chết. Ông vẫn thản nhiên. Thánh lại lên đồng truyền phán:
-Phải nộp ba trăm quan tiền nếu không ba ngày sau Tào ông sẽ chết.
Tào ông vẫn kiên cường, bất khuất. Thấm thoát đến ngày thứ ba, ông ngồi ở nhà im lặng chờ xem nhưng cả ngày không có gì lạ. Đêm đến đóng cửa khêu đèn, chống kiếm ngồi thẳng, hết canh một vẫn không thấy có gì, toan đi ngủ. Chợt nghe ở cửa có tiếng loạt soạt, vội nhìn ra thấy một người chui ngạch cửa mà vào, ban đầu thân hình bé nhỏ, sau vươn lên cao bằng người thường. Y cầm đao nhảy tới chém ông . Ông nhỏm dậy vung kiếm đánh vài đường thì tên nọ trúng kiếm ngã xuống, hóa ra một con chuột nhắt chui qua ngạch cửa mà ra.
Ông không dám đi nằm, lại ngồi xuống chờ. Lát sau lại có một vật nhảy qua song cửa sổ vào, mặt mũi hung ác như quỷ. Ông bèn giáng cho nó ba kiếm rơi xuống đất. Ông chạy lại xem thì ra là một hình nhân bằng giấy. Một lát sau, ông lại thấy ba người vạm vỡ đạp cửa mà vào. Cả ba cầm cung tên bắn ông, tên bay vèo vèo, ông né đuợc. Ông không bối rối, cứ việc cầm kiếm đâm tả, chém hữu. Ông bèn xông vào bọn chúng Giây lát, ông chém một cái nghe một tiếng "độp " kêu vang, thì ra kiếm chém trúng địch nhân văng vào tường. Hai tên kia bỏ chạy. Nhìn xuống đất, ông thấy rõ là một tượng hung thần bể tan, miệng còn dính máu. Ông suy nghĩ và kết luận rằng những địch nhân đêm nay là do bà đồng làm ra. Bà ta là phù thủy, là yêu ma hay hồ ly tinh? Từ đó đến sáng bình yên, ông thu gươm nằm ngủ. Đến trưa tỉnh dậy, ăn uống xong, ông xách gươm tìm bà cốt, nhưng không thấy đâu. Hôm sau ông kể cho tất cả bạn thân nghe rồi cùng nhau kéo tới chỗ bà cốt nhưng khi ông đến thì biến mất không thấy đâu nữa.
Có người nói đó là thuật của hồ ly hay ma quỷ, có thể dùng máu chó hay máu dơ của đàn bà phá được. Ông theo lời về chuẩn bị đầy đủ rồi tới. Bà cốt lại biến mất như lần trước, ông vội lấy máu chó hất vào khắp nơi thì bỗng hiện ra một con hồ ly lông đỏ mặt vàng. Hồ ly nói:
-Ta nay lọt vào tay các người, muốn chém giết tùy ý. Nhưng hãy để cho ta nói một đôi lời trước khi chết.
Các người cho rằng giống Hồ tàn ác nhưng đâu bằng loài người các ngươi! Các người đã xâm chiếm đất đai, núi rừng của chim muông. Các người đã tàn sát chim muông và bắt chim muông làm nô lệ. Mỗi ngày, các ngươi giết hàng triệu súc vật. Còn chúng ta đã hại các ngươi những gì, chỉ là vài trăm quan tiền, vài nương khoai sắn, vài chục con gà vịt, có thấm vào đâu với tội ác của loài người?
Loài người đối với nhau càng tàn ác. Nhạc Phi, Hàn Tín, Tiêu Hà, Nguyễn Trãi, Lê Văn Chất, Nguyễn Văn Thành có tội gì mà các vua chúa đã chém giết ? Ông cầm gươm để giết ta, ta khen ông cương trực, dũng cảm nhưng đời nay thiếu gì kẻ giết hàng triệu người, cướp tài sản quốc gia hàng tỷ đồng, chúng cướp đất, bán nước thế mà hàng triệu người quỳ lạy chúng mà chẳng ai dám cầm gươm chém chúng nó?
Tào ông nghe xong quăng gươm xuống đất, lạy Cáo ba lạy rồi về. Từ đó về sau ông không múa kiếm hươi đao và tranh đấu nữa. Ông chỉ lo việc cày bừa, trồng cây cối, dạy con và tụng kinh niệm Phật. Và cũng từ đó, trong vùng không còn yêu hồ nữa.
-Quân lưu manh, lừa đảo! Nếu số trời bắt chết, hối lộ hai trăm quan tiền mà hết bệnh ư?
Tháng sau, quả nhiên con ông chết. Ông vẫn thản nhiên. Thánh lại lên đồng truyền phán:
-Phải nộp ba trăm quan tiền nếu không ba ngày sau Tào ông sẽ chết.
Tào ông vẫn kiên cường, bất khuất. Thấm thoát đến ngày thứ ba, ông ngồi ở nhà im lặng chờ xem nhưng cả ngày không có gì lạ. Đêm đến đóng cửa khêu đèn, chống kiếm ngồi thẳng, hết canh một vẫn không thấy có gì, toan đi ngủ. Chợt nghe ở cửa có tiếng loạt soạt, vội nhìn ra thấy một người chui ngạch cửa mà vào, ban đầu thân hình bé nhỏ, sau vươn lên cao bằng người thường. Y cầm đao nhảy tới chém ông . Ông nhỏm dậy vung kiếm đánh vài đường thì tên nọ trúng kiếm ngã xuống, hóa ra một con chuột nhắt chui qua ngạch cửa mà ra.
Ông không dám đi nằm, lại ngồi xuống chờ. Lát sau lại có một vật nhảy qua song cửa sổ vào, mặt mũi hung ác như quỷ. Ông bèn giáng cho nó ba kiếm rơi xuống đất. Ông chạy lại xem thì ra là một hình nhân bằng giấy. Một lát sau, ông lại thấy ba người vạm vỡ đạp cửa mà vào. Cả ba cầm cung tên bắn ông, tên bay vèo vèo, ông né đuợc. Ông không bối rối, cứ việc cầm kiếm đâm tả, chém hữu. Ông bèn xông vào bọn chúng Giây lát, ông chém một cái nghe một tiếng "độp " kêu vang, thì ra kiếm chém trúng địch nhân văng vào tường. Hai tên kia bỏ chạy. Nhìn xuống đất, ông thấy rõ là một tượng hung thần bể tan, miệng còn dính máu. Ông suy nghĩ và kết luận rằng những địch nhân đêm nay là do bà đồng làm ra. Bà ta là phù thủy, là yêu ma hay hồ ly tinh? Từ đó đến sáng bình yên, ông thu gươm nằm ngủ. Đến trưa tỉnh dậy, ăn uống xong, ông xách gươm tìm bà cốt, nhưng không thấy đâu. Hôm sau ông kể cho tất cả bạn thân nghe rồi cùng nhau kéo tới chỗ bà cốt nhưng khi ông đến thì biến mất không thấy đâu nữa.
Có người nói đó là thuật của hồ ly hay ma quỷ, có thể dùng máu chó hay máu dơ của đàn bà phá được. Ông theo lời về chuẩn bị đầy đủ rồi tới. Bà cốt lại biến mất như lần trước, ông vội lấy máu chó hất vào khắp nơi thì bỗng hiện ra một con hồ ly lông đỏ mặt vàng. Hồ ly nói:
-Ta nay lọt vào tay các người, muốn chém giết tùy ý. Nhưng hãy để cho ta nói một đôi lời trước khi chết.
Các người cho rằng giống Hồ tàn ác nhưng đâu bằng loài người các ngươi! Các người đã xâm chiếm đất đai, núi rừng của chim muông. Các người đã tàn sát chim muông và bắt chim muông làm nô lệ. Mỗi ngày, các ngươi giết hàng triệu súc vật. Còn chúng ta đã hại các ngươi những gì, chỉ là vài trăm quan tiền, vài nương khoai sắn, vài chục con gà vịt, có thấm vào đâu với tội ác của loài người?
Loài người đối với nhau càng tàn ác. Nhạc Phi, Hàn Tín, Tiêu Hà, Nguyễn Trãi, Lê Văn Chất, Nguyễn Văn Thành có tội gì mà các vua chúa đã chém giết ? Ông cầm gươm để giết ta, ta khen ông cương trực, dũng cảm nhưng đời nay thiếu gì kẻ giết hàng triệu người, cướp tài sản quốc gia hàng tỷ đồng, chúng cướp đất, bán nước thế mà hàng triệu người quỳ lạy chúng mà chẳng ai dám cầm gươm chém chúng nó?
Tào ông nghe xong quăng gươm xuống đất, lạy Cáo ba lạy rồi về. Từ đó về sau ông không múa kiếm hươi đao và tranh đấu nữa. Ông chỉ lo việc cày bừa, trồng cây cối, dạy con và tụng kinh niệm Phật. Và cũng từ đó, trong vùng không còn yêu hồ nữa.
65. CẢ TIN VÀO SÁCH
Đất
Thanh Hóa có Văn sinh cha là giáo thụ, cha mẹ đều mất sớm. Sinh bán
dần đất đai để lo việc học, việc thi. Sinh rất chăm học, không bao
giờ rời khỏi sách. Nhà có nhiều sách quý, nhiều bậc phú gia học thức
muốn mua lại sách cho con mà sinh chịu nghèo không bán sách của cha
ông, vì yêu sách mà cũng ngại tiếng " cha làm thầy, con bán sách".
Sinh đọc nhiều sách nhưng tâm đắc nhất là sách Khuyến học:
"Phú gia bất dụng mại lương điền,Thư trung tự hữu thiên chung túc.
An cư bất dụng giá cao đường,
Thư trung tự hữu hoàng kim ốc.
Thú thê mạc hận vô lương môi,
Thư trung hữu nữ nhan như ngọc.
Xuất môn mạc hận vô nhân tùy,
Thư trung xa mã đa như thốc.
Nam nhi dục toại bình sinh chí,
Ngũ kinh khuyến hướng song tiền độc”
(Nhà
giàu không cần mua ruộng nhiều, Trong sách tự có ngàn chung thóc. Ở
yên chẳng cần xây gác cao, Trong sách tự có nhà kim ốc. Lấy vợ
không cần mối mai, Trong sách có nàng mặt như ngọc. Ra đường chớ
hờn không kẻ hầu, Trong sách ngựa xe đầy nhóc. Nam nhi muốn thỏa
chí bình sinh, Sử kinh khuyên cố chuyên cần đọc)".
Ngày
đêm mải mê đọc sách, mùa hè mùa đông cũng không rời sách, hơn hai
mươi tuổi cũng không lo cưới vợ, chờ người đẹp trong sách tự tới.
Bạn bè thân thích tới chơi cũng không buồn hỏi han chuyện trò, nói
năm ba câu xong lại cất tiếng ngâm đọc, mặc khách tự về. Lần nào
học quan về sát hạch cũng được đứng vào hạng khá, nhưng thi Hương
mãi vẫn không đỗ. Một hôm chàng cầm sách ra vườn đọc, chợt gió
thổi bay sách, chàng chạy theơ nhặt, chợt chân bị sụt xuống hố, mò
xem thì dưới hố có cỏ mục, đào lên thì là kho lúa của người xưa
cất giấu, đã mục nát thành đất. Tuy không ăn được nhưng càng tin mấy
chữ "ngàn chung thóc" là đúng nên càng chăm đọc sách.
Trong nhà chàng có ba bồ sách. Một hôm chàng mở bồ thứ hai tìm sách, thì thấy trong bồ sách có một quyển sách vẽ nhiều hình xe ngựa. Việc này khiến cho chàng tin "trong sách có xe ngựa rộn ràng. "
Trong nhà chàng có ba bồ sách. Một hôm chàng mở bồ thứ hai tìm sách, thì thấy trong bồ sách có một quyển sách vẽ nhiều hình xe ngựa. Việc này khiến cho chàng tin "trong sách có xe ngựa rộn ràng. "
Bà con, bạn bè thấy sinh gần ba mươi tuổi, bèn khuyên chàng lấy vợ. Chàng bảo:" Trai ba mươi tuổi đang xoan". Chưa có công danh, sự nghiệp thì chưa lấy vợ. Sau này thành đạt, gái sẽ tự tìm đến. Thiên hạ chê cười là điên, là ngu.
Lúc
bấy giờ trong miền có nhiều Hồ Ly. Một con hồ ly nghe chuyện của
chàng phần thì buồn cười, phần thì thương hại kẻ mê sách đến ngu
đần, bèn hiện đến bên chàng để chọc phá chơi. Nàng bèn biến vào một
quyển sách, rồi từ trang sách hiện ra một hình nữ nhân, càng lúc
càng lớn, sau nữ lang nhảy ra ngoài. Chàng nhìn mỹ nhân thì thấy
nàng xinh đẹp tuyệt trần. Chàng cho là thần nhân, bèn vái chào:
-Nàng là thần nhân từ phương nào lại?
Mỹ nhân cười mà đáp:
-Ta tên là Nhan Như Ngọc, ở trong sách, ái mộ chàng là người chăm đọc sách. Ta hiện ra để cùng chàng kết nghĩa vợ chồng.
Chàng mừng rỡ, tin lời sách là đúng :trong sách có người con gái tên là Nhan Như Ngọc, không cần mai mối mà đến ở chung với chàng. Chàng mừng rỡ, để nàng ở cùng phòng, cùng ngủ chung nhưng chàng không làm được công việc của người đàn ông.
Nàng bảo:
- Thiếp biết chàng là người mạnh khoẻ, nhưng từ lâu không quen việc ái ân cho nên thành ra vô dụng. Muôn sự là do chàng ham đọc, bao nhiêu tinh lực trút hết vào sách cho nên tinh nguyên hao mòn. Muốn hạnh phúc, muốn sống cuộc đời bình thường, chàng hãy bỏ việc đọc sách, mê sách. Chàng không làm tình được là do đọc sách quá nhiều. Chàng thi hỏng là do đọc sách quá nhiều.
Các vị đỗ cử nhân, tiến sĩ không ai đọc sách nhiều như chàng. Đọc sách quá nhiều nên ngu muội. Bởi vì không cho tâm trí và thể xác nghỉ ngơi. Cái máy hoạt động quá nhiều sẽ hư hại, tan rã. Con trâu, con bò cũng phải cho nó làm việc có chừng mực. Chàng đọc sách sao không hiểu nghĩa trung dung? Lại nữa, đọc sách mà không hiểu sách, không biết suy luận thì chỉ là học vẹt. Nếu người ta ra đề cũ y như trong sách, chàng có thể viết được. Nếu người ta ra đề suy luận, đề tổng hợp thì chàng chắc chắn bị đánh rớt. Chàng phải bỏ đọc sách một thời gian dài thì mới chữa đuợc bệnh.
Chàng bỏ đươợc vài ngày lại lấy sách ra đọc. Nhan Như Ngọc bảo:
-Chàng không nghe là thiếp bỏ đi đấy”.
Chàng liền bỏ sách, như được vài bữa liền nhớ sách, lấy sách ra đọc. Khi đi tìm nàng thì chàng không thấy nàng đâu nữa. Sinh bèn đốt hương khấn vái, nàng hiện ra và nói:
-Thiếp tha thứ cho chàng lần nữa, nếu chàng tái phạm, thiếp sẽ đi không trở lại.
Chàng thề thốt rồi đem sách ra đốt. Quả nhiên sau vài năm sinh hoạt vợ chồng trở nên bình thường và sinh thi đỗ, ra làm quan.
Chàng đuợc bổ làm tri châu ở một miền núi. Chàng thật thà, tin vào đạo đức, lương tri không biết nịnh hót biếu xén nên bị quan trên quở trách, chèn ép. Trong triều, vua già rồi băng. Thái tử lên ngôi. Tân vương tuổi trẻ thích chơi cho voi chạy vào cung đạp chết mấy cung nữ và thái giám. Học quan bắt quan học thì vua treo học quan lấy gậy đánh cho đến chết. Bà thái hậu, 80 tuổi, tức bà nội của vua khuyên can, vua sai lính giết rồi bỏ vào chuồng cọp cho cọp xơi. Dân chúng nổi giận. Khắp nơi quần hùng vùng lên. Ở Sơn Tây có Quận Đỏ, Quận Đen. Ở Thái Nguyên có Đốc Rằn, Đốc Ri. Ở Hải Dương có Thanh Long đại vương, ở Ninh Bình có Bạch Hổ đại vương, Nghệ An có Thanh Long đạo sĩ phất cờ khởi nghĩa.
Quan buồn chán cho thế thái nhân tình bèn treo ấn từ quan. Quan bà khuyến khich quan đọc sách ngâm thơ cho qua ngày đoạn tháng. Lúc bấy giờ tại Phố Hiến, người ngoại quốc tới buôn bán tấp nập. Tại trung Quốc cho đến Việt Nam, con đường tơ lụa vẫn thông thương như bao thế kỷ trước. Người ta đem từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông các thứ vải vóc, lụa là, châu báu và sách in. Sách này do các triết gia Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, Ấn Độ, Nga La Tư. Các sách đã được dịch ra Hán văn, lưu truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Trong các sách , quan tâm đắc nhất là bộ "Xã Hội Chân Kinh". Nội dung nói về công bằng xã hội và bác ái, từ bi. Quan vô cùng thích thú vì tư tưởng trong sách gần giống với thuyết "Thế giới Đại Đồng "của Khổng Tử. Quan đọc sách rồi khoa chân múa tay vô cùng sung sướng. Đi đâu, quan cũng nói về "Xã hội chân kinh" và thuyết Đại Đồng. Nhiệt tình của quan về cải tạo xã hội đã truyền đến tai Bạch Hổ đại vương. Ngài bèn sai quan tham mưu là Cử Đao đến gặp quan. Hai bên bàn luận về cải tạo xã hội, về bình đẳng, dân quyền thâu đêm suốt sáng. Quan mừng rỡ cho rằng chí ta thành rồi. Xã hội sắp thành thiên đàng đến nơi! Quan bèn làm đôi câu đối như sau:
"Thi hành chính trị vương đạo như Khổng Tử,
Dựng xây thời đại hoàng kim tựa Thuấn Nghiêu"(1).
Vài hôm, Bạch Hổ đại vương cho quân rước quan về sơn trại, phong cho quan làm quân sư ở cạnh bên bàn việc cơ mật.
Quan cảm tạ mà nói:- Thần chúc đại vương vạn vạn tuế! Thần nguyện ủng hộ đường lối của đại vương là "Cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo"!
Đại vương cười mà nói:
-Không phải cướp mà là lấy! "Lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo"! Tất cả nhà cửa, ruộng nương, thóc lúa, vàng bạc mà bọn nhà giàu có đuợc là do cướp, bóc lột dân nghèo, nay phải trả lại cho nhân dân. Từ nay, tài sản trong nước là tài sản chung, không ai có quyền chiếm làm tư hữu. Đó là phương cách công bằng, là đường lối xây dựng thế giới đại đồng!Quan lạy ta mà lui ra, trong lòng khen ngợi đại vương là tay lý luận giỏi và có học vấn uyên thâm.
Một
thời gian sau, quan được cử thanh tra quân lương. Quan vô cùng ngạc
nhiên vì quân trại có hàng ngàn kho lương thực, còn vàng bạc, châu
báu thì không kể xiết! Quan cho là đại vương thế mạnh và được dân
chúng nhiệt liệt ủng hộ chính nghĩa. Ít lâu sau, quan được cử đi
tuyên truyền cho quần chúng. Quan giả làm thấy thuốc du phương, đi
vào các thôn xóm. Mặc dù có An Ninh đi theo, quan cũng tiếp xúc được
với dân chúng.-Nàng là thần nhân từ phương nào lại?
Mỹ nhân cười mà đáp:
-Ta tên là Nhan Như Ngọc, ở trong sách, ái mộ chàng là người chăm đọc sách. Ta hiện ra để cùng chàng kết nghĩa vợ chồng.
Chàng mừng rỡ, tin lời sách là đúng :trong sách có người con gái tên là Nhan Như Ngọc, không cần mai mối mà đến ở chung với chàng. Chàng mừng rỡ, để nàng ở cùng phòng, cùng ngủ chung nhưng chàng không làm được công việc của người đàn ông.
Nàng bảo:
- Thiếp biết chàng là người mạnh khoẻ, nhưng từ lâu không quen việc ái ân cho nên thành ra vô dụng. Muôn sự là do chàng ham đọc, bao nhiêu tinh lực trút hết vào sách cho nên tinh nguyên hao mòn. Muốn hạnh phúc, muốn sống cuộc đời bình thường, chàng hãy bỏ việc đọc sách, mê sách. Chàng không làm tình được là do đọc sách quá nhiều. Chàng thi hỏng là do đọc sách quá nhiều.
Các vị đỗ cử nhân, tiến sĩ không ai đọc sách nhiều như chàng. Đọc sách quá nhiều nên ngu muội. Bởi vì không cho tâm trí và thể xác nghỉ ngơi. Cái máy hoạt động quá nhiều sẽ hư hại, tan rã. Con trâu, con bò cũng phải cho nó làm việc có chừng mực. Chàng đọc sách sao không hiểu nghĩa trung dung? Lại nữa, đọc sách mà không hiểu sách, không biết suy luận thì chỉ là học vẹt. Nếu người ta ra đề cũ y như trong sách, chàng có thể viết được. Nếu người ta ra đề suy luận, đề tổng hợp thì chàng chắc chắn bị đánh rớt. Chàng phải bỏ đọc sách một thời gian dài thì mới chữa đuợc bệnh.
Chàng bỏ đươợc vài ngày lại lấy sách ra đọc. Nhan Như Ngọc bảo:
-Chàng không nghe là thiếp bỏ đi đấy”.
Chàng liền bỏ sách, như được vài bữa liền nhớ sách, lấy sách ra đọc. Khi đi tìm nàng thì chàng không thấy nàng đâu nữa. Sinh bèn đốt hương khấn vái, nàng hiện ra và nói:
-Thiếp tha thứ cho chàng lần nữa, nếu chàng tái phạm, thiếp sẽ đi không trở lại.
Chàng thề thốt rồi đem sách ra đốt. Quả nhiên sau vài năm sinh hoạt vợ chồng trở nên bình thường và sinh thi đỗ, ra làm quan.
Chàng đuợc bổ làm tri châu ở một miền núi. Chàng thật thà, tin vào đạo đức, lương tri không biết nịnh hót biếu xén nên bị quan trên quở trách, chèn ép. Trong triều, vua già rồi băng. Thái tử lên ngôi. Tân vương tuổi trẻ thích chơi cho voi chạy vào cung đạp chết mấy cung nữ và thái giám. Học quan bắt quan học thì vua treo học quan lấy gậy đánh cho đến chết. Bà thái hậu, 80 tuổi, tức bà nội của vua khuyên can, vua sai lính giết rồi bỏ vào chuồng cọp cho cọp xơi. Dân chúng nổi giận. Khắp nơi quần hùng vùng lên. Ở Sơn Tây có Quận Đỏ, Quận Đen. Ở Thái Nguyên có Đốc Rằn, Đốc Ri. Ở Hải Dương có Thanh Long đại vương, ở Ninh Bình có Bạch Hổ đại vương, Nghệ An có Thanh Long đạo sĩ phất cờ khởi nghĩa.
Quan buồn chán cho thế thái nhân tình bèn treo ấn từ quan. Quan bà khuyến khich quan đọc sách ngâm thơ cho qua ngày đoạn tháng. Lúc bấy giờ tại Phố Hiến, người ngoại quốc tới buôn bán tấp nập. Tại trung Quốc cho đến Việt Nam, con đường tơ lụa vẫn thông thương như bao thế kỷ trước. Người ta đem từ Đông sang Tây, từ Tây sang Đông các thứ vải vóc, lụa là, châu báu và sách in. Sách này do các triết gia Hy Lạp, La Mã, Ba Tư, Ấn Độ, Nga La Tư. Các sách đã được dịch ra Hán văn, lưu truyền từ Trung Quốc sang Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Trong các sách , quan tâm đắc nhất là bộ "Xã Hội Chân Kinh". Nội dung nói về công bằng xã hội và bác ái, từ bi. Quan vô cùng thích thú vì tư tưởng trong sách gần giống với thuyết "Thế giới Đại Đồng "của Khổng Tử. Quan đọc sách rồi khoa chân múa tay vô cùng sung sướng. Đi đâu, quan cũng nói về "Xã hội chân kinh" và thuyết Đại Đồng. Nhiệt tình của quan về cải tạo xã hội đã truyền đến tai Bạch Hổ đại vương. Ngài bèn sai quan tham mưu là Cử Đao đến gặp quan. Hai bên bàn luận về cải tạo xã hội, về bình đẳng, dân quyền thâu đêm suốt sáng. Quan mừng rỡ cho rằng chí ta thành rồi. Xã hội sắp thành thiên đàng đến nơi! Quan bèn làm đôi câu đối như sau:
"Thi hành chính trị vương đạo như Khổng Tử,
Dựng xây thời đại hoàng kim tựa Thuấn Nghiêu"(1).
Vài hôm, Bạch Hổ đại vương cho quân rước quan về sơn trại, phong cho quan làm quân sư ở cạnh bên bàn việc cơ mật.
Quan cảm tạ mà nói:- Thần chúc đại vương vạn vạn tuế! Thần nguyện ủng hộ đường lối của đại vương là "Cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo"!
Đại vương cười mà nói:
-Không phải cướp mà là lấy! "Lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo"! Tất cả nhà cửa, ruộng nương, thóc lúa, vàng bạc mà bọn nhà giàu có đuợc là do cướp, bóc lột dân nghèo, nay phải trả lại cho nhân dân. Từ nay, tài sản trong nước là tài sản chung, không ai có quyền chiếm làm tư hữu. Đó là phương cách công bằng, là đường lối xây dựng thế giới đại đồng!Quan lạy ta mà lui ra, trong lòng khen ngợi đại vương là tay lý luận giỏi và có học vấn uyên thâm.
Quan hỏi:-Các ông bà, anh chị sống có an lạc lạc không?
Họ đáp:-Chúng tôi đói dài dài, lại bị giặc cướp quấy phá, không được ấm no, hạnh phúc!
Quan hỏi-Thế các đại vương có lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo không?
Họ nhìn trước, nhìn sau rồi nói nhỏ:
-Chúng nó cướp của giết người thì có. Các đại vương cướp vàng bạc, bọn thủ hạ thì cướp gạo lúa, gà vịt, trâu bò đem về nuôi vợ con, làm gì có chuyện chia xẻ cho ai!
Người khác chen vào:
-Đúng ra một hai lần đầu, các đại vương mở cuộc bố thí. Trong một thôn năm trăm nóc nhà thì hai ba chục nhà là được ban cho vài bát gạo, sau đó rồi im luôn!
Quan nghe nói thì nản vô cùng, biết mình ngu nên bị lừa. Quan đem chuyện bàn với quan bà. Quan bà bảo:
-Ở lại không được, về quê cũng không được. Thiếp thấy phía nam Hoành Sơn là đất mới có thể dung thân. Tam thập lục kế, đào vi thượng sách.
Ngày hôm đó, quan ông và quan bà thu vét đồ tế nhuyễn để ra đi. Một đêm không trăng, không sao, trời êm ả không gió mạnh, quan bà làm phép rồi cả hai leo lên con diều giấy mà bay vào sông Gianh. Ở trên trời nhìn xuống, thấy có một cồn đất dài mấy chục dặm, hai bên sông bao bọc, đàng trước, đàng sau đều có núi vây. Hai ông bà bèn hạ xuống, làm nhà nơi này. Từ đó, không ai biết hai ông bà đi đâu.
Khoảng năm năm sau, Định An vương khởi binh giết hôn quân rồi lập em vua lên ngôi. Vua mới là người nhân hậu, ra tay cải tổ triều chính, rồi sai Đại tướng cầm binh ra các nơi trừ giặc. Lần lượt các ông Quận Hẻo, quận He, Đốc Rằn, Đốc Ri, Bạch Hổ đại vương, Thanh Long đạo sĩ đều bị bắt về kinh mà chém!
-Ở lại không được, về quê cũng không được. Thiếp thấy phía nam Hoành Sơn là đất mới có thể dung thân. Tam thập lục kế, đào vi thượng sách.
Ngày hôm đó, quan ông và quan bà thu vét đồ tế nhuyễn để ra đi. Một đêm không trăng, không sao, trời êm ả không gió mạnh, quan bà làm phép rồi cả hai leo lên con diều giấy mà bay vào sông Gianh. Ở trên trời nhìn xuống, thấy có một cồn đất dài mấy chục dặm, hai bên sông bao bọc, đàng trước, đàng sau đều có núi vây. Hai ông bà bèn hạ xuống, làm nhà nơi này. Từ đó, không ai biết hai ông bà đi đâu.
Khoảng năm năm sau, Định An vương khởi binh giết hôn quân rồi lập em vua lên ngôi. Vua mới là người nhân hậu, ra tay cải tổ triều chính, rồi sai Đại tướng cầm binh ra các nơi trừ giặc. Lần lượt các ông Quận Hẻo, quận He, Đốc Rằn, Đốc Ri, Bạch Hổ đại vương, Thanh Long đạo sĩ đều bị bắt về kinh mà chém!
___
(1).
Hai vua Nghiêu, Thuấn thuộc vào thời cổ đại bên Trung Quốc, nằm trong
Ngũ Đế, được Khổng giáo coi là những vị vua kiểu mẫu, và là những tấm
gương đạo đức. Thời Nghiêu Thuấn, nhân dân no ấm, thịnh vượng, ban đêm
nhà không cần đóng cửa, ngoài đường, không ai nhặt của rơi, cho nên
người ta gọi thời Thuấn, Nghiêu là thời đại hoàng kim.
66. GIA ĐÌNH HỒ LY
Ông Lý Phèng là một phú ông ở Ly Sơn. Ly Sơn là một nơi núi rưng hiểm trở, vốn là nơi ẩn lánh của bọn anh hùng lục lâm.
Ông Lý Phèng có một khu vườn rất lớn, Bắc, Nam Đông và chính giữa
đều xây nhà cho ông và các con. Còn khu đất hướng tây bỏ trống,
không xây nhà cũng không trồng trọt. Một hôm có một bà lão đến xin thuê ở.
Ông Lý bảo :- Nơi này tôi chưa xây cất gì thì ở sao được. Thôi bà đi chỗ khác mà thuê.
Bà lão đưa ra một số vàng độ trăm lượng và bảo ông:
- Tôi họ Hồ. Đấy là tiền thuê trong mười năm. Còn việc khác ông đừng lo.
Bà lão bỏ ra về, ông Lý hết sức ngạc nhiên. Vài ba bữa, bà lão lại đến và nói:
-Bọn trẻ nhà tôi mở dạ hội. Tối mai mơi ông sang dự.
Ông Lý ngạc nhiên nhưng cũng vui vẻ nhận lời. Sang đến nơi, ông thấy khu vườn hoang nay thành một cung điện mới. Kẻ vào người ra, xung quanh treo cờ, biển rất trang trọng. Vào đến nhà thì nghe nhạc thánh thót và thấy toàn là mỹ nữ.
Ông được mời vào đại sảnh. Trên cao là Hồ lão bà. Trong nhà có trai, gái và trẻ con khoảng trăm người. Họ mời ông uống rượu, quả là một thứ rượu đào mà trần gian không có. Họ mời ông ăn những món ngon vật lạ mà có lẽ đức vua cũng chưa từng nếm qua. Nhìn cảnh đó, ông biết họ không phải là người thường mà là bọn Cáo đã thành tinh.
Ông
Lý về nhà, lòng lo âu. Ông bèn mua dầu, mỡ, lưu huỳnh, rơm củi, và
sai bọn gia nhân chờ lúc ban đêm rải xung quanh nhà mới của Hồ Ly
rồi phóng hỏa. Lửa cháy ngọn lên cao. Sau khi lửa tàn, ông tìm thấy
hơn một trăm thi thể Cáo đã cháy thành than.Ông Lý bảo :- Nơi này tôi chưa xây cất gì thì ở sao được. Thôi bà đi chỗ khác mà thuê.
Bà lão đưa ra một số vàng độ trăm lượng và bảo ông:
- Tôi họ Hồ. Đấy là tiền thuê trong mười năm. Còn việc khác ông đừng lo.
Bà lão bỏ ra về, ông Lý hết sức ngạc nhiên. Vài ba bữa, bà lão lại đến và nói:
-Bọn trẻ nhà tôi mở dạ hội. Tối mai mơi ông sang dự.
Ông Lý ngạc nhiên nhưng cũng vui vẻ nhận lời. Sang đến nơi, ông thấy khu vườn hoang nay thành một cung điện mới. Kẻ vào người ra, xung quanh treo cờ, biển rất trang trọng. Vào đến nhà thì nghe nhạc thánh thót và thấy toàn là mỹ nữ.
Ông được mời vào đại sảnh. Trên cao là Hồ lão bà. Trong nhà có trai, gái và trẻ con khoảng trăm người. Họ mời ông uống rượu, quả là một thứ rượu đào mà trần gian không có. Họ mời ông ăn những món ngon vật lạ mà có lẽ đức vua cũng chưa từng nếm qua. Nhìn cảnh đó, ông biết họ không phải là người thường mà là bọn Cáo đã thành tinh.
Lúc đó, lão bà xuất hiện. Bà giận dữ nói:
-Ông đã nhận trăm lạng vàng của tôi, lại đốt nhà của tôi, giết hàng trăm mạng con cháu của tôi. Ông phải bị trừng phạt. Nói xong bà lão biến mất. Ông Lý cho rằng bà lão chỉ đe dọa, nhiều lắm chỉ ném đá, ném phân và nhà ông. Nặng nữa thì gây ốm đau, bệnh tật cho nhà ông mà thôi! Rồi việc cũng qua đi, mấy năm trôi qua mà không việc gì xảy ra.
Trong vùng Ly Sơn, bọn cướp ngày càng đông, có hàng chục nhóm khác nhau với hàng ngàn, hàng vạn quân lính hoạt động. Bọn cướp có quân lính hùng hậu, tướng tá tài ba, quân triều đình đại bại. Ông Lý rất lo lắng cho gia đình và tài sản của ông.
Lúc bấy giờ có một thầy bói từ phương xa đến, nói đâu trúng đó được dân chúng tín nhiệm. Ông Lý bèn mới thầy đến nhà. Khi gặp gia chủ, thầy bói kính cẩn quỳ xuống:
-Muôn tâu hoàng thượng. Ngài là bậc chân mệnh đế vương!
Ông Lý ngạc nhiên và sợ hãi, cho rằng ông thầy bói dối trá! Ông thầy bói nói:
-Xưa nay các bậc đế vương đều xuất thân từ dân chúng mà lên nối mệnh trời. Ông đã được thượng đế phó thác công việc bình định thiên hạ, thống nhất sơn hà.
Ông Lý nghe bùi tai nhưng e ngại không ai theo mình.
Ông thầy bói nói:
-Bệ hạ cứ an tâm. Thần sẽ lên núi thuyết phục bọn cướp theo Bệ hạ. Khi thầy bói trở về, ông đắt theo hàng trăm đầu lĩnh và hàng ngàn binh sĩ. Ông nói với vua là các đầu lĩnh đã về quy hàng. Và hôm sau, ông Lý tự xưng Đại Minh vương, phong cho thầy bói làm quân sư, đặt căn cứ trong núi, quân đội của vương vào ra như chỗ không người. Oai danh của tân vương làm khắp nơi rúng động.
Triều đình sai một Đô Đốc đem quân đến đánh . Đô đốc đại bại. Triều đình sai một đại tướng đến đánh nhưng cũng bại dưới tay quân sư. Uy thế của Đại Minh vương ngày càng to lớn, quân đội của ông ngày phát triển. Vua cao hứng phong cho quân sư chức Bảo quốc hầu. Đại Minh vương tin tưởng ngày thắng lợi gần kề, ông sẽ về kinh đô trong một thời gian ngắn. Bấy giờ triều đình sai một đại tướng khác ra cầm binh chống giặc. Vị tướng này chia binh thành sáu sư đoàn tuần tự tiến vào sào huyệt Ly Sơn và bao vây thành lũy của Đại Minh vương. Vương sợ hãi cho người tìm quân sư thì tất cả đều bảo họ không biết quân sư ở đâu! Cuối cùng thì thành trì bị phá và vương bị bắt, và bị giải về kinh đô. Vì phạm tôi phản loạn, ông và toàn gia bị chém. Những ngày sắp ra pháp trường, ông nhận ra rằng vị thầy bói của ông, vị quân sư của ông chính là bà lão Hồ Ly đã biến ra để báo thù ông!
67.NHỮNG ĐẠO SĨ CÁO
Tại
vùng Đèo Ngang giáp giới Hà Tĩnh Quảng Bình xưa vốn là vùng hoang
vắng. Nơi này lại có những núi đá cao ngất, hang hốc nhiều, rất tiện
cho loài chốn cáo và bọn trộm cướp ẩn nấp. Bọn cướp cũng như bọn
Chồn Cáo thường tấn công các xóm làng. Chúng đánh phá các thôn xóm.
Chúng mở các quán nước, quán cơm nhưng thực chất là những hắc điếm
để trộm cắp tài sản người đi đường. Đôi khi chúng bắt cóc, giết
người làm thịt. Những đám chồn tinh pháp thuật cao siêu thường giả
hình trai thanh gái lịch để dụ dỗ khách qua đường và thanh niên nam
nữ trong vùng.
Quan binh hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình đã phối hợp tuần tiễu và tấn công nhưng không phá tan được sào huyệt chúng.
Họ hàng nhà Gà bị thiệt hại nặng nhất bèn xin Chó Già giúp đỡ. Chó Già vốn là tay túc trí đa mưu, văn võ toàn tài. Chó bèn tập trung khoảng bốn mươi cậu chó mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, võ thuật cao cường chia thành hai nhóm là nhóm tiền đạo và nhóm hậu vệ. Chó tuyển lựa khoảng 60 chú Gà Trống Chọi cựa sắc, bay nhanh. Và Chó chọn ba chú Rùa giả làm khách thương buôn gà từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình. Chó đưa cho Rùa ba cái pháo lệnh và dặn rằng khi bọn cướp hay bọn chồn ra mặt tấn công thì đốt pháo hiệu lên thì quân trong đánh ra, quân ngoài đánh vào sẽ đánh tan bọn giặc.
Đám buôn gà mang thúng mũng, áo tơi, gồng gánh, lồng gà và các xe ngựa, xe trâu chở hàng hóa lích kích nặng nề. Bên trong xe có những chiếc bồ là những con chó săn cực kỳ thông minh và mạnh mẽ ẩn nấp. Đoàn xe sắp tới Đèo Ngang thì thấy hiện ra một ngôi đền tráng lệ. Một vài đạo sĩ chạy ra chào khách, mời khách vào lễ Thánh.
Vị đạo trưởng nói ngôi đền đang tu bổ, xin khách thập phương ủng hộ tiền bạc. Đám này hớ hênh để cho các đạo sĩ thấy những lồng gà béo tốt và những rương vàng bạc đấy ắp. Các thương gia xin trú ngụ một đêm rồi sáng mai sẽ mở hầu bao cúng dường. Các đạo sĩ rất vui vẻ. Sáng sớm, các thương gia chuẩn bị lên đường, và họ tặng đền 20 lượng bạc nhưng vị đạo trưởng tỏ vẻ tức giận. Một số đạo sĩ đề nghị xin các nhà buôn tặng cho đền vài chục con gà để nuôi cho vui. Các thương gia nói rằng họ là những nhà buôn nhỏ, vốn liếng không là bao, chỉ cúng dường chừng ấy thôi. Và họ nói rằng luật thánh cấm sát sanh, cấm chơi gà nên họ không thể chiều ý.
Đạo trưởng bèn vỗ tay ba cái thì thì hàng trăm con cáo cầm gươm giáo xuất hiện, dàn trận thế và bao vây khách thương. Rùa bèn đốt pháo lệnh và thả chó, thả gà ra. Cùng lúc đó đoàn chó bên ngoài xông vào cắn chết hàng trăm con chồn. Từ đó, vùng Đèo Ngang trở nên yên tĩnh.
Quan binh hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình đã phối hợp tuần tiễu và tấn công nhưng không phá tan được sào huyệt chúng.
Họ hàng nhà Gà bị thiệt hại nặng nhất bèn xin Chó Già giúp đỡ. Chó Già vốn là tay túc trí đa mưu, văn võ toàn tài. Chó bèn tập trung khoảng bốn mươi cậu chó mạnh khoẻ, nhanh nhẹn, võ thuật cao cường chia thành hai nhóm là nhóm tiền đạo và nhóm hậu vệ. Chó tuyển lựa khoảng 60 chú Gà Trống Chọi cựa sắc, bay nhanh. Và Chó chọn ba chú Rùa giả làm khách thương buôn gà từ Hà Tĩnh vào Quảng Bình. Chó đưa cho Rùa ba cái pháo lệnh và dặn rằng khi bọn cướp hay bọn chồn ra mặt tấn công thì đốt pháo hiệu lên thì quân trong đánh ra, quân ngoài đánh vào sẽ đánh tan bọn giặc.
Đám buôn gà mang thúng mũng, áo tơi, gồng gánh, lồng gà và các xe ngựa, xe trâu chở hàng hóa lích kích nặng nề. Bên trong xe có những chiếc bồ là những con chó săn cực kỳ thông minh và mạnh mẽ ẩn nấp. Đoàn xe sắp tới Đèo Ngang thì thấy hiện ra một ngôi đền tráng lệ. Một vài đạo sĩ chạy ra chào khách, mời khách vào lễ Thánh.
Vị đạo trưởng nói ngôi đền đang tu bổ, xin khách thập phương ủng hộ tiền bạc. Đám này hớ hênh để cho các đạo sĩ thấy những lồng gà béo tốt và những rương vàng bạc đấy ắp. Các thương gia xin trú ngụ một đêm rồi sáng mai sẽ mở hầu bao cúng dường. Các đạo sĩ rất vui vẻ. Sáng sớm, các thương gia chuẩn bị lên đường, và họ tặng đền 20 lượng bạc nhưng vị đạo trưởng tỏ vẻ tức giận. Một số đạo sĩ đề nghị xin các nhà buôn tặng cho đền vài chục con gà để nuôi cho vui. Các thương gia nói rằng họ là những nhà buôn nhỏ, vốn liếng không là bao, chỉ cúng dường chừng ấy thôi. Và họ nói rằng luật thánh cấm sát sanh, cấm chơi gà nên họ không thể chiều ý.
Đạo trưởng bèn vỗ tay ba cái thì thì hàng trăm con cáo cầm gươm giáo xuất hiện, dàn trận thế và bao vây khách thương. Rùa bèn đốt pháo lệnh và thả chó, thả gà ra. Cùng lúc đó đoàn chó bên ngoài xông vào cắn chết hàng trăm con chồn. Từ đó, vùng Đèo Ngang trở nên yên tĩnh.
68. LONG CUNG
Chu
Bảo Toàn là nho sinh ở tỉnh Hà Đông, theo Lê Đại tướng làm thư lại
trông coi sổ sách trong quân. Một hôm, Đại tướng duyệt binh tên sông
Bạch Đằng, Chu được lệnh theo hầu bên cạnh Đại tướng. Lúc bấy giờ biển
động, sông Bạch Đằng sóng to, gió lớn, quân thuyền phải đậu lại tránh
sóng. Chợt Chu sinh thấy cả một đàn Cáo khoảng 20 con từ trên
núi nhảy xuống bắt một con Thuồng luồng rất to. Các con Cá, Cua,
Tôm, Cá Sấu, cá Voi bèn xông ra cứu Thuồng Luồng. Cáo ngậm Thuồng
Luồng, Thuồng Luồng quay lại ngậm Cáo cho nên quân lính vây bắt được
cả Cáo lẫn Thuồng Luồng. Quan Phó tướng muốn giết cả hai nhưng Chu
thấy Thuồng Luồng cứ há miệng liên tiếp như lên tiếng khẩn cầu. thành
thử Chu thương tình xin thả Thuồng Luồng. Quan Phó tướng đồng ý.
Trước khi thả Thuồng Luồng, Chu lấy thuốc bôi vết thương cho nó.
Hơn một năm sau, chàng nghỉ việc về Hà Đông, lại qua sông Bạch Đằng, bị gió bão lớn đánh ghe lật chìm, may phúc chàng ôm được một miếng ván, lênh đênh cả đêm mới dạt vào một hoang đảo. Nhìn quanh, chàng chỉ thấy núi non hiểm trở, rừng xanh trùng trùng điệp điệp, chẳng có bóng người nào lại qua hòng thăm hỏi đường sá. Chàng sợ hùm beo xông ra cắn chết. Nếu không thì cũng bị đói khát mà chết.
Từ sáng sớm đến quá giờ ngọ, chàng vẫn loanh quanh ven biển. Mới bò lưng chừng núi, nghe tiếng rung reng, đang dáo dác suy nghĩ, thấy hai cô thiếu nữ cưỡi ngựa từ đầu kia đi tới, rong ruổi như bay. Cô nào cũng khăn lụa bịt trán, tóc cắm lông trĩ, mình vận áo tím chẽn tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua phía nam núi, có mấy chục người ngựa đang săn trong đám rừng rậm, đều là mĩ nữ, trang sức như nhau.
Chàng không dám bước tới, chừng thấy một người đàn ông đi bộ, trông như lính chăn ngựa mới lần đến hỏi thăm.
Người lính đáp:
- Ngài là vương phi của vua Đông Hải, hôm nay lên Hoa Sơn săn bắn đó.
Chàng kể lai lịch của mình và kêu đói bụng. Người lính đưa cho gói cơm khô và căn dặn:
- Chú nên tìm đường tránh xa, nếu để vương phi trông thấy thì chết mất xác đó!
Nghe nói sợ quá, chàng lật đật xuống núi, thấy trong rừng rậm có bóng lâu đài, ý chừng là cảnh chùa, liền nhắm hướng đó đi lần tới. Đến nơi, thấy vách tường sơn trắng, suối nước chảy qua, cửa sơn nửa khép, có cầu đá đi vào. Chàng dòm qua cửa, thấy bên trong san sát những lầu, những gác, như cảnh thượng uyển nhà vua, chàng nghĩ rằng đây là nơi ở của bậc đại quan. Chàng không dám đi vào nhưng đứng ở ngoài thì cũng nguy hiểm cho nên liều mạng mà vào.
Hai bên đường đi, hoa nở thành hàng, hương thơm nức. Qua mấy ngả quanh co, vào tới một toà lâu đài khác, mấy chục cây dương liễu thành hàng cao đụng mái nhà, chim núi hát ríu rít thì hoa càng bay, cơn gió thổi phe phẩy thì lá cây tự rụng, thật là cảnh sắc đẹp mắt khoái tâm, chẳng phải cõi trần. Đi xuyên qua một lớp tiểu đình, thấy một giá đu, cao vút mây xanh, lúc đó tứ bề lặng lẽ, không có bóng người nào. Chàng nghĩ gần chốn khuê các, cho nên nhút nhát không dám vào nữa.
Bỗng nghe tiếng ngựa hí cổng ngoài, với tiếng con gái cười nói, chàng nép mình nằm phục trong đám cây hoa. Một lát, tiếng cười tiến đến gần, nghe một cô nói:
- Bữa nay đi săn không vui, bắt được muông chim rất ít.
Một cô khác nói:
- Nếu công chúa không bắn rơi một con nhạn hôm nay, thì ra cuộc săn tốn công vô ích.
Liền đó, mấy người thị nữ áo đỏ nâng đỡ một thiếu nữ mười tuổi đến ngồi trong tiểu đình. Nàng mặc nhung phục, vẻ đẹp hoa ngọc cũng không bì kịp. Bọn gái hầu dâng trà thơm và đốt trầm hương, khói cuộn long lanh như gấm dệt. Giây lát, nàng đứng dậy bước xuống dưới thềm, một cô gái hầu nói:
- Công chúa đi săn nhọc mệt, giờ có thể chơi đu được chăng?
Nàng cười và gật đầu. Bọn gái hầu liền xúm lại, kẻ đỡ vai, người nâng cẳng, lại có đứa xắn quần, cầm giày, đỡ công chúa lên bàn đu. Công chúa đưa hai cánh tay nõn nà, nắm lấy dây đu, chân thì nhún nhảy trên bàn đạp, nhẹ nhàng như chim én bay liệng trên mây.
Công chúa đánh đu một lúc, bọn hầu lại đỡ xuống và nói:
- Công chúa thật là nàng tiên!
Chu lang hé mắt dòm từ đầu tới cuối, hồn phách tê mê.
Bỗng nhiên, một tên cung nữ nhìn thấy chàng, bèn hô hoán lên, bắt đem chém.
Trong đám có một cung nữ nhìn kĩ chàng rồi la thất thanh:
- Tưởng ai, té ra Chu tướng công đây mà!
Nàng nói và ngăn bảo đừng chém vội, để nàng vào bẩm vương phi. Nàng lật đật chạy đi giây lát, trở lại nói rất lễ phép:
- Vương phi xin mời Chu lang vào.
Chàng run sợ đi theo, qua mấy chục lần cửa, đến toà cung điện, ngoài treo rèm ngọc móc vàng, liền có mĩ nữ cuốn rèm lên và xướng tâu:
- Chu lang vào triều bái!
Một thiếu phụ ngồi trên, tuổi khoảng 40, bào phục cực kì lộng lẫy. Chàng cúi đầu mọp mình nói:
- Thần là người ở xa xôi tới đây, rủi lạc vào chốn tôn nghiêm, muôn đội ơn trên tha thứ.
Vương phi vội vàng đứng dậy, tự đỡ tay chàng và nói:
- Nếu không nhờ có tiên sinh, thì tôi đâu còn tới ngày hôm nay. Bọn tôi tớ chẳng rõ nguồn cơn, đến nỗi thất lễ với quý khách, lỗi đó lấy gì chuộc đặng.
Lập tức sai dọn tiệc hoa, rót rượu bằng chén ngọc, ân cần thết đãi. Chàng mờ mịt chả hiểu duyên cớ ra sao. Vương phi nói:
- Đại ơn tái tạo, bấy lâu chưa được báo đền, lòng hằng cắn rứt. Tiên sinh quên năm xưa, trên sông Bạch Đằng, tôi là con Thuồng Luồng bị lũ giặc Hồ xâm phạm, lại bị cung tiễn bắn trúng. Nhờ có chàng cứu mà được thoát nạn, lại xức thuốc cho vết thương được lành, cả nhà thiếp cảm bội, canh cánh bên lòng chẳng quên.
Bấy giờ chàng mới biết ra vương phi thuộc giống Long thần. Lại hỏi trong đám gái hầu, sao có một đứa lại nhận được mặt, công chúa đáp:
- Hôm đó chàng ngồi trên thuyền ở sông Bạch Đằng, hẳn trông thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi con Thuồng Luồng bị thương mà không rời bỏ, tức là con hầu ấy.
Chu lang ở lại Thủy cung, trở thành thượng khách của Đông Hải Long Vương. Trong những khi thong thả, chàng thường đọc sách kinh điển và Luật pháp ở Thủy Cung. Chàng thường tới Thư viện Hoàng gia mượn sách. Trong thư viện không những nhiều sách mà còn nhiều học giả. Chu sinh được các học giả kính trọng về tài đức .
Thấy Hiến pháp Thủy cung nói đến tự do và dân chủ, chàng hỏi:- Thế nào là tự do dân chủ ở đây?
Quan Đại Học sĩ Hàn lâm viện đáp:
-Ở nơi này ai cũng có tự do. Triều đình có tự do của triều đình, dân chúng có tự do của dân chúng. Như ở triều đình, vua có quyền của vua, tể tướng có quyền của tể tướng, hoàng hậu có quyền của hoàng hậu. . . Nhân dân cũng có rất nhiều quyền. Chồng có quyền của chồng, vợ có tự do của vợ, trai có quyền của trai, gái có quyền của gái, thành thử ai cũng tự do, hạnh phúc.
Chu sinh hỏi:-Theo trần gian, chế độ vua qua, hoàng hậu, vương phi, công chúa, phò mã là chế độ quân chủ. Đã là quân chủ sao gọi là dân chủ?
Quan Đại học sĩ đáp:
-Thật ra khó phân biệt quân chủ với dân chủ. Trên lý thuyết, nhiều chế độ quân chủ mà rất dân chủ, trong khi đó nhiều chế độ dân chủ, nhân dân mà đảng đoàn hoặc tổ chức nắm độc quyền và theo kiều "cha truyền con nối". Nước chúng tôi theo quân chủ nhưng dân chủ, tự do gấp ngàn lần các nước mang danh dân chủ hay cộng hòa.
Nghe quan Đại Học sĩ giải bày, chàng thấy quan thật giỏi giang, tinh thông mọi luật lệ và tổ chức trên vũ trụ.
Hôm sau, chàng gặp quan Đại Học sĩ Giáo thụ trường Quốc tử giám, chàng hỏi:
-Trong hoàng cung, thức ăn ê hề nhưng sao nhân dân chỉ ăn rau dưa?
-Trước đây, triều đình theo chính sách cách mạng, mọi người ăn mặc, làm việc và hưởng lương bổng bằng nhau, nhưng chính sách này làm cho sản xuất đình trệ, cho nên phải đổi chính sách, trong xã hội có ba vạn, sáu ngàn bực lương khác nhau. Tiêu chuẩn của thư lại là chỉ số 80 trong khi lương thượng thư là 8 ngàn, và phụ cấp gấp mười lương bổng. Mức lương và cuộc sống cao thấp khác nhau chính là nguồn gốc bình đẳng xã hội ở nơi Thủy Cung này! Lại nữa, dân chúng ở đây tu theo khổ hạnh, họ tự nguyện ăn ít, mặc đơn sơ để mau được gần Thượng Đế Toàn Năng!
Vài tháng sau, Chu lang đến thăm Viện trưởng Viện Văn Học. Viện trưởng gần 60 nhưng vẫn mạnh khoẻ. Mười hai bà vợ của Viện trưởng ra chào hỏi. Chu sinh ngạc nhiên hỏi:
-Tôi đọc luật thấy nơi này chỉ có một vợ một chồng, tại sao Ngài lại có những 12 bà vợ?
-Luật là bày ra mà chơi. Vả lại, luật này đã xưa, Triều đình chưa kịp cập nhật hóa. Xin tiên sinh nhìn theo hiện thực xã hội, đừng quá theo sách vở và lý thuyết!
-Thế dân chúng có quyền nhiều vợ không?
-Vua quan thì được tự do học tập và sống theo đạo đức của Hoàng Đế, còn dân chúng thì phải theo pháp luật chặt chẽ như triều đình đã quy định.
Một hôm, chàng giả dạng thường dân đi ra ngoài nhân dân. Gặp một anh nhà báo, chàng hỏi:
Hơn một năm sau, chàng nghỉ việc về Hà Đông, lại qua sông Bạch Đằng, bị gió bão lớn đánh ghe lật chìm, may phúc chàng ôm được một miếng ván, lênh đênh cả đêm mới dạt vào một hoang đảo. Nhìn quanh, chàng chỉ thấy núi non hiểm trở, rừng xanh trùng trùng điệp điệp, chẳng có bóng người nào lại qua hòng thăm hỏi đường sá. Chàng sợ hùm beo xông ra cắn chết. Nếu không thì cũng bị đói khát mà chết.
Từ sáng sớm đến quá giờ ngọ, chàng vẫn loanh quanh ven biển. Mới bò lưng chừng núi, nghe tiếng rung reng, đang dáo dác suy nghĩ, thấy hai cô thiếu nữ cưỡi ngựa từ đầu kia đi tới, rong ruổi như bay. Cô nào cũng khăn lụa bịt trán, tóc cắm lông trĩ, mình vận áo tím chẽn tay, thắt lưng gấm xanh, vai mang cung tên. Qua phía nam núi, có mấy chục người ngựa đang săn trong đám rừng rậm, đều là mĩ nữ, trang sức như nhau.
Chàng không dám bước tới, chừng thấy một người đàn ông đi bộ, trông như lính chăn ngựa mới lần đến hỏi thăm.
Người lính đáp:
- Ngài là vương phi của vua Đông Hải, hôm nay lên Hoa Sơn săn bắn đó.
Chàng kể lai lịch của mình và kêu đói bụng. Người lính đưa cho gói cơm khô và căn dặn:
- Chú nên tìm đường tránh xa, nếu để vương phi trông thấy thì chết mất xác đó!
Nghe nói sợ quá, chàng lật đật xuống núi, thấy trong rừng rậm có bóng lâu đài, ý chừng là cảnh chùa, liền nhắm hướng đó đi lần tới. Đến nơi, thấy vách tường sơn trắng, suối nước chảy qua, cửa sơn nửa khép, có cầu đá đi vào. Chàng dòm qua cửa, thấy bên trong san sát những lầu, những gác, như cảnh thượng uyển nhà vua, chàng nghĩ rằng đây là nơi ở của bậc đại quan. Chàng không dám đi vào nhưng đứng ở ngoài thì cũng nguy hiểm cho nên liều mạng mà vào.
Hai bên đường đi, hoa nở thành hàng, hương thơm nức. Qua mấy ngả quanh co, vào tới một toà lâu đài khác, mấy chục cây dương liễu thành hàng cao đụng mái nhà, chim núi hát ríu rít thì hoa càng bay, cơn gió thổi phe phẩy thì lá cây tự rụng, thật là cảnh sắc đẹp mắt khoái tâm, chẳng phải cõi trần. Đi xuyên qua một lớp tiểu đình, thấy một giá đu, cao vút mây xanh, lúc đó tứ bề lặng lẽ, không có bóng người nào. Chàng nghĩ gần chốn khuê các, cho nên nhút nhát không dám vào nữa.
Bỗng nghe tiếng ngựa hí cổng ngoài, với tiếng con gái cười nói, chàng nép mình nằm phục trong đám cây hoa. Một lát, tiếng cười tiến đến gần, nghe một cô nói:
- Bữa nay đi săn không vui, bắt được muông chim rất ít.
Một cô khác nói:
- Nếu công chúa không bắn rơi một con nhạn hôm nay, thì ra cuộc săn tốn công vô ích.
Liền đó, mấy người thị nữ áo đỏ nâng đỡ một thiếu nữ mười tuổi đến ngồi trong tiểu đình. Nàng mặc nhung phục, vẻ đẹp hoa ngọc cũng không bì kịp. Bọn gái hầu dâng trà thơm và đốt trầm hương, khói cuộn long lanh như gấm dệt. Giây lát, nàng đứng dậy bước xuống dưới thềm, một cô gái hầu nói:
- Công chúa đi săn nhọc mệt, giờ có thể chơi đu được chăng?
Nàng cười và gật đầu. Bọn gái hầu liền xúm lại, kẻ đỡ vai, người nâng cẳng, lại có đứa xắn quần, cầm giày, đỡ công chúa lên bàn đu. Công chúa đưa hai cánh tay nõn nà, nắm lấy dây đu, chân thì nhún nhảy trên bàn đạp, nhẹ nhàng như chim én bay liệng trên mây.
Công chúa đánh đu một lúc, bọn hầu lại đỡ xuống và nói:
- Công chúa thật là nàng tiên!
Chu lang hé mắt dòm từ đầu tới cuối, hồn phách tê mê.
Bỗng nhiên, một tên cung nữ nhìn thấy chàng, bèn hô hoán lên, bắt đem chém.
Trong đám có một cung nữ nhìn kĩ chàng rồi la thất thanh:
- Tưởng ai, té ra Chu tướng công đây mà!
Nàng nói và ngăn bảo đừng chém vội, để nàng vào bẩm vương phi. Nàng lật đật chạy đi giây lát, trở lại nói rất lễ phép:
- Vương phi xin mời Chu lang vào.
Chàng run sợ đi theo, qua mấy chục lần cửa, đến toà cung điện, ngoài treo rèm ngọc móc vàng, liền có mĩ nữ cuốn rèm lên và xướng tâu:
- Chu lang vào triều bái!
Một thiếu phụ ngồi trên, tuổi khoảng 40, bào phục cực kì lộng lẫy. Chàng cúi đầu mọp mình nói:
- Thần là người ở xa xôi tới đây, rủi lạc vào chốn tôn nghiêm, muôn đội ơn trên tha thứ.
Vương phi vội vàng đứng dậy, tự đỡ tay chàng và nói:
- Nếu không nhờ có tiên sinh, thì tôi đâu còn tới ngày hôm nay. Bọn tôi tớ chẳng rõ nguồn cơn, đến nỗi thất lễ với quý khách, lỗi đó lấy gì chuộc đặng.
Lập tức sai dọn tiệc hoa, rót rượu bằng chén ngọc, ân cần thết đãi. Chàng mờ mịt chả hiểu duyên cớ ra sao. Vương phi nói:
- Đại ơn tái tạo, bấy lâu chưa được báo đền, lòng hằng cắn rứt. Tiên sinh quên năm xưa, trên sông Bạch Đằng, tôi là con Thuồng Luồng bị lũ giặc Hồ xâm phạm, lại bị cung tiễn bắn trúng. Nhờ có chàng cứu mà được thoát nạn, lại xức thuốc cho vết thương được lành, cả nhà thiếp cảm bội, canh cánh bên lòng chẳng quên.
Bấy giờ chàng mới biết ra vương phi thuộc giống Long thần. Lại hỏi trong đám gái hầu, sao có một đứa lại nhận được mặt, công chúa đáp:
- Hôm đó chàng ngồi trên thuyền ở sông Bạch Đằng, hẳn trông thấy một con cá nhỏ ngậm đuôi con Thuồng Luồng bị thương mà không rời bỏ, tức là con hầu ấy.
Chu lang ở lại Thủy cung, trở thành thượng khách của Đông Hải Long Vương. Trong những khi thong thả, chàng thường đọc sách kinh điển và Luật pháp ở Thủy Cung. Chàng thường tới Thư viện Hoàng gia mượn sách. Trong thư viện không những nhiều sách mà còn nhiều học giả. Chu sinh được các học giả kính trọng về tài đức .
Thấy Hiến pháp Thủy cung nói đến tự do và dân chủ, chàng hỏi:- Thế nào là tự do dân chủ ở đây?
Quan Đại Học sĩ Hàn lâm viện đáp:
-Ở nơi này ai cũng có tự do. Triều đình có tự do của triều đình, dân chúng có tự do của dân chúng. Như ở triều đình, vua có quyền của vua, tể tướng có quyền của tể tướng, hoàng hậu có quyền của hoàng hậu. . . Nhân dân cũng có rất nhiều quyền. Chồng có quyền của chồng, vợ có tự do của vợ, trai có quyền của trai, gái có quyền của gái, thành thử ai cũng tự do, hạnh phúc.
Chu sinh hỏi:-Theo trần gian, chế độ vua qua, hoàng hậu, vương phi, công chúa, phò mã là chế độ quân chủ. Đã là quân chủ sao gọi là dân chủ?
Quan Đại học sĩ đáp:
-Thật ra khó phân biệt quân chủ với dân chủ. Trên lý thuyết, nhiều chế độ quân chủ mà rất dân chủ, trong khi đó nhiều chế độ dân chủ, nhân dân mà đảng đoàn hoặc tổ chức nắm độc quyền và theo kiều "cha truyền con nối". Nước chúng tôi theo quân chủ nhưng dân chủ, tự do gấp ngàn lần các nước mang danh dân chủ hay cộng hòa.
Nghe quan Đại Học sĩ giải bày, chàng thấy quan thật giỏi giang, tinh thông mọi luật lệ và tổ chức trên vũ trụ.
Hôm sau, chàng gặp quan Đại Học sĩ Giáo thụ trường Quốc tử giám, chàng hỏi:
-Trong hoàng cung, thức ăn ê hề nhưng sao nhân dân chỉ ăn rau dưa?
-Trước đây, triều đình theo chính sách cách mạng, mọi người ăn mặc, làm việc và hưởng lương bổng bằng nhau, nhưng chính sách này làm cho sản xuất đình trệ, cho nên phải đổi chính sách, trong xã hội có ba vạn, sáu ngàn bực lương khác nhau. Tiêu chuẩn của thư lại là chỉ số 80 trong khi lương thượng thư là 8 ngàn, và phụ cấp gấp mười lương bổng. Mức lương và cuộc sống cao thấp khác nhau chính là nguồn gốc bình đẳng xã hội ở nơi Thủy Cung này! Lại nữa, dân chúng ở đây tu theo khổ hạnh, họ tự nguyện ăn ít, mặc đơn sơ để mau được gần Thượng Đế Toàn Năng!
Vài tháng sau, Chu lang đến thăm Viện trưởng Viện Văn Học. Viện trưởng gần 60 nhưng vẫn mạnh khoẻ. Mười hai bà vợ của Viện trưởng ra chào hỏi. Chu sinh ngạc nhiên hỏi:
-Tôi đọc luật thấy nơi này chỉ có một vợ một chồng, tại sao Ngài lại có những 12 bà vợ?
-Luật là bày ra mà chơi. Vả lại, luật này đã xưa, Triều đình chưa kịp cập nhật hóa. Xin tiên sinh nhìn theo hiện thực xã hội, đừng quá theo sách vở và lý thuyết!
-Thế dân chúng có quyền nhiều vợ không?
-Vua quan thì được tự do học tập và sống theo đạo đức của Hoàng Đế, còn dân chúng thì phải theo pháp luật chặt chẽ như triều đình đã quy định.
Một hôm, chàng giả dạng thường dân đi ra ngoài nhân dân. Gặp một anh nhà báo, chàng hỏi:
-Thế ở đây dân chúng có được tự do không?
Nhà báo nhìn trước, nhìn sau rồi nói:
-Trên giấy tờ là họ viết ra các khẩu hiệu dân chủ, tự do, bình đẳng để loè bịp chứ thực ra trong thực tế làm gì có tự do. Thực ra, ở đây có hai thứ tự do, dân chúng có tự do đói, tự do ngồi tù; còn vua quan có quyền ngồi trên đầu thiên hạ, có quyền giết người , bỏ tù, và cướp tài sản nhân dân!
-Ở đây nhân dân có sướng bằng vua quan không?
-Trên nguyên tắc, mọi người bình đẳng, tự do nhưng vua quan thì có quyền bình đẳng, tự do hơn nhân dân, nghĩa là ăn nhiều hơn, có nhiều nhà cửa hơn nhân dân, mặc đẹp hơn, đi xe sang trọng hơn nhân dân.Quan cũng có nhiều loại: Quan to ăn nhiều hơn quan nhỏ.
-Thế ở đây có thực hiện đúng như hiến pháp quy định:"Làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu" không?
-Câu này có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.Vua quan làm theo khả năng nghĩa là ngu dốt thì không làm, hoặc làm dối trá tùy ý họ nhưng hưởng thụ thì bao nhiêu cũng được, một tháng có thể hưởng hàng trăm, hàng ngàn lượng vàng. Còn dân chúng thì phải tăng khả năng gấp hai, gấp ba và hưởng thụ theo như cầu của triều đình!Nếu triều đình quy định làm một tháng mà chỉ ăn được một tuần thì cũng phải chịu vì không thể chạy đi đâu.
-Thế dân chúng ở đây có thể đi du lịch hoặc xuất ngoại không?
-Trên pháp luật, ai cũng có quyền xuất ngoại nhưng thực tế thì khác.Dân chúng không có tiền đong gạo thì làm sao mà có tiền đi du lịch? Du lịch hay xuất ngoại là đặc ân, đặc quyền của vua quan và con ông cháu cha.
- Trong pháp luật, tôi thấy nhân dân có quyền gặp vua quan để bày tỏ ý kiến, nhưng tôi không thấy vua quan gặp dân chúng hay dân chúng gặp vua quan. Ngay cả tôi cũng bị dân chúng xa lánh.
-Đúng rồi, trong pháp luật, triều đình đặt ra nguyên tắc thân dân, gần dân, vì dân nhưng thực tế không phải vậy. Thằng dân nào mà "được" gần quan lại thì coi như đời tàn trong ngõ hẹp! Vua quan cũng không muốn gần dân vì sợ dân ám sát. Ông cũng nên cẩn thận. Ông thăm hỏi dân là họ sẽ bị cảnh vệ theo dõi và tra tấn về tội gián điệp.
Vương phi muốn Chu lang ở lại lấy vợ và sinh sống nơi đây. Vương phi hứa hẹn cho Chu lang được đãi ngộ vào tầng lớp thượng lưu, lấy vợ giàu đẹp, mặc sức sống một đời huy hoàng nhưng Chu lang từ chối, xin phép Vương phi cho trở về. Vương phi chấp thuận bèn tặng cho chàng một trăm hạt trân châu và ra lệnh cho Kình Đại tướng quân và Long Đại tướng quân đem binh thuyền chở Chu sinh về quê. Vài ngày sau, Long thuyền về đến cửa Bạch Đằng, Chu sinh lên bộ mà về nhà. Thấm thoắt đã mười năm. Vợ đã già, con đã lớn.Chàng kể chuyện Long cung, ai cũng cho là kỳ lạ. Chàng đem một vài hạt trân châu bán đi đủ xây dinh thự, mua ruộng đất, sống một đời nhàn hạ.
Nhà báo nhìn trước, nhìn sau rồi nói:
-Trên giấy tờ là họ viết ra các khẩu hiệu dân chủ, tự do, bình đẳng để loè bịp chứ thực ra trong thực tế làm gì có tự do. Thực ra, ở đây có hai thứ tự do, dân chúng có tự do đói, tự do ngồi tù; còn vua quan có quyền ngồi trên đầu thiên hạ, có quyền giết người , bỏ tù, và cướp tài sản nhân dân!
-Ở đây nhân dân có sướng bằng vua quan không?
-Trên nguyên tắc, mọi người bình đẳng, tự do nhưng vua quan thì có quyền bình đẳng, tự do hơn nhân dân, nghĩa là ăn nhiều hơn, có nhiều nhà cửa hơn nhân dân, mặc đẹp hơn, đi xe sang trọng hơn nhân dân.Quan cũng có nhiều loại: Quan to ăn nhiều hơn quan nhỏ.
-Thế ở đây có thực hiện đúng như hiến pháp quy định:"Làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu" không?
-Câu này có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.Vua quan làm theo khả năng nghĩa là ngu dốt thì không làm, hoặc làm dối trá tùy ý họ nhưng hưởng thụ thì bao nhiêu cũng được, một tháng có thể hưởng hàng trăm, hàng ngàn lượng vàng. Còn dân chúng thì phải tăng khả năng gấp hai, gấp ba và hưởng thụ theo như cầu của triều đình!Nếu triều đình quy định làm một tháng mà chỉ ăn được một tuần thì cũng phải chịu vì không thể chạy đi đâu.
-Thế dân chúng ở đây có thể đi du lịch hoặc xuất ngoại không?
-Trên pháp luật, ai cũng có quyền xuất ngoại nhưng thực tế thì khác.Dân chúng không có tiền đong gạo thì làm sao mà có tiền đi du lịch? Du lịch hay xuất ngoại là đặc ân, đặc quyền của vua quan và con ông cháu cha.
- Trong pháp luật, tôi thấy nhân dân có quyền gặp vua quan để bày tỏ ý kiến, nhưng tôi không thấy vua quan gặp dân chúng hay dân chúng gặp vua quan. Ngay cả tôi cũng bị dân chúng xa lánh.
-Đúng rồi, trong pháp luật, triều đình đặt ra nguyên tắc thân dân, gần dân, vì dân nhưng thực tế không phải vậy. Thằng dân nào mà "được" gần quan lại thì coi như đời tàn trong ngõ hẹp! Vua quan cũng không muốn gần dân vì sợ dân ám sát. Ông cũng nên cẩn thận. Ông thăm hỏi dân là họ sẽ bị cảnh vệ theo dõi và tra tấn về tội gián điệp.
Vương phi muốn Chu lang ở lại lấy vợ và sinh sống nơi đây. Vương phi hứa hẹn cho Chu lang được đãi ngộ vào tầng lớp thượng lưu, lấy vợ giàu đẹp, mặc sức sống một đời huy hoàng nhưng Chu lang từ chối, xin phép Vương phi cho trở về. Vương phi chấp thuận bèn tặng cho chàng một trăm hạt trân châu và ra lệnh cho Kình Đại tướng quân và Long Đại tướng quân đem binh thuyền chở Chu sinh về quê. Vài ngày sau, Long thuyền về đến cửa Bạch Đằng, Chu sinh lên bộ mà về nhà. Thấm thoắt đã mười năm. Vợ đã già, con đã lớn.Chàng kể chuyện Long cung, ai cũng cho là kỳ lạ. Chàng đem một vài hạt trân châu bán đi đủ xây dinh thự, mua ruộng đất, sống một đời nhàn hạ.
69. GIÁM SINH ĂN TRỘM
Đoàn
sinh là con của một viên tri phủ, ở đất Gia Định, thi đỗ tú tài ba
lần nhưng rớt cử nhân. Vì cha quen biết quan thượng thư Lại bộ và quan
Tư nghiệp Quốc tử giám nên sinh được vào học Quốc Tử Giám tại kinh
đô. Giám sinh vốn hay thi phú và cũng là người chính trực và can đảm. Ở
đất kinh đô Huế, giám sinh quen nhiều bạn bè cho nên có người bạn
giàu đem em gái gả cho Đoàn giám sinh. Thế là giám sinh có vợ con, cơ
ngơi ở kinh đô và ở lại nơi này tạo dựng sự nghiệp.
Lúc bấy giờ nhạc phụ của Đoàn giám sinh là một Viên ngoại lang ở Lễ bộ, gia tư cũng bậc đại phú quý. Mọi điều trong gia đình Viên ngoại đều thuận lợi, chỉ riêng một việc làm Viên ngoại nhức đầu là trong nhà có yêu hồ quấy rối. Hễ để sách mất sách, để rượu mất ruợu, để tiền mất tiền. Giữa đêm khuya đang ngủ thì có tiếng ma quỷ khóc khắp nhà, hoặc tiếng người chạy thình thịch như bắt cướp. Viên ngoại đã mời thầy trừ tà nhưng không kiến hiệu. Trái lại, càng ngày lũ yêu hồ càng lộng hành.
Đoàn giám sinh bèn xin nhạc phụ cho chàng thử tài. Viên ngoại bèn dọn đi chỗ khác, để cho vợ chồng Đoàn giám sinh ở ngôi nhà ma. Chàng nghĩ rằng chánh thắng tà, có thể dùng đạo nghĩa khuyên răn loài hồ. Chàng bèn lấy Tứ thư, ngũ kinh ra giảng đọc cho yêu hồ nghe. Chàng cũng lập bàn thờ Phật, hàng ngày tụng kinh Phật, ngồi thiền và học niệm chân ngôn đạo Lão và Mật Tông. Từ đó yêu hồ bớt quấy phá. Một ngày kia, Đoàn giám sinh để một chai rượu và một con gà làm lễ mời yêu hồ. Trong chốc lát, rượu và thịt đều biến mất. Đoàn sinh lại để 20 lạng vàng ủng hộ nhà Hồ thì yêu hồ cũng thu nhận. Ít lâu sau, trên bàn có rượu thịt và một trăm lạng vàng ở đâu để trên bàn. Đoàn sinh nghĩ là do yêu hồ đem trả lại những tài vật đã lấy từ trước.
Từ đó, sinh với yêu hồ trở thành thân thiết. Yêu hồ không phá phách như trước. Hễ tuần trước sinh mời hồ yến tiệc thì tuần sau trên bàn nhà sinh lại có rượu thịt sẵn sàng đáp lễ.
Một hôm, trên bàn nhà sinh lại có rượu thịt. Lần này là một thứ rưọu đỏ như hồng ngọc, mở nắp bình rượu thì hương thơm bay ra xa gần. Sinh vui vẻ uống vào thì thấy người mạnh khoẻ như tăng thêm sức lực, một tay có thể xách nổi trăm cân. Sinh cảm thấy nhẹ nhàng có thể nhảy lên mái nhà. Sinh phấn chấn một ngày có thể ôm ấp giai nhân năm ba bận mà không chán. Và sinh lại có ý muốn đi ăn trộm. Nghe đồn nhà Yên Lệ vương có áo lông cừu quý, sinh lẻn vào lấy trộm rồi đem khoe với vợ. Sinh cũng lẻn vào Thư viện của nhà vua lấy trộm bút, mực, nghiên quý. Người vợ hoảng sợ, khóc mà bảo chồng:
-Chàng kết thân với yêu hồ cho nay chàng biến đổi mất rồi. Trước kia chàng là người chính trực, nay chàng lại đi ăn trộm. Rượu hồ đã làm chàng trở thành kẻ bất nhân, bất nghĩa, thiếp biết nhờ cậy vào ai?
Nàng bèn đi các chùa, đền tìm pháp sư và đạo sĩ. Họ cho sinh nào là thuốc, nào là bùa chú nhưng tất cả đều không kiến hiệu.
Người vợ lại đến các thầy bói xem quẻ, và các đền chùa khấn vái. Nàng đã đến Linh Sơn tự cầu hòa thượng Chân Không nhưng hòa thượng lắc đầu mà rằng:
-Bọn Hồ bây giờ trở thành quốc nạn, đa số thanh niên đều uống rượu đỏ mà sinh ra mê muội, trở thành những tên cướp của , giết người không gớm tay. Chồng của chị chỉ ăn trộm mà thôi thì cũng là tội nhỏ. Có những tên cùng hung cực ác giết cả mấy chục triệu người. Để bần tăng cầu kinh niệm chú cho quốc thái dân an, đặc biệt là cầu cho giám sinh sớm giác ngộ .
Vì đi cầu khẩn nhiều nơi, vợ sinh mới biết yêu hồ bây giờ lộng hành khắp nơi, Chúng chiếm đóng nhiều khu vực, nhiều xóm làng, nhiều gia đình. Và nhiều người đi theo Hồ, uống rượu đào nên mất bản tánh. Lúc bấy giờ đồng dao có câu:
-Nhân dân uống chén rượu tiên,
Tâm thần mê muội, đảo điên cương thường.
Đấy thời giặc cướp xưng vương,
Côn trùng, muông thú huyênh hoang anh hùng!"
-"Quỷ ma ban phát rượu đào,
Hễ ai uống vào là mất lương tri.
Uống vào quên cả đường đi,
Quên cha mẹ, quên phu thê, bạn bè.
Uống máu mà chẳng gớm ghê,
Giết người cướp của rành nghề bất lương.
Ấy là quốc vận tai ương
Chờ ngày Phật xuống mở đường cứu nguy.
Bệnh của sinh ngày càng nặng. Sinh không tích cực theo việc học hành Người vợ khuyên chàng:
Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa,
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Sinh đốt sách và đánh mắng vợ:
-Thiếu gì thằng vô học mà ngồi trên đầu thiên hạ. Học làm gì cho khổ thân!
Sinh đâm ra mê hoảng, lúc tỉnh lúc mê, nói nhảm nhí suốt ngày. Rượu vào thì lời ra:
-"Gặp thời thế, thế thời phải thế"!
Không làm con dun, con dế,
Cũng phải làm ăn trộm, ăn cướp!
-"Ai uống rượu mà không say?
Uống rượu không say, ai mà hay"!
-"Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma, mặc áo giấy"!
Lúc bấy giờ nhạc phụ của Đoàn giám sinh là một Viên ngoại lang ở Lễ bộ, gia tư cũng bậc đại phú quý. Mọi điều trong gia đình Viên ngoại đều thuận lợi, chỉ riêng một việc làm Viên ngoại nhức đầu là trong nhà có yêu hồ quấy rối. Hễ để sách mất sách, để rượu mất ruợu, để tiền mất tiền. Giữa đêm khuya đang ngủ thì có tiếng ma quỷ khóc khắp nhà, hoặc tiếng người chạy thình thịch như bắt cướp. Viên ngoại đã mời thầy trừ tà nhưng không kiến hiệu. Trái lại, càng ngày lũ yêu hồ càng lộng hành.
Đoàn giám sinh bèn xin nhạc phụ cho chàng thử tài. Viên ngoại bèn dọn đi chỗ khác, để cho vợ chồng Đoàn giám sinh ở ngôi nhà ma. Chàng nghĩ rằng chánh thắng tà, có thể dùng đạo nghĩa khuyên răn loài hồ. Chàng bèn lấy Tứ thư, ngũ kinh ra giảng đọc cho yêu hồ nghe. Chàng cũng lập bàn thờ Phật, hàng ngày tụng kinh Phật, ngồi thiền và học niệm chân ngôn đạo Lão và Mật Tông. Từ đó yêu hồ bớt quấy phá. Một ngày kia, Đoàn giám sinh để một chai rượu và một con gà làm lễ mời yêu hồ. Trong chốc lát, rượu và thịt đều biến mất. Đoàn sinh lại để 20 lạng vàng ủng hộ nhà Hồ thì yêu hồ cũng thu nhận. Ít lâu sau, trên bàn có rượu thịt và một trăm lạng vàng ở đâu để trên bàn. Đoàn sinh nghĩ là do yêu hồ đem trả lại những tài vật đã lấy từ trước.
Từ đó, sinh với yêu hồ trở thành thân thiết. Yêu hồ không phá phách như trước. Hễ tuần trước sinh mời hồ yến tiệc thì tuần sau trên bàn nhà sinh lại có rượu thịt sẵn sàng đáp lễ.
Một hôm, trên bàn nhà sinh lại có rượu thịt. Lần này là một thứ rưọu đỏ như hồng ngọc, mở nắp bình rượu thì hương thơm bay ra xa gần. Sinh vui vẻ uống vào thì thấy người mạnh khoẻ như tăng thêm sức lực, một tay có thể xách nổi trăm cân. Sinh cảm thấy nhẹ nhàng có thể nhảy lên mái nhà. Sinh phấn chấn một ngày có thể ôm ấp giai nhân năm ba bận mà không chán. Và sinh lại có ý muốn đi ăn trộm. Nghe đồn nhà Yên Lệ vương có áo lông cừu quý, sinh lẻn vào lấy trộm rồi đem khoe với vợ. Sinh cũng lẻn vào Thư viện của nhà vua lấy trộm bút, mực, nghiên quý. Người vợ hoảng sợ, khóc mà bảo chồng:
-Chàng kết thân với yêu hồ cho nay chàng biến đổi mất rồi. Trước kia chàng là người chính trực, nay chàng lại đi ăn trộm. Rượu hồ đã làm chàng trở thành kẻ bất nhân, bất nghĩa, thiếp biết nhờ cậy vào ai?
Nàng bèn đi các chùa, đền tìm pháp sư và đạo sĩ. Họ cho sinh nào là thuốc, nào là bùa chú nhưng tất cả đều không kiến hiệu.
Người vợ lại đến các thầy bói xem quẻ, và các đền chùa khấn vái. Nàng đã đến Linh Sơn tự cầu hòa thượng Chân Không nhưng hòa thượng lắc đầu mà rằng:
-Bọn Hồ bây giờ trở thành quốc nạn, đa số thanh niên đều uống rượu đỏ mà sinh ra mê muội, trở thành những tên cướp của , giết người không gớm tay. Chồng của chị chỉ ăn trộm mà thôi thì cũng là tội nhỏ. Có những tên cùng hung cực ác giết cả mấy chục triệu người. Để bần tăng cầu kinh niệm chú cho quốc thái dân an, đặc biệt là cầu cho giám sinh sớm giác ngộ .
Vì đi cầu khẩn nhiều nơi, vợ sinh mới biết yêu hồ bây giờ lộng hành khắp nơi, Chúng chiếm đóng nhiều khu vực, nhiều xóm làng, nhiều gia đình. Và nhiều người đi theo Hồ, uống rượu đào nên mất bản tánh. Lúc bấy giờ đồng dao có câu:
-Nhân dân uống chén rượu tiên,
Tâm thần mê muội, đảo điên cương thường.
Đấy thời giặc cướp xưng vương,
Côn trùng, muông thú huyênh hoang anh hùng!"
-"Quỷ ma ban phát rượu đào,
Hễ ai uống vào là mất lương tri.
Uống vào quên cả đường đi,
Quên cha mẹ, quên phu thê, bạn bè.
Uống máu mà chẳng gớm ghê,
Giết người cướp của rành nghề bất lương.
Ấy là quốc vận tai ương
Chờ ngày Phật xuống mở đường cứu nguy.
Bệnh của sinh ngày càng nặng. Sinh không tích cực theo việc học hành Người vợ khuyên chàng:
Khuyên chàng đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa,
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Sinh đốt sách và đánh mắng vợ:
-Thiếu gì thằng vô học mà ngồi trên đầu thiên hạ. Học làm gì cho khổ thân!
Sinh đâm ra mê hoảng, lúc tỉnh lúc mê, nói nhảm nhí suốt ngày. Rượu vào thì lời ra:
-"Gặp thời thế, thế thời phải thế"!
Không làm con dun, con dế,
Cũng phải làm ăn trộm, ăn cướp!
-"Ai uống rượu mà không say?
Uống rượu không say, ai mà hay"!
-"Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma, mặc áo giấy"!
-Vào xứ cởi truồng, cần gì phải mặc áo!
-Họ mời ta,
Ta cứ ngồi vào bàn tiệc,
Và giả điếc,
Giả ngây
Đừng tỏ ra mình giỏi
Mình hay.
Cứ việc vui say
Và vỗ tay
Thật lớn
Nếu không ,
Chúng bảo mình phản động
Rồi nhốt ngay!
-Họ mời ta,
Ta cứ ngồi vào bàn tiệc,
Và giả điếc,
Giả ngây
Đừng tỏ ra mình giỏi
Mình hay.
Cứ việc vui say
Và vỗ tay
Thật lớn
Nếu không ,
Chúng bảo mình phản động
Rồi nhốt ngay!
Người thì bảo giám sinh điên, tuy nhiên có người lại khen chàng là người khôn ngoan rất mực!
70. LÝ TƯỞNG XÃ HỘI
Phạm
sinh vốn là một thanh niên tầm thường. Bố anh theo nho học để lại
cho anh một cái nhà và mấy mẫu ruộng nhưng anh học chẳng được gì,
vợ con chẳng có, suốt ngày chẳng làm gì, cứ rưọu chè, cờ bạc cho
nên chẳng bao lâu chỉ còn lại căn nhà nát, còn mấy ruộng đã đoạn
mãi cho người ta rồi. Lệ làng anh, cứ trai 20 tuổi là phải ra ứng
cử lý trưởng, song anh học hành kém lại không khôn ngoan nên thất
cử. Anh bị bọn đối thủ tìm cách hãm hại cho nên bỏ lên Thái Nguyên
tính theo nghề rẫy bái.
Ở đây, anh cũng không quên được nghề cũ. Trên Thái Nguyên là đất rừng núi, giáp biên giới nên việc trồng các loại cây ma túy rất phổ biến. Khắp nơi đều có sòng bài và các băng đảng người Việt, người Hoa và người Mán, Thổ hoạt động gần như công khai.
Phạm sinh lên đây gặp may cho nên đánh bài thường thắng lớn. Vì vậy, anh được gái bu theo rất đông, trong đó có nàng Bạch Huệ là được Sinh yêu nhất. Sinh và ả đã chung sống như vợ chồng. Ả xưng ả là một tay buôn chuyến, từ kinh đô lên Thái Nguyên, tài sản có hàng ngàn cây vàng. Ả bèn mua nhà cửa, sắm giường chiếu, quần áo cho sinh. Nhưng ả vẫn giao thiệp với nhiều người lạ, trong đó có cả đàn ông, đàn bà. Sinh tỏ vẻ ghen tị thì nàng bảo vì sự nghiệp to lớn mà nàng phải giao thiệp rộng rãi. Nghe nàng nói vậy, Sinh cũng đành lòng và để mặc nàng tự do giao du. Nàng ở một nơi riêng, thỉnh thoảng mới qua lại với sinh.
Nàng thường tỏ cho sinh biết chí khí của nàng. Nàng vốn tu theo đạo Tiên, muốn thực hiện Thiên Đường hạ giới, thưởng thiện phạt ác, đem tài lực giúp dân nghèo khỏi sự bóc lột của vua quan, cường hào và bọn phú hộ.
Nàng cho rằng cuộc cách mạng phải thực hiện trong thực tế, không thể nói suông như bọn triết gia lạc hậu, phong kiến và phản động.Chúng ta phải đem lại quyền lợi thực tế cho giai cấp vô sản. Chúng ta phải làm sao cho giai cấp vô sản có cơm ăn no,. có áo mặc, có nhà ở và có ruộng cày. Muốn tạo lực lượng, muốn hoàn thành cuộc cách mạng, ta phải phát triển kinh tế và quân sự. Các cuộc cách mạng thất bại vì thiếu kinh tế và quân sự.
Từ đó, nàng để cho sinh tham gia vào hoạt động của sòng bạc. Sinh vốn là một tay cờ bạc chuyên nghiệp cho nên chàng thiện nghệ trong nghiệp đỏ đen, đem lại thành công to lớn cho các sòng bài của Bạch Huệ. Sau một thời gian, Bạch Huệ mới cho sinh biết, nàng là chúa đảng cướp. Nàng bảo sòng bài và tổ chức đảng là hai lực lượng chính của cách mạng xã hội. Dần dần, sinh đứng đầu các sòng bài và trở thành thủ hạ đắc lực của Bạch Huệ.
Một hôm, sinh đi lên chùa lễ Phật. Lúc sinh đi dạo quanh chùa, gặp một lão tăng, sinh cúi đầu chào hỏi. Sư cụ nhìn sinh ngạc nhiên:
-Thí chủ đang lâm nạn vì yêu quái.
Sinh cho rằng nhà sư này cũng là một tay bịa chuyện để moi tiền như các tay pháp sư xưa nay, cho nên chàng im lặng không trả lời, rồi bỏ đi. Sau đó, sức khỏe suy yếu, đứng ngồi khó khăn, ăn uống không được, sinh mới lo lắng. Sinh bèn gượng đến chùa, trình bày mọi việc cho sư cụ nghe.
Sư cụ nói:
-Thí chủ trúng tà đã nặng lắm nhưng lòng thí chủ chưa tin bần đạo. Vậy bần đạo sẽ chỉ cho thí chủ thấy hư thực.
Sự cụ bèn bảo sinh mở mắt và sư nhỏ vào mắt sinh vài giọt thuốc. Sư cụ dặn rằng "nhìn thấy phải như không thấy, phải im miệng như đậy kín miệng bình.".
Đêm đó, Bạch Huệ tìm đến. Nhìn nàng, sinh thấy rõ nàng là một con cáo với cái đuôi dài. Sinh định kêu lên nhưng nhớ lời sư cụ, sinh khép chặt miệng và giữ thái độ trầm tĩnh.
Tuy thấy nàng là Hồ ly, sinh vẫn nghi ngờ sư cụ, sợ ông sư dùng phép thôi miên, hoặc thuốc gây ảo giác. Hôm sau, sinh tìm đến sư cụ và nói rõ mọi việc, có ý mong sư cụ làm rõ vấn đề. Sư cụ cho sinh một liều thuốc, dặn sinh uống trước khi ngủ. Sinh nghe lời. Uống thuôc xong thì tim ngừng đập, không còn hơi thở và không mở mắt và mở miệng được mặc dầu trí óc vẫn tỉnh táo và sáng suốt.
Hôm sau, Bạch Huệ đến, nàng thấy sinh nằm lặng, bèn mới đại phu đến chữa bệnh. Đại phu xem mạch xong liền cáo thoái vì sinh đã chết. Lúc bấy giờ bên cạnh Bạch Huệ có một thanh niên cường tráng, đẹp trai vốn là Trưởng ban tổ chức. Cả hai thân mật đứng cạnh nhau.Chàng trai nói:
-Tội nghiệp thay cho thằng ngu này!
Cô nàng thấy sinh chết, không than khóc mà còn phụ họa theo tên kia. Sinh nghe rõ mồn một lời của nàng nói với tên kia:
-Nó chết sớm là may cho nó! Nó đã trúng "hấp tinh đại pháp" của em, chậm lắm là ba tháng nữa thì cũng chết. Thằng này thuộc loài người là kẻ thù của giống Hồ Ly chúng ta, cho nên lợi dụng nó một thời gian rồi thì phải giết nó! Đó là nguyên tắc của tổ tiên ta và tổ chức ta!
Ở đây, anh cũng không quên được nghề cũ. Trên Thái Nguyên là đất rừng núi, giáp biên giới nên việc trồng các loại cây ma túy rất phổ biến. Khắp nơi đều có sòng bài và các băng đảng người Việt, người Hoa và người Mán, Thổ hoạt động gần như công khai.
Phạm sinh lên đây gặp may cho nên đánh bài thường thắng lớn. Vì vậy, anh được gái bu theo rất đông, trong đó có nàng Bạch Huệ là được Sinh yêu nhất. Sinh và ả đã chung sống như vợ chồng. Ả xưng ả là một tay buôn chuyến, từ kinh đô lên Thái Nguyên, tài sản có hàng ngàn cây vàng. Ả bèn mua nhà cửa, sắm giường chiếu, quần áo cho sinh. Nhưng ả vẫn giao thiệp với nhiều người lạ, trong đó có cả đàn ông, đàn bà. Sinh tỏ vẻ ghen tị thì nàng bảo vì sự nghiệp to lớn mà nàng phải giao thiệp rộng rãi. Nghe nàng nói vậy, Sinh cũng đành lòng và để mặc nàng tự do giao du. Nàng ở một nơi riêng, thỉnh thoảng mới qua lại với sinh.
Nàng thường tỏ cho sinh biết chí khí của nàng. Nàng vốn tu theo đạo Tiên, muốn thực hiện Thiên Đường hạ giới, thưởng thiện phạt ác, đem tài lực giúp dân nghèo khỏi sự bóc lột của vua quan, cường hào và bọn phú hộ.
Nàng cho rằng cuộc cách mạng phải thực hiện trong thực tế, không thể nói suông như bọn triết gia lạc hậu, phong kiến và phản động.Chúng ta phải đem lại quyền lợi thực tế cho giai cấp vô sản. Chúng ta phải làm sao cho giai cấp vô sản có cơm ăn no,. có áo mặc, có nhà ở và có ruộng cày. Muốn tạo lực lượng, muốn hoàn thành cuộc cách mạng, ta phải phát triển kinh tế và quân sự. Các cuộc cách mạng thất bại vì thiếu kinh tế và quân sự.
Từ đó, nàng để cho sinh tham gia vào hoạt động của sòng bạc. Sinh vốn là một tay cờ bạc chuyên nghiệp cho nên chàng thiện nghệ trong nghiệp đỏ đen, đem lại thành công to lớn cho các sòng bài của Bạch Huệ. Sau một thời gian, Bạch Huệ mới cho sinh biết, nàng là chúa đảng cướp. Nàng bảo sòng bài và tổ chức đảng là hai lực lượng chính của cách mạng xã hội. Dần dần, sinh đứng đầu các sòng bài và trở thành thủ hạ đắc lực của Bạch Huệ.
Một hôm, sinh đi lên chùa lễ Phật. Lúc sinh đi dạo quanh chùa, gặp một lão tăng, sinh cúi đầu chào hỏi. Sư cụ nhìn sinh ngạc nhiên:
-Thí chủ đang lâm nạn vì yêu quái.
Sinh cho rằng nhà sư này cũng là một tay bịa chuyện để moi tiền như các tay pháp sư xưa nay, cho nên chàng im lặng không trả lời, rồi bỏ đi. Sau đó, sức khỏe suy yếu, đứng ngồi khó khăn, ăn uống không được, sinh mới lo lắng. Sinh bèn gượng đến chùa, trình bày mọi việc cho sư cụ nghe.
Sư cụ nói:
-Thí chủ trúng tà đã nặng lắm nhưng lòng thí chủ chưa tin bần đạo. Vậy bần đạo sẽ chỉ cho thí chủ thấy hư thực.
Sự cụ bèn bảo sinh mở mắt và sư nhỏ vào mắt sinh vài giọt thuốc. Sư cụ dặn rằng "nhìn thấy phải như không thấy, phải im miệng như đậy kín miệng bình.".
Đêm đó, Bạch Huệ tìm đến. Nhìn nàng, sinh thấy rõ nàng là một con cáo với cái đuôi dài. Sinh định kêu lên nhưng nhớ lời sư cụ, sinh khép chặt miệng và giữ thái độ trầm tĩnh.
Tuy thấy nàng là Hồ ly, sinh vẫn nghi ngờ sư cụ, sợ ông sư dùng phép thôi miên, hoặc thuốc gây ảo giác. Hôm sau, sinh tìm đến sư cụ và nói rõ mọi việc, có ý mong sư cụ làm rõ vấn đề. Sư cụ cho sinh một liều thuốc, dặn sinh uống trước khi ngủ. Sinh nghe lời. Uống thuôc xong thì tim ngừng đập, không còn hơi thở và không mở mắt và mở miệng được mặc dầu trí óc vẫn tỉnh táo và sáng suốt.
Hôm sau, Bạch Huệ đến, nàng thấy sinh nằm lặng, bèn mới đại phu đến chữa bệnh. Đại phu xem mạch xong liền cáo thoái vì sinh đã chết. Lúc bấy giờ bên cạnh Bạch Huệ có một thanh niên cường tráng, đẹp trai vốn là Trưởng ban tổ chức. Cả hai thân mật đứng cạnh nhau.Chàng trai nói:
-Tội nghiệp thay cho thằng ngu này!
Cô nàng thấy sinh chết, không than khóc mà còn phụ họa theo tên kia. Sinh nghe rõ mồn một lời của nàng nói với tên kia:
-Nó chết sớm là may cho nó! Nó đã trúng "hấp tinh đại pháp" của em, chậm lắm là ba tháng nữa thì cũng chết. Thằng này thuộc loài người là kẻ thù của giống Hồ Ly chúng ta, cho nên lợi dụng nó một thời gian rồi thì phải giết nó! Đó là nguyên tắc của tổ tiên ta và tổ chức ta!
Hôm sau, sư cụ và các sư trong chùa đến nhà sinh đưa thi hài sinh về chùa rồi cứu sinh tỉnh dậy.
Sinh bấy giờ cạo tóc, thay y phục ở trong chùa để tránh loài Hồ hãm
hại. Sư cụ bèn họp các bô lão trong làng để tìm phương sách diệt
Hồ. Đêm ba mươi trời tối, dân làng theo lệnh sư cụ tìm đến hang
Cáo. Họ giăng lưới xung quanh, cho chó săn đánh hơi , đào bới và
đốt củi dầu vào hang.
Rốt cuộc, hàng ngàn Cáo già trẻ bị giết sạch. Tìm tận hang, người ta thu được vàng bạc và nhiều đồ quý giá mà bọn Cáo đã thu thập trong bao nhiêu năm với chiêu bài tranh đấu cho giai cấp vô sản và xây dựng Thiên đường hạ giới!
Rốt cuộc, hàng ngàn Cáo già trẻ bị giết sạch. Tìm tận hang, người ta thu được vàng bạc và nhiều đồ quý giá mà bọn Cáo đã thu thập trong bao nhiêu năm với chiêu bài tranh đấu cho giai cấp vô sản và xây dựng Thiên đường hạ giới!
71. LA CHÂN NHÂN
Trần
công và vợ rất tin tưởng vào Thượng Đế, và họ cũng tin La chân
nhân. La chân nhân vốn người nước Sở sau sang Tần lánh nạn. Còn
Trần sinh cũng người nước Sở sang Tần làm ăn cho nên tình cảm hai
người rất gắn bó. La chân nhân thường đề cao thượng đế và thuyết
nhân quả. Ông thường bảo: Nhân quả
trùng trùng, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu.Các con phải
tin vào Thượng Đế và đại diện của thượng đế!
Ông thường kêu gọi những người nước Sở ở Tần đừng quên quê hương nước Sở, và luôn nhớ mình là người dân Sở. Ông vận động gửi tiền về Sở xây dựng quê hương, cứu đói và giúp đỡ trẻ mồ côi và tàn tật. Thiên hạ đóng góp đã nhiều mà không thấy đạo trưởng báo cáo kết quả.
La chân nhân là người tu hành theo phái " Lão Trang định hướng" cho nên rất phóng khoáng. Ông đi nhảy đầm, uống bia và ăn nhậu thả dàn. Ông thường được mời đến nhà Trần công hội họp ăn nhậu. Nơi đây, ông thường gặp Cao ông và Viên ông. Hai ông này cũng trạc tuổi với La chân nhân và Trần công nên cả bốn người rất thân mật.
Một hôm, cả bốn người cùng ăn nhậu, Viên ông nửa đùa nửa thực, hỏi đạo trưởng:
-Thưa đạo trưởng từ bi là gì?
Đạo trưởng đáp:-Từ bi là lòng thương yêu hết mọi người. Mình ở nước Tần sung sướng nên gửi tiền về giúp nhân dân nước Sở. Đó là lòng từ bi của Đạo chúng ta đối với nhân loại!
Cao ông gia nhập cuộc thảo luận:
-Mình sang đây làm đầu tắt mặt tối, đủ ăn là may, đâu có tiền gửi về bên đó. Nghe nói nước Sở nay giàu mạnh, trong mấy năm mà mọc ra hàng trăm, hàng ngàn triệu phú, tỷ phú tính theo đôn. Tại sao ông không về Sở kêu gọi vua quan, tướng tá, phú hộ bên đó đóng tiền xây dựng nước và cứu trợ dân nghèo, trẻ mồ côi? Họ xây cao lâu tửu quán hàng dãy, họ bỏ tiền vào ngân hàng nước Tấn, nước Tề, sao họ không đem chút tiền bố thí cho giai cấp vô sản?
La đạo trưởng nói:
-Chuyện bên đó họ lo, mình ở đây thì lo việc ở đây!
-Cao ông tiếp lời:
-Nếu ông nói mình ở đây phải lo việc ở đây thế sao không thấy các ông sư, ông đạo sĩ, ông linh mục giúp dân Sở ở đây thất nghiệp và tật nguyền? Các vị luôn nói công bằng tại sao các ông chẳng công bằng chút nào!
Trần công thấy tình hình căng thẳng, bèn nói sang chuyện khác:
-Đạo trường tửu lực cao như Lỗ Trí Thâm.
Viên ông đế thêm:
-Tôi thấy đạo trưởng luôn làm khách, tại sao không làm chủ một lần?
Đạo trưởng cười mà nói:
-Chuyện nhỏ. Để bần đạo quét dọn tệ xá rồi xem ngày tốt, mời các vị quá bộ sang chơi một bữa.
Ngày nọ, đạo trưởng sai tiểu đồng đem thiếp đi mời Trần công, Cao công và Viên công đến am Hoàng Kim của đạo trượng mà "nhẫm xà".
Đúng ngày giờ đã báo trong thiệp, ba vị đại gia tìm đến am Hoàng Kim. Ba người đều ngạc nhiên thấy ông đạo sĩ mà cung điện quá lớn. Bước vào vườn thì thấy vườn rất lớn, có đủ thứ kỳ hoa dị thảo. Sau khi đi dạo , đạo sĩ mời khách vào bàn tiệc, Trong phòng khách có đến 20 mỹ nữ, hai mươi ca sĩ và nhạc sĩ. Cô nào cô nấy đẹp mê hồn như Hồ Ly tinh! Rượu thì đủ thứ Mỹ, Anh, Pháp, Nga. Kẻ hầu, người giúp việc vào ra tấp nập.
Đang lúc vui nhộn như vậy thì bốn bề lửa cháy. Kẻ thì gọi cứu hỏa, người thì gọi cảnh sát. Lúc bấy giờ quang cảnh hỗn loạn. Từ các phòng chạy ra hàng trăm gái đẹp và hàng trăm khách hào hoa. Cảnh sát đã kéo đến thật đông và xe cứu hỏa kéo còi hụ chạy đến rần rần. Những gái và khách đều bị bắt. Cảnh sát đã theo dõi từ lâu. Té ra La chân nhân là kinh tài cho nước Tề, trong tòa lâu đài của La chân nhân là cơ sở chứa gái, đánh bạc và trồng cần sa.
Người ta đồn rằng sỡ dĩ có vụ cháy là do bà vợ cả của La chân nhân ghen tuông sao đó ra lệnh cho thủ hạ đốt nhà để giết chết mấy con Hồ Ly tinh đang ẩn náu trong cơ sở của ông. La chân nhân khoác áo thầy tu được một số đệ tử ủng hộ. Người năm ngàn, kẻ mười ngàn tặng ông để lập cơ sở thờ Ngọc Hoàng thượng đế. Nhiều bà còn ủng hộ La chân nhân nhiều thứ. Từ đó, La chân nhân phát triển. Ông lại được triều đình bên nước Sở móc nối từ lâu. Họ nhờ ông đưa người sang ẩn náu trong am thờ của ông. Những người này công tác bí mật đồng thời làm ca sĩ, vũ nữ và tiếp viên các loại. Sẵn tiền, La chân nhân mua xe trăm ngàn cho gái. Ông đi du hí khắp nơi. Ơ đây, ông mặc áo thầy tu, nhưng lên phi trường, ông ăn mặc theo kiểu vương tôn, công tử. Bà vợ của ông ra tay cho nên "cháy nhà ra mặt chuột" ! Trần công, Cao công và Viên công đã có dịp may nhìn thấy cơ nghiệp :"hoành tráng" và số lượng khách đông đảo của cơ sở Hoàng Kim mặc dù cả ba ông đã một phen hoảng vía tưởng đã làm heo quay!
Ông thường kêu gọi những người nước Sở ở Tần đừng quên quê hương nước Sở, và luôn nhớ mình là người dân Sở. Ông vận động gửi tiền về Sở xây dựng quê hương, cứu đói và giúp đỡ trẻ mồ côi và tàn tật. Thiên hạ đóng góp đã nhiều mà không thấy đạo trưởng báo cáo kết quả.
La chân nhân là người tu hành theo phái " Lão Trang định hướng" cho nên rất phóng khoáng. Ông đi nhảy đầm, uống bia và ăn nhậu thả dàn. Ông thường được mời đến nhà Trần công hội họp ăn nhậu. Nơi đây, ông thường gặp Cao ông và Viên ông. Hai ông này cũng trạc tuổi với La chân nhân và Trần công nên cả bốn người rất thân mật.
Một hôm, cả bốn người cùng ăn nhậu, Viên ông nửa đùa nửa thực, hỏi đạo trưởng:
-Thưa đạo trưởng từ bi là gì?
Đạo trưởng đáp:-Từ bi là lòng thương yêu hết mọi người. Mình ở nước Tần sung sướng nên gửi tiền về giúp nhân dân nước Sở. Đó là lòng từ bi của Đạo chúng ta đối với nhân loại!
Cao ông gia nhập cuộc thảo luận:
-Mình sang đây làm đầu tắt mặt tối, đủ ăn là may, đâu có tiền gửi về bên đó. Nghe nói nước Sở nay giàu mạnh, trong mấy năm mà mọc ra hàng trăm, hàng ngàn triệu phú, tỷ phú tính theo đôn. Tại sao ông không về Sở kêu gọi vua quan, tướng tá, phú hộ bên đó đóng tiền xây dựng nước và cứu trợ dân nghèo, trẻ mồ côi? Họ xây cao lâu tửu quán hàng dãy, họ bỏ tiền vào ngân hàng nước Tấn, nước Tề, sao họ không đem chút tiền bố thí cho giai cấp vô sản?
La đạo trưởng nói:
-Chuyện bên đó họ lo, mình ở đây thì lo việc ở đây!
-Cao ông tiếp lời:
-Nếu ông nói mình ở đây phải lo việc ở đây thế sao không thấy các ông sư, ông đạo sĩ, ông linh mục giúp dân Sở ở đây thất nghiệp và tật nguyền? Các vị luôn nói công bằng tại sao các ông chẳng công bằng chút nào!
Trần công thấy tình hình căng thẳng, bèn nói sang chuyện khác:
-Đạo trường tửu lực cao như Lỗ Trí Thâm.
Viên ông đế thêm:
-Tôi thấy đạo trưởng luôn làm khách, tại sao không làm chủ một lần?
Đạo trưởng cười mà nói:
-Chuyện nhỏ. Để bần đạo quét dọn tệ xá rồi xem ngày tốt, mời các vị quá bộ sang chơi một bữa.
Ngày nọ, đạo trưởng sai tiểu đồng đem thiếp đi mời Trần công, Cao công và Viên công đến am Hoàng Kim của đạo trượng mà "nhẫm xà".
Đúng ngày giờ đã báo trong thiệp, ba vị đại gia tìm đến am Hoàng Kim. Ba người đều ngạc nhiên thấy ông đạo sĩ mà cung điện quá lớn. Bước vào vườn thì thấy vườn rất lớn, có đủ thứ kỳ hoa dị thảo. Sau khi đi dạo , đạo sĩ mời khách vào bàn tiệc, Trong phòng khách có đến 20 mỹ nữ, hai mươi ca sĩ và nhạc sĩ. Cô nào cô nấy đẹp mê hồn như Hồ Ly tinh! Rượu thì đủ thứ Mỹ, Anh, Pháp, Nga. Kẻ hầu, người giúp việc vào ra tấp nập.
Đang lúc vui nhộn như vậy thì bốn bề lửa cháy. Kẻ thì gọi cứu hỏa, người thì gọi cảnh sát. Lúc bấy giờ quang cảnh hỗn loạn. Từ các phòng chạy ra hàng trăm gái đẹp và hàng trăm khách hào hoa. Cảnh sát đã kéo đến thật đông và xe cứu hỏa kéo còi hụ chạy đến rần rần. Những gái và khách đều bị bắt. Cảnh sát đã theo dõi từ lâu. Té ra La chân nhân là kinh tài cho nước Tề, trong tòa lâu đài của La chân nhân là cơ sở chứa gái, đánh bạc và trồng cần sa.
Người ta đồn rằng sỡ dĩ có vụ cháy là do bà vợ cả của La chân nhân ghen tuông sao đó ra lệnh cho thủ hạ đốt nhà để giết chết mấy con Hồ Ly tinh đang ẩn náu trong cơ sở của ông. La chân nhân khoác áo thầy tu được một số đệ tử ủng hộ. Người năm ngàn, kẻ mười ngàn tặng ông để lập cơ sở thờ Ngọc Hoàng thượng đế. Nhiều bà còn ủng hộ La chân nhân nhiều thứ. Từ đó, La chân nhân phát triển. Ông lại được triều đình bên nước Sở móc nối từ lâu. Họ nhờ ông đưa người sang ẩn náu trong am thờ của ông. Những người này công tác bí mật đồng thời làm ca sĩ, vũ nữ và tiếp viên các loại. Sẵn tiền, La chân nhân mua xe trăm ngàn cho gái. Ông đi du hí khắp nơi. Ơ đây, ông mặc áo thầy tu, nhưng lên phi trường, ông ăn mặc theo kiểu vương tôn, công tử. Bà vợ của ông ra tay cho nên "cháy nhà ra mặt chuột" ! Trần công, Cao công và Viên công đã có dịp may nhìn thấy cơ nghiệp :"hoành tráng" và số lượng khách đông đảo của cơ sở Hoàng Kim mặc dù cả ba ông đã một phen hoảng vía tưởng đã làm heo quay!
72. PHÁP THUẬT HỒ GIA
Đào
sinh là học trò của trường quan Đốc học Hải Dương. Anh là học trò
nhưng giao du đủ hạng người, thường cùng các thanh niên trong xóm
uống rượu, đánh bài và ca hát. Trong vùng có một dinh thự bỏ hoang
lâu đời, chủ nhân đã bỏ theo chúa Nguyễn vào phương Nam. Dinh thự
này đã hư hại gần nửa, xung quanh cỏ cây mọc đầy, rắn, rết, dơi,
chuột, cú mèo và các loại chim thường đến trú ngụ nơi này. Người ta
kháo nhau rằng nhà này có ma. Cũng có người nói rằng ngôi nhà này
là tổ của hồ ly. Họ nói rằng có những lúc ban đêm trời tối mà đền
đuốc sáng rực lại có tiếng đàn hát xướng ca. Có người lại bảo những
đêm trăng sáng, người ta thấy có những người con gái áo trắng, tóc
dài đi thơ thẩn trong vườn.
Một hôm nọ, Đào sinh cùng uống rượu với bọn thanh niên trong làng. Họ đề cập đến dinh thự kia và thách ai có gan thì vào ngủ thử một đêm. Đào sinh nhận lời. Hôm sau mang theo một chai rượu và một quyển sách đi vào trong khu nhà bỏ trống để đọc cho qua đêm. Bọn thanh niên ở ngoài dặn sinh nếu có việc gì thì la lên, cả bọn sẽ vào giải cứu. Sinh cười mà đi vào. Sinh vào nằm một chốc thì thấy có hai thiếu nữ bước vào. Một thiếu nữ thấy sinh thì sợ hãi lui ra. Còn thiếu nữ bạo dạn hơn nắm tay, kéo chân sinh không cho ngủ. Chợt có tiếng một lão nhân bước vào, hai cô gái bèn thưa rằng:
-Thưa chủ nhân, có người lạ xâm nhập!
Lão nhân bước vào, nhìn sinh cười mà nói rằng:
-Đây là quan nghè. May thật, hôm nay có quan nghè đáo lâm, thật là vinh hạnh.
Đào sinh bèn lên tiếng chào chủ nhân. Chủ nhân nói:
-Hôm nay là ngày mừng thọ của lão phu, được quan nghè giá lâm, thật là vạn hạnh. Xin quan nghè ở lại dùng tạm chén rượu nhạt mừng ngày sinh nhật của lão phu.
Sinh vui vẻ nhận lời nhưng chàng xin chủ nhân thứ lỗi vì không kịp mang theo lễ vật mừng thọ. Lão nhân nói:
-Xin quan nghè cho đôi câu đối để làm duyên là phước đức cho bỉ nhân.
Sinh xin vâng, chủ nhân bèn sai người nhà lấy kim nhũ và lụa hồng để sinh viết câu đối. Suy nghĩ một hồi, sinh bèn viết:
Nhân, nghĩa, lễ, trí , tín, cực nhân gian chi phẩm giá,
Phúc, lộc, thọ, khang, ninh, tối thế thượng hồ phong lưu.
仁, 禮, 義 ,智, 信, 極人間之品價
福,祿, 壽, 康,寧, 最 世上乎風 流
( Có Nhân, nghĩa, lễ, trí , tín là người có giá trị nhất trong nhân gian,
Được Phúc, lộc, thọ, khang, ninh là người phong lưu nhất trên đời.)
Chủ nhân vui mừng khôn xiết, bèn sai gia nhân treo câu đối lên trong phòng khách, nơi đang bày yến tiệc.
Một lát sau, khách khứa, xe cộ đến tấp nập. Người dâng đào, kẻ mừng rưọu, kẻ tặng gấm vóc, người tặng minh châu, ôi thôi đủ thứ quý giá trên đời. Sinh đuợc mời ngồi bên cạnh chủ nhân. Khách nâng ly chúc mừng chủ nhân thất tuần thượng thọ. Tiếng sanh, tiếng trống,tiếng đàn, và tiếng ca hát trầm bổng, dập dìu, chẳng khác cõi tiên.
Trong lúc uống rượu, tại bàn có chủ nhân ngồi, các nô bộc dâng lên một bộ ly ngọc gồm 24 chiếc. Cả 24 chiếc to bằng nhau, chạm trổ tinh vi, chia thành ba nhóm. Một nhóm tám chiếc màu đỏ, một nhóm tám chiếc màu xanh, và một nhóm tám chiếc màu vàng.
Khi rót rượu đào vào, nhìn vào cốc , ta thấy bên trên như có đám mây ngũ sắc bay, mà dưới đáy cốc như có con cá vàng bơi lội. Sinh bèn lấy một cái ly màu vàng bỏ vào tay áo, tan tiệc giả đò ngủ say. Khi dọn tiệc, gia nhân thấy mất một chiếc, có ý nghi ngờ sinh lấy trộm và có ý muốn khám xét. Chủ nhân gạt đi mà bảo:
-Sau này vật hoàn cố nhân, châu sẽ về Hiệp phố, không phạm đến luật trời đâu!
Sinh nằm ngủ đến sáng thì không còn thấy khách khứa, xe cộ, cỗ bàn nữa. Một cọng rác cũng không. Tất cả y nguyên như cũ nhưng vẫn còn thoang thoảng mùi thơm của hồng phấn giai nhân. Sinh ra đến cửa thì thấy bọn thanh niên vẫn còn ở bên ngoài. Có kẻ nghi sinh ban đêm lẻn ra ngoài, bây giờ mới giả cách từ trong đi ra. Sinh bèn thuật câu chuyện và cho họ xem cái ly ngọc thì họ không còn nghi ngờ nữa.
Vài năm sau, sinh thi đỗ cử nhân, rồi tiến sĩ. Sinh được bổ làm tri huyện, sau thăng án sát Hưng Yên. Nhân buổi mừng thọ của một vị quốc công vốn có bà con gần với Trịnh vương phi, quan án sát được mời tham dự. Quan án sát là thượng khách nên được ngồi cùng bàn với ngài quốc công.
Ngài quốc công bèn mời khách uống rượu đào. Quan án ngạc nhiên vì thấy bộ ly ngọc 24 chiếc ngày xưa. Quan bèn hỏi chuyện. Vị quốc công mới kể cho quan án nghe rằng cụ tổ đời trước có thuê thợ ngọc chạm trổ đá quý thành 24 cái ly rượu. Hôm nay lấy ra mời khách thì thấy mất đi một chiếc. Quan án xem kỹ thì thấy giống như cái chén trong bữa tiệc năm xưa. Quan sai tiểu đồng về nhà lấy cái ly ngọc đem đến bàn tiệc. Quan đưa cho vị quốc công xem thì đúng là cái ly cũ đã mất. Vị quốc công ngạc nhiên và hỏi chuyện. Quan bèn kể truyện cũ ngày xưa.
Té ra loài hồ ly thần thông quảng đại có thể lấy vật quý ngoài vạn dặm. Tuy vậy, chúng vẫn biết trọng nhân tâm, thiên lý chứ không bạo ngược, gian tham vô độ và trắng trợn như con người thời nay!
Một hôm nọ, Đào sinh cùng uống rượu với bọn thanh niên trong làng. Họ đề cập đến dinh thự kia và thách ai có gan thì vào ngủ thử một đêm. Đào sinh nhận lời. Hôm sau mang theo một chai rượu và một quyển sách đi vào trong khu nhà bỏ trống để đọc cho qua đêm. Bọn thanh niên ở ngoài dặn sinh nếu có việc gì thì la lên, cả bọn sẽ vào giải cứu. Sinh cười mà đi vào. Sinh vào nằm một chốc thì thấy có hai thiếu nữ bước vào. Một thiếu nữ thấy sinh thì sợ hãi lui ra. Còn thiếu nữ bạo dạn hơn nắm tay, kéo chân sinh không cho ngủ. Chợt có tiếng một lão nhân bước vào, hai cô gái bèn thưa rằng:
-Thưa chủ nhân, có người lạ xâm nhập!
Lão nhân bước vào, nhìn sinh cười mà nói rằng:
-Đây là quan nghè. May thật, hôm nay có quan nghè đáo lâm, thật là vinh hạnh.
Đào sinh bèn lên tiếng chào chủ nhân. Chủ nhân nói:
-Hôm nay là ngày mừng thọ của lão phu, được quan nghè giá lâm, thật là vạn hạnh. Xin quan nghè ở lại dùng tạm chén rượu nhạt mừng ngày sinh nhật của lão phu.
Sinh vui vẻ nhận lời nhưng chàng xin chủ nhân thứ lỗi vì không kịp mang theo lễ vật mừng thọ. Lão nhân nói:
-Xin quan nghè cho đôi câu đối để làm duyên là phước đức cho bỉ nhân.
Sinh xin vâng, chủ nhân bèn sai người nhà lấy kim nhũ và lụa hồng để sinh viết câu đối. Suy nghĩ một hồi, sinh bèn viết:
Nhân, nghĩa, lễ, trí , tín, cực nhân gian chi phẩm giá,
Phúc, lộc, thọ, khang, ninh, tối thế thượng hồ phong lưu.
仁, 禮, 義 ,智, 信, 極人間之品價
福,祿, 壽, 康,寧, 最 世上乎風 流
( Có Nhân, nghĩa, lễ, trí , tín là người có giá trị nhất trong nhân gian,
Được Phúc, lộc, thọ, khang, ninh là người phong lưu nhất trên đời.)
Chủ nhân vui mừng khôn xiết, bèn sai gia nhân treo câu đối lên trong phòng khách, nơi đang bày yến tiệc.
Một lát sau, khách khứa, xe cộ đến tấp nập. Người dâng đào, kẻ mừng rưọu, kẻ tặng gấm vóc, người tặng minh châu, ôi thôi đủ thứ quý giá trên đời. Sinh đuợc mời ngồi bên cạnh chủ nhân. Khách nâng ly chúc mừng chủ nhân thất tuần thượng thọ. Tiếng sanh, tiếng trống,tiếng đàn, và tiếng ca hát trầm bổng, dập dìu, chẳng khác cõi tiên.
Trong lúc uống rượu, tại bàn có chủ nhân ngồi, các nô bộc dâng lên một bộ ly ngọc gồm 24 chiếc. Cả 24 chiếc to bằng nhau, chạm trổ tinh vi, chia thành ba nhóm. Một nhóm tám chiếc màu đỏ, một nhóm tám chiếc màu xanh, và một nhóm tám chiếc màu vàng.
Khi rót rượu đào vào, nhìn vào cốc , ta thấy bên trên như có đám mây ngũ sắc bay, mà dưới đáy cốc như có con cá vàng bơi lội. Sinh bèn lấy một cái ly màu vàng bỏ vào tay áo, tan tiệc giả đò ngủ say. Khi dọn tiệc, gia nhân thấy mất một chiếc, có ý nghi ngờ sinh lấy trộm và có ý muốn khám xét. Chủ nhân gạt đi mà bảo:
-Sau này vật hoàn cố nhân, châu sẽ về Hiệp phố, không phạm đến luật trời đâu!
Sinh nằm ngủ đến sáng thì không còn thấy khách khứa, xe cộ, cỗ bàn nữa. Một cọng rác cũng không. Tất cả y nguyên như cũ nhưng vẫn còn thoang thoảng mùi thơm của hồng phấn giai nhân. Sinh ra đến cửa thì thấy bọn thanh niên vẫn còn ở bên ngoài. Có kẻ nghi sinh ban đêm lẻn ra ngoài, bây giờ mới giả cách từ trong đi ra. Sinh bèn thuật câu chuyện và cho họ xem cái ly ngọc thì họ không còn nghi ngờ nữa.
Vài năm sau, sinh thi đỗ cử nhân, rồi tiến sĩ. Sinh được bổ làm tri huyện, sau thăng án sát Hưng Yên. Nhân buổi mừng thọ của một vị quốc công vốn có bà con gần với Trịnh vương phi, quan án sát được mời tham dự. Quan án sát là thượng khách nên được ngồi cùng bàn với ngài quốc công.
Ngài quốc công bèn mời khách uống rượu đào. Quan án ngạc nhiên vì thấy bộ ly ngọc 24 chiếc ngày xưa. Quan bèn hỏi chuyện. Vị quốc công mới kể cho quan án nghe rằng cụ tổ đời trước có thuê thợ ngọc chạm trổ đá quý thành 24 cái ly rượu. Hôm nay lấy ra mời khách thì thấy mất đi một chiếc. Quan án xem kỹ thì thấy giống như cái chén trong bữa tiệc năm xưa. Quan sai tiểu đồng về nhà lấy cái ly ngọc đem đến bàn tiệc. Quan đưa cho vị quốc công xem thì đúng là cái ly cũ đã mất. Vị quốc công ngạc nhiên và hỏi chuyện. Quan bèn kể truyện cũ ngày xưa.
Té ra loài hồ ly thần thông quảng đại có thể lấy vật quý ngoài vạn dặm. Tuy vậy, chúng vẫn biết trọng nhân tâm, thiên lý chứ không bạo ngược, gian tham vô độ và trắng trợn như con người thời nay!
No comments:
Post a Comment