NGUYỄN THIÊN THỤ
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
TẬP IX
MỤC LỤC
109.TỐ PHƯƠNG
110.HỒNG KỲ GIÁO
111.NGƯỜI VỢ ÁC
112.GIA ĐÌNH THÁNH GIÁO
113.CON CÁO NHÂN NGHĨA
114.ĐẠO SĨ NÚI TIÊN
115. HỒ THỊ
116.HOÀNG CÚC
117. HỒ LY BÁO ÂN
114.ĐẠO SĨ NÚI TIÊN
115. HỒ THỊ
116.HOÀNG CÚC
117. HỒ LY BÁO ÂN
109. TỐ PHƯƠNG
Dương công tử con quan Án sát Hưng Yên học hành nổi tiếng giỏi nhưng vô duyên với cử nghiệp, đã cưới con gái quan Thị Lang làm vợ, lại được cha mẹ cho lên đất Tràng An du học. Đối diện căn nhà chàng trọ học là một căn nhà u nhã, có cây trăm thước, có hoa bốn mùa. Công tử chú ý thì thấy có một thanh niên hình dung tuấn tú, phong thái tao nhã vào ra. Lân la làm quen, chuyện trò thấy hợp ý, cả mừng nắm tay đưa về chỗ mình trọ, bày tiệc thết đãi. Hỏi tới tên họ, thiếu niên tự xưng tên là Thẩm Minh, người Thanh Oai, cha mẹ mất sớm, phiêu bạt chốn Trường An. Hai bên chuyện trò tâm đầu ý hợp nên kết làm anh em. Công tử lớn hơn hai tuổi nên làm anh. Hôm sau Dương công tử tới thăm Thẩm sinh, thấy nhà cửa sáng sủa sạch sẽ nhưng vắng vẻ không có người hầu. Thiếu niên đưa công tử vào nhà trong, gọi em gái ra chào, thấy khoảng mười ba, mười bốn tuổi, da dẻ mịn màng như trứng gà bóc. Giây lát nàng bưng trà ra mời khách, như là trong nhà không có cả tỳ nữ. Hỏi tên là gì, nàng đáp tên là Tố Phương. Dương lấy làm lạ, trò chuyện vài câu rồi về, từ đó hai bên thường qua lại.
Thẩm sinh ngày nào cũng tới nhà trọ chơi, nhưng nếu giữ lại ngủ thì lấy cớ em gái ở nhà một mình từ chối. Công tử nói:- “Em một mình xa quê, nhà lại không có trẻ sai vặt, hai anh em đều yếu ớt, làm sao mà sống. Tính lại chẳng bằng cứ về chỗ ta, cũng có gian phòng hẹp ở được, em thấy sao?" Thẩm sinh mừng rỡ, hẹn để sau khi công tử thi xong. sẽ dọn sang. Hôm công tử thi xong, Thẩm sinh tới mời, nói:
- “Đêm Trung thu trăng sáng như gương, cô em Tố Phương có chén rượu nhạt mời, xin anh đừng làm nó buồn".
Công tử tới, sinh ra nghênh đón rồi kéo vào nhà trong, Tố Phương ra chào, hỏi thăm vài câu rồi trở vào nhà trong buông rèm nấu nướng. Giây lát tự bưng mâm ra, công tử đứng dậy nói :
-"Muội tử vất vả quá, ta thật không đành lòng". Tố Phương cười quay vào, lát sau rèm vén lên, một tỳ nữ áo xanh mang bầu rượu ra, kế lại có một bà già mang cá lên. Công tử kinh ngạc hỏi "-“Bọn này ở đâu ra thế? Tại sao không ra hầu sớm để làm phiền tới muội tử”.
Thẩm sinh mỉm cười nói : "Đó là thuật nhỏ của Tố Phương." Công tử chỉ nghe sau rèm có tiếng cười khanh khách, công tử không hiểu đầu đuôi ra sao.
Kế tan tiệc, người tỳ nữ và bà già dọn dẹp mâm chén, công tử bật ho văng nước bọt trúng áo người tỳ nữ, cô ta ngã lăn xuống đất, bát chén vỡ nát. Nhìn lại thì là một hình nhân bằng giấy cắt ra, cao hơn gang tay. Sinh phá lên cười, Tố Phương cũng cười bước ra dọn dẹp dưới đất rồi quay vào, lát sau người tỳ nữ lại trở ra, đi lại hầu hạ như cũ. Công tử vô cùng kinh ngạc, sinh nói :-"Đó chẳng qua thuật mọn của em gái đệ đã học được lúc nhỏ đó thôi!”
Công tử nhân dịp hỏi sao hai em đều đã lớn khôn mà chưa cưới vợ lấy chồng. Sinh đáp vì sau khi cha mẹ mất hai anh em lưu lạc nay đây mai đó, chưa có chỗ ở nhất định nên mới để chậm như vậy. Rồi bàn bạc định ngày lên đường, kế bán nhà dắt em gái theo về quê công tử. Về tới nhà, công tử giành chỗ cho hai người ở, sai một tỳ nữ qua hầu hạ.
Thấy công tử thi rớt hoài, sinh muốn khích lệ công tử học tập, nên cùng học với công tử. Thẩm rất thông minh, đọc sách chỉ đưa mắt qua là được mười hàng, làm văn thì ngay cả các bậc lão thành cũng không bằng được. Công tử khuyên dự thi khảo khóa, Thẩm nói:-" Nếu theo đuổi nghiệp khoa cử thì cũng khổ như anh thôi. Tự xét mình phúc mỏng không kham nổi việc công danh, vả lại theo nghiệp ấy thì phải lo lắng về sự được mất nên không muốn”.
Ba năm sau công tử lại thi rớt, Thẩm sinh tức giận hăng hái nói :
-"Thi đỗ thì có gì mà khó đến như vậy? Em lúc đầu không muốn mê đắm trong chuyện thành bại nên cam phận ở yên thôi. Nay thấy đại ca thi không đỗ, bất giác nổi nóng, Thi khảo khóa thì có khó gì!"
Công tử mừng rỡ, đến kỳ thi khảo hạch ở huyện, ở phủ, ở tỉnh đều đỗ đầu, lại càng ra sức cùng công tử đóng cửa đọc sách. Qua năm sau khảo thí, ở trấn cả hai đều đứng đầu. Thẩm sinh rất có tiếng tăm, xa gần tranh nhau gả con gái cho nhưng đều chối từ.
Công tử ra sức khuyên nên lấy vợ, bèn hứa là thi hương xong sẽ tính. Thi xong, những ngườỉ hâm mộ tranh nhau chép văn bài của Thẩm truyền tay đọc, Thẩm cũng tự cho rằng mình chắc chắn đỗ. nhưng khi ra bảng, cả hai anh em đều rớt.
Ít lâu sau, Thẩm sinh lâm bệnh từ trần. Chàng gọi em gái tới, mở to mắt nhìn công tử nói :-“Hai người chúng ta tình như anh em nhưng thật ra không phải đồng loại. Nay em tự biết mình có tên trong sổ ma rồi, Tố Phương đã trưởng thành, mong anh thương yêu đùm bọc cho, cưới làm thiếp cũng được".
Công tử biến sắc nói:- "Em ta mê sảng nói bậy rồi đấy . Thẩm khóc ròng, công tử lập tức bỏ món tiền lớn ra mua quan tài gỗ tốt cho. Thẩm bảo đỡ mình đứng dậy, gắng gượng bước vào nằm trong quan tài, dặn em gái rằng:- "Ta chết rồi thì đóng ngay nắp lại, đừng để bất cứ ai mở ra nhìn”, công tử còn định hỏi han thì đã tắt thở.
Công tử đau xót như anh em ruột chết, nhưng thầm ngờ về lời trối lạ lùng bèn tìm cớ sai Tố Phương ra ngoài rổi mở quan tài xem. Thấy trong quan tài chỉ có một con hồ dài hơn thước nằm chết cứng ở giữa. Đang lúc hoảng sợ chợt Tố Phương trở vào thê thảm nói :
-"Đã là anh em sao còn ngờ sợ nhau? Đúng là như anh thấy, không dám giấu diếm, nhưng nếu chuyện này mà đồn rộng ra thì thiếp không dám ở đây lâu nữa đâu”.
Công tử nói "Lễ là bởi tình mà đặt ra, đã có tình với nhau thì khác loài cũng thế thôi. Chẳng lẽ muội tử không biết lòng ta sao?
Rồi vội chọn ngày lành tháng tốt chôn cất tử tế. Trước kia công tử bàn gả Tố Phương cho nhà thế gia nhưng Thẩm không muốn, khi Thẩm chết rồi công tử lại bàn với Tố Phương, nàng cũng không chịu. Công tử nói:- "Muội tử nay đã hai mươi tuổi, lớn rồi mà không lấy chồng, mọi người sẽ nói ta thế nào?"
Nàng im lặng.
Bà vợ cả của công tử yêu thích Tố Phương, khuyên công tử nạp Tố Phương làm thiếp. Công tử chấp thuận. Tố Phương phục tòng vợ cả cho nên cả nhà thuận hòa. Tố Phương ngoài pháp thuật còn biết đàn ca, hát xướng, cả trấn đều khen ngợi Tố Phương tài sắc, đức hạnh vẹn toàn.
Trong tỉnh, có Lưu công tử, con quan Đô Đốc Tử Cấm Thành vốn là bạn đồng song, nghe tin công tử có thiếp đẹp, bèn giả cách tới thăm viếng để gần gũi.
Khi khách về, Tố Phương nói với chồng:
-Khi khách đến, thiếp lén nhìn ra, thấy Lưu công tử tướng mạo gian ác, xảo trá. Xin chàng hãy đề phòng.
Một ngày xuân nọ, công tử cùng hai nô bộc lên trấn dự thi khảo khóa thì một đêm nọ, một bọn giặc cướp bịt mặt xông vào nhà Dương công tử, bắt trói vợ cả và Tố Phương định mang đi không ngờ hai, ba con rắn hổ mang ỏ đâu xông tới, tên chủ tướng sợ hãi bỏ chạy ra ngoài, té xuống đập đầu vào tảng đá lớn trước thềm mà chết. Bọn tôi tớ kêu la om sòm, xóm làng tới cứu kịp, giở mặt nạ tên tướng cướp thì ra là Lưu công tử.
Quan Đô Đốc kiện lên Hình bộ, cho là người nhà Dương công tử giết Lưu công tử rồi vu khống Lưu công tử là ăn cướp, và cáo Tố Phương đã dùng pháp thuật mê hoặc người. Quan Hình bộ thượng thư bèn ra lệnh bắt giam Tố Phương, và giam lỏng tất cả mọi người trong nhà.
Công tử nghe tin hung, vột vã tới ngục thăm Tố Phương. Tới cửa ngục, công tử thấy Tố Phương đang nằm dưới đất, có vẻ rất khổ sở, ngước lên thấy chồng, nước mắt trào ra, kế nói :-"Bọn ngục lại đều ăn hối lộ, được dặn dò nên ngày đêm đánh đập tra khảo thiếp cho nên đùi vế dập nát cả rồi". Dương công tử tức giận mắng bọn ngục tốt:- "Nếu vợ ta có tội cũng đã có phép vua, bọn quỷ chết dịch chúng bay há lại được ngang ngược như thế à?”
Rồi trở ra viết đơn đến quan huyện kêu oan. Quan huyện là chân tay quan Đô Đốc, cho rằng lời tố cáo của công tử không có bằng cứ, không thèm xét xử. Công tử bèn lên phủ đường kiện, dây dưa nửa tháng mới được xử. Quận phủ sai đánh công tử một trận, phê đơn cho như quan huyện đã xử, rồi sai lính giải công tử về huyện. Tại đây, công tử bị cùm kẹp, đau đớn oan ức không sao chịu nổi. Quan huyện sở tại, sợ công tử lại kiện, sai nha dịch giải về nhà, nha dịch đưa tới cỗng rồi đi. Công tử không chịu vào, lại trốn lên quan trấn thủ, tố cáo phủ huyện bất công và tàn ác. Quan trấn thủ lập tức cho bắt hai bên nguyên và bị đối chất.
Quan Đô đốc kinh thành nghe tin, bèn phái thủ hạ là viên Tú tài mưu sĩ đến thăm quan Trấn thủ và hỏi lập trường quan trấn thủ ra sao. Quan nói cứ theo công lý mà làm. Viên tham mưu bảo quan Trấn thủ phải đứng trên quan điểm cách mạng.
Quan trấn thủ hỏi:- Quan điểm cách mạng nghĩa là gì?
Viên Tú tài mưu sĩ đáp:
-Đó là quan điểm phân biệt bạn thù. Ai theo ta là bạn, ai chống ta là thù. Kẻ thù phải bị tiêu diệt dù là cha mẹ, anh em, bạn bè. Phải đặt lý tưởng trên tình cảm.
Quan trấn thủ nghe lý luận này thì cho là mới lạ quá, nên không hiểu, bèn yêu cầu mưu sĩ nói thêm.
Viên mưu sĩ Tú tài giảng giải:- Thí dụ quan điểm lạc hậu cho rằng thầy thuốc là phải cứu mọi người, không phân biệt già trẻ, địa vị, tôn giáo. Nay thì phải bỏ quan niệm cũ. Thầy thuốc chỉ cứu phe ta, ai không thuộc phe ta thì cho chết bỏ!
Ta xin vì ông đưa ra một thí dụ hai. Ví như làm quan án xử kiện. Quan điểm lạc hậu cho rằng quan án phải xử công bằng, mọi người như nhau. Nếu luật ban hành xử kẻ ăn trộm bị chặt tay thì hoàng thân, quốc thích hay ăn mày phạm tội ăn trộm đều phải bị chặt tay. Tư duy cách mạng thì khác. Phải phân biệt bạn với thù. Những ai đóng góp cho triều đình, là đồng chí của ta thì dù họ giết hàng ngàn, hàng vạn người, ăn cắp hàng tỷ, mình vẫn tha bổng hoặc xử lý nội bộ. Trái lại, những kẻ chống đối triều đình hoặc không thuộc phe ta, nếu ăn cắp một xu, hoặc làm một bài thơ vu vơ nói bóng nói gió triều đình thì bỏ tù nó suốt đời hoặc phải đem giết nó đi. Cũng có thể mình bảo nó mà nó không theo mình hay theo mình một cách miễn cưỡng, mình có thể gán cho nó các trọng tội như phản động, tay sai ngoại bang, tiết lộ bí mật quốc gia mà đem xử công khai hoặc cho nó đi mò tôm không cần xét xử. Đó là tư duy mới, ông phải tuân theo. Nếu làm quan ăn cơm triều đình mà bênh vực kẻ thù của triều đình thì bản thân ông sẽ trở thành kẻ thù của triều đình và ông lập tức sẽ bị giáng chức và bị bỏ tù. Nghe như vậy, quan Trấn thủ sợ hãi và tuân lịnh.
Ông bèn sai thủ hạ bảo công tử phải viết tự kiểm, phải tự nhận là mình chủ mưu và chính vợ đã dùng yêu thuật sát hại Lưu công tử, nhưng Dương công tử không chịu.
Vài hôm sau, công tử đến cửa quan trấn thủ, viên lại già nói bên tai công tử:- "Ông ngang quá, sao còn cố chấp , không tuân lệnh quan Trấn thủ. Nay nghe đâu quan Đô Đốc đã thư gởi gắm cho quan Trấn thủ, tính mạng cả nhà ông lành ít, dữ nhiều."
Công tử cho đó là lời dọa nạt, chưa tin lắm. Lát sau có lính lệ gọi vào hầu, lên tới công đường thấy quan Trấn thủ có vẻ tức giận, không nói không rằng, sai lính đè chàng xuống đánh ngay hai mươi côn.
Công tử lớn tiếng hỏi:- “Tiểu nhân có tội gì?". Quan Trấn thủ im lặng như không nghe thấy. Công tử bị đánh kêu lớn:- “Bị đòn là đáng lắm! Ai bảo ta không có thế, không có tiền!"
Quan trấn thủ càng giận, sai đánh thêm hai mươi côn nữa, rồi hỏi còn dám kiện nữa không. Công tử đáp:- "Còn oan ức thì còn kiện. Nếu nói không kiện nữa thì là lừa dối mất, nhất định sẽ kiện nữa!" Quan hỏi lấy lời lẽ gì mà kiện, công tử đáp:- "Những vết tích trên thân mình phải chịu đây đều là lời lẽ rồi".
Quan trấn thủ tức giận sai đem nhốt ngục tối và xiềng lại. Hôm sau, quan lại sai lôi ra đánh đập, tra khảo, và hỏi công tử còn muốn kiện nữa thôi. Quá đau, công tử xin hứa không kiện nữa. Quan bèn đày công tử đi xa. Công tử phải đi bộ, lội suối trèo non, không có tiền ăn đường cũng không có tiền hối lộ nên bị quân lính đánh đập tàn bạo. Đi được vài ngàn dặm chợt gặp một chiếc xe tứ mã che màn thêu bạch hổ và đoàn hùng binh đi tới, cờ quạt kiếm kích rất oai vệ. Vì bị xiềng xích không tránh kịp nên đụng vào hàng lỗ bộ nên bị đội kỵ mã dẹp đường bắt trói, giải tới trước xe. Ngẩng nhìn thấy trong xe có một thiếu niên tướng mạo khôi vĩ, nhìn kỹ ra là Thẩm Minh. Công tử kêu to lên:-Thẩm đệ! Thẩm đệ!
Thiếu niên hô ngừng xe rồi nhảy xuống nhìn công tử rồi ôm công tử. Hai bên gặp nhau vui mừng đến rơi lệ. Thẩm bèn hỏi tại sao ra nông nỗi này. Công tử bèn kể đầu đuôi. Thẩm Minh bèn nói:-"Nay đệ được làm phán quan ở cạnh Diêm vương, xin huynh theo đệ đến đó để kháng cáo.
Công tử bèn lên xe ngồi chung với Thẩm phán quan. Xe chạy một hồi thì đến một tòa lâu đài to lớn, ngoài đề ba chữ "Sum La Điện".
Thẩm phán quan đưa sinh vào tư thất nghỉ ngơi, thết tiệc rượu đãi đằng và đưa vợ con ra chào hỏi. Hôm sau cả hai lên điện bái yết Diêm vưong. Khi vào điện thì thấy đầy đủ Lưu công tử, quan phủ, huyện và trấn thủ. Diêm vương truyền đưa Lưu công tử ra tra hỏi. Xóm làng và gia nhân đều chứng rằng họ thấy Lưu công tử là tướng cướp bịt mặt xông vào bắt thê thiếp của Dương công tử. Vua Diêm vương sai pháp quan và nha lại, lính tráng lên trần đào mả nghiệm thi. Họ còn trình rằng đã thấy vết máu trên tảng đá chứng tỏ Lưu công tử đã chết do té trúng tảng đá chứ không phải do đao kiếm, gậy gộc, hoặc thuốc độc, cung tên. Diêm vương sai nha lại dâng lên thư của quan Đô Đốc gửi cho quan trấn thủ và tra khảo các tay chân của quan Đô Đốc, quan Trấn thủ và phủ huyện thì bọn họ khai là các ông quan này nhận tiền của quan Đô Đốc kinh thành. Cuối cùng, Lưu công tử và bọn họ đã nhận tội. Diêm vương sai bỏ bọn họ vào vạc dầu, còn vợ chồng công tử đều được trở về đoàn tụ.
110. HỒNG KỲ GIÁO
Mã Văn Thành quê ở Bình Định, theo cha mẹ lưu lạc đến Tây Ninh làm ruộng, lập vườn. Cha mẹ qua đời sớm, Mã phải một mình lo toan nhưng làm ruộng bao nhiêu năm mà vẫn nghèo túng bởi vì chàng thích uống rưọu và mê cờ bạc. Bạn bè của chàng toàn là đồ vô lại.
Một hôm, nhân ngày lễ thượng nguyên chàng theo bạn đi chùa ở núi Bà Đen, Phật tử các nơi đỗ về đông đảo. Mã cũng leo lên núi, lên chùa thắp hương lễ Phật.
Mã vào chánh điện, thấy trong các Phật tử đang lễ Phật có một nữ lang xinh đẹp khoảng mười bảy, mười tám tuổi, thích lắm bèn giả làm khách dâng hương tới quỳ bên cạnh. Lại làm ra vẻ quỳ lâu mỏi gối, vịn tay vào chân nàng. Cô gái giận dữ quay nhìn rồi xích ra. Mã lại xích tới gần, lát sau lại làm như trước. Cô gái đứng phắt lên không quỳ nữa bỏ ra, Mã cũng đứng lên theo chân nhưng không biết nàng đi đàng nào, thất vọng buồn bực ra về. Dọc đường thấy cô gái đi theo một bà già, hình như là mẹ, vội rảo bước theo. Mẹ con vừa đi vừa nói chuyện, bà già nói "Con đi lễ Bà là hay lắm. Con không có em trai em gái, chỉ cần Bà phù hộ cho lấy được người chồng tốt miễn hiếu thuận là được, chẳng cần gì phải là con vua, cháu chúa".
Mã mừng thầm, mon men bắt chuyện hỏi thăm, bà già nói mình họ Trần, cô gái là con ruột, tên Thúy Vân, nhà ở phía tây núi, cách bốn mươi dặm. Mã nói "Đường núi gập ghềnh mà bác thì già yếu, em thì ẻo lả thế này làm sao về kịp?", bà đáp "Trời đã xế, mẹ con ta định ghé nhà cậu cháu ngủ nhờ". Mã nói “Lúc nãy nghe bác nói kén rể không kể nghèo hèn, vậy cháu chưa có vợ, bác thấy được không?". Bà hỏi cô gái, nàng im lặng, hỏi mấy lần mới nói :-"Y ít phúc, lại phóng đãng vô hạnh, tâm tính khinh bạc mà hay tráo trở, con không thể làm vợ một gã vô lại được".
Mã nghe thế vội tỏ ra chân thành, chỉ trời thề thốt.
Bà già mừng rỡ nhận lời, cô gái thì không thích, tỏ vẻ vùng vằng, bà mẹ phải cố làm cho nàng vui lên. Mã ân cần xách hộ hành lý, tìm một chiếc kiệu cho hai mẹ con, mình thì đi bộ theo như người hầu, cứ tới đoạn đường nào gập ghềnh lại quát tháo bọn phu kiệu bảo phải cẩn thận không được lắc mạnh, dáng lo lắng ân cần lắm. Không bao lâu tới một xóm, bà già bảo Mã cùng vào. Có ông bà già ra đón, là anh trai và chị dâu bà Trần, bà nói Mã là con rể, vừa đúng ngày tốt không cần chọn lựa nữa, cho làm lễ cưới luôn đêm nay. ông cậu cũng vui vẻ, dọn cơm rượu mời Mã kế cho Thúy Vân ăn mặc đẹp đẽ ra làm lễ rồi dọn giường giục đi ngủ. Cô gái nói "Ta vốn biết ngươi bất nghĩa, nhưng bị mẹ ép buộc nên phải theo, nếu ngươi ăn ở tử tế thì chẳng lo gì đói rét". Mã hứa hẹn rối rít rồi cùng mỹ nhân động phòng. Sáng hôm sau thức dậy, bà mẹ bảo Mã cứ về trước, mình và con gái sẽ tới ngay. Mã về quét dọn nhà cửa xong thì bà già đưa con gái tới. Vào nhà thấy trống trơn bèn nói “Thế này thì lấy gì mà sống? Ta sẽ trở lại ngay, giúp thêm chút ít cho đỡ khổ", rồi ra đi.
Hôm sau có mấy người gia nhân trai gái mang đủ thứ áo quần chén bát tới xếp đầy nhà rồi đi ngay không ở lại ăn cơm, chỉ lưu lại một người tỳ nữ hầu hạ. Mã từ đó chỉ ngồi không ăn sẵn, hàng ngày cứ theo bọn vô lại rượu chè cờ bạc, dần dà ăn cắp cả nữ trang của vợ để chơi bời. Cô gái khuyên nhiều lần không được, hết cách chỉ còn biết giữ kỹ lưỡng rương hòm, phòng ốc như đề phòng giặc cướp.
Trong nhóm, có đạo sĩ Lương Thanh Thế là người đứng đầu một tổ chức bí mật tại Miền Nam. Ông nói ông đã từng lưu lạc giang hồ ở bên Tàu , theo Hồng Kỳ Giáo , làm phụ tá cho Mao tổ sư. Hồng kỳ giáo thờ Thượng Đế, các đạo sĩ đều có pháp thuật tinh thông, có thể tàng hình, đao kiếm chém không chết. Ai dốc lòng tu đạo, xả thân vì đạo thì khi sống được giàu sanh vinh hiển, khi chết sẽ được lên nước Chúa Thiên Đàng. Nhiều người tin theo, bán gia sản, bỏ vợ con mà theo . Người ta bảo rằng ông dùng bùa ngãi để thu phục lòng người. Bọn lưu manh thấy Mã có vợ đẹp lại có tiền của bèn lập mưu thiết kế lôi kéo Mã vào tổ chức. Ban đầu họ lui tới thăm viếng tỏ tình thân ái. Sau đó là rủ uống rượu và cờ bạc. Rồi một thời gian kết nạp vào Thánh giáo. Việc kết nạp cũng khó khăn vì các tín đồ phải được ba người có uy tín trong tổ chức giới thiệu, sau đó làm lễ tuyên thệ và kết nạp. Các tân tòng phải trải qua một thời gian dài thử thách mới được chánh thức thu nhận làm hội viên.
Mã mê giàu sang, mê pháp thuật, mê thiên đàng nên đã đi theo Hồng Kỳ giáo. Sau vài năm, Mã đã được lên chức Phó Tổng Quản Đạo khu Tây Ninh. Ngày xưa Mã ăn nói lúng túng, sau mấy năm theo Hồng Kỳ, y đã ăn nói lanh lợi. Mở miệng là nói bác ái, tự do, công bằng, dân chủ, thiên đường, địa ngục, đồng chí, đạo hữu, tiên tiến, thoái hóa, lạc hậu. . . mà không ngập ngừng. Một hôm , Tổng Quản Đạo khu Nam Việt họp ở Mười Tám Thôn Vườn Trầu, đạo trưởng Lương Thanh Thế đã giới thiệu Uỷ viên trung ương của Giáo Hội từ Trung Quốc sang chủ tọa cuộc họp và ban hành mệnh lệnh của Tòa Thánh. Nay, Tòa Thánh đã quyết đẩy mạnh giai đoạn Tổng phản công chống thực dân, phong kiến, vậy toàn thể đồng chí và đạo hữu phải đem nhân tài vật lực để đánh trận cuối cùng, nắm lấy chính quyền để xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng , tự do và dân chủ.
Toàn thể hội nghị vỗ tay hoan hô đại biểu Tòa Thánh nhiệt liệt. Sau đó, các chức sắc cao cấp ở lại ba ngày để phổ biến chi tiết giáo lệnh trung ương.
Một hôm đám đồng chí tới thăm Mã, thấy vợ Mã ai nấy đều kinh ngạc tấm tắc khen ngợi, nói đùa với Mã:- "Ông giàu có lớn, ông thăng quan tiến chức lớn rồi đừng quên chúng tôi!" Mã thắc mắc xin các đạo hữu nói rõ.
Bọn họ nói:- Nay giáo chủ đang ra lệnh tổng động viên, cần nhân tài vật lực cho cuộc Tổng tấn công vào sào huyệt địch. Mới rồi thấy mặt phu nhân, thật là người tiên, lại gặp lúc gia đình không hòa thuận, nếu đem bán làm vợ lẽ phải được trăm lượng vàng còn bán cho nhà chứa phải được ngàn lượng, có ngàn lượng vàng trong nhà thì lo gì không tiền uống rượu đánh bạc và đóng góp cho Tổ chức?
Mã không đáp nhưng thầm cho là đúng. Về nhà cứ nhìn vợ thở dài, lúc lúc lại than nghèo quá không biết làm sao sống. Thúy Vân làm như không nghe, Mã cau có đập bàn ném bát, chửi mắng tỳ nữ, làm đủ trò gây gổ. Một đêm nàng mua rượu cùng uống, chợt nói :-"Chàng vì nghèo túng mà lo nghĩ ngày đêm, thiếp cũng chẳng có cách gì lo toan để chia sẻ, há không hổ thẹn, nhưng không có vật gì đáng giá, chỉ có con hầu này, đem bán đi cũng đủ vốn buôn bán lặt vặt”.
Mã lắc đầu nói -"Nó thì đáng bao nhiêu! Ta đang cần một số tiền rất lớn không phải cho bản thân ta mà cho một lý tưởng cao cả, là để cúng cho Thánh giáo, giải phóng nhân loại, và cầu hạnh phúc được lên Thiên Đường ngồi bên cạnh Thượng Đế. Ngày tháng gấp rút, không thể chậm trễ. Nếu chậm trễ sẽ bị cháy trong hỏa ngục và tiêu tan trong ngày tận thế.
Uống thêm một lúc, nàng nói:- Thiếp có tiếc gì với chàng đâu, khổ cái là đã kiệt lực rồi. Nghĩ lại thấy cứ nghèo túng thế này, cho dù theo nhau tới chết chẳng qua cũng chỉ là khổ sở suốt đời, làm sao mở mày mở mặt được. Không bằng cứ đem thiếp bán cho nhà giàu thì hai người đều có lợi, chắc được giá hơn con hầu nhiều”.
Mã làm ra vẻ kinh ngạc, nói làm gì phải tới nỗi như vậy nhưng nàng cứ nói mãi, vẻ mặt rất nghiêm trang. Mã mừng nói "Để ta tính lại". Liền đánh tiếng với một vị quan lớn đang mua ca kỹ làm con hát, vị quan đích thân tới nhà Mã, thấy cô gái rất thích, sợ không mua được ngay, bèn làm giao kèo mua ngàn quan tiền, việc thế là xong.
Thúy Vân nói:- “Mẹ thường ngày thấy nhà rể nghèo vẫn lo lắng cho, nay đã dứt hết tình nghĩa, thiếp phải về thăm một lần. Vả lại chàng đoạn tuyệt với thiếp thì cũng phải nói cho mẹ biết chứ". Mã lo bà mẹ cản trở, nàng nói "Đây vốn là do thiếp muốn, cam đoan không có việc gì đâu”, Mã bèn theo nàng đi. Gần nửa đêm mới tới nhà mẹ vợ, gõ cổng vào thấy lầu gác hoa lệ, đầy tớ đi lại tấp nập. Mã thường ngày ở với vợ vẫn muốn tới thăm mẹ nhưng cô gái cứ ngăn cản nên làm rể hơn một năm vẫn chưa lần nào tới nhà bà nhạc, lúc ấy cả sợ nghĩ rằng con gái nhà giàu có như thế này ắt không chịu làm nàng hầu con hát.
Nàng dẫn Mã lên lầu, bà già kinh ngạc hỏi :-"Sao vợ chồng lại tới đây?” Nàng khóc lóc, oán hờn nói:- "Con vẫn nói y bất nghĩa, nay quả đúng".
Rồi lấy trong túi ra hai chục nén vàng đặt lên bàn, nói :-"May mà không bị đứa tiểu nhân lừa lấy, nay xin trả cho mẹ".
Mẹ kinh ngạc hỏi duyên cớ, nàng đáp:- "Y muốn bán con đi, có giữ vàng cũng vô dụng”, rồi chỉ mặt Mã mắng:- “Đồ chó, ngày trước ngươi gánh hàng bán rong, mặt mũi lem luốc như ma, lúc đầu gần ta mồ hôi còn chua loét, cáu ghét rơi ra muốn sập giường, tay chân thì chai cộm cả tấc khiến người ta suốt đêm lợm mửa, từ khi lấy ta chỉ ngồi ăn không mới lột được lớp da quỷ sứ đi. Có mẹ ở đây, ta có đặt chuyện cho ngươi không?"
Mã cúi đầu không dám hó hé, nàng lại nói: “Ta biết mình không có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành để làm vợ bậc quý nhân, chứ với hạng đàn ông như ngươi thì chán vạn người. Hơn nữa, ta không làm gì lầm lỗi sao ngươi nỡ dứt cả nghĩa vợ chồng không nghĩ tới chút tình hương lửa. Ta há không đủ sức làm nhà lầu mua ruộng tốt sao, chỉ vì thấy ngươi là kẻ ít phúc phận, có tướng ăn mày, không thể sống với nhau trọn đời được thôi”. Nàng nói xong, bọn tớ gái kéo tới vây đặc chung quanh thóa mạ, đều nói cứ giết đi, cần gì phải nói này nọ. Mã khiếp sợ quỳ mọp dưới đất, nói đã ăn năn rồi.
Thuý Vân càng tức giận, nói:- "Bán vợ con đã là đại ác, sao ngươi còn nỡ lòng coi rẻ người bạn đầu gối tay ấp đem bán đi làm đĩ chứ?”
Nàng chưa dứt câu, mọi người đều sôi máu, kẻ rút trâm tóc, người vớ kéo may xúm vào đâm túi bụi. Mã kêu la xin tha mạng, cô gái ngăn mọi người lại, nói :-"Thôi tạm tha cho hắn, y bất nhân nhưng ta không nỡ thấy y khiếp sợ như thế", rồi dắt mọi người xuống lầu. Mã ngồi nghe ngóng một lúc, thấy không có tiếng người, toan bỏ trốn. Chợt ngẩng nhìn trời thấy sao đêm lặn hết, phương đông đã hừng sáng, trời đất mênh mang. Kế đèn lửa cũng tắt hết, nhìn lại thấy không có nhà cửa gì cả mà mình thì đang ngồi trên vách đá cheo leo, cúi xuống thấy ở dưới là vực sâu thăm thẳm, khiếp đảm sợ rơi xuống. Vừa nhúc nhích thì ầm một tiếng, tảng đá đang ngồi lở ra rơi luôn xuống vực. May vách núi có cây khô đâm ngang nên Mã vướng lại không rơi xuống, nằm vắt bụng trên thân cây, tay chân chẳng có chỗ nào bấu víu, nhìn xương vực thấy mờ mịt không biết sâu bao nhiêu trượng, không dám động đậy. Sợ muốn tắt thở, toàn thân đẫm máu, kiệt sức mê mụ ngất đi luôn. Mặt trời lên cao mới có người tiều phu nhìn thấy, tìm dây dòng xuống cứu lên, đặt trên sườn núi, thấy hơi thở thoi thóp bèn khiêng cho về nhà.
Về tới thấy cửa mở toang, trong nhà trống trơn như ngôi chùa nát, giường chiếu vật dùng đều biến mất, chỉ còn chiếc võng rách và cái bàn mục là vật cũ của mình, lê lết lên nằm, hàng ngày đói bụng lại qua các nhà láng giềng xin ăn. Kế mắc bệnh lở loét, toàn thân máu mủ bê bết, người làng ghét tính nết khinh bạc đều khạc nhổ đuổi đi. Mã hết cách sống, bán nhà vào ở trong hang núi, hàng ngày ra đường xin ăn, luôn giắt theo lưỡi dao trong mình. Có người bảo đổi dao lấy thức ăn, Mã không chịu, nói "Ở trong núi phòng hùm beo, phải có dao để tự vệ". Sau gặp kẻ khuyên mình bán vợ trên đường, bèn tới gần kể lể rồi rút dao đâm chết. Quan bắt Mã xử án, biết đầu mối là Hồng Kỳ giáo và bọn lưu manh bèn ra lệnh quan binh tróc nã. Cả bọn bị chung thân khổ sai, còn Mã bị tù mười năm vì tỏ ra ăn năn, hối hận.
111. NGƯỜI VỢ ÁC
Bàng Thật ở đất Bình An dưới chân núi Thiên sơn, ở với cha và anh. Cha Bàng 65 tuổi, mẹ mất từ lâu. Bàng chưa vợ, anh tên là Bàng Thành có vợ rồi, được một con. Hai anh em đều lấy nghề hái củi, làm ruộng làm kế sinh nhai. Mọi người trong nhà đều hiền lành đến độ si khờ.
Hàng ngày, nếu không cày cấy, gặt hái , hai anh em Bàng lên rừng hái củi gánh về chợ bán để kiếm tiền độ nhật. Công việc cực khổ nhưng ngày nào cũng bán được củi, đủ nuôi thân và nuôi cha già. Bàng tinh mơ lên rừng, hái một gánh củi liền gánh về chợ bán. Bán xong lại lên rừng hái củi. Hái xong đem bán chợ chiều. Những khi mệt nhọc, đau ốm , chàng mới đi một chuyến. Hoặc bận việc mùa màng thì không lên rừng.
Thường khi lên rừng,
chàng gặp một nữ lang, tuổi trăng tròn, rất đẹp nhưng hơi dữ, hằng
ngày hái măng, hái nấm và đào khoai sắn. Hỏi tên gì, nàng bảo tên là
Quế Hương.
Chàng lân la muốn làm quen thì nàng làm mặt nghiêm. Chàng bạo gan cầm tay nàng thì bị nàng mắng "cóc lác mà đòi ăn thịt thiên nga!"
Bị nàng chối từ nhưng chàng vẫn không nản chí. Một hôm chàng đánh bạo bày tỏ tình yêu, nàng nghiêm mặt bảo:
Chàng lân la muốn làm quen thì nàng làm mặt nghiêm. Chàng bạo gan cầm tay nàng thì bị nàng mắng "cóc lác mà đòi ăn thịt thiên nga!"
Bị nàng chối từ nhưng chàng vẫn không nản chí. Một hôm chàng đánh bạo bày tỏ tình yêu, nàng nghiêm mặt bảo:
-
Nếu muốn lấy ta làm vợ thì phải nghe lời ta thì được ấm no, hạnh
phúc. Nói đoạn, nàng đưa cho chàng một viên thuốc, bắt uống ngay
trước mặt nàng. Nàng hỏi nhà có mấy người, nói có bốn người, gồm bố,
vợ chồng anh chị và cháu trai. Nàng lấy ra hai viên thuốc lớn, bảo
đưa về bỏ trong bát canh cho cả nhà uống thì tâm hòa thần định.
Chàng vâng lời về bỏ thuốc vào bát canh cải cho cả nhà uống trong bữa cơm chiều. Hôm sau, gặp nàng, nàng hỏi đã bỏ thuốc cho cả nhà chưa. Chàng đáp đã y lời.
Nàng bảo :- Nếu yêu ta, chàng về lấy giấy tờ ruộng đất, nhà cửa đến đây cho ta.
Chàng về lén lấy khế ước giao cho nàng. Nàng viết thêm vào vài hàng chữ, bắt chàng điểm chỉ.
Sau đó, nàng theo chàng về nhà chồng. Cha chồng bèn mời làng xóm, họ hàng mươi người đến dự lễ cưới đơn sơ của vợ chồng Bàng. Đêm tân hôn, nàng tỏ ra mặn nồng. Bàng coi vợ như thần tiên, còn vợ thì càng ngày coi chồng và mọi người trong nhà như nô lệ. Bàng nổi danh sợ vợ.
Cứ có chuyện gì trái ý là đánh đập nguời ăn kẻ ở trong nhà. Nàng tỏ ra hỗn láo với cha chồng, thường bỏ đói ông và mắng nhiếc ông nhất là khi hai anh em chàng đi vắng. Hai anh em biết vậy nên thường lén mang thức ăn cho cha không dám để Quế Hương biết, song quần áo cha rách nát, sợ bị chê cười nên không cho ông gặp mặt khách khứa.
Bàng Thật bốn mươi tuổi vẫn không có con trai, cưới thiếp là Xuân Hoa nhưng cả ngày không dám trò chuyện với nàng một câu. Và ban đêm cũng ít khi ân ái cùng Xuân Hoa.
Một hôm, hai anh em Bàng ra chợ bán củi thì gặp một thiếu niên đến mua củi . Chàng gánh củi về nhà cho khách hàng. Khách tướng mạo thanh tú, trang phục phong nhã, cùng trò chuyện thích lắm, hỏi tới họ tên thì tự xưng là Hà Thái. Từ đó giao du với nhau ngày càng thân thiết, cả ba kết nghĩa anh em. Đến khi chia tay, hẹn nửa năm sau sẽ gặp lại. Thế nhưng vài tháng sau, Hà chợt dắt tiểu đồng tới nhà Bàng. gặp Bàng ông đang cởi áo bắt rận ngoài cổng, Hà tưởng là đầy tớ bèn xưng tên họ nhờ vào thưa với chủ nhân. Bàng ông khoác áo rách đi vào, có nguời nói cho Hà biết đó là Bàng ông, thì Hà nổi giận trong lòng.
Anh em Bàng để đầu trần . chân đất chạy ra đón, vái chào nhau xong, rồi mời Hà vào nhà. Hà xin ra mắt cha. bạn nhưng Bàng Thật từ chối nói cha vừa ngẫu nhiên bị bệnh, giục ngồi xuống cùng trò chuyện vui vẻ, chiều tối lúc nào cũng không hay. Hà hỏi tại sao lại để cha rách rưới, ốm đói như vậy. Bàng Thành sa nước mắt đáp :- Gia môn bất hạnh, chuyện đau lòng này rất khó nói ra. Nhà ta không may gặp phải người em dâu hung dữ, cha em đều nhu nhược, có khi cũng bị đánh đập mắng nhiếc. Nếu không phải là anh em kết nghĩa, thật ta không dám nói ra chuyện xấu xa này đâu”.
Hà than thở hồi lâu rồi nói:- "Lúc đầu ta tính ở chơi vài hôm rồi đi, nay nghe chuyện lạ lùng này thật không thể không mắt thấy tai nghe cho rõ. Vậy ông xếp một gian phòng trống cho ta ở, cơm nước ta sẽ tự lo".
Bàng Thành nghe lời, lập tức nhường phòng mình cho Hà ở. Khuya tới lén đem cơm sang mời khách mà còn sợ Quế Hương biết. Hà biết ý, hết sức từ chối không ăn, lại xin mời Bàng ông tới cùng ăn ở với mình. Hôm sau ra chợ mua vải may áo quần cho Bàng ông, cha con anh em đều cảm kích rơi nước mắt.
Chàng vâng lời về bỏ thuốc vào bát canh cải cho cả nhà uống trong bữa cơm chiều. Hôm sau, gặp nàng, nàng hỏi đã bỏ thuốc cho cả nhà chưa. Chàng đáp đã y lời.
Nàng bảo :- Nếu yêu ta, chàng về lấy giấy tờ ruộng đất, nhà cửa đến đây cho ta.
Chàng về lén lấy khế ước giao cho nàng. Nàng viết thêm vào vài hàng chữ, bắt chàng điểm chỉ.
Sau đó, nàng theo chàng về nhà chồng. Cha chồng bèn mời làng xóm, họ hàng mươi người đến dự lễ cưới đơn sơ của vợ chồng Bàng. Đêm tân hôn, nàng tỏ ra mặn nồng. Bàng coi vợ như thần tiên, còn vợ thì càng ngày coi chồng và mọi người trong nhà như nô lệ. Bàng nổi danh sợ vợ.
Cứ có chuyện gì trái ý là đánh đập nguời ăn kẻ ở trong nhà. Nàng tỏ ra hỗn láo với cha chồng, thường bỏ đói ông và mắng nhiếc ông nhất là khi hai anh em chàng đi vắng. Hai anh em biết vậy nên thường lén mang thức ăn cho cha không dám để Quế Hương biết, song quần áo cha rách nát, sợ bị chê cười nên không cho ông gặp mặt khách khứa.
Bàng Thật bốn mươi tuổi vẫn không có con trai, cưới thiếp là Xuân Hoa nhưng cả ngày không dám trò chuyện với nàng một câu. Và ban đêm cũng ít khi ân ái cùng Xuân Hoa.
Một hôm, hai anh em Bàng ra chợ bán củi thì gặp một thiếu niên đến mua củi . Chàng gánh củi về nhà cho khách hàng. Khách tướng mạo thanh tú, trang phục phong nhã, cùng trò chuyện thích lắm, hỏi tới họ tên thì tự xưng là Hà Thái. Từ đó giao du với nhau ngày càng thân thiết, cả ba kết nghĩa anh em. Đến khi chia tay, hẹn nửa năm sau sẽ gặp lại. Thế nhưng vài tháng sau, Hà chợt dắt tiểu đồng tới nhà Bàng. gặp Bàng ông đang cởi áo bắt rận ngoài cổng, Hà tưởng là đầy tớ bèn xưng tên họ nhờ vào thưa với chủ nhân. Bàng ông khoác áo rách đi vào, có nguời nói cho Hà biết đó là Bàng ông, thì Hà nổi giận trong lòng.
Anh em Bàng để đầu trần . chân đất chạy ra đón, vái chào nhau xong, rồi mời Hà vào nhà. Hà xin ra mắt cha. bạn nhưng Bàng Thật từ chối nói cha vừa ngẫu nhiên bị bệnh, giục ngồi xuống cùng trò chuyện vui vẻ, chiều tối lúc nào cũng không hay. Hà hỏi tại sao lại để cha rách rưới, ốm đói như vậy. Bàng Thành sa nước mắt đáp :- Gia môn bất hạnh, chuyện đau lòng này rất khó nói ra. Nhà ta không may gặp phải người em dâu hung dữ, cha em đều nhu nhược, có khi cũng bị đánh đập mắng nhiếc. Nếu không phải là anh em kết nghĩa, thật ta không dám nói ra chuyện xấu xa này đâu”.
Hà than thở hồi lâu rồi nói:- "Lúc đầu ta tính ở chơi vài hôm rồi đi, nay nghe chuyện lạ lùng này thật không thể không mắt thấy tai nghe cho rõ. Vậy ông xếp một gian phòng trống cho ta ở, cơm nước ta sẽ tự lo".
Bàng Thành nghe lời, lập tức nhường phòng mình cho Hà ở. Khuya tới lén đem cơm sang mời khách mà còn sợ Quế Hương biết. Hà biết ý, hết sức từ chối không ăn, lại xin mời Bàng ông tới cùng ăn ở với mình. Hôm sau ra chợ mua vải may áo quần cho Bàng ông, cha con anh em đều cảm kích rơi nước mắt.
Bàng
Thành có đứa con tên Bàng Thanh, mới bảy tuổi, đến ngủ với ông
nội. Hà vỗ về nó, nói “Đứa nhỏ này phúc thọ nhiều hơn cha, nhưng
phải mồ côi khổ cực sớm đây". Quế Hương thấy họ Hà đến nhà, cả nhà
tôn trọng, lại thấy Bàng ông được ăn no mặc ấm cả giận chửi mắng,
nói Hà vô cớ can thiệp vào nội bộ gia đình nàng. xâm phạm độc lập
và tự do của gia đình nàng. Ban đầu còn nói nhỏ, sau lớn tiếng chửi
bới cho xóm làng biết. Anh em họ Bàng sợ toát mồ hôi không biết
làm sao ngăn cản, song khách vẫn làm như không nghe thấy gì. Quế
Hương lớn tiếng chửi khách và đuổi khách và cả nhà ra đường. Nàng bảo
nhà này và ruộng đất tất cả là của nàng, Bàng Thật đã bán cho nàng.
Người thiếp là Xuân Hoa có thai được năm tháng. Quế Hương biết thì
cả giận, lột áo quần đánh đập tàn nhẫn rồi đuổi Bàng Thật đi. Lúc
ấy họ Hà đang có mặt ngoài cổng, Bàng Thật xấu hổ không dám ra. Quế
Hương nổi giận vác gậy phang vào đầu thì chàng mới chạy ra cỗng.
Quế Hương đuổi theo, xoa tay giẫm chân chửi rủa, người ta xúm lại
xem đông nghịt.
Hà chỉ vào Quế Hương quát "Đi ngay", thị lập tức quay người chạy mau trở lại như bị ma đuổi, bỏ cả giày tất, tụt cả vải bó chân trên đường, chạy chân trần vào nhà, mặt không còn chút máu. Lát sau lại hồn, tỳ nữ đưa giày tất tới, mang vào xong chợt khóc nức nở, gia nhân không ai dám hỏi.
Bàng Thật nửa đêm nghe vợ đã ngủ mới dám vào nhà, rón rén vào phòng ngủ.
Hôm sau, gia nhân ai nấy đều cho là chuyện kỳ quái, họp nhau xì xào bàn tán, Quế Hương nghe loáng thoáng càng xấu hổ tức tối, lại vác roi đánh đầy tớ suốt lượt. Gọi tới người thiếp, người thiếp bị thương nặng không dậy nổi. Quế Hương cho là giả vờ, tới tận giường đánh đập mắng nhiếc, người thiếp băng huyết trụy thai. Bàng Thật nhân lúc không người khóc lóc kể với Hà, Hà an ủi khuyên nhủ rồi bảo tiểu đồng bày rượu thịt cùng uống tới khuya, không cho Bàng Thật về phòng. Quế Hương tức giận vì chồng không vào phòng.
Đang lúc căm tức chợt nghe có tiếng lay khung cửa, vội gọi tỳ nữ thì cửa phòng đã bật tung, một người to lớn bước vào, bóng che trùm cả phòng, mặt mũi hung ác như quỷ. Kế lại có vài người theo vào, ai cũng cầm dao sắc. Quế Hương hoảng sợ suýt ngất, định la lên thì người to lớn kề dao vào cổ nói :-“La lên thì ta giết ngay”. Quế Hương vội vàng đưa tiền lụa ra xin chuộc mạng, người to lớn nói :-"Ta là sứ giả của âm ty, không cần lấy tiền, chỉ muốn lấy quả tim của mụ đàn bà hung dữ thôi". Người to lớn bèn lấy dao sắc rạch ngực Quế Hương vừa kể vừa hỏi "Như chuyện này có đáng giết không?", mỗi việc lại rạch một nhát. Tất cả những việc hung ác đều kể ra mà rạch, không dưới vài mươi nhát, sau cùng lại nói “Người thiếp có con trai cũng là nối dõi cho ngươi, sao lại nhẫn tâm đánh cho tới trụy thai? Chuyện này thì không tha được". Rồi gọi mấy người kia tiếp tay để mổ bụng xem gan ruột của mụ đàn bà ác độc, Quế Hương dập đầu xin tha mạng, nói là đã biết tội rồi. Chợt nghe cửa giữa mớ toang, có tiếng nói “ Bàng Thật tới rồi, nếu đã biết tội thì tạm tha cho một lần", rồi ào ào tan đi.
Từ đó Quế Hương hơi bớt hung dữ, suốt mấy tháng không dám chửi mắng một câu. anh em họ Bàng cả mừng nói với Hà, Hà nói "Nói thật với ông nhưng xin đừng để lộ ra, chuyện hôm trước là ta dùng thuật mọn để dọa đấy, nay gia đình đã yên ấm, xin tạm chia tay”, rồi chào đi.
Quế Hương thấy khách đi thì lòng vui vẻ. Bành Thành nhẹ dạ, một đêm sau khi ân ái, bèn nói thật cho vợ biết đó là thuật của họ Hà chứ không phải thực.
Người đàn bà lập tức vùng dậy căn vặn đầu đuôi, đùng đùng nổi giận chửi lớn, và đánh đập Bàng Thật. Họ Bàng sợ quá quỳ rạp dưới giường, xin tha, người đàn bà không ngó ngàng gì tới. Nàng nói:- "Muốn tha thì phải rạch dao vào ngực đủ số, hận này mới tiêu tan được". Rồi vùng dậy vào bếp xách dao lên, Bàng Thật cả sợ bỏ chạy, người đàn bà đuổi theo, chó sủa gà kêu náo động, tôi tớ đều thức dậy đổ ra. Bàng Thành và Bàng ông chạy tới thì cả hai bị thị chém chết. Thị bèn sai gia nhân chôn cất và cấm nói cho ai biết việc này.
Một hôm họ Hà chợt tới, Bàng Thật ra tiếp. Họ Hà nhìn quanh thấy gia cảnh tiêu điều, hỏi thăm gia nhân thì biết Bàng ông và Bàng Thành đã chết, giẫm chân than thở. Đứa con Bàng Thành là Bàng Thanh nghe Hà tới ra chào, gọi là chú Hà, Hà không biết là ai, nhìn kỹ mới nhận ra, hoảng sợ nói "Sao cháu lại tiều tụy đến thế này?"
Họ Hà mắng Bàng Thật:- “Trước đây ta vẫn nói ngươi không phải con người, quả không sai.
Bàng Thật không đáp, chỉ cúi đầu ôm mặt khóc lóc. Vừa ngồi trò chuyện được một lúc thì Quế Hương biết họ Hà tới, sai gia nhân gọi Bàng Thật vào, tát tai mấy cái bắt phải tuyệt giao với Hà. Bàng Thật rưng rưng nước mắt trở ra, trên mặt còn vết tát rõ ràng, Hà nổi giận nói "Ngươi đã không thể ra oai, cũng không thể dứt tình đuổi đi à? Người ta đánh cha giết anh mà còn nhịn nhục, sao đáng gọi là người?”.
Bàng Thật co rúm người lại. Hà nói:-Ngươi thật là hết dạy đưọc rồi", rồi bước vào trong, chỉ tay vào mặt Quế hương làm phép, tức thì nàng ngã lăn ra hóa thành một con Cáo. Hàng xóm chạy qua, kẻ lấy gậy, người dùng dao, băm con cáo ra trăm mảnh.
Hà chỉ vào Quế Hương quát "Đi ngay", thị lập tức quay người chạy mau trở lại như bị ma đuổi, bỏ cả giày tất, tụt cả vải bó chân trên đường, chạy chân trần vào nhà, mặt không còn chút máu. Lát sau lại hồn, tỳ nữ đưa giày tất tới, mang vào xong chợt khóc nức nở, gia nhân không ai dám hỏi.
Bàng Thật nửa đêm nghe vợ đã ngủ mới dám vào nhà, rón rén vào phòng ngủ.
Hôm sau, gia nhân ai nấy đều cho là chuyện kỳ quái, họp nhau xì xào bàn tán, Quế Hương nghe loáng thoáng càng xấu hổ tức tối, lại vác roi đánh đầy tớ suốt lượt. Gọi tới người thiếp, người thiếp bị thương nặng không dậy nổi. Quế Hương cho là giả vờ, tới tận giường đánh đập mắng nhiếc, người thiếp băng huyết trụy thai. Bàng Thật nhân lúc không người khóc lóc kể với Hà, Hà an ủi khuyên nhủ rồi bảo tiểu đồng bày rượu thịt cùng uống tới khuya, không cho Bàng Thật về phòng. Quế Hương tức giận vì chồng không vào phòng.
Đang lúc căm tức chợt nghe có tiếng lay khung cửa, vội gọi tỳ nữ thì cửa phòng đã bật tung, một người to lớn bước vào, bóng che trùm cả phòng, mặt mũi hung ác như quỷ. Kế lại có vài người theo vào, ai cũng cầm dao sắc. Quế Hương hoảng sợ suýt ngất, định la lên thì người to lớn kề dao vào cổ nói :-“La lên thì ta giết ngay”. Quế Hương vội vàng đưa tiền lụa ra xin chuộc mạng, người to lớn nói :-"Ta là sứ giả của âm ty, không cần lấy tiền, chỉ muốn lấy quả tim của mụ đàn bà hung dữ thôi". Người to lớn bèn lấy dao sắc rạch ngực Quế Hương vừa kể vừa hỏi "Như chuyện này có đáng giết không?", mỗi việc lại rạch một nhát. Tất cả những việc hung ác đều kể ra mà rạch, không dưới vài mươi nhát, sau cùng lại nói “Người thiếp có con trai cũng là nối dõi cho ngươi, sao lại nhẫn tâm đánh cho tới trụy thai? Chuyện này thì không tha được". Rồi gọi mấy người kia tiếp tay để mổ bụng xem gan ruột của mụ đàn bà ác độc, Quế Hương dập đầu xin tha mạng, nói là đã biết tội rồi. Chợt nghe cửa giữa mớ toang, có tiếng nói “ Bàng Thật tới rồi, nếu đã biết tội thì tạm tha cho một lần", rồi ào ào tan đi.
Từ đó Quế Hương hơi bớt hung dữ, suốt mấy tháng không dám chửi mắng một câu. anh em họ Bàng cả mừng nói với Hà, Hà nói "Nói thật với ông nhưng xin đừng để lộ ra, chuyện hôm trước là ta dùng thuật mọn để dọa đấy, nay gia đình đã yên ấm, xin tạm chia tay”, rồi chào đi.
Quế Hương thấy khách đi thì lòng vui vẻ. Bành Thành nhẹ dạ, một đêm sau khi ân ái, bèn nói thật cho vợ biết đó là thuật của họ Hà chứ không phải thực.
Người đàn bà lập tức vùng dậy căn vặn đầu đuôi, đùng đùng nổi giận chửi lớn, và đánh đập Bàng Thật. Họ Bàng sợ quá quỳ rạp dưới giường, xin tha, người đàn bà không ngó ngàng gì tới. Nàng nói:- "Muốn tha thì phải rạch dao vào ngực đủ số, hận này mới tiêu tan được". Rồi vùng dậy vào bếp xách dao lên, Bàng Thật cả sợ bỏ chạy, người đàn bà đuổi theo, chó sủa gà kêu náo động, tôi tớ đều thức dậy đổ ra. Bàng Thành và Bàng ông chạy tới thì cả hai bị thị chém chết. Thị bèn sai gia nhân chôn cất và cấm nói cho ai biết việc này.
Một hôm họ Hà chợt tới, Bàng Thật ra tiếp. Họ Hà nhìn quanh thấy gia cảnh tiêu điều, hỏi thăm gia nhân thì biết Bàng ông và Bàng Thành đã chết, giẫm chân than thở. Đứa con Bàng Thành là Bàng Thanh nghe Hà tới ra chào, gọi là chú Hà, Hà không biết là ai, nhìn kỹ mới nhận ra, hoảng sợ nói "Sao cháu lại tiều tụy đến thế này?"
Họ Hà mắng Bàng Thật:- “Trước đây ta vẫn nói ngươi không phải con người, quả không sai.
Bàng Thật không đáp, chỉ cúi đầu ôm mặt khóc lóc. Vừa ngồi trò chuyện được một lúc thì Quế Hương biết họ Hà tới, sai gia nhân gọi Bàng Thật vào, tát tai mấy cái bắt phải tuyệt giao với Hà. Bàng Thật rưng rưng nước mắt trở ra, trên mặt còn vết tát rõ ràng, Hà nổi giận nói "Ngươi đã không thể ra oai, cũng không thể dứt tình đuổi đi à? Người ta đánh cha giết anh mà còn nhịn nhục, sao đáng gọi là người?”.
Bàng Thật co rúm người lại. Hà nói:-Ngươi thật là hết dạy đưọc rồi", rồi bước vào trong, chỉ tay vào mặt Quế hương làm phép, tức thì nàng ngã lăn ra hóa thành một con Cáo. Hàng xóm chạy qua, kẻ lấy gậy, người dùng dao, băm con cáo ra trăm mảnh.
112. GIA ĐÌNH THÁNH GIÁO
Hà Huy Minh là một nông dân cày cuốc ở Hương Sơn. Cha mẹ thành kính thờ Phật, thường dạy con qua chùa phải vào lạy Phật. Ngày nọ, nhân ngày rằm tháng bảy, thiện nam tín nữ đua nhau đến chùa lễ Phật. Chàng thấy trong đám người đang vào chùa, có một thiếu nữ yếm thắm, áo tứ thân xanh, quần hồng, thắt lưng vàng dài, đầu đội nón quai thao, đắt một đứa trẻ khoảng sáu, bảy tuổi, đầu để trái đào vào chùa. Thấy cô nàng xinh xinh, chàng bèn tươi cười làm quen:
-Chào cô, cháu ngoan quá nhỉ? Con hay cháu của cô?
Nàng e thẹn trả lời:-Đây là cháu của tôi, con ông anh.
Chàng hỏi nàng tên gì, nhà ở đâu. Nàng cho biết nàng tên Hồng Ngọc, con tú tài họ Lê, nhà ở bên kia sông.
Chàng nói:-Xin nàng cho phép tôi đến thăm nhà.
Nàng cười mà nói:-Hãy thư thả, mới quen nhau sao quá vội vàng!
It bữa sau, chàng lại nàng ở phiên chợ Huyện. Chàng hỏi:-Thấy em xinh đẹp, lòng tôi say đắm, nàng có bằng lòng làm vợ ta không?
Cô nàng e thẹn nói:
-Việc đó do cha mẹ đôi bên quyết định. Xin chàng mượn mối mai đến hỏi thăm cha mẹ em. Nói xong chàng nhìn chàng bằng đôi mắt đầy tình cảm.
Hôm sau, chàng thưa với cha mẹ. Cha mẹ chàng có người em họ quen với gia đình Tú tài nên nhờ người này làm mai mối. Nhà gái bằng lòng. Hai bên chuẩn bị việc hôn nhân cho đôi trẻ.
Tháng sau, bác của Huy Minh làm quan ỏ Bắc Thành, bệnh nặng, gửi thư gọi Huy Minh ra Bắc để giúp đỡ. Huy Minh ra Bắc, phải mất mấy tháng nuôi bệnh vì bác không con mà vợ thì già yếu. Mấy tháng sau bác trai mất, bác gái lâm bệnh, chàng phải ở lại săn sóc bác gái. It lâu sau, bác gái theo bác trai mà đi. Chôn cất xong, định về quê thì giặc giã nổi lên, chàng phải bỏ cửa nhà vào núi lánh nạn. Chàng vào rừng chém tre, đẵn gỗ làm một túp lều, ngày ngày ra khe lấy nước, vào rừng lấy măng tre và đào khoai sắn.
Một hôm chàng lâm bệnh, giữa rừng núi thâm u đành chờ chết. May sao có một lão già đi qua, vào lều thăm chàng săn sóc chàng, có một cô gái tuổi khoảng mười sáu, mười bảy đi theo, dung mạo xinh đẹp. Ông già sai sắc thuốc, rót vào chén bằng đất đưa lên cho chàng rồi hỏi quê quán tuổi tác, sinh. Ông lão bèn nói :"Ta là Lý Đại, người Sơn Tây, lưu ngụ ở đây đã ba mươi hai năm rồi. Nay qua đây, thấy ngươi bị bệnh không ai săn sóc nên vào giúp đỡ ngươi. "
Ông già về, sai con gái ở lại săn sóc.
Vài ngày sau, Huy Minh lành bệnh, xin cùng nàng về nhà cám ơn lão trượng. Lão ông tiếp đón chàng nồng hậu. Ông già nói:"Ta đây không con, nuôi cháu gái họ là Thanh Loan làm dưỡng nữ. Ta già sắp về với tổ tiên, muốn đem nó gả cho ngươi để cho ngươi có bạn mà con ta cũng khỏi phải phiêu bạt. Ta là ân nhân của nguơi, nếu ngươi muốn lấy con gái ta thì phải vâng lệnh ta, yêu thương vợ, nghe lời vợ và phải theo Thánh giáo. Sinh vui mừng lạy tạ. Vài ngày sau, ông lão cho hai trẻ thành thân. Đám cưới đơn giản, nô bộc chục người đến lo công việc, khách khứa vài người,.
Từ đó, chàng ở lại làm rể. Khi mặt trời vừa lên là phải dậy sớm. Công việc của chàng là bổ củi, thái rau nuôi heo, gà, trồng khoai lúa, đốn củi. Nhiều khi hơn nửa đêm còn phải giã gạo, thái rau, vớt bèo dù trời lạnh giá. Nhạc phụ và vợ chàng khuyên chàng nên cố gắng lao động vì lao động tạo nên thịnh vượng và hạnh phúc. Nhạc phụ chàng còn bảo con vượn tiến lên người được là do lao động.Càng lao động là càng tiến lên văn minh, giàu mạnh. Con phải cố gắng lao động có kỹ thuật, kỷ luật và đạt năng suất cao. Lúa phải đạt mỗi mẫu bảy tấn một vụ, củi phải một ngày năm thước khối.
Y phục của chàng thường là đóng khố và phải theo luật Thánh giáo là tay mang băng đỏ và quàng khăn đỏ. Trong nhà có bàn thờ Thượng Đế và Tối cao giáo chủ. Trên bàn thờ có hình vẽ một đầu Cáo tượng trưng cho sức mạnh trí tuệ và lý tưởng của Thánh Giáo. Nhạc phụ cho biết ai không thuộc kinh, không đi học giáo lý, không đến thánh đường tự phê thì bị giáo trưởng cảnh cáo, nếu tái phạm thì phải phạt giam.Theo luật thánh, trước khi ăn phải quỳ đọc Thánh kinh, và tung hô " Đại Mác Thánh chúa muôn năm", " Trường Đao Thánh Chúa muôn năm", " Linh Hồ Thiên vương muôn năm", "Huyết Mao Sư vương muôn năm". . ..Mỗi đêm sau khi ăn chiều xong là phải đọc kinh và học giáo lý. Sau đó lại tiếp tục lao động. Nhiều khi chàng muốn ngủ sớm nhưng vợ khuyên chàng phải phấn đấu lao động mãi cho đến gần sáng mới được vào giường.
Ở với cha vợ hai năm thì chàng được lệnh dọn sang nhà mới ở núi bên. Đây là một trang trại rộng lớn, do em trai út của nhạc phụ, tức chú vợ của chàng làm chủ. Trong trang trại có khoảng ba mươi thanh niên nam nữ chung sống. Họ cũng như chàng đều đóng khố, ở trần, tay mang băng đỏ, cổ vấn khăn quàng đỏ. Ở đây, họ có những nhiệm vụ là học giáo lý, tự phê và phê bình. Họ được chia thành mỗi tổ ba người, gọi là tổ tam tam, đi đâu cũng phải có nhau. Người thứ nhất theo dõi người thứ hai, người thứ hai theo dõi người thứ ba, người thứ ba theo dõi người thứ nhất. Trong ba người, một người làm tổ trưởng, một người làm tổ phó. Ba tổ thành một tiểu đội. Ba tiểu đội thành trung đội, ba trung đội thành một đại đội. Đứng đầu là các tiểu đội trưởng, trung đội trưởng và đại đại trưởng. Sau đội trưởng là các đội phó. Họ phải tự sám hối, tự xưng tội, ai xưng tội nhiều và thường xuyên thì được khen là tiến bộ.
Họ phải phê bình những đồng chí anh em để giúp đồng chí anh em giác ngộ. Muốn đạt đuợc việc này, họ phải theo dõi nhau. Thấy ai lười biếng, như hay đi tiểu tiện, đại tiện, hút thuốc mà bỏ lao động thì phải đưa ra cuộc họp tổ mỗi đêm nói ra. Ai vào rừng , hái được trái ớt rừng, trái ổi rừng hay nải chuối rừng mà ăn riêng, không đưa ra chia cho đồng chí, anh em là bị phê bình là có óc tư hữu. Nặng nhất là tội hủ hóa, tội lãng mạn có thể bị giam hay đuổi ra khỏi cơ sở...Ai phê bình nhiều dù là nói vu, là bịa đặt vẫn được cấp trên khen ngợi. Ai không nhận tội thì bị đồng đội truy bức mãi cho đến khi phải nhận tội mới thôi dù là đã qua bữa ăn hay quá giờ giờ ngủ. Vì vậy, nhiều người phải bịa ra tội mà nhận như tội ăn nằm với bà hàng xóm, luôn mơ tưởng "cái ấy", muốn có vàng ngọc, kim cương, muốn làm giàu, muốn chơi không muốn làm, muốn uống rượu, muốn ăn ngon, mặc đẹp không chịu trường kỳ gian khổ, muốn nhổ nước miếng vào mặt thánh vương, muốn đạp vào đầu lãnh đạo. . . .
Trong khi sinh hoạt như đã kể trên, các đoàn viên phải tập bò, tập lươn, tập chạy, tập leo trèo, tập đâm, tập chém, tập giáo mác, cung tên, súng ống.
Sau một thời gian thành thuộc, họ được tham dự các cuộc tấn công vào bọn xâm lược và bọn gian ác. Họ phục kích khách qua đường, họ tấn công các thôn xóm.
Phú ông họ Đường ở Hà Đông thường bị mất trộm gà vịt, trâu heo và thóc lúa, vàng bạc. Trong nhà ông có mười đầy tớ mạnh khoẻ, có thầy dạy võ nghệ. Nhà ông xung quanh có hàng rào tre mọc rậm rạp, có cỗng gỗ dày. Lớp trong là tường gạch, trên tường cắm miểng chai. Trong nhà nuôi chục con chó dữ. Ấy thế mà vẫn bị mất trộm. Nghĩ rằng có lẽ do yêu hồ quấy phá, ông bèn rước Tây Sơn đạo trưởng làm phép trừ tà khử yêu. Đạo sĩ đã đến và làm phép nhưng vẫn mất trộm. Tây Sơn đạo trưởng bèn cầu cứu Đông Sơn đạo trưởng sư huynh. Đạo trưởng này lập đàn cúng tế, dán bùa khắp nơi. Nghe tiếng chó tru khắp nơi, đạo trưởng xách kiếm chạy ra thì thấy vài hình nhân rải rác đó đây. Biết là yêu hồ pháp thuật cao cường, cả hai ông về núi thỉnh thầy là Nam Thiên đạo sư về. Đạo sư cũng thiết lập đàn tràng, vẽ mười đạo bùa đeo vào cổ mười con chó rồi xích lại. Giữa nhà, đạo sư treo một ngọn cờ vàng vẽ rồng đỏ.
Đạo trưởng ngồi niệm chú, bắt quyết thì bỗng nhiên ngọn cờ lay động rồi rung bần bật như người bị sốt rét.Đạo sư thả chó ra. Lũ chó xô nhau đuổi chạy và sủa vang. Rồi nghe tiếng chạy, tiếng loài vật và người rên la. Đạo sư sai gia đinh thắp đuốc và xách gậy gộc, gươm giáo mở cỗng đuổi theo. Cuộc truy lùng bắt được khoảng hai chục con chồn và năm người trong đó có Hà Huy Minh. Đạo trưởng sai trói đàn cáo và giao cho chủ nhân xử trí. Phú ông ra lệnh lột da phơi khô, còn thịt cáo thì cho chó ăn. Còn mấy người thì đạo trưởng sai trói lại rồi tra hỏi. Họ cho biết đã bị pháp thuật yêu hồ mà làm tay sai cho chúng. Hà Huy Minh kể rõ việc mình. Phú ông bèn thả các người nam nữ, cho tiền bạc để họ về quê. Hà Huy Minh trở về Hương Sơn. Hồng Ngọc vẫn chờ đợi chàng. Cả hai kết hôn và sống trong hạnh phúc.
Hoàng công là một quan tri huyện ở Thừa Thiên lại là người nhân hậu. Một hôm ông lên kinh đô có việc quan, khi về thấy một thanh niên nằm gục bên đường. Biết sơ qua y học, ông bắt mạch thì biết thanh niên chẳng qua bị cảm mạo lại bị đói nhiều ngày nên bất tỉnh mà thôi. Ông bèn vào quán cơm, mua bát cháo cho cậu ta ăn. Sau đó, cậu ta tỉnh lại, bèn hỏi gia thế cậu. Người thanh niên bèn nói anh tên là Đinh Mão, gia đình ở Bắc, cha mẹ chết hết, vì cả vùng mất mùa, đói kém nên cậu phải đi khất thực hoặc đi làm thuê. Nhưng làm thuê thì không ai mướn, còn ăn xin thì không ai cho những chàng trai mạnh khoẻ. Quan huyện bèn hỏi chàng muốn về làm gia nhân cho ông không. Chàng thanh niên đồng ý, ông cho Đinh Mão về dinh giúp việc làm vườn. Thỉnh thoảng gặp ngày mùa, ông phái Đinh Mão về quê phụ với người nhà lo việc cấy cày.
Quan huyện thích tu đạo tiên, đêm đêm ngồi thiền. Người thanh niên cũng là kẻ có tâm đạo, đêm đêm cũng ngồi thiền, bắt ấn, bắt quyết. Vì cùng chung sở thích, quan càng thường mến người thanh niên này.
Đến ngày rằm tháng giêng, quan huyện và dân các làng sở tại thường làm lễ cầu an. Đây là ngày lễ nguyên tiêu, đạo Phật, đạo Tiên đều tổ chức lễ hội, nam thanh nữ tú nô nức dập dìu. Quan huyện gọi Đinh Mão để sửa soạn lễ vật tế trời đất, quỷ thần thì không thấy Đinh Mão đâu.
Ít tháng sau, Đinh Mão trở về. Quan huyện hỏi anh đi đâu thì anh không nói. Quan cũng bỏ qua, nghĩ rằng chắc chàng trai say mê bóng sắc giai nhân mà bỏ nhà ra đi. Năm sau cũng vào ngày nguyên tiêu, Đinh Mão bỏ đi, quan nghĩ rằng chắc lần này Đinh Mão bỏ đi biệt theo tiếng gọi của ái tình. Nhưng vài tháng sau, Đinh Mão lại trở về.
Quan huyện căn vặn mãi, Đinh Mão mới thú thật rằng anh không phải là người mà là hồ ly. Anh bị tai nạn giữa đường vì bị kẻ thù đánh đuổi may mà gặp quan cứu vớt. Tuy nhiên, anh là hồ ly nên phải theo luật hồ ly, cứ vào ngày thượng nguyên thì phải trở về núi cũ học tập đường lối, chính sách và nghệ thuật của trung ương. Quan là người tu tiên nên tâm hồn phóng khoáng , không chấp người , chấp hồ, không thù hận, không thiên kiến. Ông cho muôn loài là chúng sinh, là con của thượng đế toàn năng, đại từ đại bi, là hồ, là người chẳng quan hệ.
Năm sau nữa, lại đến lễ nguyên tiêu, Đinh Mão bỏ đi gần nửa năm. Quan nghĩ rằng lần này thì y đi luôn rồi. Không ngờ gần cuối năm y trở về. Quan mừng rỡ, hỏi anh đi đâu mà lâu thế. Anh nói rằng anh về lần này là để nói lời từ biệt với ân nhân. Ông hỏi anh có việc gì mà bỏ gia đình ông mà đi, phải chăng anh đã có vợ con, có nhà cửa và nghề nghiệp mới? Anh thú thật rằng anh đuợc trung ương biệt phái sang Trung Quốc học chiến thuật, chiến lược. Anh cho biết mùa thu năm nay toàn thế giới sẽ có đổi thay, nhất là kinh đô Huế. Anh khuyên ông nên liệu mà thu xếp về núi rừng hay thôn quê mà ẩn lánh.. Phú ông hỏi nữa thì anh nói:-"Thiên cơ bất khả lậu". Cuối cùng anh ra đi.
Quan huyện nghe lời anh thì bán tín bán nghi. Ông bèn đi thăm một ông bạn giỏi tử vi để xem qua lá số cho ông. Ông bạn bảo số ông đang vào hạn không kiếp sẽ gặp hiểm nguy nhưng có song hao, tuần triệt thì phải thay đổi sự nghiệp và nơi ở. Quan huyện tin lời Đinh Mão , và tin lời bạn, xin từ chức, bán cơ ngơi định sang Pháp định cư vì quan gốc là dân tây.
Tháng sau, quan chưa đi Pháp thì người làng của quan cho biết Đinh Mão đã chết trên đường ra Quảng Trị, trên ngực có bản án ghi rõ:" Bị tử hình vì tiết lộ bí mật của tổ chức!"
Chu sinh là con nhà thế gia ở Quảng Bình, cưới con gái quan huyện ở Quảng Trị họ Lưu tên Kim Lan, xinh đẹp mà hiền đức, vợ chồng rất thương yêu nhau. Lúc bấy giờ là thời Nam Bắc phân tranh, suốt vùng Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình đều là chiến trường suốt hai, ba thế kỷ. Chu sinh cùng vợ định tản cư ra vùng Thanh Hóa là nơi thân phụ chàng trấn nhậm ngày xưa. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng đem gia đình chạy loạn, tự xưng là Mai Quế Lộ, quê Thừa Thiên, cũng muốn bỏ ra vùng Thanh Nghệ. Mai Quế Lộ khỏe mạnh, tính hoạt động, tình nguyện dẫn đường ra Thanh Nghệ. Chu sinh vui mừng, vì có bạn đồng hành, lúc đi lúc nghỉ đều có nhau.
Đến giờ ăn, cả hai nhà ăn chung. Sinh thì nói chuyện thi phú, Mai Quế Lộ bàn về nhân nghĩa, hoà bình, tu nhân tích đức. Ra đến Đèo Ngang thấy địa thế hiểm trở, hai nhà định lên thuyền, Kim Lan nói thầm với chồng:
- “Đừng đi chung thuyền với người này. Y đã mấy lần nhìn thiếp, ánh mắt láo liêng mà sắc mặt thay đổi, là người tâm địa khó lường".
Chu sinh gật đầu khen phải. Nhưng Chu sinh khó lòng từ chối vì Mai Quế Lộ đã ân cần đi tìm thuê một chiếc thuyền lớn, lăng xăng khiêng vác hành lý lên giúp. Lại nghĩ y có đem vợ theo, chắc cũng không có ý gì khác. Vợ Mai cùng ngồi với Kim Lan trong thuyền, thấy tính tình cũng hiền hậu dịu dàng, Mai Quế Lộ thì ngồi trên mũi thuyền trò chuyện rì rầm với chủ thuyền như quen biết thân thiết với nhau từ lâu.
Không bao lâu mặt trời lặn mà đường sông quanh co dần dần không còn nhận ra phương hướng, Chu sinh nhìn quanh thấy vắng vẻ hiểm hóc đã hơi ngờ sợ, lát sau trăng mọc, chỉ thấy lau sậy ngút ngàn. Kế thuyền đậu lại, Mai Quế Lộ mời cha con Chu sinh ra ngoài ngắm cảnh, thừa cơ xô Chu xuống sông. Cha Chu nhìn thấy định la lên thì bị người chủ thuyền cầm sào gạt xuống nước, cũng chìm luôn. Mẹ Chu nghe tiếng bước ra xem, lại bị gạt rơi xuống nốt, bấy giờ Mai Quế Lộ mới hô hoán cứu. Lúc mẹ bước ra, Kim Lan ở phía sau đã thấy mọi việc, nghe nói cả nhà chết đuối cũng không có vẻ sợ hãi, chỉ khóc nói “Cha mẹ chồng đều chết, ta biết về đâu?".
Mai Quế Lộ vào thuyền khuyên "Nương tử đừng lo, xin theo ta về Thanh Hóa. Nhà ta có ruộng đất đủ sống, quyết không có gì đáng ngại". Nàng nín khóc nói "Nếu được như vậy là ta thỏa nguyện rồi", Mai cả mừng, đối xử với nàng hết sức ân cần. Tối đến kéo nàng đòi giao hoan, nàng nói thác là đang kỳ kinh, Mai bèn về chỗ vợ nằm. Đến hết canh một, hai vợ chồng cãi nhau ầm lên, không biết vì chuyện gì, chỉ nghe vợ nói "Ngươi làm như thế thì e sấm sét đánh nát đầu ra". Mai đánh vợ, vợ la lớn "Chết thì thôi chứ ta quyết không làm vợ thằng giặc giết người". Mai tức giận gầm lên, túm lấy vợ lôi ra ngoài, nghe một tiếng ùm, rồi Mai kêu lên là vợ mình ngã xuống sông chết đuối rồi.
Không bao lâu tới Thanh Hóa, Mai dẫn Kim Lan về nhà, lên sảnh đường ra mắt mẹ. Mẹ ngạc nhiên vì không phải là con dâu cũ, Mai nói “Vợ con chết đuối, con mới lấy người này”. Về tới phòng riêng, Mai muốn giao hoan, Kim Lan cười nói: “ Sao chàng vội thế và không biết lễ nghĩa. Lấy tỳ thiếp cũng phải có chén rượu nhạt, không mời khách hay cúng tỗ tiên thì cũng mời nhau , lẽ nào im lặng như thế thì không phải đạo, chứng tỏ chàng chẳng coi thiếp ra gì! "
Mai mừng rỡ bèn dọn tiệc đối ẩm, Kim Lan nâng chén mời rất ân cần. Mai dần say, chối từ không uống nữa, nàng bèn rót một chén lớn gượng lả lơi mời mọc, Mai không nỡ chối từ liền uống cạn, lúc ấy say mèm, cởi tuột quần áo ra hối đi ngủ. Kim Lan dọn mâm tắt đèn rồi nói thác là đi tiểu, ra ngoài phòng cầm dao trở vào, trong bóng tối lấy tay mò lên cổ Mai. Mai còn vuốt tay nàng lè nhè lả lơi, Kim Lan ra sức cứa mạnh một nhát nhưng Mai không chết , rú lên vùng dậy, chém trả lại nàng và đuổi nàng đến tận bờ sông. Kim Lan nhìn lại thì thấy Mai Quế Lộ hiện nguyên hình một con Cáo Đỏ cổ đầy máu chạy theo nàng. Kim Lan phải nhảy xuống sông tự trầm. Nhưng số nàng chưa chết cho nên được ngư ông vớt lên. Nàng bèn trở về Quảng Bình quê chồng.
Nàng ra sức tìm kiếm thi thể của chồng mà không được. Nàng vẫn tiếp tục đi lễ bái các đền chùa linh thiêng để xin trời Phật phù hộ cho chàng, nếu chàng còn sống thì hai vợ chồng được đoàn tụ, còn nếu đã chết thì linh hồn chàng siêu thăng nơi cực lạc.
Nghe đồn trên núi Tiên ở làng bên có một ngôi miếu linh thiêng. Đạo sĩ là người pháp thuật cao cường, có lòng từ bi cứu nhân độ thế, biết quá khứ vị lai cho nên Kim Lan bèn cùng em chồng lên đó cầu siêu và xin quẻ.
Lúc Kim Lan cùng hàng trăm người quỳ lạy trước miếu, Kim Lan nhìn lên thì kinh hồn khiếp vía, vì vị đạo trưởng nổi danh đuợc thiên hạ ca tụng là thần thánh, chính là tướng cướp Mai Quế Lộ năm xưa, là con Hồ Ly tinh đã đánh đuổi, chém giết nàng, nay trên cổ nó còn một vết sẹo rất to. Thừa lúc mọi người đông đúc quỳ lạy, khấn vái, Kim Lan kéo em chồng ra khỏi miếu và tức tốc trở về làng!
Dương Danh Nghĩa đất Hải Dương tính phóng túng khác người, hào hùng tự tại, mặt béo râu rậm, kẻ sĩ đều biết tiếng. Nhân vì có việc tới ở nhà riêng ông chú làm ngự sử ở kinh đô Thăng Long. Chú tiếp đãi tử tế, cho nằm nghỉ trên lầu. Chàng nghe người nhà xì xào trong lầu có nhiều hồ. Dương mỗi khi đọc truyện Liêu Trai thường tỏ lòng hâm mộ, mong được một lần gặp gỡ người tiên. Nhân ở trên lầu cứ mong mỏi tơ tưởng, kế về phòng thì trời đã tối, lúc ấy đang tháng hè nóng bức bèn nằm ngủ ngay giữa cửa. Đang ngủ thì có người lay gọi, tỉnh dậy nhìn thì thấy một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi nhưng vẫn còn phong vận. Sinh giật mình trỗi dậy hỏi là ai, người đàn bà cười nói
-"Ta là hồ, được chàng có lòng mơ ước, thầm cảm tạ tấm lòng ưu ái mà tới".
Dương sinh nghe thấy mừng rỡ, buông lời đùa cợt ve vãn, người đàn bà cười nói
-"Thiếp già rồi, nếu người ta không ghét bỏ thì tự mình cũng thấy hổ thẹn. Có đứa con gái nhỏ đến tuổi cập kê, có thể hầu khăn lược, đêm mai xin ông ở đây một mình, nó sẽ tới", dứt lời ra đi.
Tối hôm sau Dương sinh đốt hương ngồi chờ, quả nhiên người đàn bà dắt con gái tới, thấy phong thái xinh đẹp, trên đời không hai. Người đàn bà dặn con gái .
-"Dương lang có túc duyên với con, cứ ở lại đây, sáng mai phải về sớm, đừng ngủ quên đấy". Sinh kéo tay nàng vào màn, cùng nhau vui thú, xong rồi nàng cười nói
-"Chàng béo vừa nặng vừa rậm râu, làm người ta không sao chịu nổi”!
Hỏi tên họ là gì, nàng cười mà nói:
-Thiếp họ Hồ, con gái thứ hai trong gia đình. Chàng gọi thiếp là Hồ thị là được.
Chưa sáng nàng đã ra đi, chập tối lại tới, nói
-"Bọn chị em định mở tiệc chúc mừng tân lang, ngày mai xin chàng cùng đi". Sinh hỏi ở đâu, nàng đáp
-"Chị Cả đứng ra mời, cách đây cũng không xa".
Đêm sau sinh ngồi đợi lâu quá không thấy nàng tới, dần dần mỏi mệt nằm gục xuống bàn. Chợt cô gái ấy bước vào nói
-"Làm phiền chàng phải đợi lâu”.
Nói xong nàng cầm tay sinh dẫn đi.
Tới một nơi nhà cao cửa rộng, đi thẳng vào sảnh đường thì thấy đèn đuốc giăng nhiều như sao trời. Giây lát chủ nhân bước ra, tuổi khoảng hai mươi, trang điểm sơ sài nhưng vô cùng xinh đẹp, khép nép chúc mừng chú rể mới.
Sắp vào tiệc thì tỳ nữ vào báo "Cô Hai tới”, kế thấy một nữ lang vào, chính là Hồ nương. Chủ nhà , tức cô Cả, nhìn cô Hai cười nói "
-Em gái thế là biết mùi tình rồi, có vừa lòng không chàng rể mới không”.
Nàng Hai cầm quạt đập vào lưng chị, Bà chị nói
-"Nhớ lại lúc nhỏ đùa vật lộn với em, em sợ bị cù vào mạng sườn, chị mới giơ ngón tay quát nạt từ xa là đã cười bò ra. Em cười đùa nói sau này chị sẽ lấy phải anh chồng lùn tịt. Còn ta nói :"Con nhãi sau này sẽ lấy phải anh chàng rậm râu đâm cho nát môi ra, nay quả đúng thế".
Kế đó cùng nhau vào tiệc, uống rượu cười nói rất vui vẻ. Gần sáng, chị em cô gái cho người đánh xe ngưạ đưa sinh về.
Đến tối cô gái tới, và nói với chàng:
-“Đêm qua say rượu chưa tỉnh à?"
Sinh nói vẫn đang ngờ là giấc mộng.
Nàng nói "Các chị em sợ chàng say sưa ngông cuồng nên thác vào giấc mộng đấy, chứ thật ra không phải mộng đâu!".
Nói đoạn, cô gái cùng sinh vào giường hoan lạc.
Cứ đến gần sáng thì phải ra về. Dương sinh hỏi:
- Nàng không thể ở lại suốt ngày với ta sao?
Nàng ngậm ngùi trả lời:- Kỷ luật tổ tông rất nghiêm khắc. Có ba không:
+Hồ ly không được yêu loài người.Tổ tông cấm Hồ ly yêu loài người vì loài người là kẻ thù tàn sát Hồ Ly.
+Nếu lỡ yêu thì chỉ qua lại vui chơi, chứ không được lấy làm chồng.
+Nếu qua lại vui chơi thì gần sáng phải về, không được ở lại qua ngày này sang ngày khác.
Nếu vi phạm sẽ bị tống giam. Nếu tái phạm sẽ bị đánh giết.
Tổ tông cấm yêu loài người. Nhưng trong loài người, Hồ Ly có thể yêu tạm thời giai cấp công nhân vì giai cấp này là giai cấp tiên tiến nhất, ích lợi nhất vì đã xây nhà cửa cho mọi loài trong đó có loài hồ.Tổ Tông cũng cho phép yêu tạm thời văn nhân, thi sĩ vì bọn họ luôn ca tụng giòng Hồ Ly.
Tổ tông cấm tuyệt đối không được kết hôn hoặc yêu bọn thợ săn, nông dân vì hai giai cấp này trực tiếp giết hại loài Hồ.
Sở dĩ em được gần chàng vì hồ sơ của chàng đã được tổ chức chấp thuận cho phép em vui chơi với chàng theo chính sách ba không của tổ tông.
116.HOÀNG CÚC
Cao Minh Sơn người Bắc Ninh sớm mồ côi cha, thông tuệ rất mực, mười bốn tuổi đã vào học trường quan giáo thọ. Mẹ hết sức cưng yêu, bình thường không cho đi chơi ra ngoài đồng ruộng. Nhà đã dạm con gái họ Trần cho chàng, song chưa cưới thì nàng mất. Vì thế việc nhân duyên vẫn chưa thành.
Gặp tiết Thượng Nguyên, có người con nhà cậu là chàng Trương đến rủ đi chùa lễ Phật. Vừa ra đến đầu xóm thì có đầy tớ nhà cậu sang gọi Trương về. Trên đường, chàng thấy trai thanh, gái lịch lũ lượt mà đi, nổi hứng, chàng bèn một mình ngao du.
Khi vào chùa Thuận Thành, chàng thấy có một cô gái dắt con hầu đi theo, tay cầm một cành hoa mai, nhan sắc tuyệt vời, nụ cười xinh tươi làm lòng chàng say mê. Chàng nhìn đăm đăm đến nỗi quên cả giữ ý tứ. Cô gái đi vượt lên mấy bước, quay sang cả giận mà mắng chàng:
- Người đâu mà nhìn người ta chòng chọc như giặc cướp!.
Mắng xong, nàng bỏ cành hoa xuống đất, cười nói mà đi . Chàng nhặt cành hoa, buồn thiu, hồn phách xiêu lạc đâu mất, lầm lũi quay về.
Về đến nhà , chàng đặt hoa dưới gối mà ngủ, không nói cũng không ăn. Mẹ đâm lo, đi cầu cúng thì bệnh càng nặng, da thit gầy tóp. Thầy thuốc thăm bệnh, cắt cho thang dưỡng thần bổ khí, nhưng chàng cứ hốt hoảng như người bị tà ma . Mẹ dỗ dành hỏi nguyên do, chàng lặng thinh không đáp.
Vừa lúc đó chàng Trương đến, bà dặn nhỏ chàng hỏi riêng xem sao. Trương vào trước giường, vừa nhìn thấy, chàng đã chảy nước mắt. Trương ghé sát bên giường an ủi, lân la gặng hỏi. Chàng bèn thổ lộ thực tình, lại nhờ lo toan hộ. Trương cười đáp:
- Anh lại ngốc rồi! Ước muốn đó thì khó gì mà chẳng toại! Anh hãy tả cho tôi hình dáng nàng để tôi dọ hỏi. Chỉ cần anh thuyên giảm, tôi sẽ lo liệu tất cả.
Chàng nghe vậy bất giác nở nụ cười, bèn tả hình dáng cô gái, má lúm đồng tiền, người thanh tao, giọng nói trong như ngọc, đặc biệt là nàng đeo kiềng vàng rất lớn, lưng đeo xà tích bạc lại đính hồng ngọc, tay đeo chiếc nhẫn vàng mặt minh châu. Trương trở ra bảo với bà mẹ rồi để đi tìm làng ở của cô gái; song thăm hỏi đã cùng khắp vẫn không dò ra tin tức. Mẹ lo lắm, chẳng biết tính thế nào. Nhưng từ sau khi Trương về rồi thì sắc mặt con tự nhiên tươi tỉnh, ăn uống đã có phần khá hơn.
Mấy hôm sau, Trương trở lại. Chàng hỏi công việc đã đi đến đâu. Trương vờ vịt nói:
- Xong rồi! Cứ tưởng người nào, hoá ra là con gái bà cô tôi, tức là vào hàng em con nhà dì với anh đấy. Hiện vẫn còn đợi gả chồng. Dẫu họ hàng về đằng mẹ kết thông gia không tiện, nhưng cứ tình thực mà nói thì cũng chẳng có gì không xuôi.
Chàng mừng, rạng rỡ cả mặt mày, hỏi Trương:
- Thế ở làng nào?
Trương thác rằng:
- Ở trong núi, về phía Bắc cách đây ngoài hai mươi dặm.
Chàng lại dặn di nhờ cậy đến năm lần bảy lượt. Trương cũng sốt sắng tự xin đảm nhận, rồi lui gót. Từ đấy chàng ăn uống ngày một khá hơn, sức khoẻ dần dần bình phục. Lật gối lên xem, hoa tuy khô nhưng vẫn chưa tàn héo hẳn. Mải mê cầm ngắm, tưởng như còn thấy được người
Mãi sau lấy làm lạ sao Trương không đến, bèn viết giấy mời, thì Trương không chịu đến. Chàng tức giận, buồn bã không vui. Mẹ lo bệnh con lại tái phát, vội bàn chuyện hôn nhân, nhưng mới trao đổi sơ qua, đã lắc đầu không chịu, chỉ ngày ngày ngóng đợi chàng Trương. Cuối cùng tin tức về Trương cũng bặt, chàng càng thêm tức. Rồi bỗng vụt nghĩ rằng hai mươi dặm cũng chẳng lấy gì làm xa, hà tất phải ỷ lại vào người khác. Cao sinh bèn giấu cành mai vào tay áo, tức mình cất bước ra đi, mà người nhà chẳng một ai hay.
Lủi thủi cuốc bộ một mình, không có ai để hỏi đường, chỉ nhắm mắt hướng núi Bắc đi tới được chừng hơn mười mấy dặm, thấy núi chất chồng. Xa xa trông xuống dưới khe núi trong chỗ cây cối um tùm chằng chịt hoa nở từng đám dày, thấp thoáng như có một xóm nhỏ. Xuống núi, vào trong xóm, thấy nhà cửa thưa thớt, toàn là nhà tranh, mà xem chừng lại rất thanh nhã. Một ngôi nhà hướng Bắc, trước cửa buông tơ liễu, trên tường đào hạnh lại càng sum suê, chen lẫn với những khóm trúc vươn dài; chim rừng kêu ríu rít ở trong. Chàng cho là cảnh thần tiên, không dám đường đột bước vào. Quay nhìn phía đối diện với cánh cổng, thấy có hòn đá lớn trơn nhẵn, sạch sẽ, bèn ngồi lên đó tạm nghỉ. Giây lát nghe phía trong tường có tiếng một người con gái dài giọng gọi: "Thanh Lan! Thanh Lan", tiếng nghe êm ái, nhỏ nhẹ. đang chăm chú lắng nghe, thấy một cô gái từ phía đông rảo sang phía Tây, tay cầm đóa hoa hạnh, cúi đầu cài lên mái tóc; vừa ngẩng đầu lên trông thấy chàng liền không cài nữa, mỉm cười cầm đóa hoa đi vào.
Nhìn kỹ lại thì đúng là người mình đã gặp hôm trên đường đi chơi tiết Thượng Nguyên. Trong lòng mừng quýnh lên, chỉ ngó chứ không lấy cớ gì mà vào được, muốn gọi bằng cô em con dì, lại e từ thuở nào đến giờ không hề đi lại, nhỡ ra có nhầm lẫn chăng
Trong cửa không có một ai để hỏi, đành quẩn quanh hết ngồi lại đứng từ sớm mãi đến tận trưa, đăm đăm trông ngóng, quên cả đói khát. Thỉnh thoảng thấy cô gái hé nửa mặt ra nhìn tựa hồ lấy làm lạ sao mình vẫn không bỏ đi . Bỗng có một bà già chống gậy đi ra, hướng vào chàng mà hỏi:
- Chàng trai ở đâu, nghe như từ giờ thìn đã đến đây, ở mãi cho đến bây giờ à? Anh cần gì? Không đói à?
Chàng vội đứng dậy vái chào, đáp rằng:
- Tiểu sinh đi tìm người bà con.
Bà cụ nghễnh ngãng nghe không rõ. Chàng lại phải nói to lên. Bèn hỏi:
- Vậy chứ người bà con tên họ gì ?
Chàng không sao trả lời được. Bà cười bảo:
- Kỳ chưa! đến họ tên còn không biết thì biết bà con như thế nào mà tìm thăm? Tôi xem bộ cậu cũng chỉ là tay nghiện sách mà thôi . Chi bằng hãy theo tôi vào đây, lót lòng lưng cơm hẩm; đợi sáng mai về hỏi lại cho biết họ gì, rồi đến tìm thăm cũng chưa muộn.
Chàng đang lúc bụng đói muốn ăn, lại được vào đó lân la gần gũi người đẹp, thì mừng quá, bèn theo bà già đi vào. Thấy trong cổng, lối đi lát toàn đá trắng, hai bên đường, hoa hồng từng cánh từng cánh rụng trên thềm. Quanh co đi về phía Tây, lại mở ra một cửa ngăn nữa, phên dậu giàn hoa lan đầy giữa sân. Chủ nhân cung kính dẫn khách vào nhà, tường phấn sáng rỡ như lồng kính; ngoài song, những cành hoa hải đường thì vào cả trong nhà; đệm chiếu, ghế giường, không một thứ gì không bóng lộn, sạch sẽ.
Vừa ngồi xuống đã thấy có bóng người từ ngoài cửa sổ thấp thoáng nhìn trộm. Bà cụ gọi:
- Thanh Lan! Làm cơm mau!
Bên ngoài có tiếng dạ to của con hầu.
Sinh ngồi xuống, bà già hỏi:
- Ông ngoại của cậu chẳng biết có phải họ Ngô không?
Sinh đáp:
- Thưa phải.
Bà cụ kinh ngạc nói:
- Thế thì cậu là cháu của ta. Mẹ cậu là em gái ta. Mấy năm nay vì gia cảnh bần hàn, lại không có chút con trai, nên việc thăm hỏi mới để quên bẵng đi . Cháu đã khôn lớn thế này rồi mà vẫn không biết.
Chàng đáp:
- Lần này cháu đến đây là để hỏi thăm dì, mà trong khi vội vàng thành ra quên mất cả họ.
Bà cụ đáp:
- Già đây lấy họ Tần, không sinh nở bận nào cả. Chỉ có một mụn con gái, cũng là con dì hai nó sinh ra. Mẹ nó đi bước nữa, để nó lại cho ta nuôi nấng. Kể cũng chẳng đến nỗi đần, chỉ hiềm ít được dạy dỗ, nên cứ cười cợt suốt, chẳng biết buồn lo gì cả. Chốc nữa sẽ bảo ra chào anh cho biết.
Chẳng mấy lúc, con hầu đã dọn cơm lên; có món gà tơ ngon béo. Bà cụ ngồi tiếp chàng; cơm xong rồi con hầu lại dọn đi. Bà bảo:
- Gọi cô Hoàng Cúc ra đây!
Con hầu vâng lời đi vào. Lúc lâu, nghe như ngoài cửa có tiếng cười, bà cụ lại gọi:
- Hoàng Cúc! Có người anh con dì mày ở đây đấy!
Ngoài cửa tiếng cười khúc khích vẫn không ngừng. Con hầu đẩy cô gái vào, vẫn còn che miệng cười không nín được. Bà già trừng mắt bảo:
- Nhà đương có khách, mà cứ khúc kha khúc khích, là cung cách gì thế?
Cô gái nhịn cười đứng yên. Chàng vái chào. Bà cụ nói:
- Đây là cậu Cao, anh con dì của mày. Người trong một nhà mà không biết nhau, thế mới đáng cười chứ!
Chàng hỏi:
- Em đây năm nay bao nhiêu tuổi?
Bà già chưa nghe kịp. Chàng bèn nhắc lại Cô gái lại rũ ra cười, không ngẩng đầu lên nhìn ai được nữa. Bà cụ bảo chàng:
- Tôi vừa nói nó ít được dạy dỗ, giờ thì thấy rồi đấy. Tuổi đã mười sáu mà vẫn ngây dại như trẻ con.
Chàng đáp:
- Thua cháu một tuổi.
Bà nói:
- Cháu đã mười bảy rồi, thế chẳng hóa ra là tuổi canh ngọ, cầm tinh con ngựa ư?
Chàng gật đầu thừa nhận. Lại hỏi:
- Thế vợ cháu là ai?
Sinh đáp:
- Vẫn ở không ạ!
Bà bảo:
- Tài mạo như cháu, sao mười bảy tuổi rồi còn chưa cưới vợ? Hoàng Cúc cũng chưa hứa gả về đâu, kể sánh với nhau thật xứng đôi, chỉ hiềm có chút họ hàng đằng mẹ.
Chàng không đáp, mắt cứ nhìn dán vào Hoàng Cúc, không còn rời đi đâu một chớp. Con hầu quay sang cô gái nói nhỏ rằng:
- Vẫn con mắt chòng chọc như giặc cướp không có thay đổi .
Nàng lại cười to, ngoảnh lại bảo con hầu:
- Ta đi xem bích đào nở chưa đi!
Rồi vụt đứng ngay dậy, lấy tay áo che miệng, rón rén gót sen bước nhanh ra, khỏi cửa rồi tiếng cười mới phá lên. Bà già cũng đứng dậy, gọi con hầu mang chăn chiếu để sắp đặt chỗ nghỉ cho chàng. Bà bảo:
- Cháu một lần đến không phải dễ, hãy ở chơi dăm ba hôm thư thả rồi sẽ tiễn mày về. Nếu hiềm vì vắng vẻ buồn chán thì sau nhà có mảnh vườn con, cũng đủ làm nơi tiêu khiển; có cả sách nữa, cháu có thể đọc chơi.
Hôm sau, chàng ra phía sau nhà, quả có thửa vườn chừng nửa mẫu, cỏ như trải thảm, hoa dương rắc lấm tấm đầy lối đi. Ba gian nhà cỏ, cây và hoa vây phủ bốn chung quanh. Chợt nghe trên ngọn cây có tiếng khinh khích , ngẩng lên nhìn thì ra Hoàng Cúc đang ở trên đó, thấy chàng đến cười rũ lên muốn ngã. Chàng vội kêu:
- Đừng làm thế, ngã đấy!
Nàng vừa tụt xuống vừa cười, không sao nhịn được. Gần đến đất, tuột tay ngã, chàng chạy ôm nàng vào lòng rồi đỡ dậy, thì ngửi thầy mùi hương của thân thể nàng tỏa ra rất thơm tho, quyến rũ. Nàng như không hay biết gì về cái động chạm vừa rồi, lại rũ ra cười, phải dựa vào thân cây, không sao bước được nữa, một lúc lâu mới hết. Chờ cho ngớt cơn cười, chàng mới rút cành hoa trong tay áo ra cho xem. Cô gái cầm lấy, nói:
- Khô rồi, còn giữ làm gì?
Sinh đáp:
- Đây là hoa em bỏ lại hôm tiết Thượng Nguyên, nên mới giữ.
Hoàng Cúc hỏi:
- Giữ thế là có ý gì
Sinh đáp:
- Để tỏ rằng yêu thương nhau không quên được. Kể từ hôm tiết Thượng Nguyên, được gặp em , anh cứ tơ tưởng đến thành bệnh. Những tưởng phận mình đã hóa ra ma rồi, nào ngờ lại còn được thấy mặt. Xin hãy rủ lòng thương xót.
Cô gái đáp:
- Đấy là việc quá nhỏ mọn. Chỗ họ thân nào có tiếc gì. Đợi hôm nào anh đi, các thứ hoa trong vườn, sẽ gọi lão bộc đến, bẻ hẳn một ôm lớn đội theo tiễn anh.
Chàng nói:
- Em ngây thơ ư?
- Thế nào là ngây thơ?
Sinh đáp:
- Anh chẳng phải yêu hoa mà yêu người cầm hoa cơ.
Nàng nói:
- Tình thân họ hàng, yêu nhau còn phải nói gì?
Chàng đáp:
- Anh nói yêu, chẳng phải là cái tình yêu họ hàng giây mơ rễ má, mà là tình yêu vợ chồng kia.
Cô gái nói:
- Có gì khác nhau sao?
Sinh đáp:
- Đêm thì cùng chung chăn gối.
Cô gái cúi đầu nghỉ ngợi giây lâu, nói:
- Em không quen ngủ với người lạ.
Nói chưa dứt lời, con hầu đã rón rén đi đến. Chàng hoảng sợ, vội lẩn đi . Lát sau, cùng họp mặt ở chỗ bà mẹ. Mẹ hỏi đi đâu, cô gái đáp rằng ở trong vườn trò chuyện.
Bà cụ hỏi:
- Cơm đã chín lâu, có gì dài lời mà con cà con kê mãi thế?
Nàng đáp:
- Anh cả muốn cùng con ngủ chung.
Nói chưa hết câu chàng đã cuống cả lên, vội đưa mắt lườm. Nàng mỉm cười ngừng ngay lại. May bà già không nghe rõ, còn phải lằng nhằng hỏi lại . Chàng vội đem chuyện khác lấp liếm đi. Nhân đó, khẽ rỉ tai trách riêng nàng. Cô gái hỏi:
- Thế chuyện ấy không nên nói à?
Chàng đáp:
- Đó là chuyện phải giấu người khác.
Nàng bảo:
- Giấu người khác, chứ giấu mẹ già sao được. Vả lại, ngủ đâu là chuyện thường, việc gì phải kiêng không nói
Chàng bực vì nỗi ngố, không cách gì làm cho hiểu ra được.
Ăn vừa xong thì gia nhân dắt hai con lừa đến tìm chàng. Số là, bà mẹ đợi lâu không thấy con về, sinh nghi, cho tìm kiếm hầu khắp mọi chỗ trong làng, cũng không thấy tăm hơi gì cả, bàn đến hỏi Trương, Trương nhớ ra lời mình nói trước đây, liền bảo đến núi phía Bắc mà tìm. Đi lần qua hết mấy hôm mới đến được đây. Chàng tình cờ ra cửa thì gặp nhau, bèn trở vào thưa bà già, lại xin được dẫn cô gái về cùng. Bà cụ mừng nói:
- Ta vẫn có ấy từ lâu rồi, hiềm vì tấm thân già yếu không thể đi xa được. Nay được cháu dẫn em nó về, để nhận dì, thì tốt quá
Bà bèn gọi Hoàng Cúc, Hoàng Cúc cười, bước ra. Bà nói:
- Có gì vui mà cười hoài không ngớt thế? Giá không cười thì cũng được là người toàn vẹn rồi đấy.
Bà nhân đấy lừ mắt giận dữ, rồi bảo:
- Anh cả muốn mày đi cùng, hãy vào sắm sửa hành trang đi!
Lại dọn cơm rượu thắt đãi người gia nhân, rồi mới tiễn ra cửa, nói:
- Nhà dì ruộng nương dư dật, đủ sức nuôi người ăn dưng. đến đấy hãy khoan về, cố học lấy chút thi lễ, để biết đường thờ phụng bố mẹ chồng rồi sẽ cậy bà dì kiếm cho mày một tấm chồng xứng đáng.
Hai người bàn khởi hành. Đến vạt núi trũng, quay lại nhìn, còn lờ mờ thấy bà cụ tựa cửa trông theo. Về tới nhà, mẹ nhìn thấy cô gái xinh đẹp, kinh ngạc hỏi là ai .Chàng đáp là con bà dì. Mẹ nói:
- Những điều anh Trương nói với con dạo trước là dối đấy. Mẹ chưa từng có chị, có em gái, sao lại có cháu con dì được?
Hỏi cô gái, nàng đáp:
- Tôi không phải là do mẹ đẻ ra. Bố vốn họ Tần, lúc mất, con còn nằm trong tã, nên không thể nhớ được gì.
Bà mẹ nói:
- Ta có một người chị lấy chồng họ Tần thật, nhưng mất đã lâu, làm sao lại còn được?
Nhân hỏi kỹ những dấu vết trên mặt, nốt ruồi, cục bướu, nhất nhất đều phù hợp.
Lại ngờ ngợ mà nói:
- Thế thì phải đấy! Nhưng chết đã bao năm nay rồi, làm gì mà còn được đến giờ?
Giữa lúc đang ngẫm nghĩ, nghi hoặc thì chàng Trương đến, cô gái lánh vào nhà trong. Trương hỏi biết duyên cớ, ngẩn ra một lúc hồi lâu rồi chợt hỏi:
- Cô gái này có phải tên là Hoàng Cúc không?
Chàng bảo phải . Chàng Trương vội nói ngay là chuyện lạ lùng. Hỏi vì sao mà biết. Trương đáp:
- Từ sau khi cô Tần mất, dượng ấy ở góa, bị hồ ám, mang bệnh mỏi mòn mà chết. Hồ sinh một gái tên là Hoàng Cúc, vẫn quấn tã giữa đường, gia nhân đều trông thấy cả. Dượng mất rồi, hồ thỉnh thoảng còn tới, sau nhà xin bùa của thiền sư dán lên vách, hồ mới ôm con gái bỏ đi . Chẳng lẽ lại là đấy chăng?
Bên nào bên ấy cũng bàn qua tán lại những đìều còn nghi ngờ. Chỉ nghe buồng trong vẳng ra những tiếng khúc khích, đều là tiếng cười của Hoàng Cúc. Bà mẹ bảo:
- Con bé này cũng ngớ ngẩn quá thể!
Trương xin cho xem mặt. Mẹ vào nhà trong, nàng còn rũ ra cười không ngoái lại .Mẹ giục bảo ra, mới cố sức nín cười, lại phải ngoảnh mặt vào vách mất một lúc mới ra được. Vừa mới vái chào, đã xoay mình trở vào rất lẹ, rồi buông tiếng cười to. Đàn bà con gái đầy nhà, ai cũng đều cười vui theo nàng.
Trương xin đi dò xét sự lạ, tiện thể sẽ làm mối luôn. Tìm đến xóm nọ, nhà cửa đều chẳng thấy đâu, chỉ có hoa rừng rơi rụng mà thôi . Trương nhớ lại nơi chôn bà cô, phảng phất đâu đây không xa lắm, nhưng phần mộ đã bị lấp mất, chẳng còn nhận ra được, đành thở than mà quay về.
Bà mẹ ngờ cô gái là ma hoặc hồ ly. Vào buồng thuật lại những lời Trương vừa nói, nàng không mảy may tỏ sợ hãi. Lại xót cho nàng không có nhà cửa gì, cũng không hề có buồn rầu, cứ rúc rích cười hoài mà thôi.
Mẹ bảo cùng ngủ với bọn con gái; sáng tinh mơ đã đến vấn an. Giữ việc nữ công, tinh xảo không ai bì. Chỉ phải cái tật hay cười, cấm cũng không nhịn được. Song nét cười rất tươi, dẫu cười đến phát rồ cũng không giảm vẻ yểu điệu, ai thấy cũng vui thích, đàn bà con gái láng giềng thường tranh nhau mời đón nàng.
Mẹ đã chọn ngày tốt để cho làm lễ hợp cẩn, mà vẫn cứ sợ là ma; bèn rình lúc nàng đứng dưới bóng mặt trời nhìn xem, thì hình bóng không có gì khác lạ. Đến ngày cưới, bảo nàng trang sức đẹp đẽ để làm lễ cô dâu. Cô gái cười quá, không thể cúi xuống, ngẩng lên được, đành phải thôi
Chàng thấy vợ ngây dại, sợ nàng đem những chuyện kín trong phòng riêng tiết lộ ra ngoài, nhưng cô gái lại hết sức kín đáo, một câu cũng không nói .
Mỗi khi mẹ có điều lo giận, nàng dâu đến, chỉ cười một tiếng là lập tức nguôi hết. Đầy tớ, con hầu có lỗi nhỏ, sợ bị roi vọt liền cầu xin nàng đến nói chuyện với mẹ; nhờ thế chúng đến chịu tội thường được tha . Mà nàng yêu hoa thành nghiện, vẫn tìm kiếm khắp nơi trong thân thích xóm làng, lại phải cầm trộm cả thoa vàng đi, để mua cho được giống hoa đẹp, mới có vài tháng mà thềm hè, bờ giậu, chuồng lợn, hố tiêu, không chỗ nào không có hoa.
Sân sau có một giàn mộc hương, vốn ăn liền với nhà láng giềng phía Tây. Nàng vẫn thường vin cây trào lên, hái hoa cài đầu chơi Mẹ thỉnh thoảng bắt gặp lại mắng, mà nàng rốt cuộc vẫn không chừa. Một hôm, con trai nhà phía Tây trông thấy, ngây ra nhìn, lòng dường điên đảo. Cô gái không tránh mặt mà lại cười . Con trai nhà phía Tây nghĩ rằng nàng đã thuận, bụng càng khao khát. Nàng chỉ tay vào chân tường, rồi cười mà trèo xuống. Con trai nhà phía Tây cho là nàng trỏ nơi hò hẹn, sướng quá đỗi đến tối mò ra, thì nàng đã ở đấy thật. Suốt đêm hành dâm, thì dương vật như bị mũi dùi đâm, đau buốt đến tận tim, kêu rú lên mà ngã vật ra. Nhìn kỹ lại thì chẳng phải là cô gái, chỉ là một cây khô nằm ở bên tường, chỗ mình chọc vào là một cái hốc còn nước. Ông bố nhà láng giềng nghe tiếng con kêu, vội chạy ra hỏi xem, chỉ rên rỉ không nói. Vợ đến, mới chịu nói thực. Ông bố đốt đuốc soi vào thấy trong hốc cây có một con bọ cạp lớn như con cua con. Ông bố bổ cây ra, bắt giết đi, rồi vực con về, nửa đêm thì người con chết.
Nhà láng giềng đâm đơn kiện chàng, cáo giác Hoàng Cúc là yêu quái. Quan huyện vốn ngưỡng mộ tài học của chàng, lại biết chàng là một học trò năng trau dồi đức hạnh, cho rằng nhà láng giềng kiện xằng, toan nọc ra đánh. Chàng xin cho, mới được phóng thích mà về. Bà mẹ bảo rằng:
- Cứ ngây dại như thế mãi, từ sớm đã biết vui quá hoá lo mà. May được quan huyện sáng suốt như thần nên mới không liên luỵ, chứ nếu gặp phải hạng quan hồ đồ hẳn đã bắt đàn bà con gái đến chất vấn ở công đường, thì con ta mặt mũi nào nhìn thấy họ hàng làng xóm nữa?
Cô gái liền nghiêm sắc mặt lại, kể từ nay không cười nữa. Mẹ bảo:
- Người ta ai mà không cười, nhưng cười cũng phải có lúc.
Thế là từ đấy về sau nàng không cười nữa thật, dù cố trêu, vẫn không bao giờ cười.
Năm sau, mẹ chồng bệnh, nằm một chỗ rồi mất lúc tuổi ngoài bốn mươi. Thế là nàng trở thành chủ nhân gia đình, gánh vác mọi việc, quán xuyến trong ngoài.. .Và từ đấy về sau, nàng thay đổi rõ rệt. Nàng trở thành con người nghiêm nghị đạo đức. Nàng nói về từ bi, bác ái, dân vi quý, thế giới đại đồng. Bên cạnh tính tốt như vừa nói, nàng lại bộc lộ một vài tính xấu. Nàng thích ăn thịt gà, thịt heo, bánh trái, và lén ăn một mình không cho ai biết. Đi chợ thì công khai ăn quà. Hết ngồi hàng bánh cuốn lại sang hàng lòng heo, hết nem nướng lại sang hàng thịt chó. Việc gì nàng cũng giấu diếm đối trá. Nàng lúc trước yêu hoa, nay ra lệnh cho gia nhân nhổ hết hoa để trồng khoai sắn. Nàng trở thành một bà chủ. khó tính. Nàng luôn luôn gắt gỏng, cau có với mọi người. Nàng chửi thề, nói tục, nàng nói ngọng. Nàng ăn bốc không dùng đũa, dùng bát như người văn minh. Lúc trước, nhà Cao sinh có năm tôi tớ, khi nàng lên cầm quyền thì thải hết ba. Hai người còn lại phải làm gấp đôi lúc trước mà lương bổng lại giảm đi một nửa. Tôi tớ không dám than van.
Nàng bảo:-Ta đây rất từ bi, bác ái, rất thương người cùng khổ, hết lòng tranh đấu cho kẻ vô sản. Các ngươi được tự do vạn lần nhà khác. Các người có quyền làm chủ. Muốn ăn gì thì ăn, muốn làm gì thì làm. Làm hay nghỉ đều tùy thích.Thành thử các người có đủ tự do, hạnh phúc, không cần phải đòi hỏi gì cả!
Vài năm sau, một người họ Hồ, xưng là bà con với nàng, nhân đi làm thuốc qua đây, ghé thăm nàng. Cao sinh long trọng mời anh họ của vợ ở lại một thời gian. Ít tháng sau, Cao sinh lâm bệnh, nàng phải nhờ Hồ ông bốc thuốc và trông nom. Bệnh sinh càng ngày càng trầm trọng, nàng phải bán ruộng vườn. Trong họ, ngoài làng có ai thắc mắc, nàng bảo phải bán để chạy chữa cho chồng.
Năm sau, chồng mất, nàng và Hồ ông bỏ đi biệt tích. Khi chủ nhân mới đến nhận nhà, thiên hạ mới biết nhà cửa, ruộng đất nàng đã bán từ lâu cho người làng bên để đổi lấy vàng bạc và châu báu. Mỗi khi đi ngang qua nhà Cao sinh, thiên hạ nhiều người than thở rằng Cao sinh học giỏi, tính tình hiền lương mà lại yêu hồ ly đến nỗi hại mình , mất gia sản và phải tuyệt tự!
117.HỒ LY BÁO ÂN
Kim Văn Lâu quê ở Thái Nguyên là một nông dân hiền lành. Chàng là em, trên chàng là anh trai. Cha mất sớm, ở với mẹ. Công việc của chàng suốt ngày là trông nom ruộng vườn. Kim không hay săn bắn. Chàng chỉ lên rừng hái mặng tre, đào khoai , hái hoa lan, hái củi và trồng khoai sắn.Tính Kim Văn Lâu thật thà, hiền hậu, rất yêu thương loài vật. Khi lên núi, thấy thỏ, hươu , chim bị nạn là Kim băng bó vết thương cho chúng nó. Một bận, Kim vào rừng, thấy một con Cáo mắc bẫy, Kim giải cứu cho Cáo , lấy lá cây xức thuốc và băng bó cho nó. Việc cứu chim chóc, thú rừng và thả cá là chuyện thường xuyên vì bản tính hiền lành và cũng vì muốn vui chơi, chàng tìm vui trong các việc thiện nhỏ.
Một hôm vào rẫy, chàng thấy một con thỏ trắng muốt, chạy qua trước mặt chàng. Nó chạy một đoạn thì dừng lại như muốn chơi trò cút bắt với chàng. Chàng vui thích bèn đuổi theo. Chạy theo con thỏ trắng một đoạn dài, con thỏ biến mất. Chàng bước đến nữa thì thấy có một khe nước trong xanh, một cô gái Thái trắng, vai mang gùi măng tươi, đang lội giữa suối. Nàng đội khăn hoa, mang đầm xòe, áo trắng, váy xanh, thắt lưng vàng, chân và tay trắng như trứng gà bóc. Chàng say sưa ngắm nghía nàng. Nàng mỉm cười với chàng, và cất tiếng hát trêu ghẹo:
-Hỡi anh lên rừng hái hoa,
Chứ anh ở nhà, có vợ con chưa?
Kim đáp:
-Hỡi cô má đỏ hồng hồng,
Cô muốn lấy chồng thì hãy theo anh!
Kim tiến ra giòng suối chuyện trò cùng nàng. Hỏi nàng tên gì, nàng đáp tên Thanh Thanh, nhà ở bên suối. Kể từ đó, ngày nào gần trưa, chàng ra suối thì gặp nàng. Từ đó hai bên yêu nhau. Một hôm, cả hai ngồi trên bãi cỏ rộng, bên trên là hoa đào nở rộ, tiếng chim rừng thánh thót như khúc nhạc tình. Kim ôm nàng và cả hai nằm xuống thảm cỏ. Chàng thấy thân nàng ấm áp, mềm mại, tỏa ra một mùi hương rất quyến rũ. Cả hai người thấy thân thể nóng ran, Kim ôm nàng rất chặt như hai thân hình nhập vào một. Bỗng nhiên nàng nhẹ xô Kim ra, khóc mà bảo:
-Thiếp rất yêu chàng. Cha mẹ thiếp mất sớm, được bà nội đưa về nuôi. Nếu chàng muốn tính việc dài lâu thì phải thưa qua cùng bà nội.
Hôm sau, chàng ra suối để nàng đưa chàng về gặp bà nội. Cả hai đi quanh co, qua đồi, qua suối thì đến một chân núi, vách đá cao. Dưới chân núi có vài ngôi nhà sàn. Nhà của bà nội Thanh Thanh là một nhà sàn bằng ván, nhà không to nhưng gọn ghẽ, xinh xắn, xung quanh cây cối um tùm, hoa vàng, hoa đỏ nở tươi, lại có hàng rào tre bao bọc, phong cảnh rất u nhã. Thanh Thanh đưa chàng vào nhà thì bà nội của nàng thân mật bước ra chào hỏi:
-Hôm nay, cháu mới tới à? Già bao lâu chờ đợi đứa cháu rể quý.
Nhà của nàng không lớn nhưng sạch sẽ, đầy ánh sánh và tỏa hương thơm. Bàn ghế, bình hoa, các vật trang trí đều bình thường nhưng được cái nét tao nhã, thanh lịch.
Ngồi một lúc, Kim trình bày gia thế và ngõ ý muốn kết duyên cùng Thanh Thanh. Bà già vui vẻ chấp thuận, chưa cho Kim một viên ngọc làm lễ định hôn, và bảo chàng về thưa cùng mẹ và định ngày lành tháng tốt làm lễ thành hôn.
Chàng về thưa với mẹ và được mẹ đồng ý. Ngày lành tháng tốt đã chọn, Kim bèn thưa với bà nội Thanh Thanh. Bà bảo theo tục lệ ở đây, nhà trai cứ soạn cỗ bàn, trang trì nhà cửa, đặt phòng ốc thì nhà gái sẽ đưa dâu tới.
Ngày cưới đã đến, gia đình Kim giăng đèn, treo pháo, kết hoa và mời họ hàng vài chục người đến dự. Nhà gái hơn mười người, đi lừa, cưỡi ngựa đến. Cô dâu mang áo đỏ, cưỡi lừa, khăn hồng che mặt, hai bên có hai phụ dâu và vài a hoàn theo hầu. Sau khi đưa dâu đến ngõ nhà trai thì nhà gái bèn trở về, chứ không ở lại dự lễ và ăn uống như tục lệ người Kinh.
Trong đêm tân hôn, hai vợ chồng đều thấy mình đã đạt hạnh phúc trong đời. Hàng ngày, Kim vẫn theo lệ cũ vào rừng làm rẫy, hái măng, đào khoai sắn, còn nàng ở nhà nuôi heo gà và lo việc cơm nước phụ với mẹ chồng. Đến ngày giỗ chồng, nhân lúc có cô dâu mới, mẹ Kim muốn làm cỗ bàn linh đình để mời bà con, họ hàng tham dự đông đảo. Bà lo lắng không đủ gà vịt, mắm muối. Thanh Thanh bảo mẹ cứ yên chí. Nàng hỏi mẹ chồng muốn làm bao nhiêu mâm và gồm những món nào. Mẹ chồng nói muốn làm mười mâm, gồm xôi, thịt, nem, chả, lòng heo, thịt nướng, thịt quay, bóng, miến, măng, ninh, mọc.. .
Mẹ chồng hỏi nàng dâu cần bao nhiêu người phụ để mượn người. Nàng bảo chỉ cần một người phụ. Hôm giỗ, khoảng năm chục người đến dự. Một mình nàng trong bếp. Nàng liên tiếp băm vằm, tiếng dao thớt vang dội. Trong bếp một mình nàng làm việc, trước bếp có cửa sổ che màn, và đặt sẵn một cái bàn. Hỏi món nào thì trong giây lát là có ngay trên bàn. Người phụ ở ngoài chỉ việc bưng ra mới khách.
Có khách muốn có món vịt quay Thượng Hải, có người đòi tôm hùm sông Gianh, một chốc, tất cả đều được bưng ra đãi khách. Trong cuộc rựợu, có khách đòi rượu Kim Sơn, Văn Điển, có kẻ xin Ngũ Gia Bì Bắc Kinh. Có khách yêu cầu món rau muống tiến của Sơn Tây, cá gáy Tây Hồ, tất cả đều được đáp ứng đầy đủ. Đến lúc ăn tráng miệng, có người đòi nhãn tiến Hưng Yên, cam Xã Đoài, chốc lát đều có cả.
Cả xóm làng ai cũng kính phục nàng. Vài năm sau, cháu gái của nàng đến báo tin bà nội bị bệnh sắp mất, muốn hai vợ chồng nàng về gặp mặt lần cuối. Kim và vợ vội vàng lên ngựa mà vào núi. Khi đến nơi, bà bảo hai vợ chồng Kim ngồi bên cạnh giuờng bệnh, rồi nói với Kim:
-Ta là giống Hồ. Ta là con Hồ được người cứu thoát. Cảm tạ thâm ân của người nên ta gả cháu gái ta cho ngươi. Ta là giống Hồ nhưng giống Hồ hiền lành, chỉ biết tu hành, không hại ai. Nhưng tương lai vài năm nữa sẽ có một giống Hồ từ phương Bắc tới. Chúng xâm chiếm quê hương này, giết người, cướp của không gớm tay, mà Thái Nguyên là căn cứ đầu tiên của chúng nó.
Thánh tiên có sấm truyền:
" Ái quốc thị phản quốc,
Tây phương thị Cực Lạc thế giới".
(Ái quốc là phản quốc,
Tây phương là thế giới cực lạc)
Kim xin bà giải thích hai câu sấm này. Bà bảo thiên cơ bất khả lậu .Gần trăm năm sau, thiên hạ sẽ rõ câu sấm này. Tuy nhiên, bà cũng khuyên cháu. Giặc Hồ sau này sẽ mưọn danh ái quốc, xưng là thần, là Phật để xô con người làm tội ác. Ai cũng phải yêu nước, làm việc thiện nhưng phải sáng suốt, đừng để người lùa dối và lợi dụng. Yêu nước, yêu dân là tự tâm mình. Thờ Phật, thờ Trời cũng do tâm mình. Đừng theo ai, tin ai mà mang họa vì họ không phải là chân tu hay thiện nhân, toàn là lũ chồn cáo xảo trá, mượn danh nhân nghĩa, công bằng để cướp của giết người. Ta nay có vật tặng ngươi.
Bà lấy dưới gối một chiếc khánh ngọc màu xanh, đàng sau có chạm hình chiếc thuyền. Bà nói nên gìn giữ. Đây là bổn mạng của các cháu và của người Việt Nam. Các cháu nên bỏ Thái Nguyên vào phía nam Hải Vân mà sinh sống. Nếu được vậy thỉ sẽ có nửa phần may mắn. Nếu có thể, các cháu bỏ cái xứ sở ma quỷ này, theo thuyền đi về phương Nam qua biển rộng mà tới Cực Lạc quốc thì mới được hạnh phúc vẹn toàn. Các cháu nhớ là đừng ở núi rừng, nên ở phố biển thịnh vượng, có nhiều tàu bè.
Bà ngâm hai câu thơ:
"Khi nao máu chảy thành sông,
Nhà tù như nấm, biển đông chật thuyền."
Đó là cơ hội cuối cùng cho người Việt! Nói xong bà tắt thở.
Hai vợ chồng Kim ở lại chôn cất bà nội rồi cưỡi ngựa về làng. Sinh kể câu chuyện với mẹ và anh. Mẹ nghe xong bảo:
-Ta đã già rồi , muốn chết bên cạnh mộ chồng và mộ tổ tiên.
Còn người anh thì cười mà bảo:
-Chú khéo tin chuyện huyền hoặc. Chú muốn đi thì đi. Ta ở đây có nhà cửa, ruộng nương, sao lại phải sống đời lưu lạc? Ta chỉ là nông dân, không phải là quyền quý, chức sắc, chỉ có nhà ngói nhỏ, với vài ba mẫu ruộng đâu có phải hạng đại phú gia mà sợ cướp bóc? Tin đồn nay mai đây, Đại vương Nhân Nghĩa sẽ về cứu nhân độ thế. Ấy là lúc nhà ta, nhân dân ta ấm no hạnh phúc, hà tất phải tha phương!
Kim nghe lời bà nội của vợ, bèn bán nhà cửa, ruộng nương mà theo thuyền vào Nam. Chàng thấy Hội An là nơi tốt nhất. Nơi đây là thành phố cổ, có nhiều khách ngoại quốc lui tới buôn bán, sầm uất một thời. Sinh bỏ vàng bạc mua nhà, mở hàng tơ lụa mà buôn bán. Sinh làm quen với người Nhật, người Nam Dương, người Ấn Độ, học ngôn ngữ, phong tục và cách buôn bán của họ. Sau kinh doanh được ít lâu thì có người đồng hương chạy vào xứ Đàng Trong, gặp chàng báo tin Đại vương Nhân Nghĩa thi hành chính sách Nhân nghĩa và công bằng xã hội, đã kết tội mẹ anh và em anh về tội:
"Làm giàu bất nhân,
Bóc lột nhân dân,
Nợ máu phải trả bằng máu!"
Trong thôn bản của Kim có năm trăm nóc nhà, có năm chục nhà đã bị kết tội "đại gian, đại ác"trong đó có mẹ và em trai của Kim. Các cháu bị đuổi ra khỏi nhà và để cho chết đói. Mẹ và em của anh bị trói vào cột, bắt quỳ hơn mười ngày, sau đó đem ra xử tội chết. Họ lấy cuốc đập vào đầu hoặc chôn sống, sau xô xuống hố mà lấp đất lại. Họ sung công nhà cửa, ruộng đất. và chia cho dân nghèo. Kim nghe tin mà than khóc vô cùng. Kim càng tin lời tiên tri của bà nội, bèn thuê thợ đóng tàu hàng hải, mua hàng hóa đi buôn ở các nước Tiểu Tây dương, tức là những nước ở phía Nam Việt Nam. Kim qua lại thử thách vài ba chuyến, thấy Phi Luật Tân sống được. Kim về bán nhà cửa, đất đai sang đây mua nhà cửa , mở cửa hàng rồi định cư ở đó, không trở về Việt Nam nữa.
Sửa chữa ngày 29 May 2010
Hoàn thành ngày 17 June 2010.
Nguyễn Thiên Thụ
*
Hoàn thành ngày 17 June 2010.
Nguyễn Thiên Thụ
No comments:
Post a Comment