DOCUMENTS OF VIETNAMESE ANCIENT CULTURE VII
Collected by Nguyễn Thiên Thụ
38. NGUYỄN VĂN TUẤN.
Địa đàng không phải ở phương Tây...
Tags: Đông Nam Á, Ấn Độ, Việt Nam, Trung Hoa, Thái Lan, Solheim II, Văn Minh Nông Nghiệp, nhà khảo cổ học, miền Nam Trung Quốc, di truyền học, nền văn minh, trước công nguyên, có thể là, ngày nay, nguồn gốc, đến
Ảnh minh họa người nguyên thủy Hòa Bình |
Thành kiến của giới thiệu nghiên cứu phương Tây
Myanmar có nhiều chùa chiền được kiến trúc một cách phi thường, nhiều
lâu đài được chạm khắc rất tinh vi. Ở miền Bắc Thái Lan cũng còn lưu
lại nhiều công trình kiến trúc vĩ đại mang đậm ảnh hưởng của Phật giáo.
Vịnh Hạ Long thuộc phía Bắc Việt Nam trồi lên những tác phẩm thiên nhiên
như được chạm bằng đá vôi, mà có lẽ từng là một vùng lục địa khoảng
10.000 năm trước đây. Cổ Loa, một huyện nhỏ của Việt Nam ngày nay, có lẽ
là một trung tâm đô thị (hay một tp) đầu tiên của vùng Đông Nam Á, với
niên biểu được ước đoán vào khoảng niên kỷ thứ ba trước Công nguyên.
Những công trình kiến trúc ở Huế và Đà Nẵng cho thấy sự tương phản giữa
hai nền văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ. Tp Huế, tuy lâu đời hơn, nhưng có
nhiều công trình kiến trúc trẻ hơn tp Đà Nẵng, nơi mà nhiều tháp Chăm
còn lưu lại như những dấu ấn của văn minh Ấn Độ. Campuchia có đền Angkor
Wat nổi tiếng và nhiều dấu vết của một nền văn minh sáng chói trước
đây.
Các vật dụng và vũ khí thời đá muộn - cổ vật Phùng Nguyên |
Chủ nhân của những công trình này là ai? Sách giáo khoa thường viết
rằng chủ nhân hoặc là người Trung Hoa hoặc là người Ấn Độ, chứ không
phải người địa phương Đông Nam Á! Quan điểm này vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay, và đã bám rể vào một bộ phận không nhỏ trong chúng ta.
Với một lịch sử lâu đời và nhiều nền văn minh phong phú như thế, song
Đông Nam Á lại không được các nhà sử học để ý đến như các vùng đất
khác. Đây là một ví dụ về thành kiến của giới sử học Tây phương. Khoảng
200 năm trước đây, các nhà sử học phát hiện rằng phần lớn hai họ ngôn
ngữ Ấn và Âu (Indian và European) thuộc vào một họ ngôn ngữ mà ngày nay
chúng ta gọi là nhóm Ấn - Âu (Indo-European language group). Khám phá
này được đánh giá như là một thành quả vĩ đại của tri thức vào thời gian
đó. Nhưng mỉa mai thay, trước đó vài năm, người ta đã phát hiện một
nhóm ngôn ngữ khác, có tên là Austronesian, nhưng phát hiện này chẳng
đem lại một sự chú ý nào đáng kể trong giới khoa bảng Tây phương cả!
Nhóm ngôn ngữ này rất phổ biến, từ các vùng như Madagascar, Đài Loan,
Hawaii và Tân Tây Lan, vượt Thái Bình Dương đến tận Ấn Độ Dương khá lâu,
có thể trước khi Phật Thích Ca ra đời.
Sách viết về nguồn gốc văn minh thế giới hoàn toàn không đề cập đến
Đông Nam Á. Ngay cả khi đề cập đến khu vực này trong vài năm gần đây,
các sách cũng chỉ viết một cách sơ sài vài hàng, với giọng văn thiếu
nghiêm túc, nhưng lại tập trung vào hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ,
nhất là vào khoảng 2.000 năm trước đây. Mãi đến thời gian gần đây, văn
minh của Thời đại Đồng thiết Đông Sơn (Bronze Age) và các nền văn hóa
trước đó (vào niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên) của Việt Nam mới được
công nhận như là văn minh nguyên thủy của khu vực Đông Nam Á.
Nhưng một loạt phát hiện mới trong những năm gần đây cho thấy giả
thuyết Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước đã khai hóa hay truyền bá văn
minh cho các nước thuộc vùng Đông Nam Á không còn đứng vững nữa. Các
phát hiện này cụ thể như sau:
Nguồn gốc lúa nước: Đông Nam Á
Theo Stephen Oppenheimer trong Eden in the East (Địa đàng ở phương
Đông, Nxb Lao động, 2005), Đông Nam Á từng là trung tâm của cuộc cách
mạng thời đại đồ đá mới (Neolithic Revolution), bắt đầu phát triển kỹ
thuật trồng trọt, dùng đá để nghiền hạt lúa, vào khoảng 24.000 năm trước
đây, tức là trước cả Ai Cập và Palestine khoảng 10.000 năm.
Thực vậy, phát hiện về hạt lúa ở hang Sakai (miền Bắc Thái Lan) gần
đây cho thấy cư dân ở đây đã biết trồng lúa có thể trước cả thời kỳ nước
biển dâng cao vào khoảng 8.000 năm về trước, ít nhất là từ thiên niên
kỷ thứ 6 hay thứ 7 trước Công nguyên. Hệ thống nông nghiệp được tìm thấy
ở Indonesia có niên biểu lâu đời hơn cả thời đại mà những thành tựu
được xem là “cách mạng” về trồng lúa ở Trung Quốc. Thực vậy, ở
Indonesia, kỹ thuật về trồng khoai lang và khoai nước được ước đoán có
tuổi từ 15.000 đến 10.000 năm trước Công nguyên. Ở Việt Nam, phát hiện ở
Phùng Nguyên bằng kỹ thuật định tuổi (dùng Carbon-14) cho thấy cư dân ở
đây từng trồng trọt ngũ cốc khoảng 5.000 đến 6.000 năm trước đây, tức
là còn sớm hơn nhiều niên biểu của những thành tựu của người Trung Hoa.
Ngoài ra, nhà khảo cổ học uy tín gốc Mỹ, giáo sư Wilhelm G. Solheim II,
trong một loạt nghiên cứu từ năm 1965 đến 1968, cho thế giới thấy nền
văn minh Hòa Bình là nền văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới,
khoảng 15.000 năm trước Công nguyên. Một nhà khảo cổ học danh tiếng khác
người Úc, giáo sư Peter Bellwood, cho rằng quê hương nguyên thủy của
cây lúa nước rất có thể là ở chung quanh vùng Đông Dương - Mã Lai -
Myanmar, vì ở đây khí hậu nhiệt đới là môi trường thuận lợi cho việc
canh tác nông nghiệp.
Trước và đặc biệt là trong, thời kỳ nước biển dần dần dâng cao
(khoảng 8.000 năm trước), người Đông Nam Á di dân đến những vùng đất
láng giềng: miền Nam Trung Quốc ngày nay, Ấn Độ, Mesopotamia và vài hòn
đảo từ Madagascar đến Philippines, Tân Guinea, và sau này họ chiếm luôn
vùng Polynesia cho đến Hawaii và Tân Tây Lan. Các dữ kiện di truyền học
chứng minh rằng các sắc dân trong quần đảo như Tân Guinea, Polynesia,
Melanesia, v.v... có cấu trúc di truyền tố giống với các sắc dân thuộc
vùng Đông Nam Á ngày nay. Gần đây, còn có một số nghiên cứu di truyền
học cho thấy người Hán miền Nam Trung Quốc có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
Trong quá trình di cư, họ đem theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm
tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn, yêu thuật và đẳng cấp xã hội đến các
vùng đất mới. Thực vậy, ngày nay, dấu vết của cuộc di dân trên vẫn còn
ghi đậm trong các quần đảo Melanesia, Polynesia và Micronesia; dân chúng
những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian có nguồn gốc từ
Đông Nam Á. Có lẽ người ta không ngạc nhiên khi thấy trong các dân tộc
vùng Đông Nam Á, Trung Đông, Úc châu và Mỹ châu đều có những câu chuyện
thần thoại về trận lụt vĩ đại này, và các câu chuyện này có độ tương tự
rất cao. Điều này chứng tỏ rằng các sắc dân này xuất phát từ một nền văn
hóa nguyên thủy. Có thể người Đông Nam Á, những nhà nông đầu tiên thế
giới, chính là những người thầy ở các vùng đất mới, dạy người địa phương
những kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi.
Nguồn gốc heo: Đông Nam Á
Trong quá khứ (trước khi công nghệ sinh học ra đời), các nhà khảo cổ
học dựa vào những di chỉ khảo cổ học (chủ yếu là xương sọ) được khai
quật từ nhiều vùng khác nhau để đặt giả thuyết và tìm câu trả lời về
nguồn gốc heo. Theo các di chỉ này, heo được thuần hóa vào khoảng 9.000
năm về trước ở vùng mà ngày nay thuộc miền Đông Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ra,
cũng có các di chỉ khảo cổ học cho thấy (hay được diễn dịch) là heo cũng
từng được thuần hóa vào khoảng thời gian này tại Trung Quốc ngày nay.
Nhưng vài thập niên gần đây, với sự phát triển phi thường của di
truyền học và sinh học phân tử, giới khoa học đã có một phương tiện mới,
chính xác hơn và đáng tin cậy hơn để truy tìm nguồn gốc heo. Phương
tiện đó chính là gien, hay nói chính xác hơn là DNA.
Một nghiên cứu quy mô nhất từ trước đến nay về nguồn gốc heo được
tiến hành với sự hợp tác giữa các nhà di truyền học Mỹ và Thụy Điển. Qua
phân tích xu hướng phân bố và đồng dạng DNA của các giống heo (700 con)
trên thế giới, các nhà nghiên cứu đi đến kết luận rằng tổ tiên của heo
ngày nay chính là heo rừng và quê hương của heo rừng nguyên thủy này
chính là vùng Đông Nam Á ngày nay. Sau khi được thuần hóa ở Đông Nam Á,
heo tản mát theo con người đến các vùng Âu - Á (Eurasia), vượt biển đến
Âu châu và ra các bán đảo Thái Bình Dương. Sau khi tản mát ra khỏi Đông
Nam Á, heo được tiếp tục thuần hóa nhiều lần ở nhiều vùng tại Trung
Quốc, vùng cận đông và Âu châu.
Một nghiên cứu di truyền mới nhất qua phân tích DNA các giống heo
thuộc các hải đảo Thái Bình Dương và đặc biệt là heo không lông thuộc
đảo Vanuatu, các nhà nghiên cứu Úc và Mỹ khẳng định rằng heo tại các hải
đảo này cũng xuất phát và được thuần hóa từ lục địa Đông Nam Á (đặc
biệt là từ Việt Nam) khoảng 3.000 năm trước đây. Sau đó, chúng theo con
người “di dân” ra khỏi lục địa và đến các hải đảo như Vanuatu và Ryukyu.
Ngoài ra, các giống heo tại các hải đảo này cũng có “hồ sơ” DNA rất
giống với heo ở Âu châu.
Nguồn gốc gà: Đông Nam Á
Hiện nay trên thế giới, người ta thống kê có tất cả 175 giống gà khác
nhau, và tất cả đều xuất thân từ loài chim rừng màu đỏ có tên [tiếng
Anh] là Red Jungle Fowl, và tên khoa học là Gallus gallus. Theo các tài
liệu khảo cổ học và dựa vào các di vật khảo cổ, giới khoa học cho rằng
loài chim này được con người thuần dưỡng vào khoảng 4.000 năm trước đây
tại vùng thung lũng Indus (tức Pakistan ngày nay). Tuy nhiên, các nhà
khảo cổ học Trung Quốc dựa vào các di chỉ tìm thấy trong các vùng thuộc
sông Hoàng Hà (Yellow River) cho rằng Trung Quốc mới là nơi đầu tiên
thuần dưỡng các loài gia cầm như gà và ước tính thời điểm thuần hóa gà
xảy ra vào khoảng 6.000 đến 7.500 năm trước đây. Nhưng thời điểm này
cũng bị nghi ngờ, bởi vì khí hậu và môi trường miền Bắc Trung Quốc không
thể là nơi lý tưởng cho loài gà rừng Red Jungle Fowl được.
Trong hai công trình nghiên cứu quan trọng công bố trên tập san Viện
hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ, một nhóm khoa học gia Nhật so sánh cấu
trúc di truyền của 21 giống gà nuôi thuộc gia đình Gallus gallus từ Thái
Lan, Nam Dương, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Sri Lanka, v.v... và phát hiện
rằng giống gà ở Thái Lan có hệ số phong phú di truyền cao nhất, tức là
giống gà ở đây có độ tuổi di truyền cao nhất. So sánh DNA gà Đông Nam Á
và DNA các giống gà khác trên thế giới, các nhà nghiên cứu Nhật đi đến
kết luận rằng tất cả các giống gà nuôi trên thế giới ngày nay xuất phát
từ một giống gà từng sống (hay được thuần dưỡng) tại một vùng đất mà
ngày nay thuộc Thái Lan và Việt Nam. Họ còn ước tính rằng thời điểm
thuần hóa gà rừng tại Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam bắt đầu vào
khoảng 8.000 năm về trước.
Trong cuốn Origin of species, Darwin cũng từng khẳng định rằng tất cả
các giống gà nuôi trên thế giới đều có nguồn gốc từ gà rừng Đông Nam Á.
Trong một bài viết cho tập san National Geographic, W. G. Solheim II
nhận xét rằng Đông Nam Á là nơi phát triển nền chăn nuôi đầu tiên trên
trái đất.
Tất cả những bằng chứng này cho thấy Đông Nam Á có thể là một cái nôi
văn minh nông nghiệp đầu tiên của con người và cư dân tại đây rất có
thể là những người phát minh ra kỹ thuật trồng lúa nước, chăn nuôi và
truyền các kỹ thuật này lên phía Bắc (tức miền Nam Trung Quốc ngày nay).
Phát hiện mới nhất về nguồn gốc heo và gà (và trước đó, chó) từ Đông
Nam Á cung cấp thêm một cơ sở để suy luận rằng trong quá trình định cư
và phát triển nông nghiệp, người Đông Nam Á cổ đã thuần dưỡng giống gà
rừng và từ đây giống gà này được truyền bá đến miền Nam Trung Quốc và từ
Trung Quốc “di cư” sang Âu châu. Những phát hiện này, cộng với những di
chỉ khảo cổ học và di truyền học mới nhất củng cố thêm cho giả thuyết
Đông Nam Á là một trung tâm văn minh nông nghiệp đầu tiên trên thế giới.
Địa đàng ở phương Đông (*)
Cuốn sách gây chấn động trong giới nghiên cứu phương
Tây. Phải chăng phương Đông, cụ thể là khu vực Đông Nam Á, là cái nôi cổ
của văn minh nhân loại?
Bạn đọc đang cầm trên tay một cuốn sách rất quan
trọng về lịch sử văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là
một công trình nghiên cứu văn minh và văn hóa thời tiền sử, và có liên
quan mật thiết đến Việt Nam. Cuốn sách này đã làm cho Tây phương, và sẽ
làm cho bạn đọc, thay đổi cái nhìn cố hữu về văn minh và văn hóa Đông
Nam Á. Để làm sáng tỏ hơn câu phát biểu trên, tôi muốn có vài hàng thưa
chuyện cùng bạn đọc về những diễn biến dẫn đến sự ra đời và ý nghĩa của
tác phẩm này.
Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông
Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc
văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và
thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của
đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự
pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có
phát kiến gì đáng kể.
Cuốn sách này sẽ làm cho bạn phải suy nghĩ lại và sẽ
thay đổi những định kiến trên. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy người
Đông Nam Á có lẽ là một tộc người cổ nhất thế giới và là tổ tiên của
người miền Nam Trung Quốc ngày nay. Qua những dữ kiện dồi dào được thu
thập một cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau được trình
bày trong sách, bạn đọc sẽ nhận thức rằng Đông Nam Á là nơi phát triển
nền nông nghiệp sớm nhất và có thể là quê hương của kỹ nghệ kim loại đầu
tiên trên thế giới. Những kỹ thuật này đã được truyền đi khắp thế giới
qua làn sóng di cư vĩ đại xuất phát từ Đông Nam Á. Những khám phá mà nói
theo nhà khảo cổ học danh tiếng người Mỹ, Wilhelm G. Solheim II, làm
cho người ta phải suy nghĩ lại vai trò và vị trí của người phương Tây
trong quá trình tiến hóa của văn hóa thế giới, bởi vì có nhiều bằng
chứng cho thấy một cách hùng hồn rằng Đông Nam Á (chứ không phải Trung
Quốc hay Ấn Độ) có thể là nơi đã đặt một số nền tảng đầu tiên cho văn
minh của nhân loại.
Người viết lời giới thiệu này có may mắn đã đọc Eden
in the East và đã có dịp giới thiệu cuốn sách đến bạn đọc Việt Nam qua
Tạp chí Tia Sáng. Nay, có cơ hội viết lời giới thiệu cho bản tiếng Việt
của một cuốn sách viết bằng tiếng Anh là một vinh hạnh cho người viết,
bởi vì tôi thấy những câu trả lời khoa học của cuốn sách đã vượt biên
giới quốc gia, âu cũng là một ước muốn của tác giả và những người tổ
chức dịch và xuất bản cuốn sách này sang tiếng Việt. Trước khi viết
những dòng giới thiệu này, người viết đã đọc hết bản dịch và người viết
rất phấn khởi thấy bản dịch có chất lượng cao, vì người dịch tỏ ra trân
trọng với tiếng Việt và cẩn thận với các thuật ngữ chuyên môn. Cuốn sách
quả xứng đáng có trong tủ sách văn minh và văn hóa của bạn đọc.
Nguyễn Văn Tuấn
|
Nhà Xuất bản Lao động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây ấn hành, Hà Nội, 1-2005.
http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Dia-dang-khong-phai-o-phuong-Tay/62185353/188/
39. Giới thiệu sách: Địa đàng phương Đông
Nguyễn Văn Tuấn
Sunday, 10 October 2010 14:45
Cuốn sách gây chấn động trong giới nghiên cứu phương Tây. Phải chăng phương Đông, cụ thể là khu vực Đông Nam Á, là cái nôi cổ của văn minh nhân loại?
Tên sách: Địa đàng phương Đông
Tác giả: Stephen Oppenheimer
Lê Sĩ Giảng, Hoàng Thị Hà dịch từ nguyên tác tiếng Anh: Eden Of The East
Hiệu đính: GS. Cao Xuân Phổ
Sách dày 800 trang, giá bìa: 100.000 đồng
Nhà xuất bản Lao Động và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây ấn hành, Hà Nội, 1/2005.
Lời giới thiệu
Tìm
hiểu cội nguồn văn minh và văn hóa dân tộc hiện đang là một đề tài thời
sự nóng trên thế giới, bởi vì trong xã hội hiện đại và thế kỷ 21, văn
hóa sẽ là một yếu tố nhận dạng của một dân tộc. ở nước ta, sách vở và
các công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa dù đã và đang phát triển,
nhưng nói chung vẫn còn khiêm tốn. Trong bối cảnh đó, bạn đọc đang cầm
trên tay một cuốn sách rất quan trọng về lịch sử văn minh và văn hóa
Đông Nam Á. Cuốn sách thực chất là một công trình nghiên cứu văn minh và
văn hóa thời tiền sử, và có liên quan mật thiết đến Việt Nam.
Cuốn sách này đã làm cho Tây phương, và sẽ làm cho bạn đọc, thay đổi cái nhìn cố hữu về văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Để làm sáng tỏ hơn câu phát biểu trên, tôi muốn có vài hàng thưa chuyện cùng bạn đọc về những diễn biến dẫn đến sự ra đời và ý nghĩa của tác phẩm này. Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể. Cuốn sách này sẽ làm cho bạn phải suy nghĩ lại, và sẽ thay đổi những định kiến trên. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy người Đông Nam Á có lẽ là một tộc người cổ nhất thế giới, và là tổ tiên của người miền Nam Trung Quốc ngày nay.
Cuốn sách này đã làm cho Tây phương, và sẽ làm cho bạn đọc, thay đổi cái nhìn cố hữu về văn minh và văn hóa Đông Nam Á. Để làm sáng tỏ hơn câu phát biểu trên, tôi muốn có vài hàng thưa chuyện cùng bạn đọc về những diễn biến dẫn đến sự ra đời và ý nghĩa của tác phẩm này. Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng nước đọng của lịch sử nhân loại, nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, hay thậm chí Đông Âu, đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích. Một quan điểm gần như “chính thống” của đại đa số giới học giả Tây phương là văn hóa Đông Nam Á chỉ là một sự pha trộn văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, và văn minh Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể. Cuốn sách này sẽ làm cho bạn phải suy nghĩ lại, và sẽ thay đổi những định kiến trên. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy người Đông Nam Á có lẽ là một tộc người cổ nhất thế giới, và là tổ tiên của người miền Nam Trung Quốc ngày nay.
Qua
những dữ kiện dồi dào được thu thập một cách công phu từ nhiều ngành
nghiên cứu khác nhau được trình bày trong sách, bạn đọc sẽ nhận thức
rằng Đông Nam Á là nơi phát triển nền nông nghiệp sớm nhất, và có thể là
quê hương của kỹ nghệ kim loại đầu tiên trên thế giới. Những kỹ thuật
này đã được truyền đi khắp thế giới qua làn sóng di cư vĩ đại xuất phát
từ Đông Nam Á. Những khám phá mà nói theo nhà khảo cổ học danh tiếng
người Mỹ, Wilhelm G. Solheim II, làm cho người ta phải suy nghĩ lại vai
trò và vị trí của người phương Tây trong quá trình tiến hóa của văn hóa
thế giới, bởi vì có nhiều bằng chứng cho thấy một cách hùng hồn rằng
Đông Nam Á (chứ không phải Trung Quốc hay Ấn Độ) có thể là nơi đã đặt
một số nền tảng đầu tiên cho văn minh của nhân loại. Trước đây, Đông Nam
Á là một lục địa nhỏ chạy dài từ miền Nam Trung Quốc và một phần đất
của Ấn Độ ngày nay đến gần châu Úc.
Vào
thời đó, biển Đông, vịnh Thái Lan và biển Java là một vùng đất khô nối
liền các khu vực của lục địa. Nói cách khác, phần đất phía Nam sông
Dương Tử thuộc Trung Quốc ngày nay cũng được xem là một phần đất của
Đông Nam Á cổ. Sau khi kỷ Băng hà chấm dứt khoảng
10.000 năm về trước, Đông Nam Á bị ngập bởi nước biển. Những vùng đất
thấp của lục địa trở thành đáy biển Đông ngày nay, và những vùng cao
phía Nam lục địa nay là các quần đảo thuộc Indonesia. Những vùng đất
liền hiện nay thuộc Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar (Miến Điện), Thái
Lan và Malaysia. Do đó, Địa đàng ở phương Đông bắt đầu bằng một giả
thuyết rằng nền văn minh Đông Nam Á cổ hiện nay đang nằm dưới lòng biển.
(Khoảng 5 năm trước đây, người ta phát hiện một số công trình xây cất,
tòa nhà được kiến trúc rất độc đáo dưới lòng biển thuộc Đài Loan).
Giả thuyết này có nhiều cơ sở khoa học mà chúng ta sẽ thấy trong sách.
Người Tây phương, dẫn đầu là người Bồ Đào Nha, bắt đầu biết đến Đông Nam
Á từ thế kỷ 16, khi họ đến đây và thành lập những trạm tìm kiếm hương
liệu hiếm để buôn bán. Người Bồ Đào Nha trở thành độc quyền trong việc
mua bán hương liệu (như hạt nhục đậu khấu, cây đinh hương, cây chùy... )
cả trăm năm liền. Đến đầu thế kỷ 17, Anh và Hà Lan dùng lực lượng hải
quân của họ đẩy lui người Bồ Đào Nha, và lập các trang trại để bành
trướng khai thác hương liệu sang khai thác cao su, trà (chè) và thiếc.
Các
đế quốc lần lượt xâm chiếm Đông Nam Á: Anh chiếm Ấn Độ và Miến Điện, Hà
Lan chiếm đóng Java và Sumatra ở Indonesia, Pháp thì chiếm đóng Việt
Nam, Campuchia và Lào, một vùng đất mà họ đặt tên là “Indochina”. (Qua
cách đặt tên của thực dân Pháp, chúng ta cũng có thể thấy định kiến của
người Pháp lúc đó xem ba nước Việt, Miên, Lào chỉ là phần phụ của văn
minh Ấn Độ và Trung Hoa!) Chỉ có một phần đất duy nhất không bị thuộc
địa hóa là Siam hay Thái Lan ngày nay. Năm 1858,
trong khi người Pháp đã thiết lập ảnh hưởng của họ tại Đông Nam Á, một
học giả tên là Henri Moubot tiến hành một cuộc thám hiểm khoa học vào
các vùng đất liền Đông Nam Á. Những ghi chép trong cuộc hành trình này
được ông sắp xếp cho xuất bản vào năm 1864 (sau khi ông qua đời) làm cho
thế giới bắt đầu chú ý đến những di tích lịch sử quan trọng như đền
Angkor phía Bắc Biển Hồ (Tonle Sap), lúc đó đang bị bỏ hoang và bị cây
rừng bao phủ, nhưng qua kiến trúc hoành tráng và nghệ thuật điêu khắc
độc đáo nó nói lên sự thịnh vượng của một nền văn minh tiên tiến. Song,
Moubot chỉ ghi lại chi tiết và đề nghị nghiên cứu thêm, chứ không diễn
dịch, những gì ông thấy. Bốn thập niên sau chuyến thám hiểm của Moubot,
năm 1898, Nhà cầm quyền thuộc địa Pháp cho thành lập trường Viễn Đông
Bác Cổ (École Française d’Êxtrême Orient, hay EFEO) và nhiều cuộc nghiên
cứu về văn minh và văn hóa Đông Nam Á được tiến hành.
Qua
nhiều nghiên cứu khảo cổ, các học giả thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ mới
phát hiện ra một số thành phố Khmer bị chôn vùi trong rừng, và Angkor từng là thủ đô của đế quốc hùng mạnh Khmer vào đầu thiên niên kỷ (khoảng 2000 năm về trước). Họ
còn phát hiện thêm rằng một nền văn minh rực rỡ khác, Văn minh Chăm,
cũng hiện hữu cùng thời với nền Văn minh Khmer. Một trong những học giả
danh tiếng thời đó là Georges Coedès, giám đốc trường Viễn Đông Bác Cổ
từ thập niên 1920 đến 1950, bỏ ra nhiều năm để phiên dịch những văn bia
tiếng Phạn mà ông tìm thấy ở các tháp Chăm tại Việt Nam. Coedès và nhiều
đồng nghiệp của ông thời đó tin rằng văn minh nhân loại khởi nguồn từ
vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) đến Ai Cập, rồi lan sang Hy Lạp và La Mã.
Niên đại của các tượng đài tại Ấn Độ và Trung Quốc cho thấy đây là hai
nền văn minh phát triển sau nền văn minh Lưỡng Hà. Coedès từ đó suy luận
rằng Đông Nam Á chỉ là hậu thân của hai nền văn minh lớn Ấn Độ và Trung
Quốc mà thôi. Năm 1966, Coedès còn viết: người Đông Nam Á “có vẻ thiếu
thiên tư sáng tạo và năng khiếu tiến bộ”. Mãi đến năm 1971, nhà sử học
người Anh Grahame Clark vẫn đánh giá thấp văn minh Đông Nam Á. Ông cho
rằng người tiền sử Đông Nam Á chưa bao giờ thoát khỏi Thời đại Đồ đá
(Stone Age) để tiến lên Thời đại Đồ đồng như các nền văn minh khác.
Clark
viết rằng không như văn minh Lưỡng Hà hay Trung Hoa, “người Đông Nam Á
vẫn tiếp tục sử dụng công cụ bằng đá cho đến thời đại Kitô giáo”. Từ năm
1879, trước một số di vật được sản xuất bằng đồng và một số đồ gốm
thuộc thời tiền sử được tìm thấy ở Đông Nam Á, Clark vẫn bác bỏ sự hiện
hữu của một nền văn minh Đông Nam Á: ông cho rằng đó chỉ là những phát
hiện “khác thường” và tin rằng đó là những công cụ do các nền văn minh
khác đem lại cho Việt Nam mà thôi. Vào thập niên 1920, Nhà khảo cổ học
người Pháp Madeleine Colani bắt đầu khảo cứu các vùng duyên hải Việt Nam
và qua các di vật thu thập được, bà chứng minh rằng tại đây đã có cư
dân sống qua từ Thời đại Đồ đá. Tiếp theo phát hiện đó, bà Colani tiến
hành khai quật quanh vùng Hòa Bình và phát hiện một nền văn hóa săn bắt
cá biệt mà bà gọi là “Văn hóa Hòa Bình”. Sau này, qua bằng chứng về các
công cụ săn bắt làm bằng đá từ Văn hóa Hòa Bình được phát hiện tại nhiều
nơi dọc theo bờ biển Nam Hải chạy dài đến Mã Lai Á, các nhà khảo cổ học
kết luận rằng những di chỉ từ Văn hóa Hòa Bình không phải xuất phát từ
một nhóm người mà từ một công nghệ đồ đá. Thoạt đầu, những phát hiện của
Colani có vẻ xác định những giả thuyết của Grahame Clark và Georges
Coedès rằng văn minh Đông Nam Á lạc hậu so với hai nền văn minh lớn Ấn
Độ và Trung Hoa, nhưng mặt khác Colani còn phát
hiện đồ gốm từ Văn hóa Hòa Bình có niên đại 8000 năm về trước - tức còn
cổ hơn thời kỳ mà các nhà khảo cổ tin rằng cư dân Đông Nam Á vẫn còn
học cách làm đồ gốm!
Thế
rồi, đến khi những trống đồng lớn có hoa văn tinh vi được phát hiện tại
Đông Sơn cho thấy một công nghệ luyện kim khá hoàn chỉnh từ thời tiền
sử đã được hình thành. Phải diễn dịch sao cho hợp lý trước những phát
hiện này? Năm 1932, Nhà nhân chủng học người Áo Robert Heine-Geldern đề
ra một giả thuyết để giải thích những sự thật trên như sau: Đông Nam Á
là vùng đã kinh qua nhiều “làn sóng văn hóa”, và một làn sóng di cư liên
tục đem đến cho Đông Nam Á những kỹ thuật hiện đại. Ông tin rằng những
cái rìu mang hình lưỡi vòm hay những người thợ làm ra chúng chắc chắn
phải xuất phát từ miền Bắc Trung Quốc. Thế còn trống đồng Đông Sơn?
Heine-Geldern đề ra giả thuyết rằng đó là thành quả của một làn sóng văn
hóa khác, lần này thì xuất phát từ người Đông Âu, những người - theo
ông - di cư về phía Nam vào khoảng 1000 năm trước CN và đến Đông Nam Á
vào khoảng 500 năm sau đó. Mặc dù giả thuyết của Heine-Geldern, ngày nay
mới đọc qua ai cũng phải lắc đầu về sự thiếu cơ sở khảo cổ và phi lý
của nó, cực kỳ sơ sài, nhưng được chấp nhận như là một cách giải thích
khoa học nhất thời đó! Nhưng nhiều bằng chứng thu thập sau đó cho thấy
giả thuyết “làn sóng văn hóa” của Heine-Geldern không thể đứng vững
được. Năm 1930, học giả người Hà Lan F. D. K. Bosch tái thẩm định những
văn bia được khắc trên các đền đài ở Nam Dương, và ông khám phá rằng các
văn bia này không hề đề cập đến sự xâm nhập hay chinh phục của Ấn Độ.
Những ảnh hưởng của Ấn Độ trong ngôn ngữ và biểu tượng thường thấy trong
các vương quốc trong lục địa hơn là trong các vùng duyên hải.
Nếu
ảnh hưởng của Ấn Độ đến Đông Nam Á có thật thì nó phải biểu hiện ở các
vùng duyên hải hơn là các vùng trong đất liền. Do đó, phát hiện này cho
thấy cách diễn giải của Heine-Geldern và vài học giả trước đó như Coedès
hay Clark là không đúng. Ngoài ngành khảo cổ học và nhân chủng học,
giới thực vật học cũng thu thập nhiều bằng chứng cho thấy giả thuyết của
Heine-Geldern thiếu cơ sở khoa học. Các nhà thực vật học nghiên cứu
nguồn gốc của cây cỏ và cây ăn trái từng suy luận rằng Đông Nam Á là quê
hương của một số loài thực vật như cây lúa, khoai mỡ, khoai nước, mía
và chuối. Năm 1952, nhà địa lý học người Mỹ Carl Sauer, qua quan sát khí
hậu và nhiều giống cây trồng, đưa ra ý kiến rằng Đông Nam Á có thể là
nơi phát sinh nền nông nghiệp trên thế giới. Nhưng lúc đó, chưa có bằng
chứng khoa học nào để làm cơ sở cho đề xuất này. Năm 1965, Chester
Gorman, một học trò của Wilhelm Solheim II, quyết chí đến Thái Lan truy
tìm những di chỉ về nông nghiệp Thời đại Đồ đá để làm bằng chứng cho giả
thuyết của Sauer. Để làm việc này, Gorman phải học tiếng Thái và bỏ ra
nhiều năm tháng sống với người Thái trong các làng xã xa xôi. Ông lang
thang từng thôn làng và hỏi thăm có ai biết bất cứ di chỉ nào từ các
hang động cổ hay không. Tháng 4/1966, một người thợ săn làng Mai Sang
Nam dẫn ông đến một hang động đá vôi gồm có ba ngăn. Ông bèn đi ngay đến
hang động và đặt tên là Động Linh hồn (Spirit Cave).
Qua
những phương pháp khảo cổ hiện đại, Gorman và các cộng sự nghiên cứu
viên ước đoán rằng Động Linh hồn đã được con người sử dụng khoảng 10.000
năm trước CN. Tại đây, Gorman phát hiện một cây rìu và dao có niên đại
7.000 năm trước CN (niên đại này còn cổ hơn các cây rìu tìm thấy ở Trung
Quốc đến 2.000 năm. Trước đó, người ta vẫn cho rằng các công cụ như thế
do Trung Quốc “xuất cảng” sang Đông Nam Á khoảng 3.000 năm trước CN).
Cũng tại Động Linh hồn, Gorman còn phát hiện con người tại đây đã biết
nấu ăn và đã bắt đầu dùng (hay sản xuất) đồ gốm có trang trí hoa văn.
Sau ba năm phân tích và viết về khám phá từ Động Linh hồn, Gorman quay
lại Thái Lan vào năm 1972 để khai quật các hang động chung quanh. Ông
tìm thấy hai động khác, và có thể kết luận rằng có một quá trình định cư
tại đây khoảng 10.000 năm trước CN đến 1.000 năm sau CN. Ông đặt tên
nền kinh tế thịnh vượng này là nền kinh tế Hòa Bình (vì các công cụ dùng
có cùng hình dạng với công cụ tìm thấy tại Hòa Bình trước đó). Năm
1966, một học trò khác của Solheim là Donn Bayard tiến hành khai quật
một nghĩa trang thời tiền sử có tên là Non Nok Tha (Thái Lan). Tại đây,
dù chỉ đào xuống 1,5 mét, ông đã phát hiện 800 bình, lọ làm bằng gốm
được chôn cất cùng với những chủ nhân của chúng. Qua phân tích cẩn thận,
Bayard ước tính niên đại của các di chỉ này từ 3.500 trước CN đến 2.000
năm trước CN (thời gian này cũng là lúc các thành phố vùng Lưỡng Hà bắt
đầu xuất hiện).
Ngoài
ra, Mayard còn khám phá một số công cụ như rìu, vòng đeo tay làm bằng
đồng và thiếc. Những công cụ tìm thấy ở đây hoàn toàn không có dấu hiệu
thô sơ chút nào; ngược lại, chúng cho thấy người sản xuất đã nấu chảy
kim loại và đổ khuôn. Những phát hiện tại Động Linh hồn và nghĩa trang
Non Nok Tha là một thách thức nghiêm trọng đến những giả thuyết từng
được lưu hành và chấp nhận trước đây. Wilhelm Solheim II không ngần ngại
tuyên bố rằng Đông Nam Á là cái nôi đầu tiên của văn minh nhân loại.
Nhưng quan điểm của Solheim và những phát hiện quan trọng vừa trình bày
trên có ít người trên thế giới biết đến, vì những tài liệu khảo cổ
thường chỉ lưu hành trong giới chuyên môn, chưa được truyền bá đến mức
độ đại chúng. Cuốn Địa đàng ở Phương Đông là một tác phẩm được viết ra
cho quần chúng. Kế tiếp sự nghiệp của Solheim và những người trước đó,
qua cuốn sách bạn đang cầm trên tay, Stephen Oppenheimer, một bác sĩ nhi
khoa, đã bỏ ra 15 năm trời để thu thập, phân tích và tổng hợp dữ kiện
từ các ngành nghiên cứu như di truyền học, nhân chủng học, thần thoại
học, văn học dân gian, ngôn ngữ học, hải dương học và khảo cổ học để cho
ra đời một tác phẩm làm cho nhiều nhà nghiên cứu Đông Nam Á học và khảo
cổ học phải ngẩn ngơ. Giả thuyết mà Oppenheimer trình bày trong cuốn
sách này lần đầu tiên đặt Đông Nam Á vào trung tâm của các nguồn gốc văn
hóa và văn minh thế giới.
Oppenheimer
chứng minh rằng khoảng 9.000 đến 10.000 năm về trước, một số dân vùng
Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp, không chỉ là những
người sống bằng nghề săn bắn ban sơ như giới khảo cổ học Tây phương mô
tả. Vào khoảng 8.000 năm trước đây, mực nước biển tăng một cách đột ngột
và gây ra một trận đại hồng thủy, và trận lụt vĩ đại này đã làm cho
những nhà nông đầu tiên trên thế giới này phải di tản đi các vùng đất
khác để mưu sinh. Trong quá trình di cư đến các vùng đất mới, họ đem
theo ngôn ngữ, truyền thuyết, quan niệm tôn giáo, kinh nghiệm thiên văn,
yêu thuật và đẳng cấp xã hội đến vùng đất mới. Thực vậy, ngày nay, dấu
vết của cuộc di dân trên vẫn còn ghi đậm trong các quần đảo Melanesia,
Polynesia và Micronesia; dân chúng những nơi này nói tiếng thuộc hệ ngôn
ngữ Nam Đảo (Austronesian) có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Theo
Oppenheimer, những “người tị nạn” này có thể là những hạt giống cho
những nền văn minh lớn khác mà sau này được phát triển ở Ấn Độ, Lưỡng
Hà, Ai Cập và Địa Trung Hải. Những kết luận và phát biểu của Oppenheimer
cũng phù hợp với hàng loạt nghiên cứu di truyền học mới được công bố
gần đây. Chẳng hạn như qua phân tích DNA, các nhà khoa học Mỹ đã có thể
tái xây dựng quá trình di cư thời tiền sử. Con người hiện đại di dân
khỏi châu Phi đến châu Á vào khoảng 100.000 năm trước đây.
Có
thể trong đợt di dân đầu tiên họ đến vùng Trung Đông, nhưng không thể
định cư được vì thời tiết khắc nghiệt, sau đó có thể họ phải làm thêm
một hành trình thứ hai từ Trung Đông đến tận vùng Đông Nam Á. Cũng có
thể họ đi thẳng từ Đông Phi, dọc theo đường biển ảrập ngày nay băng
ngang qua Ấn Độ, và đến định cư ở Đông Nam Á. Từ
Đông Nam Á, họ lại di cư một lần nữa: nhóm một đi về hướng nam ra châu
úc và Tân Guinea; nhóm hai đi về hướng bắc đến Trung Quốc và Nhật Bản,
và cuộc di dân này xảy ra vào khoảng 55.000 năm trước đây.
Điều này cũng phù hợp với các dữ kiện di truyền gần đây cho thấy người
Trung Hoa ngày nay, nhất là người Trung Hoa ở phía Nam Trung Quốc rất
gần và có tổ tiên ở vùng Đông Nam Á. Nhưng những phát hiện mới nhất về
văn minh Đông Nam Á có ý nghĩa gì đến đời sống tinh thần của người Việt
chúng ta? Để trả lời câu hỏi này, có lẽ chúng ta cần phải nói rõ rằng
tọa độ văn hóa Việt Nam nằm trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á. Là người
Việt, chúng ta cần phải hiểu và biết về nguồn gốc văn minh và văn hóa
nước nhà, bởi vì văn hóa là tài sản quí báu nhất mà tổ tiên ta đã truyền
lại qua bao thế hệ. Nếu thế kỷ 20 là thế kỷ của ý thức hệ, thì thế kỷ
21 là thế kỷ của văn hóa. Suốt 100 năm tranh chấp dai dẳng trong thế kỷ
20, người ta phân biệt các quốc gia qua chủ nghĩa, và cao điểm của sự
phân biệt đó là cuộc “Chiến tranh lạnh”. Trong tương lai, các quốc gia
trên thế giới có thể sẽ quy tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn
hóa và tôn giáo. Trong thế kỷ 21, người ta sẽ hỏi “Anh là ai” thay vì
“Anh thuộc phe nào” như trong thời Chiến tranh lạnh. Tức là một sự
chuyển biến về nhận dạng từ phe phái sang diện mạo. Câu trả lời trước
tiên là dựa vào diện mạo văn hóa, bởi vì văn hóa gắn liền với con người
trong thế giới hiện đại. Cuốn sách bạn đang cầm trên tay góp phần trả
lời cho câu hỏi đó.
Người
viết lời giới thiệu này có may mắn đã đọc Eden in the East và đã có dịp
giới thiệu cuốn sách đến bạn đọc Việt Nam qua Tạp chí Tia Sáng vài năm
trước đây. Nay, có cơ hội viết lời giới thiệu cho bản tiếng Việt của một
cuốn sách viết bằng tiếng Anh là một vinh hạnh cho người viết, bởi vì
tôi thấy những câu trả lời khoa học của cuốn sách đã vượt biên giới quốc
gia, âu cũng là một ước muốn của tác giả và những người tổ chức dịch và
xuất bản cuốn sách này sang tiếng Việt. Trước khi viết những dòng giới
thiệu này, người viết đã đọc hết bản dịch, và người viết rất phấn khởi
thấy bản dịch có chất lượng cao, vì người dịch tỏ ra trân trọng với
tiếng Việt và cẩn thận với các thuật ngữ chuyên môn. Cuốn sách quả xứng
đáng có trong tủ sách văn minh và văn hóa của bạn đọc. Cuốn sách tuy
cung cấp cho chúng ta câu trả lời đầy đủ cho toàn vùng, những vẫn chưa
cụ thể cho người Việt chúng ta. Tổ tiên gần nhất của chúng ta xuất phát
từ đâu, hay họ đến Việt Nam bằng cách nào vẫn còn là những vấn đề khoa
học “nóng”, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học, khảo cổ học, và
ngôn ngữ học. Tuy nhiên, với sự tiến bộ phi thường về khoa học di truyền
và công nghệ sinh học trong khoảng mười năm trở lại đây, chúng ta có
thể tin rằng việc nghiên cứu quá trình lịch sử di truyền của người Việt
sẽ đem lại nhiều kết quả thích thú và làm sáng tỏ hơn về nguồn gốc tổ
tiên của chúng ta. Nhưng muốn làm sáng tỏ vấn đề, xã hội cần đến sự đóng
góp của nhiều người, kể cả bạn đọc. Vì thế bạn đọc không nên chỉ đọc
sách, mà cần phải bỏ thì giờ để suy nghiệm về những dữ kiện trong sách,
để đặt vấn đề và giả thuyết, để tự mình tiến hành nghiên cứu thêm. Tôi
thực sự hân hạnh mời đón bạn đọc cùng tác giả và dịch giả đi ngược thời
gian để tìm về cội nguồn của một nền văn hóa và văn minh huy hoàng ở
Đông Nam Á và Việt Nam, để tìm thấy hình dáng tổ tiên mình trong những
trang sách kế tiếp. Nguyễn Văn Tuấn
Viện Nghiên cứu Y khoa GarvanSydney, Australia
40. BÀN VỀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT
TS. NGUYỄN VĂN TUẤN ( giáo sư thỉnh giảng tại Đại học New South Wales, Úc)
Mấy hôm nay dư luận có vẻ xôn xao về một bài báo của một người có tên là Đỗ Ngọc Bích viết về chủ nghĩa dân tộc Việt Nam [1]
mà cô dùng những từ tương đối trịch thượng và mỉa mai như “mù quáng”,
“bài xích”, “rên rỉ”. Lập luận của cô ĐNB có thể gói gọn trong giả định
quan trọng này: “Người dân Việt Nam bắt nguồn từ Trung Quốc, Vua của
Việt Nam cũng khởi tổ từ người Trung Quốc, coi vua Trung Quốc như anh
như cha… từ Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, hay Lý Công Uẩn, rồi các gia tộc họ
Trần, Lê, Nguyễn, v.v…”, rồi đi từ giả định đó, cô cho rằng những
phản ứng của người Việt trước hành động xâm lấn và giết hại người Việt
là cực đoan, là mù quáng, gây tác hại hơn là đem lại lợi ích. Có lẽ cái
thông điệp ngầm mà cô muốn nói cho người Việt là nên buông tay, quay về
với tổ tiên Trung Hoa, và trở thành một huyện hay gì đó của Trung Quốc.
Tôi biết cô chưa viết ra điều này, nhưng cái thông điệp đó bàng bạc
trong bài viết.
Vậy thì chúng ta phải xem xét giả định của cô
Bích có đúng không. Cách đây trên 15 năm, tôi có viết một loạt bài về
nguồn gốc người Việt, và xin trích lại vài ý chính trong entry dưới đây.
Xin tóm tắt như thế này: cho đến nay, không có bằng chứng nào để
nói rằng người Việt xuất phát từ Trung Quốc. Thật ra, có bằng chứng di
truyền học cho thấy ngược lại: người Nam Trung Quốc có nguồn gốc từ Đông
Nam Á. Nên nhớ rằng ngày xưa không có người Thái, Việt, mã Lai …
mà chỉ có Đông Nam Á. Do đó, nói Đông Nam Á ở đây tôi muốn nói đến người
Thái, Mon-Khmer, Tạng-Miến, Mã Lai, hay gọi chung là Bách Việt.
Xin
nói thêm rằng người Trung Hoa không phải là dân tộc đầu tiên phát triển
kĩ thuật trồng lúa nước. Người Đông Nam Á mới chính là chủ nhân của kĩ
thuật này. Hạt lúa lâu đời nhất được tìm thấy trong một hang động ở Thái
Lan. Nghiên cứu di truyền gần đây cho thấy tất cả các loài gia cầm như
gà, chó, heo, v.v… trên thế giới đều có nguồn gốc từ Đông Nam Á. Trong
cuốn “Origin of species”, Darwin cũng từng khẳng định rằng tất cả các
giống gà nuôi trên thế giới đều có nguồn gốc từ gà rừng Đông Nam Á.
Trong một bài viết cho Tập san National Geographic, W. G.
Solheim II nhận xét rằng Đông Nam Á là nơi phát triển nền chăn nuôi đầu
tiên trên trái đất [18]. Điều này phù hợp với giả thuyết Đông Nam Á là
một cái nôi văn minh nông nghiệp đầu tiên của con người, và cư dân tại
đây tất là những người phát minh ra kĩ thuật trồng lúa nước, chăn nuôi,
và truyền các kĩ thuật này lên phía Bắc (tức miền Nam Trung Quốc ngày
nay).
Như vậy có thể suy luận rằng trước khi tiếp xúc và chịu ảnh
hưởng hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, vùng Đông Nam Á đã hình
thành một nền văn hóa lúa nước, và cư dân cổ ở đây (dân Bách Việt) đã
phát triển một nền văn minh nông nghiệp lúa nước, trong đó có cả văn
minh châu thổ sông Hồng, hay văn minh Đông Sơn. Theo Trần Quốc Vượng,
chính nghề trồng lúa nước (một ngành nghề đòi hỏi người dân phải nắm
vững và thích nghi với thời tiết, môi trường sông nước) đã dẫn người cư
dân cổ Đông Nam Á sáng tạo ra lịch dùng 12 con vật gần gụi với nền văn
minh lúa nước làm biểu tượng.
Do đó, tôi nghĩ rằng giả định
(assumption) của cô Bích không có cơ sở khoa học. Thật ra, tôi thấy
những lập luận của cô Bích – nói theo người Tây phương là – chưa học
thuộc bài. Ấy thế mà BBCVietnamese trịnh trọng giới thiệu cô Bích như sau: “tác
giả […] là Tiến sỹ về Quan hệ Quốc tế và Hoa Kỳ học, hiện đang giảng
dạy Việt học và tham gia dịch thuật các công trình sử học cổ, trung đại
của VN tại Đại học Yale, Hoa Kỳ.” Thật ra, ngay cả lời giới thiệu
này hình như không đúng. Trong website của Đại học Yale không thấy tên
cô Đỗ Ngọc Bích, chứ nói gì đến chuyện cô ấy “giảng dạy” ở đó. Một bạn
đọc gửi email cho tôi chỉ ra rằng cô Bích hình như đang theo học PhD ở
Hawaii. Website Đại học Hawaii cho biết cô là công dân Việt, từng học ở Hà Nội và đang theo học PhD ở Hawaii:
“Bich
Ngoc Do is currently in the department’s PhD program. She was born and
raised in Hanoi, Vietnam, where she also did her undergraduate work.
Bich has a BA in Foreign Language Studies, with a major in English and a
minor in French, and another degree in Sociology. For several years
before coming to Hawai`i she taught English for Specific Purposes in the
Departments of Sociology and International Studies at Hanoi University
of Social Sciences and Humanities – Vietnam National University. She
also served as a part-time project assistant for an Australian NGO in
Hanoi that was working on women’s reproductive health (1997) and as a
director assistant to the International Relations Office – Asia Pacific
Committee, at her university (1999). At UH she is focusing her studies
on cultural studies, diplomatic history, and popular culture. She
fulfilled a Certificate of International Cultural Studies at the East
West Center in May 2002 with a project on the politics of nostalgia and
visual representations in Vietnamese American music productions. In
November 2002, she defended her MA thesis on Volunteers in Asia –
Vietnam Program (1990-2002) and Vietnam – U.S. relations, and entered
the PhD program. At the moment, she is completing her coursework and
preparing for her qualifying as well as the comprehensive exams. The
dissertation topic she is contemplating is “The cultures of Vietnam-U.S.
normalization,” with an emphasis on tourism, mass media, army museums,
and politics. Upon the completion of her ABD, Bich plans to return to
Hanoi to teach and do fieldwork research before coming back for the
doctoral defense.”
Nếu đúng thế thì chẳng trách lập luận của cô Bích còn nhiều thiếu sót. Tôi chợt nhớ câu “Chưa đỗ cô / ông nghè đã đe hàng tổng”.
NVT
===
Hỏi
một người Việt bình thường về nguồn gốc dân tộc Việt Nam, câu trả lời
mà người ta thường nghe là tổ tiên của chúng ta xuất phát từ Trung Quốc.
Ngay cả người có kiến thức rộng, có quan tâm đến dân tộc và văn hóa
Việt cũng có những ý kiến tương tự. Đào Duy Anh, trong Việt Nam văn hóa sử cương; và Trần Trọng Kim, trong Việt Nam sử lược,
cũng từng cho rằng người Việt có nguồn gốc hoặc từ Trung Quốc [1] hay
từ Tây Tạng [2], dù họ có chút dè dặt và thận trọng trong phát biểu.
Có
lẽ cái quan điểm dân tộc Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc đã ăn sâu vào
tâm trí của chúng ta, nên văn minh Việt Nam cũng được nghiễm nhiên suy
luận là bắt nguồn từ văn minh Trung Quốc. Quan điểm này phù hợp với sách
vở của Trung Quốc. Chẳng hạn như trong Hậu Hán thư , các sử
gia của Trung Quốc, với một giọng văn cực kì trịch thượng và kì thị
chủng tộc, viết rằng tổ tiên ta ngày xưa giống như loài “cầm thú”, xã
hội thì chẳng có tôn ti trật tự gì cả, phải đợi đến khi hai quan Thái
thú của họ là Tích Quang và Nhâm Diên dạy cho tổ tiên ta cách ăn mặc và
cách trồng lúa. Sau đó các nhà sử học này thản nhiên kết luận: “Miền
Lĩnh Nam theo phong hóa Trung Quốc là bắt đầu từ hai Thái thú ấy” [3].
Điều
thú vị là nhận xét này đã được giới có học của Việt Nam tiếp nhận và
lấy làm một thứ kinh điển, một câu văn giáo khoa, mà không có một chất
vấn tính trung thực, hay thách thức tính khoa học của nó. Tính dễ dãi
chấp nhận sử liệu ngoại bang của giới có học người Việt đã vô tình gieo
vào lòng nhiều người Việt một tâm lí tự ti, đánh giá thấp nền văn hóa
Việt Nam khi so sánh với các nền văn hóa khác, như của Trung Hoa chẳng
hạn.
Thực ra, chẳng riêng gì giới trí thức Việt Nam, ngay cả một
phần lớn trong giới sử học Tây phương cũng từng quan niệm, hay nói đúng
hơn là giả định, rằng các nền văn minh Đông Nam Á (kể cả của Việt Nam)
chỉ là những chi nhánh của hai nền văn hóa lớn hơn: Trung Hoa và Ấn Độ.
Giả định này đã được dùng như là một sử liệu, một thuyết đáng tin cậy để
dạy học cho học sinh (trong đó có cả học sinh người Việt); và một cách
vô tình, nó được lưu truyền hết thế hệ này sang thế hệ khác như là một
sự thật! Bởi vì qua nhiều năm, chẳng ai chất vấn lý thuyết này, nên một
cách nghiễm nhiên, nó được xem là một “thuyết chính thống”.
Mãi
đến thập niên 1960s, một số nhà khảo cổ học rất uy tín (phần lớn là Mĩ),
dựa vào nhiều kết quả của một loạt nghiên cứu ở Việt Nam và Thái Lan,
đã bắt đầu chất vấn sự chính xác và tính logic của thuyết chính thống
trên đây [4]. Có thể nói họ là những “con cừu đen” trong giới tiền sử
học, vì đã can đảm thách thức một quan điểm mà đại đa số đồng nghiệp đều
mặc nhiên công nhận. Nhưng họ không phải là những người đơn độc. Gần
đây, đã có một số nhà nghiên cứu từ Việt Nam, Thái Lan, và Nam Dương
công bố nhiều dữ kiện khảo cổ học cho thấy rằng thuyết văn hóa Đông Nam Á
xuất phát từ văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ không còn đứng vững nữa.
Nhưng
trong những nhà nghiên cứu chuyên môn này, chưa ai trình bày dữ kiện
một cách có hệ thống và nghiên cứu một cách sâu xa bằng một nhà nghiên
cứu “tài tử” là ông Stephen Oppenheimer trong cuốn sách Eden in the East: The Drowned Continent of Southeast Asia
(tạm dịch là “Thiên đàng ở phương Đông: Lục địa chìm đắm của Đông Nam
Á) [5]. Trong tác phẩm này, qua những dữ kiện dồi dào được thu thập một
cách công phu từ nhiều ngành nghiên cứu khác nhau, Oppenheimer trực tiếp
thách thức cái thuyết chính thống, và làm thay đổi những quan niệm về
thời tiền sử mà chúng ta từng hiểu và từng được dạy. Đặc biệt, cuốn sách
đặt trọng tâm vào việc thẩm định lại các quan điểm về văn minh vào thời
tiền sử ở Đông Nam Á, tác giả cho rằng:
(a) Trận đại hồng thủy [6] được đề cập đến trong Kinh Thánh là có thật và xảy ra vào cuối thời đại Băng hà (Ice Age).
(b)
Trận đại hồng thủy này xảy ra khoảng 8000 năm về trước làm chìm đắm lục
địa Đông Nam Á, và làm cho dân chúng phải di tản đi các vùng đất khác
để sống. Họ chính là những người gầy dựng nên nền văn hóa Tân Đồ Đá
(Neolithic cultures) của Trung Quốc, Ấn Độ, Mesopotamia, Ai Cập và vùng
đông Địa Trung hải, và do đó, họ là những người cha đẻ và vun đắp các
nền văn minh vĩ đại ở phương Tây.
(c) Những dân tộc thuộc quần đảo Polynesian không phải xuất phát từ Trung Quốc, nhưng có nguồn gốc từ Đông Nam Á.
(d)
Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kĩ thuật trồng lúa.
Khoảng 9,000 đến 10,000 năm về trước, một số dân thuộc vùng Đông Nam Á
đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên trên thế giới (chứ
không chỉ sống bằng nghề săn bắn), họ đã phát triển kĩ thuật trồng khoai
và qua đó làm một cuộc cách mạng nông nghiệp.
Nói một cách khác
cho rõ ràng hơn, qua công trình nghiên cứu này, Oppenheimer đề xuất một
thuyết cho rằng Đông Nam Á là cái nôi của văn minh nhân loại ngày nay.
Thuyết này thể hiện một thách thức rất lớn đến các tri thức về thời tiền
sử đã và đang được lưu truyền trong giới khoa bảng. Và do đó,
Oppenheimer đã, lần đầu tiên, đặt vùng Đông Nam Á vào vị trí xứng đáng
của một vùng đất thường bị lãng quên bên cạnh hai nền văn minh lớn là
Trung Hoa và Ấn Độ.
Theo thuyết của Oppenheimer thì người Trung
Quốc và Ấn Độ ngày nay có gốc gác từ Đông Nam Á, chứ không phải nguồn
gốc của người Đông Nam Á là ở Trung Quốc hay Ấn Độ. Đây cũng là một đảo
vòng xoay 180 độ về nguồn gốc dân tộc Việt Nam. Mà, xem ra thuyết của
Oppenheimer có nhiều “đồng minh.” Một số học giả khác (như M. Colani, J.
Hornell, P. van Stein, H. Geldern, B, Karlgren, NJ Krom) cũng cho rằng
làn sóng người từ Bắc Việt tràn xuống phía Nam và vào Ấn Độ trước khi
vùng này bị giống dân Aryan xâm chiếm. Giáo sư Solheim II căn cứ trên
những dữ kiện khảo cổ thì thấy rằng giống người Hòa Bình tràn lan xuống
phía Nam, lên hướng Bắc, và sang hướng Tây. Tại mỗi nơi, người Hòa Bình
phối hợp với dân địa phương để tạo thành các chủng tộc mới của mỗi vùng.
Thuyết của Oppenheimer có cơ sở khoa học. Sau khi cuốn sách Eden in the East xuất bản, một loạt nghiên cứu di truyền học cung cấp nhiều bằng chứng quí báu về hành trình của con người. Tưởng cần nhắc lại rằng trong quá khứ người ta thường tập trung vào nghiên cứu các đặc tính nhân trắc và ngôn ngữ để xác định nguồn gốc con người, và xu hướng này làm xao lãng các dữ kiện có thể cho chúng ta nhiều thông tin hơn: đó là gien. Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien thường xảy ra theo những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v… cho chúng ta những thông tin cực kì quí giá về sự tiến hóa của con người.
Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di truyền học và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây đã cung cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kì quan trọng trong việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa các dân tộc.
Giá trị
của di truyền học trong việc truy tầm nguồn gốc dân tộc đã được đánh giá
cao về mức độ tin cậy. Di truyền học là một cửa sổ để chúng ta nhìn lại
quá khứ của chúng ta. Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền học
trong người Việt còn cực kì khiêm tốn, nếu không muốn nói là không đáng
kể. Trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số bằng chứng,
tuy gián tiếp, nhưng cũng đủ để chúng ta có lí do để xem xét lại lịch sử
tiến hóa của dân tộc Việt. Những bằng chứng này là:
(a) Năm
1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc Trường Đại học Texas) [7] phân
tích 15 đến 30 mẫu “vi vệ tinh” DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự
khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung
Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai thuộc thổ dân Mĩ, một thuộc thổ
dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian),
và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng một phương pháp phân tích thống kê có tên
là “phân tích phát sinh chủng loại” (Phylogenetic analysis)”, một số kết
quả đáng ghi nhận như sau:
(i) hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;
(ii)
tất cả các nhóm dân Đông Nam Á “tập hợp” thành một nhóm, và nhóm dân có
đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mĩ châu, kế đến là thổ
dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian
định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian
định cư ở Mĩ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);
(iii)
các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2,
và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1
và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và
(iv) các sắc dân
miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1
gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền Bắc từ tỉnh
Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở
miền Bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia.
Từ những phát
hiện trên, một số mô hình có thể đặt ra để giải thích, nhưng mô hình
thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng nghiệp là các dân tộc miền
Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á châu. Các dữ kiện liên
quan đến răng, sọ [8-9] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư
Chu và đồng nghiệp kết luận rằng: “Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày
nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á”. Nói một cách khác, các dữ kiện di
truyền học của Giáo sư Chu và đồng nghiệp cho thấy tổ tiên của những
người nói tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngả Đông Nam chứ
không phải từ ngả Trung Á.
(b) Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu
và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một
chất liệu di truyền rất “nhạy” (sensitive) và dễ bị đột biến (mutation).
Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một
nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định nguồn gốc Đông Nam Á của
dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mĩ – Trung Quốc phân tích DNA trong
nhiễm sắc thể Y trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3
nhóm dân Đông Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam
Á (Cambốt, Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á
châu (3 nhóm từ Phi châu, 3 từ Mĩ châu, 2 từ Âu châu, và 4 từ châu Đại
dương). Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình thái
(polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong các
nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông Nam Á
có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á. Dùng các
phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các nhà
nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu sang đến
Đông Nam Á [10] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã di chuyển
lên phía Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [11]. Ngoài ra,
còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians cũng có
nguồn gốc từ Đông Nam Á [12].
(c) Trong một nghiên cứu trên 103
người ở Hà Nội [13], các nhà nghiên cứu Việt – Pháp phân tích DNA trong
hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh kết quả này với các sắc dân thuộc
châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á. Sau khi ước tính khoảng cách di
truyền [14] giữa các sắc dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc
di truyền của hai gien này trong người Việt gần với người Thái và người
Hoa. Các nhà nghiên cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả
thuyết người Việt có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương.
Tuy
nhiên, sau khi xem xét kĩ phần phương pháp nghiên cứu, tôi có lí do để
cho rằng kết luận này rất có thể không đúng. Những lí do này là: Thứ
nhất, nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng
35 đến 39 ngàn gien), và với những điểm yếu của mtDNA, các ước đoán về
khoảng cách di truyền không ổn định. Thứ hai, ngay cả trong bài báo các
nhà nghiên cứu không xây dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng
phân tích phát sinh chủng loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di
cư hay nguồn gốc dân tộc được.
(d) Khoảng 2 năm sau, các nhà
nghiên cứu này lại tiến hành một nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà
Nội [15], và cũng qua dùng kĩ thuật PCR (polymerase chain reaction) họ
phân tích 6 “restriction enzymes”, và ghi nhận khoảng cách di truyền
giữa người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người
Việt và Ấn Độ thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa
giống người Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ấn.
Nghiên
cứu này cũng có những điểm yếu như nghiên cứu trình bày phần (c), tức
là số lượng gien quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gien), và tác
giả cũng không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di
truyền, nên không thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt – Hoa gần hơn
khoảng cách giữa Việt – Ấn. Thực ra, sau khi tính toán lại, tôi thấy hai
khoảng cách di truyền (Việt – Hoa và Việt – Ấn) không có sự khác biệt
đáng kể (non-significant)!
(e) Tuy nhiên, một nghiên cứu khác
trên 5 gien trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung
Quốc, Nhật, Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân,
Thái, và Việt Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân Bắc Á (nhất
là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á [16]! Chúng ta biết rằng, qua
nghiên cứu của Giáo sư Chu, người Hoa phía Bắc Trung Quốc có cấu trúc di
truyền khác với người Hoa phía Nam Trung Quốc. Do đó, phát hiện này quả
rất khó giải thích. Càng khó giải thích hơn nữa khi phần lớn những
người Việt trong nghiên cứu này là cư dân ở Hà Nội, tức gần miền Nam
Trung Quốc.
(f) Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger và
đồng nghiệp [17] ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di truyền học
gọi là F-value) trong người Việt cao nhất trong các sắc dân vùng Đông
Nam Á. Tuy nhiên, các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các dữ kiện
này cho thấy “người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông” (nguyên
văn: “The greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNA
with HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a
Southern Mongoloid origin of Asians”). Thực ra, các dữ kiện mà tác giả
trình bày không cho phép họ kết luận như thế, bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á
châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu trên vài mẫu gien rất nhỏ. Nhưng
qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng ta có thể phát biểu rằng
trong hai gien mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là một sắc dân cổ nhất
trong vùng Đông Nam Á.
Qua các nghiên cứu di truyền dựa vào
nhiễm sắc thể Y và mtDNA mà tôi vừa tóm lược và nhận xét cho chúng ta
thấy rằng các nhóm dân Đông Á có cùng một nguồn gốc chung: đó là tất cả
đều xuất phát từ Phi châu. Cũng dựa theo các dữ kiện mới này, các nhà
nghiên cứu ước đoán rằng đợt người đầu tiên di cư đến Đông Nam Á xảy ra
vào khoảng 18.000 đến 60.000 năm trước đây, và sau đó từ đây một đợt di
cư về phía Bắc. Một đợt khác cũng từ Đông Nam Á di cư sang các quần đảo
Thái Bình Dương qua ngả Mã Lai Á ngày nay. Tất nhiên, đây chỉ là “câu
chuyện” mới được phác họa, nhiều chi tiết vẫn còn trong vòng nghiên cứu
thêm.
Các kết quả của các nghiên cứu này đã cung cấp thông tin
cho chúng ta để phát biểu một giả thuyết mới, rằng người Hoa ngày nay,
nhất là người Hoa ở phía Nam Trung Quốc, có thể xuất phát từ Đông Nam Á;
và có bằng chứng [tuy chưa đầy đủ] cho thấy người Việt có thể là một
dân tộc cổ nhất trong vùng Đông Nam Á; cho nên có thể người Việt cũng có
thể chính là tổ tiên của người Hoa ngày nay, nhất là các sắc dân ở miền
Nam Trung Quốc. Cố nhiên, đó chỉ là một giả thuyết cần được thử nghiệm.
Nguồn
gốc con người hiện đại, mà đặc biệt là nguồn gốc dân tộc Việt, là một
câu hỏi đơn giản, nhưng câu trả lời thì không đơn giản chút nào. Tổ tiên
chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam bằng cách nào, vẫn còn là
những vấn đề khoa học “nóng”, đòi hỏi nhiều nghiên cứu về di truyền học,
khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Tuy nhiên, với sự tiến bộ phi thường về
khoa học di truyền và công nghệ sinh học trong khoảng mười năm qua,
chúng tôi tin rằng việc nghiên cứu quá trình lịch sử di truyền của người
Việt chúng ta sẽ đem lại nhiều kết quả thích thú và làm sáng tỏ hơn về
nguồn gốc tổ tiên của chúng ta. Chúng tôi đang làm việc này và hi vọng
sẽ có dịp trình bày kết quả nay mai.
NVT
Chú thích:
1. Trong Việt Nam văn hóa sử cương
(Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 1992), ở trang 24-25,
Đào Duy Anh viết: “Nay ta hãy căn cứ vào sự nghiên cứu của các nhà sử
học, nhất là các vị giáo sư ở trường Viễn Đông bác cổ, mà xem gốc tích
của dân tộc ta như thế nào. Có người cho rằng tổ tiên ta phát xuất từ
Tây Tạng, sau theo lưu vực sông Nhị mà di cư xuống miền trung châu Bắc
Việt. Nhưng theo ông Aurousseau dẫn chứng có điều rất kỹ càng thì tổ
tiên ta lại là người nước Việt ở miền hạ lưu sông Dương Tử, sau bị nước
Sở (đời Xuân thu) đánh đuổi phải chạy xuống miền nam ở miền Quảng Đông,
Quảng Tây, rồi lần lần đến Bắc Việt và phía Bắc Trung Việt.
Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam”.
Theo nhiều nhà nhân chủng học hiện thời thì ở thời thượng cổ, giống người Indonesian bị giống Aryan đuổi ở Ấn Độ mà tràn sang bán đảo Ấn Độ Chi-na, làm tiêu diệt giống người thổ trước đầu tiên ở đây là giống Melanesian rồi một phần trong đám di dân ấy đi thẳng mãi sang Nam Dương quần đảo, còn một phần ở lại Ấn Độ Chi-na, ở phía nam thành người Chiêm Thành và Cao Man sau đồng hóa theo văn hóa Ấn Độ, ở phía bắc thì hỗn hợp với giống Mông Cổ ở Trung Hoa xuống mà thành người Việt Nam”.
2. Trong Việt Nam sử lược
(Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1971), ở trang 5,
Trần Trọng Kim viết: “Theo ý kiến những nhà kê cứu của nước Pháp, thì
người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt
Nam theo sông Hồng Hà lần xuống phía Đông nam, lập ra nước Việt Nam ta
bây giờ; còn người Thái thì họ theo sông Mê-kông xuống, lập ra nước Tiêm
la (tức là Thái Lan) và các nước Lào. Lại có nhiều người Tàu và người
Việt Nam nói rằng nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống Tam Miêu ở, sau
giống Hán tộc (tức người Tàu bây giờ) ở phía Tây Bắc đến đánh đuổi người
Tam Miêu đi, chiếm giữ lấy vùng sông Hoàng Hà lập ra nước Tàu, rồi dần
dần xuống phía nam, người Tam Miêu phải lẩn núp vào rừng hay là xuống ở
miền Việt Nam ta bây giờ. Những ý kiến ấy là theo lý mà suy ra đó thôi,
chứ cũng chưa có cái gì làm chứng cho đích xác. Chỉ biết rằng người Việt
Nam ta trước có hai ngón chân cái giao lại với nhau, cho nên Tàu mới
gọi ta là Giao Chỉ; mà xem các loài khác, không có loài nào như vậy, thì
tất ta là một loài riêng, chứ không phải là loài Tam Miêu”.
3. Sách Hậu Hán thư
(tức sử của Trung Quốc) chép: “Phàm đất thuộc bộ Giao Chỉ, tuy đã đặt
quận, huyện, nhập vào lãnh thổ Trung Quốc, nhưng ngôn ngữ vẫn khác nhau,
phải có thông ngôn mới hiểu. Người như cầm thú, không phân biệt trưởng
ấu (tức không có tôn ti trật tự), búi tóc ở gáy, đi chân không, lấy vải
quấn qua đầu làm áo. Sau đó những người tội phạm Trung Quốc đến ở lẫn
với họ, mới biết ngôn ngữ dần dần thấy hóa theo lễ. Đến thời Quang Vũ
Trung Hung, Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm thái thú Cử
Chân, bấy giờ mới dạy cho dân biết cày cấy, biết đội mũ đi giày, đặt mối
lái, dân mới biết hôn nhân, dựng học hiệu dạy lễ nghĩa …”
4. Về
các bài báo khoa học mang tính tiền phong trong ngành khảo cổ học ở Đông
Nam Á, xin xem những bài sau đây: (i) “On the improbability of
Austronesian origins in South China”, của Giáo sư William Meacham, đăng
trong Tập san Asian Perspectives, quyển 25, năm 1984-5; (ii) “The nusantao and North-South dispersals,” của Giáo sư Wilhelm G. Solheim II, in trong Indo-Pacific Prehistory Association Bulletin,
quyển 2, năm 1996; (iii) “Southeast Asia and Korea: from the beginings
of food production to the first states,” cũng của Giáo sư Solheim II, in
trong The History of Humanity: scientific and cultural development, quyển I: “Prehistory and the Beginning of Civilization,” do UNESCO/Routledge (London) xuất bản năm 1994.
5. Sách Eden in the East: the Drowned Continent of Southeast Asia,
của Stephen Oppenheimer, Nhà xuất bản Phoenix (London), 1998. Sách khổ
13 x 20 cm, dày 560 trang, kể cả 47 trang tài liệu tham khảo và 28 trang
bảng danh mục, chữ loại nhỏ (Times cỡ 8). Giá đề 15 đô-la Canada, hoặc 9
sterling Anh.
6. Theo sách Genesis, và theo truyền
thuyết của nhiều nền văn minh cổ, ngày xưa có xảy ra một số trận lụt vĩ
đại (hay đại hồng thủy) phủ ngập cả trái đất. Huyền thoại về lụt nổi
tiếng nhất là câu chuyện về Noah, một giáo trưởng, được của Thượng đế,
xây dựng một chiếc thuyền lớn tên là Ark để gia đình ông ta và mọi sinh
vật có thể sống sót qua cơn lụt.
7. Xem bài “Genetic relationship of populations in China,” tác giả J. Y. Chu và đồng nghiệp, Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA) 1998; số 95, trang 11763-11768.
8.
Xem bài “Major features of Sundadonty and Sinodonty, including
suggestions about East Asian microevolution, population history, and
late Pleistocene relationships with Australian aboriginals”, C. G.
Turner, Tập san American Journal of Physical Anthropology, năm1990; bộ 82, trang 295-317.
9.
Xem bài “Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed
from craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII”
T. Hanihara, American Journal of Physical Anthropology, năm 1990, năm 1993, bộ 91, trang 173-87.
10.
Xem bài “African origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y
chromosomes,” tác giả Yuehai Ke và đồng nghiệp, [Tập san] Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153.
11.
Xem bài “Y-chromosome evidence for a northward migration of modern
humans into eastern Asia during the last Ice Age,” tác giả Bing Su và
đồng nghiệp, [Tập san] American Journal of Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.
12. Xem bài báo khoa học “Polynesian origins: insights from the Y chromosome,” tác giả Bing Su và đồng nghiệp, Tập san Proceedings of the National Academy of Science (USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228.
13.
Xem bài “HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh
population in Ha Noi”, tác giả A. Vu-Trieu và đồng nghiệp, Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356.
14.
Khoảng cách di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số
di truyền học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này
có giá trị tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di
truyền), và giá trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).
15. Xem bài “Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population”, tác giả R. Ivanova và đồng nghiệp, Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422.
16.
Xem bài “Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its
potential for inferring the peopling of Korea”, tác giả W. Kim và đồng
nghiệp, Tập san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.
17.
Xem bài “Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic
continuity of ancient Mongoloid migration,” tác giả S. W. Ballinger và
đồng nghiệp, Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45.
18. Solheim II WG. New light on a forgotten past.
National Geographic, 1971;139:number 3. Trích đoạn, “Theo truyền thống,
người ta cho rằng trong thời kỳ tiền sử, kỹ thuật miền Đông Nam Á là
kết quả của những làn sóng di dân từ phương Bắc mang đến. Riêng tôi cho
rằng văn hóa nguyên thủy thời đồ đá mới Ngưỡng Thiều (Yangshao) ở Trung
Quốc mà người ta biết đến chính là kết quả của một nền văn hóa tiền Hòa
Bình đã di chuyển từ miền bắc Đông Nam Á lên phía Bắc vào khoảng 6000
hay 7000 năm trước Công nguyên.” và […] “Văn hóa Long sơn (Lungshan) vẫn
được xem là phát triển từ Ngưỡng Thiều, […] thực ra là đã [được] khai
sinh ở Nam Trung Quốc và di chuyển lên phía Bắc. Cả hai nền văn hóa này
đều bắt nguồn từ gốc văn hóa Hòa Bình.”
Nguồn: http://tuanvannguyen.blogspot.com/2010/04/to-tien-nguoi-viet-la-nguoi-trung-hoa.htm
| ||||||||||||||||||
|
.......... | . |
Tuy nhiên, người viết bài này tin rằng một
quan điểm mang tính khẳng định cao như thế rất nguy hiểm cho tiến bộ
khoa học, vì nó hàm ý cho rằng câu chuyện đã chấm dứt, câu trả lời
đã dứt khoát, không còn vấn đề gì để bàn thảo nữa, cũng như không
có gì để phải nghiên cứu thêm. Thực
ra, vấn đề [nguồn gốc dân tộc Việt] chưa được giải quyết thỏa đáng. Chưa ai chứng minh một cách khoa học rằng
dân tộc Việt có nguồn gốc Mã Lai, và thậm chí câu hỏi vẫn chưa được
đặt ra một cách có hệ thống. Tôi
cho rằng vấn đề cần phải được đặt lại.
Tại sao? Ngoài những dữ
kiện trong sách “Eden in the East” của Oppenheimer mà tôi đã trình bày,
tôi thấy còn có vài lý do quan trọng khác để chúng ta đặt lại vấn đề
nguồn gốc dân tộc Việt.
Thứ hai, có thể nói ngay rằng các giả thuyết
về nguồn gốc dân tộc Việt Nam của một số tác giả người Việt trước
đây thiếu tính khoa học hay “bán khoa học” [4]. Những dữ kiện dùng để đặt giả thuyết
trước đây chưa bao giờ được xử lý bằng cách phương pháp khoa học,
không đánh giá được mức độ biến thiên của dữ kiện, nghĩa là định
lượng xem mức độ biến chuyển của những dữ kiện đó có tỷ lệ bao
nhiêu là do các yếu tố ngẫu nhiên gây nên, và bao nhiêu là do các yếu tố
không ngẫu nhiên tạo thành.
Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ phần phương pháp nghiên cứu, tôi có lý do để cho rằng kết luận này rất có thể không đúng. Những lý do này là: Thứ nhất, nghiên cứu này chỉ dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền không ổn định. Thứ hai, ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủng loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc được.
|
. | .......... |
43. Một số kết quả nghiên cứu về nguồn gốc Bách Việt
TS. Nguyễn Văn Vịnh
08/06/2013 12:01
TS. Nguyễn Văn Vịnh (tổng hợp)
Trong hành trình tìm lại cội nguồn văn hóa các Việt tộc, đã có nhiều
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như trong nước, ở
nhiều lĩnh vực khác nhau. Từ truyền thuyết đến các Thần tích, Tộc phả
được phối kiểm bởi ngành Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Nhân chủng học, Cổ
nhân học, Dân tộc và Ngôn ngữ học được phối hợp kiểm chứng bởi kết quả
phân tích cấu trúc phân tử di truyền DNA của các tộc người trong khu vực
đủ rộng tại châu Ấ cho phép các nghiên cứu xác định tính hiện thực của
cộng đồng Bách Việt (Người Việt hiện nay là sự kết hợp của tộc Âu Việt
và Lạc Việt).
Khái
niệm Bách Việt cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau: Thí Dụ Theo Từ Hải,
danh xưng này là tiếng để chỉ “chỗ hỗn tạp gồm bảy tám ngàn dặm của trăm giống
Việt từ Giao Chỉ đến Cối Khê, mỗi xứ đều có giòng họ riêng”; hoặc Ngô Thì Sỹ
“Xét theo thiên Vũ Cống, nước Việt ở về phía nam đất Dương Châu. Theo sách
Thiên Quan, từ sao Đẩu mười một độ qua sao Khiên Ngưu đến sao Chức Nữ bảy độ là
tinh kỷ. Kể về sao thì ở về ngôi sửu, cùng một tinh phận với nước Ngô. Cõi nam là Việt môn,
có rất nhiều nước như Âu Việt, Mân Việt, Lạc Việt, cho nên gọi là Bách Việt.
Bởi vì miền này ở phía nam Dương Châu, nên lại gọi là Nam Việt. Vùng đất từ núi
Ngũ Lĩnh xuống phía nam thuộc về Nam Việt”; hoặc Đào Duy Anh thêm một số địa
điểm “U Việt ở Chiết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Đông Việt ở Giang Tây, Nam
Việt ở Quảng Đông, Lạc Việt ở An Nam” ;Gần đây, Lăng Thuần Thanh (Ling Shun
Sheng), giáo sư đại học Đài Loan, còn ghi thêm một vùng nữa cho dân Bách Việt,
đó là tỉnh Hồ Nam, nơi trước kia vào thế kỷ 3 trước Công nguyên, Tam Lư Đại Phu
nước Sở là Khuất Nguyên đã bị đầy tới. Trong khi bị đầy, Khuất Nguyên đã phóng
tác ra Cửu Ca (trong bộ Sở từ), và theo họ Lăng, nếu xét kỹ Cửu ca thì người ta
sẽ nhận ra những hình ảnh mô tả các cuộc tế lễ tại địa phương này giống hệt
hình ảnh đã được vẽ trên trống đồng Đông Sơn của dân Lạc Việt. Ông Lăng cũng
chủ trương rằng “trước kia trung tâm đồng bằng Dương tử là nơi cư ngụ của giống
người Indonesia mà sử sách Trung Hoa gọi là Bách Việt hay Lạc Việt.”
Như
vậy khái niệm Bách Việt được quan niệm khá mù mờ qua các giai đoạn và các nhà
nghiên cứu khác nhau.Khái niệm Bách Việt được dùng ở đây để chỉ các cộng đồng
người có địa bàn cư trú rất rộng lớn, gồm toàn bộ lưu vực phía Nam sông Hoàng
Hà, tới sông Dương Tử, trải dài hết khu vực Đông Dương đến các quần đảo trên
Thái Bình Dương. Do tính chất quan trọng và có phần nhậy cảm của vấn đề, bài
viết ngằn này chỉ là những tóm tắt các
kết luận của một số công trình nghiên cứu của các học giả Trung Quốc và các nhà
nghiên cứu khác và tổ chức khoa học trên thế giới.
Trước
hết có vài vấn đề sử quan được coi như có tính chất tiền đề cho việc theo dõi:
Sau sự bắt đầu như nhau từ xuất phát điểm là săn bắt hái lượm, các tộc người
chia thành hai nhánh văn hóa là nông nghiệp và du mục.
Sự Phân biệt giữa Văn hoá Nông nghiệp và Văn minh Du mục như sau:
-Nông nghiệp là cuộc cách mạng
lớn nhất của con người đã xảy ra cách đây hàng chục ngàn năm, nó biến đổi toàn
bộ đời sống và đưa ra một cách thức tồn tại mới, khác hẳn trước: lấy việc ưa
thích nghệ thuật và đời sống dễ dãi thanh bình thế vào đời sống cam go và hiếu
chiến ngày xưa. Đặc trưng của nền văn minh Nông nghiệp là: Tổ chức xã hội theo lối Thôn Làng, rồi đến Liên làng
, Thờ Tổ tiên , Ðịa vị phụ nữ cao, Khi múa đeo
lông chim, Xâm mình , Cài áo bên trái ( tứ Di tả nhậm ) Huyền
thoại mang nét lưỡng hợp ( dual unit ). Văn hoá Nông nghiệp giữ phần đóng góp trội hơn trong
lịch sử nhân loại.
-Nền văn minh du mục gồm mấy điểm khác biệt sau: Có vua và nhà nước; Quân đội lớn và chuyên nghiệp; Thành thị xây tường lũy bao quanh ; Pháp hình; Nghệ thuật đồ sộ, tách khỏi vật dụng: cung điện lớn lao, mồ mả đồ sộ, có Chữ viết ,Xe ngựa . . .
Do đó mà đã thành một thứ định
luật trong lịch sử là Du mục thắng Nông nghiệp để rồi bị Nông nghiệp cải hóa,
trở nên văn minh thuần phục, lúc ấy lại bị Du mục đợt mới đánh quỵ Ðó là một sự
kiện xẩy ra thường xuyên trong mọi nền văn minh, mọi thời đại: Người Doriens
đuổi người Mycéens. Người Hyksos đuổi dân Ai Cập. Người Cro-magnon
đuổi người Néanderthal... khắp
trên thế giới đâu đâu văn hóa nông nghiệp cũng bị văn minh du mục tiêu diệt.
Những
năm gần các nghiên cứu về Việt tộc và Hán tộc của các nghà nghiên cứu trên thế
giới đem lại những kết quả bất ngờ.
Kết
quả của khoa Phân tích Di truyền hoàn toàn phù hợp với thư tịch cổ Trung Hoa,
Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử. Luận chứng khoa học mới nhất có
tính thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là 2 tộc
người khác nhau. Việt tộc có yếu tố đột biến di truyền đặc biệt của châu Á
trong khi Hán tộc không có yếu tố này. Đồng thời xác định địa bàn cư trú của
tộc người Malaynesian tức Malayo-Viets (Bách Việt) trải dài từ rặng Tần Lĩnh,
hạ lưu sông Hoàng Hà ở Trung nguyên trải dài xuống tận vùng Đông Nam Á lục địa
và hải đảo. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực phía Nam sông
Hoàng Hà, phía Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung
Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt.
Các nhà khoa học của Viện Pháp Á gồm bác sĩ Trần Đại
Sỹ, giáo sư Tarentino người Ý và giáo sư sinh vật học người Pháp Varcilla
Pascale đã ứng dụng hệ thống DNA là hệ thống sinh học mới nhất cho chúng ta kết
quả có tính thuyết phục nhất. Các nhà khoa học đã khảo sát y phục, mồ mả, răng
xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời đại cho đến hết thế kỷ thứ nhất. Sau đó
dùng hệ thống DNA kiểm những bộ xương, đồng thời kiểm máu của 35 dòng họ tại
Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với những dòng họ khác tại Hoa Bắc đã kết luận:
1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung Việt Nam, Lào,Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc.
2. Cư dân này hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực sông Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ song Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.
1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới miền Trung Việt Nam, Lào,Thái đều có cùng một huyết thống, một chủng tộc.
2. Cư dân này hoàn toàn khác biệt với cư dân Hán ở Hoa Bắc. Kết quả của những công trình khoa học có ý nghĩa lịch sử đã xác định vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực sông Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long mà đồng bằng châu thổ song Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.
Năm 1998, giáo sư J.Y. Chu và 13 đồng nghiệp ở Đại học Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi vệ tinh” DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2 nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân châu Úc và một thuộc thổ dân Tân Guinea, 4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm dân Phi Châu. Kết qủa của công trình nghiên cứu bằng phương pháp phân tích thống kê có tên là “Phân tích chủng loại” (Phylogetic Analysis). Nhà bác học Chu và 13 đồng nghiệp khác tại đại học Texas Hoa Kỳ và các trường đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Quốc đã công bố một công trình thành công về di truyền học mang tên “Genetic Relationship of Population in China” được đăng trong Tạp chí Hàn lâm viện Khoa học Quốc gia của Hoa Kỳ (The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7 năm 1998) như sau:
1. Hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu và các dân khác không thuộc Phi Châu”.
2. Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á và Người Trung Quốc ở phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền khác với người Trung Quốc ở phía NamTQ”.
Năm 2001, giáo sư Lâm Mã Lý một nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học “Hệ thống miễn nhiễm Human Leucocytes Antigen HLA ở nhiễm sắc thể 6 (chromosoms qua máu dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA năm 1998”, giáo sư Lý kết luận: “Người Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần vói người Việt, Thái và các tộc người Mongoloid Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt trong đại chủng Bách Việt hoàn toàn khác với Hán tộc”.
Đặc biệt, các công trình nghiên cứu mới nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn phát tích của cư dân vùng Đông Nam Á đã làm sáng tỏ một sự thật lịch sử là tất cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một cội nguồn chủng tộc.
Giáo sư Douglas C. Wallace ở đại học Emory, Atlanta và Georgia đã phát hiện một đột biến di truyền đặc biệt cho lục địa châu Á. Đó là sự thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII và TRNALYS).
Nhà nhân chủng học Tréjaut đã nghiên cứu về thổ dân Đài Loan, dân Đông Nam Á và dân Đa Đảo đã công bố một sự thật làm đảo lộn mọi nhân định từ trước đến nay về vấn để này:
1. Thổ dân Đài Loan đã định cư trên 15 ngàn năm.
2. Thổ dân Đài Loan cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai, dân Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này.
3. Yếu tố mtDNA B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia, thổ dân châu Mỹ và dân Đa Đảo.
4. Nhà nhân chủng Melton và Redd tìm thấy cư dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của cặp căn bản số 9 ở hai thể di truyền COII/ TRNA.
Giáo sư Christian Pelzes chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á học ở đại học Hawaii đã nhận định rằng trong các tiểu bang và các nền văn hóa của xã hội đa văn hóa Hoa Kỳ thì quần đảo Hawaii có quan hệ thân thuộc nhất với Việt Nam. Nhà nghiên cứu Bob Krauss đã so sánh Hawaii với Việt Nam trên các phương diện địa lý và dân tộc đã tìm ra rất nhiều điểm tương đồng và các chứng liệu cổ sử học, nhân chủng học, ngôn ngữ tỷ hiệu và nhất là Mitochondrial DNA Haloptype B cũng như sự thất thoát của các cặp cơ bản số 9 giữa hai thể di truyền CO II tRNA LYS chứng minh dân Đa Đảo (Polynesian) là hậu duệ của dân Bách Việt.
Dựa trên những công trình nghiên cứu khoa học thuyết phục, tạp chí Science Progress đã công bố kết qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ dân Đa Đảo và thổ dân châu Mỹ có cùng một ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn hoá Lapita (1500-800TC) với đồ gốm thẩm mỹ độc đáo. Hiện ở Trung tâm văn hoá Đa Đảo ở Hawai còn trưng bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo thế thăng bằng trên mặt biển.
Tháng 3 năm 2007, Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ (Proceeding of the National Academy of Science,USA) đã công bố công trình của các nhà nhân chủng thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên toàn vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã đi tới kết luận: “Nghiên cứu mới về DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và người Việt cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới New Guinea, Hawai và Polynesia thuộc Pháp. Họ mang theo kỹ thuật làm thuyền độc mộc. Nghiên cứu mới về DNA heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng Thái Bình Dương và cho thấy hầu hết cư dân trong vùng có nguồn gốc từ Việt Nam.
Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương Nam mà Việt Nam là trung tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng Thái Bình Dương”.
Sự thật lịch sừ này đã được Khoa Đại Dương học và khảo cổ học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình- Hoabinhian- do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng Tây Bắc. Khi mực nước biển dâng lên cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên đã tập trung nhiều phát kiến để hình thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian mà chúng tôi cho là những người Tiền-Việt Protoviets ở lưu vực 2 con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu Long phài thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Himalaya và Côn Luân. Họ mang theo đặc trưng của văn hoá Hoà Bình lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi cao nhất là Himalaya và cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông.
Khi mực nước biển hạ xuống, những vùng biển nước mênh mông nước rút dần để lộ ra những vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Một bộ phận của nhóm người này đã từ vùng cao nguyên Himalaya tiến xuống vùng đồng bằng, nước rút đến đâu từng đoàn người tiến tới đó để lập làng định cư khai phá đất đai. Chính sự kiện tiến về vùng sông nước này được truyền thuyết diễn tả qua việc Âu cơ cùng 50 con ở lại vùng cao, Lạc Long Quân dẫn 50 con xuống “Thủy Phủ” miền sông nước trong truyền thuyết Âu Việt và Lạc Việt. Hai Thạc sĩ sử địa người Pháp là J. Loubet và P. Gouron đã tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là cảng Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trung Khánh TQ bây giờ. Hai bản đồ Pacific Ocean và Atlas 1949 ghi rõ là SUIFU=Thủy phủ. Thế là truyền thuyết từ chỗ u u đã trở nên minh minh chứ không còn u u minh minh như trước nữa.Từ truyền thuyết khởi nguyên dân tộc, đối chiếu với nguồn sách sử của Trung Quốc, kiểm chứng qua các công trình nghiên cứu Dân tộc học, Ngôn ngữ học, Văn hoá Khảo cổ, Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Đại dương học và kết q ủa phân tích cấu trúc mã di truyền mới nhất, thuyết phục nhất của các nhà Di Truyền học đã xác định Việt tộc hoàn toàn khác hẳn với Hán tộc. Người Việt có 1 tỷ lệ cao nhất về biến đổi di truyền trong dân tộc (Intrapopulatinal genetic divergence 0.236% và về Hinc II/ Hpal nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam Á.
Như vậy, cư dân Hoà Binh Hoabinhian đã phải thiên cư mỗi khi có nạn biển tiến mà 3 lần biển tiến cách đây khoảng 14 ngàn năm, 11.500 năm và 8.500 năm theo 2 hướng. Một nhánh theo hướng Đông Bắc qua cầu đất Béring vào Mỹ châu do nạn biển tiến cách đây khoảng 13.500 năm rồi trở thành thổ dân Bắc Mỹ.và nhánh khác theo hướng Nam xuống bán đảo Mallacca Mã Lai Malaysia) rồi vượt biển tới các hoang đảo sau này có tên là Nam Dương Indonesia, Phi Luật Tân (Philippine), Hawai, Đa Đảo, NiuZealand rồi sang tới California, Trung Mỹ và Nam Mỹ.
Việt Nam là một dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có đủ 4 Haplotype chính gồm A, B, C, D và không có cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di truyền học gọi là “Đột biến đặc biệt Á Châu= “9bp deletation bettween CO I I tRNA LYS genes” bp= base pair). Cư dân Nam Trung Hoa tức người Trung Quốc ở Hoa Nam, Đài Loan, Cư dân Đông Nam Á gồm Miến Điện, Miên, Lào, Thái Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật tân, Brunei và Đông Timor, thổ dân Đa Đảo Polynesian, thổ dân Hawai, thổ dân Maya ở Trung và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ có cùng Halogroup A, B, C, D và Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS mà các nhà Di truyền học gọi là Đột biến châu Á Mitochondrial DNA Á Châu (Asian Mitochondrial DNA) của Việt tộc.
Thực tế này
xác định Việt tộc là một đại chủng lớn nhất của nhân loại và Việt nam là một bộ
phận của Việt tộc có lịch sử lâu đời nhất của nhân loại.
Ngay trước
thềm năm 2012, tại Quảng Tây Trung Quốc đã phát hiện được chữ của người Lạc
Việt. Theo tin của Lí nhĩ Chân
đăng trên website news.xinhuanet.com : Hội nghiên cứu văn hóa
Lạc Việt - tỉnh Quảng Tây truyền phát tin tức là người Lạc Việt ở Trung Quốc đã
sáng tạo chữ viết vào bốn nghìn năm trước, phá bỏ quan niệm tổ tiên của dân tộc
Tráng là người Lạc Việt không có chữ viết. Phát hiện chữ viết của người Lạc
Việt lần này sẽ viết lại lịch sử chữ viết ở Trung Quốc, chứng minh văn hóa lạc
Việt là một trong những nguồn gốc trọng yếu của văn hóa Trung Hoa.
Trước thời
điểm này, giới sử học Trung Quốc đều cho rằng tổ tiên của dân tộc Tráng không
có chữ viết. Hội trưởng Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt là Tạ Cầu giới thiệu:
chuyên gia của Hội nghiên cứu đã thu tập một số lượng lớn chứng cứ chứng thực
người Lạc Việt cổ sáng tạo chữ viết biểu ý vào bốn nghìn năm trước. Chữ viết
Lạc Việt này có mầm mống vào thời đầu của thời đại đồ đá mới, hình thành vào
thời kí đỉnh cao của 'văn hóa xẻng đá lớn' (4000-6000 năm trước), và chắc chắn
có nguồn gốc sâu xa với chữ giáp cốt cổ cùng 'chữ Thủy' của dân tộc Thủy.
Tháng 10
năm nay, tại di chỉ cúng tế xẻng đá lớn Cảm Tang - thị trấn Mã Đầu - huyện Bình
Quả - thành phố Bách Sắc, chuyên gia của Hội nghiên cứu văn hóa Lạc Việt - tỉnh
Quảng Tây phát hiện mấy chục khối mảnh vỡ xẻng đá lớn và tấm đá có khắc đầy chữ
viết cổ. Ngày 19 tháng 12, chuyên gia lại đi đến hiện trường tiến hành khảo
sát. Nghiên cứu phát hiện, khối đá có chữ viết lớn nhất là dài 103 cm, rộng 55
cm, trên bề mặt khắc đầy mấy trăm tự phù, phần lớn là chữ cúng tế và lời chiêm
bốc. Theo thống kê sơ qua, trên những phiến đá này có hơn 1000 tự phù.
Từ đây, có
thể đưa ra suy đoán rằng: cho tới những thế kỷ cuối cùng trước Thiên chúa, tầng
lớp ưu tú người Việt ở Đông Á, từ châu thổ Hoàng Hà tới sông Hồng đã sử dụng
chữ vuông tượng hình, với mức độ hoàn chỉnh khác nhau. Vua quan và tầng lớp ưu
tú ở Việt Nam
đã dùng chữ tượng hình trong cúng tế, bói toán và thảo ra Luật của nước Việt.
Khi xuống phương Nam,
Triệu Đà nói tiếng Việt và viết chữ Việt. Khi dẹp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, Mã Viện đã gặp ở đây Luật Việt viết bằng chữ vuông tượng hình. Bằng việc
bắt hơn 300 gia đình quý tộc người Việt an trí ở Nam Dương Tử, y đã triệt hạ
tầng lớp tinh hoa, xóa bỏ chữ viết của người Việt. Những thế hệ người Việt sau
đó phải học chữ vuông lại từ đầu. Và chữ vuông lúc này được gọi là chữ Hán.
Nếu
vậy, sau khi chứng minh “Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung
Hoa” nay đã có đủ chứng cứ xác nhận “Chữ Việt là chủ thể tạo nên chữ Trung
Hoa.”
Tháng
9 năm 1998 B. Su, Y. Chu, J. Ly những
tác giả người Hoa của Dự án Đa dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome
Diversity Project) được thực hiện bằng tiền của Quỹ phát triển khoa học tự
nhiên Trung Quốc đã công bố tư liệu: 70.000 năm trước, người hiện đại Homo
Sapiens đã từ Trung Đông tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng Mongoloid và
Austrloid hoà huyết và sinh sôi nhanh. Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông
Nam Á - mà sau này sách sử Trung Hoa gọi là Bách Việt - đi lên mở mang miền đất
ngày nay có tên là Trung Quốc. Trong khoảng 40.000 năm sinh sống từ sông Hoàng
Hà tới sông Dương Tử, người Bách Việt trong đó tộc Lạc Việt là chủ thể đã triển
khai Văn hoá Hoà Bình, tạo dựng xã hội nông nghiệp lúa nước phát triển nhất thế
giới. Trong thời gian dằng dặc ấy, người Bách Việt đã sáng tạo rìu đá cũ, những
công cụ đá cuội mài, ra kinh Thi, kinh Dịch, đồ đồng… đã biết kết thừng, biết
quan sát vết chân chim làm ra chữ viết! Vì vậy từ lâu nhiều người dự đoán, việc
tìm ra chữ viết trên mai rùa hay đồ gốm là tất yếu. Việc phát hiện ra chữ trên
mai rùa 9.000 năm ở Giả Hồ, bản văn trên bình gốm 12.000 năm ở Bán Pha là điều
không thể khác. Từ bản văn Bán Pha, ta có thể tin là chữ viết có từ trước nữa!
Lịch
sử cứ trôi đi như thế cho đến năm 2600 TCN, Hiên Viên Hoàng đế từ thảo nguyên
Thiểm Tây, Cam Túc đưa quân tràn xuống chiếm đất của Viêm Việt (Bách Việt), mở
ra cuộc hoà huyết và hoà nhập văn hoá vĩ đại giữa chủng Mongoloid phương Bắc và
Bách Việt để tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam, tổ tiên trực tiếp của
người Hán và người Việt hôm nay.
Công
trình nghiên cứu Ða dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome
Diversity Project ) của nhóm nhà khoa học Trung Quốc và Mỹ do giáo sư Y. Chu chủ trì, được công bố cuối
năm 1998 đã làm đảo lộn nhận thức của giới khoa học về nguồn gốc của người Ðông
Á. Một số nhà nghiên cứu người Việt ở nước ngoài đã mau chóng chuyển tải thông
tin này. Hai bài viết của luật sư Cung Ðình Thanh và giáo sư Nguyễn Văn
Tuấn sống tại Úc là những khảo cứu có giá trị.
·
Khi kết hợp giữa
phát hiện mới của di truyền học với những kiến thức vốn có về nhân chủng học
Ðông Nam Á như trên, vấn đề về thành phần nhân chủng của người tiền sử Ðông Nam
Á trở nên rõ ràng:
·
Ðặt chân tới Ðông
Nam Á, hai đại chủng tiền sử Australoid và Mongoloid lai nhau tạo ra các chủng
Indoneisen và Melanesien, Vedoid, Negritoid. Tài liệu từ thống kê sọ cổ cũng
như di truyền học cho thấy ưu thế vượt trội tới mức lấn át của yếu tố
Australoid trong thành phần dân cư Ðông Nam Á. Sau 10.000 năm là thời gian đủ
cho họ tăng về số lượng, tràn khắp Ðông Nam Á lục địa. Do sự tăng nhân số mà
nhu cầu di cư nảy sinh. Từ đây họ tỏa ra châu Úc, Newguenea cùng các hải đảo
Ðông Nam Á.
·
Khoảng 40.000 năm
trước, nhờ băng hà tan, thời tiết ấm lên, người Ðông Nam Á đi lên khai phá lục
địa Trung Hoa rồi tiếp đó vượt eo Bering sang chiếm lĩnh châu Mỹ. Suốt trong
thời gian này không hề có bất kỳ đột biến (mutation) nào mà chỉ có hòa huyết tự
nhiên giữa những thành phần người có mặt ở Ðông Nam Á.
·
Có thể khẳng
định: suốt thời gian này, thành phần chủ yếu, đa số tuyệt đối trong dân cư Ðông
Á, châu Úc là Australoid với những chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid.
·
Các nghiên cứu
cho rằng, trong điều kiện tự nhiên và xã hội lúc đó, người tiền sử tới Ðông Nam
Á một cách riêng biệt theo từng nhóm chủng tộc khác nhau, trong hành trình dài
dằng dặc. Chỉ khi tụ lại trên đồng bằng Sundaland, Nanhailand và miền Trung
miền Bắc Việt Nam,
hai đại chủng người tiền sử mới có sự chung đụng và lai giống (cố nhiên, không
loại trừ sự lai giống ngẫu nhiên trên đường đi). Kết quả là hình thành một cộng
đồng lai chiếm tuyệt đại đa số cư dân. Ðấy là bức tranh chung. Nhưng đó không
phải là tất cả mà bên cạnh còn những ngoại lệ: Có thể một số nhóm Mongoloid hay
Australoid suốt trên đường thiên di không hề có sự gặp gỡ nào với chủng người
khác. Tới Ðông Nam Á, họ cứ sống biệt lập như vậy. Một vài nhóm Mongoloid vượt
lên tây bắc Ðông Nam Á sau đó theo đường Ba Thục lên định cư ở vùng tây bắc
Trung Quốc. Ở đây họ sống cách biệt với phần còn lại của nhân loại và hình
thành chủng Mongoloid phương Bắc. Suốt trong nhiều ngàn năm, họ từ săn
bắt rồi chuyển sang phương thức du mục trên thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc và
nước Mông Cổ.
·
Cuộc thiên di của
những nhóm người biệt lập như trên được nhiều học giả xác nhận.
·
Gs. Ranjan Deka
Ðại học Cincinnati Hoa Kỳ, một trong những người tham gia Dự án Ða dạng di
truyền người Hán công bố: "Những quần thể từ Ðông Á tới luôn luôn
bắt nguồn từ một dòng riêng rẽ, điều này tạo nên nguồn gốc riêng biệt của những
quần thể đó. Sự kiện này cũng
tìm được dẫn chứng trong khảo cổ học: Ðiều khó khăn nhất là rất ít sọ
người được tìm ra ở đấy, dù có di chỉ đồ đá ở Mông Cổ (văn hóa Hetao) và ở bắc
Trung Hoa vào hậu kỳ đá cũ. Ngoài ba sọ thuộc lớp khảo cổ trên ở trong hang
Zhoukoudian xem như thuộc chủng tiền (proto) Mongoloid, người ta chỉ tìm được
sọ Liujiang (Quảng Tây). Sọ này có tuổi định khá trẻ (10.000 năm trước), nhưng
di vật trong Bailiandong (Bạch Liên động) gần đó lại có tuổi 30.000 năm trước. Dù
rất hiếm hoi nhưng những dấu vết trên cho thấy: người Mongoloid từ Ðông Nam Á theo hành
lang phía tây lên tây bắc Trung Quốc. Việc nghèo nàn di vật cũng nói lên
một điều: nhóm người này tuy đi làm nhiều đợt nhưng vì số lượng không nhiều nên
chỉ tạo được quần thể thiểu số Mongoloid phương Bắc.
·
Quá trình
Mongoloid hóa chỉ xảy ra vào thiên niên kỷ thứ III TCN khi người Hán Mông Cổ
vượt Hoàng Hà xuống chiếm đất của người Bách Việt. Chính người da vàng từ Tây
Bắc xuống đã lai với người da sậm màu tại chỗ tạo thành chủng Mongoloid phương
nam. Ðó là quá trình lai tạo chuyển hóa lâu dài mà dấu vết còn đậm ở đời nhà
Thương và sau nữa: Thang, ông vua đầu tiên của Trung Hoa được mô tả là có nước
da đen bóng. Triết gia nổi tiếng Lão tử cũng có màu da đen.
·
Khoảng 2800 năm
TCN, khi thấy những người da ngăm đen, tóc xoăn trồng lúa nước phía Nam sông
Hoàng Hà có cuộc sống sung túc, ý thức thực dân trong đầu những người Hán Mông
Cổ nổi lên. Họ kiên trì cuộc lấn chiếm với vó ngựa và cung nỏ, dáo mác. Khoảng
2600 năm TCN, bằng chiến dịch lớn Trác Lộc trên sông Hoàng Hà, người Hán Mông
Cổ toàn thắng, tràn xuống vùng đất vừa chiếm được. Cuộc gặp gỡ này phải chăng là định mệnh đã tạo ra một
chủng người mới trên địa bàn Ðông Á: chủng Mongoloid phương Nam. Phải
chăng cũng là định mệnh việc một nhóm người sống tách biệt với bầy đoàn ở tận
vùng Tây Bắc xa vời đã giữ gìn vốn genes Mongoloid để khi gặp những người
Indonesien, Melamesien, vedoid từ phương Nam đi lên thì xảy ra phản ứng dây
chuyền của cuộc hòa huyết vĩ đại tạo nên tuyệt đại dân số Ðông Á hôm nay? Lịch
sử chứng kiến một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục: trên toàn địa bàn Ðông Á có
một quá trình Mongoloid hóa mạnh mẽ. Thành phần Australoid đang là chủ thể
suốt 50.000 năm thì trong ba thiên niên
kỷ cuối cùng gần như biến mất khỏi địa bàn Ðông Á, nhường chỗ cho thành phần
Mongoloid!
·
Giáo sư Nguyễn
Ðình Khoa của Ðại họcTổng hợp Hà Nội trình bày trong Nhân chủng học Ðông Nam Á:
"Thời đại Ðá Mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng
Australoid và Mongoloid cùng các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với
nhau, trong đó có Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu... Sang
thời Ðồng-sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân Việt
Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư hoặc do
đồng hóa. Ðó cũng chính là bức tranh toàn cảnh dân cư Ðông Nam Á hiện đại.
·
Vấn đề về nguồn
gốc người Việt nói riêng và người Ðông Á nói chung đã được xác định.
·
Bách Việt
trong giai đoạnTần Hán
·
Vào thời này,
Thục Phán, thủ lãnh Âu Việt, đã thâu gồm được cả Lạc Việt và hợp tên hai nhóm
Việt này lại là Âu Lạc. Sau khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất được Trung Hoa, Tần
bèn sai Đồ Thư mang quân đi chinh phục Bách Việt (214 trước Công nguyên). Trong
cuộc giao tranh với quân Tần, dân Bách Việt ở Hoa Nam ngày nay đã áp dụng lối
đánh du kích dai dẳng, tiêu hao dần quân địch và đã giết được tướng Đồ Thư
trong một trận phục kích. Tuy nhiên về sau quân Tần vẫn thắng vì đông đảo và có
tổ chức hơn. Người Bách Việt bị bại trận bèn thiên di đi nơi khác hoặc lui vào
ẩn trong miền rừng núi. Chỉ có Âu Lạc ở miền cực nam nên tránh được nạn binh
đao. Nam Việt (tức Việt Nam Hải) bị trực tiếp cai trị và cải là quận Nam Hải.
Sau quan uý quận Nam Hải là Triệu Đà thôn tính được Âu Lạc và nhập chung cả ba
xứ Việt cũ thành đế quốc Nam Việt. Lúc Đế Quốc Nam Việt thành hình thì phần lớn
các xứ Việt nhỏ miền Bắc đã suy sụp, tuy nhiên chắc chắn còn lại hai nước Mân
Việt và Đông Việt. Nhưng chẳng bao lâu sau, năm 135 trước Công nguyên, Mân Việt
bị nhà Hán đánh chiếm, năm 111 trước Công nguyên tới lượt Nam Việt, còn Đông
Việt cũng chỉ tồn tại được ít năm sau là bị thôn tính nốt (do cùng tướng Dương
Bộc, người đã đánh chiếm Nam Việt).
·
Như vậy sang đầu
thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, không còn quốc gia Việt nào tồn tại, nhưng
các tổ hợp Việt nhỏ vẫn sống rải rác đầy dẫy ở Hoa Nam và vùng Đông Nam Á. Nhiều tổ
hợp vẫn tiếp tục đấu tranh và không bị Hán thôn tính. Bộ tộc Việt ở quận Chu
Nhai thuộc Hải Nam đã bền vững chống Hán suốt nửa thế kỷ để giữ nền tự trị, cho
đến năm 46 trước Công nguyên thì nhà Hán phải bỏ hẳn ý định xâm chiếm vùng này.
Theo Hán Thư, Giả Quyên Chi đã tâu với vua Hán xin bỏ cuộc chinh phục
vì “dân Lạc Việt ở quận Chu Nhai vốn còn man rợ không khác loài cầm thú, cha
con quen tắm cùng sông, quen uống bằng mũi, do đó không đáng đặt đất này thành quận
huyện.” Kẻ thất trận nào mà chẳng nại ra được lý do chính đáng để lui quân!
·
Kể từ thế kỷ 1
(sau Công nguyên), ngoài những nhóm đã thiên di xuống Đông Nam Á, các phần tử
Việt còn lại ở vùng Dương Tử lần lần bị đồng hoá, còn các bộ tộc ở đông nam
Trung Hoa thì bị người Hán di cư xuống chiếm mất các bình nguyên màu mỡ và đẩy
vào những miền đất cằn cỗi.
·
Ở tây nam Trung
Hoa, tộc Lý tức Thái đã quy tụ thành
Vương quốc Đại Lý. Còn ở Đông Nam Á, sau Lạc Việt hai vương quốc khác cũng lần
lượt thành hình trong thế kỷ đầu Công nguyên là Phù Nam ở miền nam lục địa và
Lâm Ấp (sau đổi là Chiêm Thành) ở miền Trung Việt Nam ngày nay.
·
Tài liệu
tham khảo
·
1.Đào Duy Anh, Việt
Nam
Văn Hoá Sử Cương, Huế; Quan Hải Tùng Thư, 1938.
·
2. Bài thuyết
trình New Interpretation of the Decoration Designs on the Bronze Drums of
Southeast Asia của Lăng Thuần Thanh tại Hội Nghị Tiền Sử Viễn Đông (Far
Eastern Prehistory Congress) lần thứ tư tại Phi Luật Tân năm 1953.
·
3.Kim
Định: Việt lý tố nguyên .An Tiêm SG.1970
·
4. Bowen,
Hui Li, Daru Lu & đồng nghiệp: Genetic evidence supports demic diffusion of
Han culture. Nature /vol 431/ 16 September 2004
·
5.Đại
Việt sử ký toàn thư.
·
6. Ngô Thời Sỹ, Việt
Sử Tiêu Án (bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu),
Sài gòn: Văn Hoá Á Châu, 1960, trang 9.
·
7.Bài thuyết
trình New Interpretation of the Decoration Designs on the Bronze Drums of
Southeast Asia của Lăng Thuần Thanh tại Hội Nghị Tiền Sử Viễn Đông (Far
Eastern Prehistory Congress) lần thứ tư tại Phi Luật Tân năm 1953.
·
8. Đặng Nghiêm
Vạn, tập san Nghiên Cứu Lịch Sử, số 78, Hà Nội, 1965.
·
9. Lê Trọng Khánh. Phát
hiện hệ thống chữ Việt cổ thuộc loại hình Khoa đẩu (NXB Từ điển bách khoa,
2010)
·
10. Hà Văn Thùy .
Bản thông điệp 12000 năm của tổ tiên người Việt. – 11.水族端节:http://www.huaxia.com/gz-tw/mjfs/1773034.html
·
12.Earliest
writing’found in China.
News.bbc.co.uk/1/hi/sci/tech/454594.stm
·
13.The bone age
flute’. News.bbc.co.uk/2/hi/science/nature/2956925.stm
·
14. Archaeology
of Writing .www.geocities.com/cvas.geo/china.html
·
15. J.Y. Chu
& đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc.
Natl. Acad. Sci.USA 1998 n.
·
16.
Ts Nguyễn Thị Thanh- Việt Nam
trung tâm nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới -
Việtcatholic 30.9. 2001.
·
17.
Vương Đồng Linh: Trung quốc dân tộc học & Chu Cốc Thành: Trung Quốc thông
sử. Dẫn theo Kim Định.
·
18.
Nguyễn Đình Khoa: Nhân chủng học Đông Nam ÁĐH&THCN.H.1983
·
19.
J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc.
Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95.
·
20.
Bing Su & đồng nghiệp: Y-chromosome evidence for a northward migration of
modern human into Eastern Asia during the last
Ice Age. American Jurnal of Human Genetics 1999.
·
21.
W. Kim & đồng nghiệp : Y-chromosomal DNA variation in East Asia populations
and its potential for inferring the peopling of Korea. Jurnal of Human
Genetic.2000. số 45.
·
22.
S.W. Ballinger& đồng nghiệp: Southeast Asian mitochondrial DNA Analysis
reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration. Genetic 1992 số 130.
·
23.
Jin Li-Los Angeles
Times 29.9.1998.
·
24.
Peter Savolainen, Ya ping Zhang... Genetic Evidence for an East
Asia origin of Dometic Dogs. Science Nov 22 2002;
·
25.
Stephen Oppenheimer: Eden in the East: the
Drowned Continent of Southeast Asia- Nxb Phoenix London 1998.
·
26.
Vũ Hữu San Vịnh Bắc Việt tái bản 2004. Tripod.com
·
27.
Encyclope'dia d'Archeologie.
·
28..
C. Sauer: Agricultural Origins and Dispersals. Newyork 1952
·
29.
W.G Solheim II: Southeast Asia and the
West-Đông Nam Á và phương Tây- Science 157
·
30.
Wilheim G. Solheim H. Ph. D: New light on Forgotten Past. National Geographic
Vol 1339 n 3 tháng 3 năm 1971.
·
31
. Đại Việt sử ký toàn thư.
·
32.
Sử ký Tư Mã Thiên Nxb Văn học H.1988 tr.743.
·
33.
Phủ Biên tạp lục Nxb KHXH. H. 1977 tr 31
No comments:
Post a Comment