44.Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông của Oppenheimer
Nguyễn Quang Trọng
Trong
báo Thế Kỷ 21 (số tháng 12 năm 2001, nam California, USA) ông Nguyễn
văn Tuấn có đặt lại vấn đề nguồn gốc (Tàu) của dân tộc và văn minh Việt
Nam sau khi ông đọc cuốn "Địa đàng ở phương Đông" của Stephen
Oppenheimer. Với nhiều điểm mới dựa trên sự tổng hợp tài liệu nhiều
ngành (khảo cổ học, ngữ học, di truyền học, dân tộc học) và kết quả
nghiên cứu của chính Oppenheimer, "Địa đàng ở phương Đông" phát giác sự
đóng góp quan trọng của vùng Đông Nam Á trong lịch sử nhân loại. Ngô thế
Vinh đã giới thiệu sách này trong bài "Tìm về phương Đông- Địa đàng lại
đánh mất" trong Thế Kỷ 21 số tháng tư năm 2000. Việc Nguyễn văn Tuấn
(NVT) tóm tắt cuốn sách đồ sộ này (560 trang với kiểu chữ nhỏ) và thêm
những dữ kiện mới thông báo rất đáng ca ngợi. Những thuyết mới về nguồn
gốc dân tộc khi được thông báo cho cộng đồng người Việt Nam giúp hiểu
thêm về cội nguồn tổ tiên, xóa bỏ mặc cảm tự ti (nếu có). Tuy nhiên, do
tầm quan trọng của vấn đề, khi sử dụng những số liệu và dữ kiện để chứng
minh quan điểm của mình, có lẽ chúng ta cần thận trọng để tránh các bẫy
rập tự tôn, duy chủng tộc, duy dân tộc quá khích.
Tự tôn dân tộc - tự tôn chủng tộc.
Người
Tàu rất tự tôn, không riêng ở cái tên Trung Quốc tự xưng, mà còn vì
thói quen hay tự nhận là "người đầu tiên" sáng chế ra nhiều thứ (dù có
phần nào sự thật). Tính tự tôn này đôi khi cũng thể hiện trong lãnh vực
khoa học. Một số khoa học gia Trung Quốc muốn chứng minh đất Trung Hoa
là nơi phát sinh ra giống dân Á châu, và văn minh tộc Hán là văn minh
trung tâm thế giới. Họ cố tình che dấu, giảm thiểu, hay vơ chung vào văn
minh tộc Hán những nền văn minh rực rỡ cổ xưa tìm thấy trên đất Trung
Hoa nhưng không thuộc vùng ảnh hưởng Hán tộc. Điển hình là trường hợp
văn minh Sanxingdui phía bắc Thành Đô (Chengdu, thuộc tỉnhTứ Xuyên),
phía nam thượng lưu sông Dương tử. Năm 1986, một nhóm thợ lò gạch tình
cờ tìm được một hố tế lễ chứa đầy đồ đồng, vàng và ngọc thạch. Khi đoàn
khảo cổ Tứ Xuyên đến đó khai quật, họ tìm ra hố thứ hai. Tổng số đồ vật
trên 800 món, với nhiều thức tuyệt xảo bằng đồng, kích thước to, trong
đó có tượng người cao bằng người thật (1.72 m), nhiều đầu người và mặt
nạ bằng đồng. Đây là tượng đồng to nhất tìm thấy ở Trung Hoa. Tượng có
mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm dày và miệng thật rộng, rõ ràng
không phải chân dung tiêu biểu người Hán. Hơn nữa nền văn minh đời
Thương, là văn minh cổ nhất của Tàu, không hề có đồ đồng mang dạng
người. Trung Hoa xem đó là cổ vật thuộc nhóm dân Ba- Thục, và xếp chúng
vào thời đại cuối thời Thương.
Một
nhóm khảo cổ Hoa Nhật khám phá ra thêm một thứ đền "kim tự tháp" ở
Longma, phía tây- nam Thành Đô, có cùng những đường nét văn hóa. Đền này
nằm tại trung tâm thành cổ, trong khi đền thờ, nơi tế lễ cổ và thuần
Trung Quốc (Hán) đều nằm ngoài vòng thành. Các nhà khảo cổ Nhật ước tính
tuổi cho nền văn minh này là 3000 đến 4700 năm về trước. Khám phá này
được công bố ở Kyoto, Nhật vào tháng 10 năm 1996, hình ảnh được đăng
trên những báo lớn và sau đó trong những sách, báo Anh và Pháp ngữ,
trong khi báo Trung Hoa không hề đăng, và rất ít thường dân Tàu biết đến
tin này. Trên thực tế, Trung Hoa không muốn chấp nhận sự hiện diện một
nền văn minh khác, rực rỡ và xưa hơn văn minh Hán tộc vốn dĩ được xem là
văn minh gốc của cả nước.
Vào
nửa đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ Ấu châu đặc biệt chú trọng đến việc
khai quật các di tích tiền sử ở những nước thuộc địa. Nhưng vì dựa vào
mô hình các giai đoạn phát triển kĩ thuật ở châu Ấu để nghiên cứu các dữ
kiện khảo cổ nên họ đã đưa đến những kết luận nhuộm màu ưu / duy chủng
tộc trong chiều hướng tôn cao văn minh dân da trắng. Nhà khoa học Áo
Heine-Geldern nổi tiếng về thuyết thiên di ở Đông Nam Á, đã cố sức chứng
minh văn hoá Đông Sơn bắt nguồn từ văn hoá phương tây người Kimmer, hay
người Tokhara (tức người Nhục Chi) từ vùng Hắc Hải thiên di đến (thật
ra người Tokhara chỉ đến vùng nam Tây Bá Lợi Á). Mansuy, người Pháp đã
phát giác ra các di vật ở Bắc Sơn (vùng Cao Bằng Lạng Sơn),- theo Hà Văn
Tấn- đã "gắn sự xuất hiện của kĩ thuật mài đá trong văn hoá Bắc Sơn với
yếu tố tộc người da trắng có nguồn gốc phương Tây." Nhà tiền sử học Mĩ
Movius xem sự kiện trường tồn của đồ đá đặc thù Á Châu
"Choppers/Chopping-tools" là biểu hiện tính chất kém phát triển của văn
hoá Đông phương so với Tây phương cùng thời. Coedès, hàn lâm viện sĩ
Pháp, từng là Giám đốc Viện Viễn Đông Bác Cổ danh tiếng, cũng cho rằng
cư dân bản địa Đông Dương vốn thiếu óc sáng tạo, ít khả năng tiến hoá và
khó tiến bộ nếu không có sự đóng góp của bên ngoài.
Nói
thẳng ra, tất cả các nhà khảo cứu này cho rằng cư dân Đông phương cổ
mọi rợ, không văn minh bằng cư dân Tây phương cổ. Vô tình hay hữu ý, các
nhà khoa học thời đó đưa ra những lí lẽ biện minh cho chính sách thuộc
địa mà kết luận đưa ra là dân Tây phương (có bổn phận) đem ánh sáng văn
minh đến cho những dân tộc bán khai địa phương. Đó là tính tự cao chủng
tộc của người da trắng.
Nhưng Đông Nam Á thời tiền sử có thật sự kém văn minh như người ta tưởng không?
Ngày
nay đa số khoa học gia công nhận rằng không thể áp dụng mô hình các
giai đoạn kĩ thuật ở Ấu Châu để định tuổi cho dụng cụ đá tại Đông Nam Á,
và qua đó định tuổi các nền văn hoá Đông Nam Á, là vùng có khí hậu và
môi trường sống hoàn toàn khác. Dụng cụ chặt đẽo choppers sở dĩ không
thay đổi trong một thời gian dài là vì người Đông Nam Á thời đó đã biết
dùng tre, gỗ chế biến thành dụng cụ cần thiết cho đời sống hằng ngàỵ.
Nhưng người ta không tìm ra được các thứ vật dụng này vì chúng đã bị
tiêu huỷ trong môi trường Đông Nam Á nóng ẩm ; và chính công cụ đá đã
được sử dụng trong việc chế tạo tre, gỗ thành đồ dùng. Đó là mô hinh gỗ /
mộc , tức "lignic" model, hay bamboo-karst model. Người ta có thể khẳng
định như thế nhờ những phương pháp tiếp cận khảo cổ học mới sau này
(dựa vào kinh tế học, sinh thái học và xã hội học). Một trong các bằng
chứng thực tiễn là cuộc sống của bộ lạc nhỏ Tasaday trên đảo Mindanao
(Phi luật Tân). Dân bộ lạc này vẫn còn sống theo kinh tế săn bắt-hái
lượm như người "thời đồ đá", nhưng họ hầu như không có (vì không cần)
công cụ làm bằng đá.
Dân
tiền sử Đông Nam Á sống thiên về hái lượm cây, trái, đào củ và săn,
bắt, bẫy các loài thú nhỏ hơn là thú lớn như dân xứ lạnh Ấu châu (bò
rừng, tuần lộc...), nên không cần dùng khí giới lao, cung với lưỡi ngọn
lao, mũi tên làm bằng đá đẽo. Họ săn heo rừng, khỉ, nai, nhím, chim...
bằng cung nỏ với tên tre chuốc nhọn hay bằng ống thổi (blow-pipe) với
mũi tên (là) gân lá tẩm thuốc độc, như dân các bộ lạc miền núi Việt Nam
và trong rừng Indonesia ngày nay. Trong vùng nhiệt đới nóng ẩm, rừng
nhiều cây lá, nếu cần che thân, sử dụng vỏ cây hay lá cây thì mát mẻ, dễ
chịu và tiện lợi hơn da thú ; và vì không cần da thú nên họ không cần
công cụ đá để nạo da thú như người tiền sử Ấu châu; họ bắt cá, săn thú,
xẻ thịt, với các cạm bẫy, dao chế biến từ tre, lá, như thổ dân trên đảo
Mentawai xứ Indonesia ngày nay. Nói chung những bộ lạc miền nhiệt đới
chưa "văn minh" hiện nay vẫn chế tạo rất nhiều đồ dùng từ tre, mây, gỗ,
lá. Đó là dấu vết kinh nghiệm cư dân cổ bản địa truyền lại.
Các
hình vẽ thú, cảnh đi săn, trên vách nhiều hang động Ấu Châu thời tiền
sử (peintures rupestres), cho biết thịt là món ăn chính của người tiền
sử tại đây. Trong khi đó, người cổ Hoà Bình ăn nhiều sò ốc, bằng chứng
là vỏ các loài ốc núi và ốc nước ngọt tìm thấy trong những đống rác bếp
trong hang động trên mười ngàn năm trước (ở vùng Hoà Bình và vịnh Hạ
Long); cũng như sau đó người sống dọc bờ biển từ vịnh đến bắc Trung Phần
đều vẫn ăn sò, điệp biển và để lại hàng đống vỏ lớn. Cư dân Bắc Việt cổ
đã ăn ốc từ 15 000 năm trước (và bây giờ ta vẫn ăn), điều này không
thấy trong di tích người tiền sử Ấu châu.
Sau
những phát hiện khảo cổ chấn động thế giới vào thập niên 60 tại Thái
Lan, Malaysia, Indonesia, một số nhà tiền sử học đã đặt lại vấn đề tiền
sử Đông Nam Á. Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii, viết một loạt bài từ
năm 1967 về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc
đồ đồng thau... Solheim đã đi ngược lại các luận điểm của Heine-Geldern
(nguồn gốc từ người Tokhara, Kimmer) về cuộc thiên di của người Nam Đảo
(Austronesian) và nguồn gốc văn hoá Đông Sơn. Theo Solheim, đóng góp
của văn hoá cư dân Đông Nam Á vào văn hoá Bắc Trung Quốc thật quan trọng
; ông đưa thuyết mạng lưới buôn bán đường biển liên đảo, gọi là mạng
Nusantao, ở khắp vùng Thái bình Dương từ Nhật xuống đến các đảo phía nam
từ trên mười ngàn năm trước. Những nhà hàng hải Nusantao này là cư dân
vùng thềm Sunda phía đông Indonesia và nam Phi luật Tân, đã buộc lòng
phải dùng đường biển khi mực nước dâng cao làm ngập đất họ sống. Tuy
nhiên, Hà văn Tấn cho rằng luận điểm của Solheim chưa có hay không có cơ
sở vững chắc, với nhiều điểm "phi lý, hỗn loạn" và dễ bị chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi lợi dụng.
Sau
Solheim, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hong Kong, Higham ở
Tân Tây Lan, Pookajorn ở Thái Lan đều đồng ý là vùng Đông Nam Á, từ Thái
Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam
Á (Austroasiatic)- Nam Đảo (Austronesian). Và mới đây, Oppenheimer còn
đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn
của văn minh phương tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển
dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà - Trung Đông, mang theo kinh nghiện trồng
trọt, làm đồ gồm và ... sự tích Đại hồng thủy.
Bác sĩ Oppenheimer, nhà thám hiểm nhà nghiên cứu, người bạn các dân tộc Đông Nam Á.
Oppenheimer
tốt nghiệp bác sĩ Đại học Oxford bên Anh năm 1971. Năm 1972 ông sang
vùng Viễn Đông hành nghề tại nhiều bịnh viện trong vùng, mà độc đáo nhất
là khi ông làm "bác sĩ bay" (flying-doctor) ở Borneo. Ở vùng này gần
hai mươi năm, ông du hành và nghiên cứu về nhân học khắp Đông Nam Á lục
địa (kể cả Việt Nam) và các đảo Thái bình Dương. Ông không ngại nguy
hiểm, lặn lội nơi thâm sâu cùng cốc, tìm đến những bộ lạc còn giữ ngôn
ngữ xưa hay cổ tích truyền khẩu... Trong sách nói trên có vài bức ảnh do
tác giả chụp. Có một ảnh nhà sàn với hàng chữ : nhà sàn thành phố không
đất Sitankai (cất trên bải san hô ngầm) giữa biển Sulu, tác giả chú
thích rằng người tiếp viên trên tàu (ship's steward) ở góc phải hình đã
cứu tác giả và ý trung nhân của ông thoát khỏi tay lính Phi. Ông kể giai
thoại đó như sau:
Lần đó ông cùng ý trung
nhân người Tàu đi du lịch, và gặp hai người Tây phương tại nam Phi Luật
Tân. Hai người này khuyên đôi tình nhân trẻ đi "fun trip" bằng tàu trên
vùng biển Sulu đầy đảo nhỏ phía nam Mindanao (Philippins)-bắc Borneo. Họ
nghe theo, đáp một tàu lớn chuyên chở hành khách địa phương lẫn hàng
hoá qua các hải đảo Sulu. Đến mỗi làng, tàu thả người xuống, và cho
khuân lên những bao hải sâm (sea cucumber) món hàng đắt tiền rất được
các nhà hàng ăn ở Hong Kong ưa chuộng. Tàu được một nhóm lính vũ trang
đi theo bảo vệ chống hải tặc trong vùng. Một lần, đám lính ấy nhậu say,
toan "dòm ngó" cô vợ sắp cưới của ông. Khi tình trạng đến hồi nguy hiểm
thì thuỷ thủ đoàn đến kịp lúc, đưa hai người lánh lên boong trên, cứu họ
thoát nạn. Nhờ giai thoại này độc giả biết thêm một phần đời tư tác
giả, một người yêu Đông Nam Á và yêu người Đông Nam Á (cô ấy sống ở Nam
Trung Hoa, có lẽ thuộc chủng Nam Mongolic, như các dân Đông Nam Á khác).
Đầu
thập niên 80 ông chuyển qua ngành nhi khoa nhiệt đới, và làm việc ở
Madang, vùng phía bắc New Guinea (Tân Guy nê, đảo phía bắc Úc Châu). Ông
rất ngạc nhiên khi thấy quá nhiều trẻ mới sinh bị thiếu máu (anaemic)
mà không thiếu sắt (iron deficiency). Đem mẩu máu lấy từ cuống rún trẻ
về trường y khoa nhiệt đới ở Liverpool (ở Anh) phân tích, ông nhận thấy
trẻ sơ sinh thiếu máu vì hồng huyết cầu hình dạng không bình thường, rất
dễ vỡ trong một "bịnh" di truyền gọi là a-thalassaemia (aT), do thiếu
một trong hai gene (di tố) tạo ra a (alpha) globin; alpha globin là một
trong bốn protein a,b,d,g ; (bệnh b- thalassemea do thiếu gene b) hợp
với phần tử heme chứa chất sắt tạo thành haemoglobin (viết tắt HbA, F)
nằm trong tế bào máu đỏ (hồng cầu).
Khi các
genes này có "vấn đề", các Hb tạo nên (A, F) không theo tỉ lệ bình
thường hoặc cấu trúc bị biến dạng (HbS, HbC, HbE.) khiến cho hồng cầu
biến dạng, dễ vỡ. Thí dụ hồng cầu có hình liềm (HbS) hoặc cầu tròn thay
vì hình cầu lõm hai mặt. Tuỳ theo mức độ các "vấn đề" là giảm, thiếu
globins hay chuyển đổi các thành phần nucleic acids tạo di tố, và tuỳ
các đôi di tố tương hợp hay dị hợp mà các hậu quả mất máu nặng nhẹ khác
nhau. Tính miễn nhiễm sốt rét là một hậu quả (tốt bất) ngờ của sự biến
dạng và dễ vỡ của hồng cầu.
Khi nghiên cứu
kĩ sự phân bố trẻ sơ sinh aT trên đảo, ông thấy trẻ có cha mẹ gốc vùng
núi cao bên trong đảo ít bị sốt rét hơn trẻ trong các làng vùng thấp,
ven biển hay trên đảo nhỏ xung quanh. Để biết rõ nguyên nhân, ông bỏ thì
giờ đi thăm từng gia đình các em bé được phân tích máu, hỏi gốc gác và
tiếng nói của họ. New Guinea là nơi có số ngôn ngữ cao nhất thế giới
(750 thứ tiếng) đa số là thổ ngữ Papua, các tiếng còn lại thuộc họ Nam
Đảo, tiếng nói người sống ven biển. Điểm nghịch lí là số trẻ aT không
phân bố theo gốc gác tiếng nói, mà phân bố theo độ cao nơi gia đình
sống. Những trẻ aT đều thuộc gia đình miền núi cao chưa hề bị sốt rét.
Nhờ lấy mẩu máu này ở New Guinea đem về Anh phân tích gene mà ông thành
ngườI đầu tiên khám phá ra sự liên hệ giữa a-thalassaemia và sự phân bố
bịnh sốt rét trong vùng New Guinea ; kết quả này công bố trên báo The
Lancet năm 1984.
Ông đi đến kết luận là
những người không bị sốt rét nhờ hưởng gene aT của ông cha tổ tiên, vì
chỉ những người có gene đột biến aT mới sống còn qua sự "tuyển lựa tự
nhiên" của bịnh sốt rét. Bịnh sốt rét là bịnh gây tử vong cao cho loài
người: ngày nay sốt rét vẫn làm chết người trên thế giới nhiều hơn các
bịnh khác. Trong bệnh này, các trùng Plasmodium vào người theo vết cắn
muỗi Anopheles, vào gan và hồng huyết cầu kí sinh để tiếp tục sinh sôi
tăng trưởng. Oppenheimer khám phá ra là trùng sốt rét Plasmodium
falciparum không tấn công được hồng huyết cầu aT, và trùng này bị chận
không lan tràn được trong cơ thể người bị muỗi nhiễm trùng cắn. Đây là
một kết quả quan trọng, nhất là cho dân Đông Nam Á ( hay bị sốt rét và
bị "thiếu máu"-anemia- do thalassaemia), được công bố trên báo khoa học
hàng đầu thế giới (Nature) năm 1997.. Những đợt đột biến đưa đến sự
tuyển chọn gene kháng sốt rét thay đổi tùy nơi, nên cùng là aT mà di tố
đột biến ở Việt Nam và ở New Guinea chẳng hạn, không giống nhau, gây ra
hiện tượng "thiếu máu" anemia nặng hay nhẹ tùy theo di tố truyền lại cho
dân đó. Căn cứ theo bản đồ những vùng có di tố "chống sốt rét" và nhiều
dữ kiện văn hoá phong tục khác, ông suy ra rằng dân Đông Nam Á đã di cư
đến Trung Đông (dân Trung Đông cũng hay bị thalassaemia) và lập văn
minh cổ Ur và Ai cập.
Khi nghiên cứu về sốt
rét, Oppenheimer để ý thấy vùng phân bố các nhóm dân New Guinea có liên
hệ đến huyền thoại-cổ tích : những bộ lạc nói tiếng khác nhau nhưng có
cùng cổ tích truyền khẩu thì có cùng di tố. Thế là ngoài nghiên cứu y
khoa, ông còn tìm hiểu sâu về dân Á châu, về cổ tích, tiền sử, ngôn ngữ,
tập quán của họ.
Từ những kiến thức đa
dạng này, ông có một số ý niệm về sự hình thành của hai nhóm dân chính
Đông Nam Á, là dân nói tiếng Nam Á (Austroasian) và dân nói tiếng Nam
Đảo (Austronesian). Để tiếp tục công trình, ông làm giáo sư nhi khoa tại
Đại Học Hongkong từ 1990 đến 1994; ông nghiên cứu về những đường thiên
di đưa người nói tiếng Nam Đảo đi chiếm lĩnh các hải đảo trên một vùng
biển rộng lớn, trải từ Madagascar ở bờ tây Ần độ dương đến đảo Hawaii và
đảo Phục Sinh ( Iles de Pâques) phía đông Thái Bình dương. Trở về giảng
dạy ở Đại học Oxford sau khi rời Hongkong, ông không ngừng tìm hiểu về
hai giống dân Nam Á- Nam Đảo mà ông đã từng chung sống trong hai mươi
năm. Tình cảm đặc biệt của ông đối với dân và đất Đông Nam Á đã thể hiện
qua cuốn sách "Địa đàng ở phương Đông".
"Địa đàng ở phương Đông"
Như Nguyễn văn Tuấn đã nhận xét, cuốn sách này tập trung những dữ kiện nhiều mặt, cũ mới, về vùng Đông Nam Á. Ô
Nói chung, Oppenheimer tổng hợp các tài liệu trong đó có kết quả nghiên cứu của chính mình bao gồm y khoa, ngôn ngữ, nhân chủng, xã hội học để đưa ra một thuyết hoàn toàn mới mẻ về nguồn gốc một số dân tộc và văn minh Á châu cũng như thế giới.
Điểm độc đáo chính là sự kết hợp nhiều bộ môn nói trên, cổ điển và hiện đại, khoa học chính xác và khoa học nhân văn. Trong kết hợp này, các huyền thoại, cổ tích truyền khẩu giữ vai trò đặc biệt.
Việc
sử dụng các truyền thuyết có một sức thuyết phục nào đó, thí dụ khi ta
thấy quả thật Việt Nam, ngoài một số tập tục, cũng có những cổ tích và
huyền thoại truyền miệng khá giống những vùng xa phía nam như New
Guinea.
Tích Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Trầu Cau
của ta nói về hai người cùng yêu, tranh chấp một cô gái với một số khúc
mắc éo le tương tự như tích Kulabob và Manup của các bộ lạc trên những
hòn đảo nam Thái bình Dương. Theo Oppenheimer, chuyện tích này rất dài,
nhiều tình tiết, ở vùng đảo ấy người ta kể cả ngày; thỉnh thoảng phải
ngưng kể để... ăn trầu.
Kulabob trong tích
vùng New Guinea được xem là thuỷ tổ dân nói tiếng Nam Đảo. Manup là anh ;
còn người em Kulabob, đôn hậu, giỏi giang, đã sáng chế ra thuật xâm
mình, chế tàu đi biển và Kulabob lái tàu đánh cá rất điêu luyện.... Một
hôm đi săn, Kulabob bắn lạc một mũi tên khắc chạm tinh vi. Lúc đi tìm
mũi tên, Kulabob bị chị dâu (vợ Manup) "dụ dỗ", quyến rũ. Cô này dấu mũi
tên và nằn nì Kulabob xâm một hình đẹp trên chỗ kín của mình. Kulabob
không muốn nhưng cuối cùng đã xiêu lòng chìu ý chị dâu. Trong một dạng
chuyện kể, hai người đã ái ân với nhau lúc đó. Khi người anh khám phá ra
chuyện ngoại tình này, đi tìm giết em mình. Hai anh em đánh nhau dữ dội
bằng đủ cách, kể cả pháp thuật, nhưng bất phân thắng bại. Cuối cùng để
tránh huynh đệ tương tàn, Kulabob làm một chiếc tàu to bỏ đi về hướng
biển cả, chở theo người, cây, thú vật và đồ đạc, từ đó lập thành các
nhóm dân hải đảo Thái bình Dương.
Oppenheimer
xem tích Kulabob này là cổ tích gốc của tất cả các dân liên hệ huyết
thống đến giống dân Nam Đảo, vi có rất nhiều dạng kể khác nhau trong
vùng đảo. Theo ông, chuyện cổ Cain/ Abel ở Cận Đông và Adonis/Attis/
Osiris ở Ai Cập được ghi lại sau đó bắt nguồn từ tích Kulabob, cũng như
truyền thuyết đại hồng thủy ghi lại thành thiên trường ca Gilgamesh xứ
Ur cổ xưa bắt nguồn từ một tích gốc Nam Đảo và do thảm kịch nước biển
dâng ngập đại lục thềm Sunda mà ra. Từ các chuyện cổ và từ những chi
tiết như dấu xâm mình, mắt xếch trên tượng Ur cổ, Oppenheimer kết luận
là nền văn minh Lưỡng Hà và Ai Cập đã bắt nguồn từ văn hoá Nam Đảo nông
nghiệp. Sự phân chia ngôi thứ xã hội, tổ chức chính trị, tín ngưỡng, phù
phép (magic) đều do những người sống trên thềm Sunda mang đến Trung
Đông bằng đường biển khi Sundaland bị nhận chìm dưới nước.
Thuyết
về nguồn gốc xưa của văn minh Đông Nam Á và đường thiên di người Nam
Đảo nói chung rất "quyến rủ", có mạch lạc, giá trị, nhưng không thể
khẳng định vì chưa có những phương pháp định "tuổi" các truyền thuyết,
cho phép xếp chúng theo thứ tự trước sau, thêm vào đó những chứng minh
về ảnh hưởng Nam Đảo trên hai nền văn minh cổ sáng chói này theo tôi
không đủ sức thuyết phục.
Bởi vì vùng Cận
Đông là vùng có người hiện- đại H. sapiens sống từ rất lâu (-100 000 năm
). Những người ở đấy cũng lập nên làng xã từ gần 10 000 năm nay, từ
Turkey đến Israel, và từ lâu đã sống bằng nghề canh nông (lúa mạch, lúa
mì), chăn nuôi (dê, cừu, bò...). Cái nôi các giống lúa mạch, lúa mì, dê,
cừu, bò. thuần dưỡng của cả nhân loại chính là ở nơi đó. Tuy nghề làm
đồ gốm ở đấy có niên đại sau đồ gốm Jomon bên Nhật (khoảng -10 000 năm
), nhưng các kĩ thuật khác (đi ngựa, làm xe, làm đồ vật bằng đồng thau,
bằng sắt ) được biết rất sớm. Ngày nay người sống trong vùng này giống
người Ấu hơn người Á Châu. Giả thuyết của Oppenheimer sẽ thuyết phục hơn
nếu có thêm những bằng chứng khác.
Những điểm có thể gây ngộ nhận trong bài N. V. Tuấn.
Tôi muốn bàn đến một số điểm trong bài của N..V. Tuấn dễ gây ngộ nhận, có thể đưa đến nhận định không chính xác về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
1- Thuyết "Bắc tiến" (của người cổ Việt Nam), theo kết quả mới về nghiên cứu di truyền?
Quả có "Bắc tiến" cách đây trên 50 000 năm, từ vùng Đông Nam Á lên Trung Hoa. Tuy nhiên, ở đây phải hiểu theo hiện tượng thiên di người cổ nói chung. Mới đây, nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới hợp tác nhau để so sánh genes người ở vùng Đông Á châu và đã đưa ra một kết luận quan trọng đăng trên hai bài báo (xem tác giả Chu, Su, phần sách tham khảo) : người cổ thuộc giống người hiện- đại (sapiens) đến từ Phi châu, ghé vùng Đông Dương trước, rồi từ đó thiên di lên phía bắc đến nam Trung Hoa, và sau đó hợp chủng với người Altaic (từ Trung Á đến sau qua đường thiên di bắc Á châu) thành dân "mới hơn" sống ở đông Siberia -Tây Bá Lợi Á.
Dĩ
nhiên trên đường thiên di đầu tiên từ Phi châu xuống phía nam, tổ tiên
dân Á Đông đã ghé bán đảo Ần Độ trước khi đến Đông Nam Á, nên người Ần
Độ không thể "có gốc gác Đông Nam Á" được như Nguyễn Văn Tuấn đề nghị.
Ần Độ sau đó đã đón nhận rất nhiều luồng thiên di khác, trong đó có cả
chủng da trắng aryen đến từ phía tây bắc. Oppenheimer có đưa ra ý kiến
là một trong những chủng sống ở đông bắc Ần Độ, chủng Munda nói tiếng
thuộc họ Nam Á như người Việt và dân Đông Nam Á lục địa, là di dân Nam Á
đến từ phía đông (là Thái Lan, nơi có vết tích lúa xưa) vào thời tiền
sử, mang theo kĩ thuật trồng lúa.
Oppenheimer
có thể có lí về điểm này, nhưng ông không hề nói dân Ần nói chung có
gốc gác ở Đông Nam Á. Nhóm dân rất cổ tại Ần Độ là Dravidians (hiện còn
người kế thừa ở nam Ần) gần với tổ tiên Phi châu, nhưng cũng đã lai với
các chủng đến sau. Chỉ có thổ dân các hòn đảo đông Ần Độ (Nicobar...)
còn nhiều nét của tổ tiên đến từ Phi châu là cổ hơn cả, vì họ ít gặp di
dân khác để lai giống.
Chúng
ta biết rằng càng gần gốc Phi châu, các di tố càng đa dạng. Genes của
dân Đông Nam Á đa dạng hơn genes những dân phía đông bắc Á châu, nghĩa
là dân Đông Nam Á gần tổ tiên Phi châu hơn Đông Bắc Á. Cần nói thêm là
kết luận của bài Chu & Su (xem sách tham khảo) được rút ra từ kết
quả mới về phân tích genes các giống dân thiểu số tại nam Trung Hoa (kết
hợp với kết quả phân tích genes khác như thổ dân Đài Loan v..v..);
genes "Đông Nam Á" là genes (một) người Kampuchia, còn genes người Việt
Nam không có trong những genes nghiên cứu !. Trung Hoa đã đóng góp nhiều
vào kết quả này qua chương trình "Chinese Human Genome Diversity
Project".
Kết
luận tương tự thật ra đã được Ballinger rút ra ở di truyền học từ 1992
(xem phần sách tham khảo). Ba mươi năm trước, Bình Nguyên Lộc cũng đề
nghị là người cổ Việt Nam (ông gọi là "Mã Lai đợt I, hay Lạc bộ Trãi")
đã từ phía nam tiến lên làm chủ phía bắc Trung Hoa, nhưng sau đó bị
giống dân phía bắc (lai dân Nhục Chi) đẩy lùi trở xuống. Kết quả phân
tích genes của các nhóm Chu/ Su cho biết nói chung dân Đông Nam Á gần
"tổ" Phi châu, nhưng không đủ chi tiết để cho biết những sự lai giống
trước sau nào đã đưa đến các giống dân khác nhau hiện nay. Tất cả các
dân tộc trên thế giới ngày nay đều đã lai "giống" (ít) nhiều dù tất cả
đều cùng gốc tổ Phi Châu, vì người hiện- đại đã không ngừng thiên di từ
lúc sinh ra hơn trăm ngàn năm trước tại Phi Châu.
2- Có phải Người Hoà Bình tràn lan về phía nam (Indonesia ?) , lên hướng bắc (Trung Hoa ?) và sang hướng tây (Thái Lan ?).
Văn
hoá Hòa Bình (với giai đoạn muộn từ 7000 đến 12000 năm trước đây) được
bà Colani, nhà khảo cổ Pháp, khai quật, nghiên cứu và đề xuất ra vào
cuối những năm 1920. Văn hoá này có những đặc trưng về dụng cụ đá cuội
(pebble) ghè trên một hay hai mặt thành chopping tools và về nơi cư dân
sống : hang động đá vôi. Cho đến nay người ta chưa có bằng chứng trực
tiếp về sự nảy sinh nông nghiệp trong văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam, mặc
dù có những bằng chứng gián tiếp, như môi trường, sự khủng hoảng về cách
tìm thức ăn, sự xuất hiện của rìu đá mài. Danh từ "Hoà Bình" ngày nay
được các nhà khảo cổ thế giới dùng trong khái niệm techno-complex (phức
hợp kĩ thuật) để chỉ những di tích khảo cổ loại này. Nhiều hang động có
di tích người tìm thấy ở Thái Lan qua những thập niên gần đây được xếp
vào techno-complex loại Hoà Bình. Khi nghiên cứu phấn hoa trong tàng đất
khảo cổ ở nhiều hang, đặc biệt trong Spirit Cave tại Thái Lan, người ta
nghĩ là chủ nhân chúng đã bắt đầu trồng một số cây như trầu cau, bầu
bí.vào giai đoạn cuối của thời săn bắt-hái lượm. Theo thói quen trong
ngành, người ta dùng tên của nơi mà đặc trưng về di tích khảo cổ được
tìm thấy lần đầu -Hoà Bình- để chỉ di tích có đặc trưng đó tìm được sau
này, ngay cả khi chúng được tìm ra trong vùng khác. "Người Hoà Bình" là
những người thuộc văn hoá đặc trưng tiền đá mới (pre-neolithic) này. Tôi
nghĩ không phải dụng cụ đá tìm được ở Úc Châu là từ Hoà Bình mà ra, vì
tuổi di tích Úc già hơn, bởi niên đại sớm nhất của văn hoá Hoà Bình,
theo khảo cổ học Việt Nam, là 18 ngàn năm trước (với rất ít di tích
trong khoảng thời gian từ đó đến 12 ngàn năm trước). Người sống ở Hoà
Bình khó lòng vượt mấy ngàn cây số để đến Úc từ 14 000 đến 20 000 năm
trước. Theo tôi, chữ "người Hoà Bình" dùng cho các di tích ở nơi khác
không có nghiã là người ở Hoà Bình -Bắc Việt- vào thời điểm đó (7 000
đến 12 000 năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan,
Indonesia, Úc, Trung Hoa.
Về
văn hoá Hoà Bình, các nhà khảo cổ Việt Nam đã đóng góp rất nhiều qua
các công trình nghiên cứu quan trọng được công bố, thiết tưởng không cần
nói thêm. Độc giả nào muốn biết thêm về việc có một hay nhiều văn hoá
Hoà Bình, văn hoá hay phức hợp kĩ thuật, có thể xem "Theo dấu các nền
văn hoá cổ" của giáo sư Hà văn Tấn.
3- Kĩ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông sơn có trình độ cao nhất nhì thế giới ?
Trình
độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn ( 700 năm trước công nguyên đến sau
công nguyên) quả rất cao, nhưng không thể nói là cao hơn trình độ thợ
các nơi khác, trong các nền văn minh có lâu trước Đông Sơn. Điển hình là
nền văn minh Sanxingdui nói trên, xưa hơn Đông Sơn đến mấy ngàn năm.
Nền văn minh bắc Trung Hoa thời Thương (thiên kỷ thứ hai trước công
nguyên) đã làm ra hàng loạt đỉnh đồng to như trống Đông Sơn với nhiều
khắc chạm độc đáo. Còn đồ đồng tìm thấy ở Thái Lan tuy không to bằng
nhưng xưa hơn Đông Sơn khá nhiều (một ngàn năm ) và cũng có sắc thái
riêng. Đó là không kể đến những đồ đồng làm tại các đô thị văn minh cổ ở
Irak, vùng Cận Đông, Ai cập sớm hơn đồ đồng Đông Sơn rất nhiều. Đồ đồng
Đông Sơn có mặt trễ hơn đồ đồng của rất nhiều nơi khác, tôi tự hỏi biết
đâu cư dân Đông Sơn cũng đã có dịp học hỏi thêm kĩ thuật đến từ những
nơi gần Việt Nam. Kết quả khảo cổ cho thấy cư dân Phùng Nguyên chỉ mới
bắt đầu luyện đồng mà chưa biết đúc vật dụng. Đến thời Đồng Đậu trên
dưới 3000 năm trước đây, đột nhiên cư dân sống ở đấy đúc được nhiều đồ
kĩ thuật cao như lưỡi giáo, mũi tên. Phải chăng có một (hay nhiều?) thời
kì cư dân bản địa được dịp tiếp xúc, gặp gỡ các kĩ thuật khác qua những
sứ giả, thương khách? Hay một lí do khác? (Tôi sẽ trở lại về thay đổi
này ở phần sau) Nghĩa là thợ Đông Sơn vào khoảng 2500 năm trước đã chứng
minh khả năng sáng tạo kĩ thuật và mĩ thuật, khi làm được một số lượng
lớn trống to giá trị cao, dùng trong lãnh vực thương mại, ngoại giao
khắp cõi Đông Nam Á, nhưng khả năng nội tại này không loại trừ việc kết
hợp và ứng dụng các đặc tính nhân bản là hiếu học, óc tò mò, ý muốn cách
tân.
4- "Đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á đến tận Melanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ần Độ" ?.
Tôi
e rằng có nhầm lẫn về điểu này: Việt Nam cổ xuất khẩu trống đồng chứ
không xuất khẩu đồ gốm. Đồ gốm thời Phùng Nguyên, trước Đông Sơn, có hoa
văn độc đáo, sau đó được dùng trang trí đồ đồng Đông Sơn.
Gốm
Đông Nam Á nổi tiếng thế giới là gốm Lapita xưa 3500 năm, tìm được ở
nhiều đảo vùng nam Thái Bình Dương. Gốm Lapita nổi tiếng không phải chỉ
vì đẹp, mà còn vì dính dáng đến nguồn gốc các thuyết thiên di của giống
dân nói tiếng Nam Đảo. Đó là thuyết "chuyến tàu nhanh" (express train)
chở dân Nam Đảo đi từ Đài Loan đến khắp vùng biển nam Thái Bình Dương
của Bellwood, và thuyết "hai chuyến tàu, nhanh và chậm" của Oppenheimer.
Cả hai đều không nhắc nhở đến gốm Phùng Nguyên.
Theo
thuyết "chuyến tàu nhanh" của Bellwood, người nói tiếng Nam Đảo từ Đài
Loan dùng thuyền vượt biển đến chiếm lĩnh nhanh chóng chuỗi đảo hoang
trong vùng nam Thái bình Dương, liên tiếp đảo này đến đảo kia trong vòng
vài trăm năm ; họ mang theo đồ đạc, kĩ thuật (làm gốm Lapita), thú
nuôi, cây trồng, vào 3500 năm trước đây. Còn Oppenheimer chủ trương rằng
trước chuyến tàu nhanh này, đã có "chuyến tàu chậm" "chở người tị nạn
hồng thuỷ" (ở thềm Sunda ), từ bắc Borneo đến vùng đảo Nam Thái Bình
Dương nói trên vào 9000 hay 10000 năm trước. Ở mỗi nơi họ ngừng lại một
thời gian, "lai giống" với người bản địa thuộc chủng Australoid, họ sinh
sống và sinh sôi trước khi lên đường tiếp tục đi qua đảo khác.
Đồ
gốm Á Châu nổi tiếng thế giới, gốm Jomon của cổ dân sống ở bắc Nhật, là
gốm sớm nhất thế giới (trên 10 000 năm trước), có nét đẹp riêng biệt,
không thể đến từ Hoà Bình, vì Hoà Bình là văn hoá không có đồ gốm, hay
có rất ít vào thời kì cuối ( Bắc Sơn ). Nhưng người Nhật ngày nay là con
cháu của người thuộc văn hoá Yayoi, không có cùng genes với chủ nhân
gốm Jomon nổi tiếng này, cũng như người Thái hiện tại có gốc ở vùng Vân
Nam chứ không là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân các văn hoá cổ trên năm
ngàn năm (Ban Chiang, Ban Kao.). Chủ nhân văn hoá Yayoi đến Nhật chỉ vài
trăm năm trước công nguyên, mang theo nghề trồng lúa, và có khả năng là
người U Việt di tản khi nước U Việt bị ngườI Hán thôn tính (xem R.
Shiba).
Tôi
cũng không tin rằng hai nền văn hoá Yangshao và Longshan (bắc Trung
Hoa) đến từ Hoà Bình như N. V. T đã viết. Vùng Bắc Trung Hoa hầu như
không có dấu vết văn hoá Hoà Bình trong nghiã "phức hợp kĩ thuật". Thật
vậy, nền văn hoá Yangshao (5000 năm trước) nổi tiếng với gốm vẽ hình màu
đen trên nền gốm đỏ là văn hóa gốc của tộc Hán ở Thiểm Tây (bắc Trung
Hoa) vốn là những người trồng kê, sống trong nhà thấp đào sâu dưới đất,
và văn hoá Longshan (tỉnh Sơn Đông) nổi tiếng về đồ gốm rất mỏng, màu
đen bóng (đưa đến nền văn hoá triều Thương), là những văn hoá đặc thù,
hoàn toàn khác với văn hoá sống trong nhà sàn, trồng lúa nước, ở Bắc
Việt.
5- "Quê hương của kĩ thuật trồng lúa là ở quanh vùng Đông Nam Á" ?
Ngay ông Oppenheimer cũng
không dám khẳng định như thế. Khi nói về vết tích hạt lúa theo ông cổ
nhất thế giới ở Thái Lan, Oppenheimer hai lần nhấn mạnh "nếu phần định
tuổi này được xác nhận là đúng". Thật vậy, nhà khảo cổ Thái Pookajorn,
người khám phá ra dấu vết lúa cổ trong gốm thời đồ đá mới, đã định tuổi
theo loại hình di vật tìm được trong các hang Sakai, Ban Kao...vào giai
đoạn nối tiếp văn hoá loại Hoà Bình (tìm thấy trong lớp đất bên dưới),
là khoảng 9260 - 7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di
tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thì thấy "trẻ" hơn
nhiều so với tuổi định ban đầu.
Ngoài
ra, so với Thái Lan, số chỗ có di tích lúa tìm thấy dọc theo nam sông
Dương tử không những nhiều hơn, mà còn rất xưa hơn. Vết tích bữa cơm
tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, -13 000 năm,
được một nhóm khảo cổ Mỹ -Trung hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan
phía nam sông Dương tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này
đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp
theo đó. Điều này đã được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn
phytolith của lúa ( phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất
silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được
đăng trên báo khoa học hàng đầu thế giới Science, năm 1998. Các nhà khoa
học nghiên cứu về phytoliths- thạch thể lúa - này đã chứng minh rằng từ
9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa
hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất
trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm
đã đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương tử. Di tích xưa thứ
hai, chín ngàn năm trước (9000), là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam
sông Dương tử (Trường giang). Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng
ngàn năm đã được tìm thấy ở vùng nam Trường giang. Gần cửa biển nam
Trường giang, di tích văn hoá Hemudu cho thấy văn minh lúa nước trong
vùng lên đến trình độ rất cao vào 7000 năm trước (sớm hơn cả di tích
làng trồng kê Banpo xưa nhất của tộc Hán phương bắc).
Hemudu
là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa
sông Tiền Đường. Dân Hemudu đã trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu
dày 25- 50 cm (còn dính một số hạt lúa), có nơi dày đến cả thước, trên
diện tích 400 thước vuông. Có thể đó là lớp "rác" để lại trên sân đập
lúa. Di chỉ thực vật (củ ấu, củ năng, táo.) và di cốt động vật hoang
(hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu...) cho thấy khí hậu vùng nam
sông Dương tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc
canh tác lúa nước.
Nền
văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm (7000) có nhiều điểm gần gũi với văn
hoá Phùng Nguyên- Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ/trễ hơn nhiều (sau
hơn 3000 năm). Cư dân vùng nam Trường giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân
Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt
đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ
giống người thuộc chủng nam Mongolic, tức là chủng của người Việt Nam từ
thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước
khác đã sinh ra dọc Trường giang khoảng 4000 năm trước (Liangzhu,
Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze.).
6-Tổ tiên chúng ta đã phát triển và ứng dụng kĩ thuật trồng lúa, hay tổ tiên chúng ta là thầy dạy người Hán trồng lúa nước?
Theo
tôi, diều này đúng. nếu ta chấp nhận rằng cư dân trồng lúa sống ở phía
nam Trường giang(thuộc nhóm Bách Việt, theo sử Tàu ) là tổ tiên của dân
Việt Đông Sơn hoặc là anh em ruột với tổ tiên người Việt Đông Sơn, mà vì
lí do nào đó tổ tiên này đã rời vùng nam Trường Giang về trụ tại Đông
Sơn. Vì người Hán đã học được nghề trồng lúa với dân nam Trường giang
(Nam Trung Hoa) trước khi tiếp xúc thẳng với người Việt cổ ở Đông Sơn
vào những năm trước công nguyên. Và các kết quả về di truyền lẫn hình
dáng sọ cho thấy là các bộ tộc Nam Trường giang khác với chủng gốc bắc
Trung Hoa. Trong các dân đã "dạy" người Hán trồng lúa, phải kể đến dân U
Việt . Mà dân U Việt vùng Cối Kê lại là con cháu của cư dân trồng lúa
lâu đời tại Hemudu.
Ngoài
ra, tuy người Việt Đông Sơn đã biết trồng lúa, nhưng di tích lúa tìm
được ở Việt Nam không xưa như di tích lúa ở Thái Lan, và không thể nào
xưa hơn di tích lúa vùng nam Trường giang. Di tích xưa nhất là những hạt
gạo cháy thành than tìm thấy trong văn hoá Đồng Đậu ở châu thổ sông
Hồng, nằm trong trấu trộn với đất làm đồ gốm, không quá 3500 năm trước.
Do đó, tôi xem vùng nam Trường Giang mới thật là quê hương đầu tiên của
lúa, không như Oppenheimer, ông xem Thái Lan là quê hương của lúa nhưng
Oppenheimer (xin lập lại lần nữa ) cũng lưu ý là thời điểm có lúa cổ ở
Thái Lan cần được xác quyết.
7- "Trước khi tiếp xúc với người Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là cao nhất Đông Nam Á "?
Thế
nào là văn hoá "cao nhất" Đông Nam Á, và Đông Nam Á nào, có kể luôn
vùng đất rộng lớn Sundaland bị biển dâng làm chìm ngập không ?
Ta
có thể nói văn hoá Việt Nam vào thiên kỷ một trước công nguyên có bản
sắc riêng, không "thua kém" ai, và được lưu truyền từ cư dân cổ hơn sống
trong cùng vùng, chứ không phải ngoại nhập. Điều này đã được các nhà
khảo cổ Việt Nam chứng minh rõ ràng qua tính liên tục của các nền văn
hoá nối tiếp nhau trên vùng Bắc Việt.
Nếu
tính rằng Việt Nam có "bốn ngàn năm văn hiến" với truyền thuyết các vua
Hùng ở Bắc Việt thì có thể xem giai đoạn Văn Lang tương ứng với nhiều
nền văn hoá liên tục từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn. Văn hoá Đông Sơn cũng
là nền văn hoá độc lập cuối cùng trước khi ngườI Hán chiếm Bắc Việt Nam
và đô hộ một ngàn năm. Văn hoá Đông Sơn tuy nổi tiếng về trống đồng to
đẹp, từng được mua bán trao đổi đến tận Mã Lai, Indonesia, nhưng lại là
một văn hoá nằm trong thời kì đồ sắt, tức là thời nằm sau thời đồng thau
trong quá trình tiến triển văn minh các nơi trên thế giới theo thứ tự
trước sau là : đồ đá cũ, đồ đá mới (đá mài), đồ đồng thau, đồ sắt. Nghĩa
là cư dân ấy vẫn còn quá "lưu luyến" đến đồ đồng thau (vì tuy đã biết
nhưng không chú ý nhiều đến đồ sắt ?! ). Đồ sắt có những điểm trội hơn
đồ đồng trên phương diện kinh tế và quân sự : sắt cứng chắc, kiếm sắt
chặt gãy kiếm đồng, và tên sắt xuyên qua áo giáp đồng. Thời Đông Sơn quả
có sản xuất nhiều đồ đồng thau chạm trổ tinh vi : vũ khí (dao găm, qua,
giáp che ngực, lưỡi lao...) và cả lưỡi rìu, lưỡi cày (tuy lưỡi cày sắt
đã xuất hiện). Người Hán chính nhờ phát triển mạnh kĩ thuật đồ sắt vào
thời Chiến Quốc nên đã thắng các nhóm dân giáp ranh phía nam còn mãi bám
vào đồ đồng thau, như nước U Việt ba trăm năm trước công nguyên. Các di
tích quân Tần ( ở Xi'an) cho thấy họ mang khí giới và giáp sắt. Người
Hán tiếp tục thanh toán các nước Mân Việt, Ấu Việt, rồi... diệt luôn Ấu
Lạc thời Đông Sơn ! Hay nói cách khác, nếu văn hóa ta xưa kia "cao
nhất", mà lại bị Hán đô hộ, ấy bởi ta "thua" họ về sức mạnh, kĩ thuật,
kinh nghiệm chinh chiến; nghĩa là ta không xem kĩ thuật, quân sự như một
thành tố của một nền văn hóa !
8- "Đô thị cổ xưa nhất trong vùng là do tiền nhân chúng ta xây dựng" ?
Đô
thị cổ xưa nhất trong vùng? Tuỳ theo vùng xem xét có bao gồm... cả nam
Trung Hoa hay Ần Độ không. Thành Cổ Loa xưa nhất Việt Nam xây vào thời
An Dương Vương, hơn hai trăm năm trước công nguyên. Về kiến trúc hiện
nay không còn gì nhiều. Theo truyền thuyết, thành xây hình trôn ốc, gồm 9
vòng, có hào nước thông với sông Hoàng Giang nối với sông Cầu và sông
Hồng. Hiện nay chỉ còn những đoạn lẻ của ba vòng thành đất, với vòng lớn
nhất chu vi 9 km.
Trong
khi đó, phía bắc vùng đất Loa thành là Trung Hoa, nước lớn nhất thế
giới vào thời đó. Vua Trung Hoa, Tần Thuỷ Hoàng Đế thu phục được nhiều
thành trì bằng đá (còn dấu vết đến ngày nay) khi đánh bại những nước
vùng bắc và trung nước Tàu. Tần Thuỷ Hoàng còn cho xây Vạn Lý Trường
Thành ngăn dân phía bắc xâm lấn. Xưa hơn nữa, một ngàn năm trước đó, nhà
Thương, nhà Ấn xây thành bảo vệ các thủ đô vùng bắc Trung Hoa, và ở nam
sông Dương tử nền văn minh Sanxingdui cũng có thành trì rất xưa ở Tứ
Xuyên, đến ngày nay vẫn còn. Đó là chưa kể đến Persepolis, thủ đô cổ
3600 năm ở Ba Tư (Iran), với thành quách bằng đá còn rất nhiều hình phù
điêu cũng như tài liệu viết bằng ba thứ tiếng khắc trên đất nung. Cũng
như các thành phố tối cổ có tường gạch dày với nhà hai tầng có cả phòng
tắm và hệ thống cống thoát nước, ở vùng Ần hà (Mohenjo Daro và Harappa,
Pakistan), tất cả đều trong Á châu.
Cổ
Loa là một công trình lớn đối với dân Đông Sơn, nhưng không so sánh
được với Trung Hoa và Sanxingdui thời trước đó. Theo Oppenheimer có thể
cũng đã có thành quách xây trên thềm Sunda hay thềm Nam Hải nhưng chưa
ai nghiên cứu được vì ngày nay các thềm này nằm dưới biển. Ông có đưa ra
hình chụp những tảng đá to hình bậc thang nằm dưới đáy biển phía đông
Đài Loan, nhưng lại nói các nhà khoa học chưa đồng ý với nhau là đá đó
do thiên nhiên bào mòn hay nhân tạo.
Như
vậy, "cổ nhất vùng" hay không, Cổ Loa là di tích (duy nhất) cho thấy ở
Bắc Việt đã có một tập hợp dân đủ mạnh và đủ tài nguyên, năng lực để xây
một thành trì lớn. Số lượng lớn các mũi tên đồng nhiều kiểu tìm thấy
trong thành Cổ Loa là bằng chứng thủ lãnh cư dân tại đấy đã tổ chức quân
đội bảo vệ thành. Thế nhưng Triệu Đà đã chiếm Loa thành và lên làm vua
nước Nam Việt. Mà Triệu Đà chỉ là viên tướng nhỏ nhiều tham vọng của Tần
Thuỷ Hoàng trong đạo quân mở bờ cõi phía nam Trung Hoa. Nhân dịp Tần
Thuỷ Hoàng chết và tướng Nhâm Ngao cầm đầu đạo quân này cũng không còn
nữa, Đà xưng vương ở Phiên Ngung, tức thị trấn Quảng Đông (Canton) bây
giờ. Truyền thuyết nói rằng Triệu Đà dùng mưu phá nỏ thần giữ Loa thành
nên chiếm được Ấu Lạc. Tiếc rằng nay không còn bằng chứng gì về nỏ thần
Loa thành, dù có nhiều cơ bẩm nỏ đã được tìm thấy. Các cơ bẩm này tương
tự như cơ bẩm nỏ cá nhân quân Trung Hoa sử dụng dưới thời Tần Thủy
Hoàng, không phải là thứ nỏ có thể diệt hàng loạt địch quân như truyền
thuyết để lại. Vũ khí Trung Hoa có khả năng tiến bộ hơn Đông Sơn vì
người Trung Hoa đánh lẫn nhau liên miên trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc
(gần trọn thiên kỷ I BC) trên một bình diện rộng lớn. Trong lúc đó, sự
tranh chấp quyền lực bằng vũ khí nếu có tại Bắc Việt chỉ có thể xảy ra ở
qui mô nhỏ hơn (mức độ bộ lạc hơn là một quốc gia). Có lẽ vì vậy mà vũ
khí thời Đông Sơn được chạm trỗ kĩ lưỡng, như đồ dùng trong nghi lễ hơn
là khí giới giết người trong các trận chiến. Lại thêm một chi tiết về
"sức mạnh kĩ thuật" (hơn Việt) của tộc Hán !
Những
điểm nêu trên không nhằm mục đích "hạ uy tín" của tổ tiên dân Việt, chủ
nhân các văn hoá từ Hoà Bình đến Đông Sơn. Một vùng nhỏ, ít dân như Bắc
Việt không thể so sánh được với các nhóm dân quá đông đúc sống trên một
vùng rộng lớn như Trung Hoa. So với cư dân khác tại Đông Nam Á, ngoài
trừ kĩ thuật làm trống đồng, văn minh Đông Sơn có lẽ cũng không cao hơn
nhiều. Dĩ nhiên về mặt chính trị, Trung Hoa với số dân và chủng tộc quá
đông đảo, phải tìm mọi cách để tránh những nổi dậy, yêu sách sắc tộc
và/hoặc để cổ động, biện minh cho chủ trương bành trướng, cũng như Việt
Nam, để giữ đoàn kết dân tộc, tự vệ trước người láng giềng quá lớn và
nhiều tham vọng. Một trong những phương tiện là ra sức chứng minh, khẳng
định sự lâu đời và liên tục đồng nhất hoặc hơn trội về cội nguồn văn
hoá, chủng tộc của mình.
Nhưng
quả là liều mạng khi xem "Đông Nam Á là một trung tâm văn hoá lớn ngay
từ thời cổ đại, trong đó Việt Nam là nơi hội tụ ở mức độ đầy đủ nhất mọi
đặc trưng của văn hoá khu vực", như một học giả trong nước đã viết
(theo Tạ Chí Đại Trường, xem phần sách tham khảo) mà không đưa ra lí
luận cũng như bằng chứng thuyết phục.
Nhìn lại nguồn gốc dân Việt
Khi
xét về nguồn gốc dân Việt, chúng ta cần tổng hợp các nguồn tài liệu
khác nhau, trong đó có khối lượng đồ sộ về khảo cổ tích tụ từ thời Pháp
thuộc. Các nhà khảo cổ Việt Nam hiện đại đã đóng góp phần rất quan trọng
trong việc khai quật, sắp xếp, phân tích các di tích văn hoá cổ trên
đất Việt Nam. Tuy nhiên di truyền học (có lẽ vì quá mới mẻ ? và nhiều
tốn kém ?) gần như vắng mặt trong những nghiên cứu này. Di truyền học là
một ngành không thể thiếu trong việc nghiên cứu gốc gác chủng tộc. Thật
vậy, văn hoá có thể vay mượn, và ngôn ngữ phần lớn tuy có liên hệ với
nguồn gốc, nhưng những dây liên hệ rất phức tạp; khi có sự hợp chủng,
ngôn ngữ không những chịu ảnh hưởng của sự lai giống, mà còn tuỳ vào
những yếu tố như sức mạnh tương đối các giống dân, số đông và khả năng
chuyên chở rõ ý tưởng.
Trong
tình trạng thiếu hiếm dữ kiện di truyền học về dân Việt các miền và về
những sắc tộc có liên hệ gốc gác với người Việt như Tày, Mường, Ba-Na,
Gia-Rai..., "Địa đàng ở phương Đông" là một nguồn tư liệu rất quý. Tính
chất cổ xưa của di tố các dân tộc toàn vùng Đông Nam Á do Oppenheimer
nêu ra, kết hợp với kết quả nghiên cứu sọ cổ, đưa đến kết luận là "người
hiện- đại" đến từ Phi châu đã sống trong vùng Đông Nam Á từ sáu mươi
ngàn năm trước cho đến thời đá mới (khoảng 8 ngàn năm trước). Họ là
người thuộc chủng Australoid- Melanesian cổ. Tuy có những thay đổi đặc
điểm nhân chủng theo khí hậu và môi trường (qua sự lựa chọn, đột biến tự
nhiên của genes), cư dân trên đất Việt trước thời đá mới (thuộc các văn
hoá Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn) là những người thuộc chủng nói trên,
cũng như các nhóm dân khác sống trong cùng vùng lúc ấy và cùng khí hậu
(ở Ần độ, Miến Điện -Myanmar-, Thái Lan, Cao Miên -Kampuchia-....). Họ
có đại diện cùng chủng ở New Guinea, nơi cư dân cổ sống trong những vùng
hẻo lánh, ít tiếp xúc với các chủng khác. Họ có đặc điểm như mũi to,
tóc quăn, mặt rộng, cung mày rộng, vùng chân răng (prognath ) vẩu, đầu
to dài, da ngâm đen.
Xuất
phát từ cùng một nhóm người với cùng ngôn ngữ gốc Austric, nhưng sống
trên một vùng quá lớn, những nhóm cư dân Australoid này tất nhiên có
những ngôn ngữ khác nhau. Từ tiếng nói chung lúc đầu, hai nhóm tiếng
chính thành hình: nhóm nói tiếng Nam Đảo (austronesian, như tiếng
Indonesia và thổ ngữ các đảo Thái Bình Dương), và tiếng Nam Á
(austroasiatic) là tiếng nói của người Việt Nam, Munda, Khmer, Môn và
một số thổ dân Thái Lan, Mã Lai. Phương pháp ngôn ngữ tỉ hiệu không chỉ
xét những tiếng giống nhau trong những ngôn ngữ, mà còn xét giọng nói,
cấu trúc và thứ tự từ ngữ trong câu. Bởi thế mà tiếng Việt được xếp vào
nhóm tiếng Nam Á. Tiếng Nam Á là tiếng đơn lập (mà đơn vị cơ bản là một
âm tiết có nghĩa) không "dấu" (atonal, như tiếng Khmer), nhưng do ảnh
hưởng tiếng Tàu, tiếng Việt trở thành có "dấu" (tonal).
Benedict,
và sau này Blust, Oppenheimer đều đồng ý rằng tiếng Austric cũng là
ngôn ngữ gốc của nhóm thứ ba, là nhóm nói tiếng Thái-Kadai, trước đây
sống miền cực Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa, về sau họ di cư một phần
xuống Lào và Thái Lan. Thật ra tiếng Việt Nam, tuy được xếp vào nhánh
Nam Á, lại có nhiều từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo, và rất nhiều từ Hán Việt.
Từ Hán chỉ thâm nhập vào Việt Nam kể từ thời Hán Vũ Đế về sau. Trái lại
các từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo có gốc trước đó. Bình Nguyên Lộc phân
tích kĩ về tiếng Việt dân gian gốc "Mã Lai". Tiếng "Mã Lai" cổ của ông
bao gồm tiếng nói thuộc hai nhánh chính Nam Á và Nam Đảo mà ông gọi là
"Mã Lai đợt I" và "Mã Lai đợt II".
Vấn
đề cần giải thích là cách nào tiếng Nam Đảo đã ảnh hưởng nhiều đến
tiếng nói người Việt cổ (Nam Á). Những từ ngữ "Nam Đảo" trong tiếng Việt
có thể do vay mượn, hoặc do quan hệ gốc gác (di truyền).
Vay
mượn xảy ra khi hai nhóm dân sống chung đụng trong một thời gian. Nhưng
dân Việt chỉ sống chung đụng nhiều với dân Chàm nói tiếng Nam Đảo từ
khoảng ngàn năm nay, khi nước Việt bành trướng xuống phương nam. Nước
Lâm Ầp nói tiếng Chàm (sau trở thành Chiêm Thành) được sử Tàu nói đến
ngay từ đầu công nguyên như nước giáp ranh với nước Việt, lúc đó là quận
Giao Chỉ của Tàu. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh (và tiền Sa Huỳnh) nói tiếng
Nam Đảo có mặt từ lâu trước công nguyên trên bờ biển miền Trung Việt Nam
hẳn đã là một trong những văn hoá gốc của những vương quốc Chàm này.
Văn
hóa Sa Huỳnh là một văn hoá rực rỡ của dân nói tiếng Nam Đảo vào thiên
kỷ thứ nhất trước công nguyên, với những đồ sắt tiến bộ trước cả văn
minh Đông Sơn, với nhiều đồ trang sức đẹp đặc biệt bằng đá và bằng thuỷ
tinh (bông tai bốn hoặc ba mấu, bông tai tạc hình đầu thú ở hai đầu,
chuỗi đeo...), và tục táng người trong mộ vò. Căn cứ vào số lượng và kĩ
thuật làm đồ thuỷ tinh, tôi cho là cư dân Sa Huỳnh đã làm ra thuỷ tinh
đầu tiên trong vùng Đông Nam Á (không nơi nào khác có di tích thuỷ tinh
vào cùng thời); và có kĩ thuật cao đến độ chế được đồ trang sức khá cầu
kì : ngoài hạt chuỗi các loại, người ta tìm được một khuyên tai hai đầu
thú bằng thủy tinh đang làm dở dang. Như vậy Sa Huỳnh không kém vùng Cận
Đông, là nơi làm thủy tinh sớm nhất thế giới, vào thế kỷ 7 trước công
nguyên. Trung Hoa mãi đến sau công nguyên mới bắt đầu sản xuất đồ thuỷ
tinh, còn trước đó họ nhập từ nơi khác. Sách cổ Trung Hoa cho biết con
cháu cư dân Sa Huỳnh, người nước Lâm Ầp, làm được bát thuỷ tinh, là đồ
quý, đem cống vua Trung Hoa ở những thế kỷ đầu công nguyên. Việc dân Sa
Huỳnh khám phá ra thủy tinh sớm xem ra hợp lý về mặt khoa học. Muốn có
thủy tinh phải có cát mịn (silica) trộn vỏ sò nát (calcium carbonate),
là những món có sẵn ngay trên bờ biển họ sống. Khi luyện sắt gần bờ
biển, rất có thể cư dân địa phương tình cờ tạo ra trong lò những mảng
thủy tinh sáng bóng, và từ đó phát minh việc chế đồ trang sức bằng vật
liệu nhân tạo này.
Ngành
khảo cổ chứng minh cư dân Sa Huỳnh đã buôn bán trao đổi với những dân
Nam Đảo khác, như thổ dân Phi Luật Tân-Philippins-, Mã Lai-Malaysia-,
Nam Dương - Indonesia -. Người cổ Sa Huỳnh bán đồ sắt, đồ gốm, đồ trang
sức., và có mua trống đồng.từ Đông Sơn ! Ngành khảo cổ thế giới xem văn
hoá Sa huỳnh quan trọng không kém văn hoá Đông Sơn. Từ sự có mặt của di
vật văn hóa này ở vùng bờ biển hay hải đảo khác nhưng không có dấu vết
chế tạo tại chỗ, ngườI ta suy ra là có sự buôn bán trao đổi. Theo
Solheim, gốm Sa Huỳnh có liên hệ với gốm Kalanay của dân Phi Luật Tân
cổ. Solheim đưa ra thuyết "mạng buôn bán trao đổi Nusantao" của dân Nam
Đảo trên khắp biển Thái Bình Dương mấy ngàn năm trước công nguyên. Dù cư
dân Sa Huỳnh sau đó chịu ảnh hưởng nặng của văn hoá Ần Độ, nhưng tiếng
nói Nam Đảo vẫn còn tồn tại lâu sau đó trong dân Lâm Ầp và Chàm, cho.đến
khi họ bị dân Việt đồng hoá dần vào thiên kỷ II sau công nguyên. Một số
cư dân cổ này đã lên trên cao nguyên miền Trung, là tổ tiên những thổ
dân nói tiếng Nam Đảo còn sống đến ngày nay như người Gia-Rai, Rha- đê.
Những bộ lạc khác trên cao nguyên (cùng gọi là "Thượng" như các bộ lạc
Nam Đảo) lại nói tiếng Nam Á, và có tổ tiên sống từ lâu ở vùng núi đồi
khắp vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên các bộ lạc nói tiếng Nam Á này cũng biết
luyện sắt từ đất quặng để chế thành dụng cụ như người tiền sử Sa Huỳnh;
chắc rằng họ học kĩ thuật làm đồ sắt qua các bộ lạc Nam Đảo gốc gác văn
hoá Sa Huỳnh.
Ngoài
tiếng nói, người Việt còn chịu nhiều ảnh hưởng khác của văn hoá Nam
Đảo. Yếu tố Nam Đảo trong phong tục người Việt gồm tục xâm mình, ăn
trầu, việc trồng, ăn khoai từ, khoai môn, và gồm cả những chuyện cổ tích
gốc Nam Đảo như chuyện Sơn Tinh, Trầu Cau... Theo Hà văn Tấn, văn hoá
Sa Huỳnh có gốc ở văn hoá Bàu Tró (từ Nghệ An đến Thừa Thiên), và chủ
nhân văn hoá Bàu Tró có thể là của "người Nam Đảo". Vậy người Nam Đảo từ
đâu đến, và gốc gác thế nào?
■
Áp
dụng lập luận Oppenheimer (về sự thiên di của dân sống trên thềm lục ra
đi khi biển dâng) vào việc phân tích dữ kiện khảo cổ Việt Nam và Đông
Nam Á, tôi xin phác họa hình thành của người cổ Bắc Việt Nam như sau.
Người
cổ thiên di từ Phi châu về phía Đông Nam Á. Đến khi gặp biển Đông (Nam
hải, nói theo Tàu) ngăn chận, họ phải theo hai hướng. Về phía bắc, họ
đến sống vùng nam Trung Hoa và dần dần tràn lên Mông Cổ, khi núi băng
tan bớt, càng đi dần về phía bắc. Về phía nam, họ thiên di đến trên thềm
Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía nam đến tận Úc
châu. Tất cả đều là người thuộc chủng Australoid (da đen, tóc quăn, mũi
to...).
Tại
phía bắc Đông Á châu người thuộc chủng Australoid thay đổi dần nhân
dạng sau thời gian dài sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng.
Khoảng
15 ngàn năm trước, chủng Altaic thiên di từ Tây Á, dọc theo mạn phía
đông nam nước Nga đến vùng Tân Cương, lai với thổ dân đông bắc Á Châu
Australoid này, thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc
thẳng). Dân Mông Cổ thuộc chủng này và nói tiếng Altaic. Chủng Bắc
Mongoloid sinh sôi, ngày càng mạnh lên, bành trướng về phía bắc và qua
eo biển Beringia lúc ấy còn đóng băng, trở nên di dân đầu tiên ( thổ dân
Amerindians) của châu Mỹ. Khoảng 5000 năm trước, tổ tiên tộc Hán sống ở
Bắc Trung Hoa là dân trồng kê thuộc chủng Bắc Mongoloid.
Miền
Nam Trung Hoa sau cuối kỳ băng tan có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Cư dân
Australoid cổ có thể đã lai chủng bắc Mongoloid ít nhiều. Dân thuộc
chủng Bắc Mongoloid bành trướng ngày càng mạnh về phía nam, gặp cư dân
Australoid tại giữa đất Trung Hoa, sống đan xen với nhau và lai thành
chủng Nam Mongoloid (da ngâm đen, tóc dợn sóng...), kết quả là càng về
phía bắc và càng về sau, cư dân càng nhiều nét Bắc Mongoloid và càng về
nam dân càng nhiều nét Nam Mongoloid. Chủng lai Nam Mongoloid là chủng
tạo thành người Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, hải đảo Thái
Bình Dương.. Người Nam Mongoloid có những nét của cả hai chủng
Australoid và Mongoloid nhưng với những mức độ đậm nhạt khác nhau tuỳ
theo lai nhiều ít.
Càng
về phía nam Đông Nam Á, nét Australoid càng đậm, vì ảnh hưởng giống
Mongoloid hãy còn mới. Ở vùng đảo Thái Bình Dương, du khách đi từ đầu
tây về phía đông trên những đảo (như ở Indonesia) có thể thấy dễ dàng tỷ
lệ lai Australoid tăng dần. Hiện tượng Australoid lai Mongoloid trên
đất Việt Nam có lẽ không phải do lai thẳng với người Mongoloid chính
cống phương bắc, mà lai qua người nam Trung Hoa, vì người ta không tìm
thấy sọ thuần chủng Bắc Mongoloid nào ở Việt Nam trước thời người tộc
Hán trên phía Bắc đến đô hộ. Trong thời Bắc thuộc, lai với chủng Bắc
Mongoloid đến đô hộ, cư dân bắc Việt tuy có thêm nhiều từ ngữ gốc Hán,
nhưng lại mất đi dần dần một số phong tục như xâm mình và kĩ thuật như
tài lặn dưới nước, đóng thuyền to, đi biển, là những kĩ thuật của thành
phần Nam Đảo. Nước Lâm Ầp (và sau đó là Chiêm Thành) của con cháu người
nói tiếng Nam Đảo nhờ không bị người Hán đô hộ trực tiếp nên vẫn giữ
được phong tục, tiếng nói, và nghề đi biển : Chế Bồng Nga đã đem chiến
thuyền vượt biển đánh phá Thăng Long !
Trên
đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói
cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác
nhau theo vùng họ ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng
tiền-Nam- Á sống phía trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn
hoá Hoà Bình). Nhóm thứ hai nói tiếng tiền- Nam- Đảo sống vùng đồng bằng
ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển
hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục địa lài /thoai thoải. Tại vùng
vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua đến đảo Hải
Nam, đáy vịnh sâu nhất ngày nay không quá 100 mét . Từ bờ ra khơi 20 km,
mực sâu dưới 25 m ! (trong khi ngoài khơi Trung Việt nơi núi ra tận
biển và nhiều mũi, nhiều hòn như mũi Dinh, hòn Trâu, hòn Tre.bờ biển
thật dốc, sụp sâu rất nhanh, không có thềm).
Mười
hai ngàn năm về trước, toàn vùng vịnh Hạ Long là đất liền trải dài về
phía đông đến bên kia đảo Hải Nam và Đài Loan, và về phía bắc lên đến
cửa sông Dương Tử. Nhờ các di tích khảo cổ thuộc văn hoá Soi Nhụ trong
những hang cao trên trên bờ vịnh Quảng Ninh-Hải Phòng hay đảo Cát Bà mà
ngày nay ta biết đã có cư dân sống ít nhất từ 15 ngàn năm trước, trên
thềm lục địa Hạ Long, trước khi mực biển dâng cao. Những di tích khác về
cuôc sống của cư dân sống trên thềm đã bị ngập ở tại đấy (Meacham gọi
là Nanhailand, theo tên Nam Hải, vùng vịnh Bắc Việt), cũng như tại thềm
Sunda, không thể khai quật được. Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc
Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên
người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước !
Văn hoá Hạ Long và các văn hoá tiền Nam Đảo khác sau đó đã góp phần quan
trọng vào sự hình thành văn hoá và con người Việt Nam.
Nhóm
nói tiếng tiền-Nam- Đảo không chỉ sống giới hạn ở vùng thềm lục địa
ngay trên vịnh Hạ Long mà có lẽ sống rải rác về phía bắc trên cùng thềm
lục địa, vì người ta tìm thấy hàng loạt di tích con cháu họ ở vùng
HongKong trên những doi cát giống như cư dân sống dọc biển Bắc và Trung
Việt Nam. Đến khoảng 7 ngàn năm trước, nước đã lên cao hơn gần một trăm
mét so với mức 12 ngàn năm trước. Cư dân ở đấy phải dời đi nơi khác,
mang theo kĩ thuật, phong tục, tiếng nói, và . các di tố. Việc đi lại
trên thềm lục địa từ nam Trường giang đến vịnh Hạ Long dễ dàng hơn trong
đất liền vì không có trở ngại thiên nhiên (độ cao trung bình dưới 50
thước). Lúc nước lên cao nhất, khoảng 3 đến 5 m trên mức nước biển ngày
nay, vào 4000 năm trước, các thềm lục địa đã nằm sâu dưới biển.
Như
vậy trong suốt mấy ngàn năm, dân sống trên thềm lục địa đã phải dần dà,
lần lượt di cư hoặc tìm cách lánh biển tiến. Theo Oppenheimer, có người
lùi dần vào phía đất cao trong lục địa, có người đóng tàu đi biển,
người ở lại thì phải cất nhà sàn. Có thể một số nhỏ đã vượt biển, nhưng
số đông chọn giải pháp đơn giản đối với họ là tiến vào chỗ đất liền gần
nhất ; đối với cư dân vịnh Hạ Long, đó là vùng bờ biển Nam Bắc phần và
Bắc Trung phần Việt Nam. Chủ nhân các văn hoá ven biển như Đa Bút, Quỳnh
Văn, Bàu Tró, và cả Bàu Dủ, Sa Huỳnh do đó đều là những người Nam Đảo
tị nạn biển tiến. Riêng dân sống trên thềm lục địa biển vùng đông nam
Trung Hoa, một số lùi vào phía HongKong trong lục địa, một số lên chỗ
cao bên ngoài là đảo Đài Loan. Di tích xưa ở bắc Đài Loan Dapengeng có
gốm hoa văn thừng và hoa văn chải bằng "lược", cùng loại với nhiều di
tích trên bờ biển Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, và cư dân nơi ấy cũng
ăn sò nhiều, cũng dùng chày đập vỏ cây. Ngưòi sống trên lục địa này sau
đó bị Hán hoá. Xem qua di tích khảo cổ, tại Đài Loan ngoài các di tích,
thổ dân trên núi còn giữ tiếng Nam Đảo và một số phong tục đến bây giờ
(thí dụ ăn trầu). Những di tích nầy được Trung Hoa xem như di tích của
người "Yue" (Việt) cổ.
Ngày
nay các nhà khảo cổ đều đồng ý là cư dân nam Trung Hoa cổ, và thổ dân
chưa bị lai hoàn toàn, không thuộc chủng tộc Hán. Cư dân vùng cực nam
Trung Hoa (Quảng Đông và QuảngTây, Vân Nam, Quế Lâm) và cực bắc Việt Nam
nói những thứ tiếng thuộc nhiều nhánh khác nhau của ngôn ngữ gốc
Austric như Môn, Thái, Kadai, Yao, Miêu., nhưng thổ dân miền núi cao Đài
Loan chỉ nói những tiếng thuộc một nhánh của ngôn ngữ Austric: nhánh
Nam Đảo. Vì những thổ dân trên núi cao ít tiếp xúc với người Hán (đến
trễ và chỉ ở vùng đồng bằng ven biển), nên có thể xem thổ dân này còn
giữ genes nguyên thuỷ, và văn hoá cổ. Mặt khác, dân Đài Loan cổ có nhiều
liên hệ văn hoá thời đá mới (xưa trên 6000 năm) với các văn hoá của cư
dân vùng Phúc Kiến, đảo Quemoy (Kim Môn), Hongkong, Quảng Đông, và Bắc
Việt cổ (qua di vật như gốm hoa văn thừng, rìu tứ giác và rìu có vai mài
nhẵn). Nếu như ta chấp nhận những cư dân cổ này có cùng gốc, thì họ là
người nói tiếng (tiền-) Nam Đảo, như thổ dân Đài Loan, và quê hương của
họ là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vậy thì tại sao
không thể xem vùng thềm biển này, trước khi hồng thuỷ đến, là một trung
tâm văn hoá lớn của dân nói tiếng Nam Đảo ? Đây là một trung tâm văn hoá
Nam Đảo lớn vì đông dân, so với những vùng được xem như trung tâm gốc
của người nói tiếng Nam Đảo theo đề nghị của Solheim (vùng nam
Philippins & bắc Indonesia) hay Oppenheimer (đông bắc Borneo) hoặc
Bellwood (đảo Đài Loan). Thật vậy, những người rời thềm lục địa trải dài
từ vịnh Bắc Việt đến Đài Loan- Hongkong đến tị nạn ở vùng đất không bị
biển ngập gần đấy đã lập nên nhiều nền văn hoá nối tiếp, để lại rất
nhiều di tích khảo cổ thời đá mới trên bờ biển vịnh Hạ Long và vịnh
Hongkong, cũng như trên đảo Đài Loan.
Một
phần cư dân thềm biển nam Trung Hoa (nói tiếng tiền- Nam- Đảo trong
thuyết tôi đưa ra ở đây) hẳn đã di chuyển trên thềm lục địa từ Trung Hoa
đến Bắc Việt để tìm nơi khô ráo. Thật thế, vì núi cao ra đến tận bờ
biền ở rìa lục địa gần Hongkong, nên cư dân trên thềm đi xa hơn về phía
nam, xuống tận Bắc Việt. Di tích khảo cổ tại những vùng này, từ Hongkong
đến Bắc Việt, cho thấy một dụng cụ đặc biệt của văn hóa Nam Đảo. Đó là
chày đập vỏ cây cho mềm để làm khố che thân, chày mà ngày nay dân Đa Đảo
(như Tonga), cũng như dân Toraja sống trên đảo Sulawesi vẫn còn dùng.
Bắt
đầu từ thời đá mới, nghề làm rẫy phát triển với cây có củ (khoai từ,
môn..), và cây ăn trái (bầu, bí, mướp.) khiến số dân nói tiếng Nam Á ở
trong đất liền, và dân nói tiếng Nam Đảo dọc biển Bắc Việt tăng nhanh.
Đất sống bị thu hẹp trong khi dân số tăng lên, đến một lúc nào đó, hai
nhóm dân tràn lan về vùng châu thổ các sông, trồng thêm lúa, nuôi thêm
lợn, và sống định canh đan xen nhau. Sự hợp chủng của hai nhóm dân này
có lẽ đã xảy ra khoảng 4000 năm trước đây. Phải chăng sự gặp gỡ này đưa
đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Ấu Cơ Nam Á,
tiên nữ vùng núi xuống ? Và cuộc gặp gỡ & sống chung có lẽ xảy ra
một cách tương đối hoà bình. Vì đôi bên đều cùng chủng tộc và ngôn ngữ
gốc, và họ có những kinh nghiệm sống bổ túc cho nhau. Dân Nam Đảo đã đem
nghề miền biển : đóng tàu, đi biển, đánh bắt hải sản góp vào cuộc phối
hợp. Dân Nam Á thì đóng góp nghề lục địa trồng trọt (kể cả lúa gạo), bắt
ốc núi, nghề luyện quặng đồng thau.
Cả
hai nhóm đều biết săn bắt - hái lượm và làm đồ gốm (Bắc Sơn cho nhóm
Nam Á, và Quỳnh Văn, Bàu Tró cho nhóm Nam Đảo...) Nhưng họ cũng có các
kĩ thuật đặc trưng riêng. Nhóm Nam Đảo mặc đồ (khố, váy) bằng vỏ cây đập
mềm : các nhà khảo cổ tìm thấy 18 cái chày trong một lần khai quật văn
hoá Phùng Nguyên ở châu thổ sông Hồng. Nhóm Nam Á có lẽ dùng đồ dệt bằng
sợi thảo mộc se bằng dọi ; nhiều dọi đất nung được tìm thấy ở châu thổ
sông Hồng. Đấy là nơi gặp gỡ hai nhóm văn hoá biển- lục địa. Người ta
tìm thấy trong địa bàn văn hóa Phùng Nguyên di tích của cả hai nhóm Nam Á
& Nam Đảo : rìu tứ giác không vai và rìu có vai có nấc, chày đập vỏ
cây và dọi se sợi.
Như vậy Tiên
Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách
Việt (phía Nam Trường giang), và những Viêm Đế hay Thần Nông của huyền
thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt.
Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn, tạo thành môt văn hóa
chung cho cư dân bản địa, như các tượng người trên những đồ vật bằng
đồng toàn vùng Đông Sơn có cùng nét mặt, cùng y phục trang sức. Cũng như
trên đồ đồng, vừa có hoa văn hình kĩ hà tròn- vạch, vừa có hình thuyền
to (chứa nhiều người). Những hình thuyền to khắc trên trống đồng cho
thấy dân Đông Sơn đã thừa hưởng kinh nghiệm đóng thuyền từ người nói
tiếng Nam Đảo. Tất cả các nhà khoa học đều đồng ý là dân nói tiếng Nam
Đảo có kinh nghiệm lâu đời về nghề đóng thuyền và hàng hải vì sống nhờ
nguồn lợi từ biển, và vì đã biết dùng thuyền thiên di khi biển dâng.
Trong khi người Phùng Nguyên sống sâu trong đất liền nên không cần
thuyền to ; cho dù họ có dùng thuyền đi trên sông, hồ, nhưng có lẽ không
coi là quan trọng, vì không thấy hình thuyền lên hoa văn đồ gốm.
Như
nói ở trên cuộc sống chung này tương đối hoà bình vì các di tích khai
quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân "đột nhiên" biết chế tạo vũ khí. Để
tự vệ ? Để giải quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó
đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm
mươi con theo mẹ?.) hoặc đến lúc suy vi sau thời kì sung mãn.
Nhờ
người nói tiếng Nam Đảo mà trống đồng Đông Sơn đã được chở đi khắp Đông
Nam Á bằng đường biển (người ta biết vậynhờ đào được ở Mã Lai một trống
Đông Sơn còn gắn/cột dính vào ván thuyền). Dân cổ trong nhiều vùng ở
Indonesia, đặc biệt là dân Toraja, đến nay còn giữ truyền thống Đông
Sơn, có lẽ là di dân (khá đông, nên gia tài mang theo được lưu truyền)
đi từ Bắc Việt (khi những người con xuống biển theo bên cha ? hoặc/và)
trễ lắm là họ tị nạn lúc Trung Hoa chiếm Việt Nam. Bởi vì hoa văn trên
đồ (trống) đồng Việt sau khi bị Hán chiếm đã bị/có ảnh hưởng mĩ thuật
của người Hán. Trong khi dân Toraja ngày nay vẫn còn làm vật lưu niệm,
đồ trang sức trang trí với hoa văn kĩ hà thuần Đông Sơn, và họ vẫn ở nhà
rông cất đúng theo hình trên trống đồng Đông Sơn. Họ cử hành đám táng
với quan tài hình thuyền kiểu Đông Sơn. Kiều Quang Chẩn gần đây nhắc lại
đề nghị của nhiều học giả Tây Phương về nguồn gốc Đông Sơn của nhóm dân
Dayak sống tại bắc đảo Borneo, cách khá xa dân Toraja ở đảo Sulawesi
trong quần đảo Indonesia. Trong chuyến đi Indonesia khảo cứu về trống
đồng, ông ghi nhận là dân Dayak cũng có nhà rông mái cong, trồng lúa
nước và tục đưa linh hồn người chết bằng thuyền.
Kĩ
thuật làm trống đồng còn được lưu truyền nhiều thế kỷ sau công nguyên
tại Indonesia (trong đó trống nhỏ còn được làm lâu sau đó), mà Hà văn
Tấn gọi là trống bản địa vì hình dáng hoặc trang trí, hoa văn trên nhiều
trống đào được ở Indonesia mang nhiều ảnh hưởng địa phương (cảnh hiện
thực người, ngựa, voi, công.). Kiều Quang Chẩn, cũng như nhiều học giả
Indonesia cho là hầu hết các trống to (loại Heger I) nhập từ Bắc Việt
thời Đông Sơn (kể cả sau khi Bắc thuộc). Chỉ tiếc là ngày nay kĩ thuật
phức tạp dùng để đúc trống (cần thợ giỏi nhiều ngành) mà di dân Đông Sơn
để lại tại Indonesia đã thất truyền, chỉ còn mĩ thuật hoa văn trên đồ
dồng cỡ nhỏ.
Nơi
xa nhất có đồ đồng Đông Sơn là đảo Flores, gần Úc châu. Đồ đồng đó là
một chiếc "thuyền mỹ nghệ" giống kiểu thuyền khắc trên trống đồng Đông
Sơn. Thuyền được dân địa phương xem như di sản tổ tiên họ đem đến bằng
đường biển với câu chuyện kể trong một bài hát chỉ được hát trong những
lễ đặc biệt. Tổ tiên ấy cũng là một số người Việt Đông Sơn (không chịu
nổi ách đô hộ của người Tàu hoặc kháng chiến quân Việt bị Tàu truy nã ?)
lên đường theo lối cũ của bà con vượt biển chạy lụt thuở trước hay vì
óc mạo hiểm, muốn tìm miền đất hứa nào đó ? Có lẽ không bao giờ ta biết
được, vì người Việt Đông Sơn không để lại chữ viết. Ngoài các huyền
thoại, truyền thuyết bằng miệng, không một sự việc, lịch sử, hay câu
chuyện nào ghi lại bằng chữ viết hay hình vẽ trên đá, trên gỗ- giấy,
hoặc khắc trên đất nung, mu rùa. Trong khi đó người ta biết nhiều sự
việc xảy ra thời "tiền sử" ở Trung Hoa, Ai Cập, hay các xứ vùng Cận
Đông, Ần Độ, Trung Hoa, hay của cổ dân Trung Mỹ ngày nay, qua các chữ
hay kí hiệu khắc trên các vật liệu giữ được lâu nói trên là mu rùa, đất
nung, đá.
■
Như
những dân tộc khác, dân Việt đã lai nhiều trong suốt thời tiền sử và
trong thời Hoa thuộc (thời Pháp thuộc quá ngắn nên phần lai rất ít).
Nhưng các di tích về gốc gác trên miền bắc Việt Nam còn rõ rệt, và gốc
này có liên hệ sâu xa với những tộc nói tiếng Nam Á và Nam Đảo. Nói về
chủng tộc theo di truyền học, dân Việt xa xưa có chung cội rễ với người
cổ vùng Hoa Nam và người cổ Đông Nam Á. Tuy nhiên văn hoá Việt Nam biệt
lập và đầu tiên thành hình từ văn hoá bản địa của những tộc nói tiếng
tiền- Nam Á trong lục địa và tiếng tiền-Nam Đảo ở vùng thềm lục địa đông
bắc Bắc Việt. Và vẫn giữ được độc lập quốc gia và bản sắc văn hoá riêng
cho đến nay. Trong khi toàn vùng Nam Trường giang đều bị Hán hoá.
Ảnh
hưởng của văn hoá Nam Đảo trên văn hoá Việt cổ đã được Hà Văn Tấn đề
cập rải rác trong các bài viết tập hợp trong cuốn "Theo dấu các nền văn
hoá cổ". Tôi chỉ căn cứ vào lập luận của Oppenheimer và kết quả mới về
di truyền học Đông Nam Á, để làm rõ nét thêm nguồn gốc dân tộc Việt.
Ai
chẳng hãnh diện về một quá khứ đặc thù tốt đẹp? Nhất là khi quá khứ tốt
đẹp ấy có thể giúp một dân tộc hiện tại nghèo nàn lạc hậu phấn đấu tiến
lên cho khỏi hổ thẹn với tổ tiên. Tự ti hay tự tôn đến từ những nhận
xét chủ quan, dựa vào những chứng cớ và lí luận. Lí luận có thể khác
nhau nhưng chứng cớ khoa học phải được tôn trọng, cho đến khi tiến bộ
khoa học về sau lại phủ nhận sự chính xác hiện tại của chúng. Điều quan
trọng hơn là làm thế nào cho nước Việt, dân Việt hiện nay có thể tiến bộ
để bắt kịp, hay vượt qua, những nước trong cùng vùng. Đó là một thách
đố cho tất cả người Việt Nam ngày nay.
Nguyễn Quang Trọng
Rouen 01/2002
• Diamond JM (1988) Express train to Polynesia. Nature 336:307-308
•
Ballinger SW, Schurr TG, Torroni A, Gan YY, Hodge JA, Hassan K, Chen
K-H, et al Southeast Asian mitochondrial DNA analysis reveals genetic
continuity of ancient Mongoloid migrations. Genetics 130, 139- 152
(1992) Trích bản tóm tắt: Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from 153
independent samples encompassing seven Asian populations were surveyed
for sequence variation. The greatest mtDNA diversity and the highest
frequency of mtDNAs with HpaI/HincII morph 1 were observed in the
Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin of Asians.
• Bellwood P (1991) The Austronesian dispersal and the origin of languages. Sci Am 265:70-75
•
Blust R, Subgrouping, circularity, and extinction: some issues in
Austronesian comparative linguistics, Symp Ser Ins Linguist Acad Sinica,
1, 31 (1999)
•
Capelli C, Wilson JF, Richards M, Stumpf M PH, Gratrix F, Oppenheimer
S, Underhill P, Pascali V, Ko T, Goldstein DB, A Predominantly
Indigenous Paternal Heritage for the Austronesian-Speaking Peoples of
Insular Southeast Asia and Oceania Am. J. Hum. Genet., 68:432-43, 2001.
• Hà văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998)
• Hà văn Tấn, Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1994)
• Higham C, The bronze age of southeast Asia, Cambridge University Press (1996)
•
Khảo cổ học Việt Nam, I Thời đồ đá, và II, Thời đại kim khí Việt Nam,
Hà văn Tấn Ed, Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998)
• Kiều Quang Chẩn, Văn hoá Đông Sơn ở Indonesia- một thoáng nhìn, Thế kỷ 21, tháng 6 năm 2001
• Meacham W, On the improbability of austronesian origins in south China, Asian perspectives, 25 (1), 100 (1985)
• Nguyễn văn Tuấn, Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt, Thế kỷ 21, tháng 12 năm 2001
• Oppenheimer S, Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia, Phoenix, 1999
•
Solheim WGH, Southeast Asia and Korea : from the beginning of food
production to the first states, in History of humanity: scientific and
cultural development, vol. 1 (Prehistory and the beginning of
civilization) Ch. 45, UNESCO/Rouletge, 468-80 (1994)
• The slow birth of Agriculture, trong Special section : Archeology : Transition in prehistory, Science, 282, 1446,(1998)
•Tạ Chí Đại Trường, Tham gia đối thoại sử học, Văn Học, Westminster (USA), tháng 9, 9-33
•
Shiba R., Việt và Nhật, nguyên tác đăng trên Bungei Shunju tháng
2-1990, Vĩnh Sính dịch, Diễn Đàn Forum (Pháp), tháng 1-1993, 24-25
• Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã lai Của Dân Tộc Việt Nam (The Malay origin ofVietnamesepeople),Bách Bộc,Saigon,1971)
• Hemudu, Zhonghua Yuangu Wenhua Zhiguang (Hemudu, light of ancient culture in China), ISBN 7-81035-572-4/K.066 (1998)
•
Su B, Xiao J, Underhill P, Deka R, Zhang W, Akey J, Huang W, Shen D, Lu
D, Luo J, Chu J, Tan J, Shen P, Davis R, Cavalli-Sforza L, Chakraborty
R, Xiong M, Du R, Oefner P, Chen Z, Jin L, Y-chromosome evidence for a
northward migration of modern humans into eastern Asia during the last
Ice Age, Am J Hum Genet, 65, 1718-1724 (1999)
•
Chu J Y, Huang W, Huang SQ, Xu JJ, Chu Z T, Yang Z Q, Lin K Q, Li P, Wu
M, Geng Z C, Tan C C, Du R F, Jin L, Genetic relatioship of populations
in China, Proc Nat Acad Sci USA, 95, 11763 (1998)
■
(Dưới đây là bản đồ và chú thích J)
Bản
đồ vùng Đông Nam Á lục địa, từ Nam Trung Hoa đến Trung Việt Nam. Bờ
biển phía đông (đường liên tục __) được thềm lục địa (độ sâu dưới 100 m,
đường vẽ-) bọc bên ngoài đến tận đảo Đài Loan và Hải Nam. Những mũi tên
chỉ hướng đi của dân nói tiếng Nam Đảo từ ngoài thềm lục địa di tản vào
đất liền dọc bờ biển Bắc Việt khi vùng vịnh Hạ Long bị biển ngập.
Địa điểm di tích các văn hóa:
1-
Soi Nhụ; 2- Hạ Long; 3- Đa Bút; 4- Quỳnh Văn; 5- Bàu Tró; 6- Sa Huỳnh;
7- Hong Kong (cửa sông Châu giang); 8- Dapengeng; HB: Hoà Bình.
2- Các di tích dọc sông Dương tử, kể từ thượng nguồn (bên trái): a- Sanxingdui, b- Pengtou; c- Diantonghuan; d- Hemudu
và nguồn gốc dân tộc Việt Nam
Cung Đình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đức Hiệp
I.
Có lẽ, phát biểu rằng thế kỷ 21 là thế kỷ của văn hóa chắc không quá đáng,
bởi vì một khuynh hướng chung hiện nay là các quốc gia trên thế giới đang (hay
sắp) qui tụ với nhau thành nhiều nhóm dựa trên văn hóa, mà không dựa trên ý thức
hệ (như Chủ nghĩa Cộng sản và Chủ nghĩa Tư bản trong thời gian qua). Trong thế
kỷ 21, người ta sẽ hỏi “Anh là ai”, thay vì “Anh thuộc phe nào” trong thế kỷ vừa
qua. Tức là một sự chuyển biến về nhận dạng từ ý thức hệ sang văn hóa.
Nhưng câu hỏi “Chúng ta là ai” tuy đơn giản, câu trả lời thì không
đơn giản chút nào. Tổ tiên chúng ta xuất phát từ đâu, họ đến Việt Nam
bằng cách nào, vẫn còn là những vấn đề khoa học, đòi hỏi nhiều nghiên
cứu về di truyền học, khảo cổ học, và ngôn ngữ học. Từ thập niên 60 thế
kỷ trước, nhiều người,
nhất là giới trẻ, đã khao khát muốn tìm về nguồn gốc dân tộc. Nhiều
đoàn thể đã tự chọn cho mình cái mục tiêu “về nguồn”. Đến khi chiến
tranh trên quê hương chấm dứt năm 1975, rồi cả triệu người phải bỏ nước
ra đi, sự khao khát tìm về cội nguồn trong những người xa quê hương này
lại có phần gia tăng, dù người ta đã phải vất vả nhiều hơn cho cuộc sống
mới.
Nhưng khi tìm trong cổ sử Việt, về đời sống tinh thần của người xưa,
để thực hiện việc về nguồn này, người ta chỉ gặp một cảnh hoang sơ:
ngoài một số truyền thuyết, và những lời răn thực tế trong tục ngữ ca
dao, những tác phẩm để lại, phần lớn do người ngoại quốc viết, thường đã
bị khoa học ngày nay vượt qua từ lâu,
không kể một số không ít đã được sáng tác với dụng ý xuyên tạc sự thực,
bôi bác nguồn gốc dân tộc, hạ thấp giá trị văn hóa cổ truyền. Trong
cảnh tiêu sơ đến thảm hại đó, cũng đã xuất hiện vài quyển sách có thiện ý
muốn viết lại cho trung thực nguồn gốc dân tộc mình
(1);
Nhưng được thực hiện trong hoàn cảnh tư liệu thiếu thốn, các sách này
chưa đạt được mục đích, vả cũng đã nhanh chóng bị khoa học ngày nay vượt
qua. Ở trong nước, nhờ
có đội ngũ những nhà biên khảo khoa học xã hội đông đảo, có những cơ
quan chuyên nghiên cứu về triết học, văn hóa và khoa học xã hội có tổ
chức, nên có được nhiều biên khảo chuyên ngành và công phu hơn. Nhất là
về phương diện khảo cổ, từ thập niên 60 (thế kỷ trước), ngành này đã
đạt được những kết quả vô cùng ngoạn mục. Nhưng những tác phẩm nghiên
cứu có hệ thống và khoa học vẫn còn cực kỳ ít, ngoại trừ tập một vài tác
phẩm mới xuất bản gần đây
(2).
Đặc biệt về phương diện triết học tư tưởng, nhiều hội nghị đã được
triệu tập, nhưng vẫn đi đến kết luận hết sức lạ lùng là: trong hoàn cảnh
tài liệu hiện tại, còn quá sớm để có thể hình thành một tác phẩm loại
này
(3).
Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi, một nhóm tư nhân rất thiếu phương
tiện, nhưng đã quyết tâm làm việc trong hoàn cảnh thiếu thốn, không có
tài trợ từ bất cứ nguồn nào, đã tự cho mình trách nhiệm góp phần trong
việc soạn thảo những tài liệu cung ứng cho khát vọng tìm về cội nguồn,
mà chúng tôi biết trước là rất khó
khăn, này. Một tập san mang tên Tư Tưởng, với mục đích
phi thương mại, chỉ lưu hành trong nhóm thân hữu và các nhà biên khảo có
lòng với văn hóa dân tộc, sống rải rác khắp mọi nơi trên thế giới, đã
được phát hành từ đầu năm 1999 để làm cây cầu nối những ai muốn thực
hiện con đường tìm về cội nguồn. Đến nay Tập san đã ra được 19 số.
Cách đây không lâu, Giáo sư Stephen Oppenheimer, một nhà nghiên cứu y
học nhưng từng nghiên cứu về thời tiền sử, có xuất bản quyển sách
“Eden in the East” bàn về văn minh Đông Nam Á. Cuốn sách làm
chấn động giới nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á. Nhận thấy quyển sách có
tầm quan trọng đặc biệt đối với việc tìm hiểu
nguồn gốc dân tộc, nên một người trong nhóm chúng tôi (Gs. Tiến sĩ
Nguyễn Văn Tuấn) có viết một bài điểm sách, và nhân đó, đưa đề nghị
“Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam” đăng trên Tập San
Tư Tưởng số 15 tháng 8 năm 2001. Bài điểm sách đã được
nhiều tạp chí trong và ngoài nước in lại, và chúng tôi đã nhận được khá
nhiều góp ý cũng như phê bình. Vấn đề đặt ra được sự hưởng ứng nồng
nhiệt của nhiều người ở trong cũng như ngoài
nước. Trong số những tác giả đã khai triển thêm đề tài này bằng những
bài phê bình hết sức xây dựng, Tác giả Nguyễn Quang Trọng, trong bài
“Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam và 'Địa đàng ở phương Đông' của Oppenheimer”
(Hợp Lưu, số 64) là đáng bàn thảo thêm, và đó cũng là đề tài chính của bài viết này của chúng tôi.
Chúng tôi cám ơn tác giả Nguyễn Quang Trọng và các tác giả khác đã bỏ
công viết những bài thảo luận có giá trị về vài điều mà chúng tôi đã
nêu ra một cách vắn tắt trong bài điểm sách. Bởi bài viết trước của
chúng tôi nằm trong dạng “điểm sách”, nên chúng tôi không có cơ hội khai
triển thêm những điều đã phát
biểu. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày thêm một vài quan điểm
chung quanh những ý kiến của tác giả Nguyễn Quang Trọng, và chắc cũng là
ý kiến của một số bạn đọc quan tâm khác. Cố nhiên, có một số điểm
chúng tôi sẽ không đề cập đến, không phải vì chúng tôi đồng ý (hay không
đồng ý) với tác giả, mà chỉ vì muốn hạn chế trong phạm vi những điều có
liên quan đến bài điểm sách của chúng tôi.
II.
Trước hết, chúng tôi muốn bàn và phát triển thêm những điểm trong bài
viết của Nguyễn Văn Tuấn mà tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng có thể
gây ngộ nhận:
Thứ nhất, về giả thuyết người Hòa Bình tràn lan về phía Nam (Indonesia), lên hướng Bắc (Trung Hoa) và sang hướng Tây (Thái Lan),
tác giả Nguyễn Quang Trọng, tuy không bác hẳn, nhưng tỏ vẻ không đồng ý
với quan điểm này vì có hàm ý văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt) còn trẻ hơn
các văn hóa kể trên. Dụng cụ đá
ở Hòa Bình có niên đại trẻ hơn dụng cụ đá ở Úc Châu, và “Theo tôi
(NQT), chữ “người Hòa Bình” dùng cho các di tích ở nơi khác không có
nghĩa là người Hòa Bình - Bắc Việt - vào thời điểm đó (7.000 đến 12.000
năm trước) đã tràn lan đến những nơi khác như Thái Lan, Indonesia, Úc,
Trung Hoa”.
Thực ra, niên đại văn hóa Hòa Bình là một vấn đề đương đại, vì cho
đến nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí. Cụm từ “Văn hóa Hòa Bình”
được giới khảo cổ học chính thức công nhận từ ngày 30-01-1932, do đề
xuất của Madeleine Colani, sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn
Đông họp tại Hà Nội thông qua. Khởi
thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa cuội được ghè đẽo trên
khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ thời đá cũ đến thời đá
mới (Choppers, hay chopping tools). Qua thời gian, tất nhiên cụm từ này
đã được đề nghị mang những tên khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác
nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về nền văn hóa có khoảng không gian là Bắc
phần Việt Nam, và khoảng thời gian không quá 5.000 năm trước đây
(4).
Nhưng khoảng
không gian lẫn thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ
là người đầu tiên đã đem Văn hóa Hòa Bình vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam
đến các vùng Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa Bình ở Miến
Điện, Kampuchia, Lào, Mã Lai Á, Sumatra, Thái Lan, Ấn Độ, Tứ Xuyên ...
Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng Gs.
W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình, phía Đông
Bắc đến Phi Luật Tân, Nhật Bản, phía Tây
đến Thái Lan, phía Nam đến tận Úc Đại Lợi và phía Bắc bao trùm cả hai
nền văn hóa cổ của Trung Hoa là Ngưỡng Thiều (Yan Shao) và Long Sơn
(5).
Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố không ngạc nhiên nếu
thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa Bình từ 15.000 năm trước
Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Úc Châu
có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công Nguyên đo bằng C14 có nguồn gốc từ
nền Văn hóa
Hòa Bình. Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên
đến 50.000 năm trước khi ông viết “Đông Nam Á và tiền sử học thế giới”
đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970
(6). Riêng trong phạm vi nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ phân chia thành ba thời kỳ:
- Hòa Bình sớm hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là
di chỉ Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên (TrCN)), Mái Đá
Điều, Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TrCN).
- Hòa Bình giữa hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ Xóm Trại (18.000 ± 150 BC), Làng Vành (16.470 ± 80 TrCN).
- Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175), Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).
Tính cách rộng lớn và phức tạp của Văn hóa Hòa Bình đã đến độ có đề
nghị đổi tên Văn hóa Hòa Bình thành Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình
(7).
Chúng tôi đồng ý cụm từ “Văn hóa Hòa Bình” nay được dùng để chỉ nền văn
hóa đá mới có đặc tính chung rộng khắp tại Đông Nam Á, Bắc lên đến Nhật
Bản, Nam
xuống tận Úc Châu, và không nhất thiết nó phải phát xuất từ Hòa Bình,
Việt Nam. Nhưng văn hóa thiên di theo con người, và gần đây đã có dữ
kiện di truyền học cho thấy có lẽ người Đông Nam Á, gần gốc Phi Châu hơn
Đông Bắc Á và người Việt Nam có lẽ là sắc dân cổ nhất của Đông Nam Á
(chúng tôi sẽ bàn thêm về điểm này trong phần sau).
Thứ hai, có phải kỹ thuật làm đồ đồng thau (dụng cụ, vũ khí) của cư dân Đông Sơn có trình độ cao nhất, nhì thế giới?
Tác giả Nguyễn Quang Trọng không đồng ý với phát biểu này của chúng
tôi, ông cho rằng trình độ đúc đồng của cư dân Đông Sơn (từ 700 năm
trước CN về sau) quả rất cao, nhưng không thể nói
là cao hơn các nơi khác, nhất là những nơi này đã có kỹ thuật đúc đồng
xưa hơn Đông Sơn rất nhiều. Tác giả nêu một thí dụ về kỹ thuật đúc đồng
ở Sanxingdai (Bắc Trung Hoa) cổ hơn Đông Sơn mấy ngàn năm, Thái Lan,
xưa hơn Đông Sơn 1.000 năm, và ở các nơi khác như Irak, Ai Cập, vùng Cận
Đông cũng sớm hơn Đông Sơn rất nhiều.
Rất tiếc là tác giả không dẫn chứng được những niên đại chính xác
(“mấy ngàn năm” là mấy ngàn? Sớm hơn là sớm như thế nào?), và nguồn gốc
của những dữ kiện được nêu ra. Nhưng chúng ta cứ giả thiết kỹ thuật
đồng của những nơi này đã có trước mấy ngàn năm, cái niên đại 700 năm
trước CN (mà ông gắn cho là niên đại
của văn minh Đông Sơn) đi nữa, thì cũng không chắc đã có trước kỹ thuật
của văn minh Đông Sơn, bởi một lẽ giản dị, niên đại 700 trước CN chỉ là
niên đại của Đông Sơn trễ, Đông Sơn trẻ nhất.
Như sẽ được dẫn chứng dưới đây, Văn hóa Đông Sơn kể từ thời Phùng
Nguyên cho đến nay, vẫn có thể coi là nền văn hóa đồng thau có niên đại
xưa nhất so với niên đại văn hóa đồng thau ở các nơi khác trong vùng
Đông Nam Á và Đông Bắc Á. Bốn nhà nghiên cứu có uy tín khác viết về Văn
hóa Đông Sơn đầu tiên ở Việt Nam là V.
Gouloubew, R.H. Geldern, B. Karlgrenvà O. Jansé, đều lầm khi cho nền văn
minh độc đáo này có nguồn gốc ngoại lai, từ nơi khác truyền đến. Người
thì cho nó bắt nguồn từ Trung Hoa; người đi xa hơn, cho nó bắt nguồn từ
văn minh Hallstatt ở Âu Châu, truyền qua vùng thảo nguyên Âu Á, đến
Trung Hoa trước khi truyền vào Đông Sơn
(8).
Có người lại dựng lên một nguồn gốc xa xôi từ văn minh Mycèle Hi Lạp và
theo một hành trình rất nhiêu khê qua
trung gian các nền văn minh Trung Âu, rồi Trung Á, đến đây mới chia hai
ngả, một theo đường Tế Xuyên, Vân Nam truyền vào Việt Nam, và một theo
lưu vực sông Hà, sinh ra văn hóa đồng thau đời nhà Thương ở Trung Hoa
(9).
Những nhận xét này tuy có tính ngạo mạn, nhưng có thể hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền văn hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa đồng thau ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà nghiên cứu trên cứ nghĩ, văn hóa đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại Việt Nam. Thực ra, đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót của một nền văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng Nguyên. Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn minh Tây phương đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ nó phát xuất từ một nền văn minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu gốc Tây phương này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khác quan của mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại những di vật hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người mà dưới mắt họ, thấy đang bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ, nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng chế ra!
Những nhận xét này tuy có tính ngạo mạn, nhưng có thể hiểu được, bởi lúc đó chưa phát hiện được những nền văn hóa đồng thau nội địa xưa hơn và là tiền thân của văn hóa đồng thau ở Đông Sơn, kể từ Phùng Nguyên, nên các nhà nghiên cứu trên cứ nghĩ, văn hóa đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn, là văn hóa đồng thau duy nhất tại Việt Nam. Thực ra, đồng thau tìm thấy ở Đông Sơn chỉ là giai đoạn chót của một nền văn hóa đồ đồng đã có lâu đời ở Việt Nam kể từ Phùng Nguyên. Hơn nữa, thời đó khoa học chính xác chưa tiến bộ, văn minh Tây phương đang hồi cực thịnh, văn minh đồng thau Đông Sơn lại quá rực rỡ, chứng tỏ nó phát xuất từ một nền văn minh tối cổ cực kỳ cao. Những nhà nghiên cứu gốc Tây phương này, có thể do niềm tự tôn làm lu mờ sự khác quan của mình, nên không thể ngờ một nền văn minh lớn, đã để lại những di vật hoành tráng như vậy lại do tổ tiên những người mà dưới mắt họ, thấy đang bị ngoại bang đô hộ, sống lam lũ, nghèo khổ, thiếu văn minh - đã sáng chế ra!
Nhưng sự hiểu lầm đó đến nay đã thuộc về dĩ vãng, ít nhất là sau Hội
nghị Quốc tế họp ở Berkeley bàn về Nguồn gốc văn minh Trung Hoa năm
1978, mà các bản tham luận, sau khi các dữ kiện được kiểm nghiệm, so
sánh với ý kiến của các học giả khác, đã được xuất bản năm 1980
(10).
Cho đến lúc
này (tức 1980), người ta thấy đồ đồng Đông Sơn có niên đại xưa nhất (đồ
đồng tìm thấy được ở Tràng Kênh thuộc Văn hóa Phùng Nguyên có niên đại
C14 = 1425 ± 100BC [BLn - 891] so với đồ đồng cổ nhất của Trung Hoa ở
Anyang có niên đại C14 = 1300 BC theo Anderson hay 1384 BC theo Lichi)
(11);
đồ đồng Đông Sơn cũng có kỹ thuật cao nhất vì đã biết pha với chì
khiến hợp kim có độ dai bền đặc biệt (hợp kim đồng ở Thái Lan hay nhiều
nơi khác có thể pha chế đồng với sắt, thiếc, antimoin như Đông Sơn nhưng
không có chì)
(12).
Có lẽ Nguyễn Quang Trọng đã hiểu đồ đồng Đông Sơn theo nghĩa hẹp
là đồ đồng tìm thấy ở làng Đông Sơn, Thanh Hóa. Tuy đồ đồng tìm thấy ở
đây đầu tiên, nhưng tuổi của nó không phải sớm nhất mà trẻ nhất trong
nền văn hóa mang tên Đông Sơn. Người ta đã chứng minh được nó là hậu
duệ của những sản phẩm đồng từ Phùng
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun trước khi đến vùng Đông Sơn, Thanh Hóa. Bốn
nền văn hóa này, mỗi nền văn hóa có những nét độc đáo riêng, nhưng cùng
thuộc một chủng tộc làm chủ. Chúng kế thừa nhau một cách chặt chẽ, liên
hệ với nhau một cách khắng khít. Bởi vậy khoa học ngày nay gọi chúng
một tên chung là Văn hóa Đông Sơn. Như trên đã nói, Đông Sơn là nơi tìm
ra đồ đồng ở Việt Nam đầu tiên nhưng lại là giai đoạn sau cùng của văn
minh đồng thau này, kéo dài hơn 2.000
năm, khởi đầu từ Phùng Nguyên khoảng 4.000 năm cách ngày nay (C14 Gò
Bông = 1850 ± 60 BC [BLn - 3001]).
Đây là một hiểu lầm đến nay thì không còn nhiều người mắc phải và
cũng không tai hại như sự hiểu lầm ở điểm 3 dưới đây mà nhiều nhà
nghiên cứu về cổ học Việt Nam còn đang lúng túng chưa có câu giải đáp
minh bạch.
Thứ ba, về đồ gốm Việt Nam xuất khẩu khắp Đông Nam Á, đến tận Malanesia, trước khi có ảnh hưởng của Ấn Độ,
tác giả Nguyễn Quang Trọng viết “tôi e rằng có sự nhầm lẫn về điểm
này”, vì theo tác giả, “Hòa Bình là văn hóa không có đồ gốm, hay có rất
ít vào thời kỳ cuối (Bắc Sơn)”. Có lẽ tác giả viết như
thế vì ông đã căn cứ vào mẫu đồ gốm tìm được ở Hang Đắng thuộc rừng Cúc
Phương, có niên đại C14 = 7.665 năm trước đây, mà các nhà khảo cổ Việt
Nam cho thuộc thời kỳ Văn hóa Bắc Sơn hay Văn hóa Hòa Bình muộn. Viết
như thế là rất thận trọng, cũng giống như sự thận trọng của những nhà
khảo cổ học Việt Nam, những người đã đích thân đào những di tích khảo cổ
trên đất nước mình và khai quật được những di vật - ở đây là đồ gốm -
và khi định niên đại thì những gốm này,
ngay cả những gốm cổ nhất, cũng có niên đại trẻ hơn niên đại của gốm ở
các nơi khác (Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, cả một số những đảo Thái
Bình Dương), nghĩa là những nơi mà những ngành khác đã chứng minh được
do người thuộc văn hóa Hòa Bình di cư đến đem theo cả văn hóa của mình.
Sự bất lực không giải thích được điều mâu thuẫn này dẫn đến những
hiểu lầm đáng tiếc. Gốm là một di vật rất quan trọng nếu không muốn nói
là quan trọng nhất trong ngành khảo cổ, vì nó phản ảnh rõ nhất, đầy đủ
nhất nếp sống, tư duy, nói chung, văn hóa của người xưa. Vậy thì, dù
các ngành khoa học khác cho thấy người
thuộc văn hóa Hòa Bình có thể là nguồn gốc của nhân loại Đông Á, mà gốm
Hòa Bình lại có niên đại trẻ hơn gốm các nơi khác cũng
Chính vì hiểu rõ sự quan trọng của gốm trong vấn đề giải thích
đời sống tiền sử và sự mâu thuẫn có tính sinh tử này mà chúng tôi đã cố
công tìm hiểu. Và chúng tôi nghĩ là chúng tôi đã tìm ra được câu trả
lời cho vấn đề khó khăn này bằng bài
“Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử”,
đăng
trong Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2 năm 2001. Những ý kiến đã giúp
chúng tôi tìm được câu giải đáp, ngoài những di vật khảo cổ rất phong
phú mới tìm thấy ở Việt Nam và Nam Trung Hoa trong những năm gần đây,
trước hết, phải kể đến kiến giải của GS. W. G. Solheim II, khi ông giả
thiết gốm Văn Thừng, đặc trưng của gốm Hòa Bình phải có niên đại 15.000
năm cách ngày nay dù ông chưa có trong tay tài liệu để chứng minh. Tiếp
đến, ý kiến của GS. S. Oppenheimer trong sách
“Địa đàng tại phương Đông” giả thiết về một sự hiện hữu của vùng
Sundaland coi như nguồn gốc của nhân loại Đông phương, có thể của cả thế
giới. Rồi thuyết về ngôn ngữ học của nhà ngữ học Johana Nichols và các
nhà ngôn ngữ mới khác chứng minh ngôn ngữ Đông Nam Á Austronesian và
Austro - Asiatic từ miền biển, miền thấp, ngược các con sông tiến lên
miền cao, miền núi, chứ không phải từ miền núi xuôi xuống miền biển theo
dọc dòng sông
(13).
Quan trọng nhất là các bằng chứng về di truyền học khẳng định rằng nguồn
gốc người Hiện Đại (Homo Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi Châu đến Đông
Nam Á, rồi từ đó mới thiên di đi các nơi khác
(14).
Việc tìm hiểu về đời sống tiền sử, đời sống thời chưa có chữ viết,
chúng ta không thể chỉ trông cậy vào một ngành khảo cổ học mà phải phối
hợp các ngành đó để tiếp cận sự thực. Và một khi những lý thuyết này có
điều gì chồng chéo, mâu thuẫn nhau thì bổn phận của nhà viết cổ sử, các
nhà phân tích nói chung phải so
sánh, cân nhắc và thực hiện một sự tổng hợp các khoa ngành một cách thận
trọng. Nếu sự tổng hợp này vẫn còn khó khăn để rút ra một kết luận,
phải biết trong trường hợp này khoa học nào nói tiếng nói quyết định.
Ngày nay, di truyền học DNA, tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng có độ chính xác
cao nhất, và thường nói tiếng nói quyết định khi những mâu thuẫn trong
những ngành cổ học khác không giải quyết được vấn đề. Có lẽ cũng nên
nói thêm về một điểm nhỏ, Nguyễn Quang
Trọng đã nói đến là gốm Lapita nổi tiếng nhất Đông Nam Á tìm được ở các
đảo Thái Bình Dương, cụ thể đó là vùng bờ biển phía Tây đảo New
Caledonia. Không thấy Stephen Oppenheimer hay Peter Bellwood đề cập đến
trong các thuyết “Chuyến tầu nhanh, chậm” hay “chuyến tầu nhanh” của
ông là do từ gốm Phùng Nguyên mà ra. Chúng tôi xin nói ngay rằng gốm
Phùng Nguyên không phải là gốm cổ nhất ở Việt Nam (Phùng Nguyên nay
thuộc vùng Vĩnh Phú, sâu trong đất liền). Những gốm
cổ nhất, sau Hang Đắng, là gốm tìm thấy ở bờ biển từ Hạ Long, Cái Bèo,
Đa Bút, Quỳnh Văn vào đến Bầu Tró, Sa Huỳnh. Đây là một điều trái với
qui luật bình thường của khảo cổ, như đã trình bày trong bài viết trên
nên xin miễn nói lại ở đây. Chỉ xin nhấn mạnh rằng khảo cổ học đã chứng
minh được gốm Lapita mà Nguyễn Quang Trọng nói ở trên có nguồn gốc từ
gốm trong hang động ở Thường Xuân (Thanh Hóa), Quỳ Châu (Nghệ An), Xóm
Thân (Quảng Bình), là con đẻ của các gốm Đa
Bút, Quỳnh Văn, Bầu Tró nói ở trên (15).
Thứ tư, về quê hương của kỹ thuật trồng lúa mà chúng tôi phát biểu là ở quanh vùng Đông Nam Á đã
được giới khoa học trên thế giới bàn luận đến từ lâu, đã tạm thời đi
đến kết luận trong đại hội bàn về nguồn gốc dân tộc Trung Hoa ở Berkeley
như nói ở trên. Riêng Tập San TƯ TƯỞNG cũng đã nhiều lần bàn
đến, cụ thể là trả lời mục Bạn Đọc Góp Ý trong TƯ TƯỞNG số 12 (trang 27 -
28). Chúng tôi xin không bàn vào chi tiết nữa. Trong phần trên,
Nguyễn Quang Trọng có nhắc đến bữa cơm tiền sử nấu với gạo của lúa mọc
hoang tìm thấy ở hang Diaotonghuan 13.000 năm trước, và một số địa danh
đã biết thuần hóa lúa nước từ 9.000 năm trước trở lại đây. Chúng tôi
mong sẽ có dịp bàn lại về vấn đề này. Ở đây, chỉ xin nói ngay vào chủ
đề điều 4, rằng đề tài này hầu như đã được
giới khoa học quốc tế, kể cả khoa học gia hàng đầu Trung Hoa đồng thuận :
quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á.
Quê hương lúa nước ở vùng Đông Nam Á là một sự thực, dù còn nhiều chi
tiết cần tìm hiểu, bàn luận thêm. Nay nếu cứ đem những tiểu tiết che
lấp đại thể thì vấn đề chỉ thêm rối rắm. Ngay sự thực trước mắt ngày
nay cũng cho thấy người Hoa Hán ăn mì, người Hoa Nam, cả Nhật Bản, Đại
Hàn và các dân Đông Nam Á khác ăn
gạo. Chính thuyết trình viên người Trung Hoa, GS. Te-Tzu-Chang, phát
biểu trước hội nghị quốc tế cũng trình bầy rõ, xét theo lịch sử Trung
Hoa, lúa mạch là thực phẩm chính từ thời tiền sử đến nhà Chu, lúa tắc,
mạch và đậu nành là thực phẩm thời Xuân Thu - Chiến Quốc, lúa nước chỉ
là thực phẩm phổ biến tại Trung Hoa từ đời Hán về sau. Như vậy, phải
chăng ông đã khẳng định lúa nước thuộc văn hóa phương Nam, chỉ trở thành
thực phẩm chính ở Trung Hoa khi đất đai
phương Nam thuộc tộc Bách Việt đã sát nhập vào Trung Hoa (16).
Ngay cả tác giả Nguyễn Quang Trọng sau khi đã nêu ra một số những địa
danh từ Trường Giang trở về Nam có niên đại lúa nước xưa hơn vùng châu
thổ sông Hồng, cũng xác nhận người Cổ Việt, nhưng đây là U Việt ở vùng
Cối Kê (Hemedu ngày nay) đã dậy Hoa Hán trồng lúa nước (chứ không phải
dân Lạc Việt ở châu thổ sông Hồng,
mà di vật liên quan đến lúa nước tìm được ở Sũng Sàm mới chỉ không quá
3.500 năm cách ngày nay). Mặt khác, ông lại quay sang phía Tây để phát
biểu di tích hạt lúa ở Thái Lan tuy xưa hơn ở Việt Nam, nhưng không xưa
bằng ở Nam Trường Giang (ông không tin vào niên đại C14 = 9260 - 7620
BP đã dẫn trong sách của S. Oppenheimer), nên quê hương lúa nước không
phải ở Thái Lan. Những con số tác giả nêu ra đều có cơ sở.
Có điều ông không để ý đến yếu tố quan trọng nhất là toàn bộ đồng bằng Bắc Việt ngày nay đã bị nhận chìm dưới làn nước biển suốt từ 8.000 năm đến 5.000 năm trước đây (5.500 năm trước nước biển mới bắt đầu rút). Đấy là nói đồng bằng ngày nay. So với đồng bằng sông Hồng từ 18.000 năm đến khoảng 30.000 năm trước đây, nó nhỏ hơn nhiều. Lúc ấy, nước biển thấp hơn ngày nay 130m, châu thổ sông Hồng xưa (cứ gọi như vậy) kéo dài đến tận đảo Hải Nam. Vậy nếu lúa nước có được thuần hóa thì di tích phần lớn đã bị hủy hoại (ở phần nước biển đã rút trả lại đất đai như ta thấy ngày nay) hay hãy còn ở sâu dưới lòng biển (ở phần vẫn bị nước biển tràn ngập). Việc không tìm ra di vật lúa nước có niên đại tối cổ (cổ hơn ở phần đất nay là Trung Hoa hay Thái Lan) cũng như việc không tìm ra di vật gốm tối cổ, ngoài lý do nó bị nước biển tàn phá, còn có thể vì nền khảo cổ của ta còn non trẻ lại thiếu phương tiện, nước ta trước đây có chiến tranh lại không quan tâm đến việc kêu gọi các nhà khảo cổ quốc tế tới thực hiện việc thám quật khảo cổ như các nước lân cận, chứ không hẳn vì không có.
Có điều ông không để ý đến yếu tố quan trọng nhất là toàn bộ đồng bằng Bắc Việt ngày nay đã bị nhận chìm dưới làn nước biển suốt từ 8.000 năm đến 5.000 năm trước đây (5.500 năm trước nước biển mới bắt đầu rút). Đấy là nói đồng bằng ngày nay. So với đồng bằng sông Hồng từ 18.000 năm đến khoảng 30.000 năm trước đây, nó nhỏ hơn nhiều. Lúc ấy, nước biển thấp hơn ngày nay 130m, châu thổ sông Hồng xưa (cứ gọi như vậy) kéo dài đến tận đảo Hải Nam. Vậy nếu lúa nước có được thuần hóa thì di tích phần lớn đã bị hủy hoại (ở phần nước biển đã rút trả lại đất đai như ta thấy ngày nay) hay hãy còn ở sâu dưới lòng biển (ở phần vẫn bị nước biển tràn ngập). Việc không tìm ra di vật lúa nước có niên đại tối cổ (cổ hơn ở phần đất nay là Trung Hoa hay Thái Lan) cũng như việc không tìm ra di vật gốm tối cổ, ngoài lý do nó bị nước biển tàn phá, còn có thể vì nền khảo cổ của ta còn non trẻ lại thiếu phương tiện, nước ta trước đây có chiến tranh lại không quan tâm đến việc kêu gọi các nhà khảo cổ quốc tế tới thực hiện việc thám quật khảo cổ như các nước lân cận, chứ không hẳn vì không có.
Vả lại, dù quê hương cây lúa ở Thái Lan, ở Nam Trường Giang, hay ở
châu thổ sông Hồng, vấn đề quê hương của kỹ thuật trồng lúa nước ở quanh
vùng Đông Nam Á cũng vẫn đúng, chẳng có gì phải đặt dấu hỏi, đặt nghi
vấn cho một sự thực đã được khoa học và dư luận quốc tế chấp nhận như
vậy. Theo thiển ý, lý giải như vậy
mới không trái với kết quả nghiên cứu di truyền học, hải dương học, ngôn
ngữ học như đã trình bày. Và như vậy tưởng mới là tiếp cận sự thực
(17).
Thứ năm, về câu phát biểu của chúng tôi rằng trước khi tiếp xúc với
người
Hán, tổ tiên chúng ta có một nền văn minh rất cao, nếu không muốn nói là
cao
nhất Đông Nam Á. Thực ra, tổ tiên chúng ta với tổ tiên những người vùng
Đông Nam Á, nếu xét tự nguồn gốc thì cũng chỉ là một. Tổ tiên chúng ta
và tổ tiên
những người thuộc các nước vùng Đông Nam Á chỉ coi như khác nhau trong
thời gian sau này mà thôi. Nguyễn Quang Trọng đặt câu hỏi đúng “Thế nào là văn hóa (văn minh) cao nhất Đông Nam Á ?”
Bởi riêng từ văn minh cũng đã có nhiều nghĩa mà cho đến nay vẫn chưa có
nghĩa nào được mọi người cùng chấp nhận, vậy làm sao có thể chấp nhận
thế nào là văn minh cao nhất? Nương theo lý luận của tác giả, đại khái
ta có thể nói văn minh Tây phương (Western civilization)
là cao nhất.
Chẳng thế mà suốt hơn bốn thế kỷ qua, nền văn minh này đã thực hiện được những tiến bộ khoa học rất ngoạn mục, chinh phục các phần đất khác trên thế giới, bắt dân các nơi đó làm nô lệ cho họ. Nhưng cũng chính nền văn minh này là nguyên nhân của những cuộc chiến triền miên (thế chiến I, thế chiến II) có thể đưa nhân loại đến chỗ diệt vong. Trong trường hợp này thì văn minh nhất lại đồng nghĩa với man rợ nhất. Nay, nếu lấy tiêu chuẩn của những nhà viết văn minh cổ sử mà xét, thì một xã hội được coi là văn minh khi có được những sáng chế đưa nhân loại thoát khỏi thời kỳ mông muội. Ba sáng chế quan trọng nhất trong tiêu chuẩn này là sự phát minh ra kỹ thuật thuần hóa lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị (18). Và theo cái chuẩn này thì những ngưới chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình, như các mục trên đã đề cập, được hiểu là những người phát xuất từ Đông Nam Á, tổ tiên của người Bách Việt, đáng gọi là có nền văn minh cao nhất thời ấy, nghĩa là thời mà nhân loại mới bước từ đời sống mông muội sang đời sống văn minh.
Chẳng thế mà suốt hơn bốn thế kỷ qua, nền văn minh này đã thực hiện được những tiến bộ khoa học rất ngoạn mục, chinh phục các phần đất khác trên thế giới, bắt dân các nơi đó làm nô lệ cho họ. Nhưng cũng chính nền văn minh này là nguyên nhân của những cuộc chiến triền miên (thế chiến I, thế chiến II) có thể đưa nhân loại đến chỗ diệt vong. Trong trường hợp này thì văn minh nhất lại đồng nghĩa với man rợ nhất. Nay, nếu lấy tiêu chuẩn của những nhà viết văn minh cổ sử mà xét, thì một xã hội được coi là văn minh khi có được những sáng chế đưa nhân loại thoát khỏi thời kỳ mông muội. Ba sáng chế quan trọng nhất trong tiêu chuẩn này là sự phát minh ra kỹ thuật thuần hóa lúa nước, kỹ thuật hàng hải và kỹ thuật xây dựng đô thị (18). Và theo cái chuẩn này thì những ngưới chủ nhân của Văn hóa Hòa Bình, như các mục trên đã đề cập, được hiểu là những người phát xuất từ Đông Nam Á, tổ tiên của người Bách Việt, đáng gọi là có nền văn minh cao nhất thời ấy, nghĩa là thời mà nhân loại mới bước từ đời sống mông muội sang đời sống văn minh.
Đó mới chỉ nói đến nền văn minh vật chất, chưa nói đến văn minh tinh
thần. Khảo về văn minh tinh thần, về triết học tư tưởng của người cổ
Việt, thì hiện tại, gần như chưa có ai nói tới một cách có hệ thống.
Những tư tưởng Đông phương rất cao thâm như Nho, Lão, Phật … đều nói là
hoặc của người Trung Hoa, hoặc của
người Ấn Độ, không có gì là của tổ tiên người Việt. Nhưng nếu đã khẳng
định bằng di truyền học DNA, ngôn ngữ học, hải dương học, khảo cổ học,
dân tộc học, tập tục truyền thống học … rằng người Hòa Bình, tức người
Bách Việt ở Đông Nam Á đã có sớm nhất và là nguồn gốc của văn minh Đông
phương thì cũng phải khẳng định tư tưởng đầu tiên, nền văn minh tinh
thần đầu tiên của nhân loại Đông phương cũng do người Hòa Bình này khởi
động. Điều này đến nay không có văn bản
nào nói như vậy vì từ khi con người sáng chế được ra chữ viết đủ để ghi
chép lại thành sách, người thuộc Đại tộc Bách Việt đã mất độc lập về tay
người Hoa Hán, vì vậy những văn minh văn hóa của người Bách Việt, nếu
có, (và chắc phải có), đều đã trở thành văn minh Trung Hoa. Nằm trong
khung “văn minh” đó, tư tưởng của người Cổ Việt cũng đã được mang nhãn
hiệu Trung Hoa cả.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều thứ như di vật khảo cổ, văn minh truyền khẩu, tập tục truyền thống … nếu biết “đọc” chúng, biết khai thác thì chúng sẽ cho ta biết nền văn hóa, văn minh tinh thần đó gốc gác nó từ đâu, nội dung chân chính của nó như thế nào. Nay chỉ nói về hoa văn trên trống đồng Đông Sơn, nếu biết giải mã, ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, gần với văn minh hậu nguyên tử, văn minh lượng tử như điều Giáo sư F. Capra đã nói đến (19). Nhưng đó không phải là đối tượng của đề tài này. Nói như vậy chỉ để làm cơ sở để phát biểu rằng, trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán, quả người Hòa Bình, tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh rất cao. Còn việc nghi ngờ văn minh này không chắc là “cao nhất”, bằng cớ là đã bị người Hoa Hán đánh thua vì họ có kỹ thuật quân sự dựa trên văn minh đồ sắt cao hơn văn minh đồng thau của tổ tiên ta thì lại là một vấn đề khác. Nó không hề phủ định đã có thời tổ tiên ta có nền văn minh cao nhất.
Tuy nhiên, vẫn còn có nhiều thứ như di vật khảo cổ, văn minh truyền khẩu, tập tục truyền thống … nếu biết “đọc” chúng, biết khai thác thì chúng sẽ cho ta biết nền văn hóa, văn minh tinh thần đó gốc gác nó từ đâu, nội dung chân chính của nó như thế nào. Nay chỉ nói về hoa văn trên trống đồng Đông Sơn, nếu biết giải mã, ta sẽ thấy chúng thuộc một nền văn minh tinh thần rất cao, gần với văn minh hậu nguyên tử, văn minh lượng tử như điều Giáo sư F. Capra đã nói đến (19). Nhưng đó không phải là đối tượng của đề tài này. Nói như vậy chỉ để làm cơ sở để phát biểu rằng, trước khi tiếp xúc với người Hoa Hán, quả người Hòa Bình, tổ tiên chúng ta đã có một nền văn minh rất cao. Còn việc nghi ngờ văn minh này không chắc là “cao nhất”, bằng cớ là đã bị người Hoa Hán đánh thua vì họ có kỹ thuật quân sự dựa trên văn minh đồ sắt cao hơn văn minh đồng thau của tổ tiên ta thì lại là một vấn đề khác. Nó không hề phủ định đã có thời tổ tiên ta có nền văn minh cao nhất.
III.
Bây giờ, chúng tôi muốn phát biểu vài điều về vấn đề nguồn gốc
dân tộc Việt. Phải nói ngay rằng đây là một vấn đề phức tạp, vì chúng
ta vẫn còn thiếu thốn dữ kiện khoa học liên quan đến người Việt để phát
biểu một cách khẳng định. Vì thế, người ta vẫn còn suy đoán, và có khi
suy đoán thiếu cơ sở. Có thể nói hai
giả thiết phổ thông liên quan đến vấn đề này: một là giả thiết [có lẽ
chiếm đa số quần chúng] cho rằng người Việt có nguồn gốc từ người Trung
Hoa; và giả thiết hai [có lẽ phần thiểu số] cho rằng người Việt có nguồn
gốc từ Mã Lai (tức là kết luận của Bình Nguyên Lộc). Chúng tôi cho
rằng cả hai giả thiết này đều cần phải xét lại, bởi một lý do đơn giản:
hai giả thiết đó thiếu dữ kiện khoa học làm cơ sở, và chưa được phản
nghiệm.
Giả thiết về nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt phần lớn dựa vào các
dữ kiện khảo cổ và ngôn ngữ. Những dữ kiện về đặc tính cơ thể và các
chỉ số nhân trắc (như màu da, xương, sọ, khuôn mặt, v.v..) từng được
dùng làm các đơn vị thông tin để nghiên cứu nguồn gốc dân tộc và sự tiến
hóa của loài người. Nhưng các đặc tính này thay đổi theo thời gian,
và chịu ảnh hưởng vào môi trường sinh sống. Chẳng hạn như chiều cao của
con người trong vòng 200 năm qua đã tăng một cách đáng kể do những cải
thiện về dinh dưỡng và môi trường sinh sống. Ngay cả cấu trúc xương
cũng thay đổi theo thời gian và môi trường. Do đó các đặc tính nêu trên
không phải là những thông tin lý tưởng cho việc nghiên cứu lịch sử di
truyền của con người.
Những dữ kiện về ngôn ngữ cũng có nhiều khiếm khuyết, vì mức độ tương
đương về từ ngữ không thể nói lên một cách đầy đủ khuynh hướng di cư
của các sắc dân. Ngay cả việc xác định mức độ tương đồng từ ngữ giữa
các ngôn ngữ cũng là một vấn đề mang tính kỹ thuật mà các nhà nghiên cứu
vẫn chưa đồng ý về phương pháp làm. Vả lại, sự tương đồng giữa các
ngôn ngữ có thể là
một hằng số mang tính văn hóa, chứ không hẳn do các cơ chế sinh học và
di truyền. Nói tóm lại, những bằng chứng khảo cổ và ngôn ngữ không phải
là những loại thông số đáng tin cậy để xác định nguồn gốc dân tộc.
Trong quá khứ, giới khảo cổ học và nhân chủng học dựa vào các bằng
chứng về khảo cổ, xương, hóa thạch, v.v… để phát triển lý thuyết, nhưng
những đối tượng này hàm chứa nhiều hạn chế thông tin về tiến hóa, vì mối
quan hệ phức tạp giữa môi trường và tiến hóa. Hậu quả của sự tập trung
vào các đối tượng như thế trong một thời gian
dài đã làm cho chúng ta xao lãng các dữ kiện cho chúng ta nhiều thông
tin hơn: đó là gien
(20).
Không giống như xương sọ, những thay đổi trong gien thường xảy ra theo
những qui luật mà chúng ta hiểu khá rõ, và vì thế gien và các đặc điểm
của gien, như tầng số gien, cấu trúc DNA, phân phối gien, v.v... cho
chúng ta những thông tin cực kỳ quí giá về sự tiến hóa của con người.
Ngày nay, những tiến bộ phi thường trong ngành di truyền học
và sinh học phân tử (molecular biology) trong mấy năm gần đây đã cung
cấp cho ngành nhân chủng học một phương tiện cực kỳ quan trọng trong
việc xác định lịch sử tiến hóa của con người và mối liên hệ giữa các dân
tộc. Giá trị của di truyền học trong việc truy tầm nguồn gốc dân tộc
đã được đánh giá cao về mức độ tin cậy. Di truyền học là một cửa sổ để
chúng ta nhìn lại quá khứ của chúng ta.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về di truyền học trong người Việt còn cực
kỳ khiêm tốn, nếu không muốn nói là không đáng kể. Trong thời gian
khoảng 10 năm trở lại đây, đã có một số bằng chứng, tuy gián tiếp, nhưng
cũng đủ để chúng ta có lý do để xem xét lại lịch sử tiến hóa của dân
tộc Việt. Những bằng chứng này là:
-
Trong một nghiên cứu trên 103 người ở Hà Nội, các nhà nghiên cứu
Việt - Pháp phân tích DNA trong hai gien (HLA-DR và DQB1), và so sánh
kết quả này với các sắc dân thuộc châu Đại Dương (Oceania) và Đông Á.
Sau khi ước tính khoảng cách di truyền (genetic distance) giữa các sắc
dân, các nhà nghiên cứu kết luận rằng cấu trúc di truyền của hai gene
này trong người Việt gần với người Thái và người Hoa. Các nhà nghiên
cứu này kết luận rằng dữ kiện của họ phù hợp với giả thuyết người Việt
có nguồn gốc từ người Trung Hoa và Thái-Nam Dương
(21).
Tuy nhiên, sau khi xem xét kỹ phần phương pháp nghiên cứu, chúng tôi
cho rằng kết luận này rất có thể không đúng, vì: (a) nghiên cứu này chỉ
dựa vào hai gien mà thôi (con người có khoảng 35 đến 39 ngàn gien), và
với những yếu điểm của mtDNA, các ước đoán về khoảng cách di truyền
không ổn định; (b) ngay cả trong bài báo các nhà nghiên cứu không xây
dựng được một cây di truyền nào, và cũng chẳng phân tích phát sinh chủng
loại thì không thể phán đoán về chiều hướng di cư hay nguồn gốc dân tộc
được.
-
Khoảng hai năm sau, các nhà nghiên cứu này lại tiến hành một
nghiên cứu khác trên 50 người cũng ở Hà Nội, và cũng qua dùng kỹ thuật
PCR (polymerase chain reaction) họ phân tích 6 “restriction enzymes”, và
ghi nhận khoảng cách di truyền
(22)
giữa
người Việt và người Hoa rất thấp (chỉ 0.0022), nhưng giữa người Việt
và Ấn Độ thì tương đối cao hơn (0.0468), có nghĩa là quan hệ giữa giống
người Việt và Hoa gần nhau hơn so với quan hệ Việt và Ấn
(23).
Nghiên cứu này cũng có những yếu điểm như nghiên cứu trình bày phần,
tức là số lượng gene quá ít (trong trường hợp này chỉ có một gene), và
tác giả cũng không tính toán mức độ biến thiên của chỉ số khoảng cách di
truyền, nên không
thể nào phát biểu khoảng cách giữa Việt - Hoa gần hơn khoảng cách
giữa Việt - Ấn. Thực ra, sau khi tính toán lại, chúng tôi thấy hai
khoảng cách di truyền (Việt - Hoa và Việt - Ấn) không có sự khác biệt
đáng kể (non-significant)! Tuy nhiên, một nghiên cứu khác trên 5 genes
trong nhiễm sắc thể Y trong hai nhóm dân: Bắc Á (Bắc Trung Quốc, Nhật,
Hàn Quốc, và Mông Cổ), và Nam Á (Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái, và Việt
Nam) cho thấy người Việt gần với các nhóm dân
Bắc Á (nhất là Hàn Quốc) hơn là các nhóm dân Nam Á (24)!
Chúng ta biết rằng, qua nghiên cứu của Giáo sư Chu (14), người Hoa phía
Bắc Trung Quốc có cấu trúc di truyền khác với người Hoa phía Nam Trung
Quốc. Do đó, phát hiện này quả rất khó giải thích. Càng khó giải thích
hơn nữa khi phần lớn những người Việt trong nghiên cứu này là cư dân ở
Hà Nội, tức gần miền Nam Trung Quốc.
-
Trong một nghiên cứu dùng mtDNA, Ballinger và đồng nghiệp (24)
ghi nhận rằng chỉ số biến thiên (trong di truyền học gọi là F-value)
trong người Việt cao nhất trong các sắc dân vùng Đông Nam Á. Tuy nhiên,
các tác giả kết luận một cách mơ hồ rằng các
dữ kiện này cho thấy “người Á châu có nguồn gốc từ nhóm dân Nam Mông” (nguyên văn: “The
greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNA with
HpaI/HincII morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a
Southern Mongoloid origin of Asians”)
(25).
Thực ra, các dữ kiện mà tác giả trình bày không cho phép họ kết luận
như thế, bởi vì họ chỉ 7 nhóm dân Á châu mà thôi, và cũng chỉ nghiên cứu
trên vài mẫu gene
rất nhỏ. Nhưng qua số liệu của các nhà nghiên cứu này, chúng tôi có
thể phát biểu rằng trong hai genes mà họ nghiên cứu, người Việt có lẽ là
một sắc dân cổ nhất trong vùng Đông Nam Á.
- Năm 1998, Giáo sư Chu và đồng nghiệp (thuộc Trường Đại học Texas (14)) phân tích 15 đến 30 mẫu “vi vệ tinh” DNA (microsatellites) để thử nghiệm sự khác biệt di truyền trong 24 nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4 nhóm dân vùng Đông Nam Á (hai thuộc thổ dân Mỹ, một thuộc thổ dân Úc châu, và một thuộc Tân Guinea), 4 nhóm dân da trắng (Caucasian), và 3 nhóm dân Phi châu. Bằng một phương pháp phân tích thống kê có tên là “phân tích phát sinh chủng loại” (Phylogenetic analysis)”, một số kết quả đáng ghi nhận như sau:
i. hai nhóm dân có sự khác biệt rõ ràng nhất là Phi châu và các dân không thuộc Phi châu;
ii. tất cả các nhóm dân Đông Nam Á “tập hợp” thành một nhóm, và nhóm dân có đặc tính di truyền gần họ nhất là người thổ dân Mỹ châu, kế đến là thổ dân Úc châu, và Tân Guinea (Những kết quả này cũng phù hợp với thời gian định cư ở Úc châu (khoảng 60,000 đến 50,000 năm trước đây, và thời gian định cư ở Mỹ châu (từ 30,000 đến 15,000 năm trước đây);
iii. các nhóm dân miền nam Trung Quốc phân phối thành ba nhóm, gọi là S1, S2, và S3 (ngoại trừ nhóm S2 là người Hán từ tỉnh Henan, phần còn lại (S1 và S3) gồm các sắc dân trong vùng Yunnan); và
iv. các sắc dân miền bắc Trung Quốc phân phối thành hai nhóm, gọi là N1 và N2. Nhóm N1 gồm 6 sắc dân nói tiếng Altaic, một nhóm Hán tộc miền bắc từ tỉnh Yunnan. Nhóm N2 gồm 4 sắc tộc thiểu số có lịch sử sinh sống lâu đời ở miền bắc, trong đó có một sắc tộc từ tỉnh Ninxia [6].
Từ những phát hiện trên, chúng ta có thể đặt ra một số mô hình để
giải thích, nhưng mô hình thích hợp với dữ kiện của Giáo sư Chu và đồng
nghiệp là các dân tộc miền Bắc Á được tiến hóa từ các dân tộc Đông Nam Á
châu. Các dữ kiện liên quan đến răng, sọ
[26-27] cũng nhất quán với mô hình này. Do đó, Giáo sư Chu và đồng nghiệp kết luận rằng:
“Tổ tiên của các nhóm dân Đông Á ngày nay có nguồn gốc từ Đông Nam Á.”
*Nhưng nghiên cứu của Giáo sư Chu và đồng nghiệp có một điểm yếu, đó
là họ dựa vào vi vệ tinh DNA, một chất liệu di truyền rất “nhạy”
(sensitive) và dễ bị đột biến (mutation
[28]). Để khắc phục nhược điểm này, một nhóm nghiên cứu khác đã tiến hành một nghiên cứu độc lập và qui mô hơn để xác định
nguồn gốc Đông Nam Á của dân tộc Trung Hoa. Nhóm nghiên cứu Mỹ – Trung Quốc phân tích DNA trong nhiễm sắc thể Y
[29]
trong các nhóm dân Hán (thuộc 22 tỉnh của Trung Quốc), 3 nhóm dân Đông
Bắc Á (Buryat, Đại Hàn, và Nhật Bản), 5 nhóm dân Đông Nam Á (Cambốt,
Thái Lan, Mã Lai, Batak, và Java), và 12 nhóm dân ngoài Á châu (3 nhóm
từ Phi châu, 3 từ Mỹ châu, 2 từ Âu châu, và 4 từ châu Đại dương). Các
nhà nghiên cứu ghi nhận rằng mức độ biến thiên đa hình thái
(polymorphic variation) trong các nhóm dân Đông Nam Á cao hơn trong các
nhóm dân thuộc vùng Bắc Á. Điều này có nghĩa là các sắc dân ở Đông Nam Á
có một quá trình định cư lâu dài hơn là các nhóm dân Bắc Á. Dùng các
phương pháp phân tích di truyền quần thể (population genetics), các nhà
nghiên cứu kết luận rằng con người thời đó đã di cư từ Phi châu sang đến
Đông Nam Á
[30] vào khoảng 60 ngàn năm về trước, và sau đó đã di chuyển lên phía
Bắc Á (kể cả Trung Quốc ngày nay) và Siberia [29]. Ngoài ra, còn có bằng chứng di truyền cho thấy các nhóm dân Polynesians cũng có nguồn gốc từ Đông Nam Á
[31].
Những dữ kiện di truyền học mà chúng tôi tóm lược trên đây tuy chưa
hoàn toàn đầy đủ để chúng ta khẳng định nguồn gốc dân tộc Việt, nhưng đủ
để chúng ta phát biểu rằng: xác suất mà người Việt có nguồn gốc [hay di
dân] từ Trung Quốc là cực kỳ thấp, nếu không muốn nói là con số gần
zêrô.
Bây giờ chúng tôi muốn nhân cơ hội này để bàn thêm vài điều chung
quanh vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam. Theo Nguyễn Quang
Trọng, dân Đài Loan ở trên núi, ít bị Hán hóa, có thể coi như nhóm dân
tiêu biểu cho người nói tiếng Nam Đảo vì họ còn giữ được genes nguyên
thủy và còn sống theo văn hóa cổ. Mặt
khác, những cư dân sống ở vùng Phúc Kiến, Kim Môn, Quảng Đông, Bắc Việt
có thể cũng cùng một gốc với dân cổ Đài Loan này, và quê hương của họ có
thể là thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vì vậy, [tác giả
viết] “tại sao không thể xem vùng thềm biển này, trước khi hồng thủy đến, là một trung tâm văn hóa lớn của dân nói tiếng Nam Đảo”.
Dữ kiện ông đưa ra để minh chứng cho thuyết này là chày đập vỏ cây cho
mềm để làm khố che thân đã tìm được ở bờ
biển Nam Trung Hoa từ Hồng Kong đến Bắc Việt. Về điểm này chúng tôi
cũng đã từng đề nghị, ngoài vùng đất Sundaland, đồng bằng Nanhailand,
châu thổ sông Hồng xưa, là trung tâm văn minh Đông Nam Á thời đó, cũng
có thể là nguồn gốc của văn minh toàn cầu
(32).
Có điều chúng tôi không khẳng định đây là trung tâm văn hóa của dân nói
tiếng Nam Đảo (Austronesian) vì chúng tôi nghĩ, cũng như W. Solheim II,
dân thời đó còn nói chung tiếng
Austric chưa chia hai Nam Đảo và Nam Á.
Về quá trình tiến triển dân tộc Việt, Tác giả Nguyễn Quang Trọng
đưa ra vài đề nghị rất đáng bàn thêm, mà theo cách hiểu của chúng tôi,
như sau:
- Bước 1: Người cổ thiên di từ Phi Châu đến
Đông Nam Á, khi gặp biển Đông ngăn chặn, họ chia theo hai hướng : một
lên phía Bắc đến sống ở miền Nam Trung Hoa, và càng ngày càng tiến về
Bắc đến tận Mông Cổ; một đi về
phía Nam đến thềm Sunda, khi đó còn nối liền lục địa với các đảo phía
Nam, đến tận Úc Châu. Tất cả đều là người chủng tộc Australoid (da đen,
tóc quăn, mũi to ...)
- Bước 2: Lớp di dân lên phía Bắc Đông Á,
đổi dần nhân dạng vì môi trường lạnh, gió, ít nắng. Khoảng 15.000 năm
trước giống này lai với chủng Altaic thiên di từ Tây Á đến đổi thành
chủng Bắc Mongoloid (da trắng
vàng, mắt hí, tóc thẳng ...)
- Bước 3: Chủng Bắc Mongoloid này bành
trướng về phía Nam lai với chủng Australoid vào khoảng giữa đất Trung
Hoa (nay) để tạo thành chủng Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc gợn sóng
...) Theo tác giả, chủng lai Nam
Mongoloid này chính là tổ tiên của người Cổ Việt, Khmer, Thái, Miến, Mã
Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương.
- Bước 4: Xin trích nguyên văn của tác giả: “Trên
đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói
cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác
nhau theo vùng họ
ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền Nam Á sống phía
trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn hóa Hòa Bình). Nhóm
thứ hai nói tiếng tiền Nam Đảo, sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy
mức biển thấp, vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh
Bắc Việt do thềm lục lài thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ
biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua đến đảo Hải Nam”, và ông kết luận:
“Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc
Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên
người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam Đảo, từ 15 ngàn năm trước !
Văn hóa Hạ Long và các văn hóa tiền Nam Đảo khác sau đó đã góp phần
quan trọng vào sự hình thành văn hóa và con người Việt Nam”.
- Bước 5: Bắt đầu từ thời đá mới, dân nói
tiếng Nam Á trong đất liền và dân nói tiếng Nam Đảo dọc bờ biển đều tăng
nhanh nên cùng tràn về châu thổ các sông. Sự hợp chủng của hai sắc dân
này có lẽ xẩy ra khoảng
4.000 năm cách ngày nay. Và tác giả đặt câu hỏi phải chăng sự gặp gỡ
này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển lên và Âu
Cơ Nam Á từ vùng núi xuống, và đi đến kết luận: “Như vậy Tiên Âu Cơ
Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc Việt lẫn Bách Việt
(phía Nam Trường Giang), và những Viêm Đế, Thần Nông của huyền thoại Hán
xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt”. Cũng theo tác giả: “Cuộc phối hợp văn hóa
hoàn tất vào thời Đông Sơn tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa”.
- Bước 6: Cũng xin trích nguyên văn: “Như đã nói ở trên, cuộc sống chung này tương đối hòa bình vì các di tích khai quật cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân ‘đột nhiên’ biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ? Để giải quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng? Từ đó đưa đến những khủng hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ?) hoặc đến lúc suy vi sau thời kỳ sung mãn”. Và để kết luận, ông cho rằng người dân Việt đã lai nhiều suốt thời tiền sử và trong thời Hoa thuộc, nhưng văn hóa Việt thành hình từ văn hóa bản địa của những tộc nói tiếng tiền Nam Á trong lục địa và tiền Nam Đảo vùng thềm lục địa nên giữ được độc lập quốc gia trong khi toàn vùng Trường Giang đều bị Hán hóa.
Trong những giai đoạn này, ba giai đoạn sau có nhiều điều khó hiểu
cần bàn lại, nhiều chỗ hình như chưa được thống nhất, và về thời gian
hình như có nhiều chỗ chồng chéo. Có điểm chúng tôi đồng ý (ba giai
đoạn đầu), và cũng đã từng chủ trương như vậy, nhưng cũng có điểm chúng
tôi không đồng ý.
Nguyễn Quang Trọng giả thiết người Đông Nam Á đi ra hải đảo Thái
Bình Dương hay lên phía Bắc đều thuộc chủng Australoid (da đen, tóc
quăn, mũi to), rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng ở miền
Bắc, họ biến đổi nhân dạng với chủng Altaic mà dần dần thành chủng Bắc
Mongoloid (tóc thẳng, mắt hí, da vàng
trắng). Chủng Bắc Mongoloid này khi bành trướng về phương Nam một lần
nữa lại lai với chủng Australoid đã sống trước ở đó mà tác giả gọi là
giữa đất Trung Hoa, để thành người Nam Mongoloid (da ngăm đen, tóc dợn
sóng ...). Theo tác giả, đây là tổ tiên của người Việt, Khmer, Thái,
Miến, Mã Lai, Nam Dương, cả những người ở hải đảo Thái Bình Dương. Điều
này cũng tương đồng với một giả thiết mà các nhà nghiên cứu về nguồn
gốc người Trung Hoa đã tranh cãi nhau về ba mô
hình :
-
Mô hình 1: Giả thiết người Hoa Nam là từ Hoa Bắc di xuống pha trộn với dân bản địa mà hình thành.
-
Mô hình 2: Ngược lại, giả thiết người Bắc Trung Hoa là hậu duệ của người phương Nam.
- Mô hình 3: Dân cư ở cả hai miền tiến hóa và phát triển độc lập.
Như đã thấy, Nguyễn Quang Trọng theo mô hình 1. Mô hình này có ưu
điểm là nó có vẻ phù hợp với bản đồ ngôn ngữ ở Trung Quốc, đã một thời
được nhiều nhà ngôn ngữ học công nhận. Chúng tôi sẽ không đi vào chi
tiết bởi nó rất phức tạp mà cũng không cần thiết. Nhưng qua phân tích
DNA của nhóm Giáo sư Chu (mà chúng tôi đề cập trên đây), mô hình này
không còn thích hợp nữa. Nói một cách
khác, các dữ kiện di truyền học cho thấy tổ tiên của những người nói
tiếng Altaic từ Đông Á đã di cư vào Á châu từ ngã Đông Nam chứ không
phải từ ngả Trung Á
(14).
Nghiên cứu của các nhà nhân chủng học uy tín khác Lugi Luca
Cavallli-Sforza (Đại học Stanford), Li Yin (Đại học Stanford và nhiều
học giả khác cũng nhất quán với mô hình này
(34).
Liên quan đến sự khác biệt về đặc tính cơ thể (người hải đảo da sậm,
tóc quăn, trong khi người sống trong lục địa có da vàng, tóc đen, không
quăn), chúng tôi thấy có vài điều cần thảo luận như sau:
- Thứ nhất, không có gì chứng minh được người
Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã lên phía Bắc đến tận Mông Cổ ngày
nay. Nếu tại đất nay thuộc lãnh thổ Bắc phần Việt Nam, trong 70 xương
sọ mà ta sưu tầm được cho đến ngày nay, 38 xương sọ thuộc thời Đồ Đá
(cũng không xác định được niên đại rõ ràng), phần lớn do học giả Pháp
tìm ra trước 1945 (29 sọ trên 38 cái) cho là thuộc chủng
Australoid, Indonesian, Malanesian Ẩ và 32 sọ, đa số do học giả Việt tìm
thuộc thời Đồng Sắt ngược lại, phần lớn là chủng Mongoloid vào những
năm chưa có sự chứng minh ngược lại của di truyền học, đã một thời là
nguyên nhân cho thuyết nguồn gốc người Việt tại đất liền là do cư dân
hải đảo Thái Bình Dương di cư vào
(35).
Chúng ta không thấy bảng xương sọ tương tự như ở Trung Quốc. Những xương cốt thường được nói đến nhiều nhất và được coi là tổ tiên của người Trung Hoa là 3 bộ xương do J. Anderson tìm được ở Chu Khẩu Điếm (Chou-Kon-Tien). Thời đó, vì thiếu những phương tiện khoa học đo đạc chính xác nên có người đã cho xương này là tổ tiên của người Hoa có từ rất xa xưa! Sau này nhờ có phương tiện định tuổi bằng C14, Noel Bernard đã chứng minh được niên đại của xương đó chỉ là 16.922 năm trước CN (2k - 136-0; Bernard 1980) (36). Cũng có người chứng minh được đó chẳng phải là xương của một gia đình vì ở ba tầng lớp khác nhau trong hang (Weiderich, 1939), lại thuộc ba chủng khác nhau và chẳng liên hệ gì đến người Trung Hoa hiện nay cả (Wu, 1961) (27). Sở dĩ có hiện tượng đó vì phương pháp cổ điển để tìm chủng tộc và niên đại của các sọ thời trước chỉ là phương pháp so sánh (so cái chưa biết với mẫu đã biết gốc tích). Trong trường hợp đó, giá trị của các kết luận rất tương đối. Xương cốt cổ đào được nhiều nhất ở Yang-Shao là xương thuộc chủng Nam Mongoloid, giống với người Hoa hiện đại mà cũng giống cả với người Việt và các chủng Đông Nam Á khác. Vậy lấy gì để khẳng định người Australoid da đen, tóc quăn, mũi to đã di cư đến tận cực Bắc Trung Hoa ngày nay?
- Thứ hai, giả thiết người Australoid đến Bắc Đông
Á, rồi vì sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng nên dần dần thay đổi
nhân dạng là cho con người thay đổi hình dạng chỉ do yếu tố môi sinh
ngoại tại. Thực sự, muốn có sự thay đổi hình dạng phải có sự đột biến
di truyền
(28).
Đó là một
sự kiện sinh học xẩy ra trong tế bào, do sự tương tác giữa môi trường và
sinh học. Giả thiết rằng người Australoid lai với người Altaic (các
dân tiêu biểu là Buryat, Yakut, Uyghur, Mãn Châu, Hán, Đại Hàn, Nhật)
thì lại càng khó hiểu vì người Altaic, theo di truyền học đã chứng minh
cũng do người Đông Nam Á di lên chứ không phải từ Trung Á đi lại như
trên vừa trình bầy. Có thể họ lai với một sắc dân đến muộn hơn từ Trung
Á và Âu Châu, như sẽ nói rõ hơn ở sau, nhưng
đó là chuyện xẩy ra về sau khi băng hà lần cuối cùng đã tan.
- Thứ ba, chủng Bắc Mongoloid vì nhu cầu bành trướng, tràn xuống phương Nam, gặp chủng Australoid đã cư ngụ sẵn nơi đây, lai giống mà thành người Nam Mongoloid. Đây là tổ tiên của chủng Bách Việt. Ý kiến này rất mới, chỉ tiếc tác giả đã không đưa dữ kiện chứng minh để có thể kiểm nghiệm lại một cách khoa học. Mặt khác, những dữ kiện khoa học có được đến ngày hôm nay hình như không hỗ trợ cho giả thiết của tác giả. Về phương diện di truyền học, phân tích di truyền của Giáo sư J. Y. Chu và đồng nghiệp, cộng với nhiều phân tích DNA gần đây như trên vừa trình bầy, đã cho thấy ngược lại phát biểu của Nguyễn Quang Trọng rằng người Nam Mongoloid đã từ Đông Nam Á, phía Nam Trung Hoa, bành trướng lên phía Bắc. Nói rõ hơn, người Hoa Bắc là hậu duệ của người Hoa Nam. Cây hệ di truyền từ cuộc nghiên cứu của Giáo sư Chu cũng cho thấy đã không có sự hợp chủng giữa dân Hoa Nam (Nam Mongoloid) với dân Altaic. Chỉ có sự hợp chủng giữa dân Altaic với các dân cư đến muộn hơn từ Trung Á và Âu Châu, sau thời băng hà cuối cùng (15.000 trở lại đây). Về phương diện khảo cổ học, hầu hết xương cốt tìm thấy được ở văn hóa Ngưỡng Thiều đều thuộc chủng Nam Mongoloid, giống người Trung Hoa hiện đại, cũng giống với những người hiện đại tại các quốc gia Đông Nam Á khác, đặc biệt ở Việt Nam. Không thấy dấu hiệu hợp chủng có tính toàn diện giữa Bắc Mongoloid và Australoid như Nguyễn Quang Trọng phát biểu.
Nói tóm lại, qua các dữ kiện di truyền học gần đây, tuy còn hạn chế
(vì những nghiên cứu về di truyền học trong vùng Đông Nam Á, nhất là với
người Việt, còn ít), nhưng chúng tôi thấy có thể phát biểu rằng người
hắc chủng từ Phi Châu di cư đến Đông Nam Á lục địa, khi tiếp cận biển
Đông, thì một phần đi thẳng ra các
hải đảo Thái Bình Dương và Úc Châu, lúc đó vẫn còn là hắc chủng; phần
khác trụ lại tại Đông Nam Á, ở địa điểm đâu đó, có thể là lưu vực con
sông nay mang tên sông Hồng, vì may đã hội đủ cơ duyên nên có đột biến
di truyền, và do đó, từ giống hắc chủng (da ngăm, tóc xoăn) đã biến đổi
thành giống hoàng chủng (da vàng, tóc đen, sợi thẳng). Từ đó, họ mới
bắt đầu di chuyển lên hướng Bắc, nay là đất Trung Hoa. Giả thiết của
chúng tôi dựa trên ba cơ sở như sau:
- Một, mực nước biển lên xuống. Trước thập niên
60 thế kỷ trước, người ta chỉ biết có độ 5 thời kỳ bằng hà (nước biển
xuống), gián băng (nước biển tăng), nhưng ngày người ta đã biết được có
đến 20 kỳ trong khoảng 2 triệu năm qua. Riêng trong hậu kỳ Pleistocène
khoảng từ 125.000 năm đến 10.000 năm trước ngày nay,
nghĩa là khi loài người Hiện Đại (Homo Sapiens Sapiens) đã xuất
hiện thì mực nước biển ở Đông Nam Á cũng đã 5 lần lên xuống. Những lần
xuống đó là vào khoảng 115.000 năm, 90.000 năm, 55.000 năm, 35.000 năm
và lần cuối cùng 18.000 năm cách ngày nay
(37).
Ở 90.000 năm trước khi nước biển xuống thì người Hiện Đại chưa đến vùng
Đông Nam Á. Họ đến khoảng 60.000 năm trước đây, vậy khi nước biển
xuống khoảng 55.000 năm trước, chính là
lúc người Hiện Đại Đông Nam Á đất liền bắt đầu thiên di ra các hải đảo
Nam Thái Bình Dương, vì lúc đó nước biển cạn dần, đã nổi lên những triền
đất nối liền với đại lục. Vậy gần như người Hiện Đại từ Đông Phi Châu
thiên di đến Đông Nam Á đã có dịp tiến thẳng ra hải đảo vì khí hậu thích
hợp và vì thuận đường lui tới. Lúc đó họ vẫn còn thuộc dân hắc chủng.
Khảo cổ học đã có dấu tích của người Hiện Đại ở Úc Châu, khoảng 50.000
năm trước đây, ở New Guinéa 40.000 năm
…
- Hai, điều kiện môi trường và khí hậu. Người
Hiện Đại Đông Phi tiến được ra hải đảo Thái Bình Dương nhưng lại chưa
thể tiến ngay lên phía Bắc vì lúc đó miền Bắc đang trong thời băng hà.
Không khí chỉ ấm dần từ 40.000 năm trước cho đến 21.000 năm trước lại
bắt đầu thời kỳ băng hà cuối cùng thường gọi là băng hà
Wurm. Sau lần băng hà cuối cùng này, không khí ấm lại dần cho đến nay
khoảng từ 15.000 năm trước
(34).
Chính trong thời kỳ ấm lại giữa hai khoảng băng hà (- 400.000 đến -
21.000 năm) người Hiện Đại đã tiến lên phía Bắc là đất Trung Hoa ngày
nay. Khảo cổ học cho thấy dấu tích của họ ở đại lục khoảng 35.000 năm
trước, ở Đài Loan khoảng - 30.000, họ vượt eo biển Beringa khoảng -
30.000 (lúc đó nước biển xuống như trước lần biển xuống
cuối cùng nên eo biển đã thành một giải đất liền). Ta thấy dấu tích
người Hiện Đại ở bờ biển Tây Mỹ Châu khoảng - 30.000. Họ là tổ tiên của
văn hóa Maya, còn dấu vết ở Nam Mỹ ngày nay
(38).
Tất cả những điều trên đã được khoa di truyền hiện đại ngày nay xác
định là đúng : người da đỏ ở Mỹ Châu, người thổ dân ở Úc Châu có yếu tố
di truyền giống với người Đông Nam Á, và Đông Á (đều thuộc chủng Nam
Mongoloid) và khác với người Bắc Á
(thuộc Bắc Mongoloid).
- Ba, hội đủ tính đột biến di truyền. Về điểm này, còn cần thêm nhiều phân tích, nhiều chứng cớ, mới có thể trở thành một giả thuyết có tính khoa học. Tuy nhiên, khảo cổ học đã chứng minh được những người thiên di lên phía Bắc, cả những người sang Mỹ Châu, không còn hay còn rất ít yếu tố hắc chủng. Không thể kết luận họ lên phía Bắc vì lạnh, vì ánh sáng mặt trời hay nhiều gió mà biến đổi đi như vậy (như từ da đen, tóc xoăn thành da vàng hay trắng, tóc thẳng, mũi nhọn), dù không ai phủ nhận môi trường bên ngoài có làm thay đổi hình dạng con người. Nhưng để thay đổi cả hình dáng, màu da, râu tóc một cách triệt để như da đang đen trở thành trắng hay vàng, tóc đang quăn trở thành thẳng, mắt đang nâu trở thành xanh … thì phải có sự thay đổi nhiễm sắc thể DNA trong gien mà giới di truyền học gọi là có sự đột biến di truyền. Sinh học phân tử cho chúng ta biết rằng đột biến di truyền là một quá trình chậm, do nhiều yếu tố (trong đó có yếu tố môi trường, như tia sáng mặt trời, và tiến hóa) gây nên. Đột biến DNA dẫn đến nhiều thay đổi (và bệnh tật), trong đó có cả những thay đổi về hình dáng cơ thể như tóc, tai, da, mắt.
Tác giả Nguyễn Quang Trọng cho rằng vào thời kỳ Đồ Đá (không minh
định đá cũ, đá giữa hay đá mới) dân Cổ Việt lúc ấy thuộc chủng
Australoid nói tiếng Austric vì cách sinh sống khác nhau, dần dần phân
chia thành hai nhóm: nhóm nói tiếng Nam Á (Austro-Asiatic) sống trên đất
liền và nhóm nói tiếng Nam Đảo (Austranesia)
sống ở vùng đồng bằng ven biển. Bắt đầu thời đá mới, trước là vì nhu
cầu dân số gia tăng, sau vì biển tiến, hai tộc đã phân chia, lại cùng
tìm về đồng bằng các sông nay thuộc Bắc Việt, sống đan xen với nhau và
kết hợp lại với nhau. Tác giả đã ví sự kết hợp này, mà ông gọi là kết
hợp yếu tố văn hóa Biển - Lục Địa, với chuyện Âu Cơ kết hợp với Lạc Long
Quân, một cuộc kết hợp êm thắm vì là kết hợp giữa hai tộc người vốn
cùng một chủng tộc và một ngôn ngữ. Chuyện đó
xẩy ra vào khoảng 4.000 năm cách ngày nay và ông kết luận “Cuộc phối
hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn (850 trước CN đến 280 sau CN),
tạo thành một văn hóa chung cho cư dân bản địa”. Về điểm này, chúng tôi xin được nhắc lại quan điểm của chúng tôi đã phát biểu trước đây.
- Thứ nhất, vào thời điểm trước khi có nạn Đại
hồng thủy cuối cùng (từ 18.000 năm trước, nước biển bắt đầu dâng mỗi năm
1cm, đến 8.000 năm trước nước biển đột ngột dâng cao nhận chìm toàn bộ
đồng bằng Nanhailand đến tận Việt Trì ngày nay), dân cư đồng bằng
Nanhailand còn thống nhất, nói tiếng Austric chứ chưa chia làm hai
Austronesian và Austro-Asiatic.
- Thứ hai, vào lúc này (từ 18.000 năm đến khoảng
50.000 năm trước) chắc đã có sự đột biến di truyền, và người nói tiếng
Austric ấy chắc đã là da vàng, tóc thẳng mà khảo cổ học gọi là Nam
Mongoloid, chứ không còn da đen, tóc quăn, mũi rộng thuộc Hắc chủng, mà
khảo cổ học gọi là Australoid. Sự đột biến di truyền xẩy ra vào thời
điểm nào thì còn cần có thêm những cuộc sưu khảo, nhất là
những thí nghiệm về di truyền học DNA mới có thể khẳng định được.
- Thứ ba, khi nước biển dâng, chia Đông Nam Á ra
thành Đông Nam Á hải đảo và Đông Nam Á đất liền thì lúc đó người nói
tiếng Austric cũng bắt đầu chia hai : phần ở hải đảo và ven biển nói
tiếng Austronesian và phần ở sâu trong lục địa nói tiếng Austro-Asiatic.
- Thứ tư, chỉ khi nước biển bắt đầu rút (khoảng 5.500 năm cách ngày nay), trả dần lại đồng bằng sông Hồng mới thì người đã di tản đi nơi khác vì nạn Đại hồng thủy nay mới đổ về tái htiết đồng bằng này, và đó cũng là thời kỳ dựng nước Văn Lang. Lạc Long Quân Nam Đảo và Âu Cơ Nam Á kết hợp với nhau vào lúc này. Và đây là điểm khác biệt giữa chúng tôi với tác giả. Lạc Long Quân gặp Âu Cơ khoảng từ 5.500 năm trước, từ lúc nước biển bắt đầu lui chứ không phải vào 4.000 năm trước đây khi biển tiến. Nhưng tại sao Lạc Long Quân và Âu Cơ lại chia lìa, người đem 50 con lên núi, người đem 50 con xuống biển? Sự chia lìa đó xẩy ra vào lúc nào? Truyền thuyết chỉ nhắc lại lời Lạc Long Quân: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, ở lâu với nhau không được, nay phải chia ly”. Dù có nói thêm một câu: “Hữu sự bảo cho nhau biết, đừng quên”. Cái thông điệp mà truyền thuyết đó muốn gửi đi, qua câu nói của Lạc Long Quân, vẫn còn là một bí ẩn.
Nói tóm lại, về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đã đến lúc chúng
ta đặt vấn đề với giả thiết Bắc xuống Nam, và nghiêm túc thử nghiệm giả
thiết Nam lên Bắc. Thực ra, chúng ta cũng chẳng còn quyền lựa chọn nào
khác vì khoa học, nhất là khoa di truyền học, đã lựa chọn dùm chúng ta:
Khởi thủy, người Hiện Đại (Homo
Sapiens - Sapiens) từ Đông Phi đến Đông Nam Á; rồi từ đó họ tiến lên
phía Bắc. Sau vì có sự phối hợp với chủng từ Tây Bắc xuống, họ hợp
thành cái cốt lõi của dân sống ở Trung Quốc ngày nay. Đó là giai đoạn
Nam lên Bắc. Giai đoạn này khoảng từ sau 40.000 năm cách ngày nay cho
đến 3.000 năm cách ngày nay thì Trung Hoa bắt đầu có loạn Xuân Thu Chiến
Quốc. Đến khi nhà Tần thống nhất lục quốc, nhất là từ khi nhà Hán cai
trị Trung nguyên, những dân thuộc Đại tộc
Bách Việt ở các nước lưu vực sông Dương Tử xuôi về Nam, không chịu sự
đồng hóa của người Hoa Hán đã di dần về phương Nam. Một số những người
thuộc nhóm này đã sát nhập với dân Lạc Việt. Giai đoạn này kéo dài cũng
cả ngàn năm, nhưng những thiên di từ đời Tần đến đời Đông Hán (khoảng
300 năm trước CN đến 100 năm sau CN) có lẽ là quan trọng hơn cả. Chúng
tôi tin rằng đó là một phần của kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
Cung Đình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Đức Hiệp
Tài liệu tham khảo và chú thích:
1. Nguyễn Khắc Ngữ,
“Nguồn gốc Dân tộc Việt Nam”, Nhóm Nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Montréal: 1985; Bình Nguyên Lộc,
“Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam”, Nhà xuất bản Lá Bối, Sài Gòn: 1971.
2. Gần đây mới thấy có
“Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” của Trần Ngọc Thêm – Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, tháng 3/2001.
3. Đọc “Một số vấn đề lý luận về Lịch sử Tư tưởng Việt Nam”, sách lưu hành nội bộ, Hà Nội: 1984 – Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Triết học xuất bản.
4. Phạm Huy Thông,
“Năm mươi năm tìm hiểu văn hóa Hòa Bình”, Khảo cổ học, số 1 & 2/1984.
5. W. G. Solheim II,
“Thắp sáng lại quá khứ bị lãng quên”, Tạp chí National Geographic
số tháng 3/1971, bản dịch của Hoài Văn Tử & Vĩnh Như, trong Tập San
TƯ TƯỞNG số 2, tháng 4/1999.
6. W. G. Solheim II - Bài đã dẫn [5].
7. Ngô Thế Phong,
“Dấu vết văn hóa Hòa Bình ở Đông Nam Á”, Khảo cổ học, số 1 &
2/1984. Chữ Phức hợp Kỹ thuật Hòa Bình (Techno-complex) là đề nghị của
C. F. Gorman, học trò của W. G. Solheim II. Xem thêm
“The Hoabinhnian and after: subsistence pattern in S.A. during the Latest Pleistocene and Early Recent periods” - Word Archaeology 2: 300-320, 171;
“Hoabinhnian: A pebble-teal complex with Early
Plant association in S.A.”, Science, CL XIII No.3868, 14 Feb 1969.
8. Higham C,
“The Bronze Age of Southeast Asia”, Cambridge University Press, 1966.
9. R. H. Geldern,
“Research on Southeast Asia : Problems and Suggestions”, American Anthropologist, No.4, New York, 1996.
10. David N. Keightly (biên tập),
“The Origins of Chinese Civilization”, University of California Press, Berkeley, Los Angeles: 1983.
11. Li Chi,
“The Beginnings of Chinese Civilization”, Seattle: 1957.
12. I. R. Solin Khanov, 1979: 37. Theo Trịnh Sinh,
“Những hiện vật đồng đỏ trong văn hóa Đông Sơn”, Khảo cổ học số 1/1992;
“Nhận dạng trống giả cổ”, Khảo cổ học, số 4/1997. Đọc thêm “The Cradle of the East” của Ping-Ting-Ho, phần Appendix I,
“Excavation at Non Nok Tha, Northeastern Thailand, 1968”, Interim Report, Asia Perapective XIII (1970), p.139;
“Early Bronze in Northern
Thailand”, 1968 của W.G. Solheim II.; “Further Evidence to Support the Hypothesis of Indigenous Origins of Metallurgy in Ancient China”
do Noel Barnard đọc trong Hội nghị Berkeley 1978 và in trong The
Origins of Chinese Civilization - University of California Press, 1980.
13.
“It will use the big rivers as language conduct, but the direction of
dipersal is the exact reverse of the Himalaya centrifugal radiation
hypothesis” -
“Linguistic Diversity in Space and Time” - Johana Nicols, trích theo Eden in the East, trang 138-139.
14. J. Y. Chu và đồng nghiệp,
“Genetic relationship of populations in China”, Proc. Natl. Acad. Sci, USA 95, 11763-11768, 1998.
15. Cung Đình Thanh,
“Gốm cổ tại Việt Nam và vai trò của nó trong văn hóa tiền sử”, Tập San TƯ TƯỞNG số 12 tháng 2/2001.
16. Đọc “The Origins and Early Cultures of The Cereal Grains and Food Legumes” của Te-Tzu Chang, Chương 3 trong
“The Origins of Chinese Civilization” – sđd [10].
17. Cung Đình Thanh,
“Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam” và bài “Sự thuần hóa cây lúa nước và ảnh hưởng của nó đối với tư duy người Việt Cổ”, Tập San TƯ TƯỞNG số 3, tháng 7/1999.
18. Trích Eden in the East (trang 70-71) của Stephen Oppenheimer:
“The prime “home” the most likely of rice - where climatically, the
least manipulation is required to grow it - are in tropical Indo-China
down to the Malay border Burma Bangladesh and the extreme South coast of
China” - Peter Bellwood -
“The Prehistory of Southeast Asia and Oceania” - Collins,
Auckland, 1978; “Rice, though, was clearly pivotal t
the Neolithic stay-at-home mainland Indo-China from a very early stage,
that is, if the Sakai cave findings are confirmed we now have a strange
new image : Instead of the sinocentric model with the Chinese inventing
rice cultivation, we have Austro-Asiatic speaking “Southern Barbarians”
from Indo-China teaching the know-how about rice to the Chinese”.
19. Fritjof Capra,
“The Tao of Physics”, Fontana Paperbacks, London, 1983.
20.
Con người được cấu tạo bằng nhiều tỷ tế bào. Tất cả các tế bào đều có
cấu trúc giống nhau: trong mỗi tế bào đều có một cái nhân (nucleus) nằm
chính giữa. Cái nhân này có chứa những chất liệu di truyền mà ta thường
gọi là DNA (viết tắc từ chữ deoxyribonucleic acid). Mỗi nhân thường có
hàng triệu DNA. DNA gồm có bốn mẫu tự (yếu tố hóa học): A (adeline), C
(cytosine), G (guanine), và T (thymine). Một
mảng DNA tạo thành một gien. Và nhiều gien tạo thành một bộ di truyền
hay nhiễm sắc thể, còn gọi là chromosome. Con người có 23 nhiễm sắc thể.
21. A. Vu-Trieu và đồng nghiệp,
“HLA-DR and DQB1 DNA polymorphisms in a Vietnamese Kinh population in Ha Noi”, Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1997, bộ 24, trang 345-356.
22.
Khoảng cách di truyền (hay còn gọi là genetic distance) là một thông số
di truyền học đo lường mức độ khác nhau giữa các nhóm dân. Chỉ số này
có giá trị tối thiểu là 0 (tức hai nhóm dân giống nhau về mặt di
truyền), và giá trị tối đa là 1 (tức hai nhóm dân hoàn toàn khác nhau).
23. R. Ivanova và đồng nghiệp,
“Mitochondrial DNA polymorphism in the Vietnamese population”, Tập san European Journal of Immunogenetics, năm 1999, bộ 26, trang 417-422.
24. W. Kim và đồng nghiệp,
“Y chromosomal DNA variation in East Asian populations and its potential for inferring the peopling of Korea”, Tập san Journal of Human Genetics, năm 2000; bộ 45, trang 76-83.
25. S. W. Ballinger và đồng nghiệp,
“Southeast Asian mitochondrialDNA analysis reveals genetic continuity of ancient Mongoloid migration,” Tập san Genetics, năm 1992, bộ 130, trang 139-45.
26. C. G. Turner,
“Major features of Sundadonty and Sinodonty, including suggestions
about East Asian microevolution, population history, and late
Pleistocene relationships with Australian aboriginals”, Tập san American Journal of Physical Anthropology, năm 1990; bộ 82, trang 295-317.
27. T. Hanihara,
“Population prehistory of east Asia and the Pacific as viewed from
craniofacial morphology: the basic populations in east Asia, VII”, American Journal of Physical Anthropology, năm 1993, bộ 91, trang 173-87.
28.
Đột biến (mutation) là một sự kiện sinh học xảy ra ở trong tế bào. Gien
được cấu trúc bằng một chuỗi DNA gồm 4 mẫu tự A, G, C, T. Khi một
chuỗi DNA bị thay đổi, tức đột biến (chẳng hạn như từ GCAATGGCCC thành
GCAACGGCCC) thì các đặc tính sinh học liên quan đến gien, chẳng hạn như
mật độ xương, có thể bị thay đổi.
29. Bing Su và đồng nghiệp,
“Y-chromosome evidence for a northward migration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age,” American Journal of Human Genetics, năm 1999, bộ 65, trang 1718-1724.
30. Yuehai Ke và đồng nghiệp,
“African origin of modern humans in East Asia: a tale of 12000 Y chromosomes,” Science, năm 2001, bộ 292, trang 1151-1153.
31.
Bing Su và đồng nghiệp, “Polynesian origins: insights from the Y
chromosome,” Tập san Proceedings of the National Academy of Science
(USA), năm 2000, bộ 97, trang 8225-8228.
32. Xin đọc bài
“Các Vua Hùng dựng nước Văn Lang”, Tập San TƯ TƯỞNG số 13, tháng 4/2001, trg 7.
33. Alberto Piazza,
“Human evolution: towards a genetic history of China”, Nature, Vol. 395, No. 6703, 1998.
34. Li Yin và đồng nghiệp,
“Distribution of halstypes from a chromosome 21 region distinguishes multiple prehistoric human migrations”, Proc. Natl. Acad. Sci. USA, Vol. 96, pp. 3796-3800, 1999.
35. Kwang-Chih-Chang,
“The Archaeology of Ancient China”, New Haven, Conn: 1968.
36. Barnard Noel,
“Radiocarbon Dates and Their Significance in the Chinese Archaeological Scene: A list of 420 Entries from Chinese”, Sources Published up to Close of 1979, Canberra.
37. Hà Văn Tấn dẫn theo Chapell (1987 - 83),
“Năm lần nước biển lên xuống ở Đông Nam Á thời hậu kỳ Pleistocène”, Khảo cổ học, số 1/1992; và
“Sự biến chuyển từ Pleistocène đến Holocène ở Đông Nam Á” cũng cùng số. Cũng có thể xem thêm Tập San TƯ TƯỞNG các số 2, 3, 4, 7, 12, 13, 18.
38. Dẫn theo
“The Cambridge Encyclopedia of Human Revolution”, Cambridge University Press.
[*] Nhằm vào mục đích cung cấp cho
độc giả của trang nhà Giao Điểm những thông tin về các công trình biên
khảo mới về văn hóa VN, chúng tôi cống hiến tài liệu
“Một vài ghi chép thêm về văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc VN”
của ba tác giả Cung Đình Thanh, Nguyễn Văn Tuấn và Nguyễn Đức Hiệp. Được
biết, bài biên khảo này đã được đăng trên tạp chí Hợp Lưu số 66, năm
2002. Chúng tôi cáo lỗi với tạp chí HL chưa kịp liên lạc để xin phép
trước;
tuy vậy, chúng tôi đã có sự đồng ý của các tác giả.
46. TÌM HIỂU NỀN VĂN HÓA ĐÔNG SƠN.
46. TÌM HIỂU NỀN VĂN HÓA ĐÔNG SƠN.
Thinh Quang
NỀN VĂN HÓA DÂN GIAN VÀ BÁC HỌC CỦA VIỆT NAM KHÔNG CHỊU ẢNH HƯỞNG BỞI HAI NỀN VĂN MINH CỦA ẤN ĐỘ VÀ TRUNG HOA.
Việt Nam là một dân tộc có môt nền văn hóa dân gian và bác học có tính độc lập, không pha trộn với các dòng văn hóa của các lân bang, dù đó là các nước lớn. Trong lúc đó các cư dân vùng Indo-China đi vay mượn và dễ bị ảnh hưởng của các nền văn hóa khác, nên có tính hổn hợp như cư dân Aryen chẳng hạn.
Việt Nam là một trong số 18 quốc gia vốn có bản sắc riêng được các học giả Tây phương xác nhận có một nền văn minh hiện diện lâu đời và đang liên tục phát triể ! Ông Arnold Toynbee nhà khảo cứu về lịch sử người Anh đã sắp xếp Việt Nam cùng loại với các nền văn minh lớn ở châu Á gồm có nền văn minh Trung Hoa, văn minh Triều Tiên và văn minh Nhật Bản. Sư kiện này được ghi lại trong tập A study of history ấn hành vào năm 1972. Tuy vậy, học giả Amoki Toynbee xác nhận rằng cả ba quốc gia Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam có sự mô phỏng với nền văn minh Trung Quốc, tuy nhiên theo ông cả ba nền văn minh này không để bị đánh mất đi tính đặc thù cố hữu của dân tộc mình.
Khoảng 4000 năm trước công nguyên người ta đã tìm thấy những đồ vật được chế biến từ đồng, ngay tại các quốc gia Campuchea, Thái Lan và Việt Nam mà đặc sản của nó đa phần là trống đồng. Các nhà khảo cổ tin rằng các trống đồng này được chế tạo tại vùng Đông Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Cứ vào thời tiền sử của vùng Đông Nam Á, theo các giới khoa học quốc tế chia ra ba nền văn hóa, đó là:
1. Nền văn hóa Hòa Bình (Hoabinhian cullture, culture Hoabinhienne). Còn gọi là nền văn hóa đồ đá (mesolithic culture, culture mésolithique.
2. Nền văn hóa Bắc Sơn (Bacsonian cultre, cullture Bacsonienne) tức là nền văn hóa đồ đá mới (neolithic culture, culture neolithique)
3. Nền văn hóa Đông Sơn (Dongsonian cullture, Culture Dongsonienne), cũng có nghĩa là nền văn hóa đồ đồng (Bronze culture, Culture du bronze).
Nền văn hóa Đông Sơn lấy từ tên của một huyện thuộc tỉnh Thanh Hóa tiêu biểu nơi xuất xứ nền văn hóa đồ đồng, chẳng những duy chỉ cho Việt Nam mà còn dành cho toàn vùng Đông Nam Á! Chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn là tổ tiên của người Việt. Do đó các nhà khảo cứu lịch sử vùng Đông Nam Á khẳng định nền văn hóa Đông Sơn là của người Việt Nam, chứ không là nền văn hóa ngoại lai nào khác đổ vào đất nước này.
Có những thắc mắc trong một thời gian từ các nhà khảo cổ đã từng tìm thấy những vật đồ đồng như “trống đồng” tận ở các vùng xa xôi ở Indonesia, và do đó có sự nghi ngờ đặt ra câu hỏi, trống đồng mà người ta khai quật được ở tận các vùng xa xôi hẻo lánh tại Indonesia từ đâu mà có? Cho mãi một thời gian về sau các nhà khảo cổ mới xác nhận được nguồn gốc “trống đồng” đã chế tạo ở Thanh Hóa –tỉnh đầu tại miền Bắc Trung Việt – được các cư dân mang đi bán các quốc gia tại Đông Nam Á.
Để minh định văn hóa Trống Đồng xuất xứ tại Đông Sơn, trong dòng văn hóa dân gian và dòng văn hóa bác học Việt Nam có lắm giai thoại về “Trống Đồng” được loan truyền trong dân chúng. Các câu chuyện thần bảo vệ Trống Đồng của Việt Nam hoàn toàn không chịu ảnh hưởng của thần thoại Ấn Độ. Nó không giống như trong tập quán thờ thần Siva và thần Uma tức vợ của thần Siva, kề cả thờ thần “dương vật” – do một phần do gốc Munda và phần khác từ gốc Dravidien thời kỳ Tân thạch. Và tuy sự phát hiện nền văn minh Đông Sơn không giống như nền văn minh cổ đại của Ethiopia và Israel, thông qua kinh thánh cũng như cuốn Kebra Negast nói lên về kỹ thuật của các quốc gia này chỉ các công trình xây dựng có tính qui mô như ngôi đền tại Jerusalem hay các ngôi đền cổ xưa tại ở Baalbek (Lebanon), mà nó sản sinh tại một quốc gia có tính vệ tinh tại Đông Nam Á, các trống đồng nổi tiếng là có kỹ thuật cao. Đó chính là một sự kiện lạ lùng đối với một đất nước mà nền kỹ nghệ hoàn toàn không có.
Ta cũng khác hẳn với nền văn hóa Indonesia, nền văn hóa này bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa Ấn trong các chuyện truyền khẩu như truyện Phạn, dần dà về sau khi có văn chương du nhập vào xứ sở này chép lại thành văn,tuy vẫn giữ được chất liệu thật “Indonesia, nhưng ít nhiều cũng có hơi hướm của xứ sở Ấn Độ, một đất nước có một nền văn minh tối cổ dễ dàng ảnh hưởng đối với các nước nhược tiểu. Nhưng riêng về Việt Nam thì khác hẳn, hoàn toàn mang tính dân tộc và không pha trộn từ cốt chuyện đến tư tưởng của nó.
THẦN THOẠI TRỐNG ĐỒNG
Dưới đây là câu chuyện Trống Đồng mang tính thần thoại được các nhà khảo cố thế giới đặc biệt lưu ý:
“Điều chắc chắn “Trống Đồng” là của Việt tộc, thịnh nhất là Trồng Đồng Lạc Việt, được gọi Lạc Việt Đồng Cổ“.
Cứ vào Hậu Hán Thư nơi mục nói về Mã Viện: “Mã Viện vốn thích cỡi ngựa và có đặc tài phân biệt biệt được sở trường và sở đoãn của ngựa. Nhờ phân biệt được như vậy nên Mã Viện biết chọn ngựa hay dùng để đi chinh Nam phạt Bắc.. .Hậu Hán Thư ghi Trống Đồng do thợ địa phương có khả năng tự sản xuất lấy mà tuyệt đối không phải do thợ Tàu được người Việt thuê mướn. Xét lại các loại đồ đồng trước thời Tần, nhà Hán không tìm thấy bất cứ một vật gì bằng đồng được chế tạo ra từ thời kỳ ấy cả. Điều này chứng minh được nền văn minh Đông Sơn không phải là nền văn minh vay mượn.
Cũng theo Hậu Hán Thư thì mục đích của việc đúc trống đồng là để cho người lĩnh đạo có đầy đủ quyền lực hiệu triệu được quần chúng tập họp để đón rước anh linh thần thánh, diệt trừ được bệnh tật v.v... để trăm họ được sống trong cảnh thanh bình.
Theo “Tùy Thư Địa Lý Chí” thì:
-”Tại núi Ngũ Lĩnh các rợ của hơn hai mươi quận phía Nam đều dùng đồng đúc thành trống lớn gọi là “Đại Đồng Cổ”. Trống đồng khi vừa đúc xong được mang treo ngay giữa sân, thiết rượu thịt mời đồng bào khắp nơi về để cùng hoan hỉ tạ ơn trời đất.
Các nam thanh nữ tú thuộc hàng giàu có lấy vàng hay bạc làm chiếc thoa lớn cầm đánh vào đại cổ. Khi đánh xong thì để thoa vàng hay bạc đó lại gọi là “thoa đồng cổ” làm quà mừng cho chủ nhân. Khi chủ nhân tại khu vực đó muốn đánh nhau với khu vực khác thì gióng trống đồng lên, đông đảo người trong khu vực kéo nhau đến đông đảo để nói lên lòng trung thành và sự tùng phục của họ đối với người có “Đồng Cổ”! Người có trống đồng được tôn xưng là Đô Lão, hệt như một Tù trưởng của một bộ lạc đầy quyền uy và được tôn vinh như một vị thần sống!
Truyện Lưu Hiến theo sử nhà Minh, vào thời đại Vạn Lịch nguyên niên đi đánh dẹp Từ Châu thu đến 60 trại và bắt được trống đồng Chư Cát tới 93 chiếc. Tây Man A Đại khóc ròng than thở: ”Tiếng trống lớn được xem là quí nhất, đổi được ngàn trâu, thứ đến là bảy tám trăm trâu. Trong dân gian ai có đến hai loại trống này gom lại thì được tôn xưng là Chú. Tiếng trống nơi sơn trại gióng lên tức thì có Man nhơn tụ hội! Nay, than ôi, trống ấy ta để mất rồi, quyền uy không còn nữa... Kể từ nay vận mạng của dân Man suy yếu. Còn gì nữa đâu?!”
Trống đồng, ngoài việc triệu tập quân sĩ kéo đi chinh phạt quân thù, còn dùng để tế lễ cúng kiến thần thánh. Ngoài ra trống đồng còn có tác dụng khác như để gióng lên cho nam thanh nữ tú cùng nhau vũ lộng, ca xướng v.v...
Câu chuyện thần thoại bên dưới nói về sự quan hệ giữa Đồng Cổ và Thánh Thần:
“Trống đồng có quan hệ ma thuật thiên nhiên như thờ Thần Sấm, Thần Sét, Thần Mưa, Thần Gió... Hình ảnh được khắc trên mặt trống đồng như ếch nhái, thiềm thừ. Vùng đất Hoa Nam Trung Hoa trong những năm hạn hán thường dùng hình ảnh các loại động vật này để cầu mưa đảo gió.
“Tại đảo Hải Nam, nay là tỉnh Hải Nam tin tưởng loài người ngày xưa là con ông Sấm. Ông Sấm xuất hiện xuống thế gian, nuốt “Xà Noãn” tức trứng rắn rồi sinh ra con người chúng ta ngày nay. Giai thoại về Ông Sấm không thấy nói mặt mũi thế nào, chỉ nghe lời loan truyền thì đàn con đầu tiên của ông sinh ra đời đều xinh đẹp phi thường, con trai mặt mày tuấn tú, vai u thịt bắp, còn con gái thì mày tằm mắt phượng, má phấn môi son..l. àm đẹp lòng trời.
Cứ vào truyền thuyết: ”Thuở Vũ Trụ còn trong thời hổn mang sinh vật trên trái đất hết thảy bị vùi dập, nhân loại cũng không tránh khỏi dần dần tuyệt chủng, chỉ còn lại hai chị em nhà kia thoát nạn, nương nhau mà sống. Phàm việc truyền giống cần phải đủ đôi đủ cặp, nên vợ nên chồng mới được, nhưng trên địa cầu ngày nay bị thiên tai mọi sinh vật đều chết tất cả chỉ còn có mỗi hai chị em, một nam, một nữ cùng mang một dòng máu làm sao kết hôn nhau đươc?!
Lúc
bấy giờ hai chị em bèn bàn nhau, mỗi người đi mỗi ngả. Ngưởi chị đi tìm
chồng ở hướng Đông, người em đi tìm vợ ở hướng Tây. Thế rồi họ ra đi bao
nhiêu năm trường mà chẳng gặp được bất cứ người nào để xe tơ kết tóc.
Thế rồi hai chị em lại phải quay về gặp nhau buồn phiền không ít. Họ bàn
tính chia tay nhau lần nữa. Mỗi người một hướng. Năm này qua năm nọ,
cuối cùng cũng chỉ trở về một thân một mình, và lại nhìn nhau ứa lệ! Tuy
vậy họ vẫn không hề nản chí lại ra đi, hứa hẹn cùng nhau cố tìm cho
được người hôn phối để mong nối dõi tông đưo72ng, truyền tử lưu tôn!
Nhưng rồi cũng như mấy lần trước, họ thất thểu quay về nhìn nhau buồn
bã, để mặc cho hai dòng lệ lăn tròn trên đôi má! Lần này Thần Lôi Công
thấy vậy bèn hiện xuống gọi người em hỏi:
-“Cớ sao bảo tìm không được? Vợ đã sẵn trước mặt kia chẳng lẽ ngươi không trông thấy?
Người em đáp:
-”Nhưng đó là chị của con làm sao lấy nhau được? Làm như vậy chẳng hóa ra là phạm tội loạn luân, phàm loạn luân thì ắt sẽ bị Thần Sét đánh cho đến chết!
Lôi Công đáp lại:
- Chính ta là Thần Sét, quyết không đánh các ngươi. Còn sợ ai nữa?
Người em cương quyết bác bỏ:
- Không được! Nhất định không được. Phạm tội loạn luân...là trái với đạo lý.
Nói xong người con trai kia lặng lẽ bỏ ra đi quyết tìm cho được vợ. Biết là dùng lời nói không thể thuyết phục được, mà Ngọc Hoàng Thượng Đế thì muốn khôi phục lại đời sống cho nhân loại, bèn dùng lọ vẽ mặt của người chị đuổi ra đi, rồi tìm cách xui khiến cho người em trai gặp gỡ.
Người em, đi mãi vẫn không tìm đâu ra vợ lại lủi thủi trở lại về nhà, không thấy chị mình đâu bèn lang thang đi tìm kiếm. Ra đường bất thình lình gặp một cô gái mặt mày đen đỉu xấu xí không nhận ra đó là chị của mình bèn ngỏ lời xin cưới về làm bạn trăm năm. Người chị kia (đã được Thần Sấm căn dặn từ trước là ý của trời chỉ mỗi một lần này thôi, về sau không còn quyền nữa). Và cũng đúng như lời Thần Sấm dạy, từ đó về sau không còn bao giờ xảy ra những chuyện loạn luân như vậy nữa.
Từ đấy, mới sinh con đẻ cháu...mỗi ngày mỗi đông thêm.
47. Bàn thêm về nguồn gốc người Việt
Hà văn Thùy
Phải
nói rằng, công trình nghiên cứu Đa dạng di truyền người Hán (Chinese
Human Genome Diversity Project ) của nhóm nhà khoa học Trung Quốc và Mỹ
do giáo sư Y. Chu chủ trì, được công bố cuối năm 1998 đã làm đảo lộn
nhận thức của giới khoa học về nguồn gốc của người Đông Á. Một số nhà
nghiên cứu người Việt ở nước ngoài đã mau chóng chuyển tải thông tin
này. Hai bài viết của luật sư Cung Đình Thanh và giáo sư Nguyễn Văn Tuấn
sống tại Úc là những khảo cứu có giá trị.
Tuy nhiên,
nếu nhìn lại, cả hai bài viết đó, bên cạnh những ưu điễm rất lớn vẫn còn
những lý giải chưa thuyết phục, dễ gây ngộ nhận.
Trong
chuyên khảo "Nhờ tiến bộ của di truyền học (DNA), phải chăng đã đến lúc
chúng ta có thể khẳng định được nguồn gốc dân tộc Việt Nam?" đăng trên
tập san Tư Tưởng, sau đó được lưu giữ tại mạng Linhnam, tác giả Cung
Đình Thanh viết: "Câu hỏi cần được đặt ra là: Tại sao cũng từ Đông Nam Á
ra đi mà người ra hải đảo thì da sậm, tóc xuăn; trong khi người ngược
phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen? Cần phải có sự nghiên cứu về di
truyền học và có thêm tài liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác
đáng. Trong hoàn cảnh tài liệu hiện có, chỉ có thể giả thiết, người Phi
châu đến Đông Nam Á rồi tiện đường (lúc này nước biển thấp nên có nhiều
cầu nối liền Đông Nam Á đến hải đảo) ra hải đảo Thái Bình Dương trước.
Trong khi trụ lại Đông Nam Á, họ đã hội đủ các yếu tố khoa học để có
được một cấu trúc di truyền lần hai, biến từ giống da đen sang giống da
vàng trước khi họ tiến lên phia Bắc. Vậy phải chăng người Hắc chủng từ
Phi Châu đến Đông Nam Á rồi nhờ hội đủ yếu tố khoa học, đủ cơ duyên, đã
biến đổi thành người da vàng mà sau này nhân chủng học gọi bằng tên
Mongoloid. Từ đó họ đã tỏa lên phía Bắc vượt sang châu Mỹ tạo thành
người Da Đỏ."
Còn trong bài viết: Nguồn gốc
người Việt theo di truyền học, đăng tên Tập san Tư Tưởng rồi được đưa
lên mạng Linhnam, giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nghi ngờ phát hiện rất quan
trọng của Ballinger(1): "Người Đông Á là người Mông Cổ phía Nam." Ông
cho rằng nghiên cứu này do thực hiện trên quá ít mẫu nên không đủ độ tin
cậy. Và ông đề nghị phải có công trình nghiên cứu di truyền học lớn hơn
để có kết luận thỏa đáng.
Chính sự "trục trặc" ở những
người tiên phong trong việc giới thiệu quan điểm mới này ảnh hưởng
không nhỏ đến nhận thức và tâm lý của người đọc.
Chúng tôi, trong khả năng hạn chế của mình muốn thử bàn lại chuyện này.
<
VỀ BÀI VIẾT CỦA LUẬT SƯ CUNG ĐÌNH THANH:
"Tại
sao cũng từ Đông Nam Á ra đi mà người ra hải đảo thì da sậm, tóc xuăn;
trong khi người ngược phía Bắc lại thuộc da vàng, tóc đen?" Câu hỏi đặt
ra là đúng, nhưng cho rằng: "Trong khi trụ lại Đông Nam Á, họ đã hội đủ
các yếu tố khoa học để có được một cấu trúc di truyền lần hai, biến từ
giống da đen sang giống da vàng trước khi họ tiến lên phia Bắc." là lời
giải khó thuyết phục. Lời giải như vậy, chỉ có giá trị như một suy đoán.
Muốn cho suy đoán này chấp nhận được, cần phải rất nhiều chứng minh, ít
nhất hai điều: 1, Thực sự đã xảy ra đột biến (mutation) đối với người
tiền sử Đông Nam Á và 2, Những nhân tố thực sự đã tạo ra đột biến đó?
Cho đến nay khoa học chưa tìm ra bằng chứng về một đột biến di truyền
như vậy đồng thời cũng không tìm được trong môi sinh Đông Nam Á những
yếu tố đặc biệt như phóng xạ, hóa chất có thể gây ra cuộc đột biến
khoảng 50.000 năm trước. Nếu theo ý tác giả thì, để chứng minh được giả
thiết trên, "cần phải có sự nghiên cứu về di truyền học và có thêm tài
liệu khảo cổ để trả lời câu hỏi này cho xác đáng." Như vậy có nghĩa là
còn cần phải bỏ ra rất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc mới có
thể xác định được chắc chắn nguồn gốc người Việt! Thông tin như vậy dễ
làm nản lòng người từng quá lâu chờ đợi. Thật may mà sự việc lại không
như tác giả đoán định.
Sở dĩ vị luật sư đáng kính lấn cấn ở chỗ này vì những lẽ sau:
1-
Khi khảo sát công trình của nhóm giáo sư Y Chu, Li Jin. ông đã bỏ qua
chi tiết "Người tiền sử dừng lại ở đây trong khoảng 10.000 năm, họ lai
giống với nhau. 50.000 năm trước, người từ Đông Nam Á đến châu Uc." Như
vậy, trong lộ trình thiên di, không phải người tiền sử đến Đông Nam Á
rồi chia tay nhau ngay: một bộ phận ở lại còn bộ phận khác thì tiếp tục
hành trình sang châu Úc. Thực tế là, họ có sự dừng chân chung đụng lai
giống trên lục địa Đông Nam Á rồi 10.000 năm sau mới chia tay nhau! Kết
quả là, ở thời điểm chia tay ấy, cấu trúc di truyền của phần lớn (HVT
nhấn mạnh) dân cư Đông Nam Á đã gần như hòa đồng và không còn giống với
tổ tiên họ khi đặt chân tới đây. Người đi sang Úc cũng có bộ genes giống
với người ở lại. Chính điều này giải thích sự gần gũi về di truyền giữa
thổ dân châu Úc và người Đông Nam Á hiện đại như phát hiện của nhóm
giáo sư Y. Chu.
2- Thứ hai: Trong công trình của mình,
các tác giả của Dự án đa dạng di truyền người Hán đã không đề cập vấn đề
rất quan trọng: người tiền sử đến Đông Nam Á gồm một hay nhiều chủng
người? Chính vì không có thông tin này khiến cho những người khảo cứu
dựa trên công trình của họ bị bối rối, đưa ra những lý giải thiếu thuyết
phục. Thực ra vấn đề này từ lâu đã được nhân chủng học phát hiện. Bằng
nghiên cứu hình thái học hàng loạt sọ cổ Đông Nam Á, nhà nhân chủng học
Nguyễn Đình Khoa cho thấy: "Người tiền sử đến Đông Nam Á gồm hai đại
chủng Australoid và Mongoloid. Trong quá trình chung sống đã có sự lai
giống giữa họ thành hai chủng Indonesien, Melanesien cùng những chủng
lai giữa chúng với nhau là Negritoid, Vedoid" (2)
Khi
kết hợp giữa phát hiện mới của di truyền học với những kiến thức vốn có
về nhân chủng học Đông Nam Á như trên, vấn đề về thành phần nhân chủng
của người tiền sử Đông Nam Á trở nên rõ ràng:
Đặt chân
tới Đông Nam Á, hai đại chủng tiền sử Australoid và Mongoloid lai nhau
tạo ra các chủng Indoneisen và Melanesien, Vedoid, Negritoid. Tài liệu
từ thống kê sọ cổ cũng như di truyền học cho thấy ưu thế vượt trội tới
mức lấn át của yếu tố Australoid trong thành phần dân cư Đông Nam Á. Sau
10.000 năm là thời gian đủ cho họ tăng về số lượng, tràn khắp Đông Nam Á
lục địa. Do sự tăng nhân số mà nhu cầu di cư nảy sinh. Từ đây họ tỏa ra
châu Úc, Newguenea cùng các hải đảo Đông Nam Á.
Khoảng
40.000 năm trước, nhờ băng hà tan, thời tiết ấm lên, người Đông Nam Á
đi lên khai phá lục địa Trung Hoa rồi tiếp đó vượt eo Bering sang chiếm
lĩnh châu Mỹ. Suốt trong thời gian này không hề có bất kỳ đột biến
(mutation) nào mà chỉ có hòa huyết tự nhiên giữa những thành phần người
có mặt ở Đông Nam Á. Hoàn toàn không hề có chuyện người da sậm tóc xoăn
đột biến chuyển hóa thành người tóc đen da vàng như ông Cung Đình Thanh
giả định.
Có thể khẳng định: suốt thời gian
này, thành phần chủ yếu, đa số tuyệt đối trong dân cư Đông Á, châu Úc là
Australoid với những chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid.
Vậy người Mongoloid đi đâu? Vì sao sau này lại chiếm đa số trong dân cư Đông Á? Tôi xin trình bày ở phần sau
2/ VỀ BÀI VIẾT CỦA G.S NGUYỄN VĂN TUẤN
Trong
bài viết của mình, G.s Nguyễn Văn Tuấn trình bày sáng rõ và thuyết phục
nguồn gốc người Việt theo những phát hiện mới nhất về di truyền học.
Tuy vậy, tác giả hình như không thỏa đáng khi phản bác ý kiến của
Ballinger cho rằng người Đông Nam Á có nguồn gốc Mông Cổ phương Nam. (
were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid origin
of Asians). Phát hiện của Ballinger là rất quan trọng, nó như cái chìa
khóa giải quyết vấn đề nhân chủng học Đông Nam Á. Bác bỏ ý kiến của
Ballinger cũng có nghĩa chặn đứt con đường tìm ra lời giải về nhân chủng
Đông Nam Á. Tuy nhiên, theo ý chúng tôi thì Ballinger hoàn toàn chính
xác: đúng là người Đông Nam Á có nguồn gốc Mông Cổ phương nam.
Chúng
tôi cho rằng, trong điều kiện tự nhiên và xã hội lúc đó, người tiền sử
tới Đông Nam Á một cách riêng biệt theo từng nhóm chủng tộc khác nhau,
trong hành trình dài dằng dặc. Chỉ khi tụ lại trên đồng bằng Sundaland,
Nanhailand và miền Trung miền Bắc Việt Nam, hai đại chủng người tiền sử
mới có sự chung đụng và lai giống (cố nhiên, không loại trừ sự lai giống
ngẫu nhiên trên đường đi). Kết quả là hình thành một cộng đồng lai
chiếm tuyệt đại đa số cư dân. Đấy là bức tranh chung. Nhưng đó không
phải là tất cả mà bên cạnh còn những ngoại lệ: Có thể một số nhóm
Mongoloid hay Australoid suốt trên đường thiên di không hề có sự gặp gỡ
nào với chủng người khác. Tới Đông Nam Á, họ cứ sống biệt lập như vậy.
Một vài nhóm Mongoloid vượt lên tây bắc Đông Nam Á sau đó theo đường Ba
Thục lên định cư ở vùng tây bắc Trung Quốc. Ở đây họ sống cách biệt với
phần còn lại của nhân loại và hình thành chủng Mongoloid phương Bắc.
Suốt trong nhiều ngàn năm, họ từ săn bắt rồi chuyển sang phương thức du
mục trên thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc và nước Mông Cổ.
Cuộc thiên di của những nhóm người biệt lập như trên được nhiều học giả xác nhận.
Gs.
Ranjan Deka Đại học Cincinnati Hoa Kỳ, một trong những người tham gia
Dự án Đa dạng di truyền người Hán công bố: "Những quần thể từ Đông Á tới
luôn luôn bắt nguồn từ một dòng riêng rẽ, điều này tạo nên nguồn gốc
riêng biệt của những quần thể đó."(3) Sự kiện này cũng tìm được dẫn
chứng trong khảo cổ học: "Điều khó khăn nhất là rất ít sọ người được tìm
ra ở đấy, dù có di chỉ đồ đá ở Mông Cổ (văn hóa Hetao) và ở bắc Trung
Hoa vào hậu kỳ đá cũ. Ngoài ba sọ thuộc lớp khảo cổ trên ở trong hang
Zhoukoudian xem như thuộc chủng tiền (proto) Mongoloid, người ta chỉ tìm
được sọ Liujiang (Quảng Tây). Sọ này có tuổi định khá trẻ (10.000 năm
trước), nhưng di vật trong Bailiandong (Bạch Liên động) gần đó lại có
tuổi 30.000 năm trước.(4) Dù rất hiếm hoi nhưng những dấu vết trên cho
thấy: người Mongoloid từ Đông Nam Á theo hành lang phía tây lên tây bắc
Trung Quốc. Việc nghèo nàn di vật cũng nói lên một điều: nhóm người này
tuy đi làm nhiều đợt nhưng vì số lượng không nhiều nên chỉ tạo được quần
thể thiểu số Mongoloid phương Bắc.
Luật sư
Cung Đình Thanh cho rằng: "Người ở lại Đông Nam Á có sự chuyển hóa di
truyền thành da vàng, đi lên trung Quốc rồi sang châu Mỹ." Ý kiến này là
sự phỏng đoán không có cơ sở. Các tư liệu khảo cổ cũng như di truyền
học xác nhận: cho đến thiên niên kỷ thứ III TCN, dân cư trên toàn vùng
Đông Á tuyệt đại đa số thuộc về Australoid. Chính những người
Indonesien, Melanesien này đã vượt eo Bering sang châu Mỹ.
Quá
trình Mongoloid hóa chỉ xảy ra vào thiên niên kỷ thứ III TCN khi người
Hán Mông Cổ vượt Hoàng Hà xuống chiếm đất của người Bách Việt. Chính
người da vàng từ Tây Bắc xuống đã lai với người da sậm màu tại chỗ tạo
thành chủng Mongoloid phương nam. Đó là quá trình lai tạo chuyển hóa lâu
dài mà dấu vết còn đậm ở đời nhà Thương và sau nữa: "Thang, ông vua đầu
tiên của Trung Hoa được mô tả là có nước da đen bóng. Triết gia nổi ti
ếng L ão t ử c ũng c ó m àu da đen”(5)
Khoảng
2800 năm TCN, khi thấy những người da ngăm đen, tóc xoăn trồng lúa nước
phía Nam sông Hoàng Hà có cuộc sống sung túc, ý thức thực dân trong đầu
những người Hán Mông Cổ nổi lên. Họ kiên trì cuộc lấn chiếm với vó ngựa
và cung nỏ, dáo mác. Khoảng 2600 năm TCN, bằng chiến dịch lớn Trác Lộc
trên sông Hoàng Hà, người Hán Mông Cổ toàn thắng, tràn xuống vùng đất
vừa chiếm được. Cuộc gặp gỡ này phải chăng là định mệnh đã tạo ra một
chủng người mới trên địa bàn Đông Á: chủng Mongoloid phương Nam. Phải
chăng cũng là định mệnh việc một nhóm người sống tách biệt với bầy đoàn ở
tận vùng Tây Bắc xa vời đã giữ gìn vốn genes Mongoloid để khi gặp những
người Indonesien, Melamesien, vedoid từ phương Nam đi lên thì xảy ra
phản ứng dây chuyền của cuộc hòa huyết vĩ đại tạo nên tuyệt đại dân số
Đông Á hôm nay? Lịch sử chứng kiến một cuộc lội ngược dòng ngoạn mục:
trên toàn địa bàn Đông Á có một quá trình Mongoloid hóa mạnh mẽ. Thành
phần Australoid đang là chủ thể suốt 50.000 năm thì trong ba thiên niên
kỷ cuối cùng gần như biến mất khỏi địa bàn Đông Á, nhường chỗ cho thành
phần Mongoloid!
Giáo sư Nguyễn Đình Khoa của Đại họcTổng hợp Hà Nội trình bày trong Nhân chủng học Đông Nam Á: "Thời đại Đá Mới, cư dân trên lãnh thổ Việt Nam thuộc hai đại chủng Australoid và Mongoloid cùng các loại hình hỗn chủng giữa chúng cộng cư với nhau, trong đó có Indonesien và Melanesien là hai thành phần chủ yếu... Sang thời Đồng-sắt, người Mongoloid đã là thành phần chủ thể trong khối cư dân Việt Nam, người Australoid mất dần đi trên đất nước này, hoặc do thiên cư hoặc do đồng hóa."(Nguyễn Đình Khoa Sđd) Đó cũng chính là bức tranh toàn cảnh dân cư Đông Nam Á hiện đại.
Như vậy là, một cách nông cạn, chúng tôi tưởng đã hóa giải những điều còn ngờ vực, những điều còn chưa rõ ràng trong hai công trình khảo cứu của những tác giả đi trước.
Vấn đề về nguồn gốc người Việt nói riêng và người Đông Á nói chung đã được xác định.
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
48. Trả lời Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường
I
Hà văn Thùy (Lời thưa: Bài này tôi viết để trả lời tạp chí Tia sáng. Sau khi đọc tác giả trên mạng, tôi sẽ có những bài tiếp theo, vì đây là câu chuyện dài)
Tạp chí Tia sáng số 17 ra ngày 5 tháng 9 năm 2008 đăng bài “Di truyền học và cuộc tranh luận về nguồn gốc loài người”
của Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường. Đó là khảo cứu công phu và hữu ích giúp cho
người đọc tiếng Việt tiếp cận với cuộc cách mạng tri thức đang sôi động
trên thế giới.
Tuy
nhiên, có thực tế là, ngoài trường phái Mỹ mà tác giả sử dụng tư liệu
chủ yếu, còn trường phái Anh, Úc, châu Âu (Ý, Tây Ban Nha)… nghiên cứu
cùng chủ đề, công bố nhiều thông tin quan trọng. Mặt khác, cũng phải
nhắc rằng, giống như lĩnh vực nghiên cứu hạ nguyên tử (sub-atomic), sinh
học phân tử là khoa học đòi hỏi độ chính xác cao mà kết quả nghiên cứu
phụ thuộc chặt chẽ vào phương pháp và công cụ thí nghiệm. Vì vậy nói tới
chủ đề này cần có cái nhìn bao quát nhiều tư liệu của các trường phái
khác nhau để rồi chọn lọc đưa ra chủ kiến của mình. Nếu chỉ tin một
nguồn tư liệu, rất có thể sa vào trạng huống bi hài của những thầy bói
xem voi.
Bài viết này, tôi chỉ xin trao đổi lại với tác giả
về những điều liên quan tới tôi trong những dòng sau: “Không khó để thấy
sai lầm của tác giả. Vì ông lập thuyết dựa trên cuốn Địa đàng phương
Đông: Lục địa Đông Nam Á bị chìm, một cuốn sách phổ biến khoa học không
được đánh giá cao của Oppenheimer, chuyên gia nhi khoa
nhiệt đới người Anh và diễn giải sai công trình về bộ gen người Trung
Quốc của Chu và 16 đồng tác giả đăng trên tạp chí Proceedings of the
National Academy of Science, ngày 29-9-1998”
1. Việc đánh giá cuốn Địa đàng ở phương Đông
Đáng ngạc nhiên về tư duy của một vị tiến sĩ. Thế nào là cuốn sách phổ
biến khoa học không được đánh giá cao? Đấy phải chăng là tiêu chí chất
lượng? Hơn nữa, ai đứng ra đánh giá? Một suy nghĩ mang tư tưởng tiểu
nông, bầy đàn. Vấn đề ở đây là cuốn sách sai hay đúng, đưa lại những gì
mới?
Hơn 30 năm trước, Stephen Oppenheimer là bác sĩ nhi khoa vô danh tới làm
việc tại các đảo Nam Thái Bình Dương. Khi đi khám, chữa bệnh sốt rét
cho
một số bộ lạc thiểu số, ông bỗng nhận ra mối liện hệ giữa bệnh sốt rét
và sắc tộc. Từ đó ông vận dụng kiến thức di truyền, vẽ bản đồ phân bố
bệnh sốt rét.
Những bài viết đầu tiên của ông thông báo về gene miễn
nhiễm sốt rét liên quan tới sắc tộc đã làm xôn xao y giới. Là nhà nhân
bản lớn, từ phát hiện này, ông đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ, phong tục
tập quán, truyền thuyết, folklor của nhiều tộc người sống “ngoài rìa
thế giới”. Hàng trăm bài báo đuợc đăng trên những tạp chí uy tín. Và
công trình 20 năm của ông là cuốn sách trên. Những đóng góp trong đó có
Địa đàng phương Đông giúp ông trở thành Giáo sư của Oxford, Trường Đại
học danh tiếng hàng đầu thế giới.
Từ giữa thế kỷ trước đã có một số ý tưởng cho rằng văn hóa Đông Nam Á
lâu đời, ảnh hưởng tới văn hóa Cận Đông…
Nhưng chính S. Oppenheimer là
người
dũng cảm gạt bỏ mặc cảm tự hào da trắng để viết Địa đàng phương Đông,
tập sách lớn đầu tiên mang ý nghĩa phát hiện về Đông Nam Á với tư cách
là cái nôi văn hóa của nhân loại.
Đánh giá một công trình khoa học tùy thuộc vào nhận thức của từng người.
Riêng với tôi, đấy là công trình quan trọng nhất, mang tính cách mạng
về
vận mệnh Đông Nam Á. Chẳng những đưa lại công bằng cho những tộc người
từng có công khơi mở văn minh nhân loại, nó còn giúp cho các dân tộc
Đông Nam Á giác ngộ, ngẩng đầu tự nhận thức về mình sau hàng trăm năm bị
chủ nghĩa thực dân đầy đọa. Tôi cho rằng, sẽ tới lúc, đại gia đình
ASEAN phải đúc tượng vàng vinh danh ông với tư cách người tìm lại văn
hóa và nhà giải phóng tư tưởng lón nhất đối với Đông Nam Á.
Tuy quan trọng như vậy nhưng không thể lập thuyết dựa trên cuốn Địa đàng
phương Đông. Cái chính yếu mà tôi nhận được từ cuốn sách là sự cổ vũ về
tinh thần cùng
với một định hướng công tác: đi tìm cội nguồn các dân tộc Đông Nam Á, từ
đó tìm ra lịch sử, văn hóa đích thực của họ.
2. Về tài liệu của nhóm Y. Chu
Thực
tế cho thấy, dù có trong tay Địa đàng ở phương Đông, Genographics của
nhóm Spencer Wells hay Out of Eden
của S. Oppenheimer thì ta cũng chẳng có thể nói được gì về cỗi rễ người
Đông Á. Thông tin về di truyền trong Địa dàng phương Đông không dành
cho mục đích này. Còn hai công trình sau là những tài liệu di truyền học
đại cương (general genetics), mô tả hành trình của con người nói chung
rời châu Phi chiếm lĩnh Trái đất. Không thể dùng chúng để nghiên cứu
riêng từng sắc tộc. Đó là nhiệm vụ của di truyền học sắc tộc (ethnic
genetics).
Rất may là từ giữa năm 2004 tôi tiếp cận công trình của Giáo sư Y. Chu:
Đa
dạng di truyền người Trung Hoa (Chinese Human Genome Diversity Project).
Phải nói rằng, ở thời điểm ấy, khi Bản đồ gen người chưa được công bố,
đó là tài liệu duy nhất tôi có trong tay. Buồn ngủ gặp chiếu manh hay
chết đuối vớ được cọc chính là tâm trạng tôi lúc đó.
Tài liệu Y. Chu có mấy điểm chính:
Người tiền sử từ châu Phi theo đường phương Nam đến Việt Nam khoảng
60-70.000 năm trước.
Dừng lại ở đây trong 10.000 năm, họ lai giống, tăng nhân số, lan tỏa
khắp
Đông Nam Á lục địa rồi 50.000 năm trước di cư tới châu Úc và 40.000 năm
trước chiếm lĩnh các đảo ngoài khơi Đông Nam Á.
Cũng khoảng 40.000 năm trước, do thời tiết ấm lên, người từ Đông Dương
đi
lên lục địa Trung Hoa và khoảng 30.000 năm trước đi lên Siberia, rồi
vượt eo Bering sang châu Mỹ.
Đặc điểm di truyền của người Trung Quốc phương Bằc khác người Trung
Quốc phương Nam. Di truyền người Việt Nam gần gũi với dân Nhật Bản, Hàn
Quốc và Nam Trung Hoa.
Người Mông Cổ, người Altaic cũng từ Đông Nam Á đi lên mà không phải từ
Trung Á sang.
Người Việt Nam có chỉ số đa dạng di truyền cao nhất trong các sắc dân
Đông Á.
Trong các khảo luận của mình, tôi đã khai thác trung thành và triệt để
tài
liệu đó. Chính nhờ vào phát hiện mang tính đột phá của công trình này,
tôi hoàn thành cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (NXB Văn học –
2007).
Sau đó, bổ sung tư liệu, cho in cuốn Hành trình tìm lại cội nguồn
(NXB Văn học – 2008)
Đề nghị ông Đỗ Kiên Cường chứng minh xem tôi diễn giải sai ở chỗ nào?
Gán cho người khàc tội diễn giải sai công trình về bộ gen người Trung
Quốc của Chu mà không hề chứng minh, là thái độ kẻ cả, chủ quan khinh
suất không nên có trong sinh hoạt học thuật.
Ở trên tôi có nói: vấn đề chúng ta đang bàn là đề tài nghiên cứu của
nhiều trường phái, đưa ra những kết quả có khi mâu thuẫn nhau. Nếu không
biết chọn lọc mà chỉ nghiêng hẳn về một trường phái có thể dẫn tới
những ngộ nhận đáng tiếc. Trong bài viết của Tiến sĩ Đỗ Kiên Cường, có
những điểm đáng bàn sau:
- Theo Wells, tác giả khẳng định 60.000 năm trước mới có đợt di cư
quyết định cuối cùng
và phủ định công bố của S. Oppenheimer cho rằng di cư chủ yếu từ
80-90.000 năm trước. Nhưng khảo cổ học đã phát hiện bộ xương Mongoloid ở
LiuJiang, Quảng Tây có tuổi 68.000 năm trước. Cố nhiên nếu 60.000 năm
mới rời khỏi châu Phi thì trước đó 8.000 năm không thể hiện diện ở Quảng
Tây!(1)
-
Ông nói: “Theo Wells và nhiều người khác, từ Trung Đông lên Trung Á
(Bắc Afginistan) mới là hành trình chủ yếu. Khoảng 90% cư dân ngoài châu
Phi là hậu duệ của những nhá thám hiểm con đường này từ 50-40 ngàn năm
trước.”
Nhưng tôi cũng có tài liệu của các nhà khoa học Tây-ban-nha, Ý và Georgia.
Khi phân tích AND của 5000 chiếc răng hóa thạch tìm được ở châu Âu, đã
phát hiện rằng, khoảng 40.000 năm trước, khí hậu cải thiện, những người
từ Trung Đông đi lên châu Âu. Ở đây họ hòa huyết với những người từ châu
Á tràn sang, sinh ra tổ tiên người châu Âu. Do số lượng người châu Á
quá đông nên trong bộ gene người châu Âu, dòng máu châu Á là chủ thể!
(2)
-
Ông Đỗ Kiên Cường viết: “vậy người Hán có nguồn gien chủ yếu từ đâu?
Chủ yếu từ người Mongoloid phương Bắc (có nguồn gốc Altai thuộc Siberia;
Trung Á và Đông Nam Á, mà ban đầu cũng từ Trung Á), và từ người
Mongoloid phương Nam (hậu duệ của người Mongoloid phương Bắc di cư xuống
Tây Nam Trung Quốc, Tây Bắc Đông Nam Á. Người Việt có thể có nguồn gốc
Mongoloi là vì vậy.”
Có thể nói rằng, đó là cách hiểu sống
sít đầy tính sách vở, thiếu thực tế. Xin hỏi: Có đúng người Hán có nguồn
gen chủ yếu từ Mongoloid phương Bắc? Nếu vậy thì mã di truyền (genome)
đại đa số người Hán phải là Mongoloid phương Bắc! Nhưng trên thực tế,
chủng Mông cổ chỉ là một trong 53 tộc thiểu số bao gồm 200 triệu, trong
khi 1.100 triệu là Mogoloid phương Nam!
Điều này tôi đã trình bày rõ trong bài Cội nguồn người Hán và sự hình
thành nước Tàu. (3)
Những dòng ông Đỗ Kiên Cường dẫn trên có thể không sai. Nhưng lỗi chính
là do ông không nắm được thời điểm hình thành rồi di chuyển của từng
chủng
người cho nên đưa ra một mớ bòng bong khiến người đọc bối rối.
Phải mất nhiều tâm trí, tôi mới gỡ được từ mớ bòng bong đó những sợi như
sau:
-
84.000 năm trước đang thời Băng hà. Rời khỏi châu Phi, những người trụ
lại Trung Đông, do thời tiết khắc nghiệt, không thể đi lên phía bắc,
chịu đựng trạng thái tiềm sinh: mấy chục ngàn năm nhân khẩu tăng chậm và
hầu như dậm chân tại chỗ về văn hóa. Trong khi đó những người đi về
phía mặt trời mọc, tới được địa đàng. Khí hậu ấm áp, thức ăn dồi dào, họ
hòa huyết, tăng nhanh nhân số, sáng tạo dồ Đá mới, lan khắp Đông Dương
và các đảo Nam Thái Bình Dương.
Khoảng 40.000 năm trước, khi khí hậu
phia bắc tốt hơn, người từ Đông Dương đi lên Trung Hoa, rẽ về phía Tây,
vượt cao nguyên Tibet, vào Trung Á. Cũng lúc này, cái nhóm người nhỏ
nhoi sống èo ọt ở Trung Đông mới có thể đi lên châu Âu qua eo Bosporus.
Nhưng chính ở đây họ đã gặp rất đông đảo người mạnh mẽ, giỏi giang hơn
từ châu Á sang. Hai dòng hòa huyết tạo ra tổ tiên người châu Âu hiện
đại. Chuyện người từ châu Âu quay lại Trung Á, vào Tây Tạng rồi đi lên
Đông Bắc châu Á, sang châu Mỹ là có thực, nhưng muộn hơn, vào khoảng
20.000 năm trước. Những người Altaic trong số đó chỉ tạo thành nhóm
thiểu số ở Đông bắc Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản (4). Họ không có
vai trò đáng kể trong bộ gene dân cư Trung Quốc. Nhưng truy nguyên,
chính họ cũng từ gốc Đông Nam Á đi lên theo con đường ngoắt ngoéo. Trên
đường di cư, họ tiếp nhận ít nhiều yếu tố Europid (da trắng, rậm lông).
Một thực tế là, nếu chỉ có dữ liệu di truyền học, thì ngay cả di truyền
sắc
tộc như của nhóm Y. chu, cũng không giải quyết được những vấn đề phực
tạp của dân cư Đông Á. Cùng lắm, chúng chỉ là cái la bàn cho ta phương
hướng.
Tổng hợp tài liệu nước ngoài, dịch rồi công bố là công việc mà Khổng Tử
gọi là “thuật nhi bất tác.”
Nhưng khi chưng cất tinh túy của dữ liệu di
truyền đem luyện với hồn vía những tri thức khảo cổ học, cổ nhân học,
ngôn ngữ học, folklor, truyền thuyết… đề xuất ý tưởng chưa từng có thi
đích thị là “tác”rồi. Mọi sự “tác” khi mới ra đời đều mong manh, dễ bị
tổn thương, nếu vùi dập sẽ gây ra oan nghiệt. Trong bài Thưa chuyện với
sử gia tạ Chí Đại Trường (5), tôi phải cân nhắc nhiều mới dám hạ bút:
“Dù với sự thận trọng của người dám chịu trách nhiệm, chúng tôi cũng
buộc
phải thưa rằng, sử gia Tạ Chí Đại Trường không thể chối bỏ tội lỗi với
văn hóa dân tộc!” Nếu muốn trung thực, không thể viết khác. Vị sử gia
này đã phủ định sạch
trơn triết gia thiên tài Kim Định, góp phần đẩy lui học thuật và tư
tưởng dân tộc nhiều thập kỷ!
Khi làm việc, tôi gắng sức tách mình ra, đứng cao hơn những tư liệu
trước mặt để nắm bắt cái “hồn vía” của chúng. Điều mấu chốt với tôi là
người tiền sử đã theo con đường phương Nam tới Việt Nam. Người Việt cổ
đã từ Việt Nam đi lên khai phá đất Trung Hoa. Tổ tiên chúng ta mang theo
rìu đá rồi giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó xây dựng nông
nghiệp lúa nước từ sông Hồng, sông Mã tới Trường Giang, Hoàng Hà, đưa
Đông Nam Á thành trung tâm nông nghiệp tiên tiến và rực rỡ nhất thế giới
cổ đại.Sài Gòn Trung Thu 2008- Bản của tác giả
>1. Karen Rosenberg. University of Delaware, Deparment of
Anthropology. New York. De 19716. USA
5. Hà Văn Thùy. Sách đã dẫn.
49. Đến “Địa đàng ở phương Đông”
- 8:4 AM, 12/07/2010Đợt khai quật thứ 7 mới đây, trong vòng 60 năm tổ chức khảo cổ di chỉ văn hóa Phùng Nguyên, các nhà nghiên cứu đã phát hiện hàng tấn hiện vật và hai ngôi mộ táng, trong đó còn lưu giữ di cốt của con người thời đại đồ đồng cách đây hơn 4000 năm.
Chiếc bình gốm Ban Chiang còn nguyên vẹn màu sắc, hình dáng sau 5.000 năm vùi lấp dưới lòng đất.
Cách di chỉ văn hoá Phùng Nguyên hơn một giờ bay, Di chỉ khảo cổ Ban Chiang thuộc tỉnh Udon Thani (Thái Lan) được phát hiện năm 1957, có nhiều điểm tương đồng, với những di vật tương tự có cùng niên đại.
Hơn
thế, nay Ban Chiang còn trở nên rạng rỡ hơn qua tác phẩm nổi tiếng “Địa
đàng ở Phương Đông- Eden in the East” của bác sĩ Stephen Oppenheimer.
Trước
đó, năm 1992, Ban Chiang cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn
hoá của nhân loại. Hy vọng rồi đây di chỉ khảo cổ văn hoá Phùng Nguyên
trên đất Việt Nam, cũng sẽ có một ngày như vậy.
Trên cái nôi nền văn minh lúa nước
Từ
Đà Nẵng, tôi mua vé xe đò đi Vientiane, thủ đô nước CHDCND Lào, rồi từ
đây đón xe đi Udon Thani, để đến di chỉ khảo cổ Ban Chiang. Địa danh này
hấp dẫn tôi từ sau khi đọc cuốn “Địa đàng ở phương Đông” của Stephen
Oppenheimer. So với cách đây ít năm, tuyến xe liên vận quốc tế Lào -
Việt đã đổi mới nhiều lắm.
Xe
tốt, đường đẹp và ngày nào cũng có chuyến xuôi ngược. Đoạn đường giữa
hai điểm dài khoảng 1.100km, qua hai lần cửa khẩu biên giới Densavan,
Nọng Khai để vào CHDCND Lào và Thái Lan nhưng cứ nhẹ như không. Sau ngày
tuyến xuyên Á trên trục kinh tế hành lang Đông-Tây từ Đà Nẵng đi thẳng
Myanmar được khai thông, sự làm ăn, đi lại giữa cư dân ba nước Việt -
Lào - Thái trở nên nhộn nhịp và dễ dàng hơn rất nhiều so với trước đó.
Để
đến Ban Chiang, từ Udon Thani, tôi phải đổi, đi nhờ xe hai lần. Đoạn
này không có tuyến xe công cộng. Tôi hơi ngạc nhiên vì điều bất tiện
này. Địa danh Ban Chiang từ lâu vốn không xa lạ với giới quan tâm đến
văn hoá Đông Nam Á, và đặc biệt còn trở nên thu hút hơn sau cuốn “Địa
đàng ở phương Đông” nổi tiếng được xuất bản năm 1999 tại Anh và dịch
sang tiếng Việt năm 2006. Cuốn sách đã làm chấn động trong giới nghiên
cứu các nền văn minh của thế giới, bằng sự công bố rộng rãi các tư liệu
của quá trình khai quật khảo cổ tại một số địa điểm trên vùng Đông Bắc
Thái Lan do các nhà khoa học Mỹ, Thái Lan thực hiện từ năm 1957 đến nay.
Trong đó, những hiện vật thuộc niên đại đồng thau, di hài người cổ và
các vụn gạo... được phát hiện tại Ban Chiang và một số khu vực lân cận,
đã góp phần quan trọng xác định lại cái nôi của nền văn minh lúa nước,
niên đại cách nay từ 7.000-10.000 năm có địa chỉ tại khu vực Đông Nam Á.
Rồi từ đây kỹ thuật canh tác cây lúa tiến lên phía Bắc, vào Trung Hoa; đi sâu về hướng Tây đến Ấn Độ... chứ không phải xuất phát từ lưu vực sông Dương Tử vốn được giới nghiên cứu sử học và khảo cổ ủng hộ trước đó. Năm 1992, Tổ chức UNESCO đã công nhận di chỉ khảo cổ này là Di sản Văn hoá nhân loại.
Một góc Bảo tàng Ban Chiang trên thực địa khảo cổ.
Xuống
xe ở ngã ba Nong Han, tôi đón một chiếc pickup dùng để chở nông sản,
quá giang vào khu di chỉ khảo cổ. Dù là thôn lộ, nhưng đường sá rộng
rãi, sạch đẹp. Hai bên đường đồng lúa xanh tốt bời bời và bát ngát ngút
tầm mắt. Phong cảnh trông không khác vùng đồng bằng sông Cửu Long của ta
là bao. Nghe tôi giới thiệu là nhà báo Việt Nam, chủ xe, anh Chăng La
bảo rằng, anh là người vùng Ban Chiang và tiện đường về, anh sẽ đưa tôi
đi thăm khu vực khai quật khảo cổ Ban Chiang luôn.
Kỹ
nghệ tiếp thị du lịch dường như đã ăn vào máu người Thái từ thành thị
đến nông thôn. Có lẽ cảm thấy bất tiện khi để tôi ngồi cùng với mớ
khoai, bí... trên thùng xe, anh bảo xe này chỉ để chở hàng nông sản đi
bán. Gia đình anh còn một chiếc xe đi chơi nữa và sẽ đưa tôi về Udon
bằng chiếc xe kia.
Có
dịp thăm một số vùng nông thôn khu vực đông bắc Thái, tôi biết anh nói
không phải để khoe của. Người nông dân Thái Lan đa phần có đời sống khá
sung túc. Rất nhiều gia đình ở nông thôn có hai chiếc ôtô, một để chở
hàng, một để đưa gia đình đi chơi. Do giá rẻ nên ôtô từ lâu là phương
tiện phổ biến ở Thái Lan như xe máy ở Việt Nam. Đặc biệt xe cũ được bày
bán rất nhiều ở các khu đất trống đầu làng. So sánh hơi khập khểnh một
chút thì tài sản như vậy là tương đương một gia đình trung lưu bên ta.
Màu gốm đỏ 5.000 năm
Toàn
bộ khu di chỉ khảo cổ Ban Chiang rộng khoảng 2,5km2 được chia làm hai
khu vực. Sau khi lực lượng khảo cổ rút đi, các nhà bảo tàng học Thái Lan
đã nhanh chóng khéo léo biến thực địa khảo cổ chính thành một bảo tàng
lộ thiên rộng khoảng 500m2, giữ nguyên hiện trạng khai quật. Trong khu
bảo tàng này còn lưu giữ 2 bộ di cốt nguyên vẹn của con người thời đại
đồ đồng thau cách nay hơn 5.000 năm, tương đương với niên đại các bộ
xương người mới phát hiện tại di chỉ khảo cổ Phùng Nguyên (Việt Nam).
Cách đó khoảng 5km là một bảo tàng khác, được xây dựng trên một khuôn
viên trộng khoảng 3ha, dùng để trưng bày và bảo quản hiện vật thu thập
tại di chỉ.
Bà
Supawan - quản thư bảo tàng - trực tiếp đưa tôi đi và giới thiệu khá
chi tiết về thiết chế bảo tồn và phát huy di sản khảo cổ này. Bà bảo:
“So với các bảo tàng trên thế giới thì Ban Chiang có phương pháp trưng
bày khoa học không hề thua kém. Tuy vậy độ phức tạp nhằm giới thiệu cho
du khách có một cái nhìn toàn cảnh về di sản văn hoá thế giới quan trọng
này đòi hỏi cao hơn hẳn”.
Chuẩn
bị tâm lý và giúp du khách dễ hình dung, “tour” tham quan bảo tàng bắt
đầu từ phòng chiếu phim miêu tả “cuộc hành trình” tìm kiếm cách đây 50
năm; đến phòng tư liệu bằng hình ảnh, rồi hiện vật trưng bày... lịch sử
nhân loại được tái hiện từ những chiếc bình gốm sơn đỏ đầu tiên có niên
đại 5.000 năm, vùi sâu trong lòng đất hoặc lưu giữ tại các hang động,
đến những bộ xương cùng các hiện vật tuỳ táng bằng đồng; các vụn gạo
niên đại thiên kỷ thứ 5 trước công nguyên... lần lượt được giới thiệu
trước mắt du khách, sinh động như lịch sử hiện về. Ở Việt Nam, đến nay
gần như chưa có bảo tàng nào được trưng bày đẹp và khoa học như vậy.
Di cốt của người tiền sử niên đại hơn 5.000 năm được tìm thấy ở Ban Chiang.
Chiều
muộn, anh Chăng La đưa tôi đến thăm một ngôi chùa cổ cách đó khoảng
20km, khá gần nhà anh. Thói quen của bất kỳ người Thái nào ở vùng Đông
Bắc là kết thúc cuộc hành trình bất kỳ bằng cách thăm và thắp hương ở
một ngôi chùa. Tôn giáo chi phối gần như toàn bộ đời sống xã hội của
người dân tại đây. Hôm làm việc ở Đại học hoàng gia Udon Thani, GS Sorat
còn cho biết một cách giáo dục khá lạ. Kỷ luật nặng nhất đối với sinh
viên vi phạm kỷ luật tại trường đại học này là... gửi vào chùa tĩnh tâm
ba tháng (!).
Con
đường đến chùa xuyên qua nhiều thôn bản. Đường sá, nhà cửa khá ngăn nắp
nhưng vắng bóng người. Trong chiều muộn, tiếng nghé gọi bầy cho tôi cảm
giác đi trên đất quê hương. Nhưng anh bạn mới quen cho tôi biết, trong
làng anh nhiều người mới về từ cuộc biểu tình đẫm máu ở Bangkok. Anh nói
thêm, không khí không vui như trước đây, nhưng không sao.
Theo
suy nghĩ của dân làng, không có cuộc thoát thai nào mà không kèm theo
sự tổn thương. Họ tin tưởng lịch sử buồn đau hôm nay là tương lai tươi
sáng cho ngày mai, cũng như cái Khu di chỉ khảo cổ Ban Chiang kia, lịch
sử bao giờ cũng có một ý nghĩa với hiện tại.
Nguyễn Trung Hiếu http://laodong.com.vn/phong-su/den-dia-dang-o-phuong-dong-1157.bld
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete