136.NVGP & TRÍ THỨC
Nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học Dương Trung Quốc, nhà
nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, cùng với tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa đã gặp mặt
đầu năm cùng Sài Gòn Tiếp Thị, để từ những sự kiện văn hoá diễn ra gần
đây, nghĩ về vai trò của trí thức Năm 2007
Rất nhiều chuyển động trong năm 2007, hứa hẹn sẽ “kết trái”. Có những chuyển động bắt đầu từ chính quyền: giải thưởng Nhà nước được trao cho Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm; cho phép xuất bản tập tiểu luận được viết bằng tiếng Pháp của cụ Phạm Quỳnh. Sự “tái sinh” của Phạm Quỳnh, một nhân vật mà cả con người và tác phẩm đều phải “biến mất” trong suốt hơn 60 năm qua, chẳng phải là việc dễ dàng.
Có những chuyển động bắt đầu từ dân chúng, đặc biệt là những công dân trẻ tuổi. Họ đã thể hiện vai trò của thế hệ mình trước các vấn đề thời cuộc. Không có gì phải ngạc nhiên về điều đó. Việt Nam đã đứng bên cạnh cộng đồng quốc tế, đã tiếp cận với những chuẩn mực văn minh và, từng bước, không thể không ứng xử theo những gì mà thế giới đang có.
Nhắc lại Trần Dần, Lê Đạt, Phạm Quỳnh…, nghĩ về sự “phân tuyến” mà thấy thấm hơn cả “tem phiếu”. Sự bao cấp và độc quyền các chuẩn mực, các giá trị văn hoá, tinh thần, không chỉ khiến cho nhiều nhân vật và tác phẩm phải chịu một số phận như vậy, mà còn tác động tới dân trí, một cách lâu dài.
Sự im lặng của trí thức
Trí thức luôn là lực lượng được chờ đợi trước những thời điểm quan trọng. Kinh tế đang tiệm cận với những chuẩn mực của thị trường. Cấu trúc xã hội cũng muôn phần thay đổi. Các lực lượng khác của xã hội, bằng mọi cách, đã thể hiện mình. Trong khi, theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, “trí thức thì im lặng”. Nhà văn Nguyên Ngọc cũng quan sát và có cùng nhận xét, nhưng vấn đề theo ông, bởi vì: “Chúng ta có một số nhà trí thức có tư cách nhưng chưa có một tầng lớp trí thức”.
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng lý do để Việt Nam chưa có được một “tầng lớp trí thức” là vì “tập tính dân tộc”. Mặt khác, theo ông Quốc, “không có tư hữu, không có tầng lớp sở hữu chủ làm sao có được một tầng lớp trí thức đúng nghĩa”.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói, trong lịch sử, Việt Nam chỉ có các nhà nho chứ chưa có các trí thức. Ông Nguyên dẫn nghiên cứu của giáo sư Trần Đình Hượu: Từ nhà nho truyền thống, đến thế kỷ 18 - 19, khi các đô thị như “kinh kỳ, phố Hiến” xuất hiện, ta có những “nhà nho tài tử”; khi Pháp vào, ta có những “nhà nho cần vương”; đến thời du nhập tư tưởng phương Tây, ta có những “nhà nho cải cách” như Phan Chu Trinh, rồi “nhà nho cách mạng” như cụ Hồ.
Trí thức (mà ta đang gọi hiện nay) chỉ có nhân cách với lõi là “kẻ sĩ” chứ tư cách trí thức với nghĩa có thái độ dấn thân, dám bảo vệ chính kiến thì còn yếu. Chính vì vậy, mà theo nhà sử học Dương Trung Quốc, có những bậc “đại trượng phu”, trước thời cuộc, khi dân chúng chờ đợi họ lên tiếng cho dân tộc thì họ chỉ có thể “giữ lấy lề” cho chính mình.
Ông Dương Trung Quốc bày tỏ sự thất vọng khi chứng kiến, trong một cuộc tiếp xúc giữa một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng với trí thức, một vị “trưởng thượng” đã đứng lên để hỏi: “Vì sao có ngày doanh nhân mà không có ngày trí thức?” Một trí thức khác thì khiếu nại: “Tôi vừa về hưu là hộ chiếu đỏ bị thu lại ngay”. Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa nói: “Không thể cứ có bằng cấp là trở thành trí thức”. Không thể có trí thức khi khát khao của những người có bằng cấp là chức tước, là bổng lộc thay vì tự do.
Không gian tự do
Khát khao tự do chính là yếu tố quyết định để Việt Nam có một thế hệ trí thức - nhà nho tham gia kháng chiến. Chính vì thế mà theo nhà sử học Dương Trung Quốc, cách mạng có một thế hệ vàng như Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Phan Khôi…
Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá cao việc trao giải cho các nhà văn thuộc phong trào Nhân văn giai phẩm. Theo ông, phải biết, chỉ cách đây chưa tới 30 năm, nhà thơ Hoàng Hưng đã từng phải chịu “ba năm cải tạo” vì “tàng trữ” tập thơ Kinh Bắc của Hoàng Cầm, mới thấy ý nghĩa to lớn của việc tập thơ này có tên trong danh sách tác phẩm được giải thưởng Nhà nước.
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên nói: “Mối quan hệ giữa văn nghệ và lãnh đạo thời kỳ đầu đã được mô tả như thời “Nghiêu - Thuấn”. Tổng bí thư Trường Chinh đã từng tranh luận suốt ba ngày với hoạ sĩ Tô Ngọc Vân về quan điểm “quần chúng hoá sinh hoạt”, “kháng chiến hoá văn nghệ”. Cho dù phần thắng cuối cùng không thuộc về ông Tô Ngọc Vân, nhưng dù sao thì thời đó, dân chủ vẫn tồn tại.
Hầu hết những trí thức Việt Nam tham gia kháng chiến đều vì “độc lập dân tộc”. Tuy nhiên, theo ông Nguyên Ngọc, khát vọng lớn nhất của trí thức là tự do. Đó là lý do vì sao khi hoà bình lập lại thì nhu cầu dân chủ và tự do xuất hiện. Trong tình huống ấy, theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, nếu không có một không gian tự do đủ để tiếp cận với sự thật thì không thể nào tạo ra và tồn tại một tầng lớp trí thức thực sự.
Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa nói, tri thức Việt Nam đang được lưu giữ một phần ở trong nước và một phần tản mạn khắp nơi ở hải ngoại. Tuy nhiên, theo tiến sĩ, gom lượm tri thức đã khó, từ giới có học, có bằng cấp, tạo thành một lớp trí thức có năng lực khám phá, có đầu óc phản biện, có dũng khí đứng vững như cây thông lại càng khó hơn. Theo ông, khi Nho giáo suy tàn, nền Tây học chưa ổn định, khó mà hình thành một “tầng lớp trí thức Việt Nam” có bản lĩnh và có khả năng phân tích phản biện.
Không thể thay đổi lịch sử nhưng vẫn có thể học từ lịch sử. Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá cao việc trao giải thưởng Nhà nước cho những nhà văn trong phong trào Nhân văn… Tuy nhiên ông cho rằng cần phải làm nhiều hơn nữa để hoá giải quá khứ. Không chỉ là số phận của một số văn nghệ sĩ, trí thức mà còn là sự ngẩng cao đầu của một dân tộc.
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên cho rằng cần phải có “một nền chính trị tham dự” thì mới nâng cao dân trí được. Bao cấp, nhiều khi sẽ dẫn đến sự trói tay cả một dân tộc. Không chỉ hình thành một tầng lớp trí thức đủ mạnh và có tư cách, theo tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, “Giữ quốc gia thời nay không thể chỉ duy nhất trông cậy vào nhà nước, (phải có) một xã hội dân sự phát triển như trăm nghìn thành luỹ mới mong gìn giữ được những gì đã thuộc về người Việt Nam”
Huy Đức - Mỹ Lệ lược thuật - minh họa Hồng Nguyên
Rất nhiều chuyển động trong năm 2007, hứa hẹn sẽ “kết trái”. Có những chuyển động bắt đầu từ chính quyền: giải thưởng Nhà nước được trao cho Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm; cho phép xuất bản tập tiểu luận được viết bằng tiếng Pháp của cụ Phạm Quỳnh. Sự “tái sinh” của Phạm Quỳnh, một nhân vật mà cả con người và tác phẩm đều phải “biến mất” trong suốt hơn 60 năm qua, chẳng phải là việc dễ dàng.
Có những chuyển động bắt đầu từ dân chúng, đặc biệt là những công dân trẻ tuổi. Họ đã thể hiện vai trò của thế hệ mình trước các vấn đề thời cuộc. Không có gì phải ngạc nhiên về điều đó. Việt Nam đã đứng bên cạnh cộng đồng quốc tế, đã tiếp cận với những chuẩn mực văn minh và, từng bước, không thể không ứng xử theo những gì mà thế giới đang có.
Nhắc lại Trần Dần, Lê Đạt, Phạm Quỳnh…, nghĩ về sự “phân tuyến” mà thấy thấm hơn cả “tem phiếu”. Sự bao cấp và độc quyền các chuẩn mực, các giá trị văn hoá, tinh thần, không chỉ khiến cho nhiều nhân vật và tác phẩm phải chịu một số phận như vậy, mà còn tác động tới dân trí, một cách lâu dài.
Sự im lặng của trí thức
Trí thức luôn là lực lượng được chờ đợi trước những thời điểm quan trọng. Kinh tế đang tiệm cận với những chuẩn mực của thị trường. Cấu trúc xã hội cũng muôn phần thay đổi. Các lực lượng khác của xã hội, bằng mọi cách, đã thể hiện mình. Trong khi, theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, “trí thức thì im lặng”. Nhà văn Nguyên Ngọc cũng quan sát và có cùng nhận xét, nhưng vấn đề theo ông, bởi vì: “Chúng ta có một số nhà trí thức có tư cách nhưng chưa có một tầng lớp trí thức”.
Nhà sử học Dương Trung Quốc cho rằng lý do để Việt Nam chưa có được một “tầng lớp trí thức” là vì “tập tính dân tộc”. Mặt khác, theo ông Quốc, “không có tư hữu, không có tầng lớp sở hữu chủ làm sao có được một tầng lớp trí thức đúng nghĩa”.
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên nói, trong lịch sử, Việt Nam chỉ có các nhà nho chứ chưa có các trí thức. Ông Nguyên dẫn nghiên cứu của giáo sư Trần Đình Hượu: Từ nhà nho truyền thống, đến thế kỷ 18 - 19, khi các đô thị như “kinh kỳ, phố Hiến” xuất hiện, ta có những “nhà nho tài tử”; khi Pháp vào, ta có những “nhà nho cần vương”; đến thời du nhập tư tưởng phương Tây, ta có những “nhà nho cải cách” như Phan Chu Trinh, rồi “nhà nho cách mạng” như cụ Hồ.
Trí thức (mà ta đang gọi hiện nay) chỉ có nhân cách với lõi là “kẻ sĩ” chứ tư cách trí thức với nghĩa có thái độ dấn thân, dám bảo vệ chính kiến thì còn yếu. Chính vì vậy, mà theo nhà sử học Dương Trung Quốc, có những bậc “đại trượng phu”, trước thời cuộc, khi dân chúng chờ đợi họ lên tiếng cho dân tộc thì họ chỉ có thể “giữ lấy lề” cho chính mình.
Ông Dương Trung Quốc bày tỏ sự thất vọng khi chứng kiến, trong một cuộc tiếp xúc giữa một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng với trí thức, một vị “trưởng thượng” đã đứng lên để hỏi: “Vì sao có ngày doanh nhân mà không có ngày trí thức?” Một trí thức khác thì khiếu nại: “Tôi vừa về hưu là hộ chiếu đỏ bị thu lại ngay”. Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa nói: “Không thể cứ có bằng cấp là trở thành trí thức”. Không thể có trí thức khi khát khao của những người có bằng cấp là chức tước, là bổng lộc thay vì tự do.
Không gian tự do
Khát khao tự do chính là yếu tố quyết định để Việt Nam có một thế hệ trí thức - nhà nho tham gia kháng chiến. Chính vì thế mà theo nhà sử học Dương Trung Quốc, cách mạng có một thế hệ vàng như Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Phan Khôi…
Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá cao việc trao giải cho các nhà văn thuộc phong trào Nhân văn giai phẩm. Theo ông, phải biết, chỉ cách đây chưa tới 30 năm, nhà thơ Hoàng Hưng đã từng phải chịu “ba năm cải tạo” vì “tàng trữ” tập thơ Kinh Bắc của Hoàng Cầm, mới thấy ý nghĩa to lớn của việc tập thơ này có tên trong danh sách tác phẩm được giải thưởng Nhà nước.
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên nói: “Mối quan hệ giữa văn nghệ và lãnh đạo thời kỳ đầu đã được mô tả như thời “Nghiêu - Thuấn”. Tổng bí thư Trường Chinh đã từng tranh luận suốt ba ngày với hoạ sĩ Tô Ngọc Vân về quan điểm “quần chúng hoá sinh hoạt”, “kháng chiến hoá văn nghệ”. Cho dù phần thắng cuối cùng không thuộc về ông Tô Ngọc Vân, nhưng dù sao thì thời đó, dân chủ vẫn tồn tại.
Hầu hết những trí thức Việt Nam tham gia kháng chiến đều vì “độc lập dân tộc”. Tuy nhiên, theo ông Nguyên Ngọc, khát vọng lớn nhất của trí thức là tự do. Đó là lý do vì sao khi hoà bình lập lại thì nhu cầu dân chủ và tự do xuất hiện. Trong tình huống ấy, theo nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên, nếu không có một không gian tự do đủ để tiếp cận với sự thật thì không thể nào tạo ra và tồn tại một tầng lớp trí thức thực sự.
Tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa nói, tri thức Việt Nam đang được lưu giữ một phần ở trong nước và một phần tản mạn khắp nơi ở hải ngoại. Tuy nhiên, theo tiến sĩ, gom lượm tri thức đã khó, từ giới có học, có bằng cấp, tạo thành một lớp trí thức có năng lực khám phá, có đầu óc phản biện, có dũng khí đứng vững như cây thông lại càng khó hơn. Theo ông, khi Nho giáo suy tàn, nền Tây học chưa ổn định, khó mà hình thành một “tầng lớp trí thức Việt Nam” có bản lĩnh và có khả năng phân tích phản biện.
Không thể thay đổi lịch sử nhưng vẫn có thể học từ lịch sử. Nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá cao việc trao giải thưởng Nhà nước cho những nhà văn trong phong trào Nhân văn… Tuy nhiên ông cho rằng cần phải làm nhiều hơn nữa để hoá giải quá khứ. Không chỉ là số phận của một số văn nghệ sĩ, trí thức mà còn là sự ngẩng cao đầu của một dân tộc.
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên cho rằng cần phải có “một nền chính trị tham dự” thì mới nâng cao dân trí được. Bao cấp, nhiều khi sẽ dẫn đến sự trói tay cả một dân tộc. Không chỉ hình thành một tầng lớp trí thức đủ mạnh và có tư cách, theo tiến sĩ Phạm Duy Nghĩa, “Giữ quốc gia thời nay không thể chỉ duy nhất trông cậy vào nhà nước, (phải có) một xã hội dân sự phát triển như trăm nghìn thành luỹ mới mong gìn giữ được những gì đã thuộc về người Việt Nam”
Huy Đức - Mỹ Lệ lược thuật - minh họa Hồng Nguyên
No comments:
Post a Comment