137. HOÀNG TIẾN * TỐ HỮU VÀ NVGP
Sự thật ở đâu ?
Nhà văn Hoàng Tiến
(Nhân đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi)
Năm
1997, tôi có viết một tiểu luận “Nhìn lại vụ án Nhân văn-Giai phẩm cách
đây 40 năm”. Dưới con mắt của người nghiên cứu, tôi đặt ra một vấn đề:
trên cái bề mặt nổi của đấu tranh giai cấp về quan điểm tư tưởng vô sản
và quan điểm tư tưởng tư sản trong văn nghệ, giấu một cái mạch ngầm là
lòng đố kỵ tài năng, là sự đố kỵ của Tố Hữu với những tài năng trong văn
nghệ. Đó là cách nhìn của tôi về vụ án văn học kỳ dị nhất trong lịch sử
văn chương xứ ta, với mức án không thành văn kéo dài hàng 30 năm. Đến
khi được cởi trói (1986 Đại hội Đảng lần VI) thì nhiều người tóc đã bạc
phơ, nhiều người đã chết. Cách nhìn nhận ấy đúng hay không đúng, mong
được bàn bạc. Chính vì vậy trong tiểu luận tôi phải chỉ ra được những
yếu kém trong thơ Tố Hữu, điều mà lâu nay như cấm kỵ; và đi theo nó phải
chứng minh được những cái hay của các nhà thơ bị đánh trong vụ án Nhân
Văn. Phần phụ lục trích mỗi nhà thơ Nhân Văn hai bài, nhằm cung cấp tư
liệu để độc giả tự đánh giá.
Bạn bè thân quen bảo: “Ông Tố Hữu tuy bây giờ nghỉ làm việc, nhưng thế lực còn mạnh lắm, ông ấy vẫn có thể bóp chết anh bất cứ lúc nào.”
Tôi đã trả lời: “Tôi hiểu điều ấy. Chính đấy là lý do khiến tôi phải viết khi ông ấy còn sống.” Bạn cứ lắc đầu hoài. Tôi phải nói thêm: “Nếu không thì trả lời thế nào với câu hỏi của người sau: “Sao khi ông ấy sống không thấy ai viết gì ?”
Tôi đã chính thức gửi bài viết đến Tạp chí Văn học của Viện Văn học và vài tờ báo khác, cũng như gửi đến nhà thơ Tố Hữu. Không thấy đâu đăng, cũng không thấy đâu trả lời.
Không sao! Không đăng là quyền của họ, trách nhiệm phải viết là quyền của tôi. Cho nên khi Tố Hữu mất, tôi đã không viết gì nữa, cho rằng trách nhiệm của mình đã xong. Nhân đọc trên báo Lao Động thấy nhà thơ Hoàng Cầm, người bị điêu đứng trong vụ án Nhân Văn, có bài thương cảm viếng nhà thơ Tố Hữu, gây cảm xúc mà bật ra mấy câu sau:
Tố Hữu mất đi
Hoàng Cầm viết lời ai điếu
Đăng đầu tiên, báo Lao Động, trang 5.
Ông trời xanh rõ thật oái oăm
Khiến dân đen bật cười khúc khích.
Hoàng Cầm vị thuốc đắng
Nên giã tật rất tài.
Chuyện thế gian,
thôi, gác bỏ ngoài tai
Phất tay áo,
đến Trúc Lâm:
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” (*)
(*): Bài “Cư trần lạc đạo”của Trần Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm thiền phái. Người viết xin phép đảo câu đầu và câu cuối.
(Tạm dịch:)
Trước cảnh, tâm không, hỏi gì thiền
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
(Xin được nối thêm:)
Lòng không thù hận, hồn trong sáng
Mở rộng yêu thương tới mọi miền.
(12 – 12 – 2002)
Gần đây, trong dịp toàn dân tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi có được đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” của Nhật Hoa Khanh ghi, và các báo Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội.... trích đăng vài phần, nhất là phần nói về đại tướng Võ Nguyên Giáp (báo Quân Đội Nhân Dân đăng 3 số liền), bỗng lại thấy rằng mình chưa thể thôi viết được. Với góc độ của người nghiên cứu đã viết về Tỗ Hữu, tôi thấy cần phải bàn cho ra sự thật.
Tâm sự Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh ghi hoàn toàn khác với Tố Hữu đã sống trước đây.
Bản thảo được hoàn thành tháng 2 – 2004, đã được thông qua bà Vũ Thị Thanh, vợ ông Tố Hữu, được tung ra vào dịp cả nước hoan hỉ kỷ niệm Điện Biên Phủ, nhằm cái gì? Muốn thanh minh với đại tướng Võ Nguyên Giáp chăng? Võ đại tướng trong kỷ niệm 50 Điện Biên Phủ, có thể nói ông đã lại thắng một trận Điên Biên Phủ thứ hai. Cả nước ghi ơn ông. Tên tuổi ông và đức độ của ông sống lại, chói ngời trên cả nước.
Một câu hỏi được đặt ra với người nghiên cứu, bản thảo thực sự đã viết xong từ tháng 5 – 1997 (theo Nhật Hoa Khanh), nghĩa là gần 6 năm sau Tố Hữu mới mất. Sao không công bố trong chuỗi thời gian ấy, lại để đến tận bây giờ ? Liệu có sâu xa tính toán gì như thơ di cảo của Chế Lan Viên ?
Đã từ lâu nhiều người rất mong muốn nhà thơ Tố Hữu hãy xin lỗi anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" lấy một tiếng. Như nhà viết kịch Bửu Tiến đã làm trong một đại hội nhà văn. Như nhiều anh em văn nghệ khác đã hùa theo đánh anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" hồi ấy, nay đã nhận sai lầm, đã đến xin lỗi từng cá nhân. Cho lòng mình nhẹ nhõm, cho lòng bạn nhẹ nhõm. Nhưng Tố Hữu đã không làm.
Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của Đại hội Đảng lần VI, tổng bí thư lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh; người đẫ giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ: “cởi trói cho văn nghệ sĩ” “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình” “không bẻ cong ngòi bút” “dũng cảm trình bày sự thật” ..vv...
Trong cái không khĩ cởi mở ấy của Nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" bây giờ. Nhà thơ Tố Hữu với giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói: “Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt hết chúng nó đi.” Trên đường về ông Trần Độ có rẽ vào thăm ông Hoàng Cầm, có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm đến nay còn sống, yếu lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư, Hà Nội. Ai có thắc mắc, xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm đi mất, lại thành tam sao thất bản.
Chuyện rỉ tai văn nghệ sĩ về Tố Hữu thì nhiều lắm. Nhất là cái hồi ông Tố Hữu làm phó thủ tướng phụ trách giá-lương-tiền, rồi đồn thổi có thể làm tổng bí thư. Cái bả vinh hoa ấy của ông Duẩn và ông Thọ đưa ra, có thể đã làm nhà thơ choáng váng trong hy vọng, và có thể hồi ấy đã phải biểu lộ những cư xử với Võ đại tướng để chứng tỏ lập trường của mình đứng về phía bên nào, nên sau này hối hận, cứ phải thanh minh trong lời tâm sự với Nhật Hoa Khanh, nói khá kỹ về lòng yêu quý đại tướng Võ Nguyên Giáp, chiếm khá nhiều trang giấy, hai lần viện đến vợ là bà Vũ Thị Thanh làm chứng, không tin xin cứ đến hỏi.
Chuyện rỉ tai từ Đại hội Đảng III (1961), phía ông Duẩn ông Thọ thuộc phái dùng bạo lực quân sự giải phóng miền Nam, được Tố Hữu ủng hộ, thắng thế. Ông Duẩn làm tổng bí thư. Cụ Hồ và ông Giáp là phía chủ trương hoà bình thống nhất đất nước, bị thiểu số, phải phục tùng theo đa số. Điều thực hư diễn biến ra sao thì sau này các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng sẽ phải làm rõ. Đây chỉ là chuyện rỉ tai, ngoài lề cuộc họp. Nhưng nhờ đó có căn cứ để nhìn nhận được thái độ chuyển biến của từng người.
Chuyện rỉ tai về Tố Hữu nói tổng tư lệnh thực sự công cuộc đánh Mỹ giải phóng miền Nam là đồng chí Lê Duẩn chứ không phải Võ Nguyên Giáp.
Chuyện rỉ tai Tố Hữu xoá câu thơ về Võ Nguyên Giáp trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”.
Có lần trên màn tivi, quay cảnh đón phó thủ tướng Tố Hữu nhân một chuyến công cán ở nước ngoài về. Nhiều cán bộ cao cấp có mặt ở sân bay. Lần lượt Tố Hữu đi bắt tay từng người. Đến Võ Nguyên Giáp, khi ông Giáp giơ tay thì Tố Hữu lại quay đi chỗ khác như mải nói chuyện với ai. Những người ngồi xem cùng tôi bình phẩm: “Quá lắm! Thiếu lịch sự quá lắm!”
Tổng tấn công Mậu Thân (1968) ông Duẩn điều ông Giáp đi Đông Âu, điều cụ Hồ sang Trung Quốc nghỉ ngơi, để rảnh tay tổng tiến công nổi dậy đồng loạt bao vây Khe Sanh (định tái diễn Điện Biên Phủ) và đánh vào Sài Gòn dứt điểm giải phóng miền Nam. (Thất bại. Sự việc này rồi lịch sử sẽ định giá).
Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, có vài bài trên báo, nhưng chỉ nói đến Sở chỉ huy chiến dịch chung chung, không nhắc đến tên ông Giáp. Đến Chúc văn giỗ tổ vua Hùng cũng bỏ đi hai câu nói về Điện Biên Phủ và Giải phóng Sài Gòn 30/4, thành ra bài Chúc văn 100 câu để ứng với huyền thoại 100 trứng 100 con, chỉ còn 98 câu.
Ông Giáp hồi ấy được phân công phụ trách sinh đẻ kế hoạch. Bỗng lưu truyền những câu ca dao trôi nổi: “Ngày xưa đại tướng cầm quân. Ngày nay đại tướng cầm quần chị em.”, “Người đi từ cây đa Tân Trào đến cây đa Nhà Bò” (Cây đa Nhà Bò—cơ sở hộ sinh của quận Hai Bà, ở phố Lò Đúc, Hà Nội).
Rồi những chuyện ông Giáp sợ Mỹ, sợ bom nguyên tử, ông Giáp với Khơ-rúp-sốp, ông Giáp lý lịch mờ ám, chuyện Năm Châu-Sáu Sứ khai báo vu vơ... Lại tin rỉ tai, đảo Tuần Châu tỉnh Quảng Ninh đã được chuẩn bị để ông Giáp ra sống biệt lập, giống Napoléon ở đảo Sainte Hélène. Có cả một cuốn hồi ký của ông phó thủ tướng thời ông Duẩn, khen ông Duẩn hết lời, chê ông Giáp quá đáng được in phôtô chuyền tay nhau ..vv...
Thái độ ông Giáp là im lặng. Ông ngồi thiền. Lấy chữ Nhẫn của người xưa di dưỡng tinh thần.
Và bây giờ thì ông sống lại, như một ngọn đèn rực sáng giây phút cuối, ông đã 94 tuổi trời, lá thư ông viết gửi Hội nghị Trung ương 9 Khoá IX đầu năm 2004, có thể coi là những lời tâm huyết cuối đời của vị tướng tài ba lỗi lạc; trong đó về đề mục an ninh nội bộ, ông khẩn thiết đề nghị Trung ương giải quyết dứt điểm vụ T4, một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng từ trước đến nay, và yêu cầu kỷ luật những ai vi phạm bất kể ở cương vị nào. (Không biết Bộ Chính trị sẽ giải quyết ra sao trước khi đại tướng về trời?)
Ông Tố Hữu chỉ sau thất bại cuộc bầu vào Trung ương Khoá VI (1986), mới tỉnh ra, thấy bơ vơ, và sau này mới có bài “Một tiếng đờn”. Nghe kể, khi biết mình không trúng cử, ông thất thần, mất hồn, đến mức xe ô tô của ông đến đón, đỗ trước mặt, ông không nhận ra, cứ ngơ ngơ ngác ngác.
Một tiếng đờn
Mới bình minh đó đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi lệ bỗng tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.
Ôi kiếp trăm năm được mấy ngày
Trời xanh không gợn áng mây bay
Thủy chung son sắt nên tình bạn
Êm ấm lòng ta mỗi phút giây.
Còn khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim luôn sát muối oán hờn
Còn đây một chút trong đêm lạnh
Đầm ấm bên em một tiếng đờn.
Bài thơ trên được giải thưởng văn học ASEAN. Họ trao giải cũng không phải là vô cớ. Có nhiều bài hoạ lại, vô danh, xin trích một bài trong số đó để bạn đọc được nghe nhiều tiếng chuông:
Nắng hè sao đã vội hoàng hôn ?
Sao nụ cười tươi lệ bỗng tuôn ?
Mới hay nhân quả là như vậy,
Vui lắm thì ra cũng lắm buồn.
Danh lợi đua chen được mấy ngày ?
Phù vân một thoáng gió xua bay.
Thủy chung không có, đâu bè bạn ?
Êm ấm làm sao được phút giây ?
Đúng vậy còn gì đau khổ hơn!
Đời luôn khơi dậy những oán hờn,
Còn đây một chút trong cô lạnh,
Mới thấm Nhân Văn một tiếng đờn.
Ông Tố Hữu về nghỉ. Sống cô đơn. Giấc mộng quyền lực không thành. Tôi tin là ông đã hối hận. Cho nên trong Lời tâm sự Nhật Hoa Khanh ghi, ông nói nhiều về ông Giáp, ca ngợi ông Giáp hết lời, như muốn thanh minh những điều gì không phải trước đây đã cư xử với ông Giáp. Đúng như một câu châm ngôn của phương Tây: Qui s’excuse s’accuse (Kẻ nào tự thanh minh là tự thú nhận).
Đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng như thế. Qua “Lời tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi thì tất cả đều là tốt, là đáng ca ngợi, là không ai đáng phải chê trách điều gì cả. Xin trích vài người:
1). Về cụ Phan Khôi “Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân Văn nghệ kháng chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ 20.” (trg 39. Lời tâm sự)
2). Về ông Trương Tửu “Trương Tửu có năng lực đặc biệt về phê bình và lý luận văn học. Không thể tùy tiện quy kết anh là cơ hội, là tờ-rốt-kít. Đến bây giờ chúng ta đều rõ: anh sống thẳng thắn, sống lương thiện và hết lòng với các công trình nghiên cứu của mình. Cần khẳng định những đóng góp độc đáo của anh đối với phê bình và lý luận văn học.” (trg 39. Lời tâm sự)
3). Về ông Trần Đức Thảo được Tố Hữu dùng cụm từ người trí thức yêu nước lỗi lạc, rồi tiếp: “Anh Thảo vừa nổi tiếng trong phong trào chống thực dân Pháp vừa nổi tiếng trên lĩnh vực nghiên cứu triết học Mác-xít ngay từ hồi anh đang học đại học Xoóc-bon và làm việc tại Pa-ri. Anh Thảo suốt đời bảo vệ chủ nghĩa Mác, kể cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Anh Thảo là một nhà nghiên cứu triết học tài giỏi nhất ở nước ta. Anh Thảo có công lớn nhất trong việc phát triển ngôn ngữ lý luận Việt Nam, phát triển ngôn ngữ triết học Việt Nam, phát triển tư duy triết học và tư duy luận lí (tức tư duy lô-gích) Việt Nam. Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học.” (trg 51. Lời tâm sự)
4). Về ông Nguyễn Hữu Đang “người được Bác Hồ trao cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập mồng 2-9-1945. Anh Đang suốt đời trung thành với Bác Hồ và với lý tưởng Độc lập-Tự do của dân tộc. Anh Đang đóng góp nhiều cho cách mạng nhưng đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có nhiều hy sinh đáng qúy. Những hy sinh ấy chính là tấm gương sáng ngời treo cao trước mắt chúng ta.” (trg 54. Lời tâm sự)
5). Về ông Đào Duy Anh “Tôi sẽ thiếu sót rất nặng nếu không bày tỏ cảm nghĩ của mình về học giả lớn và nhà yêu nước Đào Duy Anh. Từng là tổng bí thư và sau đó, là một trong những người thuộc bộ phận tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng, Đào Duy Anh đã lặng lẽ và bền bỉ hiến dâng toàn bộ tài năng và nhiệt huyết của mình cho độc lập và tự do của dân tộc đến hơi thở cuối cùng. Hàng chục tác phẩm của ông bao gồm các loại từ điển và các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam ..vv... trở nên một hạt ngọc trong chuỗi ngọc di sản văn hoá dân tộc. Hồi ký của ông là hình ảnh trung thực của chính ông và của các đồng chí, đồng nghiệp cùng thế hệ ông suốt mấy chục năm bão táp đấu tranh cứu nước. Trên mặt trận văn hoá và tư tưởng Việt Nam thế kỷ 20, Đào Duy Anh được nhìn nhận như một nhà yêu nước, một nhà đạo đức, một bậc hiền tài.” (trg 55. Lời tâm sự)
6). Nhắc đến các văn nghệ sĩ "Nhân Văn - Giai Phẩm" bị đánh tơi bời Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét: “Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý.” (trg 34. Lời tâm sự)
Ông Tố Hữu còn nói về nhiều anh chị em khác, toàn khen là khen, với những lời rất tốt đẹp. Tôi chỉ xin trích vài trường hợp, để làm một việc so sánh, với những nhận xét của Tố Hữu trước đây, khi ông còn đương quyền đương chức, đang chỉ đạo cuộc đánh phá anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm".
Tài liệu sau đây lấy trong báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm”, do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong thư viện quốc gia.
Nhận định tổng quát về “Nhân Văn - Giai Phẩm” Tố Hữu viết:
+ Lật bộ áo “Nhân Văn - Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật tham, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm. (trg 9. Sđd)
+ Trong cái công ty phản động “Nhân Văn - Giai Phẩm” ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ. (trg 17. Sđd)
+ Với sự thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo Nhân Văn cũng “chuyển mạnh sang chính trị”, nghĩa là đi đến “hành động quần chúng”. Những bài đánh vào nền chuyên chính, đòi phát triển tự do tư sản, đòi cho hoa độc, hoa thối tự do đua nở và đả kích từ quân đội, công an, mậu dịch, sở báo chí, cho đến cả quốc hội cũng không đủ nữa [ .... ] Chúng muốn gì? Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang và cả bọn họ luôn luôn tuyên truyền “sẽ có biến động lớn”. Rõ ràng chúng không muốn gì khác hơn Mỹ-Diệm: lật đổ chế độ dân chủ cộng hoà và Đảng lãnh đạo. (trg 18. Sđd)
+ Chúng phân công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội Nhà văn, Sĩ Ngọc ở Hội Mỹ thuật, Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ sĩ sân khấu, Tử Phác, Đặng Đình Hưng ở Hội Nhạc sĩ .... Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn trốt-kít Trương Tửu, “quân sư”Trần Đức Thảo, và những kẻ khác ... (trg 21. Sđd)
+ Không thể che giấu được cái lịch sử phản cách mạng của Phan Khôi một đời những 5 lần phản bội, phá hoại phong trào cách mạng; không thể che giấu được cái dã tâm của tên đầu cơ cách mạng Nguyễn Hữu Đang hơn 10 năm trời vì cái đầu óc cường hào xôi thịt như cái gốc của hắn, mà luôn luôn bất mãn, kèn cựa, hằn học, dần dần đi vào con đường làm phản, bán mình cho kẻ địch, đánh lại nhân dân, tổ quốc, đánh lại chế độ chúng ta; không thể che giấu được cái chân tướng trốt-kít thâm căn ngót 20 năm nay của Trương Tửu và cái cốt cách đen tối của Trần Đức Thảo “đứa con nuôi của đế quốc” như y đã tự nhận; cũng không thể che giấu được chân tướng của bọn gián điệp như Thụy An, mật thám như Trần Duy, trước kia đã từng “lập công” với bọn chủ Pháp, nay lại ngựa quay về đường cũ; và những phần tử phản động trong giai cấp tư sản tích cực ủng hộ bọn chúng như Trần Thiếu Bảo (nhà xuất bản Minh Đức) .... (trg 43. Sđd)
Cũng xin trích dẫn một số đề mục của bản báo cáo tổng kết để bạn đọc thấy cuộc đấu tranh chống “Nhân Văn - Giai Phẩm” dữ dội đến thế nào:
[.....] Những tư tưởng chính trị thù địch
1.
Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
2.
Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
3.
Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.
4.
Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Những quan điểm văn nghệ phản động
1.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực té là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi “tự do, độc lập” của văn nghệ, rêu rao “ sứ mạng chống đối” của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
2.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên “con người” trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
3.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
4.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng. [......]
Còn có thể trích dẫn nhiều nữa, nhưng thiết tưởng đã đủ để bạn đọc nhận ra: đã có hai Tố Hữu, khác hẳn nhau như nước với lửa, như lòng bàn tay với mu bàn tay.
Vậy Tố Hữu nào mới là thật Tố Hữu ?
Trong bản báo cáo tổng kết về “Nhân Văn - Giai Phẩm” (1958), Tố Hữu có hai lần trích lời Lê Duẩn. Mặc dù lúc ấy Lê Duẩn chưa làm tổng bí thư, nhưng chiều hướng đang lên, rồi sẽ làm. Những câu trích ấy cũng bình thường, chưa phải lời vàng ý ngọc gì - nhưng Tố Hữu cứ trích, vì ông là người khôn ngoan, tính được nước cờ.
Ví dụ 1: Đúng như đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong kháng chiến chủ nghĩa cá nhân chưa bị đánh tan, nó mới bị dồn ép lại một góc, nên đến khi có điều kiện, thì nó vùng dậy một cách hờn giận.” (trg 31. Sđd)
Ví dụ 2: Như đồng chí Lê Duẩn nói: “Phải biết thấy cái chồi xanh mọc lên dưới chân cây chuối úa vàng. Nếu không, sẽ chỉ thấy những lá úa che lấp mà không thấy chồi non, sẽ bi quan thất vọng.” (trg 33. Sđd)
Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi năm 1997, không thấy trích dù một lời của ông Lê Duẩn nữa. Vì ông Duẩn (và cả ông Thọ) đã mất, để lại nhiều tai tiếng. Còn ông Giáp vẫn sống, uy tín ngày càng cao, nhất là trong dịp kỷ niệm nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ, tên tuổi ông lại rực sáng lên như một ngọn hải đăng.
Con người biết sám hối là điều rất đáng được trân trọng. Biết sám hối, biết hối hận làm con người trong trắng hơn lên, cao đẹp hơn lên. Nhưng cần sám hối thành thật và sòng phẳng với những sai lầm trước đây của mình.
Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi không thấy lời nhận lỗi hoặc xin lỗi những nạn nhân trước đây của mình, ai cũng được ông Tố Hữu đánh giá rất cao, rất tốt đẹp, chỉ thấy khen là khen. Những thế hệ bây giờ không biết chuyện cũ, cứ tưởng ông Tố Hữu rất tốt với mọi người, rất đáng kính và rất đáng yêu, ông không thù ghét ai, làm sao ông Tố Hữu lại có thể đánh những tài năng văn nghệ như anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được ? Ông Tố Hữu đã viết trong Lời tâm sự:
“Bất cứ một người nào, nếu tìm cách này hoặc cách khác “đánh” đồng đội và đồng nghiệp thì người đó sớm muộn sẽ chết trong trái tim của thế hệ cùng thời hoặc các thế hệ mai sau” (trg 64. Sđd)
Rất tiếc là ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã mất rồi. Nếu các ông sống lại và được đọc những dòng trên, và tự liên hệ bản thân, thì phải khen ông Tố Hữu nói giỏi, nói rất giỏi.
Phần viết thêm:
Chúng tôi phải cảm ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì biết công sức anh bỏ ra thật là không nhỏ cho bài viết “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”dài 67 trang vi tính khổ A4. Tôi hình dung anh phải gỡ những băng ghi âm cuộc hỏi chuyện kéo dài 7 tiếng đồng hồ (từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối) vất vả đến thế nào, sắp xếp lại câu chữ gọn gàng cho lọt mắt người đọc, vì văn viết khác với văn nói.
Và như vậy phải thấy là ông Tố Hữu có một trí nhớ phi thường. Người già 77 tuổi, lại đau ốm, cứ ho luôn trong buổi hỏi chuyện, mà nhớ được như vậy, các sự việc, tên người, rất nhiều tên người và tên tác phẩm của từng người, ông Tố Hữu nhớ lại được hết trong một buổi nói chuyện, mạch lạc, đâu ra đó. Thật khó mà tuởng tượng nổi. (Người có trí nhớ như vậy hẳn ông Tố Hữu khó có thể quên những gì ông đã kết tội anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” trước đây.)
Qua lời văn mà lột tả được tính cách con người, tôi thấy anh Nhật Hoa Khanh thành công ở đoạn Tố Hữu nói về Phạm Duy:
(Xin trích một chút) Nhật Hoa Khanh hỏi Tố Hữu:
“- Thưa anh, trong hồi ký về thời kháng chiến chống Pháp của mình, nhac sĩ Phạm Duy có kể: tại hội tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc (1948) Tố Hữu bác bỏ vai trò của mấy thể loại kịch thơ, chèo, tuồng và cải lương trong nền văn học nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thực hư ra sao, xin được biết ý kiến của anh.
Với gương mặt đượm vẻ không hài lòng, Tố Hữu trả lời:
- Tôi chưa biết việc nhạc sĩ Phạm Duy đã xuất bản hồi ký. Điều nhạc sĩ Phạm Duy nói về tôi như anh vừa mới cho biết, tôi thấy không cần phải trả lời. Tôi không cãi nhau với Phạm Duy. Tôi đã mười năm ở trong Bộ Chính trị, tôi không cãi nhau với Phạm Duy.” (trg 4. Lời tâm sự)
Một đối thoại nhỏ vậy, bộc lộ hết tính cách của Tố Hữu. Một con người rât vụ vào quyền lực. Khá lạnh lùng với anh em. Có thể Nhật Hoa Khanh không cố ý nhưng anh đã lột tả đúng chân tướng của Tố Hữu. Thật tài tình. Thời xưa là khuyên đỏ, bây giờ thì rất đáng điểm 10.
Chúng tôi còn phải cám ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì nhờ bài viết của anh mà tôi lại có dịp được bàn thêm về Tố Hữu và anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Ở bài viết này tôi chỉ xin cung cấp một ít tư liệu xưa về “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để độc giả ngày nay tự phán xét.
Cuối cùng, điều tôi muốn nói là ông Tố Hữu sám hối thật hay chưa thành thật, điều ấy không quan trọng, sự thực là ông đã thanh minh với ông Giáp và với anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”, có nghĩa là trong thâm tâm ông đã nhận ra cái sai của mình trước đây.
Cái sai của cải cách ruộng đất thì Đảng đã nhận ra, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng và Chính phủ xin lỗi nhân dân (1956). Công tác tiến hành sửa sai được thực hiện ngay sau đó.
Cái sai của vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, 30 năm sau Đảng đã nhận ra, với lời tuyên bố của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Cởi trói cho văn nghệ sĩ” (1986). Tuy không chính thức xin lỗi, nhưng đã sửa sai, anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được phục hồi công việc, được xuất bản những sáng tác phẩm.
Thế mà phải 40 năm sau (1997) ông Tố Hữu mới có lời tâm sự để Nhật Hoa Khanh ghi, đã không nhận lỗi phần mình mà chỉ ra sức thanh minh. Thế mới biết tư tưởng con người thay đổi chậm chạp, nhất là những người một thời có quyền lực lớn.
Còn vụ án Xét Lại - Chống Đảng những năm 1966—1968, thì sau này ông Nguyễn Trung Thành người phụ trách công tác bảo vệ Đảng hồi bấy giờ, người đứng vị trí thứ hai sau ông Lê Đức Thọ thụ lý vụ án Xét lại-Chống Đảng, đã chính thức gửi đơn minh oan cho 38 cán bộ Đảng trung cao cấp bị kết tội oan.
Vậy là trong quá trình cư xử với nhau chúng ta đã có những sai lầm. Đã làm tổn hại đến những thành phần tinh hoa của đất nước.
Tôi tha thiết đề nghị các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay nên rút những kinh nghiệm xưa, để đừng mắc phải những sai lầm đáng tiếc bây giờ. Trước mắt là vụ bắt bớ giam cầm những người lên tiếng về dân chủ, về chống tham nhũng, về đất đai biên giới ..v.v..... vu cho họ tội gián điệp, kết án nặng nề như các ông: cựu chiến binh quân giải phóng miền Nam Nguyễn Khắc Toàn, cử nhân luật Lê Chí Quang, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình; và đang giam giữ chờ xét xử là các ông: nhà nghiên cứu văn hoá Hán Nôm Trần Khuê, đại tá tổng biên tập tạp chí Lịch sử quân sự, nhà báo Phạm Quế Dương, nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng bác sĩ Nguyễn Đan Quế ...vv...
Những con người ưu tú kể trên mà bị quàng tội là gián điệp thì thật không thể nào hiểu nổi.
Chúng ta đã nhận ra phần dân chủ của đất nước còn yếu kém. Nên Đại hội Đảng IX đã phải đưa hai chữ dân chủ vào nghị quyết. Có nghị quyết rồi thì phải thi hành. Hiểu đơn giản về dân chủ là phải biết lắng nghe những ý kiến khác với chủ kiến của mình. Nên chấm dứt dùng bạo lực đàn áp những người khác chính kiến. Nên tạo một thói quen bàn bạc, tranh luận, tìm ra đồng thuận.
Kẻo rồi sau này lại phải hối hận, rằng, bước vào thế kỷ thứ 21, nước ta sao mà lắm gián điệp đến thế ???
Nói lại chuyện “Nhân Văn - Giai Phẩm” xưa kia, để rút kinh nghiệm cho công việc đất nước hôm nay, như thế gọi là ôn cố tri tân (ôn cũ biết mới), nó là điều cần thiết để đất nước đi lên vậy.
Tôi kính chuyển bài viết này tới các vị lãnh đạo Đảng - Nhà nước, và kính chuyển tới tất cả bạn đọc. Có điều gì không phải mong được thứ lỗi trước.
Hà Nội ngày 6 tháng 6 năm 2004
Hoàng Tiến, nhà văn
Địa chỉ:
Nhà A 11 Phòng 420
Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.
Nơi gửi:
- Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước
- Ban Tư tưởng—Văn hoá
- Bộ Văn Hoá
- Bộ Công an
- Hội Nhà văn Việt Nam
- Hội Nhà văn Hà Nội
- Các cơ quan báo chí, thông tấn
- Bè bạn văn nghệ sĩ
- Các bạn đọc quan tâm
Hoàng Tiến
Bạn bè thân quen bảo: “Ông Tố Hữu tuy bây giờ nghỉ làm việc, nhưng thế lực còn mạnh lắm, ông ấy vẫn có thể bóp chết anh bất cứ lúc nào.”
Tôi đã trả lời: “Tôi hiểu điều ấy. Chính đấy là lý do khiến tôi phải viết khi ông ấy còn sống.” Bạn cứ lắc đầu hoài. Tôi phải nói thêm: “Nếu không thì trả lời thế nào với câu hỏi của người sau: “Sao khi ông ấy sống không thấy ai viết gì ?”
Tôi đã chính thức gửi bài viết đến Tạp chí Văn học của Viện Văn học và vài tờ báo khác, cũng như gửi đến nhà thơ Tố Hữu. Không thấy đâu đăng, cũng không thấy đâu trả lời.
Không sao! Không đăng là quyền của họ, trách nhiệm phải viết là quyền của tôi. Cho nên khi Tố Hữu mất, tôi đã không viết gì nữa, cho rằng trách nhiệm của mình đã xong. Nhân đọc trên báo Lao Động thấy nhà thơ Hoàng Cầm, người bị điêu đứng trong vụ án Nhân Văn, có bài thương cảm viếng nhà thơ Tố Hữu, gây cảm xúc mà bật ra mấy câu sau:
Tố Hữu mất đi
Hoàng Cầm viết lời ai điếu
Đăng đầu tiên, báo Lao Động, trang 5.
Ông trời xanh rõ thật oái oăm
Khiến dân đen bật cười khúc khích.
Hoàng Cầm vị thuốc đắng
Nên giã tật rất tài.
Chuyện thế gian,
thôi, gác bỏ ngoài tai
Phất tay áo,
đến Trúc Lâm:
“Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” (*)
(*): Bài “Cư trần lạc đạo”của Trần Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm thiền phái. Người viết xin phép đảo câu đầu và câu cuối.
(Tạm dịch:)
Trước cảnh, tâm không, hỏi gì thiền
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên
(Xin được nối thêm:)
Lòng không thù hận, hồn trong sáng
Mở rộng yêu thương tới mọi miền.
(12 – 12 – 2002)
Gần đây, trong dịp toàn dân tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi có được đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” của Nhật Hoa Khanh ghi, và các báo Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội.... trích đăng vài phần, nhất là phần nói về đại tướng Võ Nguyên Giáp (báo Quân Đội Nhân Dân đăng 3 số liền), bỗng lại thấy rằng mình chưa thể thôi viết được. Với góc độ của người nghiên cứu đã viết về Tỗ Hữu, tôi thấy cần phải bàn cho ra sự thật.
Tâm sự Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh ghi hoàn toàn khác với Tố Hữu đã sống trước đây.
Bản thảo được hoàn thành tháng 2 – 2004, đã được thông qua bà Vũ Thị Thanh, vợ ông Tố Hữu, được tung ra vào dịp cả nước hoan hỉ kỷ niệm Điện Biên Phủ, nhằm cái gì? Muốn thanh minh với đại tướng Võ Nguyên Giáp chăng? Võ đại tướng trong kỷ niệm 50 Điện Biên Phủ, có thể nói ông đã lại thắng một trận Điên Biên Phủ thứ hai. Cả nước ghi ơn ông. Tên tuổi ông và đức độ của ông sống lại, chói ngời trên cả nước.
Một câu hỏi được đặt ra với người nghiên cứu, bản thảo thực sự đã viết xong từ tháng 5 – 1997 (theo Nhật Hoa Khanh), nghĩa là gần 6 năm sau Tố Hữu mới mất. Sao không công bố trong chuỗi thời gian ấy, lại để đến tận bây giờ ? Liệu có sâu xa tính toán gì như thơ di cảo của Chế Lan Viên ?
Đã từ lâu nhiều người rất mong muốn nhà thơ Tố Hữu hãy xin lỗi anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" lấy một tiếng. Như nhà viết kịch Bửu Tiến đã làm trong một đại hội nhà văn. Như nhiều anh em văn nghệ khác đã hùa theo đánh anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" hồi ấy, nay đã nhận sai lầm, đã đến xin lỗi từng cá nhân. Cho lòng mình nhẹ nhõm, cho lòng bạn nhẹ nhõm. Nhưng Tố Hữu đã không làm.
Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của Đại hội Đảng lần VI, tổng bí thư lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh; người đẫ giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ: “cởi trói cho văn nghệ sĩ” “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình” “không bẻ cong ngòi bút” “dũng cảm trình bày sự thật” ..vv...
Trong cái không khĩ cởi mở ấy của Nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" bây giờ. Nhà thơ Tố Hữu với giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói: “Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt hết chúng nó đi.” Trên đường về ông Trần Độ có rẽ vào thăm ông Hoàng Cầm, có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm đến nay còn sống, yếu lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư, Hà Nội. Ai có thắc mắc, xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm đi mất, lại thành tam sao thất bản.
Chuyện rỉ tai văn nghệ sĩ về Tố Hữu thì nhiều lắm. Nhất là cái hồi ông Tố Hữu làm phó thủ tướng phụ trách giá-lương-tiền, rồi đồn thổi có thể làm tổng bí thư. Cái bả vinh hoa ấy của ông Duẩn và ông Thọ đưa ra, có thể đã làm nhà thơ choáng váng trong hy vọng, và có thể hồi ấy đã phải biểu lộ những cư xử với Võ đại tướng để chứng tỏ lập trường của mình đứng về phía bên nào, nên sau này hối hận, cứ phải thanh minh trong lời tâm sự với Nhật Hoa Khanh, nói khá kỹ về lòng yêu quý đại tướng Võ Nguyên Giáp, chiếm khá nhiều trang giấy, hai lần viện đến vợ là bà Vũ Thị Thanh làm chứng, không tin xin cứ đến hỏi.
Chuyện rỉ tai từ Đại hội Đảng III (1961), phía ông Duẩn ông Thọ thuộc phái dùng bạo lực quân sự giải phóng miền Nam, được Tố Hữu ủng hộ, thắng thế. Ông Duẩn làm tổng bí thư. Cụ Hồ và ông Giáp là phía chủ trương hoà bình thống nhất đất nước, bị thiểu số, phải phục tùng theo đa số. Điều thực hư diễn biến ra sao thì sau này các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng sẽ phải làm rõ. Đây chỉ là chuyện rỉ tai, ngoài lề cuộc họp. Nhưng nhờ đó có căn cứ để nhìn nhận được thái độ chuyển biến của từng người.
Chuyện rỉ tai về Tố Hữu nói tổng tư lệnh thực sự công cuộc đánh Mỹ giải phóng miền Nam là đồng chí Lê Duẩn chứ không phải Võ Nguyên Giáp.
Chuyện rỉ tai Tố Hữu xoá câu thơ về Võ Nguyên Giáp trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”.
Có lần trên màn tivi, quay cảnh đón phó thủ tướng Tố Hữu nhân một chuyến công cán ở nước ngoài về. Nhiều cán bộ cao cấp có mặt ở sân bay. Lần lượt Tố Hữu đi bắt tay từng người. Đến Võ Nguyên Giáp, khi ông Giáp giơ tay thì Tố Hữu lại quay đi chỗ khác như mải nói chuyện với ai. Những người ngồi xem cùng tôi bình phẩm: “Quá lắm! Thiếu lịch sự quá lắm!”
Tổng tấn công Mậu Thân (1968) ông Duẩn điều ông Giáp đi Đông Âu, điều cụ Hồ sang Trung Quốc nghỉ ngơi, để rảnh tay tổng tiến công nổi dậy đồng loạt bao vây Khe Sanh (định tái diễn Điện Biên Phủ) và đánh vào Sài Gòn dứt điểm giải phóng miền Nam. (Thất bại. Sự việc này rồi lịch sử sẽ định giá).
Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, có vài bài trên báo, nhưng chỉ nói đến Sở chỉ huy chiến dịch chung chung, không nhắc đến tên ông Giáp. Đến Chúc văn giỗ tổ vua Hùng cũng bỏ đi hai câu nói về Điện Biên Phủ và Giải phóng Sài Gòn 30/4, thành ra bài Chúc văn 100 câu để ứng với huyền thoại 100 trứng 100 con, chỉ còn 98 câu.
Ông Giáp hồi ấy được phân công phụ trách sinh đẻ kế hoạch. Bỗng lưu truyền những câu ca dao trôi nổi: “Ngày xưa đại tướng cầm quân. Ngày nay đại tướng cầm quần chị em.”, “Người đi từ cây đa Tân Trào đến cây đa Nhà Bò” (Cây đa Nhà Bò—cơ sở hộ sinh của quận Hai Bà, ở phố Lò Đúc, Hà Nội).
Rồi những chuyện ông Giáp sợ Mỹ, sợ bom nguyên tử, ông Giáp với Khơ-rúp-sốp, ông Giáp lý lịch mờ ám, chuyện Năm Châu-Sáu Sứ khai báo vu vơ... Lại tin rỉ tai, đảo Tuần Châu tỉnh Quảng Ninh đã được chuẩn bị để ông Giáp ra sống biệt lập, giống Napoléon ở đảo Sainte Hélène. Có cả một cuốn hồi ký của ông phó thủ tướng thời ông Duẩn, khen ông Duẩn hết lời, chê ông Giáp quá đáng được in phôtô chuyền tay nhau ..vv...
Thái độ ông Giáp là im lặng. Ông ngồi thiền. Lấy chữ Nhẫn của người xưa di dưỡng tinh thần.
Và bây giờ thì ông sống lại, như một ngọn đèn rực sáng giây phút cuối, ông đã 94 tuổi trời, lá thư ông viết gửi Hội nghị Trung ương 9 Khoá IX đầu năm 2004, có thể coi là những lời tâm huyết cuối đời của vị tướng tài ba lỗi lạc; trong đó về đề mục an ninh nội bộ, ông khẩn thiết đề nghị Trung ương giải quyết dứt điểm vụ T4, một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng từ trước đến nay, và yêu cầu kỷ luật những ai vi phạm bất kể ở cương vị nào. (Không biết Bộ Chính trị sẽ giải quyết ra sao trước khi đại tướng về trời?)
Ông Tố Hữu chỉ sau thất bại cuộc bầu vào Trung ương Khoá VI (1986), mới tỉnh ra, thấy bơ vơ, và sau này mới có bài “Một tiếng đờn”. Nghe kể, khi biết mình không trúng cử, ông thất thần, mất hồn, đến mức xe ô tô của ông đến đón, đỗ trước mặt, ông không nhận ra, cứ ngơ ngơ ngác ngác.
Một tiếng đờn
Mới bình minh đó đã hoàng hôn
Đang nụ cười tươi lệ bỗng tuôn
Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy
Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.
Ôi kiếp trăm năm được mấy ngày
Trời xanh không gợn áng mây bay
Thủy chung son sắt nên tình bạn
Êm ấm lòng ta mỗi phút giây.
Còn khổ đau nào đau khổ hơn
Trái tim luôn sát muối oán hờn
Còn đây một chút trong đêm lạnh
Đầm ấm bên em một tiếng đờn.
Bài thơ trên được giải thưởng văn học ASEAN. Họ trao giải cũng không phải là vô cớ. Có nhiều bài hoạ lại, vô danh, xin trích một bài trong số đó để bạn đọc được nghe nhiều tiếng chuông:
Nắng hè sao đã vội hoàng hôn ?
Sao nụ cười tươi lệ bỗng tuôn ?
Mới hay nhân quả là như vậy,
Vui lắm thì ra cũng lắm buồn.
Danh lợi đua chen được mấy ngày ?
Phù vân một thoáng gió xua bay.
Thủy chung không có, đâu bè bạn ?
Êm ấm làm sao được phút giây ?
Đúng vậy còn gì đau khổ hơn!
Đời luôn khơi dậy những oán hờn,
Còn đây một chút trong cô lạnh,
Mới thấm Nhân Văn một tiếng đờn.
Ông Tố Hữu về nghỉ. Sống cô đơn. Giấc mộng quyền lực không thành. Tôi tin là ông đã hối hận. Cho nên trong Lời tâm sự Nhật Hoa Khanh ghi, ông nói nhiều về ông Giáp, ca ngợi ông Giáp hết lời, như muốn thanh minh những điều gì không phải trước đây đã cư xử với ông Giáp. Đúng như một câu châm ngôn của phương Tây: Qui s’excuse s’accuse (Kẻ nào tự thanh minh là tự thú nhận).
Đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng như thế. Qua “Lời tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi thì tất cả đều là tốt, là đáng ca ngợi, là không ai đáng phải chê trách điều gì cả. Xin trích vài người:
1). Về cụ Phan Khôi “Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân Văn nghệ kháng chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ 20.” (trg 39. Lời tâm sự)
2). Về ông Trương Tửu “Trương Tửu có năng lực đặc biệt về phê bình và lý luận văn học. Không thể tùy tiện quy kết anh là cơ hội, là tờ-rốt-kít. Đến bây giờ chúng ta đều rõ: anh sống thẳng thắn, sống lương thiện và hết lòng với các công trình nghiên cứu của mình. Cần khẳng định những đóng góp độc đáo của anh đối với phê bình và lý luận văn học.” (trg 39. Lời tâm sự)
3). Về ông Trần Đức Thảo được Tố Hữu dùng cụm từ người trí thức yêu nước lỗi lạc, rồi tiếp: “Anh Thảo vừa nổi tiếng trong phong trào chống thực dân Pháp vừa nổi tiếng trên lĩnh vực nghiên cứu triết học Mác-xít ngay từ hồi anh đang học đại học Xoóc-bon và làm việc tại Pa-ri. Anh Thảo suốt đời bảo vệ chủ nghĩa Mác, kể cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Anh Thảo là một nhà nghiên cứu triết học tài giỏi nhất ở nước ta. Anh Thảo có công lớn nhất trong việc phát triển ngôn ngữ lý luận Việt Nam, phát triển ngôn ngữ triết học Việt Nam, phát triển tư duy triết học và tư duy luận lí (tức tư duy lô-gích) Việt Nam. Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học.” (trg 51. Lời tâm sự)
4). Về ông Nguyễn Hữu Đang “người được Bác Hồ trao cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập mồng 2-9-1945. Anh Đang suốt đời trung thành với Bác Hồ và với lý tưởng Độc lập-Tự do của dân tộc. Anh Đang đóng góp nhiều cho cách mạng nhưng đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có nhiều hy sinh đáng qúy. Những hy sinh ấy chính là tấm gương sáng ngời treo cao trước mắt chúng ta.” (trg 54. Lời tâm sự)
5). Về ông Đào Duy Anh “Tôi sẽ thiếu sót rất nặng nếu không bày tỏ cảm nghĩ của mình về học giả lớn và nhà yêu nước Đào Duy Anh. Từng là tổng bí thư và sau đó, là một trong những người thuộc bộ phận tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng, Đào Duy Anh đã lặng lẽ và bền bỉ hiến dâng toàn bộ tài năng và nhiệt huyết của mình cho độc lập và tự do của dân tộc đến hơi thở cuối cùng. Hàng chục tác phẩm của ông bao gồm các loại từ điển và các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam ..vv... trở nên một hạt ngọc trong chuỗi ngọc di sản văn hoá dân tộc. Hồi ký của ông là hình ảnh trung thực của chính ông và của các đồng chí, đồng nghiệp cùng thế hệ ông suốt mấy chục năm bão táp đấu tranh cứu nước. Trên mặt trận văn hoá và tư tưởng Việt Nam thế kỷ 20, Đào Duy Anh được nhìn nhận như một nhà yêu nước, một nhà đạo đức, một bậc hiền tài.” (trg 55. Lời tâm sự)
6). Nhắc đến các văn nghệ sĩ "Nhân Văn - Giai Phẩm" bị đánh tơi bời Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét: “Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý.” (trg 34. Lời tâm sự)
Ông Tố Hữu còn nói về nhiều anh chị em khác, toàn khen là khen, với những lời rất tốt đẹp. Tôi chỉ xin trích vài trường hợp, để làm một việc so sánh, với những nhận xét của Tố Hữu trước đây, khi ông còn đương quyền đương chức, đang chỉ đạo cuộc đánh phá anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm".
Tài liệu sau đây lấy trong báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm”, do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong thư viện quốc gia.
Nhận định tổng quát về “Nhân Văn - Giai Phẩm” Tố Hữu viết:
+ Lật bộ áo “Nhân Văn - Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật tham, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm. (trg 9. Sđd)
+ Trong cái công ty phản động “Nhân Văn - Giai Phẩm” ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ. (trg 17. Sđd)
+ Với sự thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo Nhân Văn cũng “chuyển mạnh sang chính trị”, nghĩa là đi đến “hành động quần chúng”. Những bài đánh vào nền chuyên chính, đòi phát triển tự do tư sản, đòi cho hoa độc, hoa thối tự do đua nở và đả kích từ quân đội, công an, mậu dịch, sở báo chí, cho đến cả quốc hội cũng không đủ nữa [ .... ] Chúng muốn gì? Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang và cả bọn họ luôn luôn tuyên truyền “sẽ có biến động lớn”. Rõ ràng chúng không muốn gì khác hơn Mỹ-Diệm: lật đổ chế độ dân chủ cộng hoà và Đảng lãnh đạo. (trg 18. Sđd)
+ Chúng phân công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội Nhà văn, Sĩ Ngọc ở Hội Mỹ thuật, Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ sĩ sân khấu, Tử Phác, Đặng Đình Hưng ở Hội Nhạc sĩ .... Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn trốt-kít Trương Tửu, “quân sư”Trần Đức Thảo, và những kẻ khác ... (trg 21. Sđd)
+ Không thể che giấu được cái lịch sử phản cách mạng của Phan Khôi một đời những 5 lần phản bội, phá hoại phong trào cách mạng; không thể che giấu được cái dã tâm của tên đầu cơ cách mạng Nguyễn Hữu Đang hơn 10 năm trời vì cái đầu óc cường hào xôi thịt như cái gốc của hắn, mà luôn luôn bất mãn, kèn cựa, hằn học, dần dần đi vào con đường làm phản, bán mình cho kẻ địch, đánh lại nhân dân, tổ quốc, đánh lại chế độ chúng ta; không thể che giấu được cái chân tướng trốt-kít thâm căn ngót 20 năm nay của Trương Tửu và cái cốt cách đen tối của Trần Đức Thảo “đứa con nuôi của đế quốc” như y đã tự nhận; cũng không thể che giấu được chân tướng của bọn gián điệp như Thụy An, mật thám như Trần Duy, trước kia đã từng “lập công” với bọn chủ Pháp, nay lại ngựa quay về đường cũ; và những phần tử phản động trong giai cấp tư sản tích cực ủng hộ bọn chúng như Trần Thiếu Bảo (nhà xuất bản Minh Đức) .... (trg 43. Sđd)
Cũng xin trích dẫn một số đề mục của bản báo cáo tổng kết để bạn đọc thấy cuộc đấu tranh chống “Nhân Văn - Giai Phẩm” dữ dội đến thế nào:
[.....] Những tư tưởng chính trị thù địch
1.
Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
2.
Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
3.
Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.
4.
Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Những quan điểm văn nghệ phản động
1.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực té là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi “tự do, độc lập” của văn nghệ, rêu rao “ sứ mạng chống đối” của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
2.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên “con người” trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
3.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
4.
Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng. [......]
Còn có thể trích dẫn nhiều nữa, nhưng thiết tưởng đã đủ để bạn đọc nhận ra: đã có hai Tố Hữu, khác hẳn nhau như nước với lửa, như lòng bàn tay với mu bàn tay.
Vậy Tố Hữu nào mới là thật Tố Hữu ?
Trong bản báo cáo tổng kết về “Nhân Văn - Giai Phẩm” (1958), Tố Hữu có hai lần trích lời Lê Duẩn. Mặc dù lúc ấy Lê Duẩn chưa làm tổng bí thư, nhưng chiều hướng đang lên, rồi sẽ làm. Những câu trích ấy cũng bình thường, chưa phải lời vàng ý ngọc gì - nhưng Tố Hữu cứ trích, vì ông là người khôn ngoan, tính được nước cờ.
Ví dụ 1: Đúng như đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong kháng chiến chủ nghĩa cá nhân chưa bị đánh tan, nó mới bị dồn ép lại một góc, nên đến khi có điều kiện, thì nó vùng dậy một cách hờn giận.” (trg 31. Sđd)
Ví dụ 2: Như đồng chí Lê Duẩn nói: “Phải biết thấy cái chồi xanh mọc lên dưới chân cây chuối úa vàng. Nếu không, sẽ chỉ thấy những lá úa che lấp mà không thấy chồi non, sẽ bi quan thất vọng.” (trg 33. Sđd)
Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi năm 1997, không thấy trích dù một lời của ông Lê Duẩn nữa. Vì ông Duẩn (và cả ông Thọ) đã mất, để lại nhiều tai tiếng. Còn ông Giáp vẫn sống, uy tín ngày càng cao, nhất là trong dịp kỷ niệm nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ, tên tuổi ông lại rực sáng lên như một ngọn hải đăng.
Con người biết sám hối là điều rất đáng được trân trọng. Biết sám hối, biết hối hận làm con người trong trắng hơn lên, cao đẹp hơn lên. Nhưng cần sám hối thành thật và sòng phẳng với những sai lầm trước đây của mình.
Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi không thấy lời nhận lỗi hoặc xin lỗi những nạn nhân trước đây của mình, ai cũng được ông Tố Hữu đánh giá rất cao, rất tốt đẹp, chỉ thấy khen là khen. Những thế hệ bây giờ không biết chuyện cũ, cứ tưởng ông Tố Hữu rất tốt với mọi người, rất đáng kính và rất đáng yêu, ông không thù ghét ai, làm sao ông Tố Hữu lại có thể đánh những tài năng văn nghệ như anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được ? Ông Tố Hữu đã viết trong Lời tâm sự:
“Bất cứ một người nào, nếu tìm cách này hoặc cách khác “đánh” đồng đội và đồng nghiệp thì người đó sớm muộn sẽ chết trong trái tim của thế hệ cùng thời hoặc các thế hệ mai sau” (trg 64. Sđd)
Rất tiếc là ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã mất rồi. Nếu các ông sống lại và được đọc những dòng trên, và tự liên hệ bản thân, thì phải khen ông Tố Hữu nói giỏi, nói rất giỏi.
Phần viết thêm:
Chúng tôi phải cảm ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì biết công sức anh bỏ ra thật là không nhỏ cho bài viết “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”dài 67 trang vi tính khổ A4. Tôi hình dung anh phải gỡ những băng ghi âm cuộc hỏi chuyện kéo dài 7 tiếng đồng hồ (từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối) vất vả đến thế nào, sắp xếp lại câu chữ gọn gàng cho lọt mắt người đọc, vì văn viết khác với văn nói.
Và như vậy phải thấy là ông Tố Hữu có một trí nhớ phi thường. Người già 77 tuổi, lại đau ốm, cứ ho luôn trong buổi hỏi chuyện, mà nhớ được như vậy, các sự việc, tên người, rất nhiều tên người và tên tác phẩm của từng người, ông Tố Hữu nhớ lại được hết trong một buổi nói chuyện, mạch lạc, đâu ra đó. Thật khó mà tuởng tượng nổi. (Người có trí nhớ như vậy hẳn ông Tố Hữu khó có thể quên những gì ông đã kết tội anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” trước đây.)
Qua lời văn mà lột tả được tính cách con người, tôi thấy anh Nhật Hoa Khanh thành công ở đoạn Tố Hữu nói về Phạm Duy:
(Xin trích một chút) Nhật Hoa Khanh hỏi Tố Hữu:
“- Thưa anh, trong hồi ký về thời kháng chiến chống Pháp của mình, nhac sĩ Phạm Duy có kể: tại hội tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc (1948) Tố Hữu bác bỏ vai trò của mấy thể loại kịch thơ, chèo, tuồng và cải lương trong nền văn học nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thực hư ra sao, xin được biết ý kiến của anh.
Với gương mặt đượm vẻ không hài lòng, Tố Hữu trả lời:
- Tôi chưa biết việc nhạc sĩ Phạm Duy đã xuất bản hồi ký. Điều nhạc sĩ Phạm Duy nói về tôi như anh vừa mới cho biết, tôi thấy không cần phải trả lời. Tôi không cãi nhau với Phạm Duy. Tôi đã mười năm ở trong Bộ Chính trị, tôi không cãi nhau với Phạm Duy.” (trg 4. Lời tâm sự)
Một đối thoại nhỏ vậy, bộc lộ hết tính cách của Tố Hữu. Một con người rât vụ vào quyền lực. Khá lạnh lùng với anh em. Có thể Nhật Hoa Khanh không cố ý nhưng anh đã lột tả đúng chân tướng của Tố Hữu. Thật tài tình. Thời xưa là khuyên đỏ, bây giờ thì rất đáng điểm 10.
Chúng tôi còn phải cám ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì nhờ bài viết của anh mà tôi lại có dịp được bàn thêm về Tố Hữu và anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Ở bài viết này tôi chỉ xin cung cấp một ít tư liệu xưa về “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để độc giả ngày nay tự phán xét.
Cuối cùng, điều tôi muốn nói là ông Tố Hữu sám hối thật hay chưa thành thật, điều ấy không quan trọng, sự thực là ông đã thanh minh với ông Giáp và với anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”, có nghĩa là trong thâm tâm ông đã nhận ra cái sai của mình trước đây.
Cái sai của cải cách ruộng đất thì Đảng đã nhận ra, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng và Chính phủ xin lỗi nhân dân (1956). Công tác tiến hành sửa sai được thực hiện ngay sau đó.
Cái sai của vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, 30 năm sau Đảng đã nhận ra, với lời tuyên bố của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Cởi trói cho văn nghệ sĩ” (1986). Tuy không chính thức xin lỗi, nhưng đã sửa sai, anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được phục hồi công việc, được xuất bản những sáng tác phẩm.
Thế mà phải 40 năm sau (1997) ông Tố Hữu mới có lời tâm sự để Nhật Hoa Khanh ghi, đã không nhận lỗi phần mình mà chỉ ra sức thanh minh. Thế mới biết tư tưởng con người thay đổi chậm chạp, nhất là những người một thời có quyền lực lớn.
Còn vụ án Xét Lại - Chống Đảng những năm 1966—1968, thì sau này ông Nguyễn Trung Thành người phụ trách công tác bảo vệ Đảng hồi bấy giờ, người đứng vị trí thứ hai sau ông Lê Đức Thọ thụ lý vụ án Xét lại-Chống Đảng, đã chính thức gửi đơn minh oan cho 38 cán bộ Đảng trung cao cấp bị kết tội oan.
Vậy là trong quá trình cư xử với nhau chúng ta đã có những sai lầm. Đã làm tổn hại đến những thành phần tinh hoa của đất nước.
Tôi tha thiết đề nghị các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay nên rút những kinh nghiệm xưa, để đừng mắc phải những sai lầm đáng tiếc bây giờ. Trước mắt là vụ bắt bớ giam cầm những người lên tiếng về dân chủ, về chống tham nhũng, về đất đai biên giới ..v.v..... vu cho họ tội gián điệp, kết án nặng nề như các ông: cựu chiến binh quân giải phóng miền Nam Nguyễn Khắc Toàn, cử nhân luật Lê Chí Quang, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình; và đang giam giữ chờ xét xử là các ông: nhà nghiên cứu văn hoá Hán Nôm Trần Khuê, đại tá tổng biên tập tạp chí Lịch sử quân sự, nhà báo Phạm Quế Dương, nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng bác sĩ Nguyễn Đan Quế ...vv...
Những con người ưu tú kể trên mà bị quàng tội là gián điệp thì thật không thể nào hiểu nổi.
Chúng ta đã nhận ra phần dân chủ của đất nước còn yếu kém. Nên Đại hội Đảng IX đã phải đưa hai chữ dân chủ vào nghị quyết. Có nghị quyết rồi thì phải thi hành. Hiểu đơn giản về dân chủ là phải biết lắng nghe những ý kiến khác với chủ kiến của mình. Nên chấm dứt dùng bạo lực đàn áp những người khác chính kiến. Nên tạo một thói quen bàn bạc, tranh luận, tìm ra đồng thuận.
Kẻo rồi sau này lại phải hối hận, rằng, bước vào thế kỷ thứ 21, nước ta sao mà lắm gián điệp đến thế ???
Nói lại chuyện “Nhân Văn - Giai Phẩm” xưa kia, để rút kinh nghiệm cho công việc đất nước hôm nay, như thế gọi là ôn cố tri tân (ôn cũ biết mới), nó là điều cần thiết để đất nước đi lên vậy.
Tôi kính chuyển bài viết này tới các vị lãnh đạo Đảng - Nhà nước, và kính chuyển tới tất cả bạn đọc. Có điều gì không phải mong được thứ lỗi trước.
Hà Nội ngày 6 tháng 6 năm 2004
Hoàng Tiến, nhà văn
Địa chỉ:
Nhà A 11 Phòng 420
Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.
Nơi gửi:
- Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước
- Ban Tư tưởng—Văn hoá
- Bộ Văn Hoá
- Bộ Công an
- Hội Nhà văn Việt Nam
- Hội Nhà văn Hà Nội
- Các cơ quan báo chí, thông tấn
- Bè bạn văn nghệ sĩ
- Các bạn đọc quan tâm
Hoàng Tiến
No comments:
Post a Comment