HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Wednesday 23 July 2014

SƠN TRUNG VĂN NGHỆ


A. DÂN CA QUẢNG BÌNH

Vì mục đich bảo vệ vốn cũ của dân tộc,  GIA HỘI THƯ TRANG   đã sưu tập và trình bày  một số  cầu hò, điệu hát ngày xưa ở Quảng bình.   Công việc này được ghi lại trong 

https://www.youtube.com/user/bancutruongxua
https:/www.youtube.com/user/truongtoi
 

 và đăng tải trên BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG .Nhân tiện cũng xin lưu vào đây những bài thơ  cũ của các tác giả Việt Nam,  Đặc biệt là Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiếu được đọc theo truyền thống đọc văn tế ở Quảng Bình.



HÁT RU & HÁT DẶM NGHỆ TĨNH BÌNH
Sơn Trung sưu tập
Nước ta có nhiều ca dao, đó là cội nguồn văn hóa của ta.Ca dao được dùng vào trong sinh hoạt của nhân dân:
-Dùng để nói năng
-Dùng để ru trẻ
-Dùng để trao duyên.
-Dùng để ca hát trong khi lao động


Đó là bốn công dụng lớn của ca dao. Nếu chia theo thể loại thơ thì có thể chia thành mấy loại sau:
-Lục bát hay lục bát biến thức.
-Song thất lục bát.
-Ngũ ngôn hay ngũ ngôn biến thức ( chen những câu bốn hay 6, 7 chữ)
-Nói lối: câu bốn chữ
Ca dao được dùng để ca hát trong nhân dân cho nên cũng gọi là dân ca.Sau này tân nhạc nổi lên, áp dụng nhạc Tây phương vào trong ca dao cho nên loại tân nhạc này cũng được gọi là dân ca.
Trong dân ca của dân tộc, có nhiều thể loại tùy theo động tác sinh hoạt hay lời lẽ của bài ca mà gọi tên.


Về sinh hoạt thì có những loại như hát đò đưa, hò giã gạo, hò huê tình, hát ví phường vải...
Về lời ca thì có mái nhì, hò mái đẩy, hò khoan, hò hụi vì trong bài, khởi đầu hay sau một đoạn thì cả nhóm cùng hát lên hò khoan, hò hụi, là hố...Các loại hò này dù tên khác nhau nhưng đều là ca hát trên sông nước.
Người ta gọi hát cò lả vì khởi đầu có câu Con cò bay lả bay la...
Loại hát trong lao động phần lớn cũng là hát huê tình. Hát ví phường vải, phường nón, hò mái nhì, hò huê tình thường có ba bước. Bước thứ nhất là chào hỏi, bước thứ hai là tỏ tình, bước thứ ba là kết thúc để ra về. Trong phần thứ hai nội dung là tỏ tình mà cũng có thể là hát đối đáp, mà phần lớn là đối đáp. Đây là trò chơi trí tuệ, cũng nằm trong loại câu đố của văn chương truyền khẩu nước ta. Loại đối đáp này đều phổ thông trong các dân ca ba miền.
Các loại hát này có thể chia làm hai loại: đơn ca hay hợp ca. Có thể vừa đơn ca vừa hợp ca. Ngày nay, trong nhiều clip là hợp ca nhưng thực tế e không phải thế. Vì khi đối đáp, có những cá nhân đặt ra câu mới thì bên phe khác cũng phải tìm câu mới mà trả lời, cho nên không có hợp ca trong trường hợp này. Như trong hát trao duyên, quan họ, trống quân, hò mái nhì, lúc mới vào và lúc ra về, có thể theo khuôn mẫu cũ mà hợp ca.
Hát quan họ là sinh hoạt đối đáp giữa nam và nữ có các quan viên các nơi tới tham dự. Quan là những người có chức quyền,làm việc trong triều đình hoặc các bộ viện hay xã thôn. Nhưng quan viên cũng là nói chung một cách tôn trọng những quý khách.
Họ là họ hàng.Trong đám cưới, có hai họ nam nữ cho nên người ta gọi là quan viên hai họ. Trong cuộc ca hát ở Bắc Ninh có nhiều khách các nơi đến cho nên người ta gọi khách là quan họ ( quan viên các họ).

Họ cũng có nghĩa là một nhóm đông, một tập thể như họ đạo. Họ có thể do chữ Hội mà ra là hội họp, tụ hội, một nhóm người họp lại , Hội thành ra hụi, hụi thành ra họ như ngồi hụi, ngồi họ. Như vậy có thể hiểu họ là hội, là đám đông và quan họ , hát quan họ là các quan viên, các quý khách hội họp để ca hát.
Còn trống quân là nam nữ ca hát có cái trống ở giữa, vừa hát vừa đánh trống thì thùng, đệm cho câu hát.


Về nghệ thuật kết cấu câu ca thì như người ta gọi là hát dặm hay dậm là bài hát dài, thường theo lối thơ ngũ ngôn, theo cước vận, nhưng đôi khi cũng có câu 4 chữ hay 6, 7 chữ. Mở đầu thường có cặp lục bát sau mới đến bài ngũ ngôn, nhưng phần nhiều vào ngay ngũ ngôn. Có những câu lập lại cho nên lối hát này là lối hát dặm hay dậm.(Dặm hay Dậm là thêm vào, lập lại, đan vào, chêm vào). Cũng như điệp khúc của âm nhạc, là sự lập lại, nhưng hát dặm thỉnh thoảng trong bài, khoảng năm hay mười câu mới có một câu lập lại.Lo tư gia nội trợ/Lo cửa nhà nội trợ…
Thầy tơ tưởng đêm ngày /Mẹ tơ tưởng đêm ngày..
.

Ai khun (khôn) bằng Từ Hải
Cũng mắc dại Thuý Kiều
Nghe lời nói mà xiêu
Về thu binh cuốn giáo
Hạ cột cờ cuốn giáo”.
Còn hát ví tức trong bài ca có đoạn ví von.Theo Tự Điển Khai Trí Tiến Đức, ví là so sánh, ví người nọ với người kia. Ví cũng là lối ca dao, lấy truyện này để ví hay khêu gợi truyện khác. Hát ví.
Ví von: nói chung về hát ví.
Kinh Thi có ba nghệ thuật chính là phú, tỉ hứng. Ca dao Việt Nam cũng vậy. Tỉ tức là so sánh, là ví.

Một trong nghệ thuật của ca dao là dùng thể ví. Trong câu ca dao, người ta đưa ra hai vật để so sánh với nhau, đôi khi rõ ràng, đôi khi so sánh kín đáo
'Rượu lạt uống lắm cũng say/ Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Tốt gỗ hơn tốt nước sơn/ Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.'

 
Tuy nhiên, nhiều bài ca dao không có sự so sánh mà cũng gọi là ví, là vì họ quan niệm ví là hò hát , đối đáp giữa nam và nữ, là lối
hát huê tình cho nên có người mỉa mai hát ví::
Ví ví von von/ Anh cho một cái,/ cõng con về nhà.Đó là sơ lược về cách phân loại dân ca.
Hát ru là hát ru con, chỉ có mẹ và con, bà và cháu hay chi và em. Hát ru không cần âm nhạc hòa hợp.Ở đâu cũng có hát ru. Các nước phần lớn có hát ru. Hát ru có thể dùng mọi lối. Khắp nước ta hát ru thường dùng thể thơ lục bát, và các thể thơ khác, Người ta cũng ru con bằng Kiều, Phan Trần, Lục Vân Tiên.
Hát quan họ, trống quân, hát ví, hát đò đưa, hát xẩm, hò huế, hò khoan, hò hụi, nói chung các thể dân ca thì cũng dùng các thể lục bát và các thể khác. Các loại này là ca hát, là văn nghệ trong quần chúng hay trong các lễ hội cho nên đôi khi có nhạc, và có nam nữ hai phe đối đáp.
Nói hát ru là nói về mục đích, còn nói về hát dặm là nói về kết cấu bài thơ, có những câu lập lại. Hai bên có chỗ khác và giống nhau. Hát ru có thể là hát dặm hay theo lục bát và các thể khác. Người Nghệ Tĩnh Bình cũng vậy nhưng đặc biệt hát ru ở ba tỉnh Nghê Tĩnh Bình có loại hát ru theo lối hát dặm.
Tuy phân chia như vậy, nhưng tìm hiểu sâu xa thì thấy khác nhau. Ở Bắc , tỉnh Hà Nam cũng có hát dặm nhưng hát dặm Hà Nam theo thể lục bát , nghệ thuật và nội dung giống quan họ, và có loại dùng để cúng tế thần linh như là loại hát chầu văn. Ngay ở Nghệ Tĩnh Bình có bài gọi là hát dặm mà là lục bát.
Hát ru thì cá thể và im lặng.
 Mẹ ru con, chị ru em. Hát dặm dùng cho mục đich ru con mà cũng dùng trong trai gái đối đáp trao tình. Hát ru là cá thể và im lặng.Còn hát dặm có thể hợp ca, thì có nhạc, trống, phách và có nhiều loại hát dặm như Dặm xẩm, dặm nối, dặm vè, dặm ru, dặm cửa quyền, dặm kể. Có các tiết tấu phách mạnh, phách nhẹ, những nhịp trong và ngoài. Hát dậm phổ thông tại Nghệ An. Cùng một bài ca dao, người ta có thể dùng để hát ru, hát dặm, hát trống quân, hát quan họ, hát xẫm thiên hóa vạn biến . Các bài hát ví dặm ở Nghệ Tĩnh Bình cũng có thể thấy ở những bài hò khoan, hò hụi, hò giã gạo ở Huế (như bài hát ví phường vải Nghệ An giống hò giã gạo ở Huế).

Nói chung, ca dao trong đó có hát dặm, hát ví, hò huê tình, hát quan họ.. . là một hình thức văn nghệ quần chúng. Nội dung là kể chuyện hay luận về một đề tài như trung hiếu, tình nghĩa vợ chồng. Nam nữ có văn tài mẫn tiệp, có thể sáng tác câu ca để đối đáp, nhưng những bài hát ru Nghệ Tĩnh Bình này dài, phải là do các nho sĩ sáng tác, sau truyền tụng trong dân chúng mà thành hát ru, hát dặm, hát ví, hát hò khoan...Vì là văn chương truyền khẩu nên có nhiều dị bản, và nhiều câu, nhiều đoan khác nhau, và đôi câu, đôi chữ vô nghĩa vì sai lạc.
Ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh Quảng Bình giọng nói cũng giống nhau, và hát ru kiểu cách và văn loại cũng giống nhau. Đời Trần Lê, nước ta chỉ đến Nghệ An, Nghệ An là trấn địa đầu, thường bị quân Chiêm Thành quấy phá. Đời Trần thu nhận hai châu Ô Lý đem sát nhập vào trấn Nghệ An, chưa có Thuận Hóa, Quảng Nam, cho nên Hà Tịnh, Quảng Bình chưa có danh xưng và thuộc trấn Nghệ An. Quân Tam phủ lộng hành ở Thăng Long không ai khác hơn là dân Thanh Nghệ, mà trong đó cũng có phần dân Quảng Bình vì lúc này Quảng Bình còn mang tên là châu Minh Linh, Bố chánh, thuộc trấn Nghệ An. (Châu là đơn vị hành chánh nhỏ của trấn. Dưới trấn có phủ, huyện, và châu. Châu là đơn vị nhỏ hơn huyện ,thuộc vùng rừng núi, triều đình đặt chức tri châu cai trị) Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, phía Bắc sông Gianh thuộc họ Trịnh, phía Nam sông Giang thuộc chúa Nguyễn.
 
Thực ra thì quân hai bên đã nhiều lần vượt qua sông Gianh. Dù Trịnh hay Nguyễn quân hai bên cũng là người Thanh Nghệ cả. Vì chính trị và xã hội như vậy, cho nên ba tỉnh Nghệ Tĩnh Bình có ngôn ngữ và văn hòa giống nhau. Đời Trịnh Nguyễn phân tranh, cũng có lúc Quảng Bình thuộc trấn Thuận Hóa. Đến thời Gia Long thống nhất, Quảng Bình thành tỉnh riêng. Đến khi Việt Minh lên, chia Thanh Nghệ Tĩnh thành liên khu ba, còn Bình Trị Thiên thuộc liên khu bốn. Từ đó Quảng Bình tách khỏi Nghệ An và đi gần với Thừa Thiên, Huế..

Hát ví, đò đưa, quan họ, trống quân, hò khoan .. . phần lớn là trao duyên.
Ngày nay tại Nghệ Tĩnh Bình người ta còn hát ru, hát ví, hát dặm những bài hát xưa nữa không? Những bài hát ru như Phụ tử tình thâm, Chị Dòng, Chợ Đồn, Đá vàng.. . là những bái hát ru tôi đã nghe từ thuở nhỏ ở Quảng Bình. Ngày tháng phôi pha, sợ những công trình văn học nghệ thuật ngày xưa của tổ tiên bị lãng quên, tôi đã tìm hỏi các bậc già cả trong hương thôn và trong gia đình cùng các tài liệu mà ghi chép lại để lưu truyền. Việc sưu tầm đã hơn 30 năm, nay vô tình tìm lại mà thấy, và cũng tìm tòi thêm các tài liệu khác đem công bố trên tạp chí này để các độc giả có thể nghiên cứu. Tuy bài viết chú trọng về hát ru và hát dặm, cũng xin trình bày thêm các điệu hát khác để quý vị có thể so sánh.
Sơn Trung
tháng 3-2012

HÁT RU
PHỤ TỬ TÌNH THÂM
Phụ tử tình thâm,
Công thầy ngãi mẹ.
Đừng tiếng tăm nặng lời,
Đừng cả tiếng rộng hơi,
Mắng trả người sao nên,
Cãi mẹ thầy sao phải.
Nằm đêm nghĩ lại,
Nhớ hai cội thung huyên,
Trả công ơn mới nên,
Trả lượng vàng mới đáng.
Mười ngày chin tháng
Thầy dưỡng dục hoa thai,
Mẹ dưỡng dục hoa thai.
Con lên một lên hai,
Lo ấp yêu bồng ẵm.
Đứa lên ba, lên bốn,
Bú mớm mẹ chưa rời.
Đứa năm bảy nhởi chơi.
Đứa chin, muời khôn nậy.(lớn)
Đứa muời lăm, muời bảy,
Lo trang điểm dồi mài,
Sang hăm mốt, hăm hai,
Lo gia tư nội trợ,
Lo cửa nhà nội trợ.
Hoa tươi ngọc nở,
Ước sum họp vui vầy,
Thầy tơ tưởng đêm ngày,
Mẹ tư tưởng đêm ngày,
Ước dâu hiền rể thảo.
Sách thánh hiền là đạo,
Người hỉ, xã, từ, bi,
Con lỗi lầm điều chi,
Xin mẹ thầy xá quá.
Đừng coi thượng bằng hạ,
Mà ra đạo phi thường
Con đứa ghét đứa thương,
Tội tam tòng phụ tử.
Trong sách có chữ,
Xin ai nấy xem vào,
Thầy một tuổi một cao,
Mẹ một tuổi một cao,
Đừng bât kỳ nặng nhẹ.
Con ở gần thầy mẹ,
Năng xây đáp vun trồng.
Vợ dại đã có chồng,
Để vào ra thăm viếng.
Khi đồng hàng, miếng bánh,
Khi bún sốt, lòng tươi,
Ta nương dắt lấy người,
Kẽo mai già bách tuế.
Cây vàng, lá úa,
Lá úa, lá vàng.
Lá rụng cội đại ngàn.
Con tìm đâu được nữa,
Cháu đâu tìm được nữa.
Mai ra hương lửa,
Tay vái lạy, chân quỳ,
Thầy chẳng thấy ăn chi,
Mẹ chẳng thấy ăn chi,
Chỉ thấy ruồi với muỗi.
Đêm chiêm bao mộng muội,
Thầy chẳng thấy đoái hoài,
Mẹ chẳng thấy đoái hoài.
. Ai ở được như lời,
Đươc phụ từ, tử hiếu không sai.





PHỤ TỬ TÌNH THÂM(Dị bản)
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Lo tròn chữ hiếu mới là đạo con

Phụ tử tình thâm
Công thầy nghĩa mẹ
Đừng tiếng tăm nặng lời
Đừng cả tiếng dài hơi
Nói mẹ cha sao nên
Mà cãi mẹ thầy sao phải

Đêm nằm nghĩ lại
Nhớ đến cội thung huyên
Công cù lao ai đền
Nghĩa sinh thành ngày trước
Khi ăn cơm bát nước
Ước phụ tử tình thâm
Thầy đói rách nợ nần
Mẹ đói rách nợ nần
Cũng vì con thơ ấu

Dù phụ trải trắc mẫu
Rồi trắc trải khó khăn
Con ở có thủy có chung
Được phụ từ tử hiếu
Mà được phụ từ tử hiếu
Dăm ba cành đào liễu
Sáu bày quả nam nhi
Thầy chưa được nhờ chi
Mẹ chưa được nhờ chi
Đền công ơn cho đáng
Công mẹ thầy cho đáng

Rồi mười ngày chín tháng
Mẹ thúc dục nên thai
Con nên ( lên) một nên hai
Thầy ấp yêu bồng bế
Mẹ ấp yêu bồng bế
Con nên ( lên) ba nên bốn
Con tríu mẹ chưa rời
Đứa sáu bảy ăn chơi
Con chín mười khôn nậy ( lớn)
Đứa chín mười khôn nậy
Giờ thầy chưa được cậy
Mẹ cũng chưa được nhờ
Mẹ đang phải lo,
Đứa mảnh khăn tấm áo
Đứa mảnh quần tấm yếm
Con mười lăm mười bảy

Con ăn học dùi ( dồi) mài
Đứa mười chín đôi mươi
Lo chăm xa dựng họp
Lo cửa nhà dựng họp
Khi hoa cười ngọc nở
Chốn đào liễu sum vầy
Thầy mơ tưởng đêm ngày
Mẹ tơ tưởng đêm ngày
Ước dâu hiền rể thảo
Mong dâu hiền rể thảo
Thánh hiền là đạo
Rồi khuất bóng từ bi
Con có lỗi điều chi
xin mẹ thầy xá quá
Đừng cậy thượng át hạ
Ở ra dạ khinh thường
Con đừng đứa ghét thương
Cũng nhất giai chi tử
Cũng giai bằng chi tử

Trong sách có chữ
Con mới phải trông vào
Thầy một tuổi một cao
Mẹ một tuổi một cao
Con đừng bấc chì nặng nhẹ,
Chớ bấc chì nặng nhẹ.

Con ở gần thầy mẹ
Phải xây đắp vun trồng,
Khi vợ dại thì có chồng
Phải vào ra thăm viếng,
Phải đi về thăm viếng.
Khi đồng quà chữ bánh
Khi bún sốt lòng tươi
Ta nâng giấc cho người
Kẻo mai rồi tạ thế
Mai sau rồi tạ thế
Rồi một mai bách tuế
ra cây úa lá vàng
Lá rụng cội đại ngàn
Con tìm mô (đâu) được nữa
Con muốn tìm mô )đâu) được nữa
Khi cúng hương cúng lửa
Khi vào bái ra quỳ
Thầy chẳng thấy ăn chi
Mẹ chẳng thấy ăn chi
Chỉ thấy ruồi với kiến
Chiêm bao tưởng đến
Dù than vắn thở dài
Thầy không đoái không hoài
Mẹ cũng nỏ ( chẳng) đoái hoài
Thật là phụ từ tử hiếu
Ai ơi làm con trọn đạo
Nhắc ai ghi lòng… à á à ơi…

 Clip này do Sơn Trung trình bày



ĐÁ VÀNG

Đá vàng bia tạc chữ đồng
Tào khang là ngãi đạo vợ chồng bách niên.
Bà nguyệt lão xe duyên,
Ông tơ hồng chắp mối,
Khi xưa ai phô, ai nói,
Ai đã biết ai đâu!
Bởi vì chén rượu cơi (khay) trầu,
Bốn thầy mẹ ngồi lâu,
Đôi con rày mới biết.
Đường bách niên thanh khiết,
Có lục lễ phân minh.
Thầy tạo dựng cửa nhà,
Mẹ tạo dựng cửa nhà,
Con thành thất, thành gia,
Thầy dặt gánh để gồng
Mẹ đặt gánh để gồng,
Cho lâu dài bách tuế.
Đuờng nhân tâm tùy thế,
Phải cậy nhờ thầy mẹ,
Khi lửa nhem, củi bẻ,
Khi nhóm nước, bắc nồi,
Như đũa có đôi,
Bữa ăn thường sớm tối.
Có thầy mẹ bù chì ( bù đáp, phù trì)
, Mình thầy mẹ không chi .
Phải hôm mai cần kiệm.
Ăn ít ngon nhiều,
Giả như câu thập điều,
Hai ta làm nên tổ,
Vợ nghe chồng dạy dỗ,
Chồng nghe vợ khuyên can,
Đừng cờ bạc phá tan,
Coi ra loài đãng tử.
Gẫm con nhà gia sự
Thuận vợ, thuận chồng,
Tát bể đông cũng cạn.
Xây nên thành, nên núi,
Tạo đoan một mối,
Phu phụ nhất tình,
Ăn ở phải phân minh,
Chớ bất bình quen thói!
Sách Minh Tâm có nói,
Ba chữ nhịn là hơn,
Đừng kẻ giận người hờn,
Cơn lo buồn dạ hảo.
Ăn ở cho phải đạo,
Cho người thế xem vào,
Mai làm đuợc quan cao,
Khó hèn cùng chữ nghĩa.
Đạo vợ chồng dương thế,
Chồng cầm sách xem bài,
Vợ đã có hoa thai,
Chồng nữa mừng, nửa sợ,
Đường hoa khai, châu nở,
Sóng bể dậy từng hòn,
Phận đàn bà nuôi con,
Công cù lao biết mấy,
Dạ nặng nề biết mấy.
Hôm thức khuya sớm dậy,
Chữ vàng ngọc nâng niu,
Thầy nâng nhắc , ấp yêu
Mẹ ẵm, bồng mem, mớm.
Con đầu, cháu sớm,
Như vàng ngọc trời cho,
Đứa lớn chưa đầy no ( đầy năm),
Trời đã cho đứa khác.
Đi xuôi, về ngược,
Đắng như rễ bồ hòn,
Vợ mắc bồng lấy con,
Chồng xách tiền đi chợ.
Vợ mắc bề nội trợ,
Con tay dắt, tay bồng,
Chồng lo việc ngoài đồng,
Phải vai cày, vai cuốc.
Lòng mua, dạ chuộc,
Biết lấy chi thuê mần ( làm),
Chồng cày thì vợ gánh phân,
Vãi ra rồi đập đất.
Nắng mùa hè nóng cật,
Rét mùa lạnh cóng tay,
Việc nông vụ cấy cày,
Việc làm ăn không quản.
Mùa màng không hạn,
Ăn cơm ré, cá rô,
Bây giờ đồng bạc, nước khô,
Ăn khoai lang phải chịu,
Muối cà trường phải chịu.
Khi đầy, có khi thiếu,
Khi thiếu, có khi đầy.
Của người chớ có vay,
Của mình cùng không bán.
Dần dần con khôn lớn,
Như con chim đầu bầy,
Đứa hay đi hay chạy,
Lại ru đứa hay bò,
Vợ chồng mình khỏi lo,
Nhờ ông bà có đức.
Cội quế hòe đương nức,
Cây tùng bách non xanh,
Rặng tơ liễu buông mành.
Đứa lo bề giá thú,
Đứa lo bề nông vụ,
Đứa lo việc học hành,
Một ngày một trưởng thành,
Vườn xuân thêm phơi phới.
Sự thái lai đã tới,
Con có của, con nên,
Đầy vựa lúa, rương tiền,
Mua trâu rồi tạo ruộng,
Chồng kẻ yêu, ngưòi chuộng,
Vợ kẻ nể, người vì,
Vườn muôn đóa trà mi,
Bõ phong trần ngày trước.


(Người viết  trình bày bài hát ru này ở clip dưới đây)

CHỊ DÒNG

Chị dòng [1]chếch gối nghiêng chăn,
Đêm đông trường gió lạnh
Biết than cùng với ai,
Về giở sách Luận Tài,[2]
Gái hồng nhan bạc phận,
Số chị dòng bạc phận.
Đêm qua truông mấy bận
Bậu qua đò mấy lần
Duyên chưa sang khỏi tuần
Bậu đang còn trắc trở.
Cầu Ô ai bắc mà lỡ
Ván bắc chẳng nhằm chiều
Lỡ nhịp cầu xiêu
Mắc đinh rồi khó tháo
Vợ chồng ta là đạo
Tưởng đầu gối tay kê
Chàng vui thú tình mê
Thiếp phòng khuê lạnh lẽo
Thương hai cây đào liễu
Măng mới mọc, mới lên,
Đào mới biết đi men,
Liễu vừa chừng đứng dậy
Đào thơ lâu đào nậy (lớn)
Liễu yếu lâu liễu khôn
Búp hoa quế trên cây
Đừng đợi chờ sương cửi[3]
Thà đứt đi thì nối
Vô sự tiểu thần tiên
Liền chưa xong phận liền
Đứt chưa đành phận đứt
. Cây trên rừng ai bứt
Quả đào liễu ai vò
Duyên em trước chưa vô
Mà em vô sao được.
Khô như bèo cạn nước
Xót như cá nằm khô
Em đợi chờ nơi mô
Để ông trời vân vũ.
Cây tàn lá úa
Mặt mũi âu sầu
Em đi lấy chồng
Như cưởi bám ngành dâu
Khoai lâu n ăm to củ
Đậu ba lá dễ vùn
Gà mất mẹ lâu khôn
Gái không chồng khốn khổ!

____

[1] Ch ị dòng: người đàn bà góa chồng
[2] Luận Tài: t ên sách bói toán.
[3] Sương cửi: sương xuống như mắc cử
i.
Cũng có nghĩa là sương bám trên cây tầm gửi.( Quảng Bình gọi là cây cửi)
Sơn Trung thực hiện



CHỊ DÒNG

  Dị bản


 Chị dòng  chếch gối nghiêng chăn,
Đêm đông trường gió lạnh
Biết than cùng với ai,
Về giở sách Luận Tài,
Gái hồng nhan bạc phận,
Số chị dòng bạc phận.
Đêm qua truông mấy bận
Bậu qua đò mấy lần
Duyên chưa sang khỏi tuần
Bậu đang còn trắc trở.
Cầu Ô ai bắc mà lỡ
Ván bắc chẳng nhằm chiều
Lỡ nhịp cầu xiêu
Mắc đinh rồi khó tháo
Vợ chồng ta là đạo
Tưởng đầu gối tay kê
Chàng vui thú tình mê
Thiếp phòng khuê lạnh lẽo
Thương hai cây đào liễu
Măng mới mọc, mới lên,
Đào mới biết đi men,
Liễu vừa chừng đứng dậy
Đào thơ lâu đào nậy (lớn)
Liễu yếu lâu liễu khôn
Búp hoa quế trên cây
Đừng đợi chờ sương cửi
Thà đứt đi thì nối
Vô sự tiểu thần tiên
Liền chưa xong phận liền
Đứt chưa đành phận đứt
. Dây trên rừng ai bứt
Quả đào liễu ai vò

Một mình thiếp liệu lo
Nhủ ( Bảo) không buồn răng được
Khô như bèo cạn nước
Xót như cá nằm khô
Em ( ai)  đợi chờ nơi mô
Để ông trời vân vũ.

Khi chiều tà bóng bổ ( ngã)
Mặt mũi em  âu sầu
Em  lấy chồng làm dâu

Cha mẹ thì ở ngái ( xa)
Chị em thì ở ngái (xa)
Biết lấy ai tin tức đi về
Chàng vội sớm về quê
Thiếp phòng hương vò võ.
Khi mưa khi gió
Khi nắng khi im (nhâm, không nắng)
Khi nổi khi chìm
Ai nắm tay túi ( tối ) ngày
Ai giữ đời được mãi
Khi khôn khi dại
Khi tỉnh có khi mê
Quá chốc ngủ nghê
Trăm điều gì quên cả
Anh bà con người xa
Anh phải nói cho tỏ tường
Chị dòng lẻ chiếc mà thương.


Dị bản
CHỊ DÒNG 


Gái hồng nhan bạc phận
Đứt dây thì sợ động
Nói ra thì sợ mất lòng
Coi tơ cũng như dòng
Ai đứt đi thì tội nấy.
Lời thần hôn nói vậy
Lòng chưa có gian tà
Dạ chưa có nguyệt hoa
Ra đường này nói nọ,
Than ra cho rõ
Thì cực trăm đường
Ở cho trọn đạo tào khang
Công cù lao ai đền
Nghĩa sinh thành ai trả.
Tìm nơi sây (sai, nhiều) ngành râm lá
Để có bông trái với người
Năm ba quả tốt tươi
Em ở rứa đừng nên,
Em lấy chồng cũng phải.
Không ai chê em dại
, Nỏ (chẳng) ai nói em hèn,
Người tri lý cũng khen
Chi dòng tiết phụ
Biết mà không nhủ (khuyên, bảo)
Sau lời nói không hay
Cho nên anh phải trình bày
Hết cơn do mọi sự
Khi tư văn, gia lễ
Khi thượng thú thọ mai
Sinh một đứa con trai
Cũng bằng mười phận gái
Em đi khắp tam sơn tứ hải
Đi hết cả trong ngoài
Sao em không kiếm một người
Đói no chi cũng nên
Tơ, dòng (1 ) chi cũng được.

Khi tối trời cạn nước,
Khi đá đổ mồ hôi
Chị em ai nấy đầy nồi.
Nỏ (chẳng) ai viếng thăm một chốc
Tình thâm cốt nhục
Báo hiếu vô cùng
Chi thương tâm thì sợ chồng
Em thương anh thì nghe vợ
Biết lấy ai nương dựa
Bát cháo lưng canh
Anh thì mắc việc
Anh thì con thơ vợ dại
Chị em thì ở ngái (xa)
Biết lấy ai tin tức đi về
Chàng vội sớm về quê
Thiếp phòng hương vò võ.
Khi mưa khi gió
Khi nắng khi im (nhâm, không nắng)
Khi nổi khi chìm
Ai nắm tay túi ( tối ) ngày
Ai giữ đời được mãi
Khi khôn khi dại
Khi tỉnh có khi mê
Quá chốc ngủ nghê
Trăm điều gì quên cả
Anh bà con người xa
Anh phải nói cho tỏ tường
Chị dòng lẻ chiếc mà thương.
 

(1).Tơ: chưa vợ chưa chồng; dòng: trai chết vợ, gái chết chồng 

CHỢ ĐỒN

Chợ Đồn (1) bán đắt cau khô
Một đoàn vợ lính trẩy vô thăm chồng
Gặp trộ ( trận)  mưa dông
Đường xa gánh nặng
Mặt trời sắp lặn
Đèo Ngang chưa trèo
vách đá cheo leo
Chân trèo chân trợt
Hỏi o bán nước
Hỏi chú chăn trâu
Ba Đồn lính đóng nơi đâu?


Dị bản
Chợ Đồn bán đắt cau khô
Một đàn con gái trẩy vô thăm chồng
Vừa gặp trộ (trận) mưa dông
Đường trơn gánh nặng.
Mặt trời đã lặn
Chiếc đò ngang chưa chèo
Hòn đá cheo leo
Vừa gặp hòn đá cheo leo
Em leo sao được,
Nhủ bạn leo sao được!
Hỏi thăm cô gánh nước
Hỏi thăm chú chăn trâu
Đồn ông Quản đóng đâu?

___
(1). Chợ Đồn: Chợ Ba Đồn, trên sông Gianh, ở làng Phan Long, là phủ lị của phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.Ngày xưa thời Trịnh Nguyễn phân tranh, lập Ba Đồn lính vùng này.
 (Người viết trình bày bài hát ru này ở clip dưới đây)

 


CÔNG ƠN CHA MẸ
(Bài này phổ biến nhiều nơi)
“Công cha ba năm tình thâm lai láng,
Nghĩa mẹ đậm đà chín tháng cưu mang,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Biết lấy chi đền đáp khó khăn,
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.”


CÔNG ƠN CHA MẸ

Mang nặng đẻ đau cưu mang chín tháng
Nghĩa mẹ tày trời sông cạn nuôi con
Đói cơm rách áo, ruột mẹ héo hon
Khi con no ấm, lòng mẹ vẫn chưa tròn thảnh thơi
Ngậm đắng nuốt cay thương thay lòng mẹ
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Con ăn con ngủ thì mẹ đỡ băn khoăn
Khi con trở trời hơi gió, mẹ chẳng an tâm chút nào

Non nào cao bằng non Sơn Thái
Nghĩa nào nặng bằng nghĩa cha con
Ví dù cách trở nước non
Ví dù cách mặt, lòng mẹ vẫn còn thương mà nhớ thương
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông
Làm nên phải nhớ tổ tông ông bà
Đạo làm con chớ hững hờ
Phải đem hiếu kính, phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm

Cây khô chưa dễ mọc chồi
Bác mẹ chưa dễ ở đời với ta
Non sông bao tuổi mà già
Bởi vì sương tuyết, bởi vì sương tuyết hoá ra bạc đầu.

Công cha, đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải, con phải biết thờ hai thân.

Ăn chi ngon bằng cơm với cá
Ai thương bằng tình mạ (mẹ) thương con
Bao giờ cá lý hoá long
Đền ơn cha mạ, ẵm bồng ngày xưa


SƠN TRUNG * HÒ TRAO DUYÊN QUẢNG BÌNH


  Tranh NGuyễn Đức Toàn (1929)
TRAO DUYÊN QUẢNG BÌNH

Chuyện nam nữ là chuyện bình thường trong mọi xã hội, trong mọi quốc gia.. Trai gái lớn lên đều có tình yêu. Trước khi đi đến tình yêu, trước khi thành chồng vợ, nam nữ cần có môi trường gặp gỡ. Trai gái trong thôn xóm thường gặp nhau trên ruộng đồng, giữa buổi chợ hay nơi hội hè đình đám. Ngoài những dịp trên, trai gái Việt Nam thường gặp nhau vào mỗi tối tại các tư gia.

Đèn dầu lạc


 Nước ta là một nước nông nghiệp, ban ngày nam nữ lo việc cày bừa, tối đến con gái, đàn bà thường làm các công việc phụ để tăng thu nhập. Nhiều nơi ở miền Trung thường làm nón, xe chỉ kéo sợi hay dệt vải. Tối đến, các cô, các bà thường tụ họp tại một nhà nào đó rộng rãi để làm việc chung với nhau cho vui và để

 Quay sợi
tiết kiệm dầu đèn.  Môi tình giữa Nguyễn Du và gái phường nón ,và phường vải là ở trong môi trường thơ mộng này.
Lúc Pháp đến, nước ta có nhà thắp đèn khí đốt hay đèn măng sông, sau này mới có đèn điện. Còn trước đó là đèn dầu. Đèn là một cái bát thường là bằng đĩa sâu, trong đổ dầu hay mỡ, lấy chỉ hay vải làm bấc đốt cháy. Có đèn một ngọn hay hai ba ngọn. Dầu là dầu phụng (lạc)  hay mỡ heo. Đèn hết dầu thì châm thêm dầu vào.

Quay sợi
Ở Bắc hát quan họ là một cuộc họp mặt văn nghệ có tổ chức, quan khách nhiều nơi xa đến cho nên nghi lễ và cần y phục chỉnh tề. Còn đây là trai gái trong làng, trong xóm cho nên ăn mặc giản dị hơn. Ngày xưa, nơi thôn quê, ra khỏi nhà là người phụ nữ phải mang áo dài, đầu thường để trần chứ không đội khăn hoặc vấn khăn như miền Nam, miền Bắc. Còn con trai thì có thể mặc áo dài hay áo cộc tới tham dự buổi hò hát đối đáp.
                                                         Quay sợi


Các cô gái trong xóm thường là 10 hay 20 cô tụ họp tại một nhà, còn bên ngoài nhà, ở trong sân, khoảng mười hay hai muơi trai tới  dự cuộc vui. Cũng có khi, các cậu trai cũng được mời vào nhà.  

 
     Làm  nón

Không ai bày ra quy tắc, nhưng các cuộc họp đã tạo nên quy luật, gồm các giai đoạn như trước tiên là chào hỏi, sau là đối đáp, bày tỏ tâm tình. Phần cuối là lời từ giã trước khi ra về. Khi hò hát, thường là đồng thanh, đồng ca nhưng cũng có trường hợp một người hò vì câu hò mới sáng tác, chưa phổ biến.

 
 Làm nón
A. CHÀO HỎI
Có nhiều cách chào hỏi.


NỮ -Tối trời chẳng biết mít hay là gai,
Chẳng biết quen hay lạ, biết ai mà chào!




NỮ-Bạn đến mời bạn vào nhà,
Hai bên nam nữ xướng ca vui vầy!
Đêm nay gặp hội rồng mây,
Trai tài gái sắc hội này nên duyên.

NỮ-Bạn đến mời bạn vào nhà,
Đừng đứng ngoài ngõ mà đạp gãy vườn cà nhà em!

NỮ -Túi (tối ) ) trời không biết bạn là ai.
Cho tui (tôi) chào chung một tiếng rạng mai tới tìm
.

NỮ -Chào chung chào chạ chào bậy chào bạ, chào cả và cươi (sân)
Chào người ngang vế bằng vai
Có ai ân tình đạo hạnh lắng tai nghe chào


NỮ - Bạn đến mời bạn vào nhà
Thiếp xin dâng bạn chén trà ướp sen

NAM-Trà thơm sánh với trầu cay,
Đôi ta như loan với phượng có ngày nên duyên.



B. ĐỐI ĐÁP


NỮ-Nghe đồn anh là người hay chữ,
Em xin hỏi thử một vài câu.
Thư sinh sánh với má đào, 
Bên tài bên sắc ai nào hơn ai?

NAM- Tối hôm nay rồng mây hội ngộ,
Em hỏi câu gì anh xin giải tỏ cùng em.
Chữ rằng thiên định nhân duyên,
Trước vui văn tự sau nên vợ chồng.

NỮ -Bạn mày râu ai giỏi quốc văn
Về đây tranh giải với bạn thoa quần thử chơi 


  NAM - Gái Tây Thi chẳng ai bì bên nước Việt
Gái Văn Khương lại ở bên nước Tề
Nực cười cô gái nhà quê
Đến đây mà dám trổ nghề văn chương

NỮ: Em lên lưng voi em hỏi cái đường vạn tượng
Tay em lại dắt dê hỏi chốn lan dương
Đố anh mà đối đặng gương vàng em trao.

NAM : Dây bí ngô trèo trên cây trụ tàu
Cờ thượng mã phất sau đuôi ngựa
Anh đối đặng rồi em lật ngữa gương ra.

NỮ- Anh về thưa với hai họ rõ ràng
Mời hai bên cha mẹ lại, em ngữa gương vàng cho anh  coi
NỮ:Nghe đồn anh hay chữ
Cho em xin hỏi thử một câu.
Biển Đông Hải có mấy trượng sâu?
Ở trên cung Quảng có mấy cái lầu Hằng Nga?


NAM- Bể Đông Hải có vạn trượng sâu,
Ở trên cung Quảng có mấy trăm lầu Hằng Nga.
Em ơi, em mà chịu lấy ta,
Ta về xây sẵn mấy tòa lầu cao!


NỮ - Chuối không qua Tây răng (sao)  gọi là chuối sứ ?
Cây không biết chữ răng (sao)  gọi là thông ?
Nam nhơn đà đối đặng quyết làm chồng nữ nhi

NAM- Chuối không qua Tây nhưng qua Tàu, qua Nhật nên gọi là chuối sứ
Cây thông không biết chữ nhưng bốn mùa xanh tốt nên gọi là cây thông.
Anh đây đối đặng, em lấy anh làm chồng nghe em!

NỮ: Mấy lời hỏi thử học trò,
Ai dàn quân Bái Thượng, ai chèo đò Ô giang?

NAM-Việc chi mà phải hỏi học trò,
Lưu Bang dàn quân Bái Thượng, ông Đình trưởng chèo đò Ô giang.

NỮ -Em đi qua đò Quán Hàu
Gặp một o đội nón xoáy ốc
Tay bắt hến, miệng hát nghêu ngao
Trai nam nhi anh mà đối đặng
Em sẻ mở lời chào đón anh


NAM - Anh đi qua đò chàng Ếch
Gặp ông xã cóc
Tay nhét xâu nhái
Đi bán chợ Mỹ Hương
Trai nam nhi anh đà đối được
Lời chào nọ em có mở đường đón anh?.


NỮ-Đố anh con rết mấy chân,
Cầu Ô mấy nhịp, nuớc Tần ở đâu?
-NAM-Em ơi, con rết trăm chân
Cầu Ô mười hai nhịp, nước Tần ở bên Ngô.

NỮ-Bánh đầy mâm sao gọi là bánh it?
Trầu đầy đĩa sao gọi trầu không?
Trai nam nhi mà đối được sẽ làm chồng nữ nhi.
NAM- Bánh đầy mâm mà không thương nên gọi là bánh it,
Trầu đầy đĩa mà không nhớ nên gọi trầu không.
Anh đây đối đặng em phải bằng lòng theo anh!

NỮ - Đố anh con rết mấy chân
Núi Đầu Mâu mấy trượng chợ Dinh Xuân mấy người?

NAM- Em ơi con rết có trăm chân,
Cầu Ô mười hai nhịp, chợ Dinh Xuân có vạn người.




NỮ- Đố anh cây chi   là cây không lá,
Cá chi là cá không xương,
Con chi là ngựa Long vương không ai dám cưỡi.
Anh mà đối đáp rõ ràng,
Em xin đem chiếc gương vàng tặng anh.
NAM- Cây cầu là cây không lá,
Cá cược là cá không xương,
Con cọp là ngựa Long vương không ai dám cưỡi
Anh đây đối  đã rõ ràng,
Xin em lật ngữa gương vàng cho anh coi.
NỮ- Anh về thưa với mẹ cha,
Trình cùng hai họ, thì em sẽ trao ra gương vàng.


C. BÀY TỎ TÂM TÌNH


NỮ -Thân em như giọt nước giữa dòng
Thấy anh là  thấy mặt biết lòng anh  cạn  sâu?

NAM - Qua đây cũng như sợi dây dài
Lòng sông sâu cạn dò hoài phải thông!

NỮ- Thân em như hạt mưa rào
Hạt sa xuống giếng, hạt vào vườn hoa,
Em buồn cho duyện phận đôi ta
Kẻ đây người đó cách xa ngàn trùng.



NAM -Em ơi em sớm lấy chồng,
Để có con cái ẵm  bồng trên tay!
NỮ -Em ra lấy chồng biết bỏ mẹ cho ai
Chiều hôm quạnh vắng khuya mai một mình!
NỮ -Ai bưng cau trầu tới đó, chịu khó bưng về
Em đây vốn thiệt không chê
Nhưng muốn ở với  cha mẹ cho trọn bề hiếu trung.
-Em ra lấy chồng bỏ mẹ cho ai
Thu đông tiết lạnh mẹ ngồi hoài trông con!

NỮ -Anh lui về sửa cậy mối dong
Trầu mâm rượu hũ đẹp lòng mẹ cha
Kể từ ngày mẹ đẻ con ra
Mem cơm trún sữa lớn mà từng ni
Em nghe anh mà bỏ ra đi
Thất hiếu với phụ mẫu, tội ni ai đền?

NỮ - Phụ mẫu sơ sinh em để cho phụ mẫu em định
Trong việc vợ chồng chờ lịnh mẹ cha!

NAM- Sợ đó không ưng, đây anh mừng biết mấy
Hễ anh thấy thương rồi cha mẹ thấy cũng thương!

NỮ-Gặp anh em chẳng dám chào,
Sợ rằng chị Cả dắt dao trong mình.

NAM-Anh đây chưa vợ
Xin em đừng có sợ ai ghen.
Đôi ta xin vẹn lời nguyền
Đá mòn sông cạn không quên ân tình!

NỮ-Gặp anh em những muốn chào,
Sợ rằng thiên hạ xì xào nọ kia.

NAM- Đôi ta như thể con dao,
Năng liếc thì sắc, năng chào thời quen!
Dù ai nói  ngã nói nghiêng,
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân

NỮ-Đất Quảng Bình chưa mưa đã thấm,
Rượu Quảng Trị chưa nhấm đã say.
Anh quen em chưa được mấy mươi ngày,
Mà người thiên hạ đã bày đặt ra.
NAM-Đất Quảng Bình chưa mưa đã thấm,
Rượu Quảng Trị chưa nhấm đã say.
Mặc ai nói đông, nói tây,
Đôi ta vẫn vững như cây giữa rừng!

NỮ-Anh đừng qua lại nơi đây,
Cô bác không chịu, mẹ thầy không ưa.

NAM-Trời năng mưa thì giếng năng đầy
Anh năng qua lại mẹ thầy thêm thương.

NỮ-Đi đâu cho thiếp đi cùng,
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng có đôi!
NỮ- Lên non em cũng lên theo,
Xuống thuyền em cũng đấp đeo mạn thuyền


NAM NỮ-Nước lên cuốn sáo nhổ say,
Quen nhau từ thuở trên tay mẹ bồng.
Hai ta lòng đã hẹn lòng,
Trăm năm kết nghĩa vợ chồng sắt son. 

-NAM-Nhà anh thơm ngát hương lan,
Nhà em xanh mướt mấy giàn trầu không.
Anh ước cùng em kết nghĩa vợ chồng,
Cho loan ấp phượng, cho phượng bồng lấy loan.

NỮ-Chợ Đồn một tháng sáu phiên,
Anh đi anh để ưu phiền cho em.
NAM-Chợ Đồn một tháng sáu phiên,
Sông Gianh dù rộng, ghe thuyền thiếu chi.
Sáng đi thì chiều lại về,
Quanh năm suốt tháng anh luôn cận kề bên em!

-NAM NỮ- Dù cho lên Troóc xuống Bùng,
Dù Đèo  Ngang cao, sông Gianh rộng, ta cùng có nhau!

NAM,NỮ -Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Đôi ta gặp hội  mây rồng,
Ước cùng kết nghĩa vợ chồng trăm năm!

NAM NỮ:-Nhất ngộ đồ trung,
Nhị ngộ tương phùng.
Đôi ta một dạ thủy chung,
Cầu xin nguyệt lão  tơ hồng xe duyên..


NAM.-Khi nao hết cát truông Ngừ
Mòn đường Đá Nhảy, anh mới từ ngãi em
NAM. Khi nao cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền.

NỮ:-Thiên sinh nhân hà nhân vô lộc
Địa sinh thảo hà thảo vô căn.
Một mình giữa lòng thuyền dưới nước trên trăng
Biết cùng ai troa duyên gửi phận cho bằng thế gian?

 NAM- May mô (sao) may,Khéo mô (sao) khéo
Như cây cỏ héo gặp trộ (trận) mưa dông,
Anh đây chưa vợ, em đó chưa chồng,
Hai ta gặp lại như rồng gặp mây.



NAM NỮ-Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
Một trăm ngườì tục mới được một người thanh,
Biết ai tâm sự như mình,
Mua vôi tô lấy tượng Bình NGuyên Quân.
NAM NỮ-Tài tử sánh với giai nhân,
Tư Mã sánh với Văn Quân duyên trời
Đôi ta tài sắc  một đôi,
Cá nước gặp gỡ do trời xe duyên,
Việc chi mà em than thở buồn phiền?


NAM, NỮ -Chim khôn khó vượt Thanh Hà,
Người khôn cũng khó vượt qua Lũy Thầy.
Ta  yêu nhau cho trọn kiếp này,
Dù  no dù đói tháng ngày có nhau.

NAM-Dốc  nào cao bằng dốc Cao Maị,
Không nơi nào khó qua lại như sông nước Rào Nan.
Dù cho vạn thủy thiên san,
Yêu em anh quyết vượt suối băng ngàn tìm em !


NỮ- Một lần chờ mười lần đợi
Một lần nhớ vạn lần thương.
 Em yêu anh ruột héo gan vàng,
Tiếc rằng thầy mẹ, họ hàng không thương!

NAM- Anh đây như con chuồn chuồn,
Khi vui thì đậu, khi buồn thì bay.



NỮ:- Họa hổ họa bì nan  họa cốt,
Tri nhân tri diện bất tri tâm.
May mô (May sao) chút nữa thì em lầm,

Khoai lang khô xắt (cắt) lát mà em tưởng là Cao ly sâm bên Tàu!

NỮ: Trách ai tham đó, bỏ đăng,
Tham lê quên lưu, tham trăng quên đèn.

NỮ- Trách ai tham ván bỏ bìa,
Khi thương thì thương vội, khi lìa thì lìa xa!


 NAM - Em ơi,  em đã thương anh   thì thương cho chắc
Mà đã trúc  trắc thì trục trặc cho luôn
Đừng như con thỏ  nó đứng đầu truông
Khi vui thì  giỡn bóng, mà khi buồn  thì giỡn trăng!

NAM:- Em nói với anh như rìu chém xuống đá,
 như rạ (rựa) chém xuống đất,
như mật rót vào tai.
Sao  chừ (giờ ) em lại nghe ai,
Qua cầu nghiêng nón chạm vai không chào! 

NỮ- Anh nói với em như rìu chém xuống đá,
 như rạ (rựa) chém xuống đất,
như mật rót vào tai.
Sao  chừ (giờ ) anh  lại nghe ai,
 Bỏ em giữa chốn non Đoài thảm chưa?

NỮ:- Anh về để áo lại đây,
Để đêm em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng.
Cơn lạnh thì có cơn nồng,
Cơn  đắp áo ngắn  cơn chung áo dài.
Răng  chừ ( sao giờ) anh lại nghe ai,
Áo ngắn không đắp áo dài không chung?


NAM, NỮ- Cầm vàng mà lội qua sông,
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.


NAM NỮ -Huệ xa lan, lan tàn, huệ héo,
Lựu xa đào, lựu ngã, đào nghiêng.
Vàng cầm trên tay, rớt xuống không phiền,
Phiền vì một nỗi nợ duyên không thành .


NAM -Cửa Nhật Lệ, Sông Gianh còn mãi
Ngọn Chùa Non sáng mãi Mâu Sơn
Lòng bên anh cong quẹo, thất nhơn có trời

NỮ- Ai làm cho đó xa đây,
Cho chim chèo bẻo xa cây măng vòi!
Anh ơi nghĩ lại mà coi
Tấm lòng em ở gương soi nào bằng
NAM- Em đừng than ngắn thở dài
Nghĩa anh giữ nào phai tấc lòng
Đôi ta đã tạc chữ đồng
Tử sinh, sinh tử một lòng có nhau


D.CHIA TAY

NỮ - Hết mùa đồng cạn, nước khô,
Bậu về quê bậu, biết nơi mô kiếm tìm?

NỮ -Anh về để áo lại đây
Đêm khuya em đắp kẻo ngọn gió tây lạnh lùng

NAM -Trăng đã lên cao, trời sao vằng vặc
Mỗi tiếng hò réo rắt lòng anh
Nhắm chừng đêm đã sang canh,
Anh về mà dạ không đành em ơi!

NỮ- Chim xa bầy thương cây nhớ cội,
Người xa người tội lắm người ôi!
Chẳng thà không biết thì thội,
Biết mà mỗi đứa một nơi cũng buồn

NỮ- Mẹ thương con ra cầu Ái tử
Vợ trông chồng đứng núi Vọng phu,
Mai tê (kia)  rồi bóng xế trăng lu,
Bạn về quê bạn, biết nơi mô mà tìm!
NAM- Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo anh cũng qua.

NỮ-Ra về em chẳng cho về
Nắm tay lôi lại xin đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành
Chữ trung, chữ Hiếu, chữ tình là ba
Chữ Trung thì để phần cha
Chữ Hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình.

NỮ : Ra về em nắm cổ tay
Em dặn câu này anh chớ có quên.
Đôi ta đã nặng lời nguyền,
Đá mòn sông cạn chớ quên tấc lòng.

Sau đây là phần âm thanh do Sơn Trung thực hiện 


 
HÁT RU,  HÁT DẶM, HÁT VÍ Ở CÁC TỈNH

THỬ LÒNG CHUNG THỦY

Vừa ra vừa gặp người xinh
Cũng bằng Kim Trọng tiết thanh minh gặp Kiều
Vừa ra vừa gặp người giòn
Cũng bằng hoa nở hội bóng tròn tốt tươi

Mang chuông đi đánh đất người,
Ôm gà đi chọi những nơi anh hùng.
Anh đang tìm vợ qua sông,
Em đang tìm chồng thì gặp được anh đây.
Trước nhờ nguyệt lão xe dây
Sắt cầm tình hảo hợp đó đây một nhà...

Nghe tin anh đau đầu chưa khá,
Em băng rừng bẻ lá về xông,
Ước mần răng cho đây vợ đó chồng,
Đổ mồ hôi ra em quạt , gặp hội nắng nồng mà em che ....


Ngẫm lời ra thật dễ nghe,
Anh đây còn ngại ai kia hững hờ
Sợ rồi anh đến giàn hoa
Hoa kia đã nở,
Anh đến bến đò thì đò đã sang sông,
Anh đến tìm em thì em đã lấy chồng,
Em yêu anh như rứa thì hỏi có mặn nồng lấy chi...

Anh đến giàn hoa,
hoa đến thì thì hoa phải nở,
Anh đến bến đò đò đầy thì đò phải sang sông,
Đến duyên em thì em phải lấy chồng,
Em yêu anh được rứa chứ mặn nồng thì tuỳ anh...

Thà trước em nói không thương anh thì thôi,
Sao em đã nói thương anh rồi,
Anh về làm một cái nhà to,
Một cái nhà nhỏ.
Cái nhà to mùng che sáo bỏ,
Mà cái nhà nhỏ thì gian trong phòng ngoài,
Bây giờ em đã nghe ai
Để mùng hư, sáo gãy, mèn hắn sai đằng mèn...

Khi em chưa có chồng thì anh nỏ (chẳng) dốc lòng gắn bó,
Em có chồng rồi thì anh đón ngõ trao thư
Ngãi nhân nhân ngãi chi chừ (giờ),
Gái có chồng rồi như thể có bùa trừ mà trao ơ tay...

Trước thì bạn nói bạn thương
Cau tôi giành để trên buồng,
Trầu tôi giành để ngoài nương,
Tiền thì buộc chạc trong rương,
Lợn tui ụt ịt i trong chuồng,
Chõng thì đục sẵn trong buồng...

Chừ (bây giờ) thì bạn nói bạn không thương,
Cau chanh hạt trên buồng,
Trầu thì rụng cuống ngoài nương,
Tiền thì đứt chạc (giây) trong rương,
Lợn thì bỏ cám trong chuồng,
Chõng thì bỏ mốc trong buồng,
Bạc tình chi rứa bạn, bạc tình rứa (vậy) bạn...

Thương anh lắm anh ơi,
Nhớ anh lắm anh ơi,
Thương đáo để khúc nhôi,
Nhớ ngao ngán trần đời,
Thương thuốc gói , trầu cơi,
Nhớ thuốc mở trầu mời,
Mới vắng mặt một hồi,
mà trán tui hắn đổ mồ hôi,
Trong ruột đã nóng sôi,
Bưng cơm ăn nỏ ( chẳng) được,
Bưng nước uống không trôi,
Cầm lấy đũa thì đũa rớt,
Lấy đọi (bát) thì đọi rơi,
Ra tui ngong đất ngó trời,
Ra tui nhìn ngược ngó ơ xuôi,
Cha tui mí ( mới) hỏi:
Tại mần răng rứa ( sao thế) con ơi?
Mẹ tui cũng hỏi:
Tại mần răng rứa con ơi?
Tui (tôi) mí ( mới) lặng lặng tui trả lời:
Vì tui thương anh vô kể,
Thiếp nhớ chàng ơ vô kể...

Người ơi...
Hôm qua anh đi trước cửa nhà nàng,
Thấy cha mẹ nàng đập nàng
Nàng khóc nàng than,
Nhà nàng cửa sổ song loan,
Anh muốn vô ghé lưng chịu trận đòn oan cho nàng...

Cơm em ăn hai bát
Bát ăn bát để,
Đụa em so hai đôi thì đôi đứng đôi nằm.
Ví dù thầy mẹ có đánh đập em chín chục một trăm,
Đập rồi em đứng dậy , em vẫn nhất tâm thương chàng...

Người ơi... trăm năm đá nát vàng phai,
Đốt chùa không tội bằng sai lời nguyền.
Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây
Sông Lam hết nước thì đó với đây mới hết tình...! 


TRAO DUYÊN

Trai:
Tiết thanh nhàn thong thả,
Muốn thăm hỏi vài câu.
Cuốc ( chim quốc) thành thót kêu sầu,
Gió phảng phất mùa thâu.
Nhớ trong sách đã lâu:
Chuyện " tư mã phượng cầu"
Thường thì mũi tìm trâu
Trâu đâu tìm chạc (sợi giây) mũi?
Gái:
Trời mở rộng phong quang,
Giã ơn trời mở rộng phong quang.
Em đánh tiếng thưa sang,
Đêm tàn canh vò võ
Tay em cầm con bấc đỏ,
Mong bỏ đĩa dầu đầy,
Mời bạn ỏ lại đây.
Đôi ta đã giở lời rày,
Tình đó với nghĩa đây.
Giống như đọi nác ( nước lã) đầy,
Bưng nhẩn nhẩn trên tay.
Không khuy sơ một hột,
Gió nỏ ( chẳng) triêng một hột.
Công đồi ta thề thốt,
Kể đã mấy niên rồi.
Lòng đã quyết lứa đôi,
Ngãi đã quyết thề bồi,
Nhất ngôn nói hẳn lời,
Đừng bốn chốn, ba nơi,
Đừng trăng gió chào mời.
Trăng nhiều trăng rạng rỡ
Trăng nhiều đèn rạng rỡ
Gái:
Em đã có chồng rồi
Em đã có lứa rồi,
Vung đã úp vừa nồi,
Đũa đã ghép thành đôi.
Bạn đừng có ỡm ờ với tôi!
Tôi lấy chân khỏa lại,
Tôi lấy bàn khỏa lại.
Trai:
Têm một quả trầu không,
Bỏ vô hộp con rồng.
Đi băng nội băng đồn,
Qua chín mười đỗi đồng,
Nghe tin em đã có chồng,
Anh quăng lắc vô bụi.
Bạn gạt tùa vô bụi
Anh thương em một tháng hai kỳ
Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày.
Năm rộn mà chầy,
Có hai mươi bốn tiết
Hè sang thì xuân hết
thu đã muộn, đông rồi.
Nhớ bạn cũ chưa nguôi,
Sáng lập xuân, vũ thuỷ.
Đêm em nằm em nghĩ:
Nghĩ kinh trập; xuân phân,
Lòng tưởng sự ái ân,
Sang thanh minh, cốc vũ.
Đêm đêm nằm nỏ ngủ,
Nhở bạn mãi thường thường,
Tiết lập hạ nhớ thương,
Bước sang tuần tiểu mãn.
Trông ra ngoài chán chán.
Tiết mang hiện lại gần.
Người đâp đất gánh phân.
Để mùa màng gặt hái.
Anh thương em mãi mãi,
Sang hạ chí tiết hè,
Em nghe tiếng sầu ve,
Em buồn trong gia sự,
Bạn buồn trong gia sự.
Tiểu tiết thử, đại thử,
Trời nắng sốt lắm thay!
Ra ngồi tựa cột cây,
Anh với em than thở...
Bạn với mình than thở.
Tiết lập thu, xử thu,
Ai diều sáo mặc ai
Vàng lác đác giếng tây,
Ta thương người bạn cộ (cũ).
Nhớ mãi người bạn cộ (cũ).
Vừa đến tiết bạch lộ
Bầy chim trắng bay sang.
Cây héo hắt lá vàng
Sang thu phân hàn lộ.
Đêm em nằm em chộ (thấy)
Tiết sương giáng lại kề.
Trông bạn cũ lại về,
Sang lập đông giá rét
Tiết tiểu tuyết, đại tuyết,
Trời giá rét lắm thay!
Sang đông chí cấy cày,
Dạ bồi hồi nhớ bạn.
Tiết tiết hàn chưa dạn,
Đã bước sang đại hàn.
Dạ tưởng nhớ người ngoan,
Vừa năm cùng tháng tận,
Vừa cuối mùa cuối tận.
Phận lại ngồi trách phận,
Phận nỏ ( chẳng) dám trách phận!
Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp
Hát dặm đò xưa
Nam hát:
Em ơi em! Nác (nước) ngược nặng sào,
Em ngồi cầm lái, em bẻ vào cho lanh (nhanh).
Hai ta lên thác xuống ghềnh,
Khó nghèo nọ (chẳng) kể, ta cũng đành có nhau.
Em ơi em! Đừng có ham giàu,
Cơm no, áo ấm cũng ở con sào đó em.

Nữ hát:
Anh ơi anh! Chống nốc (thuyền) cho êm,
Việc chi chi cũng có em đây rồi.
May cho em một tấm mấn (1) sồi (2)
Mồng năm, ngày Tết khỏi kẻ cười người chê.
Anh ơi anh! Đừng có lo chi,
Ngày ni (nay) ta khó, cũng có khi ta giàu.

Nam nữ cùng hát:
Kéo buồm theo gió chạy mau,
Ta đây mình đó, ớ!
Đi đâu cũng là.
Một mai áo lụa, mấn là,
Chín tru (trâu) mười đụn cũng ta với mình.
Hay là áo mảnh, quần manh,
Cơm cà áp mói (muối) cũng mình với ta…

__
(1) .Mấn: váy
(2)sồi: lụa, tơ gốc dày, mặt sù sì
 
 
  VÍ DẶM
Anh ơi ... chứ khoan vội , khoan vội mà bực mình.
Em xin... kể lại cho anh tỏ tường.
Anh cứ nhủ rằng em không thương
Em đo lường thì rất cặn kẻ,
Chính thương anh nên em bàn với mẹ,
phải ngăn anh không đi chuyến ngược đường.

Giận thì giận mà thương thì thương,
Giận thì giận mà thương thì thương,
Anh sai đường em không chịu nổi,
Anh ơi anh xin đừng có giận vội ,
Trước tiên anh phải tự trách mình.

Anh cứ nhủ rằng em không thương
Em đo lường thì rất cặn kẻ,
Chính thương anh nên em bàn với mẹ,
Phải ngăn anh không đi chuyến ngược đường.
Giận thì giận mà thương thì thương,
Giận thì giận mà thương thì thương,
Anh sai đường em không chịu nổi,
Anh ơi anh xin đừng có giận vội ,
Trước tiên anh phải tự trách mình...
HÁT VÍ PHƯỜNG VẢI XỨ NGHỆ
Gió mô (đâu) gió thổi sau lưng/
Dạ mô dạ nhớ người dưng thế này?
/ Bóng trăng em tưởng bóng đèn/
Bóng cơn (cây) em tưởng bóng thuyền anh xuôi/
Nước lê lấp xỉ cầu dày/
Anh thương em chưa trọn một ngày,
ghe lui hay nước chảy cho bè anh trôi/
Ai bắt bè anh lại kết nên đôi vợ chồng…



Đố:

Sách Hán vương chường (chàng) học lâu nay,
Hỏi ai câu sông Vị, ai cày Lạch (Lịch) sơn?
- Sách Hán vương anh xin nói nường (nàng) hay,
Ông Lữ câu sông Vị, vua Thuấn cày Lạch (Lịch) sơn.

Đối:
- Nhớ anh “nhất nhật” đã suốt “một ngày”
“Đêm” còn tơ tưởng “dạ”, lòng rày nhớ trông.
- Chờ em “nửa tháng” ni rồi,
Ôm đờn “bán nguyệt” dựa ngồi cung “trăng” ...



Anh về chẻ lạt bó tro
Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng.
Em về đục núi lòn qua,
Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng

Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc,
Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây
Hai ta tình nặng nghĩa dày,
Đối ra đáp được, lúc này tính sao?

-
Đến đây hỏi khác tương phùng
Chim chi một cánh bay cùng nước non?
-Tương phùng nhắn với tương tri,
Lá buồm một cánh bay đi khắp trời

- Lá gì không nhánh, không ngành?
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?
- Lá thư không nhánh, không ngành,
Lá thư chỉ có tay mình trao tay.


- Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng
Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi?
- Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong
Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa?

Nghe anh bôn tẩu bấy lâu
Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh?
- Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu
Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi
Cầu danh, cầu lợi, cầu tài
Cầu cho đây đó làm hai giao hoà

Nhớ em nhất nhật một ngày
Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông
- Chờ em nửa tháng ni rồi
Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng

- Nghe tin anh giỏi, anh tài
Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng?
- Thiên thai là của nàng Kiều
Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra
“Lá gì không nhánh, không ngành?
Lá gì chỉ có tay mình trao tay?
Lá thư không nhánh, không ngành,
Lá thư chỉ có tay mình trao tay”.



HÒ GIÃ GẠO
(Huế)

Nữ hò:
Khoan ơi khoan mời bạn khoan là hò lơ ơ ơ ......
hờ hờ ơ ơ... hết Hạ, Thu sang mùa màng rộn rã, chừ ở đây tui mở lời chào tất cả con lại bà con hò ơ .......
Muốn thân nhau mượn câu hò tiếng hát, tâm sự đổi trao
Chừ xin mời thanh niên nữ với nam, hò ơ ơ ơ ....
Thanh niên nam nữ ta mạnh dạn bước vào chơi là hò chơi hò ơ ơ ơ.....
Này hỡi anh ơi, chừ em hỏi anh nì
Trong trăm loại dầu có dầu chi là dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp có bắp chi là bắp không rang
Trong ngàn thứ than có than chi là than không quạt
Trong hàng thứ bạc có bạc chi là loại bạc không đổi tiêu mà không tiêu ?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng
Dải lụa điều (đào) trao là em trao.
hò ơ ....
Nam hò:
Trong trăm loại dầu có nắng dãi mưa dầu là loại dầu không thắp
Trong trăm thứ bắp có lắp bắp mồm lắp bắp miệng là bắp không rang
Trong ngàn thứ than có than thở thở than là than không quạt
Trong hàng loại bạc có bạc tình bạc nghĩa là bạc không đổi tiêu mà không tiêu
Trai nam nhi anh đã đối đặng
thì dải lụa điều đâu có đâu lại có đâu
hò ơ.....
Nữ hò:
Chứ em hỏi anh nì
Chữ chi là chữ chôn xuống đất
Chữ chi là chữ cất lên cao
Chữ chi nặng mà không ai mang nỗi
Chữ chi mà gió thổi bay là không bay?
Trai nam nhi bên chàng đối đặng
Miếng trầu cay hò ơ ơ ơ..... là cho chàng
Nam hò:
Hai chữ tiền tài anh bỏ xuống đất
Hai chữ nhân nghĩa anh cất trên cao
Hai chữ nhớ thương muốn tha không nỗi
Chữ tình chữ nghĩa gió thổi bay cũng không bay
Trai nam nhi anh đà đối đặng
Gái xuân thời em tính răng?
hò lờ ơ ơ... là hò là khoan ....

Nữ:
Em đố anh , ở trên trần một trăm cái hố, cái hố chi là hố không nước
Một trăm cái thước, cái thước chi là thước không cây
Một trăm cái cây, có cây chi là cây mà không trái
Một trăm con gái, có gái chi là gái không chồng
Trai nam nhi anh mà giải đặng, gái má hồng em xin dâng.
Nam : - Em hởi em ơi, một trăm cái hố, cái hố khoan là hố không nước
Một trăm cái thước, cái thước thợ mã là thước không cây
Một trăm cái cây, có cây đờn là cây không trái
Một trăm con gái, gái tố nữ là gái không chồng
Trai nam nhi anh đây giải được,hỏi má hồng em ở đâu?
Nữ hò:
Đi mô cho thiếp theo cùng
đói no thiếp chịu lạnh lùng mà thiếp cũng cam
hò ơ ơ......
Nam hò:
Yêu nhau tam tứ núi anh cũng trèo
ngũ lục sông anh cũng lội
thập bát đèo anh cũng qua.
hò lơ ớ ơ là hò là khoan ..... là hò là khoan!



SAU ĐÂY LÀ NHỮNG CLIP DO SƠN TRUNG TRÌNH BÀY




 SAU ĐÂY LÀ CÁC CLIP VỀ DÂN CA CÁC TỈNH 




 

B. THI CA, VĂN TẾ

  NHỮNG BÀI VĂN THƠ HAY

Sơn Trung giới thiệu và trình bày 


Cảm Thu, Tiễn Thu

Tác giả: Tản Đà






Tháng chín năm Canh Thân - 1920
(Trích)

Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh,
Trăng thu bạch,
Khói thu xây thành.

Lá thu rơi rụng đầu ghềnh
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly.
Nhạn về én lại bay đi,
Đêm thì vượn hót ngày thì ve ngâm.
Lá sen tàn tạ trong đầm
Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương.
Nào người cố lý tha hương,
Cảm thu ai có tư lường, hỡi ai!



THỀ NON NƯỚC

 Tản Đà






Nước non nặng một lời thề,
Nước đi, đi mãi, không về cùng non.
Nhớ lời "nguyện nước thề non",
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày,
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời tây ngã bóng tà dương,
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non.
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non, còn nước, hãy còn thề xưa.
Non cao đà biết hay chưa?
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi.
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi,
Non non nước nước không nguôi lời thề.




 BỨC DƯ ĐỒ RÁCH 
TẢN ĐÀ
 
Nọ bức dư đồ thử đứng coi
Sông sông núi núi khéo bia cười!
Biết bao lúc mới công vờn vẽ
Sao đến bây giờ rách tả tơi?
Ấy trước ông cha mua để lại
Mà sau con cháu lấy làm chơi
Thôi thôi có trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.




HỒ TRƯỜNG
NGUYỄN BÁ TRÁC

Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;
 Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.



ĐÂY THÔN VỸ 
HÀN MẶC TỬ


Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?


Lời Kỹ Nữ

: Xuân Diệu






Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
 Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơi.
 Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời;
Khách không ở, lòng em cô độc quá.
 Khách ngồi lại cùng em !
Đây gối lả, Tay em đây mời khách ngả đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,
  Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
 Chớ đạp hồn em ! Trăng từ viễn xứ
  Đi khoan thai lên ngự đỉnh trời tròn.
 Gió theo trăng từ biển thổi qua non;
Buồn theo gió lan xa từng thoáng rợn.
 Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn,
 Chớ để riêng em phải gặp lòng em;

Tay ái ân du khách hãy làm rèm,
Tóc xanh tốt em xin nguyền dệt võng.
 Đẩy hộ hồn em triền miên trên sóng,
 Trôi phiêu lưu không vọng bến hay gành;
Vì mình em không được quấn chân anh,
Tóc không phải những dây tình vướng víu.
Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo;
 Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
 Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
, Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
 Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
 Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi
. Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi,
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi.
Du khách đi. Du khách đã đi rồi.


Cô Hàng Xóm
Nguyễn Bính
 
FlowersNhà nàng ở cạnh nhà tôi,
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn.
Hai người sống giữa cô đơn,
buom Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi.
Giá đừng có dậu mùng tơi,
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng.

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng...
Có con bướm trắng thường sang bên này.
Bướm ơi! Bướm hãy vào đây!
Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi...
Chả bao giờ thấy nàng cười,
Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên.
Mắt nàng đăm đắm trông lên...
Buom
Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi!
Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi,
Tôi buồn tự hỏi: "Hay tôi yêu nàng?"
-- Không, từ ân ái lỡ làng,
Tình tôi than lạnh gio tàn làm sao?
Tơ hong nàng chả cất vào,
Con bươm bướm trắng hôm nào cũng sang.

Mấy hôm nay chẳng thấy nàng,
Giá tôi cũng có tơ vàng mà hong.
Cái gì như thể nhớ mong?
Nhớ nàng? Không! Quyết là không nhớ nàng!
Vâng, từ ân ái nhỡ nhàng,
Lòng tôi riêng nhớ bạn vàng ngày xưa.

Tầm tầm giời cứ đổ mưa,
Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm.
Cô đơn buồn lại thêm buồn,
Tạnh mưa bươm bướm biết còn sang chơi?
            Buom
Hôm nay mưa đã tạnh rồi!
Tơ không hong nữa, bướm lười không sang.
Bên hiên vẫn vắng bóng nàng,
Rưng rưng... tôi gục xuống bàn rưng rưng...
Nhớ con bướm trắng lạ lùng!
Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng.

Hỡi ơi! Bướm trắng tơ vàng!
Mau về mà chịu tang nàng đi thôi!
buom Đêm qua nàng đã chết rồi,
Nghẹn ngào tôi khóc... Quả tôi yêu nàng.


Hồn trinh còn ở trần gian?
Nhập vào bướm trắng mà sang bên này!



TƯƠNG TƯ
Nguyễn Bính

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?

Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? 







Chùa Hương
Nguyễn Nhược Pháp

(Thiên ký sự của một cô bé ngày xưa)

Hôm nay đi chùa Hương.
Hoa cỏ mờ hơi sương
Cùng thầy me em dậy .
Em vấn đầu soi gương.


Khăn nhỏ, đuôi gà cao;
Lưng đeo dải yếm đào;
Quần lĩnh, áo the mới ;
Tay cầm nón quai thao .


Mẹ cười: "Thầy nó trông !
Chưn đi đôi dép cong
Con tôi xinh xinh quá !
Bao giờ cô lấy chồng ?"



-- Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng ,
Khen tươi như trăng rằm.


Nhưng em chưa lấy ai,
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm,
Ý đợi người tài traị


Em đi cùng với mẹ
Me em ngồi cáng trẹ
Thầy theo sau cưỡi ngựa,
Thắt lưng dài đỏ hoẹ



Thầy me ra đi đò,
Thuyền mấp mênh bên bờ .
Em nhìn sông nước chảy,
Đưa cánh buồm lô nhô .


Mơ xa lại nghĩ gần.
Đời mấy kẻ tri âm ?
Thuyền nan vừa lẹ bước,
Em thấy một văn nhân...



Người đâu thanh lạ thường !
Tướng mạo trông phi thường.
Lưng cao dài, trán rộng.
Hỏi ai nhìn không thương ?



Chàng ngồi bên me em
Me hỏi chuyện làm quen:
"Thưa thầy đi chùa ạ ?
Thuyền đông giời ôi chen !"



Chàng thưa vâng thuyền đông
Rồi ngắm giời mênh mông,
Xa xa mờ núi biếc,
Phơn phớt áng mây hồng.



Giòng sông nước đục lờ.
Ngâm nga chàng đọc thơ !
Thầy khen hay, hay quá !
Em nghe ngồi ngẩn ngơ .



Thuyền đi, bến Đục qua,
Mỗi lúc gặp người ra,
Thẹn thùng em không nói :
"Nam vô Ađi-đà !"



Réo rắt suối đưa quanh.
Ven bờ, ngọn núi xanh,
Nhịp cầu xa nho nhỏ.
Cảnh đẹp gần như tranh.


Sau núi Oản, Gà, Xôi,
Bao nhiêu là khỉ ngồị
Tới núi con voi phục,
Có đủ cả đầu đuôị



Chùa lấp sau rừng cây,
(Thuyền ta đi một ngày)
Lên cửa chùa em thấy
Hơn một trăm ăn màỵ


Em đi, chàng theo sau,
Em không dám đi mau,
Ngại chàng chê hấp tấp,
Số gian nan không giàụ



Thầy me đến điện thờ,
Trầm hương khói toả mờ
Hương như là sao lạc
Lớp sóng người lô nhô.



Chen vào thật lắm công.
Thầy me em lễ xong
Quay về nhà ngang bảo:
"Mai mới vào chùa trong"



Chàng hai má đỏ hồng
Kêu với thằng tiểu đồng
Mang túi thơ bầu rượu:
"Mai ta vào chùa trong"



Đêm hôm ấy em mừng !
Mùi trầm hương bay lừng.
Em nằm nghe tiếng mõ,
Rồi chim kêu trong rừng.



Em mơ, em yêu đời
Mơ nhiều... Viết thế thôi
Kẻo ai mà xem thấy,
Nhìn em đến nực cườị



Em chưa tỉnh giấc nồng,
Mây núi đã pha hồng.
Thầy me em sắp sửa
Vàng hương vào chùa trong.



Đường mây đá cheo veo,
Hoa đỏ, tím, vàng leo
Vì thương me quá mệt,
Săn sóc chàng đi theọ



Mẹ bảo :"Đường còn lâu
Cứ vừa đi ta cầu
Quan- thế- âm Bồ-tát
Là tha hồ đi maụ"



Em ư ? Em không cầu,
Đường vẫn thấy đi maụ
Chàng cũng cho như thế.
(Ra ta hợp tâm đầu)



Khi qua chùa Giải Oan
Trông thấy bức tường ngang,
Chàng đưa tay lẹ bút
Thảo bài thơ liên hoàn.



Tấm tắc thầy khen hay
Chữ đẹp như rồng baỵ
(Bài thơ này em nhớ
Nên chả chép vào đây)



Ôi ! Chùa trong đây rồi !
Động thẳm bóng xanh ngờị
Gấm thêu trần thạch nhũ,
Ngọc nhuốm hương trầm rơị



Mẹ vui mừng hả hê:
"Tặc ! con đường mà ghê !"
Thầy kêu mau lên nhé,
Chiều hôm nay ta về.



Em nghe bỗng rụng rời !
Nhìn ai luống nghẹn lời !
Giờ vui đời có vậy,
Thoáng ngày vui qua rồi !



Làn gió thổi hây hâỵ
Em nghe tà áo bay,
Em tìm hơi chàng thở !
Chàng ôi, chàng có hay ?



Đường đây kia lên giời
Ta bước tựa vai cười,
Yêu nhau, yêu nhau mãi !
Đi, ta đi, chàng ôi !



Ngun ngút khói hương vàng,
Say trong giấc mơ màng,
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng.
Áo Lụa Hà Đông

 Nguyên Sa


Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
mà mua thu dài lắm ở chung quanh
linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
bay vội vã vào trong hồn mở cửa
gặp một bữa, anh đã mừng một bữa
gặp hai hôm thành nhị hỹ của tâm hồn
thơ học trò anh chất lại thành non
và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu
em không nói đã nghe từng gia điệu
em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh
anh trông lên bằng đôi mắt chung tình
với tay trắng, em vào thơ diễm tuyệt
em chợt đến, chợt đi, anh vẫn biết
trời chợt mưa, chợt nắng, chẳng vì đâu
nhưng sao đi mà không bảo gì nhau
để anh gọi, tiếng thơ buồn vọng lại
để anh giận, mắt anh nhìn vụng dại
giận thơ anh đã nói chẳng nên lời
em đi rồi, sám hối chạy trên môi
những tháng ngày trên vai buồn bỗng nặng
em ở đâu, hỡi mùa thu tóc ngắn
giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông
anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng




ĐÊM QUA TÁT NƯỚC ĐẦU ĐÌNH
  "Hôm qua tát nước đầu đình,
                  Bỏ quên chiếc áo trên cành bông sen!
                  Em được, thì cho anh xin,
                  Hay là em để làm tin trong nhà?
                  Ao anh sứt chỉ đường tà...
                  Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
                  Ao anh đứt chỉ đã lâu,
                  Hay mượn "cô ấy" về khâu cho cùng!
                  Khâu rồi, anh sẽ trả công
                  Ít bữa có chồng, anh sẽ giúp cho
                  Giúp em một thúng xôi vò...
                  Một con lợn béo, một vò rượu tăm!
                  Giúp em đôi chiếu em nằm,
                  Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo!
                  Giúp em quan tám tiền cheo...
                  Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau!"




TRÈO LÊN CÂY BƯỞI HÁI HOA
 “Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
2
“Ba đồng một mớ trầu cay,
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu.
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ,
Chim vào lồng biết thuở nào ra?



Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
 Nguyễn Đình Chiểu ( 1822 - 1888)

Hỡi ơi !

Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa

Cui cút làm ăn;
Toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc sức ra tay bộ hổ.

Khá thương thay!

Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi,
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.

Ôi!
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vì binh đánh giặc cho cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đấtc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui hào lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Còn hơn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Ôi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đức đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi, thương thay!
Có linh xin hưởng.


https://www.youtube.com/user/bancutruongxua
https:/www.youtube.com/user/truongtoi