HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Monday, 11 November 2013

SƠN TRUNG CHÍNH LUẬN II

 

6. DÂN TỘC VIỆT NAM HAI LẦN BỊ LƯỜNG GẠT


           
Trong lịch sử hiện đại, dân tộc Việt Nam hai lần bị lường gạt. Lần thứ nhất là tập đoàn Hồ chí Minh, lần thứ hai là tập đoàn Ngô Đình Diệm. Hai kẻ này đã dùng nhãn hiệu tự do, dân chủ, nhưng thực sự họ chỉ là bọn gian manh xảo quyệt, buôn dân bán nước, không kể gì đến vận mệnh đất nước, tưong lai dân tộc và đời sống của nhân dân Việt Nam.

I. TẬP ĐOÀn CỘNG SẢN
             Tập đoàn cộng sản Việt Nam tuyên bố giương hai ngọn cờ giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân và gỉải phóng giai cấp vô sản thoát cảnh nghèo khổ và bị bóc lột.
             Về mục tiêu giải phóng dân tộc, họ chỉ là kẻ thay chủ Pháp Mỹ bằng chủ Nga Hoa. Hồ Chí Minh và bè lũ cộng sản thực tế là những kẻ nô lệ của cộng sản quốc tế. Ngày nay, Nga Sô và Trung quốc nghiễm nhiên trở thành bọn đế quốc mới. Sau 1975, người ta đã bắt dân miền Nam học tiếng Nga, và họ đã bắt dân miền Trung vào Nam làm đồn điền cho Liên Sô( hai việc này dều bất thành). Việc Pol Pot đánh phá miền Nam làm cho chương trình kinh tế mới và chương trình làm đồn điền Liên Xô bị phá sản. Phạm Văn Đồng trước đây đã hoan hô việc Trung cộng chiếm Hoàng Sa, Trường Sa, và nay Lê Khả Phiêu đã nhượng đất cho Trung quốc đã nói lên bản chất nô lệ, mãi quốc cầu vinh của những con người cộng sản.
Về mục tiêu giải phóng giai cấp vô sản lại càng vô cùng giả dối. Mác tuyên bố thiết lập xã hội chủ nghĩa không giai cấp, không còn chủ và thợ, không còn giai cấp cai trị và bị trị, nhưng thực tế trong chế độ cộng sản có nhiều giai cấp, nhất là giai cấp mới nay đã trở thành tư bản đỏ với bao đặc quyền đặc lợi.
Hồi Mác còn sống đã tuyên bố xanh dờn rằng giai cấp tư bản đang dẫy chết và giai cấp vô sản sẽ là kẻ đào mồ chôn giai cấp tư bản. Mác còn bảo chủ nghĩa xã hội sẽ gấp năm gấp mười tư bản( cũng như tư bản đã gấp năm gấp mười phong kiến), nhưng than ôi, chế độ cộng sản chỉ gây chiến tranh và nghèo đói và là một chủ nghĩa đc tài vô nhân đạo. Vậy thì rõ ràng là Mác là kẻ hoang tưởng và không tưởng nếu không là kẻ gian giảo, lường gạt thiên hạ. Nay thì cộng sản đã sụp đổ tại Liên Xô và Đông Âu trong khi Trung Quốc, Việt Nam đang chạy theo tư bản để cầu xin cơm thừa canh cặn của tư bản! Trong hành động, cộng sản lại càng tỏ ra gian manh xảo quyệt. Sau 1954, cộng sản cải cách ruộng đất, chia ruộng cho dân nghèo nhưng được vài tháng, hay một năm là họ thu hồi đắt đai, bắt nông dân phải làm nông nô trong các hợp tác xã. Họ tuyên bố sẽ giải phóng nông dân khỏi ách trâu cày nhưng ngoài bắc từ 1955 cho tới nay, nông dân vẫn phải còng lưng cày thay trâu. Lần nữa, chúng ta thấy cộng sản chỉ là kẻ lừa bịp, dùng chiêu bài chia ruộng đất, của cải cho dân nghèo để họ tin mà theo mình.
Mỗi nông dân xuất sắc trước đây làm ở HTX mỗi ngày chỉ đuợc 1 ký lúa. Ngày nay nông dân làm khoán thực ra cũng chỉ là kiếp làm đầy tớ nộp tô nộp tức chẳng khác gì nông dân nghèo trước 1945. Sau 1975, cộng sản tuyên bố từ nay dân Việt Nam sẽ được các nước anh em tái thiết, nhân dân ta ai cũng sẽ có nhà mới, mỗi nhà đều có TV, máy lạnh, quạt máy...nhưng cho đến nay nhân dân ta nghèo vẫn hoàn nghèo, chỉ có bọn cán bộ tỉnh, thành phố và truơng ương là béo bở. Rõ ràng cộng sản vẫn gian giảo, xảo quyệt, hứa hẹn hão huyền , cho dân chúng đi tàu bay giấy.
Ngày nay cộng sản chủ trương đổi mới, vì đổi mới kinh tế sẽ đem lại lợi nhuận cho chúng về nhiều mặt. Ngày nay, chúng đã làm chủ nhiều công ty, nhiều ngân hàng. Con cái chúng sang Âu Mỹ du học, và chúng đã tẩu tán tài sản ra ngoại quốc để phòng khi hữu sự. Chúng bán đất đai nông dân để lấy tiền bỏ túi trong khi nông dân thiếu đất canh tác. Các cuộc nổi loạn ở Thái Bình, Hà Đông đã bị dẹp yên và những chiến sĩ cách mạng đã chết hoặc ngắc ngoải trong lao tù. Bao giờ những chiến sĩ này đưọc thấy ánh mặt trời tự do, dân chủ thực sự?
              Tóm lại, cộng sản đã hoàn toàn lừa đảo nhân dân Việt Nam, nhất là dân nghèo. Trong khi dân chúng ngày càng nghèo khổ, bọn cộng sản gộc ngày càng giàu sang phú quý, chúng dã cho ta thấy tất cả những lời hứa hẹn của chúng về độc lập, tự do, hạnh phúc, công bằng, bình đẳng chỉ là những lời xàm láp, không đáng nửa đồng xu. Nếu chúng bất lực thì còn đáng tha thứ nhưng chúng đã giết hại và giam cầm bao nhiêu người, làm tốn bao xương máu đồng bào và chúng là một lũ lưu manh , gian tham để cho dân chúng nghèo đói thì tội ác của chúng không thể tha thứ. Đồng bào ta phải vùng lên, tiêu diệt chúng để đòi lấy cơm no, áo ấm cho chính mình.

II. TẬP ĐOÀN NGÔ ĐÌNH DIỆM

              Tập đoàn Ngô Đình Diệm đã tạo cho họ một nhãn hiệu chống cộng cho nên họ đã được Mỹ trong giai đoạn chống cộng ủng hộ họ. Nhìn về bề ngoài, gia đình Ngô Đình Diệm quả xứng đáng nhận lãnh vai trò chống cộng ở xứ này bởi các lý do sau:
             a. Gia đình Ngô Đình Diệm theo Thiên Chúa giáo là một tôn giáo đã bị Cộng Sản coi là kẻ thù số một, rất nhiều tín đồ Thiên chúa giáo đã bị cộng sản giết hại. Vả lại, khi đến Việt Nam, người Pháp cũng như người Mỹ thường muốn dùng những người Thiên chúa giáo là những người cùng tín ngưỡng với họ.
            b. Gia đình Ngô Đình Diệm là kẻ thù của cộng sản vì cộng sản đã sát hại cha và anh của Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khả , và Ngô Đình Khôi.
           c. Người Mỹ thích dân chủ, ghét quân chủ . Sau thắng trận đệ nhị thế chiến, Mỹ tính bỏ chế độ quân chủ tại Nhật nếu không có sự can thiệp của đại sứ Mỹ tại Nhật. Vì ghét quân chủ cho nên Mỹ ủng hộ Khomeni ở Iran, kết quả ông dân chủ này lại quá độc tài dã man hơn ông quân chủ! Vì ghét quân chủ cho nên Mỹ không ưa Bảo Đại, muốn đưa một nhân vật khác, và họ đã chọn Ngô Đình Diệm là một kẻ đã sống lâu năm tại Mỹ, được thế lực tôn giáo tại Mỹ và Vatican ủng hộ. Vì Pháp đã rút lui và người Mỹ lại muốn Ngô Đình Diệm thay thế mình, Bảo Đại thấy mình hoàn toàn mất chỗ đứng. Nếu trái ý họ thì một là ông sẽ bị giết, hai là ông sẽ bị Ngô Đình Nhu đảo chánh! Đằng nào thì cũng mất hết cho nên Bảo Đại đành nhượng bộ, bằng lòng cử Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, để từ đó Ngô Đình Diệm cướp chính quyền.
           Bọn Cần Lao đã tô điểm cho tập đoàn Ngô Đình Diệm, tạo ra những huyền thoại nào là yêu nước, thương dân, và chống cộng, chống thực dân triệt để( bài phong, phản thực, chống cộng).
Khi lên cầm quyền, Ngô Đình Diệm đã đi cái lốt chống cộng và đạo đức yêu nước thương dân cho nên nhiều người trong đó có Mỹ đã lầm tưởng gia đình họ Ngô là tốt. Đó chỉ là bề ngoài. Bề trong , họ Ngô chi vì quyền lợi cá nhân, quyền lợi phe nhóm mà thôi. Họ cần ông Diệm làm tổng thống để họ có cơ hội bóc lột, đàn áp nhân dân Viêt Nam và ăn chận viện trợ Mỹ. Họ không quan tâm chút xíu nào đến quốc gia dân tộc, họ chỉ vì cá nhân họ , và vì phe nhóm họ. Tự do, dân chủ, chống cộng chỉ lằ nhãn hiệu dán ở bên ngoài. Họ bất chấp thủ đoạn, họ đã làm lợi cho cộng sản và họ đã bắt tay với cộng sản ngay từ buổi đầu.

1. LÀM LƠI CHO CỘNG SẢN
            Khi lên cầm quyền, tập đoàn Ngô Đình Diệm chỉ nghĩ đến việc củng cố quyền lực mà không nghĩ đến tương lai đất nước. Những ngày đầu tiên, họ Ngô đã bắt bớ, giết hại những người không thuộc phe đảng của mình, nhất là những người quốc gia đang làm việc cho chính quyền quốc gia thời bấy giờ bởi vì họ ra sức triệt hạ vây cánh Bảo Đại. Họ khủng bố các tôn giáo, đảng phái vì họ bắt chước cộng sản, muốn chỉ một mình Ngô Đình Diệm làm chính trị, một mình Ngô Đình Diệm được tôn sùng và một mình Thiên chúa giáo ngự trị ở xứ này. Gia đình họ Ngô xem đất nước này tài sản của họ, họ mặc sức chia chác, chiếm đoạt. Ngô Đình Cẩn thao túng miền Trung như là một vương quốc. Ngô Đình Nhu quản lý thanh niên,và vợ y cai trị phụ nữ, và Ngô Đình Thục cai quản tôn giáo. Họ coi khinh luật pháp. Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân không có chức vụ chánh thức trong guồng máy quốc gia thế mà nắm trọn mọi quyền hành khiến cho tướng lãnh và trí thức phải sụp lạy, tôn thờ. Ngoài Ngô Đình Diệm là tổng thống, Ngô Đình Cẩn, Ngô Đình Nhu đều có công an mật vụ riêng, chúng muốn bắt ai, giết ai là tùy ý. Ngô Đình Cẩn đã vì đãu thầu thua mà bắt nhà thầu Nguyễn Đắc Phương tra tấn đến chết, đoạn quăng xác xuống đất mà bảo là tự tử! Ngô Đình Cẩn đã hãm hại Nguyễn Văn Yến để chiếm khách sạn Morin ở Huế. Ngoài ra những linh mục thuộc tập đoàn Ngô Đình Diệm đã ra sức thao túng, bóc lột, cướp tài sản dân chúng như linh mục Đinh Xuân Hải ở Sàigon. Có những linh mục bắt các quận trưởng phải nộp tiền bạc, để làm cái này, làm cái kia, nếu ai không tuân lệnh, chúng sẽ báo cáo xấu lên tổng thống mà bị mất chức hoặc bị ngồi tù. Vì muốn Ngô Đình Thục đuợc làm hồng y, bọn Ngô Đình Diệm đã dùng mọi thủ đoạn để gia tăng giáo dân trong đó có việc cưỡng bách sĩ quan, binh sĩ và dân chúng theo Thiên Chúa giáo, ai không theo bị chúng vu khống là cộng sản rồi bắt bỏ tù. Họ khủng bố Cao Đài , Hòa Hảo, tận diệt Quốc dân đảng và Đại Việt. Nguyễn Chánh Thi đã hận định rất đúng về sự lộng hành của một số linh mục thời Diệm Nhu:
"Cứ hầu như mỗi một tỉnh của miền Nam, nhất là tại Miền Trung, cứ mỗi một tỉnh có một linh mục có quyền sinh sát trong tay mà chả ai đả động đến, vì đằng sau linh mục là sức mạnh chánh quyền. Họ còn lộng hành hơn là nhận đơn kiện cáo của con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến tỉnh trưởng hay quận trưởng, bảo phải xử theo ý của linh mục, không thì mất chức. Các ông linh mục ở dưới chế độ Ngô Đình Diệm, phần đông sống như các ông vua của một xứ xưa kia! "(1).

Tài liệu của Nguyễn Mạnh Quang rất đầy đủ về tội ác của họ Ngô, gồm có những điểm chánh yếu như:
- Ngô Đình Cẩn độc quyền khai thác quế ở miền Trung.
- Ngô Đình Thục dùng quân đi và quân xa bảo vệ và vận chuyển trong việc khai thác gỗ rừng trong các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, lấy vật liệu của công và nhân viên chính quyền để xây cư xá Vĩnh Long, tổ chức Ngân khánh 1963 cưỡng ép công chức cao cấp và thương gia nộp tiền.
-Nguyễn Văn Thuận lấy vỏ đồng đại bác đem bán.
- Bà Cả Lễ nắm độc quyền xây cất, cung cấp quân nhu và thực phẩm quân đội, thầu cơm lính tại các trung tâm huấn luyện quân sự.
- Ngô Đình Cẩn giết 300.000 người ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa.
- Chính quyền Diệm giết các nhà chính trị như Hồ Hán Sơn, Vũ Tam Anh, Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Võ Côn, Phạm Xuân Gia, Lê Quang Vinh, Vương Quang Nhường, Hoàng Thụy Năm.(2).
Làm như thế là họ đã vì quyền lợi cá nhân, coi khinh quyền lợi tổ quốc. Hành động của họ chẳng khác gì hành động của bọn lưu manh ngoài chợ, thấy vàng bạc, cá thịt là cướp giật, coi thường luân lý, pháp luật và dư luận quần chúng trong nước và quốc tế . Làm như thế là họ cố tình bôi xấu chế độ, làm dân chúng bất mãn, họ làm cho cộng sản thêm vây cánh, thêm lợi thế chính trị, và rõ ràng là đẩy dân chúng chạy về cộng sản. Việc tập đoàn Ngô Đình Diệm khủng bố dân chúng và các tôn giáo, đảng phái chỉ làm cho nước mất về tay cộng sản như lời của Võ Văn Hải, chánh văn phòng đặc biệt của ông Diệm nói với Nguyễn Chánh Thi trước 1960:
Nếu tình trạng này cứ tiếp diễn thì chẳng mấy chốc Việt Cộng sẽ thay thế ông Diệm trong dinh Độc lập này (3).
Và sau này, ngày 7-7-1963, nhà văn Nhất Linh đã viết trong di chúc của ông để kết tội và cảnh cáo Ngô Đình Diệm và bè lũ: Sự bắt bớ và xử tử tất cả các phần tử đối lập Quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất vào tay cộng sản (4).

2. BẮT TAY VỚI CỘNG SẢN
           Vì tiền bạc, vì mưu chiếm lợi ích cá nhân, gia đình Ngô Đình Diệm thủơ đãu tiên đã bắt tay với cộng sản. Đó là việc Ngô Đình Cẩn và bà Cả Lễ đã bán hàng tấn gạo cho cộng sản năm 1956, Mỹ phát giác nhưng nhờ thế lực Ngô Đình Diệm mà Ngô Đình Cẩn trắng án, trong khi phó tỉnh trưởng Quảng Nam là Bùi Quang Sơn làm vật tế thần, bộ trưởng kinh tế Trần Văn Mẽo và Ung Bảo Toàn bị đầy Côn Đảo đến 30-4-1963 mới được tự do (5) .   Chính nhờ vụ này mà luật sư Lê Trọng Quát được bè lũ Ngô Đình Diệm ban ơn cho làm chân tay thân tín , đuợc ban cho nhiều ân huệ lớn lao.
           Quyển hồi ký của Nguyễn Chánh Thi đã cho ta biết ông là một con người trung trực, yêu nước, có lập trường quốc gia thực sự vì khi ông bôn đào sang Cao Miên, dù khó khăn vẫn giữ lập trường quốc gia, không vì tức giận Ngô Đình Diệm mà chạy theo cộng sản như một số người khác. Điều quan trọng nhất là quyển này nói lên một sự thực quan trọng mà ít người quốc gia lưu tâm. Quyển hồi ký này cho ta biết lịch sử Việt Nam hiện đại mà trong đó tập đoàn Ngô Đình Diệm đã cấu kết với cộng sản, làm giàu trên xương máu quân đội và nhân dân Việt Nam. Bọn Ngô Đình Diệm dùng chiêu bài chống cộng để ăn tiền viện trợ Mỹ và ngồi trên đầu trên cổ nhân dân Việt Nam nhưng thực chất chúng nuôi chiến tranh, sống và làm giàu nhờ chiến tranh. Nói rõ hơn, tập đoàn Ngô Đình Diệm đã buôn bán với cộng sản, bắt tay với cộng sản, bọn họ không yêu nước Việt Nam mà yêu tiền bạc.

Trong khoảng 1958, mặt trận Giải phóng đã hoạt động mạnh mẽ. Ngô Đình Diệm cấm người vào rừng chặt cây đốn củi vì sợ họ liên lạc với cộng sản. Nhưng sự thực là họ giành độc quyền khai thác lâm sản cho Ngô Đình Thục. Làm sao Ngô Đình Thục có thể ra vào Long Khánh và các nơi núi rừng? Xin thưa là họ đã bắt tay với cộng sản! Làm sao một vị lãnh đạo Thiên Chúa giáo, một vị chống cộng, từng khởi xướng thuyết cần lao nhân vị. ..lại có thể làm ăn tại mật khu cộng sản? Chính là họ đã đem quốc gia trao đổi cho cộng sản để lấy tiền! Chúng ta cũng chẳng cần có trong tay một văn kiện mật, hay một băng cassette thu buổi mật đàm giữa tập đoàn họ Ngô với cộng sản mới hiểu biết việc này. Chỉ cần nhìn những đoàn xe chở gỗ từ Long Khánh chạy về sờ sờ giữa thủ đô Sài gòn là chúng ta biết có việc làm ăn, buôn bán giữa tập đoàn Ngô Đình Diệm mà đại diện là Sáu Tộ và cộng sản. Nguyễn Chánh Thi đã viết về việc này:

Riêng chúng tôi trong chiến dịch đốt nhập chiến khu D của Việt cộng, tuy kế hoạch đã thực hiện đúng mức trăm phần trăm, niềm vui của chúng tôi không được trọn vẹn. Vì ngay giữa trung tâm sào huyệt của đối phương, chúng tôi lại có thêm bằng chứng phản bội của lớp ngưòi cầm quyền. Trong các căn cứ của chúng, Việt cộng ăn thứ gạo hạng tốt, thắp đèn bằng dầu hôi và xăng, dùng một số xa xỉ phẩm nhập cảng như xà phòng thơm, thuốc đánh răng ngoại hóa, thuốc lá thơm Anh, Mỹ. Để ấn hành các tài liệu tuyên truyền, chúng dùng máy ronéo và có đủ các loại giấy tốt. Theo lời khai của các tù nhân, những thứ này đều do nhóm thợ rừng tiếp tế từ Biên Hòa lên. Những lúc cần, Việt cộng chỉ cần cải trang thành công nhân theo xe gỗ về tận Sài gon. Các xe này thường đưọc gọi là xe chở gỗ của Đức Cha, và các cơ quan kiểm soát không bao giờ dám đụng tới. Thế là công ty làm gỗ đã đem lại cho Đức Cha Ngô Đình Thục hàng tỷ bạc lãi. Các xe này đã chở luôn cả cộng sản về tận thủ đô để chúng gây ra cảnh máu đổ xương rơi trong đám quần chúng hiền lương vô tội (6)
Tiến sĩ Hoàng Ngọc Thành cũng xác nhận việc này. Ông viết:
"Tổng giám mục Ngô Đình Thục giao cho ngưòi tin cẩn là Sáu Tộ lo viêc khai thác ( gỗ rừng trong tỉnh Long Khánh và Biên Hòa). Sáu Tộ trả thuế cho cộng sản để được tự do khai thác và thâu lợi tức lớn. Sau khi đức cha Thục thuyên chuyển ra Huế làm tổng giám mục, bà Nhu tiếp tục việc này."(7)
Ông Ngô Đình Diệm yêu nước, gia đình Ngô Đình Diệm chống cộng là như thế đó! Trời cao đất dầy ơi! Chúa ơi! Phật ơi, tội nghiệp dân tộc tôi bị người ta lừa gạt, buôn bán trên xương máu mình mà đâu có hay! Chúng tôi trước đây cũng nghe tin rằng. trong khi hành quân vào mật khu cng sản, quân ta thấy rõ từng kho thuốc men, dụng cụ y khoa của các nhà tư bản thuộc tập đoàn Ngô Đình Diệm như là Trang Hai, La Thành.. Làm sao cộng sản có cả những kho hàng lớn lao như thế nếu những nhà tư bản này không chở từng xe lên chiến khu cho Cộng sản? Và chúng tôi trước đây cũng nghe tin rằng nhiều đơn vị hành quân trong rừng, nửa chừng đuợc lệnh bỏ lại vũ khí, đạn dược, xe tăng.. .Ai đã tiếp thu những thứ này? Tất nhiên là cộng sản. Họ Ngô tiếp tay cho cộng sản để cộng sản giết hại nhân dân ta, chiến sĩ ta. Trong thời gian chiến tranh, tập đoàn Ngô Đình Diệm thỉnh thoảng vẫn tiếp xúc mật với cộng sản. Để làm gì? Chính là để thương lượng, để buôn bán, trao đổi với cộng sản. Nếu hiểu đưọc điều này, chúng ta sẽ không còn thắc mắc về việc cộng sản nằm trong dinh Độc Lập. Đàng sau những tên nằm vùng là có cả các ông cha lừng danh chống cộng. Chính là tập đoàn Ngô Đình Diệm đã chịu điều kiện với cộng sản, đúng là bánh ít đi, bánh quy lại. Tôi để cho anh vào mật khu thì anh phải đem tôi vào thành, vào dinh! Tập đoàn Ngô Đình Diệm không yêu đất nước Việt Nam mà là yêu tiền. Họ yêu quyền lực vì quyền lực đem lại tiền bạc cho họ.

Khoảng 1960, ngưòi Mỹ đã thấy rõ con người tham lam, lạm quyền thế của vợ chồng Ngô Đình Nhu nên đã khuyến cáo vợ chồng y nên đi ra nước ngoài. Tức giận vì bị người Mỹ ngăn cản hành động của vợ chồng y nên Ngô Đình Nhu càng lộng hành hơn, tỏ ra thách đố với người Mỹ. Tâm lý của Ngô Đình Nhu là tâm lý trả thù của kẻ cùng quẫn. Vợ chồng tổng thống Marcos của Phi Luât Tân, bị Mỹ khuyến cáo, họ quay ra thân thiện với Liên Xô để chọc tức Mỹ. Ngô Đình Nhu cũng thế. Ngô Đình Nhu lúc này bèn mật đàm với cộng sản, ôm chân cộng sản để mong cộng sản cho họ tồn tại.

Về việc tập đoàn Ngô Đình Diệm mật đàm với cộng sản dã có nhiều tài liệu đề cập đến. Khởi đầu có lẽ là Mặc Đỗ trong cuốn Bốn Mươi xuất bản tại Sài gòn sau 1963 . Trung tướng Trần Văn Đôn cũng như Mặc Đỗ đã nói đến việc đại sứ Ba Lan Manelie, và Robert Shaplen đứng ra làm trung gian mật đàm giữa Hà Nội và Sài gon. Các tạp chí Mỹ cũng đăng tải tin tức này. Trung tướng Trần Văn Đôn đã cho biết việc ông Nhu tiếp xúc với Phạm Hùng:
"Đầu tháng hai, 1963, trung tá Bường, tỉnh trưởng Bình Tuy dùng xe Dodge 4x4 chở ông Nhu và ông C. đi săn. Trung tá Bường đưa ông Nhu đến chỗ hẹn. Đến nơi trung tá Bường và ông C. chờ ngoài xe. Chỉ có ông Nhu vào. Người đương nói chuyện là Phạm Hùng, có hai ngưòi nữa ngồi bên cạnh. Ông Nhu hứa khi nối xong xe lửa thì bà Nhu và Ngô Đình Lệ Thủy sẽ đi xe đầu tiên ra Hà Nội."(8)

Việc mật đàm là chuyện bí mật nhưng anh em ông Diệm đã cố ý khoe cho mọi người biết. Đó là chuyện cành đào mừng xuân. Trần Văn Đôn cho biết đầu năm quý mão (1963), tổng thống Diệm chỉ một cành đào trong dinh Độc lập và bảo đó là của Văn Tiến Dũng gửi (9).
Nhiều tài liệu khác lại nói là của Hồ Chí Minh gửi cành mai. Dù ai thì cũng là cộng sản trung ương gửi, dù mai hay đào cũng không có gì khác biệt nhưng đó là một sự kiện chứng thực việc mật đàm giữa ông Diệm và cộng sản. Tại sao ông Diệm lại công khai nói điều này? Ông tin chắc là mật đàm đã thắng lợi, ông đã thoát khỏi gọng kìm của' đế quốc Mỹ'? Ông càng kiêu căng, thách đố thì ông càng chết sớm! Người Mỹ có biết việc tập đoàn Ngô Đình Diệm thỏa hiệp với cộng sản không ? CIA Mỹ nhất định là biết. Tài liệu của Ngũ Giác Đài cho thấy là họ đã được báo động về hành vi phản bội của Ngô Đình Diệm đối với tổ quốc Việt Nam và nước Mỹ.

Sự báo động của người Mỹ về những ý định của chế độ ông Diệm gia tăng kể từ tháng 9 năm 1963. Trong tháng ấy, các bản tường trình được công bố tiết lộ rằng ông Diệm đã bí mật hi kiến với một nhà ngoại giao người Pháp, đuợc cử sang Hà Nội, sau khi chủ tịch Bắc Việt Hồ Chí Minh công khai đề cập đến một cuộc ngưng bắn có thể có trong cuộc chiến, và tổng thống De Gaulle ở Ba Lê bất thần kêu gọi mới, loại bỏ hết ảnh hưởng ngoại quốc khỏi toàn thể Việt Nam (10). Theo tài liệu Ngũ Giác Đài, Ngô Đình Nhu đã nửa úp nửa mở khi tuyên bố với báo chí:
"Đại diện Ba Lan trong ủy hội quốc tế kiểm soát đình chiến tại Việt Nam là ông Miecayslaw Manelli, tiếp theo đó có gặp ông Nhu, và có tin đã mang theo một thư của thủ tướng Bắc Việt. Ông Nhu tuyên bố rằng trong thư ấy thủ tướng đã xin tôi mở các cuộc thương thuyết trên căn bản đề nghị ngưng bắn của Hồ Chí Minh và đã nêu ra nhiều chi tiết có thể coi hầu như là một đề nghị hấp dẫn "(11).
Theo Cao Thế Dung , bà Tố Liên ở Sài gon, có chồng là bạn với Ngô Đình Nhu, đuợc Ngô Đình Nhu trao cho nhiệm vụ sang Vientiane, trao một bức thư cho môt người từ Hà Nội sang, vốn là bạn cũ của Ngô Đình Nhu, trước cùng làm ở thư viện Hà Nội. Tết quý mão cũng người này đem cây mai quý của Hồ Chí Minh qua Hồng Kông, rồi qua Lào, từ Lào vào Saigon tặng Ngô Đình Diệm. Cao Thế Dung dã hỏi Trần Kim Tuyến, Cao Xuân Vỹ thì hai ông đều phủ nhận việc họ Ngô mật đàm với cộng sản mà chỉ có thể là sự thăm dò. Tuy nhiên, tình báo của Trung Hoa quốc gia thì quả quyết có sự tiếp xúc giữa ông Nhu và Phạm Hùng ở rừng Lá Phan Thiết năm 1962. Ông Vương Vũ Văn,trưởng lưới tình báo Trung hoa quốc gia tại Chợ Lớn khi về Đài Loan, được Tưởng Kinh Quốc cho xem tài liệu của CIA về ngày giờ và địa điểm ba lần ông Nhu gặp Phạm Hùng và một sứ giả đặc biệt của Hồ Chí Minh từ Hà Nội vào. Và cũng theo Cao Thế Dung, Lưu Thành Hữu, cựu sĩ quan tùy viên của ông Nhu, vào năm 1970 kể lại chi tiết với tác giả việc ông Nhu gặp Phạm Hùng ở Rừng Lá trong một chuyến đi săn mà Lưu Thành Hữu được tháp tùng vì ông là chuyên viên săn bắn "(12) .Đỗ Mậu đã viết đầy đủ nhất về việc Ngô Đình Diệm bắt tay với cộng sản (13) .
Ông kể rõ mọi việc từ việc đại sứ Ba Lan , Ấn Độ và Pháp đã cùng nhau giúp Nhu Diệm mật đàm, và cuộc trao đổi giữa ông và Võ Văn Hải bí thư ông Diệm:
"Ông cụ và ông Nhu đã thay đổi lập trường rồi anh Mậu ơi. Bây giờ là chống Mỹ, bắt tay Pháp để nói chuyện với Hà Nội, chúng ta làm gì chứ? "(14).

Một tài liệu rất đặc biệt, đó là tác phẩm Ngô Đình Diệm , nỗ lực hòa bình dang dở của Nguyễn Văn Châu nói về việc ông Diệm và ông Nhu tiếp xúc với cộng sản. Tập tài liệu này là luận án cao học về sử học của ông ở đại học Paris VII, nhan đề tiếng Pháp là Ngô Đinh Diêm en 1963: Une Autre Paix Manquée. Ông Nguyễn Văn Châu là người phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, là người đồng châu và đồng tôn giáo với ông Diệm. Năm 1961, ông thăng trung tá, và làm chủ tịch quân ủy Cần Lao, đồng thời là giám đốc cơ quan phụ trách tuyên truyền bí mật ở miền Bắc Việt Nam. Ông lấy bà chị của Trần Lệ Xuân, là Trần Lệ Chi nhưng bàn dân thiên hạ lúc đó kháo nhau rằng bà Lệ Chi yêu người khác, một Pháp kiều, hai bên ly dị. Vì việc này, bà Nhu ban hành luật gia đình cấm đàn ông bỏ vợ, đàn bà bỏ chồng, nhưng ông Châu bất tuân luật gia đình, bỏ sang Pháp học và tiếp xúc với cộng sản như thầy Nhu và Diệm của ông. Cái nhan đề tiểu luận và lời nói đầu của ông đã công nhận việc hai ông Diệm Nhu liên lạc với cộng sản là có thực. Ông viết:
"Ít người biết rõ là trong năm 1963, Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh đã chuẩn bị cho một thỏa ước ngầm để chấm dứt cuộc chiến anh em bắc nam, đồng thời loại bỏ sự can dự của ngoại quốc "(15).
Nguyễn Văn Châu vốn là đệ tử họ Ngô, lại dày công tìm đọc ở thư viện Pháp, thư viện quốc hội Mỹ và gặp gỡ các viên chức tình báo Mỹ cho nên tài liệu của ông rât đáng tin cậy. Ông đã cho ta biết về việc Ngô Đình Diệm mật đàm với cộng sản như sau:
"Không khí căng thẳng mà William Colby , Richard Nixon và một số tác giả, bình luận gia khác cảm nhận đó, trở nên sôi nổi khi các cơ quan thông tấn và thông tin Mỹ mở chiến dịch chống đối chính quyền Ngô Đình Diệm nhân vụ Phật giáo nổi dậy. Sự chống đối người Mỹ càng lúc càng lớn mạnh cho hiểu tại sao tổng thống Diệm đã để cho ông Nhu nối lại dây liên lạc bằng hữu với nước Pháp để đi đến thỏa hiệp với anh em thù hận Bắc Việt đồng thời vẫn giữ thành đồng chống cộng tại Đông Nam Á.
Kể từ tháng 6-1963, vài liên lạc và thảo luận được thiết lập giữa hai chính phủ Nam và Bắc Việt qua trung gian của đại sứ Ấn Độ Ram C.Goburdhyn và đại sứ Ba Lan Mieczylaw Maneli thuộc Ủy Hội quốc Tế kiểm Soát Đình Chiến đưọc thành lập sau hiệp định Genève 1954. Trong cuộc phỏng vấn dành cho nhà báo thiên cộng người Úc Wilfred Burchett vào tháng 7 năm 1963, Hồ Chí Minh tuyên bố:
-"Sự can thiệp ngoại bang phải chấm dứt. Trong viễn tượng đó, cuc ngưng bắn sẽ là đối tượng của một thỏa hiệp. Dù sao đi nữa, ông Diệm vẫn là một ngưòi yêu nước dù theo cách của ông ta. Cũng theo Wilfred Burchett, trong hai năm cuối cùng của chế độ Ngô Đình Diệm, đại sứ Pháp ở Sài gòn Roger Lalouette đã yết kiến thường xuyên ông cố vấn Ngô Đình Nhu, có lúc kéo dài nhiều giờ. Không ai biết rõ nội dung của những cuộc gặp gỡ này, nhưng bắt đầu có dư luận tung tin chính sách của người Mỹ ở miền Nam Việt Nam trong thực tế nhằm che dấu một âm mưu nhắm thanh toán anh em tổng thống Diệm. Một thời gian ngắn sau đó có một sự kiện khá bất thường xảy ra. Chính quyền Băc Việt vẫn cấm tất cả mọi chuyến bay trực tiếp từ Hà Nội vào Sài gòn, nay cho phép tổng lãnh sự Pháp ở HàNội Jacques de Burzon bay vào Sài gòn để gặp tổng thống Diệm. Đại sứ Lalouette đưa ông tới dinh Gia Long trình bày với tổng thống Diệm rằng Hồ Chí Minh không còn coi ông là kẻ phản bội, bù nhìn trong tay người Mỹ mà nói về tổng thống Diệm như một con người tốt, một người Việt yêu nước dù thế nào đi nữa. Ngày 29-9-1963, tướng De Gaulle tuyên bố đề nghị một giải pháp cho vấn đề Việt Nam, sau đó đại sứ Lalouette siêng năng tới yết kiến ông cố vấn Nhu thường xuyên hơn nữa và nhắc nhở ông Nhu nắm lấy cơ hội đề nghị của tổng thống Pháp. Trong khi đó, đại sứ Ba Lan Mieczylaw Maneli thuộc Ủy hội quốc tế Kiểm soát đình chiến, nhìn nhận ông Nhu là một lý thuyết gia đứng đắn duy nhất ngoài thế giới cộng sản, về du kích chiến, đã đến gặp ông cố vấn để đưa tin riêng của thủ tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng.
Khi về đến Sài gòn để dự đám táng người em linh mục của tôi bị tử nạn lưu thông tại Vũng Tàu, tôi được biết sứ điệp này có thật. Một phụ tá thân cận của ông Nhu cho tôi hay những liên hệ giữa một bên Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, một bên Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu không còn là liên hệ giữa kẻ thù địch với nhau mà trở thành bạn . . .Phạm Văn Đồng đưa đề nghị mở những cuộc thương thảo trên căn bản đề nghị ngưng chiến của Hồ Chí Minh, đề nghị thảo luận về những liên lạc kinh tế buôn bán giữa hai miền, vấn đề chính trị sẽ giải quyết sau. Ngoài ra hai bên còn trao đổi sứ điệp bằng cassettes giữa Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm ( Những cassettes này hiện đuợc lưu trữ tại một viện đại học ở California, theo lời xác nhân của sư huynh giáo sư Gaselin Mai Thông Tâm khi tôi gặp sư huynh tại Orlean vào năm 1965. Những chi tiết này được hai ông Cao Thế Dung và Trần Kim Tuyến ( tức Cao Vị Hoàng và Lương Khải Minh) tác giả cuốn "Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống "xác nhận. Một người từng làm giám đốc Phòng Nghiên Cùu chính trị thuộc phủ Tổng thống, người kia từng là nhân viên phủ tổng thống (16).
Nguyễn Văn Châu tiếp theo cho chúng ta biết những điều sau:
Ông Nhu tiết lộ với thị trưởng Đà Lạt Trần Văn Phước vào tháng 9-63, nhân cuộc đi săn cọp có sự tham dự của đại sứ Lalouette : Đã tới lúc phải hành động cách khác.
Với việc Cabot Lodge được cử làm đại sứ, chúng ta sẽ mất một phần lớn viện trợ Mỹ. Pháp đã hứa viện trợ cho chúng ta. Bắc Việt muốn thương thảo với miền Nam, tại sao ta không thử nói chuyện với họ xem sao!
- Ông Nhu tiếp xúc với đại diện cộng sản tại tư thất đại sứ Ấn Độ Goburdhijn, theo một lịch trình định trước hoặc hai, ba lần một tháng.
-Khi tuyên bố với ký giả Joseph Alsoph rằng ông không muốn thương thuyết mà không cho người Mỹ biết, là ông Nhu đã dấu việc tiếp xúc vói cộng sản.
-Tác giả có mặt tại Sài gòn khi ông Diệm liên lạc với De Gaulle xin viện trợ Pháp thay thế viện trợ Mỹ(17).
Tổng hợp các tài liệu về Ngô Đình Diệm, chúng ta thấy có những ý kiến sau:
-Một số cho rằng cho rằng họ Ngô yêu nước, không bao giờ bắt tay với cộng sản. Đây là quan điểm của bộ hạ Ngô Đình Diệm.
- Một số cho rằng ông Diệm bắt tay với cộng sản là sự thực, là để mưu cầu hòa bình. Đó là phe cánh khác của Ngô Đình Diệm, đại diện là Nguyễn Văn Châu.
- Một số có tài liệu Ngô Đình Nhu mật đàm với cộng sản nhưng lại cho rằng không biết thực hay hư. Đại diện khuynh hướng này là Cao Thế Dung.
-Ông Lê Tùng Minh cho rằng việc này là do Hồ Chí Minh tung ra mục đích là làm cho Mỹ và Ngô Đình Diệm mâu thuẫn nhau ( Tạp chí Cách Mạng của Đại Việt, VA, 2000).
Trong các tài liệu trên, tài liệu của Đỗ Mậu là đầy đủ nhất về tội ác của tập đoàn Ngô Đình Diệm. Tài liệu của Nguyễn Văn Châu cũng khá đầy đủ về việc Ngô Đình Diệm bắt tay với cng sản nhưng lập luận của ông sai lầm. Chúng ta thấy rằng nguồn tin tình báo của CIA , tướng lãnh và sĩ quan Việt Nam cộng Hòa trong đó có Nguyễn Văn Châu đã xác nhận việc tập đoàn Ngô Đình Nhu bắt tay với cộng sản là có thực
Tại sao họ làm như vậy?
Như đã trình bày ở trên, tập đoàn họ Ngô là con đẻ của Mỹ, nhưng bọn này quá gian tham và độc ác,làm nhiều điều xấu xa, ảnh hưởng đến thanh danh và quyền lợi Mỹ như là tàn sát phe Bảo Đại, đàn áp các đảng phái, tôn giáo, trong đó có Phật giáo cho nên Mỹ phải cảnh cáo Ngô Đình Diệm. Người Mỹ thấy lỗi chính là vợ chồng Ngô Đình Nhu nên đã yêu cầu họ ra đi. Tập đoàn này không chịu, quay sang cầu cạnh Pháp và bắt tay với cộng sản. Và động cơ không phải là yêu nước, mà là muốn bám lấy địa vị quyền lợi của họ Ngô và tập đoàn, họ muốn bán đất nước này để cầu vinh, mong cộng sản thí cho chút ân huệ. Việc Ngô Đình Cẩn và bà Cà Lễ bán gạo cho cộng sản, việc tập đoàn họ Ngô bán thuốc tây và dụng cụ y khoa cho cộng sản, việc Ngô Đình Thục kinh doanh gỗ trong rừng đã nói bản chất bán nước buôn dân của tập đoàn này.
Đây là một sự phản bội dân tộc Việt Nam và phản bội đồng minh Mỹ. Người Mỹ có cơ quan mật vụ, cơ quan điều tra nổi tiếng là CIA, FBI, và có nhiều chuyên viên tài ba, nhiều máy móc, và phương pháp tinh vi nhưng vẫn sai lầm. Ai cũng nói Ngô Đình Diệm là người tốt, nhưng sự thực ông rất gian ngoan. Trần Văn Đôn cho biết ông Diệm đã theo Nhật. Lúc chưa đảo chánh, Nhật đem máy bay chở ông tại La vang và đưa ra Băc. Lê Văn Kim kể rằng một hôm thấy ba người Việt mặc quân phục Nhật đến tại nhà bác sĩ Trần Nhữ Lân, mà một trong ba người là Ngô Đình Diệm. Khi Trần Văn Đôn hỏi về việc này thì Ngô Đình Diệm chối phắt, bảo là ông rất ghét Nhật (19) .
Ông đã đặt tay lên thánh kinh và thề trung thành với quốc trưởng Bảo Đại nhưng vì quyền lợi cá nhân và phe nhóm, ông đã phản bội Bảo Đại và dất nước Việt Nam.
Đối với đất nước Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh, một nhân viên cao cấp hay tầm thường, một quốc trưởng hay sĩ quan tiếp xúc với giặc đều phạm tội phản quốc. Hơn nữa, cộng sản rất gian trá, thương thuyết, giao thương với cộng sản chỉ là một hình thức đầu hàng, sớm hoặc muộn cũng bị cộng sản thanh toán. Họ Ngô khôn ngoan nhưng khôn ngoan sao bằng Mỹ và cộng sản! Nếu Mỹ không can thiệp , để cho Ngô Đình Diệm đàm phán thành công thì việc trước nhất là Mỹ phải cuốn gói một cách nhục nhã vì mục tiêu của cộng sản và Ngô Đình Nhu là loại bỏ ảnh hưởng ngoại quốc khỏi Việt nam, mà theo cộng sản, ngoại quốc là Mỹ, và Việt Nam sẽ rơi vào tay cộng sản một cách nhanh chóng chứ không phải là đạt hòa bình như ông Nguyễn Văn Châu suy nghĩ!
Chúng ta đã thấy nhiều bộ mặt phản trắc, nhiều bộ mặt trục lợi cầu danh, nhiều bộ mặt gian giảo quay quắt. Có nhiều người chạy theo Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu nhưng khi thấy gió đã xoay chiều, họ quay ra chống Diệm và Thiệu mà mục đích là rửa tay, là ve vản cộng sản, cầu xin chút ân huệ khi cộng sản vào Nam như Trần Hữu Thanh, Nguyễn Thị Thanh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung. . . Ngô Đình Diệm cũng thế . Cả gia đình họ Ngô làm tay chân cho Pháp nhưng thấy Pháp thất bại bèn quay sang thờ Mỹ, tuyên bố là chống thực dân Pháp, nhưng khi bị Mỹ khuyến cáo thì quay sang ôm chân De Gaulle và cộng sản. Tinh thần Ngô Đình Diệm là tinh thần gian xảo, bịp bợm, phản quốc hại dân. Ông Nguyễn Hữu Châu đã quá tô son điểm phấn cho Ngô Đình Diệm khi cho việc họ Ngô bắt tay với cộng sản là một nỗ lực hòa bình là thỏa hiệp với anh em thù hận Bắc Việt đồng thời vẫn giữ thành đồng chống cộng tại Đông Nam Á (20).
              Ông Diệm Nhu đã cao mà ông Châu càng cao hơn! Làm sao có thể vừa bắt tay với cộng sản mà lại vừa ăn tiền viện trợ Mỹ và làm tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á hỡi ông Nguyễn Hữu Châu? Cộng sản bằng lòng chăng? Mỹ chấp thuận việc đó sao? Dân tộc Việt Nam tin vào điều đó chăng?
Sự tàn sát nào cũng là xấu, nhưng việc giết anh em nhà họ Ngô về chính trị và quân sự là việc khôn ngoan. Sau cách mạng 1963, nếu để anh em họ Ngô sống thì nhiều tai họa sẽ xảy đến cho Mỹ và Việt Nam, nhiều người sẽ chết hơn là hai cái mạng của anh em Diệm Nhu. Việc đầu tiên là bọn họ có thể tuyên bố đuổi Mỹ ra khỏi nước và đầu hàng cộng sản. Nếu không, họ sẽ gây một cuộc nội chiến trong một cuộc nội chiến. Việc này sẽ làm tiềm lực quốc gia suy yếu, và giúp cộng sản nhanh chóng chiếm miền Nam. Hơn nữa, đời người chỉ một lần gặp may, và không ai bị lừa đảo hai lần. Anh em ông Diệm đã đuợc tha trong đảo chánh 11- 1960 của Nguyễn Chánh Thi, nhưng họ đã nuốt lời cam kết, lịch sử không cho họ tái diễn tấn tuồng lừa đảo! Đó là quy luật trong chính trị và trong cõi đời! Nhiều người cho rằng nếu anh em họ Ngô còn sống, thì đất nước Việt nam đâu có rơi vào tay cộng sản! Đây lại là một điều hão huyền. Bản thân họ Ngô là trục lợi, họ đã thương thuyết, buôn bán với cộng sản, đâu có nghĩ đến quốc gia dân tộc! Mỹ đưa họ về, chi viện mỗi năm 10 tỷ mỹ kim, trong lúc cộng sản chưa phát động vùng dậy thì ai cũng có thể làm tổng thống được. Còn ai có thể làm gì khi Mỹ cắt viện trợ, rút lui quân, trong khi Liên Xô viện trợ ào ạt cho cộng sản ? Anh em ông Diệm làm gì? Họ đã tính đầu hàng cộng sản chứ làm được ích lợi gì mà trông mong!
           Vì việc này, người Mỹ và hội đồng cách mạng đã tiến hành việc lật đổ Ngô Đình Diệm. Nhìn cảnh tượng dân chúng hoan hô quân đội trong ngày 1-11-1963, chúng ta đã thấy lòng dân là như thế nào. Dường như trong ngày 1-11-63, báo chí, tướng lãnh và ngưòi Mỹ đều không nói gì về việc hai ông Diệm Nhu mật đàm với cộng sản cho nên người ta cứ tưởng vì Phật giáo mà Mỹ và tướng lãnh đã lật đổ họ Ngô! Người ta không nói rõ việc mật đàm, vì đó là một việc cơ mật, là niềm tủi nhục của Việt Nam cộng hòa, là nỗi đáng cay của Mỹ, nói ra sẽ làm cho lòng dân chúng và quân sĩ rúng động, chỉ có lợi cho cộng sản mà thôi! (Ai đời một ông tổng thống mà đi bắt tay với cộng sản thì còn nước non gì cái đường lối chống cộng nữa! Một hậu quả về việc này là một số chân tay Diệm theo đường lối của chủ quay ra bắt tay với cộng sản, trong đó có Nguyễn Hữu Châu). Đỗ Mậu sau này mới nói lên lý do cuộc cách mạng này:
Âm mưu thỏa hiệp với chánh quyền cộng sản Hà Nội của chế độ Diệm là một trong những động cơ quan trọng nếu không nói là đng cơ thách đố nhất, thúc đảy quân đi cùng với toàn dân đứng lên làm cuộc cách mạng 1-11-63 để ngăn chận và trừng phạt họ Ngô dâng miền Nam cho cộng sản (21).
             Các tướng lãnh trong hội đồng cách mạng quả đã vì nước vì dân. Một số người trách Đỗ Mậu phản bội Ngô Đình Diệm nhưng Đỗ Mậu là người can đảm, dám nói sự thực. Và hành động của ông là chính nhân quân tử vì Nho gia không coi Kiệt, Trụ là vua, mà là kẻ giặc hại dân, hại nước phải giết! Nếu ai đó trung thành với ông Diệm dù ông Diệm bắt tay với cộng sản, kẻ đó là xuẩn trung. Họ trung với chủ Diệm Nhu, với danh lợi chứ không trung thành với đất nước Việt Nam. Nếu trách thì phải trách ông Diệm bất nhân, bất nghĩa với Bảo Đại, với nhân dân Việt Nam. Kẻ hại gia đình ông Ngô Đình Diệm chính là lòng tham sân si của Ngô Đình Diệm, và tập đòan của ông, và đám bộ hạ ác ôn, chỉ biết theo chủ làm ác mà không tôn trọng luật pháp, và yêu tự do, và dân chủ, và theo đường lối bác ái của Chúa. Người Á Đông chúng ta cũng như người Tây phương rất tin tưởng lời thề. Một lời nói thường cũng ứng nghiệm huống chi lời thề! Ông Diệm đã đặt tay lên thánh kinh trước mặt Bảo Đại, ông Diệm lại nói trong lễ song thất 1963: Tôi tiến thì theo tôi! Tôi lùi thì bắn tôi! (22).
Lời thề và lời nói của ông đã ứng nghiệm! Ông bắt tay với cộng sản thì ông bị bắn hạ! Ông phản bội quốc gia thì ông phải chết! Không phải là đại úy Nhung, không phải Dương Văn Minh, không phải Mai Hữu Xuân, không phải Trí Quang, không phải Cabot Lodge, cũng không phải Kennedy! Chính ông Diệm hạ sát ông Diệm, gia đình ông, tập đoàn ông đã giết ông! Nhiều thông điệp của hữu hình và vô hình đã gửi đến ông, nhưng ông không thức ngộ. Khoảng 1957, sét đánh mả Ngô Đình Khả, một ngôi mộ gần cố đô Huế, do công binh giỏi nhât và vật liệu tốt nhất xây dựng . Việc Nguyễn Chánh Thi nổi dậy, việc Nguyễn Văn Cứ thả bom dinh Độc Lập, nhiều nhân sĩ trong và ngoài nước như Cao Văn Luận, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Chương, và rất nhiều người Mỹ cảnh cáo ông, khuyên bảo ông nhưng ông và tập đoàn ông trong đó có bà Nhu lại càng điên cuồng, dữ tợn hơn!

Nói tóm lại, Ngô Đình Diệm và tập đoàn là một lũ buôn dân bán nước, lừa bịp dân chúng, họ dùng danh nghĩa quốc gia để chiếm đoạt đất nước này làm tài sản riêng, họ dùng danh nghĩa chống cộng nhưng thực tế là bắt tay với cộng sản từ khởi đầu cho đến chung cuộc.
Trong thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam đã đau khổ triền miên vì cộng sản và bè lũ Ngô Đình Diệm. Hai tập đoàn này khác nhau về nhãn hiệu, màu cờ, sắc áo, thành phần giai cấp và học thức, nhưng cùng chung tính chất là gian tham và tàn ác. Họ tuyên bố tranh đãu cho tự do, dân chủ, vì quyền lợi tổ quốc, vì nhân dân Việt Nam nhưng sự thực họ chỉ vì họ, họ đàn áp, giết hại nhân dân, họ làm mọi cách để vơ vét tài sản trong nước, trong khi dân chúng càng ngày càng đói khổ. Họ dùng danh nghĩa nào đi nũa thì nhân dân ta cũng thấy họ là kẻ lưu manh giả dối, đã phản bội nhân dân và đất nước Việt Nam. Ngô Đình Diệm đã mất nhưng cộng sản vẫn còn. Chúng ta còn phải tranh đãu để giải phóng đất nước khỏi ách cộng sản, thiết lập một nền tự do, dân chủ thực sự.

Chú thích:
1. Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam Một TrờI Tâm Sự, Xuân Thu, CA, 1987, 80.
2. Nguyễn Mạnh Quang, Việt Nam Đệ Nhất Cng Hòa Toàn Thư 1954-1963. tác giả xuất bản,
WA, 1998, 191-192.
3. Nguyễn Chánh Thi, 81.
4. Hồ sơ cái chết Nhất Linh .Văn Học, Saigon. số 109, th.10-1962.
5. Đỗ Mậu, Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Văn Nghệ, CA, 1993,.406.
6. Nguyễn Chánh Thi, 47-51.
7. Nguyễn Mạnh Quang, 400.
8. Trần Văn Đôn, Việt Nam Nhân Chứng, Xuân Thu, CA, 1989, 183-184.
9. Ibid, .597.
10. Hồ Sơ Mật Của Ngũ Giác Đài. Lan Vi, Hồng Hà, Dương Hùng dịch. Đai Nam, 1971, 199.
11. Ibid, 205.
12. Cao Thế Dung, Việt Nam Ba Mươi Năm Máu Lửa. Alpha,1991,.545-548.
13. Đỗ Mâu, ibid. chương XVI, Từ đồng minh vớI Mỹ đến thỏa hiệp với cộng sản, 537 -602.
14. Đỗ Mậu, 556.
15. Nguyễn Văn Châu, Ngô Đình Diệm: Nỗ Lực Hoà Bình Dang Dở. Nguyễn Vy Khanh dịch.
Xuân Thu, CA, 1989, 13-14.
16. Ibid.,140-142.
17. Ibid.,142.
18. ibid.142-143.
19. Trần Văn Đôn, 37.
20. Nguyễn Hũu Châu, 140
21. Đỗ Mậu,568-69.
22. Nguyễn Văn Châu.246. 



 
7. LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI

              Khoảng 1985, trong Nam ít nghe nói đến mấy chữ' lao động nước ngoài' hay 'hợp tác lao động'. Trái lại, khi tôi ra Hà Nội, khắp nơi lao xao, rộn rịp, người ta  ăn không ngon, ngủ không yên vì mấy chữ này. Có thể nói rằng cả nước loạn lên về việc đi Liên Xô, Tiệp hay Hung.. .Có thể nói rằng cả nước ai cũng muốn bỏ cái nước này để mà đi, ngoại trừ mấy ông giám đốc, tổng trưởng, thứ trưởng, vì quyền lợi, vì thể diện không thể từ chức mà ra đi. Các văn phòng các bộ đầy nghẹt người nạp đơn, xin hồ sơ để đi. Với con mắt của tôi, việc này có gì là vinh dự, lợi lộc mà chen chúc như thế! Đối với dân trong Nam, việc này cũng giống như khoảng 1930, thực dân Pháp mộ phu đi tân thế giới, những nông dân, công nhân  nghèo bán mình được đuợc vài ba đồng để lại cho cha mẹ hay vợ con để rồi ra đi biệt tích, bỏ xác nơi đất lạ xứ người! Ngày xưa đế quốc, thực dân, tư bản mộ phu nhưng nay thì chính đảng ta đem nhân dân đi bán, đem đảng viên đi làm nô lệ xứ người ! Đối với nhân dân ngoài bắc, đi lao động hợp tác là một ân huệ, không hối lộ, không phe cánh thì không dễ gì mà đi! Đi lao động là con đường cứu rỗi, là con đường thoát của những con người XHCN. Nếu cứ ở lại cái nước CHXHCNVN , thì cuộc đời mãi mãi sáng đạp  xe đi, chiều đạp xe về, ghé chợ mua bó rau muống, để rồi ngày lại ngày tiếp tục sự nghiệp như thế! Nhiều người đi Liên Xô, Tiệp hai ba năm đã gủi tiền về xây nhà,ít nhất khi về cũng được cái đài(radio), cái đổng ( đồng hồ), cái TV, cái tủ lạnh và vài chỉ vàng! Giấc mộng của dân ta đơn giản là thế! Nhiều người khôn hơn, có thế hơn thì xin đi lao động tại các nước tư bản như Pháp, Iran, Irac hay Phi châu.

 Đi các nước tư bản thì ngon hơn đi các nước cộng sản anh em! Vì vậy mà trước đây, mấy cán bộ cao cấp thành phố đã xin học Pháp văn tại trường Đại học Văn khoa Sai gòn, làm đệ tử các thầy Nghiêm Hồng, Nguyễn Kỉnh Đốc vì  giấc mộng tây du vàng son mỹ miều đó! Tôi nói như vậy vì hồi đó chưa có vấn đề bang giao Việt Mỹ, mà chỉ có bang giao Pháp Mỹ cho nên người ta chỉ  ngó vào nước Pháp anh em mà thôi, nay thì đương nhiên nước Mỹ và đô la Mỹ là nhất, Pháp không là cái giãi gì! Có những tay vận động các cơ quan công quyền hay tư nhân ở Pháp gủi giấy mời sang diễn thuyết, sang cộng tác để rồi có cớ hợp lý xin phép xuất cảnh ra ngoài làm ăn! Chính vì điều này chúng ta mới hiểu tại sao dân cán bộ cộng sản lại thích học tiếng Anh mà không chịu học tiếng Nga . Tại sao  đảng lại  chủ trương xuất cảng lao động? Đã đến lúc Việt Nam phải trả nợ cho Liên Xô. Làm sao có tiền trả nợ? Việt Nam đã xuất cảng gaọ, cá,thịt, gỗ, giày, áo, qua Liên Xô nhưng hàng hóa Việt Nam phẩm chất quá kém và không bao giờ giao đúng hẹn, nếu đúng hẹn lại không đủ số. Bán hàng không đủ thì đảng lại bán người. Xüa và nay khác nhau. 

Thời thực dân, chỉ người nghèo mới đi mộ phu , còn nay cả nước đi mộ phu, ngay cả người có thế lực. Thời trước thực dân mộ phu nay thì đảng đứng ra mộ phu. Ngày xưa  phu lĩnh tiền đầy đủ  nay công nhân bị bóc lột tận xương tủy. Còn nhiều cảnh bóc lột khác nữa cho dù đảng ta đã chửi bới rất nhiều vể tội phong kiến, tư bản, thực dân bóc lột nhân dân ta! Khi làm việc cho ngoại quốc là nhà nước đã ăn chia công khai theo tứ lục( nhà nước 6 phần, lao động 4 phần). Người lao động phải trả tiền ăn, tiền phòng, và tiền cho tổ chức đảng, một tổ chức ăn bám, ngồi không hưởng lợi của đảng mang theo để kìm kẹp công nhân ở nước ngoài! Một số người khi ra nước ngoài phải làm thêm mới có tiền, cho nên họ phải buôn lậu, làm gái giang hồ. Nhiều chuyện đau đớn không thể nói ra xiết. Khi chưa ra nước ngoài, khi còn ở trên tàu, người ta đã công khai ăn ở chung chạ, dù gái đã có chồng, dù trai đã có vợ. Khi ra ngoại quốc, người ta lại càng tự do hơn. Bởi vậy, ca dao xã hội chủ nghĩa có câu:
                                    Lãy vợ mà cho đi tây,
                        Xe đạp không khóa để ngay bờ hồ!
          

  Trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em, Liên Xô là một nuớc lớn, quả đã mang lại nhiều lợi lộc cho Việt Nam nhưng họ cũng đã đem lại nhiều đau khổ cho người Việt Nam. Liên Xô là một nước xã hội chủ nghĩa nhưng họ không như Việt Nam. Liên Xô truyền cho Việt Nam chủ nghĩa cộng sản nhưng Việt nam lại truyền cho Liên Xô tham nhũng, hối lộ. Trong quyển Thiên Đường Mù, Dương Thu Hương đã cho ta biết người Liên Xô thù ghét Viêt Nam, thấy mặt người Việt là họ đánh đập nếu không tàn sát. Tại sao vậy? Tuy Liên Xô cũng nghèo khổ, thiếu thốn nhưng họ có một đời sống kỷ luật, khác với Việt Nam. Khi sang Liên Xô,  người Việt Nam đã đi thật sớm để tới trước xếp hàng. Khi người Liên Xô tới, mọi thứ hàng đã hết. Người Việt nam còn hối lộ các cô bán hàng , các trưởng cửa hàng, các thủ kho để họ tuôn hàng cho mình. Với chừng ấy thủ đoạn, người Việt Nam đã gây xáo trộn cho xã hội Liên Xô, thành thử người Liên Xô thù ghét Việt Nam.


            Như đã nói ở trên, những người lao động nào đi sang các nước tư bản thì lợi hơn nhiều.Một số người Việt Nam đã sang Iran, Irac làm việc nhưng họ không hưởng được bao tiền bạc vì chiến tranh xảy ra giữa Mỹ và Irac. Các công nhân bèn hỏi tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Irac: tình hình ra sao ? Phải đối phó như thế nào? Nên ở hay nên đi? Các cán bộ cộng sản bảo Mỹ đã thất bại ở Việt Nam, Mỹ không dám đánh Irac. Các công nhân tin đảng nên đã ở lại. Rốt cuộc Mỹ đánh dữ quá, họ phải bỏ Irac chạy về Việt Nam, không đuợc đồng nào!           Nay thì một số lao động chạy qua Đức, Mỹ, Canada và Pháp. Một số lớn là người yêu tự do, dân chủ, hoặc yêu đời sống kinh tế tư bản nên không muốn về Việt Nam, một đất nước nghèo đói, lạc hậu và độc tài, tàn bạo. Một số là cộng sản nằm vùng, họ âm thầm hoạt động. Chúng ta hy vọng sau một thời gian sống ở xứ tự do, những người lao động, kể cả người cộng sản  đã hiểu tự do, dân chủ  sẽ góp phần tranh đãu cho tự do dân chủ tại Việt Nam.

            Dẫu sao, việc xuất cảng lao động đã đem lại nhiều lợi ích cho đảng. Ngày nay, đảng và tư nhân đã lợi dụng việc xuất cảng lao động để lừa dối đồng bào và bóc lột nhân dân. Nhiều cơ sở lập ra thu tiền rồi bỏ trốn. Một số dân lao động nhận được vé máy bay qua Hồng Kông, Nhật Bản rồi bị bỏ rơi, không có tiền trở về. Ngày nay, danh từ lao động được biến hóa. Ngày nay, người ta dùng việc đưa học sinh du học, và người đi du lịch để đem người đi lao động. Không riêng Việt Nam, bọn đầu nậu ở Trung quốc, Đại Hàn và Phi Luật Tân  cũng đã tổ chức đưa người nhập cư bất hợp pháp vào Canada và Mỹ. Công an, hay thành đoàn thường đứng ra tổ chức, móc nối với các tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại địa phương. Tin  gần đây 29 người Việt Nam đi lao động tại Brasil  bằng Visa du lịch, rồi bị bỏ rơi tại xứ người. Sáng ngày 26 tháng 9 nămn 2001, chị Nguyễn Thị Thêm gửi đơn đến các báo chí trong nước kêu cứu việc chồng chị là Nguyễn Đình Quốc cùng 28 người khác đã bị công ty TNHH Phú Nhuận, là công ty xuất khẩu lao động của thành đoàn CS địa chỉ tại 32 đường Lê Lai, quận Gò Vấp lừa đưa người sang Bresil rồi bỏ mặc.  Bà Nguyễn Thị Thức, mẹ của Nguyễn Đình Quốc kể rằng tháng 2-1999, qua trung gian của bà Trần Thị Dung ở Hà Nội, con trai bà đã ký hợp đồng lao động với ông Lê Đình Nhân là giám đốc công ty TNHH Chế biến lương thực thực phẩm Phú Nhuận ở Sài gòn để sang làm mì ăn liền tại Brasil. Con bà đã nộp cho ông Nhân 7.5000 USD, cộng với  300USD làm hộ chiếu. Theo hợp đồng ký với công ty Lương Thực Thực Phẩm Phú Nhuận,  thời hạn làm việc là năm năm, lương mỗi tháng là 500 USD. Nhưng sau 18 tháng làm việc,tại Bresil, gia đình anh chỉ nhận được 1,200USD tiền lương. Bà cho biết hoàn cảnh của bà và đa số gia đình người đi lao động rất khó khăn. Vợ của anh Quốc phải đi buôn bán xa để lấy tiền nuôi gia đình và chữa bệnh cho đứa con trai duy nhất 9 tuổi bị bệnh não, ba năm không học xong lớp I.  Bà hy vọng con trai bà đi lao động tại Bresil để có tiền chữa bệnh cho cháu trai nhưng nay tiền mất tật mang.Vừa rồi con bà gọi điện thoại về cho biết đã bốn tháng nay bị bỏ rơi, không có tiền ăn, và có thể bị bỏ tù vì cư trú bất hợp pháp. Bà cho các ký giả xem đơn đề ngày 20-8-2000 của 15 lao động tại Bresil ,trong đó có đoạn: 'Công ty Phú Nhuận đã đưa chúng tôi đi bằng visa du lịch trong ba tháng. Trong năm qua chỉ có một số được đi làm, còn hầu hết thất nghiệp, bị cắt điện nước, không cơm ăn, hoặc không nơi cư trú. Chúng tôi phải sống nhờ vào sự hảo tâm của công đồng người Việt tại Bresil.' Mới đây đại diện các gia đình đã đến nhà bà Trần Thị Dung đòi lại tiền và chịu trách nhiệm về  việc này thì bà Dung chối bỏ trách nhiệm. Các phóng viên báo chí đã hỏi các cơ quan hữu trách nhưng cơ quan này quy trách cho cơ quan nọ, không một ai chịu trách nhiệm về việc này. Ông Trần Văn Hằng, Cục trưởng cục quản lý lao động với nước ngoài nói rằng ông cũng nhận được thông báo của bộ ngoại giao cùng đơn của các lao động tại Bresil, song trách nhiệm là của UBND Saigon, là nơi đã cấp giấy phép cho công ty Phú Nhuận liên doanh tại Bresil. Việc đưa lao động ra nước ngoài theo hợp đồng liên doanh không thuộc sự quản lý của cục này.Ông cũng thông báo cho công an Hà Nội về việc bà Dung thu tiền nhưng chưa có trả lời. Trong 29 người sang lao động tại Bresil đã có 5 người trở về vì gia đình đã mua vé máy bay cho họ, còn một số đang chờ đợi. Vừa qua cảnh sát Bresil đã  thông báo cho họ là trong 20 ngày họ phải trở về nước nếu không  thì sẽ bị giam giữ trong 80 ngày để  chờ phán quyết của tòa án Bresil.           Trong khoàng 2000, người cộng sản tiến nhanh tiến mạnh, từ việc đưa người đi lao động xã hội chủ nghĩa tiến lên việc buôn người khắp thế giới, Ngày nay gái Việt Nam đã đi làm vợ Đài Loan, Đại Hàn và gái mãi dâm khắp nơi. Ai chịu trách nhiệm về những vấn đề này?

8. CHÍNH SÁCH CỘNG SẢN
ĐỐI VỚI VIỆT KIỀU

Cộng sản là bọn độc tài, tàn bạo và lưu manh. Chúng coi người dân là kẻ thù. Ngay với đồng bọn, vì quyền lợi, vì chính kiến bất đồng, cộng sản cũng thẳng tay không thương tiếc. Trotsky, Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ, Hoàng Văn Hoan.. .là những minh chứng cụ thể. Nguyên tắc đầu tiên của cộng sản là phân biệt bạn và thù. Những ai đi theo Pháp. Mỹ .. .đều là kẻ thù của nhân dân. Đối với nhân dân trong nước và ngoài nước, cộng sản bao giờ cũng có biện pháp  sắt máu để tiêu diệt Chính sách của cng sản đối với Việt kiều đã diễn biến qua nhiều giai đoạn.
1. Giai đoạn thù nghịch:
Trong chiến tranh Việt Nam. Những người bỏ vào Nam hay chạy ra ngoại quốc đều được coi là kẻ thù. Nhà cửa,tài sản bị tịch thu, cha mẹ, anh em đều bị ghi sổ đen với hàng chữ : “ có anh em vào Nam”,  có con chạy theo đế quốc” Và những người này đã phải chịu bao cay đắng vì chính sách tàn bạo của đảng cộng sản trả thù gia đình họ. Nói chung, cng sản đã coi Việt kiều là tay sai đế quốc, là phản động. .. 2. Giai đoạn ve vản.
Khoảng 1980, đồng bào Việt Nam hải ngoại đã bắt đầu gửi chui tiền về Việt Nam . Số tiền này rất lớn. Cộng sản in tiền giấy lại thu đô la một cách dễ dàng. Và đây là mối lợi lớn cho cộng sản. Ban đầu cộng sản cấm dân chúng tích trữ đô la, buôn bán đô la, nhưng sau chúng thấy biện pháp này bất lợi, không ngăn được chợ đen cho nên từ đây cộng sản cho phép đồng bào ta gửi tiền, gửi quà về Việt Nam. Cộng sản và bọn gian thương thân cộng lập các tổ chức gửi quà, gửi tiền về Việt Nam. Nhiều tên cộng sản giở giọng nhân nghĩa kêu gọi gửi tiền về Việt Nam, cứu trợ Việt Nam. Chúng bắt đầu đổi giọng, chúng gọiViệt kiều là khúc ruột xa nghìn dặm. Cộng sản bao giờ cũng phân biệt bạn và thù. Những người có cảm tình với chúng thì được gọi là Việt kiều yêu nước.Những nhân vật chống cộng thì chúng thẳng tay đối phó. Tại hải ngoại, họ bị chúng theo dõi. Bọn làm tại tòa đại sứ Việt công có nhiệm vụ báo cáo mọi việc về cho công an quốc nội, trong đó có tình hình báo chí, đảng phái, hội đòan quốc gia. Chúng chi một số tiền rất lớn vào công việc này. Chúng không cấp chiếu khán cho những người có thành tích chống cộng. Nhiều người về đến phi trường thì bị đuổi hoặc bị bắt giữ. Những chiến sĩ về hoạt đông thì bị bắt, bị giết. Những người bị tình nghi hoặc bị tội hình sự cũng bị xử theo luật rừng ,mặc dù người ta đã là công dân các nước Canada, Mỹ. Cộng sản không đếm xỉa đến công pháp quốc tế. Chúng muốn bắt, muốn giết tuỳ thích không có gì bảo đảm cho tính mạng và tài sản Việt kiều. Đó là trường hợp bà Nguyễn Thị Hiệp, công dân Canada đã bị xử tử, và chúng không cho thân nhân nhận xác. Chưa có một quốc gia nào dã man như vậy ở tân kỷ nguyên này!
Ngày nay, đối với đồng bào trong nước ,chúng ra sức khủng bố, kìm kẹp, đối với Việt kiều chúng tuyên truyền để đồng bào gửi tiền bạc, đem tài sản về cung hiến chúng, đồng thời dụ dỗ các trí thức trở về làm tay sai cho chúng. Song song với các tổ chức kinh tài, cộng sản còn hoạt động tôn giáo vận, trí thức vận, chống phá âm thầm và công khai các hội đoàn. Chúng ta nên nhớ rằng các tổ chức này đã có tại Việt nam trước 1975, nay chúng phát triển tại quốc ngoại mà các cơ sở chỉ đạo là các tòa đại sứ cng sản. Hoa Kỳ, Canada, Pháp . . .là những nơi cộng sản hoạt động mạnh.  Nghị quyết 36 của cộng sản có mục đich phá hoại cộng đồng người Việt và dụ dỗ người Việt hải ngoại.Chúng ta thử xét xem các hoạt động của cộng sản trong các lãnh vực sau: 

1.Tôn giáo
Trước 1975, cộng sản đã cho người trà trộn vào các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Cao Đài giáo và Phật giáo Hòa Hảo. Nay thì những nhân vật đó đã lộ mặt .Ở hải ngoại, những vụ chiếm chùa, vu khống các vị tu hành đã là những hành vi phá hoại Phật giáo. Có nhiều cơ sở Phật giáo, tại chùa chiền cũng như trên Internet đã lộ bô mặt cộng sản của chân tay Minh Châu( Viện Phật học Vạn Hạnh). Cộng sản đã tấn công hải ngoại mạnh mẽ bằng cách gửi Thanh Từ, Trí Dũng qua Bắc Mỹ và các nơi khác để kiếm tiền và tuyên truyền. Bên ngoài là gửi kinh điển, sách, in tài liệu, giới thiệu trang nhà trên Inetrnet,bên trong là thi hành các mệnh lệnh của Hà Nội. Xin các Phật tử đừng tin bề ngoài của họ mà lầm. Cộng sản không bao giờ cho những vị chân tu ra ngoài nước. Những kẻ được phép ra nước ngoài chính là cng sản đi công tác. Nhiều vị sư trước 1975 là những con người tu hành chân chính nhưng nay đã bị cộng sản mua chuộc. Đọc báo chí, chúng tôi thấy có nhiều bức thư gửi từ Việt Nam kêu gọi góp tiền về xây chùa, sửa chùa. Đồng ý rằng sửa chùa , xây tháp là việc thiện của người Phật tử nhưng chúng ta đừng mắc mưu cng sản, gửi tiền về cho chúng tiêu xài phung phí, tạo thêm sức mạnh cho chúng đàn áp nhân dân. Chúng tôi không hiểu tại sao đồng bào Thiên chúa giáo vốn có tinh thần chống cộng cao lại gửi tiền về cho một số linh mục tay sai cộng sản ? 

2.Trí thức.
Cộng sản lấy công nhân làm nòng cốt, nông dân là giai cấp liên minh với công nhân chứ không phải là nòng cốt cách mạng. Trí thức không là công nhân không là nông dân, không thuộc giai tầng lãnh đạo như công nông.Cộng sản ghét trí thức, cho trí thức không thực lòng theo đảng. Mao bảo trí thức không bằng cục phân. 

Cuc cách mạng văn hóa tại Trung quốc đã khiến cho bao trí thức và đảng viên chết và sống nhục nhã. Tại Việt Nam, biết bao trí thức theo cộng mà cuộc đời khốn đốn như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Sau 1975, cộng sản đã sa thải biêt bao trí thức vì họ bao giờ cũng theo đường lối vô sản chuyên chính,’ hồng hơn chuyên’và coi trí thức là kẻ thù giai cấp. Trước 1975, nhiều tướng , tá Việt nam cộng hòa đã gửi con qua Pháp ăn học. Một số có bằng tiến sĩ, cử nhân, một số lông bông,không bằng cấp, không nghề nghiệp, cha ông chống cộng, họ lại nghe theo lời đường mật của cộng sản trở về Hà Nội làm tay sai . Họ mang danh trí thức nhưng chỉ làm bung xung, làm con mồi để quyến rũ những kẻ ngây thơ, dại khờ khác. Họ có bằng cấp nhưng không đuợc cộng sản trọng dụng cho dạy đại học hay làm việc tại các b viện, công ty. Họ chỉ lãnh một số lương còm với chức vụ là cán bộ Mặt trận hay tổ chức Việt kiều yêu nước. Nhiệm vụ của họ là đón tiếp, tuyên truyền, theo dõi các Việt kiều mới về thăm nước. Họ đã kêu gọi Việt kiều trở về xây dựng đất nước. 

Thực ra đây chỉ là một chiêu bài lừa bịp, để tuyên truyền . Nếu họ cần người xây dựng đất nước, họ đã dùng các nhân tài hiện đang còn lại ở Việt Nam. Tại Việt Nam ,hiện nhiều trí thức thất nghiệp. Một số ngay thảng thì bị sa thải, thanh trừng, một số thì bị chèn ép. Chỉ có bọn tay sai như Nguyễn Xuân Oánh, Lý Chánh Trung, Trần Hà Nam, Chu Phạm Ngọc Sơn, Lê Tòng Xuân. .. mới được trọng dụng. Một số trí thức theo cộng sản về hợp tác, kết quả có kẻ bị tù, bị săn đuổi, may mà họ còn giữ được tính mạng mà trở về Mỹ, Canada, Pháp.Và may nữa là họ chưa hủy passport, làm đơn từ chối quốc tịch Mỹ, quốc tịch Pháp để làm người Việt Nam yêu nước!


Tại sao những trí thức hải ngoại lại theo cng sản ?Nghe cộng sản dụ dỗ? Chúng ta thấy có nhiều lý do:
a-Những vị trên đi trước 1975, chưa hiều cộng sản nên dễ bị cộng sản lừa dối.
b.Những vị trên chuyên môn giỏi nhưng không chịu đọc sách báo văn hóa, chính trị cho nên trình đô chính trị quá thấp kém, non nớt. Ý thức chính trị của họ kém hơn những chị bán rau, bà bán cá đã sống với cộng sản.
c.Họ tự cao, tự đắc. Được cộng sản móc nối, họ cho họ là tài ba nên đã nhắm mắt theo cộng sản. La Fontaine đã kể chuyện con cáo và con gà trống, Con cáo thấy con gà trống đậu trên cánh cây cao, không sao bắt được. Cáo bèn nói:’ Chao ôi, anh hát hay quá’. Gà thích quá gáy thật to . Cáo nói:’ Giá như anh nhắm mắt mà hát thì hay hơn’. Gà nghe lời nhưng chỉ nhắm một mắt, một mắt mở đề phòng. Cáo khen: ‘Anh nhắm hai mắt thi chắc gáy hay nhất thiên hạ’. Gà thích chí nhắm hai mắt gáy,cáo nhanh nhẹn nhảy lên đớp chú gà ngây thơ. 


3.Thương gia.
Khoảng 1980, cộng sản đánh tư sản mại bản, tịch thu nhà cửa và các cơ sở kinh doanh của đồng bào ta,và lập ra các công ty, các cửa hàng quốc doanh, các hợp tác xã.. .Và cộng sản cũng bắt đầu việc xuất khẩu sang các nước tư bản. các mặt hàng nông nghiệp, hải sản nhưng việc xuất khẩu thất bại vì hàng xấu, bao bì xấu, không rành việc xuất khẩu, luộm thuộm trong các thủ tục hành chánh. Họ xuất khẩu lúa gạo, đău sang các nước Thái Lan, Malaysia, Singapore.. nhưng bị chê. Một số phải bán tống bán tháo, một số phải đổ xuống biển, một số phải chở về bán lại cho dân, gọi là hàng hồi khẩu! Những thương gia này mua bán tại Singapore, Malaysia, Indonesia... phần lớn là người Hoa. Họ bảo mấy ông cán ngố rằng các ông không rành việc xuất khẩu, nên về Việt Nam., đến hãng này,nhà này tìm tên này.. ,chúng sẽ chỉ cho cách chọn gạo, phơi gạo,xay gạo, cất giữ gạo, vào bao gạo.. .,

Thế là cộng sản phải trả lại một số cửa hàng cho người Hoa, mời người Hoa tham gia việc kinh doanh để góp vốn và dạy kinh nghiệm, đồng thời làm môi giới cho cho cộng sản trong việc buôn bán với thế giới, nhất là với các nước Á châu. Từ đây Hoa kiều, Việt kiều đã được đảng và nhà nước cng sản lợi dụng để làm giàu cho họ. Và từ đây, giới doanh thương Hoa kiều đã tiếp tay với cộng sản để phát triển ngoại thương với Hồng kong, Singapore, Indonesia, Thái lan. . . Đối với Việt kiều, cộng sản tỏ ra khắt khe hơn. Phải chăng họ sợ các thế lực quốc gia xâm nhập hoạt động ? Thế sao họ lại nài nỉ Đài loan, Đại Hàn ,Mỹ.. . vào kinh doanh? Có hai lý do. Mỹ, Pháp. Đại Hàn, Đài Loan.. . nhiều tiền và nhiều người dại khờ,không hiểu cộng sản nên rất ngon ăn! Hai là óc kỳ thị, thiển cận. 

Họ muốn thống trị nhân dân, không muốn dễ dãi với dân chúng.Đó cũng là thói quen vọng ngoại, và có lẽ họ cũng biết dân Việt rất khôn lanh, quá hiểu cộng sản cho nên họ chỉ kêu gọi người ngoài dầu tư mà không cho phép dân quốc ni và dân Việt kiều đầu tư. Trước đây,Việt kiều không được đầu tư, không được mua nhà đất. Nhiều Việt kiều tưởng ngon nên đã xuất tiền cho bà con dứng tên mua nhà, lập cơ sở kinh doanh. Thế là phạm luật, là ở tù, mất tiền và suýt mất mạng! Công việc kinh doanh tại Việt Nam là một cuộc phiêu lưu mà cuối chặng đường chắc chắn là thất bại vì :
- thuế nặng và luôn luôn tăng theo ý muốn của cán bộ.
- nền kinh tế nghèo nàn, dân chúng không có tiền để tiêu thụ.
- Nạn tham nhũng hoành hành, chúng ta không lường được số tiền chúng ta phải đóng góp hàng tháng cho cán bộ, công an, và các tổ chức của đảng và nhà nước.
- Pháp luật không nghiêm minh, nhât là những luật lệ về thương mại, thuế vụ không rõ ràng và luôn thay đổi.
- đồng tiền sụt giá 


3. Văn nghệ.
Tại Việt Nam, cộng sản cấm các sách báo ngoại quốc trong đó có cả báo chí Việt nam hải ngoại. Ai mang sách vở ,báo chí , băng nhạc Việt nam hải ngoại về là bị bắt, bị tịch thu. Tuy nhiên, sách báo, băng video, băng nhạc. . .hải ngoại đã lan tràn khắp nơi vì đây là một dịch vụ béo bở, là một món ăn tinh thần rất đuợc đồng bào ta thưởng thức nhưng cng sản lại cấm đoán, thỉnh thoảng công an mở chiến dịch bao vây, kiểm soát, tịch thu các cơ sở cho thuê băng, thâu băngvà các quán cà phê, các phòng trà, các tiệm sách...làm cho nhân dân khốn đốn. 

Như trên đã trình bày, c ông sản lưu manh,tàn ác nhưng lại làm ra vui vẻ, thân thiện để mong xoá bớt hình ảnh xấu xa của chúng. Chúng đã mời mọc mt số văn nghệ sĩ về Việt Nam trình diễn. Một số nhẹ dạ đã theo chúng như Elvis Phương, Hương Lan, Hoài Linh. . . Đồng bào ta hiền lành lại trọng tài nên chưa tỏ thái đ đối với những người trên, nhưng họ phải biết sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn. Trước đây, nhiều người trong đó có giáo sư Lê Hữu Mục dã công kích Phạm Duy vì Phạm Duy đã nói những câu như: ‘Tôi không chống cng..Tôi chống gậy..’ Tôi cho rằng Giáo sư họ Lê đã quá lời. Nay thì Phạm Duy đã về Việt Nam. Ông về để sống những ngày còn lại trên đât mẹ hay ông về công tác với cộng sản ? Chúng ta hãy chờ thời gian giải đáp! Cộng sản đã nhiều lần đưa các phái đoàn văn nghệ của chúng sang các nước tư bản để quảng cáo. Những con buôn , những kẻ nằm vùng đã kết hợp với nhau trong việc tổ chức các buổi văn nghệ.

 Chúng ta không về được quê hương để chiến đãu thẳng tay với cộng sản thì tại đây, chúng ta phải có thái độ đối với bọn cộng sản và tay sai. Và đồng bào nên có ý thức yêu nước, giữ vững tinh thần chống cộng của những chiến sĩ tự do. Ngày xưa Câu Tiễn đã phải nằm gai, nếm mật là để nhắc nhở mình đừng quên hận vong quốc. Đồng bào ta sau khi ra nước ngoài một thời gian đã quên mất quá khứ đau thương, và quên bổn phận phải cứu đồng bào trong nước bằng con đường tranh đãu cho nhân quyền, cho tự do của người ở lại. Họ nghỉ rằng nay họ mang quốc tịch Mỹ, Canada, Úc, Pháp..là cộng sản không làm gì họ khi họ về kinh doanh, làm việc tại Việt Nam.. 

Vì nghĩ như vậy, một số người đã đau khổ. Cộng sản là bọn gian manh, tàn ác. Chúng đã cố gắng phá hoại đời sống và hoạt động của chúng ta. Chúng luôn mở cuộc chiến chống lại chúng ta. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn. Thất bại vụ Trần Trường, chúng quay sang dùng tay họa sĩ Mỹ để quáng cáo tên tội phạm Hồ Chí Minh. Và chúng sẽ dùng nhiều thủ đoạn khác nũa. Đây là quê hương thứ hai của chúng ta. Chúng ta phải bảo vệ ngọn cờ và chính nghĩa quốc gia. Chúng ta phải chống lại sự xâm lăng của cộng sản. Người Mỹ, người Pháp có quyền lợi và bổn phận của họ, còn chúng ta có quyền lợi và bổn phận của chúng ta. Chúng ta là người Việt nam, đã thống khổ vì cộng sản, chúng ta phải chiến đãu với chúng bằng chính trị, bằng tinh thần đaọ lý,luật pháp và sự kiên quyết và khôn ngoan.
 

 9. VỀ NHÓM TALIBAN
                                                                     
 Không phải tất cả người Hồi giáo đều quá khích. Không phải tất cả người Afghanistan là cực đoan, là ủng hộ bin Laden. Ma quỷ đã đưa nhóm quá khích Mulla Mohammad Omar và Osamar bin Laden lên nắm quyền hành tại Afghanistan. Osama bin Laden đã được Mỹ và dân chúng ủng hộ  trong việc chống Liên xô nhưng ngay sau khi thành công, các phe phái ở Afghanistan đã không đi đến thống nhất và cuộc nội chiến tiếp diễn. Thành thử nhóm quá khích Omar và bin Laden chỉ là một thiểu số trong quốc gia Afghanistan nhưng lại đè đầu cưỡi cổ dân chúng Afghanistan.
 Việc cầm quyền cuả nhóm này và những chính sách của họ khiến cho ta suy nghĩ. 

1.Những người đuợc Mỹ ủng hộ đa số  trở thành yêu tinh.
Khi nói đến người Mỹ, chúng ta nên biết rằng có xã hội Mỹ là một xã hội tự do, ai cũng có quan điểm của mình. Trong chính quyền và nhân dân Mỹ chúng ta thấy có nhiều hạng người : phe dân chủ, phe cộng hòa, phe bảo thủ ,phe cấp tiến, phe diều hâu, phe bồ câu. Và chính sách của họ cũng thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh và thời gian. Nước Mỹ có nhiều nhân tài và có nhiều phương tiện nghiên cứu sưu tầm nhưng trải qua thực tế, họ đã có nhiều khuyết điểm. 

 Trước hết, chúng ta nói về quốc tế. Mỹ là nước dân chủ nên thích dân chủ hơn là quân chủ. Vì vậy Mỹ đã ủng hộ phe dân chủ, triệt hạ quân chủ tại Iran, Irac. Kết quả đã đưa Khomini, một tên quá khích và độc tài lên cầm quyền , và chính Khomini sau khi lên cầm quyền đã chống lại Mỹ. 

Việt Nam cũng đã là một minh chứng. Trong đệ nhị thế chiến, và sau đệ nhị thế chiến, Mỹ đã ủng hộ Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh. Tại sao Mỹ không ủng hộ các phe phái quốc gia? Kết quả Hồ Chí Minh đã chống laị Pháp và Mỹ, và áp bức đè nén nhân dân Việt Nam. Và cũng vì thích dân chủ , ghét quân chủ, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm thay thế Bảo Đại. Kết quả Ngô Đình Diệm bắt tay với cộng sản và chống Mỹ. 

Và hiện nay, chính Taliban cũng là một minh chứng cụ thể cho chính sách ngoại giao của Mỹ.
Tại sao lại có hiện tượng này? Khi chọn người, người Á Đông chúng ta nhằm đến tài và đức, cá nhân và gia đình cùng họ hàng, và tổ chức của họ. Phải chặng CIA chỉ nhắm người có khả năng làm việc mà không chú ý đến đức tính  của đối tượng cùng những người liên hệ đến tổ chức của đối tượng? 


Phải chăng ' con người là xa lạ, con người là khó hiểu? Cổ nhân nói tri nhân tri diện bất tri tâm! Máy móc, những phỏng vấn, những nghiên cứu chỉ thấy được bề ngoài mà không thấy được chiều sâu của tâm hồn và sự thay đổi tâm lý con người trong từng sát na! Phải chăng Mỹ đã ban cho họ quá nhiều uy thế và quyền lực khiến cho họ trở thành tham nhũng, quân phiệt, độc tài. Gia đình  Ngô Đình Diệm, gia đình Marcos đã lấy tiền viện trợ Mỹ bỏ túi và lấy tài sản quốc gia làm của riêng. Nhờ tiền bạc, súng ống, phương tiện Mỹ, họ coi dất nước  là của riêng họ .Muốn tỏ ra anh hùng, họ chống lại Mỹ khi họ thấy lông cánh đã vững! Nhất là khi Mỹ làm trái ý họ, họ sẵn sàng bắt tay với kẻ thù để cầu mong tồn tại trong vài  phút giây!  Vậy thì người Mỹ nên xét lại chính sách khi muốn giúp đỡ một người nào, một tập thể  nào. 

2. Chính sách của Taliban.
Đức Giáo hoàng vưà nói một câu rất chí lý: ' Đừng nhân danh chúa mà gây chiến tranh' . Tôn giáo là nguồn gốc thương yêu nhưng cũng là nguồn gốc chiến tranh. Thế giới đã khổ vì lòng tham lam tàn bạo của thực dân đế quốc, phát xít và cộng sản. Và thế giới cũng đã khổ vì chiến tranh tôn giáo đã xảy ra hàng thế kỷ trước đây mà nguốn gốc là chiến tranh giữa Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Phe Taliban muốn nhân danh Allah để hâm nóng lại cuộc thánh chiến đã tàn lụi. 

Đức Phật dạy: Lãy oán trả oán thì oán thì bao giờ hết oán! Chúng ta cũng nên theo đường lối bất bạo động của Gandhi để giải quyét mâu thuẫn trong thế giới hiện nay bằng con đường thương thuyết hòa bình. Việc dùng khủng bố để giết hại dân chúng là không chính đáng. Người Việt Nam chúng ta đã khổ vì nạn khủng bố của Việt cộng trong nửa thế kỷ. Việt cộng không từ bỏ một thủ đoạn nào để giết hại nhân dân, khủng bố nhân dân. Chúng giật mìn phá cầu đường, ném lựu đạn vào đám đông, bắn sẻ vào xe qua lại trên quốc lộ, ám sát viên chức nhà nước.  Việc chúng giết địa chủ, tư sản cũng là một hình thức khủng bố.
Nay phe Taliban gây chết chóc trong vụ 11-9 tại New York là một vụ khủng bố lớn vì chúng nhắm vào dân chúng vô tội. Họ dùng thánh chiến để thỏa tham vọng cá nhân, thỏa thú tính, và đó là một điều dối trá. 


Tôn giáo là hòa bình, là nhân đạo, đừng dùng thanh kiếm, khẩu súng , tiền bạc và hôn nhân để mở rnang nước chúa . Không thể lấy máu để làm lễ vật hiến cho thượng đế vì thượng đế rất nhân từ, không bao giờ uống máu, ăn xưong thịt con người! 


 Xét về chính trị và văn hóa, nhóm Taliban cũng theo chủ trưong quá khích, không có tính người và tình người. Chúng ta chưa được biết hết những bí mât sau bức màn sắt nhưng một vài tin tức tiết lộ đã cho chúng ta biết nhóm Taliban cũng  độc tài và dã man như cộng sản chỉ khác là cộng sản kín đáo hơn. Taliban phá hủy tượng Phật, cộng sản đốt sách, cộng sản không phá chùa, đập tượng Phật nhưng chúng lấy chùa , lấy đền thờ làm cơ quan, làm hợp tác xã, hoặc để mặc thời gian tàn phá, chúng cấm đồng bào đi chùa, đi nhà thờ, bắt bớ các tu sĩ, giết hại các lãnh đạo tôn giáo . Cộng sản cấm mọi thứ ca nhạc, bắt  dân nghe ca nhạc cộng sản trong khi phe Taliban thì cấm nghe radio, cấm mọi hình thức văn nghệ. 


 Về chiến lược, chiến thuật, phe Taliban đã phạm lỗi khi địch, tự cao, tực đắc sau khi chiến thắng Liên Xô. Họ nghĩ họ là anh hùng, là bách chiến bách thắng, không một ai có thể xâm phạm họ. Afghanistan là một nước nhỏ, tại sao lại muốn tranh đãu bằng vũ lực với Mỹ là một nước lớn? Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bách thắng! Lời Tôn tử quả không sai.
Làm sao thắng Mỹ ? Giả sử thắng Mỹ thì có lợi gì cho nước nghèo Afghanistan? Tại sao sau chiến tranh, phe Taliban không nghĩ đến việc phát triển kinh tế , phục hồi đất nuớc đã tan nát vì chiến tranh? Nếu gây nên thánh chiến thì nhân loại sẽ đi về đâu, và Afghanistan có còn tồn tại hay không ?  Hay gì việc lưỡng bại câu thương ? Hay gì việc gây chết chóc cho cả đôi bên! 


 Nói tóm lại Taliban cũng như cộng sản là những hình thức dã man, độc tài, vô nhân đạo. Họ phải lãnh quả báo, và quả báo đã đến với họ trước mắt.
Cuộc chiến tranh tại Afghanistan rồi sẽ tạm thời chấm dứt. Hy vọng chính phủ mới  cầm quyền và đem lại an ninh, trật tự cho dân chúng vùng này. Tuy nhiên thế giới phải giải quyết tận gốc những mâu thuẫn giữa Âu Mỹ và A rập.  Muốn thế giới hòa bình, nhân loại hiện thời phải giải quyết tranh chấp giữa Israel và Palestine. Liên Hiệp quốc đã cố gắng giải quyết nhưng Israel cứ lấn chiếm đất đai, và một số lớn ngườI Do Thái trong chính quyền và chính đảng Mỹ vẫn tích cực ủng hộ mọi mặt cho Israel. Việc này đòi hỏi ngườI Mỹ phải có công tâm và thành thực giải quyết vấn đề. Đối lại, khối A Rập phải thận trọng trong việc tăng giá xăng dầu mặc dầu tư bản Mỹ có nhiều cổ phần trong các công ty dầu hỏa. Việc tăng giá xăng dầu quá mức gây nên kinh tế khủng hoảng và là một đòn đánh vào kinh tế tư bản cũng như kinh tế toàn cầu. Thượng đế đã ban cho họ dầu hỏa để họ làm giàu, nhưng dầu hỏa cũng là mồi đốt cháy họ. Xin cả hai phe thận trọng và tương nhượng để cùng tồn tại trong hòa bình. Xin đừng gây chiến tranh và đừng dùng chiến tranh để giải quyết tranh chấp quốc tế.
 

10.CỘNG SẢN BÁN NƯỚC

Xưa nay, cộng sản thường huênh hoang cho họ là yêu nước, và muốn độc quyền yêu nước. Vì muốn đạt mục đích trên, họ giết hại các đảng phái, tôn giáo và vu khống những người này là phản động, là bán nước, là Viêt gian.. Họ bỏ tù hoặc giết hại những ai làm việc cho Pháp, Nhật. Trong giai đoạn 1945-54, ngay cả những ai mặc áo xanh, áo đỏ cũng bị đem bắn vì họ nghi là làm gián điệp Pháp. Trái lại, họ gọi những người làm tay sai cho chúng bằng những từ ngữ rất kêu như là Thanh niên Cứu quốc, Phụ Nữ Cứu quốc, Phụ Lão Cứu quốc,Trí thức yêu nứớc, Việt kiều yêu nước...Khẩu hiệu của họ là ' Yêu nước là yêu Xã hội chủ nghĩa' là một lối định nghĩa hàm hồ, thiên lệch, ý nói rằng chỉ người cộng sản yệu nước, họặc theo cộng sản là yêu nước, còn không theo cộng sản hay chống cộng sản là bán nước, là phản động, là ngoại lai, là tay sai đế quốc, thực dân.
Thực ra cộng sản không phải là một chủ nghĩa quốc gia. Nó là một quốc tế chủ nghĩa. Khẩu hiệu của Marx Vô sản quốc tế hãy đoàn kết lại đã mở đầu cho một chủ nghĩa quốc tế, mà đuờng lối đuợc tô son trát phấn bằng những hứa hẹn đẹp đẽ: Xóa bỏ bất công bóc lột, Xóa bỏ giai cấp, Xóa bỏ biên cương giữa các quốc gia. Cộng sản Trung quốc kết tội Khổng giáo, mạ lỵ Khổng tử nhưng lại cướp từ ngữ của Khổng tử 'đại đồng thế giới' để dùng cho chính s ách cộng sản bất nhân, bất nghĩa cũng như cộng sản Việt Nam đã cướp từ ngữ Trung hiếu của Nho giáo để phá hoại gia đình, tổ quốc , bắt nhân dân bỏ gia đình, cha mẹ, mù quáng tuân lệnh cộng sản ( trung với đảng, hiếu với dân). Như đã trình bày, cộng sản là một tổ chức quốc tế ( đệ tam quốc tế, đệ tứ quốc tế), và ông Hồ là một nhân viên của tổ chức này. Nói rõ hơn, ông Hồ là tay sai của Liên Bang Xô Viết, sau này ông cũng làm tay sai cho Trung quốc, có nhiệm vụ thực hiện những mệnh lệnh của cộng sản quốc tế. Trong căn bản, nguời cộng sản chỉ tôn thờ cái chủ nghia quốc tế cộng sản, không yêu cái quôc gia của mình, cho nên không họ không thể xưng là yêu nuớc. Vì họ biết dân ta kính trọng những nhà cách mạng, tôn sùng những người ái quốc, cho nên họ đã dùng chữ yêu nước, và gọi kẻ đối lập là bán nước, phản quốc. Cộng sản là một tổ chức quốc tế nhưng chúng biết áp dụng hoàn cảnh của từng nuớc để tranh đãu. Trong trường hợp các nước Á Châu, bị Anh, Pháp đô hộ, chúng dùng ngọn cờ giải phóng dân tộc để làm đòn bẫy, và để thu phục quần chúng. Chuyện đơn giản là thế mà đồng bào ta ít người đuợc biết. Ngay cả những trí thức như Luật gia Nguyễn Mạnh Tường, triết gia Trần Dức Thảo cũng ngu muội theo cộng sản để cuối cùng phải sống trong lao tù tủi nhục. Một số dân ta vẫn tin công sản là yêu nuớc, ông Hồ yêu nước, Mặt trận giải phóng là yêu nước, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát. .. không phải là cộng sản! Dân ta thì chân thật, còn cộng sản thì lưu manh, xảo quyệt, lại tuyên truyền khéo léo cho nên dân ta đã lầm lẫn mà tin cộng sản.
Hồi 1955, dân bắc di cư vào Nam, nhiều người hỏi: - Ngoài bắc độc lập, sao còn vào Nam làm chi?
Kể chuyện đãu tố, nhiều người không tin:
- Làm sao có mấy sào ruộng, vài mẫu ruộng lại bị quy là đia chủ?
( Họ đâu biết chỉ cần là giàu nhất nhì trong làng, dù có một vài sào ruộng cũng bị quy là địa chủ).
Một bà có chồng là trung tá cảnh sát quốc gia, nghe chuyên ngoài bắc phải xếp hàng mua rau muống, đã nói rằng:
- Rau muống là vật tầm thướng, làm gì mà phải xếp hàng để mua?
Chúng ta nói thực mà đồng bào ta lại bảo ta nói láo, không ai tin. Tai của họ, tim của họ chỉ nghe theo những lời đường mật phỉnh phờ của cộng sản. Những chuyện rất thực như thế mà phải đến 1975, dân Nam mới hiểu, nhưng hiểu thì đã muộn!
Đấy là những việc có thực mà đồng bào ta còn chưa hiểu, vẫn mê muội tin cộng sản, huống hồ những việc bí mật. Thật là một sự khổ tâm cho những người quốc gia chân chính khi thấy một số đồng bào đi vào con dường sai lầm mà đành bó tay như các tiền nhân ta đã than thở: Hết lời năn nỉ chẳng ai tin!
Trong mối bang giao quốc tế, nước ta là một nuớc nhỏ cho nên phải chịu thiệt thòi. Nhưng thân phận cộng sản lại càng bé bỏng hơn trước các mẫu quốc. Cộng sản thường dùng những từ ngữ văn hoa để che đậy những thực tế phủ phàng như là tình đồng chí anh em, bổn phận quốc tế....Trong khối cộng sản, Liên Xô không phải là đàn anh mà là ông chủ lớn, một ông chủ độc tài, tàn bạo, là truyền thống của Nga hoàng thời trước của đế quốc Nga. Sau này, Trung quốc vươn lên, ỷ mình có cả tỷ dân, Trung quốc quyết tranh hùng cùng Liên Xô. Việt Nam thế yếu, lại còn phải nhờ cậy Liên Xô, Trung quốc, cho nên phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Nhìn những anh chàng thông dịch viên cộng sản Việt Nam xách cặp khúm núm chạy theo sau các cố vấn Liên Xô là ta đã thấy mối tương quan bất bình đảng giữa chủ và nô. Chúng ta cũng phải nhờ cậy Mỹ để chống lại Liên Xô, Trung quốc, chúng ta cũng có các thông dịch viên đi theo cố vấn Mỹ, nhưng cả hai đi ngang hàng, trò chuyện nói cười, rất là bình đẳng. Suy nghĩ cao nữa, chúng ta thấy mối tương quan giữa hai nước trong khối cộng sản là tương quan giữa chủ tàn bạo và nô khiếp nhược. Vì Nga sô tàn bạo, hống hách, cho nên Trung cộng bất phục, sẵn sàng dùng quân sự để chống lại đế quốc Xô Viết. Và Liên Xô đã tỏ ra là một đế quốc hung hãn khi xua quân chiếm Đông Âu! Không riêng gì Liên Xô, mà Trung quốc, Việt Nam cũng thế. Cộng sản là một bè lũ đế quốc, chúng dùng sức mạnh quân sự để xâm lăng các nuớc bé nhỏ. Trung quốc chiếm Tây Tạng, Việt Nam chiếm Miên Lào là những minh chứng cụ thể cho cái chủ nghĩa đại đồng giả dối, xảo quyệt của chúng. Đối với Trung quốc, bọn cộng sản Việt Nam cũng khúm núm, quỳ lụy như thế. Ông bạn già Nguyễn Hữu Lương, dạy tại đại học Văn khoa Sagon, quê Thanh Hóa, cho biết rằng trước 1954, ông là một sĩ quan trong hàng ngũ quân đội cộng sản, nhưng vì thấy bọn cộng sản khúm núm quỳ lạy Trung quốc, coi cố vấn Trung quốc như là những tên thái thú, cho nên ông chán nản bỏ về thành.
Bản chất của thế giới cộng sản là cá lớn nuốt cá bé, không hề có chút tình đồng chí anh em , so với tư bản e còn dã man, độc ác hơn. Bản chất độc tài, tham nhũng là nâng trên, đạp dưới. Đối vói nuớc lớn, cộng sản ra sức vuốt ve, bợ đỡ, tâng bốc, sẵn sàng làm mọi việc để vừa lòng chủ. Còn đối với nưóc nhỏ thì dùng mọi thủ đoạn để cướp bóc, xâm lược. Thành thử chúng ta không ngạc nhiên khi thấy cộng sản Việt Nam ra sức xâm lược Lào Miên, bóc lột nhân dân Việt Nam nhưng lại luôn luôn làm mọi việc đê hèn để phục vụ thiên triều. Có nhiều việc còn ở trong vòng bí mật, nhưng rõ rêt là cộng sản đã nhiều lần bán nước Việt Nam:
1. Hoàng Sa.
Năm 1973, Trung quốc tấn công quần đảo Hoàng Sa ( Trung quốc gọi là Tây Sa), hải quân Việt Nam cộng hòa phản ứng mạnh nhưng quân Trung quốc đông hơn, tàu bè nhiều hơn, vũ khí tối tân hơn nên quân ta phải rút lui. Vả lại, tình hình Việt Nam đang lúc gây cấn, cho nên quân ta chưa tính việc tái chiếm Hoàng sa. Trong lúc đó thi Phạm Văn Đồng lên tiếng công nhận quần đảo Hoàng sa là của Trung quốc. Việc này, báo chí VNCH và báo chí hải ngoại hện nay đã đề cập nhiều lần, chứng minh Hoàng Sa là của Việt nam chứ không phải Trung quốc. Việc Phạm Văn Đồng lên tiếng công nhận Hoàng Sa là của Trung quốc, là một hành động bán nuớc, dâng một phần đất của tổ quốc cho Trung quốc cộng sản.
2. Cộng sản bán đất cho tư bản.
Chính sách mở cửa đã làm giàu cho cộng sản.
- Cộng sản lấy tiền thuế thương mại, thuế dất đai
- Cộng sản thu được tiền ký quỹ của tư bản (Mỗi hãng xưởng ngoại quốc phải đưa vào Ngân HàngViệt Nam tốí thiểu vài chục ngàn hay hàng trăm ngàn đô la.)
- Cộng sản mặc sức tham nhũng, hối lộ.
Nhưng cái lợi lớn nhất là cộng sản có cơ hội bán đất đai bỏ túi. Ngày nay, cộng sản công nhận tư hữu nhưng ruộng đất vẫn thuộc nhà nước cộng sản. Do đó mà cộng sản mặc tình thao túng. Một số đất đai bị cộng sản chiếm làm nhà, xây dựng biệt thự, Một số chúng đem bán cho nước ngoài. Nhân dân các nơi trước đây như Thái Bình đã vùng lên chống cộng sản vì trong khi nhân dân đói khổ, không cơm ăa, áo mặc, không có rưộng cày, bọn cán bộ cướp đất nông dân đem bán cho nước ngoài. Đây chính là một hành động bán nước, của bè lũ cộng sản đã bị nhân dân ta chống cự mãnh liệt.
3. Biên giới phía bắc Tổ quốc.
Dưới thời Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư đảng, Trần Đức Lương làm chủ tịch nhà nước, Nông Đức Mạnh làm chủ tịch quốc hội, Phan văn Khải làm thủ tướng, bọn chúng đã ký hai văn kiện bán nước cho Trung quốc.
Hiệp định thứ nhất gọi là 'Hiệp định về biên giới trên đất liền Việt Nam, Trung quốc' ký ngày 30-12-1999. Theo hiệp định này, Cộng sản Việt Nam nhượng cho Trung quốc biên giớI phía bắc tổ quốc, dài 789 cây số vuông, thuôc hai tỉnh Cao Bằng và Lạng sơn, trong đó Nam quan đã thuộc về Trung quốc.
Hiệp định thứ hai là hiệp định phân định lãnh hải Việt Nam, Trung quốc. Ký ngày 25-12-2000.
Hai hiệp định bán nuớc này làm cho ta mất ải Nam quan, một di tích lịch sử của cha ông chúng ta, mất đất đai mà tổ tiên ta đã tốn bao xương máu mới giữ nguyên vẹn lãnh thổ, và mất phần lớn quyền lợi vùng biển Bắc Việt.
Ai chịu trách nhiệm này? Nhiều người qui trách cho tổng bí thư Lê Khả Phiêu vì trong hệ thống cộng sản, tổng bí thư cao nhất. Nhưng Lê Khả Phiêu lại đỗ tội cho Nguyễn Mạnh Cầm, bô trưởng ngoại giao. Nhiều người lại cho rằng Lê Khả Phiêu bí mât ký với Trung quốc, không cho quốc hội biết, kết quả Lê Khả Phiêu bị mất chức tổng bí thư vì tội bán nước cho Trung quốc.
Vì lý do gì cộng sản ký các hiệp định trên?
Như trên đã trình bày, cộng sản là chủ nghĩa quốc tế, họ không chú ý đến quyền lợi quốc gia. Hơn nữa, bản chất cộng s ản là thực dân, đế quốc mặc dù chúng hô hào chống thực dân đế quốc, giải phóng dân tộc, xóa bỏ biên cương, xóa bất công, bóc lột. Vả lại, cộng sản là một bọn lưu manh xão quyệt, việc gì cũng có thể làm, miễn là có lợi cho họ. Họ bán nuớc vì những lý do sau:
1.Trong công cuộc chống Pháp Mỹ, họ đã muợn tiền bạc, vũ khí, lương thực, và cố vấn Trung quốc, nay đáo hạn phải trả nợ, họ đem tổ quốc bán cho Trung quốc để trừ nợ. Như vậy chúng ta thấy không có tình nghĩa anh em quốc tế vô sản, chỉ là sự trao đổi quyền lợi, mà trong đó cá lớn nuốt cá bé. Mà Trung quốc là một chủ nợ cho vay nặng lãi, nay cộng sản đàn em phải bán nước để lấy tiền, một phần thì kháng chiến, một phần bỏ túi. Chúng nó bán nước lấy tiền, nhưng nhân dân ta phải trả nợ cho chúng. Căm hận thay!
2. Lê Khả Phiêu và đồng bọn muốn chức vị tồn tại lâu dài, họặc sau này có chỗ nương thân cho nên đã bán nước, đó là hành động bán nuớc cầu vinh của bè lũ cộng sản.
3. Trong vị thế Việt nam hiện nay, Trung quốc là chỗ dựa cuối cùng của Cộng sản Việt Nam. Nay chúng đi dây giữa Trung Quốc và Mỹ. Một mật chúng bám Trung quốc để nương tựa , tăng cường uy thế chính trị, một mặt chúng ve vãn Mỹ để cầu lợi ich kinh tế. Nay chúng phải quỳ lạy Trung quốc để cầu lợi riêng, bất cần danh dự quốc gia, quyền lợi tổ quốc.

Nay đã rõ Cộng sản Việt Nam là một lũ bán nước. Hồ Chí Minh ký hiệp dịnh với Pháp năm 1946 để mời Pháp trở lại Việt Nam. Phạm Văn Đồng ký văn kiện công nhận Hoàng Sa thuộc lãnh thổ Trung quốc. Và nay Lê Khả Phiêu ký hai văn kiện bán nước.Có thể Lê Khả Phiêu đã bí mật ký hiệp định bán nước này. Cũng có thể Lê Khả Phiêu đã được sự chấp thuận của bộ chính trị và một số tai to mặt lớn. Nhưng nay trước sự chống đối của trong và ngoài nước, chúng đổ tội cho Lê Khả Phiêu, nhằm rửa tay, chạy tội cho chúng cũng như chạy tội cho đảng cộng sản Việt Nam. Dù tội của ai, đảng cộng sản cũng không thoát tội bán nuớc. Mất của cải, chúng ta kiếm lại được, nhưng mất đất đai thì khó lòng mà lấy lại. Chỉ có con đường đãu tranh quân sự mới lấy lại đất đai. Nhưng nước ta nhỏ, làm sao tranh đãu với Trung quốc? Đây là một đại họa do cộng sản Việt Nam gây ra, lịch sử muôn đời sẽ kết tội chúng như đã kết tội Mạc Đang Dung, Hồ Quý Ly.













11. VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT

Chủ nghĩa cộng sản tiêu diệt quyền tư hữu, bắt mọi người làm nô lệ cho đảng cộng sản. Dưới  chế độ quân chủ và tư bản, nhân dân có nhiều chủ nhân để lựa chọn, còn trong chế độ CS, họ chỉ có một chủ nhân duy nhất,một chủ nhân độc ác,gian manh là CS.
Trong chế độ CS, mọi tài sản thuộc quyền nhà nước. Khoảng 1985, vì nhu cầu mở cửa giao thương với ngoại quốc,CS cho nhân dân có quyền tư hữu nhưng ruộng đất thì vẫn thuộc quyền nhà nước.Chúng ta có quyền ở trong ngôi nhà, có quyền mua bán nhà nhưng đất đai vẫn thuộc quyền nhà nước. Vì tình hình lịch sử khác nhau, nông thôn miền bắc đã được cải cách triệt để theo đường lối XHCN, còn nông thôn miền nam thì còn tưong đối rộng rãi.Vấn đề nhà cửa ruộng đất ở các thành thị  thì khác với nông thôn, và ngoài bắc cũng khác trong nam.Nói về thời gian thì trước 1975 khác với sau 1975.
I.Nông thôn.
Sau cải cách ruộng đất (1955), tất cả ruộng đất đều thuộc quyền nhà nước.
Nông dân ai ở nhà nấy, trừ địa chủ bị tịch thu nhà, nhưng cũng có địa phương dồn dân lên núi cao,đồi trọc mà ở. Người ta mở rộng diện tích canh tác bằng cách tập trung mồ mả, chặt cây cối. Người ta cần lúa gạo cho nên phá bỏ các loại hoa,cây ăn trái, cây thuốc..
Một số nông dân phải đi kinh tế mới. Những người được ở lại trở thành ngoan ngoản nếu không muốn  tống đến nơi ma thiêng nước độc.
Nếu ai có vườn tược nhỏ thì vẫn có thể giữ làm của riêng. Nông dân cưới vợ, muốn làm nhà phải xin đất HTX. Thỉnh thoảng có người được cấp phát nhưng đa số là phải đi kinh tế mới, vì HTX bảo rằng không còn đất canh tác. Thành thử những đôi tân hôn phải ở chung với cha mẹ, anh em nếu không muốn đi kinh tế mới. Sau 1975, HTX toàn quốc phá sản, chuyển qua khoán. Nền kinh tế lụn bại, đâu đâu cũng cần tiền. Tiền trở nên cần thiết trong mọi vấn đề. Đi học , vào nhà thương là truyền thống miễn phí nhưng nay cũng phải trả tiền.Việc làm nhà cửa trở nên dễ dãi hơn. Người dân không được cấp phát đất mà phải bỏ tiền mua. Ủy ban có quyền bán ruộng đất. Bán riết, không còn đất canh tác.
Việc cấp phát hoặc bán đất đai là do quyền  cộng sản địa phương quyết định, do đó
mà có vấn đề tham nhũng,bè cánh. Những cán lớn thì có đất tốt, nhà cao cửa rộng. Họ lại có quyền bán đất đai để 'liên hoan' và bỏ túi.Bộ đội phục viên, cán bộ hưu trí không phải là nông dân nên không được cấp phát ruộng đất, nhà cửa. Khi về quê,họ phải ở chung với cha mẹ, hoặc phải ở lại nơi cơ quan cũ. Dân số ngày càng gia tăng. Thời Pháp thuộc, dân ta 25 triệu. Sau 1975 là 60 triệu, và nay trên 70 triệu. Trong khoảng 1960, nếu trung bình mỗi nông dân miền Trung được hưởng 6 thước đất, thì nay mỗi người chỉ được một, hai thước. Sau năm hai ngàn, có lẽ mười người mới được một thước đất. Có nhiều nơi không còn đất làm nhà, đất canh tác. Chính sách ruộng đất bị phá sản vì nạn nhân mãn.
Để di dân, cộng sản đã đem họ đi kinh tế mới. Khoảng 1980, dân miền bắc đã tự động  hoặc theo chính sách đảng vào Nam lập kinh tế mới, và sang Kampuchia lập nghiệp. Những người miền bắc thích vào nam vì đất miền nam rộng rãi, phì nhiêu và chưa bị đảng quản lý chặt chẽ như ở bắc. Nhiều người vào Đác Lăc, Ban Mê Thuột trở thành giàu, họ kéo bà con,họ hàng cùng vào.
Nhân dân Việt Nam không ưa đi kinh tế mới vì họ là thành phần đảng úy kị nên bị bứng ra khỏi quê cha đất tổ. Trước đây, dân ta vẫn bỏ làng đi lập nghiệp phương xa nhưng xưa và nay khác nhau. Xưa ta đi là tự nguyện, nay bị ép buộc. Xưa ta đi nhưng có ngày ta trở về áo gấm xênh xang , còn nay bị đưa đi kinh tế mới, bị cắt hộ khẩu,  không được trở lại quê cũ. Do đó mà cán bộ ra đi là đi luôn, không trở về làng cũ như các vị quan lại ngày xưa, lá rụng về cội, bao giờ cũng thương mến nơi chôn nhau cắt rún!
CS rất thâm độc. Bao giờ họ cũng nghĩ đến vàng, bạc. Họ đuổi địa chủ, phú nông ra khỏi nhà,khỏi đất cũ là vì họ muốn chiếm nhà cửa người ta, và muốn đào xới, tìm kiếm vàng bạc chôn giấu trong nhà,trong đất. Người đi kinh tế mới không hết lòng canh tác vì thấy mình bị đày ải nơi xa lạ,hoang vu. Và nhất là biết rõ CS không để mình yên thân, họ lại sẽ đuổi mình đi nơi khác nữa, lại là một nơi xa xăm, ma thiêng nước độc.Và suốt đời cứ như thế mãi. Đất họ vừa khai thác sẽ để cho một lớp người khác mà lý lịch tương đối tốt hơn họ đến ở và canh tác. CS đuổi họ vì muốn hành hạ họ. CS coi họ là thân tù đày, cứ luôn luôn chuyển trại. CS không muốn họ 'định cư' vì ngại họ quen thuôc địa phương, sẽ kết thành lực lượng chống đối. Và họ lại muốn chiếm đoạt vàng bạc chôn cất trong nhà,trong vườn...
Tại miền Nam, cộng sản đã không phát động cuộc cải cách ruộng đất như ở ngoài bắc.
Phải chăng, trước 1975, chính sách 'Người Cày Có Ruộng' là một đường lối chuẩn bị sẵn để chơi CS ? CS không dám tước đoạt tư hữu của người  nông dân nghèo ,một quà tặng của VNCH cho dân nghèo trước khi chế độ sụp đổ !
Nhưng cộng sản vẫn ra tay bóc lột và hạn chế tư hữu bằng chính sách HTX, và thuế.
Khoảng 1980, CS bắt mọi ngành, mọi nghề bỏ lối làm ăn cá thể, tiến lên HTX. Ai bất tuân thì bị bắt lên ủy ban, hoặc bị tịch thu đồ nghề.
Nông dân miền nam  bất tuân. CS bắt họ đóng thuế cây ăn trái quá cao thì họ chặt không thương tiếc những cây xoài,sầu riêng, vú sữa, măng cụt cho dù đây là những cây quý, phải trồng rất lâu mới có trái. CS bắt họ đóng thuế Nông nghiệp quá cao thì họ bỏ hoang ruộng đất, chỉ làm vài công đủ xài. Kết quả nền kinh tế trong nam xuống dốc, CS lại để cho dân tự do canh tác, nới tay thuế má thì nông nghiệp miền nam lại phát triển, gạo đủ ăn trong nước và xuất cảng ra nước ngoài.
Nhưng những bất công và ngu dốt vẫn tiếp diễn. Đất Củ Chi phèn xưa nay trồng lác
thì CS lại bắt trồng lúa trong khi đất Thủ Đức xưa nay trồng lúa lại bắt trồng lác...
Trên những trục giao thông lớn, khắp nơi đều mọc những ngôi nhà mới là nhà của cán bộ hồi kết. Và lúc này, cán bộ đảng mặc sức thao túng.Họ lấy đất  tư nhân đem cấp phát  cho các đồng chí anh em .Nhân dân khắp nơi phẫn nộ.Thư khiếu nại  hàng ngàn,hàng vạn gửi khắp nơi nhưng không được giải quyết thỏa đáng. Do đó trong khoảng 1990, dân chúng miền Nam đã lên Sài gòn biểu tình về vấn đề ruộng đất.Họbiểu tình có lãnh đạo vì họ vốn là người của đảng, xưa nay theo đảng,nay bất bình lên Saigon biểu tình. Số người đông hàng trăm, hàng ngàn, liên tiếp hàng tuần,hàng tháng. Sau đó chúng ta không biết kết quả như thế nào.
Khoảng 1990, CS mỏ rộng giao thương với nước ngoài, CS đã đem đất đai bán cho ngoại quốc để lấy tiền bỏ túi.Nếu trước đây, Trung quốc đã đem đất đai nhượng cho ngoại quốc là do áp lực của ngoại quốc, nay VC lại tình nguyện bán cho ngoại quốc.
Lịch sử CSVN đã trải qua ba giai đoạn bán dân hại nước:
            a.Bán sản phẩm:
CSVN đã để dân đói khát ,đem  gạo,cá, tôm, thịt...xuất khẩu qua Liên Sô để trả nợ.
b.Bán dân:
Thời Pháp thuộc, dân ta phải đi mộ phu ở Tân Thế giới. Đó là do dân tự nguyện và Pháp đứng ra tổ chức. Nay đảng CS VN đem dân chúng bán sức lao động cho nước ngoài để trả nợ. Cộng sản thường lên  án bọn ngồi không thủ lợi, bọn bóc lột nhưng chính đảng CS là ngồi không thủ lợi, ăn chia theo tứ lục, dân lao động  hưởng 40% lương bổng trong khi đảng hưởng 60 %.
c.Bán nước:
Sau khi Đông Âu sụp đổ, Liên Sô không mua hàng hóa VN, và cũng do Trung cộng cưóp hết thị trường, CSVN còn một con đường duy nhất là bán nứơc. Họ bán đất cho ngoại quốc, lấy tiền chia chác nhau, ông lớn bỏ tiền ra ngân hàng ngoại quốc, ông nhỏ thì ăn nhậu, tiêu xài phung phí trong khi đó đời sống dân chúng, đặc biệt là nông dân rất cực khổ. Tại miền nam, nhiều nơi dân chúng được bồi thường nhưng thực ra là CS ăn gần hết, chỉ chừa ra chút đỉnh cho dân chúng. Nay thì nông dân Thái Bình, Thọ Đà, Xuân Lộc.. . vùng lên tranh đãu .Họ bất mãn vì trong bao lâu nông dân sống trong nghèo khổ, đói rét trong khi CS sống xa hoa,trụy lạc. Với diện tích canh tác trong bấy lâu, dân ta đã nghèo đói, nay diện tích đất thu hẹp lại, làm sao nông dân có thể tồn tại ! Việc bán hoặc cho thuê đất đai chỉ làm giàu , làm mạnh cho những tên cộng sản ác ôn và làm đời sống nông dân thêm cơ cực.

II.Thành thị
1.Miền Bắc.
Trước 1954,  còn hoạt động trong rừng núi, và nông thôn, CS lấy đình chùa  và nhà dân làm cơ quan và nhà ở. Sau khi tiếp thu Hà Nội và các thành phố miền Bắc, CS đuổi chủ nhà đi kinh tế mới, bỏ tù dân chúng, và đánh thuế cao. Dân chúng không chịu nổi, phải dâng nhà cho đảng. Chủ nhà được ở một xó nào đó, hoặc được chuyển đi nơi khác. Thế là đảng làm chủ nhà cửa mà dân chúng mất nhà cửa. Cán bộ và công nhân mới được ở trong thành phố. Năm sáu gia đình cán bộ được cấp một căn nhà chật hẹp. Mỗi hộ ( gia đình) trung cấp thường được cấp khoảng ba,bốn mét vuông, nghĩa là đủ kê một cái giường, một cái bàn. Hộ này cách hộ kia một tấm màn. Trẻ con không chỗ chơi phải ra đường. Nồi niêu song chảo để dưới gậm giuờng. Vài hộ còn nuôi heo dưới gậm giường !


Vì vậy, nhiều cán bộ và dân chúng ngoài bắc, năm 1975 thấy trong nam nhà nào cũng ở riêng rẻ, có bàn ghế, xa lông..thì cho là ta làm lớn trong chính phủ miền nam,hoặc ta là một người có tiền rừng bạc bể!
Sau 30 tháng 4- 1975, CS tịch thu nhà của tư sản và nhà của những người bỏ nước ra đi trong đó có nhà cửa của người vượt biên. Trong một buổi sáng ngày 1-5-75, có năm sáu đoàn người đến giành giựt một căn nhà,và họ cãi nhau ầm ĩ. Sau đó chúng ta không rõ họ chia chác thế nào.
Đường lối của họ là chỉ có cán bộ và công nhân giai cấp tiền phong là được ở trong thành phố. Họ có chương trình đưa dân ra khỏi thành phố từng bước một tùy theo phân loại của họ:
(a).ngụy quân,ngụy quyền:
Khởi đầu, các sĩ quan , các công chức cao cấp VNCH bị bắt giam, sau đó họ và vợ con sẽ sống tại một vùng kinh tế mới. Tiếp theo là binh sĩ và công chức trung cấp trở xuống.
(b). tư sản   (c).di cư  (d).    *tôn giáo.


Theo dự tính ban đầu, Sàigon và các thành phố là của đảng viên CS, dân chúng sẽ bị đẩy ra khỏi thành phố. Khmer đỏ và VC đều có chương trình đuổi dân ra khỏi thành phố chỉ là mau chậm khác nhau. Nếu Trung quốc không đánh miền bắc, nếu Khmer đỏ không tấn công các khu kinh tế mới của VN, thì chương trình kinh tế mới sẽ bành trướng và dân Việt Nam có thể sang lập nghiệp tại Thái-lan, Singapore!


Trong khoảng 1975 đến 1985, dân chúng miền nam có nhà rộng rãi,sợ nhà nước tịch thu  nên đã kêu anh em,bà con đến ở chung. Không ai  sửa nhà cửa vì không có vật liệu xây cất, sợ đảng tịch thu nhà, và sợ chính mình cũng bỏ nhà ra đi vượt biên hay đi kinh tế mới. Nhà nước kêu gọi dân chúng đăng ký nhà cửa ,và đã cho ngườI đến đo đạc. Họ định làm như ngoài bắc, bắt dân đóng thuế nhà, ai không đóng nổi,nhà nước sẽ tịch thu. Có lẽ nhà Saigon nhiều, cán bộ đã ở đủ cho nên họ không cần phải áp dụng biện pháp đánh thuế tịch thu nhà. 

Khoảng 1980, CS miền nam thi hành chính sách hữu sản hóa cho cán bộ, gọi là 'hóa giá'. Đây là một hình thức sang đoạt tài sản quốc gia, chúng chia nhau dưới hình thức bán tượng trưng  các công ốc,các nhà tư sản cho cán bộ. Có tên một mình hai ba nhà. Có tên vợ chồng, con cái năm sáu nhà. Làm giấy tờ xong là chúng bán ngay và mua nhà khác để phi tang phi tích bởi vì chúng sợ trong tương lai sẽ bị đòi lại.
Khoảng 1990, cộng sản chủ trương mở cửa. Ngoại quốc thuê các biệt thự CS làm nhà ở và văn phòng. Thế là đảng viên ta mỗi tháng ung dung có từ một đến hai ba ngàn đô la tiền nhà mỗi tháng!
Ban đầu muốn ve vản ngoại quốc,CS tỏ ra dễ dãi, nhưng sau thấy ăn ngon, họ làm tới. Năm 1995,  CS ban hành nghị quyết  về quyền sử dụng đất. Nghị quyết này là con dao cắt cổ nhân dân lẫn tư bản ngoại quốc. Nói chung, nghị quyết này qui định


rằng ruộng đất là tài sản nhà nước, ai muốn sửa nhà, bán nhà,làm nhà đêu phải  bỏ tiền thuê  đất nhà nước.Tiền sử dụng đất này tương đương tiền mua đất. Nghĩa là trước đây ta mua một đám đất giá 50 cây vàng, bây giờ phải bỏ thêm 50 hay ba ,bốn mươi cây vàng cho nhà nước để sử dụng đất. Quyền sử dụng này không nói rõ bao lâu. Có thể được vài năm, nhà nước kêu là hết hạn, ta phải chồng thêm tiền mới. Nay không rõ quyết định này thay đổi chưa, chứ trước đây cán bộ và nhân đều kêu trời không thấu về quyết định này.Muốn mua nhà, bán nhà,sửa nhà, ta phải qua tay ban nhà đất quận,huyện.Lại phải thủ tục đầu tiên,lại sách nhiễu,bóc lột đủ trò! 


Những người xuất cảnh dễ dàng mất nhà như chơi vì nhà cửa không đủ giấy tờ theo như đòi hỏi của CS. Trong khoảng 1975, CS ra qui định chỉ có cán bộ mới có quyền mua nhà. Nhiều người muốn mua nhà, nhờ anh em  cán bộ người bắc đứng tên.Trả tiền xong, dọn nhà, ông anh em cán bộ không cho vào nhà,ông bảo nhà này của ông, ông có giấy tờ hợp pháp! Nhiều đồng bào xuất cảnh không được phép bán nhà hoặc bán không được nhà, nhờ anh em đứng tên , vài năm sau cần tiền, nhờ người anh em bán hộ. Người anh em đòi phải chia đôi, hoặc nói thẳng nhà này thuộc chủ quyền của họ... Ngày nay,thành phố nào cũng đòi hỏi chỉnh trang. Ai cũng lo lắng không biết mình có bị đuổi nhà hay không . Những tên CS biết rõ nơi nào mở đường lớn, chúng hù dọa dân chúng và bỏ tiền ra mua rẻ nhà nơi đây.Thế là bỗng chốc, nhà trong hẽm trở thành nhà ở gần đại lộ! Nhà năm ba cây, sửa sang trở thành nhà trăm cây!
Nói tóm lại, người dân nông thôn cũng như thành thị bị cộng sản bóc lột tận xương tủy. CS làm hết cách này đến cách khác để gây đau khổ cho nhân dân. Chỉ có khi nào hết CS, dân ta mới hết khổ.    
                                                                                               
 

12.  BA GIAI ĐOẠN KINH TẾ CÁ THỂ CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bài này nhắm vào đối tượng là cán bộ trung cấp và hạ cấp, còn cán bộ cao cấp thì không dám đụng đến, vì họ có sẵn kho tàng quốc gia, và của cải nhân dân, xài hoài không hết, cần gì phải làm kinh tế cá thể cho mệt!
Đừng tưởng rằng cán bộ đảng là không có óc tư hữu. Họ ra sức đánh tư sản, đánh địa chủ không phải là diệt tư hữu mà là vì muốn lấy tài sản cuả người làm của mình.
Chính sách quốc doanh, hợp tác xã là bắt mọi người trong nước làm nô lệ cho cộng sản. Đồng thời họ cũng bắt cán bộ từ trung cấp trở xuống làm tay sai cho họ. Do đó mà bọn cán bộ này ngoài đồng lương chết đói, chỉ có ba đường, một là trộm cắp của công, hai là tham nhũng, hối lộ, và ba là ra sức lao động để kiếm sống.
Lao động kiếm sống này không thuộc lãnh đạo của đảng, không thuôc quốc doanh hay HTX, cho nên gọi là kinh tế cá thể. Có nhiều cách làm cá thể, nhưng phổ biến là nuôi heo. Cho nên ba giai đoạn trong lịch sử đảng cộng sản làm kinh tế cá thể là nuôi heo, nuôi heo che mắt và không cần nuôi heo.

I. Nuôi heo kiếm lời ( 1954-1980):
Nuôi heo gia đình là truyền thống của nhân dân ta. Trung Nam Bắc đều nuôi heo. Đây là một phương tiện làm kinh tế. Một nhà it nhất là nuôi một con heo. Chỉ có nhà bần nông mới không nuôi heo vì nuôi heo cũng tốn kém, phải làm chuồng trại, phải có tấm cám cho heo ăn. Nuôi heo để bán lấy lời, cũng như nuôi gà, nuôi vịt. Nhà giàu thì nuôi gà vịt để cúng giỗ và thết khách. Nhà giàu cũng nuôi heo để thết họ hàng làng xóm trong đám giỗ, đám khao. Nhà nông Viêt Nam tại miền Trung cho rằng nuôi không lời nhưng họ phải nuôi heo để lấy phân bón ruộng. Nhưng tại miền Nam nuôi heo chính là làm kinh tế.
Miền Nam nuôi heo khác hơn miền Trung và miền Bắc. Trung Bắc nuôi heo bằng cám, rau, bèo. Heo ngoài Trung Bắc giống nhỏ, chỉ được vài chục ký nhưng dễ nuôi, ít bị bệnh tật. Trong Nam nuôi heo giống tốt, con heo rất to khoảng trên một tạ thịt,, có nơi thả rong, và nuôi rất công phu như là cho heo ăn cơm, thêm vài ít thuốc bổ. Họ không lấy phân, cho nên chuồng rất sạch, chủ nhân lại luôn luôn tắm rửa cho heo. Có nhà sợ heo bị muỗI cắn, đêm giăng mùng cho heo ngủ. Heo trong Nam sướng hơn người miền Trung và miền rừng núi , nhất là dân miền bắc xã hội chủ nghĩa trước 1975, vì dân nơi này quanh năm ăn độn cơm với khoai, hay bắp, đôi khi không có cơm, mà chỉ toàn là khoai , bắp, hay sắn như là mấy người đi cải tạo.
Trước 1975, cuôc sống thành thị rất hạnh phúc. Thức ăn thừa thải cho nên người nuôi heo cứ đến tiệm ăn lấy đồ dư là đủ nuôi đàn heo. Sau 1975, tình hình kinh tế và chính trị khác đi, người nuôi heo muời người hết tám bỏ nghề vì không đủ tiền mua cám cho heo. Lúc này người không có gạo mà ăn thì tiền đâu nuôi heo! Con ngườI XHCN một ngày một gầy quắt đi là vì cái vòng luẩn quẩn đó. Gạo và thịt hay bánh mì và thịt đi chung với nhau như cặp tình nhân tha thiết. Có gạo thì có thịt, không gạo thì không thịt. Thành thử con người tư bản ngày càng béo, còn ngườI XHCN (trừ mấy vị lãnh đạo), ngày một teo! Lại nữa có gạo thì có cám, không gạo lấy gì có cám mà nuôi heo, cho nên dưới chế đ XHCN, nghề nuôi heo càng ngày càng đi xuống.
Không nuôi heo thì thịt heo ngày càng đắt, cho nên ai nuôi được heo thì lại càng lời! Do đó, đa số cán bộ đảng đã nuôi heo. Dẫu sao, họ là cán bộ cho nên cũng dễ xoay xở hơn là dân, cho nên việc nuôi heo không khó. Ngày đi làm, chiều về mua bó rau muống, phần ngon tươi thì người ăn, phần già xấu thì cho heo ăn. Nuôi heo là một hình thức bỏ ống. Cán bộ cấp dưỡng ( anh nuôi, chị nuôi) trong cơ quan, trong trại tù, trong bệnh viện hay trong các trường đại học, trường mẫu giáo thì nuôi heo đại lợi vì họ cố ý nấu cơm hoặc cháy hoặc sống, không ai ăn được, thế là họ mang cơm và thức ăn về nuôi heo! Nhân dân cũng có thể nuôi heo tốt nếu biết móc ngoặc với các anh nuôi chị nuôi của chế độ ! Có nhiều sáng kiến trong việc nuôi heo. Một cán bộ khoa học của đảng được trở thành anh hùng lao động vì có công nghiên cứu mới, lấy phân heo, phân bò nuôi trâu bò và nuôi heo! Nghiên cứu của anh được đăng lên báo và đảng hết lời ca tụng ! ( Không biết anh này là ai, chắc là con cháu Phạm Văn Đồng hay Lê Duẩn, Trường Chinh? ) Công cuộc nghiên cứu bèo hoa dâu của ủy ban khoa học đảng đã công nhận bèo hoa dâu nuôi heo rất tốt, bón phân cũng tốt. Chỉ có cái anh chàng Ngô Gia Định, ( hồi 75 còn trẻ, nay đã già rồi), tiến sĩ thực vật, học trò của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, dạy học tại đại học Cần Thơ dám nói bèo hoa dâu là cỏ dại! Anh bị cán bộ đảng cự lại: Có người dại chứ không có cỏ dại! Trong khi các vị giáo sư ngụy và giáo sư nằm vùng như Trần Kim Thạch khom lưng tán tụng thì đuợc ở lại, riêng anh bị cho ra khỏi đại học vì dám nói trái với lời của đảng . Cũng có sáng kiến lấy thai nhi và nhau đem về nuôi heo vì trong bệnh viện lúc nào cũng có nhiều phụ nữ nạo thai, phá thai theo chủ trương của đảng. Chính các lãnh tụ đảng cũng đã dùng thai nhi, hoặc nhau để bồi dưỡng cho nên tên nào cũng sống lâu và hiện hình ác quỷ! Có truyện kể rằng chị kia làm ở bệnh viện, thường đem thai nhi về cho heo ăn. Mt hôm nấu cám heo, chị nghe tiếng trẻ con kêu:nóng quá! nóng quá. Chị sợ quá, từ đó không dám đem thai nhi về nữa! 


Tại Hà Nội, cán bộ cũng nuôi heo. Sau 1954. dân Hà Nội đa số bỏ vào Nam. Nhà cửa của họ , của tư sản và ngụy quân ngụy quyền đều bị tịch thâu, làm nhà cho cán bộ và cơ quan. Những người không thuộc diện tư sản, và ngụy quân, ngụy quyền nhưng có nhà cao cửa rộng thì bị đảng mượn, hoặc đổi cho nhà nhỏ hơn, hoặc phải hiến. Tiến lên một bước nữa, đảng bắt dân đóng thuế nhà. Nhà rộng không đủ tiền nộp thuế thì đảng lấy nhà. Một căn nhà chia năm, sẻ bảy cho cán bộ ở. Một cán bộ có diện tích khoảng ba hay bốn mét vuông, đủ kê một cái giường và một cái bàn. Hộ này cách hộ kia một bức màn.

 Trong tình trạng này người ta cũng nuôi heo! Họ thả heo dưới gậm giuờng! Dẫu sao, heo cũng đã nuôi họ một thời gian. Nguyễn Văn Trấn cũng đã ca tụng nghề nuôi heo khi ông nói: Một hũ vàng chôn, không bằng cái lồn heo nái (1) .Trong giai đoạn này, đời sống những cán bộ thấp cổ bé miệng và loại cán bộ thật thà chơn chất rất khổ. Con của dân buôn thúng bán bưng buổi sáng đi học còn có gói xôi, con cán bộ đói meo. Đời sống của dân buôn bán phe phẩy cao hơn cán bộ, tự do hơn cán bộ. Trong Thiên Đường Mù của Dương Thu Hương, gia đình cậu Chính là một điển hình cho hạng cán bộ ngu xuẫn tin vào đảng. Cậu tin rằng làm cán bộ là vinh quang, còn làm ăn cá thể, buôn thúng bán bưng là cổ hủ , là ô nhục, là lạc hậu mặc dù cái gia đình buôn thúng bán bưng đã đem lại rất nhiều thương yêu và tài lộc cho cậu. Cậu bảo bà chị: 

Chị nghe đây này:Cái nghề buôn thúng bán bưng của chị, dù bây giờ kiếm đủ ngày hai bữa cơm, nhưng mai sau sẽ bị tiêu diệt. Còn đứng vào đi ngũ giai cấp, dù làm tạp vụ chăng nữa, cũng sẽ nắm chắc tương lai trong tay!(2)
Cậu đã xin cho bà chị làm tạp vụ ở một nhà máy, nhưng bà chị làm ăn cá thể này rất sáng suốt, từ chối vinh dự làm cán bộ đảng. Bà nói:
Ngần này tuổi tôi còn làm loong toong cho người sai vặt.biết bao giờ mới
thành nghề, thành nghiệp?.. .Mà trước mắt, lương bổng như thế, tôi làm sao nuôi nổi cháu Hằng?(3)
Một nhà nghiên cứu xã hội nói: Nhìn thùng rác là biết thực tế xã hội. Thât vậy, khi mới vào Nam, người cán bộ cộng sản cũng có nhiều suy nghĩ. Họ xem cái thùng rác và đống rác ngoài đường là thấy một miền nam sung sướng, thừa mứa.Và họ thấy rằng những lời tuyên truyền của đảng rằng miền nam cực khổ, bị bóc lột là giả dối. Đống rác miền Nam nhiều cá thịt hơn kho lương thực của đảng ở miền Bắc! 

Thứ hai là họ quan sát các cô thứ ký miền Nam còn sót lại. Tiền quà sáng, quà trưa, quà chiều của các cô này trong một tuần bằng lương cả tháng của họ. Lương trả rẻ mạt, không đủ cho họ ăn quà song họ phải làm việc vì nhiều lý do. Một là có việc làm. Triết lý thực dụng của dân Sàigòn lúc nằy là làm được mười đồng thì đỡ mất mười đồng, còn hơn là ngồi không ( Có hơn không , lấy chồng hơn ở ở góa) . Hai là làm việc để đuợc sống tại Sài gòn, nếu không thì phải đi kinh tế mới! Đi kinh tế mới hay đi lao động xã hội chủ nghĩa là đi vào nơi tàn phá nhan săc, nơi đày ải con người chứ không phải sung sướng như Trịnh Công Sơn đã ca tụng! Nhiều ông nghe nói trong nam khổ quá, nên đã mang vào bát sành, chiếu cói vào cho thân nhân, nhưng khi vào đến nơi, thấy dân đây xài bát kiểu Trung quốc, dĩa sứ Nhật bổn và aó quần lượt là, chăn len gối bông, là họ đã hiểu! Khi họ mới vào, họ cứ tưởng nhà của ta là nhà cán bộ cao cấp của Mỹ Ngụy, vì ngoài bắc chỉ cán bộ cao cấp mới có nhà riêng, có xa lông, tủ bàn...!
Nói chung, dù có khoe khoang khoác lác, họ cũng đã công nhận ngoằi bắc nghèo khổ hơn! Khi phát hàng tiêu chuẩn, có cơ quan đã kêu gọi viên chức người Nam bấy lâu đã sung sướng nên nhường hàng lại cho cán bộ Bắc kỳ ! Có nơi kêu gọi viên chức trong Nam ủng hộ cán bộ A ! Thật vậy, trong giai đoạn đầu, nhiều nịnh thần đã cung phụng quần áo, xe cộ, đồ đạc, thuốc men cho Việt Cộng trong đó có rất nhiều nhà giáo của chúng ta!

II. NUÔI HEO CHE MẮT (1980-1990)
Có thực mới vực được đạo. Cổ nhân dạy thế. Khi vào Nam, các cán bộ tinh khôn đã thấy đuợc những ngu muội quá khứ. Họ thấy họ bị lường gạt, và bấy giờ họ phải lấy lại những gì đã mất. Một là họ trả thù, và hai là họ phải làm giàu bằng mọi phương tiện để bù lại một cuộc đời đã mất đi cho ngu dại! Miền Trung nghèo , cán bộ khó làm ăn cho nên họ làm cho dân miền Trung khổ gấp mười! Còn miền Nam nhiều lợi nhuận cho nên họ làm cho họ sướng gấp mười!
Võ Nguyên Giáp chủ trương kìm hãm miền Nam:Xây dựng kinh tế không để cho miền nam lên mạnh, miền bắc, miền Trung tụt lại sau!(4)
Nguyễn Văn Trấn viết:
Chính sách này đã dùng nhiều biện pháp làm rối loạn nền kinh tế,
và khiến cho nó trì trệ và làm được việc mà đàng ngoài mong ước,
miền nam ngheò để đuổi kịp miền bắc!(5)
Dù chúng kìm kẹp, kinh tế miền nam tuy không phát triển bằng trước, vẫn đủ tiền cung phụng cho lũ trung ương tiêu xài, vì riêng Sài gon đã góp một nữa ngân quỹ so với cả nước.
Lúc đầu dân trong Nam ai cũng lo sợ, nhất là mấy ông Ba Tàu Chợ Lớn. Họ nói chỉ sợ Cộng sản không chịu ăn, nếu cộng sản ăn là mọi sự xong ngay! Thế là tham nhũng bộc phát. Sự thực tham nhũng có ngay đời ông Bành Tổ. Và chỗ nào có Việt Nam, Trung quốc là có ngay tham nhũng, lạm quyền, chiếm công vi tư, ngồi lỳ, hám danh hám lợi cho dù là danh hão! Và tham nhũng đã có ngay từ thời ông Hồ. Dân quân tự vệ canh gác, xét người, xét hàng nhất là vùng xôi đậu đã ăn hối lộ,hoặc tịch thu và cướp bóc của dân. Trong vụ tịch thu nhà cửa, vàng bạc của tư sản và điạ chủ ở hai miền nam bắc là cơ hội làm giàu cho cán bộ. Cho nên ai nói người cộng sản biến chất là sai bởi vì chất tham nhũng, gian ác, xão trá đã nằm trong bản chất từ lâu, không phải bây giờ mói có. Trong chiến tranh, họ cũng đã lấy hàng nhà nước đem bán. Nhiều nơi cán bộ ăn bớt phân bón thuốc trừ sâu của nông dân.. Và hầu hết HTX mua bán đã ăn bớt đường, bột ngọt và gạo của dân. Cho nên họ giàu có lắm, tiền không biết để đâu cho hết, mỗi kỳ đổi tiền, là tiền vứt hàng đống ngoài đường vì cán bộ không dám ra mặt đổi tiền, sợ đảng hỏi tiền đâu mà lắm thế và bỏ tù họ ! Vì vậy, họ không nhận hối lộ tiền mà đòi vàng và đô la. Một cách biện minh cho sự làm giàu của mình là nói tiền do tôi nuôi heo. Và nuôi heo chính là một biện minh cho sự giàu sang của họ. Ở Sài gòn cũng có tay giàu sụ, đám cưới con gái mời hàng ngàn cán bộ, báo chí thắc mắc và biêu riếu ông tham nhũng, ông thanh minh: Ông có tiền là do nuôi chó berger!

III. KHÔNG CẦN NUÔI HEO (1990 cho đến nay)
Bây giờ đảng bắt đầu tư sản hóa cho cán bộ. Nhà ngụy quân ngụy quyền, nhà tư sản mại bản, nhà của người bỏ đi ra nước ngoài rất nhiều, tha hồ cho cán bô đảng ở, không phải cực khổ như ngoài bắc. Cán bô chồng một hai nhà, cán bộ vợ một hai nhà, dồng chí con một hai nhà. Nhận nhà xong là bán ngay sợ đảng đổi ý. Cán bộ trung cấp và cao cấp dược cấp những biệt thự ở Tú Xương, Đồng Khởi, tha hồ cho ngoại quốc thuê. Nhờ đảng và nhà nuớc, họ ngồi không, tháng tháng thu về hàng ngàn đô la như chơi! Như vậy là họ đâu cần phải nuôi heo cho thúi, cho dơ nữa! Còn nhiều lợi tức khác nữa. Chính sách đổi mới khiến cho cha con họ được lợi. Vợ chồng họ ở trong đảng, trong chính quyền, con cái họ cho ra lập công ty, như vậy là công tư lưỡng lợi. Lúc này tư bản vào đầu tư, tư bản đã làm giàu cho túi tiền của họ. Và lúc này đi đâu người cộng sản cũng khoe đô la và xài đô la! Thiệt là “ Việt kiều nghèo hơn Việt cộng!”
Một nguồn lợi vô cùng to lớn vẫn là tài sản quốc gia. Chiếm miền nam là họ có thêm một kho tàng vĩ đại sau khi đã phá tán kho tàng miền bắc. Chúng ta hãy nghe Bùi Công Trừng nói với Nguyễn Văn Trấn từ cái ngày tháng 1975:
Chúng nó cũng mấy thằng ấy, cũng những chính sách ấy, cai trị 17 triệu dân thì dân đã nghèo sát đất, không đầy 15 năm, hai cái rừng Việt Bắc và Tây bắc bị cạo trọc lóc. Bây giờ ở miền Nam cũng đào kép ấy (mêmes acteurs), hài kịch ấy( même commédie), chưa chi chúng nó đã gìành đất Ban Mê Thuột, của Đà Lạt và Sông Bé thì chúng sẽ đua với miền bắc 15 năm, miền nam chỉ cần ba năm thì cũng sẽ trơn lu như mu bà bóng cho mầy coi! (6)
Ngày nay cộng sản đã trở thành tư sản đỏ. Mở cửa, đầu tư, thị trường chứng khoán, tư nhân hóa quốc doanh , buôn bán với Mỹ đều là những chính sách lợi cho cộng sản. Nay họ không còn Liên Xô, họ còn Trung quốc, nhưng họ không cho con cái học Trung quốc mà sang Mỹ, Canada. Tiền của họ nay gửi tại Thủy sĩ, Mỹ, Canada. May mai của thiên trả địa, chỉ có dân tộc Việt Nam là thiệt thòi, mất mát mà thôi !
CHÚ THÍCH
1. Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ Và Quốc HôI.Văn Nghệ, Cali,1995,tr.228.
2. Dương Thu Hương, Thiên Đường Mù, Phu Nữ, Hà NộI, 1988,tr.90.
3. ( như trên)
4. Nguyễn Văn Trấn, sđd,tr.234.
5. như trên,tr.235.
6. như trên,tr.231.
 <seaside47.html> 


 

No comments:

Post a Comment