PH„N IV
áp døng TRUNG ñẠO
TRONG CU¶C S–NG
Trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt nhÜ m¥t tr©i.
Nh© có ánh dÜÖng mà có ngày Çêm, vån vÆt
vui sÓng và trܪng thành. Con ngÜ©i dùng ánh dÜÖng Ç‹ chæn nuôi, trÒng tr†t,
phÖi quÀn áo, phÖi khô hoa quä, rau, th¿c phÄm và cá thÎt. Ngày nay, ngÜ©i ta
còn dùng næng l¿c m¥t tr©i Ç‹ thay th‰ nhiên liŒu. NhÜng phäi tùy sÙc, tùy
trÜ©ng h®p. SÙc nóng m¥t tr©i có th‹ lên rÃt cao, có th‹ làm cháy m¶t thành
phÓ.
Chúng ta nên áp døng thuy‰t trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt vào trong Ç©i sÓng tu tÆp và Ç©i sÓng bình thÜ©ng. Tuy nhiên, thuy‰t cûa ÇÙc PhÆt rÃt cao, chúng ta là ngÜ©i phàm, không th‹ th¿c hiŒn hoàn toàn. Tùy theo khä næng chúng ta. M¥t tr©i là cûa chung, ai cÛng có th‹ hÙng lÃy m¶t vài tia n¡ng Ãm. Và ai cÛng có th‹ rút tØ tri‰t lš trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt làm nguÒn sÓng cho mình. Có nhiŠu phÜÖng cách áp døng thuy‰t trung Çåo. Sau Çây là m¶t vài š ki‰n Çóng góp v§i các bÆc thiŒn tri thÙc.
Chúng ta nên áp døng thuy‰t trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt vào trong Ç©i sÓng tu tÆp và Ç©i sÓng bình thÜ©ng. Tuy nhiên, thuy‰t cûa ÇÙc PhÆt rÃt cao, chúng ta là ngÜ©i phàm, không th‹ th¿c hiŒn hoàn toàn. Tùy theo khä næng chúng ta. M¥t tr©i là cûa chung, ai cÛng có th‹ hÙng lÃy m¶t vài tia n¡ng Ãm. Và ai cÛng có th‹ rút tØ tri‰t lš trung Çåo cûa ÇÙc PhÆt làm nguÒn sÓng cho mình. Có nhiŠu phÜÖng cách áp døng thuy‰t trung Çåo. Sau Çây là m¶t vài š ki‰n Çóng góp v§i các bÆc thiŒn tri thÙc.
CÁC TÔN PHÁI Và TÔN GIÁO
Sau khi ÇÙc PhÆt tÎch diŒt, PhÆt giáo chia ra nhiŠu hŒ phái. Lš do quan tr†ng nhÃt là do s¿ hi‹u bi‰t khác nhau, quan Çi‹m khác nhau vŠ cách giäi thích kinh Çi‹n và gi§i luÆt. Lúc ÇÙc PhÆt tåi th‰ Çã có s¿ tranh luÆn, chÌ trích và khÄu chi‰n trong hàng ngÛ Bà La Môn cÛng nhÜ trong Çám ÇÒ ÇŒ cûa ÇÙc PhÆt, cho nên ñÙc PhÆt nói:
Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Trong khi các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi; trong khi ấy các Ông có an trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không, các Ông có an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không, các Ông có an trú từ š hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Như vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông đã chấp nhận rằng, trong khi các ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi, trong khi ấy, không có an trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, không có an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng, không có an trú từ š hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Như vậy, này các kẻ mê mờ kia, do biết gì, do thấy gì, các Ông sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với những binh khí miệng lưỡi; và các Ông không tự thông cảm nhau, không chấp nhận thông cảm, không tự hòa giải nhau, không chấp nhận hòa giải. Như vậy, này các kẻ mê mờ kia, các Ông sẽ phải chịu bất hạnh, đau khổ trong một thời gian dài.
Rồi Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này
các Tỷ-kheo,
có sáu pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến vô tranh luận, hòa hợp, nhất trí. Thế nào là sáu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ thân hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú từ khẩu hành đối với các vị đồng phạm hạnh cả trước mặt lẫn sau lưng. Pháp này cần phải ghi nhớ, tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến không tranh luận, hòa hợp, nhất trí. (TrÜ©ng B¶ Kinh I, 48. Kinh Kosambiya)
Tuân theo l©i dåy cûa ñÙc PhÆt, sau
Çó chÜ tæng chû trÜÖng Løc Hòa Tæng . Và
nay, chúng ta phäi th¿c hiŒn hòa h®p,
không nên gây bÃt hòa v§i các tôn giáo khác, và cÛng không gây ra
cu¶c tranh luÆn v§i các Çåo h»u thu¶c
tông phái khác. Đừng cho rằng tông phái của thầy mình là siêu hơn hết.
Đó là ngã mạn. Đừng mượn áo thầy tu mà làm điều gian manh phục vụ kẻ ác.
Đó là kẻ phá Phật, phá đạo.
Đừng nghĩ rằng tìm cách bắt buộc, quyến rũ người vào đạo cho đông là phát triển đạo, và được Phật ban khen. Đừng nghĩ rằng xâm chiếm nước khác, rồi bắt người từ bỏ đạo gốc của họ mà theo mình là mở rộng nước Phật. Đó là dùng mưu gian, kế xảo, là dùng bạo lực gây chiến tranh tang tóc, trái với chủ trương từ bi, hòa bìnbh của đức Phật.Nước Phật ở trên trời không phải là vài ba quốc gia ở trái đất.
Đừng nghĩ rằng tìm cách bắt buộc, quyến rũ người vào đạo cho đông là phát triển đạo, và được Phật ban khen. Đừng nghĩ rằng xâm chiếm nước khác, rồi bắt người từ bỏ đạo gốc của họ mà theo mình là mở rộng nước Phật. Đó là dùng mưu gian, kế xảo, là dùng bạo lực gây chiến tranh tang tóc, trái với chủ trương từ bi, hòa bìnbh của đức Phật.Nước Phật ở trên trời không phải là vài ba quốc gia ở trái đất.
Cu¶c Ç©i cûa ÇÙc PhÆt là m¶t cu¶c Ç©i cao quš vì Ngài Çã tØ bÕ
vinh hoa phú quš Ç‹ cÙu nhân loåi khÕi kh° ách trÀm luân. Các vÎ t° sÜ cÛng Çã
ti‰p tøc xây d¿ng PhÆt giáo b¢ng thiŒn pháp, không bao gi© có manh tâm phát
tri‹n Çåo b¢ng tiŠn båc và gÜÖm Çao. Chúng ta phäi duy trì con ÇÜ©ng thiŒn Çåo này cho dân t¶c và th‰ gi§i
Ç‹ m†i ngÜ©i Çu®c an låc.
NhÜ Çã trình bày ª trên, PhÆt giáo
hiŒn nay có nhiŠu tông phái, chúng ta nên džc và tìm hi‹u kinh Çi‹n các tông
phái, sau Çó m§i h†c tÆp. Công viŒc ch†n l¿a, tìm hi‹u là m¶t quá trình lâu
dài. Sau khi °n ÇÎnh, chúng ta cÙ theo Çó mà Çi cho t§i møc Çích. Chúng ta
không cÀn có š ki‰n vŠ các tông phái khác, vì có nhiŠu ÇÜ©ng Çi ljn chân lš và
có nhiŠu phÜÖng cách Çåt chân, thiŒn, mÏ.
Tôn giáo th¿c s¿ Çã gây ra chi‰n tranh trong các th‰ k› trܧc. Nay,
chúng ta phäi thÆt s¿ yêu nhân loåi, yêu hòa bình và tôn tr†ng lÅn nhau. Møc
Çich tôn giáo, nhÃt là møc Çich cûa Çåo PhÆt là Çem låi an låc cho mình và cho
nhân loåi:
Có một người, này các Tỷ-kheo, khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đưa đến hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đưa đến hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người. Một người ấy là ai? Người có chánh kiến, người không có điên đảo kiến. Người ấy làm cho đông người xa lìa phi pháp, an trú diệu pháp. Chính một người này, này các Tỷ-kheo,
khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đưa đến hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đưa đến hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người.( Tæng Chi B¶ Kinh,ChÜÖng I, Môt phap, XVIII.Pham
Makkali)
Khi
ch†n m¶t con ÇÜ©ng, chúng ta phäi suy nghï. ñØng theo thiên ki‰n, ÇØng theo
truyŠn thÓng, và cÛng ÇØng tin theo l©i các Çåo sÜ, phäi t¿ ta suy luÆn, tìm
hi‹u và quy‰t ÇÎnh:
Như vậy, này các Kàlàmà, điều Ta vừa nói với các Ông: "Chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin
vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì lš luận suy diễn; chớ có tin vì diễn giải tương tự; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình."
(Tæng Chi 3. ChÜÖng Ba pháp, V. PhÄm nhÕ. 65.- Các Vị Ở Kesaputta)
Ta phäi džc kinh Çi‹n Nam tông lÅn
B¡c tông, nhiên hÆu së có cái nhìn ÇÀy Çû, tránh cái lÓi phóng túng, xa c¶i
nguÒn và cÛng tránh lÓi thû c¿u quá Çáng, xem m†i š ki‰n là tà ki‰n.
Trܧc Çây, trong PhÆt giáo Çã có
nh»ng nhÆn ÇÎnh chû quan. Ai cÛng cho tông phái cûa mình là Üu viŒt. BÃy gi©
trong giáo h¶i có lë Çã có nh»ng kÈ t¿ hào vŠ tông phái cûa mình. Tôn
giả Mahàcunda nói như sau:
Nhưng ở đây, này chư Hiền, có những Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp,
chỉ tán thán các Tỷ-kheo
chuyên tâm về Pháp, không tán thán
các Tỷ-kheo tu Thiền. Và ở đây, các Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp không được hoan hỷ; các Tỷ-kheo tu Thiền không được hoan hỷ. Hành đ¶ng như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Nhưng ở đây, này chư Hiền, có những Tỷ-kheo tu Thiền chỉ tán thán các Tỷ-kheo tu
Thiền, không tán thán các
Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp.
Và ở đây, các Tỷ-kheo tu Thiền không được hoan hỷ; các Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp không được hoan hỷ. Sở hành như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều nguời, an lạc cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người.
"Chúng
ta là những người chuyên tâm về Pháp,
chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo tu Thiền ". Này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập như vậy. Vì cớ sao? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người cảm giác bất tử giới với thân và an trú. Do vậy, này
chư Hiền, cần phải học tập như sau: "Chúng ta là những người tu thiền, chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo
chuyên tâm về Pháp". Này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập như vậy. Vì cớ sao? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người với trí tuệ thể nhập và thấy con đường thâm sâu hướng dẫn đến đích. (Tæng Chi Bô kinh,
chÜÖng 6 Sáu pháp, phÄm chÜ thiên, (46) Mahàcunda).
ThiŠn
b¡t nguÒn tØ Bà La Môn giáo. Nhiều người nói rằng Đạt Ma là sư tổ phái Thiền và cho là Thiền do Đạt Ma sáng tạo. Thiền có trước đức Phật. Khi đức Phật vào núi khổ tu đã học thiền với hai vị sư Bà La Môn. Có vị chê bai ngoại đạo thiền, Tiểu thừa thiền. ... Đó là những sai lầm do ngã mạn và thiếu hiểu biêt về lịch sử. ThiŠn là m¶t phÜÖng pháp tu tÆp cûa nhiŠu tông phái
PhÆt giáo và không PhÆt giáo. ñåo phù thûy và luyŒn võ công cÛng dùng thiŠn.
Nay tåi các trÜ©ng h†c NhÆt bän ÇŠu dåy thiŠn. ThiŠn có nhiŠu cách. ñÙc PhÆt
dåy nhiŠu phÜÖng pháp thiŠn:
- Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Phật. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn.
.
. .. Có một pháp, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đế nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. Một pháp ấy là gì? Chính là niệm Pháp... niệm Tăng... niệm Giới... niệm Thí... niệm Thiên... niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra... niệm Chết... niệm Thân... niệm An tịnh. Chính một pháp này, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn, đưa đến nhứt hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn. (Tæng Chi B¶ I, XIV. Phẩm Một Pháp1-10. Niệm Phật)
. .
. Tu tập tưởng vô thường ... tu tập tưởng vô ngã ... tu tập tưởng về chết ... tu tập tưởng ghê tởm đối với các món ăn ... tu tập tưởng không hỷ lạc đối với tất cả thế giới ... tu tập tưởng hài cốt ... tu tập tưởng bị trùng bọ ăn ... tu tập tưởng bị xanh bầm ... tu tập tưởng bị đầy những lỗ hổng ... tu tập tưởng bị sưng phồng lên ...
. .
. . Tu tập niệm Phật ... tu tập niệm Pháp ... tu tập niệm Tăng ... tu tập niệm Giới ... tu tập niệm Thí ... tu tập niệm Thiên ... tu tập niệm Hơi thở vô, Hơi thở ra ... tu tập niệm Chết ... tu tập Thân niệm ... tu tập An tịnh niệm ... (Tæng
Chi b¶ I, XX.PhÄm ThiŠn ñÎnh)
Trong
quan niŒm Çó, tu Pháp hay tu thiŠn cÛng là m¶t. TÎnh ñ¶ Tông, Pháp Hoa Tông,
MÆt Tông cÛng là nh»ng phÜÖng pháp ThiŠn. Chúng ta nên trª låi nguÒn gÓc Ç‹
thÃy tÃt cä là b¡t nguÒn tØ t° tông, và tÃt cä hÆu bÓi là anh em m¶t nhà. Thi‰u
Lâm Nam hay B¡c cÛng gÓc tØ ñåt Ma sÜ t°; HuŒ Næng hay ThÀn Tú ÇŠu là ÇŒ tº
nhÃt nhì cûa NgÛ t° Ho¢ng NhÅn (tại sao lai coi Thần Tú như kẻ thù); và Thái C¿c quyŠn TrÀn gia, HÒng gia hay TriŒu
gia ÇŠu b¡t nguÒn tØ t° sÜ TrÜÖng Tam Phong.
Cái quan tr†ng cÀn chú š là chúng ta Çåt ÇÜ®c nh»ng gì trên con ÇÜ©ng Chân, ThiŒn, MÏ và giúp ích gì cho ÇÒng loåi. Và vÃn ÇŠ khác n»a, cÛng quan tr†ng Çó là sÓng hòa h®p vì hòa h®p, hòa bình là phåm hånh, là Çåo ÇÙc cûa con ngÜ©i nói chung và cûa tu sï nói riêng. ñÙc PhÆt dåy:
Cái quan tr†ng cÀn chú š là chúng ta Çåt ÇÜ®c nh»ng gì trên con ÇÜ©ng Chân, ThiŒn, MÏ và giúp ích gì cho ÇÒng loåi. Và vÃn ÇŠ khác n»a, cÛng quan tr†ng Çó là sÓng hòa h®p vì hòa h®p, hòa bình là phåm hånh, là Çåo ÇÙc cûa con ngÜ©i nói chung và cûa tu sï nói riêng. ñÙc PhÆt dåy:
Lúc nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống hòa hợp, hoan hỷ, không có luận tranh,
như nước và sữa lẫn lộn, nhìn nhau với cặp mắt ái kính, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo tạo được công đức, lúc ấy, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống phạm trú.
Nghĩa là, với ai hân hoan với tâm giải thoát liên hệ với hỷ, thời hỷ sanh; với ai có hỷ, thân được khinh an; với thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với ai cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh. (Tæng Chi III, 93 H¶i chúng)
Nghĩa là, với ai hân hoan với tâm giải thoát liên hệ với hỷ, thời hỷ sanh; với ai có hỷ, thân được khinh an; với thân khinh an, cảm giác được lạc thọ; với ai cảm giác lạc thọ, tâm được định tĩnh. (Tæng Chi III, 93 H¶i chúng)
S¿ khác biŒt gi»a PhÆt giáo và các tôn
giáo khác, cÛng nhÜ s¿ khác biŒt gi»a các pháp thiŠn là ª møc Çích. Có nhiŠu
møc Çích và nhiŠu k‰t quä khác nhau. Có møc Çích
hܧng về giải thoát, hướng vŠ thÜ®ng lj, các thÀn linh, sÙc månh tinh thÀn, sÙc månh vÆt chÃt, phép
lå hay giäi thoát. Møc Çích tÓt, phÜÖng pháp tÓt nhÜng bän thân ta có hoàn häo
hay không låi là m¶t viŒc khác.
CHÐ÷NG XIV
HỮu TH„N Và VÔ TH„N
PhÆt giáo là tôn giáo hay chÌ là tri‰t
h†c? Là vô thÀn hay h»u thÀn? Qua ÇÎnh
nghïa cûa các h†c giä, ta có th‹ tóm t¡t r¢ng Tôn giáo là m¶t c¶ng ÇÒng nhân
loåi, có tín ngÜ«ng và nghi thÙc cúng
t‰, có m¶t nŠn væn hóa, lÎch sº, và thÀn h†c. Tôn giáo mang tính cách thÀn bí
ho¥c không thÀn bí.. Trong tôn giáo, ngÜ©i ta chú tr†ng vŠ m¶t cá nhân thiêng
liêng, hay con ngÜ©i trÀn gian, m¶t hŒ thÓng tÜ tܪng, hay m¶t ÇÓi tÜ®ng ÇÜ®c
coi là siêu nhiên hay thánh thiŒn. Tôn giáo Çã lÆp nên m¶t nŠn luân lš, ngôn
ng», væn t¿, tÆp quán, nghi lÍ, và nhÃt là tåo nên m¶t dòng tri‰t h†c. Tôn giáo
cÛng là m¶t phÜÖng cách sÓng.
Ngày nay, có hai khuynh hܧng chính
nghiên cÙu vŠ PhÆt giáo. M¶t khuynh hܧng xem PhÆt giáo là vô thÀn và m¶t phái
coi là h»u thÀn.
M¶t sÓ PhÆt tº và
nhà nghiên cÙu cho r¢ng kh©i thûy PhÆt giáo vô thÀn, là tri‰t h†c, nói nhÜ vÆy,
h† muÓn phû nhÆn Çåo PhÆt, phû nhÆn tôn giáo. M¶t sÓ ngÜ©i nói r¢ng sau này các
bÆc Çåo sÜ bi‰n tri‰t h†c PhÆt thành tôn giáo. ñúng là PhÆt giáo là m¶t khoa
tri‰t h†c phát xuÃt sau Bà La Môn giáo. ñÙc PhÆt quä là m¶t tri‰t gia, Çã Çem
vào kho tàng tri‰t lš nhân loåi nh»ng ÇiŠu m§i mÈ. NhÜng khªi ÇÀu ÇÙc PhÆt cÛng
Çã Çi tu, thành lÆp m¶t giáo h¶i, m¶t tæng Çoàn, có giáo ÇiŠu, có gi§i luÆt,
các sa môn phäi gi» ‘’phåm hånh’’ m¥c dÀu chÜa có nghi thÙc cúng lÍ , nhÜng Çã
có nghi thÙc tøng niŒm cá nhân và tÆp th‹.
Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Cứ sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn". (Trung B¶ I, 14. Kinh ñại bổn, 24)
Tôn giáo nào cÛng vÆy. Khªi ÇÀu các giáo chû
rao giäng tri‰t lš, ho¥c hành Ƕng cÙu nhân Ƕ th‰, ho¥c làm các phép lå. Các
bÆc Çåo sÜ Ç©i sau m§i t° chÙc và xây
d¿ng thành m¶t tôn giáo nhÜ ngày nay. Qua m‡i th©i gian và không gian, Çåo PhÆt
mang nh»ng màu s¡c khác nhau cÛng nhÜ nh»ng tôn giáo khác trên th‰ gian Çã bi‰n
Ç°i.
M¶t sÓ ngÜ©i ghét tôn giáo. H† cho r¢ng tôn giáo bây gi© khác ngày xÜa. Các tu sï bày ra nhiŠu phiŠn toái, quá chú tr†ng nghi lÍ, cúng t‰. Tôn giáo bu°i ÇÀu chú tr†ng khai mª nhân tâm, nhÜng vŠ sau thiên vŠ thÀn bí. Con ngÜ©i ljn chùa chiŠn, ÇŠn th©, thánh ÇÜ©ng là Ç‹ cÀu tài l¶c. Con ngÜ©i trÀn gian hܧng ljn ThÜ®ng ñ‰ cao siêu nhÜng Çåi ÇiŒn ThÜ®ng ñ‰, PhÆt, Thánh låi là nh»ng lái buôn, nh»ng kÈ t¶i l‡i. Tôn giáo sa dža là ª ch‡ Çó. Có ngÜ©i không theo tôn giáo vì tôn giáo bi‰n chÃt, h† chÌ tôn tr†ng tri‰t lš mà thôi.
M¶t sÓ ngÜ©i ghét tôn giáo. H† cho r¢ng tôn giáo bây gi© khác ngày xÜa. Các tu sï bày ra nhiŠu phiŠn toái, quá chú tr†ng nghi lÍ, cúng t‰. Tôn giáo bu°i ÇÀu chú tr†ng khai mª nhân tâm, nhÜng vŠ sau thiên vŠ thÀn bí. Con ngÜ©i ljn chùa chiŠn, ÇŠn th©, thánh ÇÜ©ng là Ç‹ cÀu tài l¶c. Con ngÜ©i trÀn gian hܧng ljn ThÜ®ng ñ‰ cao siêu nhÜng Çåi ÇiŒn ThÜ®ng ñ‰, PhÆt, Thánh låi là nh»ng lái buôn, nh»ng kÈ t¶i l‡i. Tôn giáo sa dža là ª ch‡ Çó. Có ngÜ©i không theo tôn giáo vì tôn giáo bi‰n chÃt, h† chÌ tôn tr†ng tri‰t lš mà thôi.
ñó
là nh»ng kÈ vô thÀn nhìn vŠ PhÆt giáo. M¶t sÓ tu sï và h†c giä ÇÎnh
nghïa tôn
giáo là giáo phái tôn th© thÜ®ng lj, n‰u không thì không th‹ liŒt vào
tôn giáo.
Quan niŒm này quá chÆt hËp nhÜ m¶t ngÜ©i
Çã yêu m¶t cô gái ch¶t m¡t, do Çó anh quan niŒm r¢ng ngÜ©i th‰ gian ai
cÛng dÜ
m¶t m¡t. Tôn giáo là m¶t t° chÙc Ça dång vì tôn giáo có th‹ là NhÃt thÀn
giáo
hay ña thÀn giáo.
M¶t sÓ t¿ nhÆn là ñ¶c ThÀn giáo, nhÜng h† còn th© giáo chû, cha mË ho¥c ÇÒ ÇŒ cûa giáo chû, cho nên h† cÛng là ña thÀn giáo.Tôn giáo là m¶t niŠm tin trong suÓt dòng lÎch sº. VÎ thÀn linh có th‹ nguÒn gÓc là ngÜ©i trÀn hay là m¶t thÀn linh. NhÜng tôn giáo Ç‹ làm gì? Tôn giáo Çem yêu thÜÖng cho trái ÇÃt này hay tôn giáo chính là mÀm móng chi‰n tranh? công cø cûa chi‰n tranh? Cùng th© ThÜ®ng ñ‰, nhÜng ngÜ©i ta vÅn nhân danh ThÜ®ng ñ‰ Ç‹ gi‰t ÇÒng Çåo và ngÜ©i ngoåi Çåo nhÜ tåi th‰ gi§i ngày nay!
M¶t sÓ t¿ nhÆn là ñ¶c ThÀn giáo, nhÜng h† còn th© giáo chû, cha mË ho¥c ÇÒ ÇŒ cûa giáo chû, cho nên h† cÛng là ña thÀn giáo.Tôn giáo là m¶t niŠm tin trong suÓt dòng lÎch sº. VÎ thÀn linh có th‹ nguÒn gÓc là ngÜ©i trÀn hay là m¶t thÀn linh. NhÜng tôn giáo Ç‹ làm gì? Tôn giáo Çem yêu thÜÖng cho trái ÇÃt này hay tôn giáo chính là mÀm móng chi‰n tranh? công cø cûa chi‰n tranh? Cùng th© ThÜ®ng ñ‰, nhÜng ngÜ©i ta vÅn nhân danh ThÜ®ng ñ‰ Ç‹ gi‰t ÇÒng Çåo và ngÜ©i ngoåi Çåo nhÜ tåi th‰ gi§i ngày nay!
Dù
công nhÆn PhÆt giáo là m¶t tôn giáo, m¶t sÓ h†c giä và PhÆt tº coi PhÆt giáo
thu¶c phái vô thÀn. H† viŒn dÅn nhiŠu lš do:
-ñÙc
PhÆt là ngÜ©i thÜ©ng.
-ñÙc
PhÆt phû nhÆn ThÜ®ng ñ‰.
-ñÙc PhÆt không chû trÜÖng th© cúng.
-Ni‰t Bàn là cäm
giác.
-Nh»ng
thÀn thoåi vŠ ñÙc PhÆt, nh»ng chi ti‰t thÀn hóa vŠ PhÆt giáo chÌ là nh»ng quan
niŒm Bà La Môn nhÆp vào PhÆt giáo.
-ñÙc
PhÆt chÌ trích phép lå.
-ThiŠn
chÌ là m¶t phÜÖng pháp luyŒn tÆp th¿c tiÍn, không phäi là Ç‹ Çåt cänh siêu
nhiên, huyŠn bí.
Qua các kinh Tång Pali cÛng nhÜ Hán tång (Kinh Trường A-Hàm, Kinh Trung A-Hàm, Kinh Tạp A-Hàm, và Kinh Tăng Nhất A-Hàm), và các kinh Çi‹n B¡c phÜÖng PhÆt giáo, chúng ta së có nh»ng cái nhìn rõ
rŒt vŠ ÇÙc PhÆt và PhÆt giáo. PhÀn sau Çây, chúng tôi së thäo luÆn vŠ nh»ng
Çi‹m trên.
PhÆt
giáo thØa hܪng væn hóa ƒn ñ¶, trong Çó có tri‰t h†c Bà La Môn giáo m¥c dÀu PhÆt giáo có nhiŠu
Çi‹m khác biŒt v§i Bà La Môn giáo. Chúng ta khó phân biŒt Çi‹m nào là cûa PhÆt
giáo, Çi‹m nào là cûa Bà La Môn giáo. Có nhiŠu Çi‹m chung gi»a PhÆt gíáo và Bà
La Môn giáo, và cÛng có nh»ng ÇÜ©ng lÓi riêng cûa PhÆt giáo. Không phäi PhÆt
giáo chÓng ÇÓi tÃt cä quan Çi‹m cûa Bà La Môn giáo. Ta thº xét vŠ nh»ng Çi‹m
chính vŠ thÀn h†c:
1- Linh hÒn :
PhÆt giáo
lÃy ÇiŠu này làm cÓt lõi cho nên PhÆt giáo khác v§i chû nghïa vô thÀn là chû
trÜÖng tin không có thÀn linh, ch‰t là h‰t. Linh hÒn sau khi ch‰t vÅn tÒn tåi
nhÜng luân chuy‹n tØ ch‡ này sang ch‡ khác, tØ ki‰p này sang ki‰p khác theo
luÆt luân hÒi. PhÆt giáo tin có thÀn linh, ma qu›, cõi tr©i, cõi ÇÎa ngøc. Có løc Çåo luân hÒi
là thiên Çåo, nhân Çåo, ngå qu›, bàng sinh, a tu la, và ÇÎa ngøc. NhÜ vÆy, PhÆt
giáo có tính cách thÀn bí và h»u thÀn
chÙ không phäi là vô thÀn.
Quan niŒm luân hÒi là công nhÆn sau khi ch‰t con ngÜ©i chuy‹n ki‰p ÇÀu thai vào løc Çåo, và trong løc Çåo có ma qu›, thánh thÀn, thÜ®ng lj. . . ñÙc PhÆt Çã th¿c hiŒn phép thÀn thông bay lên các cõi tr©i và thuy‰t pháp tåi Çây. Trong các kinh, nhÃt là trong Kinh Th‰ Kš, ÇÙc PhÆt Çã tä cänh các cõi Tr©i, cõi ÇÎa ngøc. ñÙc PhÆt cÛng cho bi‰t qu› thÀn ª chung v§i con ngÜ©i trên trái ÇÃt:
Quan niŒm luân hÒi là công nhÆn sau khi ch‰t con ngÜ©i chuy‹n ki‰p ÇÀu thai vào løc Çåo, và trong løc Çåo có ma qu›, thánh thÀn, thÜ®ng lj. . . ñÙc PhÆt Çã th¿c hiŒn phép thÀn thông bay lên các cõi tr©i và thuy‰t pháp tåi Çây. Trong các kinh, nhÃt là trong Kinh Th‰ Kš, ÇÙc PhÆt Çã tä cänh các cõi Tr©i, cõi ÇÎa ngøc. ñÙc PhÆt cÛng cho bi‰t qu› thÀn ª chung v§i con ngÜ©i trên trái ÇÃt:
Tất cả chỗ ở như nhà cửa của mọi người đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có cả. Tất cả mọi đường sá, mọi ngã tư, hàng thịt, chợ búa, cùng bãi tha ma đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có cả. Phàm các loài quỷ thần đều tùy thuộc vào chỗ nương náu mà có tên. Như nếu nương vào người thì gọi là người; nương vào thôn thì gọi là thôn; nương vào thành thì gọi là thành; nương vào nước thì gọi là nước; nương vào đất thì gọi là đất; nương vào núi thì gọi là núi, nương vào sông thì gọi là sông.
Phật bảo Tỳ-kheo:
Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có.. Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngay.( TrÜ©ng A Hàm, Kinh Th‰ Kš, 414-415)
2. TÙ ñiŒu ñ‰:
Các tri‰t gia và nhà nghiên cÙu ÇŠu
công nhÆn TÙ ñiŒu ñ‰ là tÜ tܪng chính cûa ñÙc PhÆt. TÙ DiŒu ñ‰ có Çi‹m khác và
Çi‹m giÓng tÜ tܪng Bà La Môn Trong TÙ DiŒu ñ‰, ÇÙc PhÆt Çã nói ljn luân hÒi,
ki‰p trܧc, ki‰p sau và nhân quä. DiŒt kh° là Ç‹ chÃm dÙt trÀm luân løc Çåo.
NhÜ vÆy, ngÜ©i ta không th‹ nói PhÆt giáo vô thÀn, vì ª Çây PhÆt giáo Çã Ç¥t ra
vÃn ÇŠ siêu th‰ gi§i (thiên Çàng, ÇÎa ngøc), thÀn thánh, ma qu›. . .
3.Thần linh và ThÜ®ng ñ‰:
Các tôn giáo ÇŠu tin linh hÒn tÒn tåi
sau khi ch‰t. Nh»ng linh hÒn Çó thành ma qu› hay thánh thần, ch£ng qua là cÃp bÆc khác nhau, tính
chất khác nhau và ª nh»ng
th‰ gi§I khác nhau.
Nhiều người cho rằng Thiên chúa giáo không tin có ma quỷ. Điều này sai. Thiên chúa giáo không cho thờ quỷ thần, chứ không phủ nhận quỷ thần, vì Satan là quỷ ở Thiên Đàng với Chúa, rồi đánh nhau với chúa mà phải xuống địa ngục. Nhiều tôn giáo tin có ma quỷ. PhÆt giáo tin có linh hÒn, có løc Çåo, có thiên ÇÜ©ng ÇÎa ngøc cho nên không th‹ coì là vô thÀn.
Nhiều người cho rằng Thiên chúa giáo không tin có ma quỷ. Điều này sai. Thiên chúa giáo không cho thờ quỷ thần, chứ không phủ nhận quỷ thần, vì Satan là quỷ ở Thiên Đàng với Chúa, rồi đánh nhau với chúa mà phải xuống địa ngục. Nhiều tôn giáo tin có ma quỷ. PhÆt giáo tin có linh hÒn, có løc Çåo, có thiên ÇÜ©ng ÇÎa ngøc cho nên không th‹ coì là vô thÀn.
Các tôn giáo tin r¢ng trên tÃt cä thÀn
linh là ThÜ®ng ñ‰. ThÜ®ng ñ‰ là chúa t‹ các thÀn linh , con ngÜ©i và vÛ trø.
ñÙc PhÆt tin là có ThÜ®ng ñ‰. NhÜng
ThÜ®ng ñ‰ theo quan niŒm cûa ñÙc PhÆt khác v§i ThÜ®ng ñ‰ các tôn giáo. Các tôn
giáo th© ThÜ®ng ñ‰ coi Ngài là vÎ Sáng Tåo th‰ gi§i, ban Ön giáng h†a cho con
ngÜ©i. Ngài là vÎ ThÀn Linh duy nhÃt và TÓi cao, TÓi thÜ®ng. ñÙc PhÆt quan niŒm
có nhiŠu th‰ gi§i (Tam Thiên ñåi Thiên Th‰ gi§i) và løc Çåo. Thiên gi§i có 26
cõi tr©i nhÜ TÙ Thiên vÜÖng, Tam ThÆp Tam Thiên, Då Ma Thiên, ñâu SuÃt Thiên,
Hóa Låc Thiên, Tha Hóa T¿ tåi ThiŒn v.v.. . Các thÜ®ng lj cai quän các cõi
tr©i. Thiên gi§i cao hÖn nhân gi§i và ñÎa ngøc.
Các ThÜ®ng lj là nh»ng chúng sinh có quä vÎ l§n, sáng lÆp ra th‰ gi§i, cai quän cõi tr©i m¶t th©i gian rÒi cÛng trÀm luân løc Çåo. ñÙc PhÆt không theo chû trÜÖng cûa Bà La Môn vì Bà La Môn ÇÜa ljn gÀn ThÜ®ng ñ‰ nhÜng thÜ®ng lj chÜa phäi là giäi thoát.
Các ThÜ®ng lj là nh»ng chúng sinh có quä vÎ l§n, sáng lÆp ra th‰ gi§i, cai quän cõi tr©i m¶t th©i gian rÒi cÛng trÀm luân løc Çåo. ñÙc PhÆt không theo chû trÜÖng cûa Bà La Môn vì Bà La Môn ÇÜa ljn gÀn ThÜ®ng ñ‰ nhÜng thÜ®ng lj chÜa phäi là giäi thoát.
NhiŠu tôn giáo tin tܪng có ThÜ®ng ñ‰
nhÜng m‡i tôn giáo có m¶t ÇÜ©ng lÓi riêng. PhÆt giáo, Kh°ng giáo và Lão giáo có
cái nhìn khác biŒt v§i Thiên chúa giáo.
ña sÓ d¿a vào thuy‰t Nhân quä. Thuy‰t
Nhân quä là mÅu sÓ chung cûa nhiŠu tôn giáo, cÛng nhÜ mÅu sÓ chung gi»a tôn
giáo và khoa h†c. PhÆt giáo, Nho giáo tin có Ç©i này, Ç©i sau, thiŒn ác h»u
báo. Thiên chúa giáo tin có ngày phán xét cuÓi cùng.
Các tôn giáo cho r¢ng con ngÜ©i và vån
vÆt sinh ra là do m¶t nguyên nhân. Các nhà siêu hình h†c Çi tìm nguyên nhân sau
cùng cûa s¿ vÆt. Có thuy‰t cho là thái c¿c sinh lÜ«ng nghi, lÜ«ng nghi sinh tÙ
tÜ®ng. CÛng có thuy‰t nói cái không sinh ra cái có. Và có thuy‰t cho r¢ng
thÜ®ng lj sinh ra muôn loài . Và cÛng có thuy‰t nói Bàn C° hay Brahman là ÇÃng
sáng tåo loài ngÜ©i. NhÜ vÆy, các nhà siêu hình h†c Çã chia ra hai phái, m¶t
phái vin vào ThÜ®ng ñ‰, m¶t phái cho là vô thÀn.
Phái tin vào ThÜ®ng ñ‰ lš luÆn:
-Ai sinh
ra con?- Cha mË
-Ai sinh
ra cha mË? Ông bà?
-Ai sinh
ra ông bà, t° tiên? Ông cÓ, ông sÖ.
-Ai sinh
ra ông cÓ, ông sÖ?
Giäi Çáp cuÓi cùng là ThÜ®ng ñ‰.
NhÜng theo møc Çích siêu hình h†c là Çi
tìm nguyên nhân sau cùng, ta có th‹ hÕi ti‰p:
-Ai sinh
ra thái c¿c?
-Ai sinh
ra không?
-Ai sinh
ra thܮng lj?
N‰u bäo thÜ®ng lj là nhÃt, thái c¿c là sau cùng, không
là nguyên do ÇÀu tiên cûa vån vÆt, ngoài ra không có gì cä. Nói vÆy thì låi
trái v§i luÆt nhân quä, vì luÆt nhân quä tin r¢ng vån vÆt phäi có nguyên do,
không có cái gì t¿ nhiŒn sinh ra. N‰u bäo thái c¿c, không và thÜ®ng lj không do
ai sinh ra, nghïa là t¿ nhiên sinh ra thÌ con ngÜ©i, th‰ gi§i và vÛ trø cÛng có
th‹ t¿ nhiên sinh ra, không do ThÜ®ng lj.
NhÜ vÆy là vÃn ÇŠ không ÇÜ®c giäi quy‰t trên bình diŒn lš
luÆn. Tri‰t gia c° kim chia ba phe, phe tin có thÜ®ng lj, phe bäo không, và phe
trung lÆp, không tuyŒt ÇÓi tin thÜ®ng lj toàn næng.
N‰u
tin vào thÜ®ng lj, m¶t vÃn ÇŠ khác låi sinh ra. M¶t sÓ tôn giáo tin ThÜ®ng lj
toàn næng, ngài ban ân phúc cho m†i ngu©i. VÆy ngÜ©i làm ác mà cÀu thÜ®ng lj là
ÇÜ®c lên thiên Çàng hay sao? N‰u thÜ®ng lj s¡p Ç¥t m†i s¿ thì con ngÜ©i có tự
do hay không? N‰u tin vào thiên mŒnh thì con ngÜ©i làm ác là do thÜ®ng lj sinh
ra, thÜ®ng lj phäi chÎu trách nhiŒm chÙ con ngÜ©i không bÎ trØng phåt, không bÎ
Çày xuÓng ÇÎa ngøc.
N‰u
thÜ®ng lj là toàn næng, tåi sao låi sinh ra kÈ xÃu, bŒnh tÆt và chi‰n tranh? NhÜ vÆy vÃn ÇŠ thÜ®ng lj là nan giäi,
là bÃt khä tri, không nên tranh luÆn. Con ngÜ©i phäi làm thiŒn Ç‹ tâm an låc và
th‰ gi§i hòa bình. Và Çó chính là trung Çåo cûa PhÆt giáo.
4 .Ni‰t
Bàn:
Theo quan niŒm cûa ñÙc PhÆt, møc Çích
tu là giäi thoát kh° ách luân hÒi:
Bạch Thế Tôn, giải thoát với mục đích gì?
- Giải thoát, này Ràdha, với mục đích Niết-bàn. . . .Nhập vào Niết-bàn, này Ràdha, là sự thực hành Phạm hạnh; Niết-bàn là mục tiêu cuối cùng; Niết-bàn là cứu cánh. (TU 3, Chuong 2, Tương Ưng Ràdha).
Ni‰t Bàn là møc Çích, là Çi‹m cuÓi cùng, là cõi hånh phúc cûa cu¶c l» hành:
Ví như, này
các Tỷ-kheo, sông Hằng thiên về phương ñông, hướng về phương ñông, xuôi về phương ñông; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập bốn Thiền, làm cho sung mãn bốn Thiền, thiên về Niết-bàn, hướng về Niết-bàn, xuôi về Niết-bàn. ( TÜÖng Ung V, Thiên
ñại Phẩm. ChÜÖng IX.TÜÖng Ðng ThiŠn), 262.
Thưa Tôn giả Gotama, ví như con sông Hằng (Ganga) hướng về biển cả, chảy về biển cả, xuôi dòng về biển cả, liền đứng lại khi xúc chạm với biển cả; cũng vậy hội chúng này của Tôn giả Gotama, gồm có cư sĩ và xuất gia, hướng về Niết-bàn, chảy về Niết-bàn, xuôi dòng về Niết-bàn, đứng lại khi xúc chạm với Niết-bàn. (Trung Bộ Kinh2, 73.Vaccaghotta, 231)
Khi Çã qua các giai Çoån thiŠn, Çåt ÇÌnh cao cûa viŒc tu tÆp là chÙng nhÆp cänh gi§i Ni‰t Bàn, không còn phäi ÇÀu thai, chÎu n°i kh° cûa luân hÒi. ñÙc PhÆt dåy:
Này các
Tỷ-kheo, như vậy Như Lai khéo chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ
( TrÜờng B¶ Kinh I.
XIV. Kinh ñåi B°n, 25)
Các
Çåo sÜ và nhà biên khäo có š ki‰n khác nhau vŠ Ni‰t Bàn. Theo Th¡ng
Pháp TÆp Y‰u LuÆn, Ni‰t Bàn là do ch» Pali
Nibbana, còn Sanskrit là Nirvana. Nibbàna hay Nirvàna (Phạm-văn) gồm
có Ni và Vana, Ni có nghĩa
là không. Vàna có nghĩa là
ái. Chính ái này tác dụng
như một sợi dây nối
liền các đời sống của
một cá nhân, khi cá nhân
này trôi lăn trong biển sanh-tử. CÛng có cách giäi thich khác. Ni có nghĩa là không, Vàna: có nghĩa là thổi tắt.
Nibbàna có nghĩa là thổi tắt lửa
tham ái, sân-hận và si-mê.
Niết-Bàn là nguyên lš cuối cùng (Vatthudhamma) thuộc về siêu thế,
ra ngoài thế giới của tâm và sắc
hay ngÛ uẩn. ñÙc PhÆt Çã
nói ljn hai loåi Ni‰t Bàn:
Này các
Tỷ-kheo, có hai Niết-bàn giới này. Thế nào là hai? Niết-bàn giới có dư y và Niết-bàn giới không có dư y.
Này các
Tỷ-kheo, thế nào là Niết-bàn giới có dư y? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy, năm căn còn tồn tại, ngang qua các căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả š, không khả š vì rằng tự ngã không có thương hại cảm giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Niết-bàn có dư y.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là Niết-bàn giới không có dư y? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh trí. Ở đây, đối vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỷ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là Niết-bàn không có dư y. Này
các Tỷ-kheo có hai Niết-bàn giới này này được nói đến..Thế Tôn đã nói lên š nghĩa này, ở đây (TIEU BỘ I, chương 2, PhÄm 2)
Khi Çã qua các giai Çoån thiŠn, Çåt ÇÌnh cao cûa viŒc tu tÆp là chÙng nhÆp cänh gi§i Ni‰t Bàn, không còn phäi ÇÀu thai, chÎu n°i kh° cûa luân hÒi. ñÙc PhÆt dåy:
Này các
Tỷ-kheo, như vậy Như Lai khéo chứng đạt pháp giới này, Như Lai nhớ chư Phật quá khứ, những vị này đã nhập Niết-bàn, đã đoạn các chướng đạo, đã chấm dứt sự luân hồi, đã thoát ly mọi đau khổ.
( TrÜờng B¶ Kinh I.
XIV. Kinh ñåi B°n, 25)
Cæn cÙ vào nghïa Çen cûa Nirvana, nhiŠu
h†c giä chû trÜÖng Ni‰t Bàn là cäm giác, là trång thái tâm lš. NhÆn ÇÎnh nhÜ
vÆy là sai lÀm vì ngôn ng» nào cÛng có nghïa bóng, nghïa Çen, và ngÜ©i ta dùng
nh»ng tØ cø th‹ Ç‹ tä nh»ng ÇiŠu trØu tÜ®ng. M¶t sÓ h†c giä quan niŒm r¢ng Niết-Bàn là nguyên lš cuối cùng (Vatthudhamma) thuộc về siêu thế,
ra ngoài thế giới của tâm và sắc
hay ngÛ uẩn. Theo Th¡ng Pháp TÆp Y‰u LuÆn thì có hai loåi
Ni‰t Bàn: Ni‰t bàn trܧc và sau khi ch‰t. Ni‰t Bàn ÇÜ®c chúng ng¶ nh© tr¿c
giác. ( PhÀn VI. Nibbanà ,32-34).
ñoàn Trung Còn ÇÎnh nghïa nhÜ sau:
Ni‰t Bàn
là cänh trí cûa nhà tu hành dÙt såch các phiŠn não và t¿ bi‰t r¢ng mình ch£ng
còn luy‰n ái.
Ni‰t: (Nir) : Ra khÕi. Bàn hay Bàn Na: là rØng, tÙc là ra khÕi cänh rØng
mê tÓi, rØng phiŠn não.
Sách ch» Hán dÎch Ni‰t
Bàn ra nhiŠu nghïa:
(1). DiŒt: dÙt nhân nhÖn
quä sanh tº, dÙt nghiŒp luân
hÒi.
(2). DiŒt Ƕ: DÙt nhân quä sanh tº, qua khÕi dòng nܧc månh.
(3). TÎch diŒt: TÎch là vô vi, trÓng không, l¥ng lë, an °n. DiŒt: cái tai
håi l§n cûa sanh tº Çã diŒt.
(4). BÃt sanh: Nh»ng kh° quä sanh tº ch£ng còn n»a, tÙc ch£ng sanh ra n»a.
(5). Vô vi: không nhÖn
duyên tåo tác nghiŒp lÀm.
(6). An låc: An °n, khoái låc, h‰t kh°
(7). Giäi thoát: lìa khÕi các phiŠn não
ñÓi v§i Nam tông, nhÆp
Ni‰t Bàn là ÇÜ®c vào nÖi ngÖi nghÌ, tr†n vËn, dÙt tÃt cä vØa th‹ chÃt vØa tinh
thÀn.
ñÓi v§i B¡c tông, nhÆp
Ni‰t Bàn là vào cõi cao rÓt sau khi linh hÒn Çã qua khÕi các tØng tr©i và ti‰n
b¶. ( PhÆt H†c TØ ñiŠn, 335).
N‰u
có hai loåi Ni‰t Bàn tåi th‰ và Ni‰t Bàn sau khi ch‰t, thì Ni‰t Bàn h»u dÜ y, Ni‰t bàn tåi th‰ là cäm
giác, là trång thái tâm hÒn thanh tïnh, an låc. NhÜng Ni‰t Bàn sau khi ch‰t thì
khác, không còn là cäm giác, mà là m¶t cänh gi§i siêu nhiên nhÜ Thiên Çàng cûa
các tôn giáo khác.
Thật vậy, có Niết Bàn tại thế và Niết
Bàn sau khi chết. Đức Phật năm 49 tuổi thành đạo, và 500 vị đệ tử thành La Hắn
tức là đã đạt Niết Bàn tại thế.
M¶t sÓ
quan niŒm Ni‰t Bàn là ch‰t (tÎch, diŒt), là vô tri , vô giác. DiŒt là diŒt ÇÜ®c
døc v†ng, t¡t là t¡t tham ái; bÃt sinh bÃt diŒt nghïa là không sinh mÀm xÃu,
không tái sinh, không bÎ diŒt trong luân hÒi chÙ không có nghïa là bÎ tiêu
diŒt, là ch‰t vïnh viÍn. Møc Çích tu hành cûa ÇÙc PhÆt là giäi thoát chúng sinh
trong Çó có nhân loåi thoát khÕi kh° ách luân hÒi. Ngài Çã nhiŠu lÀn nhÃn månh
cÙu cánh Ni‰t Bàn. Ni‰t Bàn phäi là m¶t cõi cao hÖn Thiên gi§i thì m§i
thoát khÕi luân hÒi. Niết Bàn là một cảnh giới cao hơn thiên giới, là nơi vĩnh viễn hạnh phúc, thoát khổ ách luân hồi.
ñÙc PhÆt
nhiŠu lÀn nhÃn månh vŠ Ni‰t Bàn là an
låc, là chÙng Ç¡c, là vÜ®t luân hÒi. VÆy
Ni‰t Bàn không phãi là cõi ch‰t vïnh viÍn, là cäm giác, mà là m¶t cõi an låc, m¶t th‰ gi§i vïnh c»u an låc. Quan niŒm này phù h®p v§i vÛ trø quan PhÆt giáo. PhÆt giáo chû trÜÖng th‰ gi§i có nhiŠu cõi. Con ngÜ©i t¶i l‡i thì sau khi ch‰t ÇÀu thai làm ngå qu›, súc sinh, trª låi làm ngÜ©i; còn nh»ng ai ÇÙc hånh së lên thiên gi§i làm thÀn, thánh, tiên, thÜ®ng lj. . .
NhÜng ThÜ®ng ñ‰ rÒi cÛng trÀm luân. ChÌ có nh»ng ai chÙng quà Ni‰t Bàn là thoát trÀm luân. ñó là Çi‹m sáng tåo cûa ÇÙc PhÆt và là con ÇÜ©ng giác ng¶ cûa Ngài. Nh»ng ai quan niŒm Ni‰t Bàn là trång thái là cäm giác thì cÛng nhÜ nh»ng ngÜ©i mù s© m¶t vài b¶ phÆn cûa con voi. N‰u h† s© h‰t tÃt cä, h† së có quan niŒm khác.
ñó là quan niŒm cûa các nhà duy vÆt. CÛng có th‹ là quan niŒm các PhÆt tº suÓt Ç©i tu tÆp mà ch£ng Çåt ÇÜ®c thành quä nào. CÛng có th‹ Çó là cäm nghï cûa m¶t vài hành nhân Çã ÇÜ®c m¶t quäng ÇÜ©ng khá dài nhÜng chÜa ljn Çich. Mãy ai trª thành A La Hán, BÒ Tát? ñÓi v§i Ça sÓ, Ni‰t Bàn là m¶t cõi xa v©i. Tuy nhiên n‰u Çåt ÇÜ®c m¶t ít an låc tÙc là Çã hܪng mùi vÎ Ni‰t Bàn, nhÜng con ÇÜ©ng tØ núi rØng ljn kinh Çô còn xa.
Ni‰t Bàn không phãi là cõi ch‰t vïnh viÍn, là cäm giác, mà là m¶t cõi an låc, m¶t th‰ gi§i vïnh c»u an låc. Quan niŒm này phù h®p v§i vÛ trø quan PhÆt giáo. PhÆt giáo chû trÜÖng th‰ gi§i có nhiŠu cõi. Con ngÜ©i t¶i l‡i thì sau khi ch‰t ÇÀu thai làm ngå qu›, súc sinh, trª låi làm ngÜ©i; còn nh»ng ai ÇÙc hånh së lên thiên gi§i làm thÀn, thánh, tiên, thÜ®ng lj. . .
NhÜng ThÜ®ng ñ‰ rÒi cÛng trÀm luân. ChÌ có nh»ng ai chÙng quà Ni‰t Bàn là thoát trÀm luân. ñó là Çi‹m sáng tåo cûa ÇÙc PhÆt và là con ÇÜ©ng giác ng¶ cûa Ngài. Nh»ng ai quan niŒm Ni‰t Bàn là trång thái là cäm giác thì cÛng nhÜ nh»ng ngÜ©i mù s© m¶t vài b¶ phÆn cûa con voi. N‰u h† s© h‰t tÃt cä, h† së có quan niŒm khác.
ñó là quan niŒm cûa các nhà duy vÆt. CÛng có th‹ là quan niŒm các PhÆt tº suÓt Ç©i tu tÆp mà ch£ng Çåt ÇÜ®c thành quä nào. CÛng có th‹ Çó là cäm nghï cûa m¶t vài hành nhân Çã ÇÜ®c m¶t quäng ÇÜ©ng khá dài nhÜng chÜa ljn Çich. Mãy ai trª thành A La Hán, BÒ Tát? ñÓi v§i Ça sÓ, Ni‰t Bàn là m¶t cõi xa v©i. Tuy nhiên n‰u Çåt ÇÜ®c m¶t ít an låc tÙc là Çã hܪng mùi vÎ Ni‰t Bàn, nhÜng con ÇÜ©ng tØ núi rØng ljn kinh Çô còn xa.
Nh»ng hiŒn
tÜ®ng ÇÀu thai, nh§ tiŠn ki‰p Çã ÇÜ®c ki‹m tra, tìm hi‹u nhÜng nh»ng nhà khoa
h†c chÜa dám có k‰t luÆn chÙng th¿c. PhÆt giáo Tây Tång và PhÆt giáo Hòa Häo là
niŠm tin l§n vào ÇÀu thai, chuy‹n ki‰p.
-Nh© thành t¿u
thiŠn, ÇÙc PhÆt Çã thÃy ÇÜ®c tiŠn thân, nh»ng tiŠn thân tÓi thÜ®ng cûa PhÆt.
ñi‹m này cho ta thÃy ÇÙc PhÆt ÇÀu thai ª
cõi trÀn nhÜng không phäi là m¶t ngÜ©i bình thÜ©ng:
Này các Tỷ-kheo, chín mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Vipassì (Tỳ-bà-thi), bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, ba mươi mốt kiếp về trước, Thế Tôn Sikhì (Thi-khí) bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong ba mươi mốt kiếp ấy, Thế Tôn Vessabhù (Tỳ-xá-bà) bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Kakusandha (Câu-lâu-tôn) bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Konàgamana (Câu-na-hàm) bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, Thế Tôn Kassapa (Ca-diếp) bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời. Này các Tỷ-kheo, cũng trong tiền kiếp ấy, nay Ta, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác ra đời.
5. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasì, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác sanh thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác, thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác, thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh
trong giai cấp Bà-la-môn. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh
trong giai cấp Bà-la-môn. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc chủng tánh Bà-la-môn, sanh
trong giai cấp Bà-la-môn.
Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc chủng tánh Sát-đế-lỵ, sanh trong giai cấp Sát-đế-lỵ.
6. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipasì, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna (Câu-ly-nhã). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kondanna.
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamara, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa.
Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Çẳng Giác, thuộc danh tánh Gotama (Cù-đàm).(TrÜ©ng B¶ Kinh I, 14. Kinh ñại bổn)
Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kakusandha, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamara, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa. Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh ñẳng Giác thuộc danh tánh Kassapa.
Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Çẳng Giác, thuộc danh tánh Gotama (Cù-đàm).(TrÜ©ng B¶ Kinh I, 14. Kinh ñại bổn)
Nh© tu tÆp thiŠn thành t¿u, ÇÙc PhÆt
Çåt ÇÜ®c phép thÀn thông, có th‹ ljn các cõi tr©i, thuy‰t pháp cho chÜ thiên:
Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ở tại Ukkattha trong rừng
Subhagavana, dưới gốc cây Tala vương. Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi lên ác tà kiến như sau: "Cái này là thường, cái
này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái
này không bị biến hoại, cái này không sanh,
không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này,
không có một giải thoát nào khác hơn".
Này các
Tỷ-kheo, sau khi với tự tâm biết được tâm của Phạm thiên Baka, như người lực sĩ duỗi ra cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, Ta biến mất tại Ukkattha, rừng Sabhagavana, dưới gốc cây Tala vương, và hiện ra tại cõi Phạm thiên ấy. Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Ta:
"-
Hãy đến, Tôn giả, thiện lai Tôn giả, đã lâu, nay Tôn giả mới có dịp đến đây. Này Tôn giả, cái
này là toàn diện, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sanh,
không già, không chết, không diệt, không khởi, ngoài cái này không
có một giải thoát nào khác hơn (Trung Bộ Kinh I, 49.
Kinh Phạm
Thiên cầu thỉnh).
Khi ÇÙc PhÆt thuy‰t pháp, các vÎ tiên, thánh thÀn ª Çây tÆp trung rÃt Çông Ç‹
nghe l©i PhÆt dåy:
Này
Sàriputta, chư Thiên ấy tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau
(TĂNG CHI
I,ChÜÖng2, IV. PhÄm Tâm thæng b¢ng ).
Có nh»ng Çi‹m khác biŒt
gi»a kinh Çi‹n Nam Tông và B¡c Tông, nhÜng cÛng có nhiŠu Çi‹m tÜÖng ÇÒng. Các
kinh Çi‹n B¡c Tông vÅn thØa nhÆn tri‰t lš cæn bän cûa PhÆt giáo là TÙ DiŒu ñ‰,
Bát Chánh ñåo, ThÆp NhÎ Nhân Duyên, NgÛ UÄn, Luân hÒi løc Çåo, NghiŒp báo v.
v.. .
M¶t sÓ kinh B¡c Tông cÛng vi‰t vŠ viŒc ÇÙc PhÆt Çi ljn Tam Thiên ñåi Thiên Th‰ gi§i, và viŒc chÜ Thiên tÆp h†p Ç‹ nghe PhÆt thuy‰t pháp. Quan Çi‹m Tam Th‰ PhÆt cÛng Çã ÇÜ®c ÇÙc PhÆt minh xác. ñÙc PhÆt Thích Ca là PhÆt hiŒn tåi, các tiŠn thân cûa PhÆt là PhÆt Quá KhÙ, và Di L¥c là PhÆt tÜÖng lai. T° chÙc væn hóa nào trong Çó có tôn giáo cÛng phäi giäi quy‰t n°i Çau kh° tinh thÀn và vÆt chÃt cho con ngÜ©i, phäi hòa ÇÒng v§i quÀn chúng trong h¶i hè, lÍ bái, phäi có nh»ng nghi thÙc tøng niŒm, cÀu nguyŒn, cÀu an. ñØng k‰t t¶i tôn giáo.
N‰u quš vÎ cÛng là thành viên cûa m¶t giáo h¶i, ch§ nên chÌ trích tôn giáo khác mê tín dÎ Çoan vì tôn giáo nào cÛng có nh»ng thÀn thoåi và ÇÙc tin. N‰u quš vÎ là nhà khoa h†c, quš vÎ ÇØng chÌ trích vì tôn giáo không là ÇÓi tÜ®ng nghiên cÙu cûa quš vÎ. N‰u quš vÎ là nhà chính trÎ, xin ÇØng Çàn áp tôn giáo, tܧc Çoåt quyŠn t¿ do tín ngÜ«ng cûa nhân dân. ñoàn th‹ nào cÛng có ngÜ©i tÓt kÈ xÃu. Tôn giáo Çã là nån nhân cûa nh»ng th‰ l¿c bên ngoài xâm læng và th‰ l¿c bên trong ch‰ ng¿. NgÜ©i Á ñông ta có tinh thÀn r¶ng mª. Các vua Lš TrÀn là nh»ng vÎ sÜ nhÜng vÅn phát tri‹n Nho h†c và Lão giáo.
Tinh thÀn Tam giáo ÇÒng nguyên Çã làm nŠn täng cho væn hóa ViŒt Nam. NgÜ©i ViŒt Nam, Trung QuÓc quan niŒm ñåo là con ÇÜ©ng. Có th© cúng hay không th© cúng, có giáo chû hay không giáo chû, có lÍ nghi hay không nghi lÍ, tÃt cä ÇŠu không quan tr†ng. Cái quan tr†ng là nŠn væn hóa này, vÎ giáo chû này phäi chÌ cho ta m¶t con ÇÜ©ng Çi ljn chân, thiŒn, mÏ. Con Çܪng này chÌ Çi trong hiŒn tåi hay hܧng ljn tÜÖng lai, hay chÌ quay vŠ quá khÙ?
Cái Çó là quyŠn l¿a ch†n cûa nhân dân. Trong væn hóa Tam giáo, chÜa thÃy ai dùng tiŠn båc, th‰ l¿c Ç‹ b¡t ép ngÜ©i vào Çåo. Vì vÆy, Tam giáo là T¿ Do, nhÃt là PhÆt giáo, m¶t tôn giáo rÃt t¿ do và cªi mª. PhÆt giáo không tham gia viŒc chính quyŠn. ñ©i Lš TrÀn, các sÜ chÌ vào kinh giäng thuy‰t, ho¥c làm cÓ vÃn cho vua.
Sau khi PhÆt tÎch diŒt, PhÆt giáo không có nh»ng vÎ giáo chû, giáo tông quyŠn th‰ nhÜ vua chúa. PhÆt giáo không b¡t tín ÇÒ Çi lÍ, Çóng góp theo quy ÇÎnh. Các tu sï không phäi là nh»ng viên chÙc hành chánh hay an ninh ÇÓi v§i các tín ÇÒ cûa mình. PhÆt giáo không lÆp tòa án giáo h¶i Ç‹ xº t¶i tín ÇÒ và nhân dân trong nܧc. TÃt cä là do tâm t¿ nguyŒn. PhÆt giáo là m¶t tôn giáo t¿ do, là m¶t con ÇÜ©ng chính Çåo, và thiŒn Çåo.
M¶t sÓ kinh B¡c Tông cÛng vi‰t vŠ viŒc ÇÙc PhÆt Çi ljn Tam Thiên ñåi Thiên Th‰ gi§i, và viŒc chÜ Thiên tÆp h†p Ç‹ nghe PhÆt thuy‰t pháp. Quan Çi‹m Tam Th‰ PhÆt cÛng Çã ÇÜ®c ÇÙc PhÆt minh xác. ñÙc PhÆt Thích Ca là PhÆt hiŒn tåi, các tiŠn thân cûa PhÆt là PhÆt Quá KhÙ, và Di L¥c là PhÆt tÜÖng lai. T° chÙc væn hóa nào trong Çó có tôn giáo cÛng phäi giäi quy‰t n°i Çau kh° tinh thÀn và vÆt chÃt cho con ngÜ©i, phäi hòa ÇÒng v§i quÀn chúng trong h¶i hè, lÍ bái, phäi có nh»ng nghi thÙc tøng niŒm, cÀu nguyŒn, cÀu an. ñØng k‰t t¶i tôn giáo.
N‰u quš vÎ cÛng là thành viên cûa m¶t giáo h¶i, ch§ nên chÌ trích tôn giáo khác mê tín dÎ Çoan vì tôn giáo nào cÛng có nh»ng thÀn thoåi và ÇÙc tin. N‰u quš vÎ là nhà khoa h†c, quš vÎ ÇØng chÌ trích vì tôn giáo không là ÇÓi tÜ®ng nghiên cÙu cûa quš vÎ. N‰u quš vÎ là nhà chính trÎ, xin ÇØng Çàn áp tôn giáo, tܧc Çoåt quyŠn t¿ do tín ngÜ«ng cûa nhân dân. ñoàn th‹ nào cÛng có ngÜ©i tÓt kÈ xÃu. Tôn giáo Çã là nån nhân cûa nh»ng th‰ l¿c bên ngoài xâm læng và th‰ l¿c bên trong ch‰ ng¿. NgÜ©i Á ñông ta có tinh thÀn r¶ng mª. Các vua Lš TrÀn là nh»ng vÎ sÜ nhÜng vÅn phát tri‹n Nho h†c và Lão giáo.
Tinh thÀn Tam giáo ÇÒng nguyên Çã làm nŠn täng cho væn hóa ViŒt Nam. NgÜ©i ViŒt Nam, Trung QuÓc quan niŒm ñåo là con ÇÜ©ng. Có th© cúng hay không th© cúng, có giáo chû hay không giáo chû, có lÍ nghi hay không nghi lÍ, tÃt cä ÇŠu không quan tr†ng. Cái quan tr†ng là nŠn væn hóa này, vÎ giáo chû này phäi chÌ cho ta m¶t con ÇÜ©ng Çi ljn chân, thiŒn, mÏ. Con Çܪng này chÌ Çi trong hiŒn tåi hay hܧng ljn tÜÖng lai, hay chÌ quay vŠ quá khÙ?
Cái Çó là quyŠn l¿a ch†n cûa nhân dân. Trong væn hóa Tam giáo, chÜa thÃy ai dùng tiŠn båc, th‰ l¿c Ç‹ b¡t ép ngÜ©i vào Çåo. Vì vÆy, Tam giáo là T¿ Do, nhÃt là PhÆt giáo, m¶t tôn giáo rÃt t¿ do và cªi mª. PhÆt giáo không tham gia viŒc chính quyŠn. ñ©i Lš TrÀn, các sÜ chÌ vào kinh giäng thuy‰t, ho¥c làm cÓ vÃn cho vua.
Sau khi PhÆt tÎch diŒt, PhÆt giáo không có nh»ng vÎ giáo chû, giáo tông quyŠn th‰ nhÜ vua chúa. PhÆt giáo không b¡t tín ÇÒ Çi lÍ, Çóng góp theo quy ÇÎnh. Các tu sï không phäi là nh»ng viên chÙc hành chánh hay an ninh ÇÓi v§i các tín ÇÒ cûa mình. PhÆt giáo không lÆp tòa án giáo h¶i Ç‹ xº t¶i tín ÇÒ và nhân dân trong nܧc. TÃt cä là do tâm t¿ nguyŒn. PhÆt giáo là m¶t tôn giáo t¿ do, là m¶t con ÇÜ©ng chính Çåo, và thiŒn Çåo.
Có nh»ng Çi‹m khác biŒt gi»a PhÆt giáo và các tôn
giáo khác.Tuy nhiên, PhÆt giáo cÛng có nhiŠu Çi‹m tÜÖng ÇÒng v§i các tôn giáo
khác. ñi‹m giÓng nhau là duy tâm, siêu hình và Çåo lš. PhÆt giáo là h»u thÀn vì
chû trÜÖng linh hÒn tÒn tåi sau khi ch‰t, tin có ÇÀu thai chuy‹n ki‰p, có nhân
quä báo Ùng và tin r¢ng có thiên gi§i, ÇÎa ngøc, ma qu›, thÀn linh và chúa t‹
các cõi tr©i. TÃt cä giáo lš, niŠm tin trên tåo m¶t cu¶c sÓng Çåo ÇÙc và thanh
bình cho con ngÜ©i trong khi trên th‰ gi§i bi‰t bao cá nhân, bao th‰ l¿c m¶t
chi‰m Çoåt th‰ gi§i, trong ÇÀu óc h† luôn tìm phÜÖng cách chinh phøc con ngÜ©i
b¢ng tiŠn tài, danh l®i và b¢ng vÛ l¿c.
CHÐ÷NG XV
TỰ LỰC VÀ THA LỰC
I.
TỰ LỰC.
Đặc điểm chính
của Phật giái là tự lực, chính đặc điểm này làm cho Phật giáo khác với các tôn
giáo khác. Phần lớn các tôn giáo đều chủ trương tin cậy tha lực. Bà La Môn Giáo
(Brahmanisme) tức Án Độ giáo (Hindouisme) là một tôn giáo xưa nhất trong lịch
sử nhân loại đã tôn thờ thượng đế (Brahman). Thượng Đế hay thần thánh là những
vị thần tối cao, còn tồn tại trong thế giới siêu hình, và có khả năng can thiệp
vào đời sống con người.
Người ta theo tôn giáo là để đặt niềm tin vào đấng Thiêng Liêng, nhờ cậy Thiêng liêng phù hộ, độ trì, ban ơn ban phước, cứu nạn giải ách. Trong những lúc đau khổ, thất bại, con người lại cần Thượng Đế, Thần Linh. Các kinh kệ, triết lý và nghi thức đều nhắm vào việc cầu khẩn thần linh. Người ta cầu thần linh bằng nhiều cách . Có nơi người ta giết người để cúng tế, bất chấp thuyết bác ái, thuyết huynh đệ của đấng tối cao.
Trong vũ trụ quan và triết lý Phật giáo, con người tùy theo kết quả của hành động thiện ác trong đời mà luân hồi trong sái nẻo. Phật giáo chia ra tam giới, nhưng chúng ta có thể chia hai thế là thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Thế giới hữu hình gồm có súc sinh và loài người. Thế giới vô hình có ngạ quỷ, địa ngục, A tu la và các cõi trời.
Các cõi trời cao nhất. Trên đó là thế giới của Tiên, thánh, thần. Trong mỗi cõi tròi, cao nhất là Thượng đế, cũng gọi là Thiên chủ, thiên chúa hay Thiên vương. Con người it kẻ được tái sinh làm người huống hồ làm Thánh, thần, tiên. Mục đích của Bà La môn là được tái sinh vào Phạm Thiên (tức Thượng Đế, cõi Trời). Phật cũng dạy các phương pháp tu tập, trong đó có niệm Thiên, tức là suy nghĩ về Thượng Đế, cầu khẩn Thượng Đế nhưng Phật dạy rằng Thượng Đế là cõi cao nhất trong lục đạo nhưng mãn kiếp ở cõi trời có thể nhập Niết Bàn nhưng cũng có thể đọa lạc luân hồi mà vào sáu cõi.
Người ta theo tôn giáo là để đặt niềm tin vào đấng Thiêng Liêng, nhờ cậy Thiêng liêng phù hộ, độ trì, ban ơn ban phước, cứu nạn giải ách. Trong những lúc đau khổ, thất bại, con người lại cần Thượng Đế, Thần Linh. Các kinh kệ, triết lý và nghi thức đều nhắm vào việc cầu khẩn thần linh. Người ta cầu thần linh bằng nhiều cách . Có nơi người ta giết người để cúng tế, bất chấp thuyết bác ái, thuyết huynh đệ của đấng tối cao.
Trong vũ trụ quan và triết lý Phật giáo, con người tùy theo kết quả của hành động thiện ác trong đời mà luân hồi trong sái nẻo. Phật giáo chia ra tam giới, nhưng chúng ta có thể chia hai thế là thế giới hữu hình và thế giới vô hình. Thế giới hữu hình gồm có súc sinh và loài người. Thế giới vô hình có ngạ quỷ, địa ngục, A tu la và các cõi trời.
Các cõi trời cao nhất. Trên đó là thế giới của Tiên, thánh, thần. Trong mỗi cõi tròi, cao nhất là Thượng đế, cũng gọi là Thiên chủ, thiên chúa hay Thiên vương. Con người it kẻ được tái sinh làm người huống hồ làm Thánh, thần, tiên. Mục đích của Bà La môn là được tái sinh vào Phạm Thiên (tức Thượng Đế, cõi Trời). Phật cũng dạy các phương pháp tu tập, trong đó có niệm Thiên, tức là suy nghĩ về Thượng Đế, cầu khẩn Thượng Đế nhưng Phật dạy rằng Thượng Đế là cõi cao nhất trong lục đạo nhưng mãn kiếp ở cõi trời có thể nhập Niết Bàn nhưng cũng có thể đọa lạc luân hồi mà vào sáu cõi.
Thiên giới là
cõi cao nhất nhưng chưa phải là mục đích rốt ráo giải thoát luân hồi. Nát Bàn
là cõi cao hơn Thiên giới. Muốn đến cõi này thì phải tu hành. Tất cả kết quả
trong quá khứ, hiện tại và tương lai, xuống địa ngục hay lên cõi trời, làm súc
sinh hay loài người đều do kết quả hành động thân khẩu ý trong đời. Như vậy
chính ta tao hạnh phúc hay xô ta xuống khổ ải chứ không ai khác. Ta phải tự ta
tìm hạnh phúc, tìm giải thoát. Đó là ý nghĩa của tự lực. Trồng dưa được dưa,
trồng đậu được đậu. Ta gieo trồng thì ta gặt hái kết quả.
Đức Phật dạy:
Đức Phật dạy:
5. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử
muốn có an lạc, không có thể do cầu xin an lạc hay tán thán để làm nhân đem đến
an lạc. Vị Thánh đệ tử muốn có an lạc cần phải thực hành con đường dẫn đến an
lạc. Do vị ấy thực hành con đường dẫn đến an lạc, sự thực hành ấy đưa đến vị ấy
nhận lãnh được an lạc, vị ấy nhận lãnh được an lạc hoặc chư Thiên, hoặc loài
Người. 6. Này Gia chủ, vị Thánh đệ tử muốn có tiếng tốt, không có thể do cầu
xin tiếng tốt hay tán thán để làm nhân đem đến tiếng tốt. Vị Thánh đệ tử muốn
có tiếng tốt cần phải thực hành con đường dẫn đến tiếng tốt. Do vị ấy thực hành
con đường dẫn đến tiếng tốt, sự thực hành ấy đưa vị ấy nhận lãnh được tiếng
tốt, vị ấy nhận lãnh được tiếng tốt hoặc chư Thiên, hoặc loài Người (Tăng
Chi, Chương V - Năm Pháp. I. Phẩm Sức Mạnh Hữu Học (III) (43) Khả Lạc)
Thần Linh cũng phải căn cứ vào thiện nghiệp hay ác báo của ta mà xử lý, không thể vì ai cầu xin nhiều. hối lộ nhiều mà cho kẻ ác hưởng phước nhiều hoặc được tha tội. Nho gia cũng nói đến thuyết Nhân quả, và sự công bằng trong thế giới siêu hình. Khi ta đã phạm tội ác thì không thể cầu khẩn thần linh.
Kinh Thư có câu: Hoàng Thiên vô thân duy đức thị phụ 皇天無親惟德是輔.(Trời không thân riêng ai, người có đức thì được trợ giúp)
Khổng Tử nói:"Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo giả" 獲罪於天無所禱也 (Có tội với Trời còn cầu nguyện vào đâu được!)
Như vậy phúc tội là do ta mà Thượng Đế hay Thần linh chỉ là vị giám sát, là quan tòa cân nhắc công tội. Trước khi nhập diệt, đức Phật đã dạy các đệ tử phải tự lực để giải thoát, đừng mong cầu tha lực:
Này Ananda, những ai hiện nay
hoặc sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa
chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một gì khác; những vị
ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị
ấy tha thiết học hỏi.
(Trường Bộ Kinh I, Kinh Đại Niệm
xứ, Tụng phẩm 2, 26, 58)
-Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác.(Tương ưng III, Chương I.Tương Ưng Uẩn .Tự Mình Làm Hòn đảo,51).
-Hãy sống tự mình làm hòn đảo cho chính mình, này các Tỷ-kheo, hãy nương tựa nơi chính mình, không nương tựa một ai khác. Hãy lấy pháp làm hòn đảo, hãy lấy pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một ai khác.(Tương ưng III, Chương I.Tương Ưng Uẩn .Tự Mình Làm Hòn đảo,51).
Thường ngày, Đức Phật đã dạy các đệ tử phải lo tự độ:
Này Ananda, các ngươi hãy nỗ lực, hãy tin tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng tự độ. (Trường Bộ III, Kinh Đại Bát Niết Bàn, 141A)
Này Ananda, các ngươi hãy nỗ lực, hãy tin tấn hướng về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng tự độ. (Trường Bộ III, Kinh Đại Bát Niết Bàn, 141A)
II. THA LỰC
Tôn giáo nào cũng đề cao vai trò
của đức tin. Ngay trong chính trị, kinh tế, quân sự, con người cũng cần có niềm
tin. Chủ nghĩa duy vật bài xích tín ngưỡng nhưng chính chủ nghĩa Marx đã trở
thành tốn giáo và các lãnh tụ là những kẻ giáo điều mù quáng. Các tôn giáo đều đặt nặng vào sự tin tưởng thần linh, vào thượng, lấy sự cầu xin, van lạy làm
chính. Phật giáo thì đặt năng về tự lực.
Trong cuộc
đời, bất cứ việc gì, con người phải tư lực, tự đứng lên trên hai chân mình, tự
lao động, tự tìm tòi, tự học hỏi. Không ai ăn hộ, uống giùm cho người khác.
Nhiều người không lo tu tập, không chú trọng hành thiện, họ làm ác, họ sống
buông thả, chạy theo vật dục mà lại cầu xin Thượng đế ban ân huệ. . Đó là một
cách hối lộ thần thánh. Thượng Đế có ban ân cho kẻ ác không? Thượng Đế là đấng
cao cả, không phải là một kẻ thích nịnh hót, thích hối lộ và có tâm thiên lệch.
Thượng Đế phải là bậc công bằng chính trực, xét xử công minh. Thiên chúa giáo
tin rằng có ngày phán xét cuối cùng, nghĩa là Thiên chúa giáo tin vào luật nhân
quả:"Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ."
Những người duy vật và khác tôn giáo cho rằng đức Phật chủ trương tự độ, nghĩa là ai lo nấy, không có sự giúp đỡ, không có sự cầu xin, không có sự tin tưởng duy tâm.
Vì đa số người mất khả năng tranh đấu, không tự mình làm đuốc cho chính mình,làm hòn đảo cho chính mình mà chỉ ỷ lại vào người khác, vào thần linh. Đó là một thái độ sai lầm cho nên đức Phật nhấn mạnh về tự lực, chỉ cho chúng sinh một con đường sống tự lập và hạnh phúc, đó là tinh thần thần tự lập. Nói như vậy không phải là không có sự phù hộ, sự giúp đỡ. Tự lực và tha lực không mâu thuẫn mà kết hợp nhau.
Một số người khác cho rằng Phật chỉ là một con người, một thường nhân, không có khả năng giúp đỡ, chỉ có thần thánh, thượng đế mới có uy lực để thưởng thiện, phạt ác. Thật vậy, Phật là một người thường , con của vua Tịnh Phạn. Và tất cả chúng ta cũng là những con người thường.Nhưng với cái nhìn vô thủy vô chung của luân hồi, con người hôm nay đã trải qua bao kiếp sống. Chúng ta có thể từ súc sinh , hay từ thiên đàng mà đến thế gian.
Trong tương lai, chúng ta có thể lên thiên giới, hay lên cõi Niết Bàn. Đức Phật là người thường nhưng là một người rất đặc biệt. Trong quá khứ , Ngài đã là Phật, Ngài đã đến Thiên giới, đã thuyết pháp cho các thiên chúa, thiên vương, thượng đế. Ngài xưng là bậc thầy của thượng đế và loài người. Trong các kinh Nguyên Thủy, nhất là Tăng Chi bộ kinh, đức Phật thường nói đến việc này.
Và đức Phật cũng nói cõi Niết Bàn là cõi cao nhất, là nơi tham dục đã bị đốt cháy, là nơi hạnh phúc vĩnh viễn, cón Thiên đàng, hay Thiên giới, các chúa trời, thiên vương và các tiên, thánh,thần sau một thời gian sung sướng phải đầu thai vào trong lục đạo. (1)
Như vậy, Phật được Thượng đế, tiên thánh, thần linh kính trọng, và có địa vị cao hơn Thượng đế. Đức Phật đã nói trong Tăng Chi bộ kinh:
Trong thế giới chư Thiên
Phật được gọi tối thượng. ( V. 15. Thi thiết)
Các tôn giáo khác đề cao phép màu của các thần linh, và khả năng cứu rỗi. Đức Phật khuyên đệ tử tu tập, không khuyến khích về phép lạ mặc dầu Ngài có phép lạ. Đức Phật có quyền năng siêu việt, như đi từ cõi trời này sang cõi trời khác trong nháy mắt. Như vậy đức Phật cũng có khả năng phù hộ độ trì chúng sinh.(2)
Những người duy vật và khác tôn giáo cho rằng đức Phật chủ trương tự độ, nghĩa là ai lo nấy, không có sự giúp đỡ, không có sự cầu xin, không có sự tin tưởng duy tâm.
Vì đa số người mất khả năng tranh đấu, không tự mình làm đuốc cho chính mình,làm hòn đảo cho chính mình mà chỉ ỷ lại vào người khác, vào thần linh. Đó là một thái độ sai lầm cho nên đức Phật nhấn mạnh về tự lực, chỉ cho chúng sinh một con đường sống tự lập và hạnh phúc, đó là tinh thần thần tự lập. Nói như vậy không phải là không có sự phù hộ, sự giúp đỡ. Tự lực và tha lực không mâu thuẫn mà kết hợp nhau.
Một số người khác cho rằng Phật chỉ là một con người, một thường nhân, không có khả năng giúp đỡ, chỉ có thần thánh, thượng đế mới có uy lực để thưởng thiện, phạt ác. Thật vậy, Phật là một người thường , con của vua Tịnh Phạn. Và tất cả chúng ta cũng là những con người thường.Nhưng với cái nhìn vô thủy vô chung của luân hồi, con người hôm nay đã trải qua bao kiếp sống. Chúng ta có thể từ súc sinh , hay từ thiên đàng mà đến thế gian.
Trong tương lai, chúng ta có thể lên thiên giới, hay lên cõi Niết Bàn. Đức Phật là người thường nhưng là một người rất đặc biệt. Trong quá khứ , Ngài đã là Phật, Ngài đã đến Thiên giới, đã thuyết pháp cho các thiên chúa, thiên vương, thượng đế. Ngài xưng là bậc thầy của thượng đế và loài người. Trong các kinh Nguyên Thủy, nhất là Tăng Chi bộ kinh, đức Phật thường nói đến việc này.
Và đức Phật cũng nói cõi Niết Bàn là cõi cao nhất, là nơi tham dục đã bị đốt cháy, là nơi hạnh phúc vĩnh viễn, cón Thiên đàng, hay Thiên giới, các chúa trời, thiên vương và các tiên, thánh,thần sau một thời gian sung sướng phải đầu thai vào trong lục đạo. (1)
Như vậy, Phật được Thượng đế, tiên thánh, thần linh kính trọng, và có địa vị cao hơn Thượng đế. Đức Phật đã nói trong Tăng Chi bộ kinh:
Trong thế giới chư Thiên
Phật được gọi tối thượng. ( V. 15. Thi thiết)
Các tôn giáo khác đề cao phép màu của các thần linh, và khả năng cứu rỗi. Đức Phật khuyên đệ tử tu tập, không khuyến khích về phép lạ mặc dầu Ngài có phép lạ. Đức Phật có quyền năng siêu việt, như đi từ cõi trời này sang cõi trời khác trong nháy mắt. Như vậy đức Phật cũng có khả năng phù hộ độ trì chúng sinh.(2)
Đạo Phật chủ
trương bác ái cho nên người tu Phật phải mở rộng cõi lòng, phải giang bàn tay
cứu giúp chúng sinh. Nếu ta có khả năng, ta phải cứu giúp người khác. Đức Phật
luôn nghĩ đến lợi ich của chúng sinh, hạnh phúc của nhân loại. Ngài khuyên các
đệ tử phải ra sức tự độ để sau đó có thể độ tha.Tự độ và độ tha có liên hệ với
nhau. Giúp người tức giúp mình:
8)
Này các Tỷ-kheo, "Tôi sẽ hộ trì cho mình", tức là niệm xứ cần phải
thực hành. Này các Tỷ-kheo, "Tôi sẽ hộ trì người khác", tức là niệm
xứ cần phải thực hành. Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì
người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.(TUONG UNG V,
Tập V - Thiên đại Phẩm[47] Chương III.Tương Ưng Niệm Xứ (a) I. Phẩm Ambapàli)
19. IX. Sedaka, hay Ekantaka)
Đức Phật dạy ta phải nỗ lực tự độ, nghĩa là muốn cho Phật
tử hiểu rõ vai trò quan trọng của cá nhân trong việc giải thoát, đừng chuyên
chú cầu Thần linh và làm nô lệ cho thần linh. Nói như vậy, không phải là ta phủ
nhận vai trò của Tha lực. Con đường trung đạo phải lấy Tự lực là chính, Tha lực
là phụ. Cần có Tha lực, cần có sự trợ giúp của Tha Lực để chúng ta có thể tiến
nhanh và thuận lợi trong việc tu tập và trong đời sống.
Việc này cũng giống như trong đời sống thực tế. Ta có khả
năng nhiều hoặc ít, nếu ta được cha, mẹ, anh em và bạn bè và đồng bào giúp đỡ
thêm, sự thành công của ta sẽ đến nhanh hơn và vững vàng hơn. Niệm Phật, tin
Phật cũng là tự lực và cũng là đặt niềm tin vào tha lực. Thật vậy, chư Phật và
Bồ Tát có khả năng cứu độ chúng sinh. Thời đức Phật tại thế, Ngài đã nói đến
ích lợi của môn niệm Phật và tín Phật:
-Ở đây, này Mahànàma, có người thành tựu tịnh tín bất
động đối với đức Phật: "Đây là bậc Ứng Cúng, ... Phật, Thế Tôn"...
đối với Pháp... đối với chúng Tăng, có trí tuệ hoan hỷ (hàsapanna), có trí tuệ
tốc hành và thành tựu giải thoát. Vị ấy do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong
hiện tại với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Người này, này Mahànàma, được giải thoát khỏi địa ngục, được
giải thoát khỏi loài bàng sanh, được giải thoát khỏi cõi ngạ quỷ, được giải
thoát khỏi ác sanh, ác thú, đọa xứ. (TUONG UNG V, Phẩm Saranani, 24. IV.
Sarakàni, hay Saranàni ,381.)
-Ở đây, này Nandiya, Ông hãy tùy niệm Như Lai: "Đây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Như vậy, này Nandiya, duyên vào Như Lai, ông hãy an trú niệm trong nội tâm. (TANG CHI III. Chương XI - Mười Một Pháp. II. Phẩm Tùy Niệm. (II) (14) Nandiya)
Khi cư sĩ Cấp Cô Độc bị bệnh, Ananda khuyên ông nên tin vào Phật thì sẽ cảm thấy hết đau đớn:
Nếu Gia chủ tự mình thấy lòng tịnh tín bất động đối với Pháp, thời lập tức các cảm thọ của Gia chủ được an tịnh. (TUONG UNG V. [55] Chương XỊTương Ưng Dự Lưu (b).VỊ Ác Giới, hay Anàthapindika, 384-86).
Mặc dầu khuyên đệ tử nỗ lực tự
độ, đức Phật đôi khi khi cũng dùng phép thần thông để giúp các đệ tử chóng
thành công. Thiền định có thể đạt đến cảnh giới siêu nhiên. Đức Phật trong khi
thiền định đã lên đến các cõi trời, và gập các vị chúa tể cõi trời và tiếp xúc
với quỷ thần. Tuy có thần thông nhưng đức Phật chỉ trích việc tu tập để đạt
thần thông vì các lý do sau:
-Tu hành theo Phật giáo là để
giải thoát khỏi ách luân hồi chứ không phải vì các mục đích khác.
-Nếu mục đích là có phép lạ thì không cần tu Phật. Nhiều giáo phái như phái Phù thủy có thể dạy phép thần thông.
-Phép thần thông vô ích vì muốn thành tựu phải mất nhiều năm để đi bộ qua sông, trong khi đó chỉ cần vài xu, vài đồng là qua bên kia bờ.
-Tham quyền lực, thần thông sẽ lạc lối, sẽ điên cuồng và trầm luân. Thiền tối kị tham dục, và nôn nóng.
Đức Phật không bao giờ biểu diễn thần thông nhưng đôi khi Ngài đã dùng thần lực hộ trợ các đệ tử trên bước tu hành. Mục Kiền Liên là người có đại lực lại có phép thần thông nhưng cũng phải nhờ phép thần thông của Phật để thành tựu. Trong khi ngồi thiền, Mục Kiền Liên nghe đức Phật nhắc nhở:
-Nếu mục đích là có phép lạ thì không cần tu Phật. Nhiều giáo phái như phái Phù thủy có thể dạy phép thần thông.
-Phép thần thông vô ích vì muốn thành tựu phải mất nhiều năm để đi bộ qua sông, trong khi đó chỉ cần vài xu, vài đồng là qua bên kia bờ.
-Tham quyền lực, thần thông sẽ lạc lối, sẽ điên cuồng và trầm luân. Thiền tối kị tham dục, và nôn nóng.
Đức Phật không bao giờ biểu diễn thần thông nhưng đôi khi Ngài đã dùng thần lực hộ trợ các đệ tử trên bước tu hành. Mục Kiền Liên là người có đại lực lại có phép thần thông nhưng cũng phải nhờ phép thần thông của Phật để thành tựu. Trong khi ngồi thiền, Mục Kiền Liên nghe đức Phật nhắc nhở:
"Này Moggalàna, hãy đặt
tâm vào Vô tướng tâm định!. . . . . Này Moggalàna, hãy đăt tâm vào Thiền thứ
tư! Hãy nhứt tâm vào Thiền thứ tư ( Tương Ưng IV, Tập IV - Thiên Sáu Xứ.
Chương VI. Tương ưng Moggalàna. IX. Vô tướng, 272-273)
Sau Mục Kiền Liên kể lại việc này và nói:
"Này chư Hiền, nếu ai nói một cách chơn chánh: "Vị đệ tử được bậc đạo sư hỗ trợ, chứng được đại thắng trí", người ấy sẽ nói về tôi như sau: "Mahà Moggahàna là người đệ tử được bậc đạo sư hỗ trợ, chứng được đại thắng trí".( Tương ưng IV, Tập IV - Thiên Sáu Xứ. Chương VI. Tương Ưng Moggalàna. IX. Vô tưởng, 272-273)
Sau Mục Kiền Liên kể lại việc này và nói:
"Này chư Hiền, nếu ai nói một cách chơn chánh: "Vị đệ tử được bậc đạo sư hỗ trợ, chứng được đại thắng trí", người ấy sẽ nói về tôi như sau: "Mahà Moggahàna là người đệ tử được bậc đạo sư hỗ trợ, chứng được đại thắng trí".( Tương ưng IV, Tập IV - Thiên Sáu Xứ. Chương VI. Tương Ưng Moggalàna. IX. Vô tưởng, 272-273)
Ngài còn cứu vớt những kẻ xấu xa, tàn ác, khiến cho họ sớm
giác ngộ chứ không phải để mặc họ trong vũng bùn tội lỗi và trôi lăn trong quả
báo luân hồi. Ngài đã giơ tay lên, cứu vớt họ khiến họ nhanh chóng trở lại đời
lương thiện, và tu tập thành A la hán như tên cướp Angulimala (Trung Bộ Kinh II
Kinh Angulimala, 97-106), và một số kỹ nữ sau này cũng thành A la hán .( Tiểu
Bộ Kinh I, Trưởng Lão ni kệ, 191).
Sau Phật giáo phân ra Bắc phương và Nam phương , Phật giáo
Bắc phương đã nhấn mạnh về tha lực. Người ta cầu A Di Đà Phật để mong về Cực
Lạc quốc, cầu Dược sư bồ tát để mau lành bệnh, nhất là đa số Phật tử tin tưởng
Quan Âm Bồ tát. Quán thế âm nghĩa là quán sát các âm thanh giữa thế gian mà
hiểu suốt hết thảy nỗi thống khổ của chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào trong
lúc lâm nạn, thiết tha kêu cầu vị Bồ tát này, tức thời Ngài quán được tiếng kêu
cầu kia mà đến cứu độ. Động cơ thúc đẩy khiến có sự linh cảm giữa một bên
"hô" và một bên "ứng" như thế là lòng đại bi rộng lớn của
Ngài. Vì vậy, Ngài thường được tôn xưng là đức Bồ tát Đại bi Linh cảm ứng Quán
thế âm.
Từ điển Wikipedia viết như sau:
Quan Âm (zh. 觀音, ja. kannon), nguyên là Quán Thế Âm
nhưng do tránh chữ Thế trong tên nhà vua Đường là Lý Thế Dân nên gọi là Quan Âm
hoặc Quán Âm, là tên của Bồ Tát Quán Thế Âm (zh. 觀世音, sa. avalokiteśvara)
tại Trung Quốc, Việt Nam và các nước lân cận. Phật tử Trung Quốc thường thờ
cúng Quan Âm bên cạnh các vị Bồ Tát Phổ Hiền (zh. 普賢, sa.
samantabhadra), Địa Tạng (zh. 地藏, sa. kṣitigarbha) và Văn-thù-sư-lợi
(zh. 文殊師利,
sa. mañjuśrī). Đó là bốn vị Đại Bồ Tát của Phật giáo Trung Quốc.(3)
Quan Âm hiện thân trong mọi hình dạng để cứu độ chúng
sinh, nhất là trong các nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không con
cũng hay cầu Quan Âm. Quan Âm cũng hay được nhắc tới bên cạnh Phật A-di-đà (sa.
amitābha) và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm 25 với tên Phổ môn, các công
hạnh của Bồ Tát trình bày rõ ràng và tán thán. Tại Trung Quốc và Việt Nam, Quan
Âm hay được diễn tả dưới dạng nữ nhân.
Nước Việt Nam chịu ảnh hưởng
của Phật giáo từ lâu đời. Các truyện cổ Việt Nam như truyện Tấm Cám, Cây tre
trăm đốt, Con khỉ đỏ đít. . . đều có bóng dáng của Bụt hiện lên để giúp đỡ
những kẻ đau khổ. Và trong truyện cổ của các quốc gia trên thế giời đều nói lên
nhu cầu cứu giúp, nhu cầu tâm linh trong tận đáy lòng con người. Bình thường,
chúng ta it thấy sự hiện hữu của thế giới siêu hình, nhưng khi gặp nguy khốn,
và đau khổ, chúng ta có thể nhận thấy ơn cứu rỗi của Trời, Phật và Thánh Thần.
Con người có khi đau khổ và thất vọng, con người yếu đuối,
cần có sự che chở, an ủi của Trời, Phật, Thánh Thần. Trời Phật, Thánh Thần luôn
luôn tồn tại trong thế giới vô hình, ta có thể nhân thấy họ hay không là do tâm
của ta. Cổ nhân nói " linh tại ngã, bất linh tại ngã". Nếu
tĩnh tâm và chú ý quan sát, hoặc có khả năng đặc biệt thì ta có thể cảm nhận.
Nhiều người nhìn thấy táo rơi nhưng sao một mình Isaac Newton tìm ra quy luật
hấp lực của trái đất.
Đó là do tĩnh tâm và chú ý quán sát. Mặt khác, thần linh có
giúp đỡ được ta không là tùy nhiều lý do. Thứ nhất bản thân ta là ai? Là kẻ ác
thì khó được giúp đỡ. Cũng như trong một gia đình, cha mẹ không thể xuất tiền
cho đứa con ham mê bài bạc. Thứ hai là yêu cầu của ta có quá đáng không. Có thể
trời Phật cứu ta tai qua nạn khỏi, cho sống thêm vài kỷ, nhưng sinh lão bệnh tử
là nguyên tắc chung. Thần linh chắc chắn không giúp ai sống hai ba trăm năm.
Nhiều bậc đại sư, trên đường tu tập cho biết rằng hành giả phải kết hợp tự lực và tha lực. Người Tây phương cũng có câu: ‘’Mình tự giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau (Help yourself. God will help you" Aide toi. Dieu t'aidera ).
Nhiều bậc đại sư, trên đường tu tập cho biết rằng hành giả phải kết hợp tự lực và tha lực. Người Tây phương cũng có câu: ‘’Mình tự giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau (Help yourself. God will help you" Aide toi. Dieu t'aidera ).
Trong ñåi
ThØa Khªi Tín LuÆn, Mã Minh vi‰t:
Từ khi mới phát tâm cầu đạo
cho đến thành Phật, trong khoảng thời gian ấy, hành giả hoàn toàn nhờ chư Phật
và Bồ Tát gia hộ cho trên đường tu hành. Vì tâm đại bi nên Phật và Bồ Tát hiện
làm người thân thuộc, như cha mẹ, hoặc hiện làm thiện hữu trí thức, hoặc hiện
làm người tôi tớ hầu hạ, hoặc hiện làm kẻ oan gia, hoặc dùng tứ nhiếp pháp cho
đến làm không biết bao nhiêu công hạnh để huân tập cho hành giả, làm cho hành
giả hoặc nhớ nghĩ công đức của Ngài, hoặc thấy hình tượng hoặc nghe thuyết pháp
mà được lợi ích mà tăng trưởng căn lành (118-119).
Mã Minh cũng nói đến việc cần thiết của tha lực:
Chúng sanh tuy sẵn tính Phật.( Chơn Như), là cái nhân
chánh để thành Phật, song nếu không có ngoại duyên là gặp các đức Phật, Bồ Tát,
thiện trí thức v.v.. . dẫn dặt, chỉ dạy cho phương pháp tu hành thì hành giả
cũng không thể tự mình đoạn trừ phiền não và tu chứng Niết Bàn được (116).
Hàm Sơn thiền sư cũng nói đến việc tụng kinh, trì chú trong khi tập thiền
Những người mà trở ngại quá lớn, tham dục quá mạnh, và tư tưởng, tập dụng quá thâm căn cố đế trong tạng thức, không biết phải quán tâm ra sao, phải tập lạy Phật, tụng kinh và sám hối. (Chang Chen Chi, 184).
Hàm Sơn thiền sư cũng nói đến việc tụng kinh, trì chú trong khi tập thiền
Những người mà trở ngại quá lớn, tham dục quá mạnh, và tư tưởng, tập dụng quá thâm căn cố đế trong tạng thức, không biết phải quán tâm ra sao, phải tập lạy Phật, tụng kinh và sám hối. (Chang Chen Chi, 184).
Chang Chen Chi cÛng có š ki‰n tÜÖng t¿:
Thiếu sự chuẩn bị tâm
linh phát sinh nhờ rèn luyện ý chí và sùng mộ, bất cứ loại thiền định nào cũng
khó mà có kết quả lành mạnh được, thay vì vậy, nó còn thường có thể đưa con
người ta đi lạc đường. Các hành giả không ngộ được sau một thời gian tu thiền
dài dẵng, thường khám phá ra rằng công trình chuẩn bị trong phạm vi sùng mộ và
tâm linh của họ còn thiếu sót. Khi ấy họ hẳn trở lại tu tập pháp căn bản như là
Tứ Vô lượng tâm, Bồ Tát nguyện, cầu nguyện, lễ bái. . . để trừ bỏ khiếm khuyết
của họ trong phạm vi này ( Chang Chen Chi, 335)
Mã Minh cho r¢ng có hai loåi tha l¿c. M¶t loåi là duyên bình
Ç£ng, m¶t loåi là duyên sai biŒt. Ông vi‰t:
Duyên bình đẳng là sự
hỗ trợ đồng đều cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Chư Phật và Bồ Tát thường
hằng tùy thuận chúng sinh nào muốn thấy Phật, nghe Pháp thì đều bình đẳng hiện
ra để hóa độ, không bỏ sót một chúng sinh nào. Bởi thế nên chúng sinh trong
thiền định đều được bình đẳng thấy Phật (121).
Duyên sai biŒt là s¿ h‡ tr® cûa PhÆt và BÒ Tát cho riêng
tØng ngÜ©i, Ç‹ cho hành giä ÇÜ®c tinh ti‰n trên ÇÜ©ng tu tÆp. Có hai duyên sai
biŒt. Duyên gÀn khi‰n hành giä mau chÙng quä BÒ ñŠ. Duyên xa làm cho hành giä
vŠ sau m§i ÇÜ®c t‰ Ƕ (122).
Nói tóm lại, trong việc tu tập cũng như trong đời sống bình
thường, chúng ta phäi theo trung đạo, phải lấy tự lực là chính,nhưng cũng cần
tha lực phù trợ cho chóng thành tựu.
____
(1). Ta thuở ấy là Mahà Govinda.
Ta dạy cho các đệ tử của Ta con đường đưa đến sự thân hữu ở Phạm thiên quốc.
Nhưng này Pancasikha, con đường phạm hạnh ấy không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch
diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Con đường ấy chỉ đưa sanh lên
cõi Phạm thiên. Này Pancasikha, con đường phạm hạnh của Ta hoàn toàn đưa đến
yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết-bàn. Ðó là con
đường Thánh đạo tám ngành tức là Chánh Tri kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh
Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Này Pancasikha, con
đường phạm hạnh này hoàn toàn đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ và Niết-bàn.
(2). Trường Bộ Kinh, Digha Nikaya 19. Kinh Ðại Ðiển Tôn (Mahàgovinda sutta).Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya 86. Kinh Angulimàla.(Angulimàla sutta)
(2). Trường Bộ Kinh, Digha Nikaya 19. Kinh Ðại Ðiển Tôn (Mahàgovinda sutta).Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya 86. Kinh Angulimàla.(Angulimàla sutta)
(3).Tác giả viết không rõ. Bốn vị Bồ tát này do các sư Trung Quốc suy nghĩ ra chứ không phải là người Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment