phÀn i
Tôn giä Ananda hܧng dÅn dân Malla ª Kusinara khâm liŒm ÇÙc PhÆt và hÕa táng Ngài m¶t cách tr†ng th‹:
CHÐ÷NG V
chÜÖng vi
PHẬT GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
Tài liŒu cûa DÜÖng Quäng Hàm cÛng nhÜ Cao Tæng truyŒn sai lÀm khi cho r¢ng Mâu Bác và Khang Tæng H¶i ljn ViŒt Nam truyŠn Çåo. S¿ th¿c cä hai ljn ViŒt Nam h†c PhÆt.
TØ trܧc ljn nay, PhÆt giáo Çå bÎ bách håi các các th‰ l¿c ngoåi bang xâm lÜ®c và Ƕc tài. Tuy vÆy, PhÆt giáo cÛng ÇÜ®c các h†c giä Tây phÜÖng chú š. PhÆt giáo Çã có nh»ng mÓi giao häo và phát tri‹n v§I Châu Âu và châu MÏ.
CHƯƠNG VII
TRIẾT HỌC VÀ TÔN GIÁO
Vấn đề tôn giáo là một vấn đề quan trọng, đã tốn nhiều giấy mực và thời giờ giảng giải, tranh luận.Ở đây, chúng ta thử xem xét sự khác biệt giữa triết học và tôn giáo. Triết học theo quan niệm Trung Hoa là do chữ Triết có nghĩa là mổ xẻ, phân tách, và chữ Khẩu: miệng nói, là giảng giải, bàn luận, lý luận. Còn chữ Học là nghiên cứu, học tập, làm theo, bắt chước. Triết học tức là một bộ môn nhằm phân tách, mổ xẻ sự vật để tìm hiểu ngọn nguồn , rồi truyền dạy cho mọi người hiểu rõ và thực hành trong cuộc sống.
Phần lớn các tôn giáo đều thờ thượng đế, công nhận thương đế hiện hữu mặc dầu mỗi tôn giáo có quan niệm khác nhau.
Trong vũ trụ quan Phật giáo, Đế Thích thiên vương chỉ là một trong các vị thiên vương (ông trời) ở trên các tầng trời, do công đức tu hành cao nên khi hết một báo thân, chúng sanh đó được sanh lên các tầng trời theo nghiệp báo của họ, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi vòng sinh tử.
Các tôn giáo đều tin Thượng Đế, Allah, Brahma , ông Trời tạo nên vũ trụ và loài người, còn Phật giáo quan niệm như thế nào về sự sinh khởi loài người? Các tỳ kheo đã thảo luận với nhau về vấn đề này:
Người ta tin vào luật Nhân quả, Phật giáo, Khổng giáo và khoa học cũng tin vào luật nhân quả. Luật này tin rằng có nhân và quả liên hệ với nhau. Mọi vật sinh ra đều có lý do hiện hữu Ai sinh ra loài người? Ai sinh ra vũ trụ? Các nhà tôn giáo bảo là do Thượng Đế sinh ra. Nhưng quan niệm này cũng gặp nan giải là vì có ai hỏi: Ai sinh ra ta? Cha mẹ ta? Ai sinh ra cha me? Ông bà? Ai sinh ra ông bà? Cứ thế mãi...Câu trả lời cuối cùng sẽ là Thượng Đế sinh ra. Vậy ai sinh ra Thượng Đế? Các nhà tôn giáo bảo rằng:"Thượng đế là nguyên nhân sau cùng!"
"Lạy trời mưa xuống,
(2). Thượng Đế trong quan niệm Trung Quốc
Theo quan niệm Trung Quốc, Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu tất cả các thần, tiên, có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ngọc Hoàng có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên. Trong Đạo giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh, do Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chỉ định làm vua.
(3). Thượng đế trong Phật giáo
LƯỢC SỬ PHẬT GIÁO
chÜÖng
i
ẤN ĐỘ TRƯỚC
THỜI ĐỨC PHẬT RA ĐỜI
Ấn
Độ
là một quốc
gia vĩ đại, đã
có một nền
văn
minh sớm nhất
nhân loại. Trước 1947, Ấn
Độ
là một quốc
gia thống nhất,
diện tích bốn
triệu cây số
vuông, với bốn
trăm
triệu dân cư,
gồm 250 thổ
ngữ. Phía bắc
Ấn Độ có dãy Hy Mã Lạp
Sơn
(Himalaya), dài 2250 km, chạy
từ đông sang tây, với
đỉnh
Everest cao 8.882 m, quanh năm
tuyết phủ.
Đó
là đỉnh
núi cao nhất thế
giới. Từ
đây
phát xuất hai con sông, cũng
thuộc loại
sông lớn nhất
thế giới.
Sông Indus dài 2.900 km, và sông Gange dài 3.100 km.
Khởi
thủy, một
trong những giống
người
cư
ngụ đầu tiên ở
đây
là giống Dravidiens. Họ
đã
tạo dựng
nên một nền
văn
minh rực rỡ.
Người
ta đã
đào
được
tại các vùng hạ
lưu
sông Indus di tích những
thành phố rộng
lớn được thành lập
khoảng hai hay ba ngàn năm
trước
Tây lịch. Theo một
số giả
thuyết, dân Aryen phát xuất
từ phía bắc
sông Caucase di cư
dần xuống
phía đông
châu Âu, sang Á châu, vượt
dãy Hymalaya mà tràn vào Ấn Độ.
Họ là người
da trắng, mũi
cao, mắt xanh, tóc vàng trong khi dân
Dravidien có màu da sẫm. \
Càng ngày càng tiến về phương nam, giống Aryen bị ánh mặt trời vùng nhiệt đới, rồi lại do pha trộn với giống Dravidien nên màu da của họ trở nên đen sẫm. Người ta ước tính rằng giống Aryen vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17 trước Tây lịch. Đến thế kỷ 10 trước Tây lịch, họ đã tạo được một truyền thống tâm linh, hòa hợp với dân Dravidien. Đó là truyền thống Veda, Upanishad, Bhagavadgita, Vedanta. . . để sau này thành Bà La Môn giáo, Ấn Độ giáo. Tất cả tư tưởng truyền thống Ấn Độ được thể hiện ở kinh Vedas. Đến nay, bộ kinh này trải qua hơn ba ngàn năm, là nòng cốt cho Bà La Môn giáo. Bộ thánh kinh này có bốn phần:
Càng ngày càng tiến về phương nam, giống Aryen bị ánh mặt trời vùng nhiệt đới, rồi lại do pha trộn với giống Dravidien nên màu da của họ trở nên đen sẫm. Người ta ước tính rằng giống Aryen vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17 trước Tây lịch. Đến thế kỷ 10 trước Tây lịch, họ đã tạo được một truyền thống tâm linh, hòa hợp với dân Dravidien. Đó là truyền thống Veda, Upanishad, Bhagavadgita, Vedanta. . . để sau này thành Bà La Môn giáo, Ấn Độ giáo. Tất cả tư tưởng truyền thống Ấn Độ được thể hiện ở kinh Vedas. Đến nay, bộ kinh này trải qua hơn ba ngàn năm, là nòng cốt cho Bà La Môn giáo. Bộ thánh kinh này có bốn phần:
1.Rig Veda: gồm
những bài cầu
nguyện và xưng
tụng thần
thánh. Bộ này dành cho các tu sĩ
cao cấp tụng
niệm khi hành lễ.
2.Sama Veda: gồm
những bài ca hát khi hành lễ.
3.Yajur Veda: ghi chép những
nghi thức cúng tế.
4.
Atharva Veda: Gồm
những bài kinh cầu
đảo,
cầu phúc. cầu
tài. Bộ này cũng
có những câu chú dành cho pháp sư.
Bốn
bộ Veda này là công trình sáng tác và
sưu
tầm liên tục
từ năm 1000 đến
năm
500 trước
Tây lịch. Qua bộ
này, chúng ta thấy Bà La Môn là
một tôn giáo thờ
nhiều thần
(Đa
thần giáo).
-Thần
Thái dương
:Surya, Savitriti, Pusan
-Thần Ban mai : Usas. -Thần Sấm : Indra.
-Thần nước: Apas, -Thần bão tố :Rudra.
-Thần gió
:Vayu, -Thần mưa :Parjanya. . .
Trên tất cả các thần này là Thượng Đế (Brahman). Vì lẽ này, Bà La Môn cũng là nhất thần giáo.Vì có nhiều thần linh nên có nhiều nghi thức cúng tế.
Về mặt xã hội, Bà La Môn
giáo chia xã hội thành bốn giai cấp:
1.
Brahmana (Bà
La môn: tu sĩ)
2.
Ksatriya (Sát Đế Lợi: quš tộc)
3.
Vaisya (Tỳ Xá, Thứ dân)
4.
Sudra ( Thủ Đà La, nô lệ)
Giai cấp này có tính cách vĩnh viễn, từ đời này sang đời khác. Bà La
Môn giáo giải thích việc phân chia giai cấp là do phúc phần hay tội nghiệp từ kiếp trước. Về tôn giáo cũng như chính trị, người Aryen là giai cấp thống trị, còn Dravidien là kẻ bị trị. Người giai cấp cao không bao giờ ngồi chung hay kết hôn với giai cấp hạ tiện.
CU¶C ñ©I ñỨC PHẬT
(563BC-483BC)
Đức
Phật thuộc
họ Cồ
Đàm
(Gotama), tên là Tất Đạt
Đa
(Siddhartha), sinh tại thành Ca Tỳ
La Vệ (Kapilavatthu) thuộc
vương
tộc Thích Ca (Sakya) là thái tử
của quốc
vương
Tịnh Phạn
( Suddhodana). Quê hương
của Đức Phật
và một vương quÓc nhỏ
ở phía tây nam xứ
Népal, cách thành Bénares khoảng 100 dặm.
Có
nhiều tài liệu
khác nhau nói về năm
sinh cuỉa Đức Phật.
Tài liŒu tây phÜÖng ghi næm 563 tr.TL. Tài
liệu Trung Quốc
cho rằng đức Phật
sinh năm
557 trước
tây lịch kỷ
nguyên, tức là lớn
hơn
Khổng tử
sáu tuổi. Trước đây,
Trung Hoa và Việt Nam lấy
ngày mồng tám tháng tư
âm lịch làm ngày Phật
đản.
Các nhà nghiên cứu Tây Phương
dùng tài liệu sử
Hy Lạp, và căn
cứ vào các bia đá
tìm thấy tại
Ấn Độ vào thời
vua A Dục, đi đến kết
luận rằng
đức
Phật ra đời năm
624 trước
tây lịch, và mất
năm
483 tr. tây lịch ( Lương Khải Siêu, 41). Ngày nay Phật
giáo thế giới
quyết định lấy
năm
624 tr. Tây lịch làm năm
sinh của đức Phật,
và lấy ngày rằm
tháng tư
âm lịch làm ngày đản
sinh.
Thân
mẫu của
đức
Phật là bà Maya, hoài thai mười
tháng thì sinh ngài. Khi gần ngày sinh, bà
về quê mẹ
để
sinh con, nhưng
khi đi
đến
vườn
Lâm Tì Ni (Lumbini), cạnh thành
Kapilavatthu thì sinh. Sau khi sanh được bảy
ngày, thân mẫu của
đức
Phật tạ
thế. Bà dì của
Ngài là Mahapajapati Gotami nuôi nấng
ngài cho đến
khi khôn lớn.
Trường Bộ Kinh III nói rằng
dây là lần thứ
bảy đức Phật
hạ sinh ở
cõi đời
này để
cứu độ quần
sinh.
1.
Trong 91 kiếp trước, ngài là đức
Thế tôn Vipassi ( Tỳ
bà thi), thuộc giai cấp
Sát Đế
Lợi, danh tánh là Kondanna (Câu Ly
Nhã). Lúc này tuổi thọ
của loài người
là 80 ngàn năm.
Ngài lập ba tăng
hội, một
tăng
hội 60 ngàn người,
một tăng hội
100 ngàn, và một tăng hội
80 ngàn người.
2. Trong 31 kiếp
về trước, tiền
thân là đức
Thế tôn Sikki ( Thi Khí), dòng Sát Đế
Lợi, danh tánh à Kondanna. Lúc này tuổi
thọ của
loài người
là 70 ngàn năm.
Ngài lập ba tăng
hội: một
tăng
hội 100 ngàn người,
một tăng hội
80 ngàn người
và một tăng hội
70 ngàn người.
3.Trong
31 kiếp trước, Ngài là Thế
tôn Vessabkhu
( Tỳ
Bà Xá), giòng Sát Đế
Lợi, danh tánh là Kondanna. Lúc này
tuổi thọ
của loài người
là 60 ngàn năm.
Ngài lập ba tăng
hội, một
tăng
hội 80 ngàn, một
tăng
hội 70 ngàn và một
tăng
hội 60 ngàn.
4.Trong
31 kiếp trước, Ngài là Thế
Tôn Kakunsandha ( Câu lâu tôn) dòng Bà La Môn, danh tánh là Kassapa, tuổi
thọ loài người
là 40 ngàn năm,
ngài lập một
tăng
hội 40 ngàn người.
5.
Ngài là Thế tôn Konagamana ( Câu na hàm), dòng
Bà La Môn, danh tánh là Kassapa (Ca Diếp),
tuổi thọ
loài người
là 30 ngàn năm,
ngài lập một
tăng
hội 30 ngàn người.
6.
Ngài là Thế tôn Kassapa ( Ca Diếp),
tuổi thọ
loài người
là 20 ngàn, tăng
hội của
Ngài có 20 ngàn.
7.
Trong kiếp này, Ngài là thế
tôn Thích Ca, dòng Sát Đế
Lợi, danh tánh Cồ
Đàm,
tuổi thọ
loài người
là 100 năm,
tăng
hội có 1250 tỳ
kheo (
Kinh Đại Bổn, 15).
Thái
tử Tất
Đạt
Đa
có 32 tướng
quš. Có đạo
sĩ đoán là nếu
thái tử xuất
gia sẽ thành bậc
chánh đảng
chánh giác, nếu ngài làm vua thì sẽ
thành bậc Chuyển
luân thánh vương,
đem
lại an lạc,
hòa bình cho thế giới.
Vua cha nghe lời tiên đoán,
lo sợ thái tử
sẽ bỏ
nhà đi
tu cho nên đã cho thái tử
hưởng
một cuộc
đời
vương
già để
giữ chân ngài. Năm
17 tuổi, Ngài kết
hôn cùng công chúa xứ Kosala (Câu
Tát La), tên là Yasothra ( Da du đà la). Ngài luôn ở
trong cung cấm, tuy nhiên, một
vài lần đi du ngoạn
ở bên ngoài, Ngài đã
thấy được cuộc
sống thực.
Lần
thứ nhất,
Ngài thấy một
ông già lọm khọm.
Lần thứ
hai, Ngài thấy một
bệnh nhân nằm
rên rỉ, lần
thứ ba, một
xác chết, và lần
thứ tư, một
tu sĩ. Ngài bèn hỏi
mục đích của
người tu hành. Từ đó , Ngài luôn luôn suy nghĩ.
Ngài nhận thức
rằng sinh, lão bệnh
tử là nỗi
khổ của
con người,
cần phải
tìm biện pháp chấm
dứt. Lúc này, đứa
con trai đầu
lòng của Ngài ra đời,
Ngài đặt
tên là Rahula (La hầu la). Nửa
đêm,
Ngài cùng tên hầu ngựa
Channa bỏ nhà ra đi
tìm đường
giải thoát. Lúc này, Ngài 29 tuổi.
Khi tới bìa rừng,
Ngài cởi bỏ y phục
sang trọng, đuổi
tên hầu ngựa
trở về.
Khi nghe tin thái tử bỏ
cung điện
đi
tu, vua sai người
đi
tìm, song thái tử vẫn
giữ vững
lập trường. Sau cùng vua
cha bèn chấp
nhận š kiến
để
cho bọn năm người ông Kondana (Trần
Kiều Như) theo thái tử
tu tập.
Trên
đường
cầu đạo, thái tử
đã
theo các bậc đạo sư
tu khổ hạnh.
Có hai bậc đạo sư nổi
danh thời bấy giờ. Trước
tiên, Ngài theo học đạo sư Alara Kalama ( A la la ca lam), và vị này đã dạy
ngài pháp môn vô sở hữu xứ thiền.
Ngài đã thành công nhưng ngài nhận thấy phương
pháp này không đưa đến giải thoát. Ngài bèn từ
giã đạo sư Alara Kalama mà đến học đạo
sư Udaka Ramaputta (Uất đà già ma la), và được
truyền thụ pháp môn Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền.
Thái tử cũng thành công nhanh chóng, song lần nữa, Ngài nhận
thấy pháp môn này không đưa đến giải
thoát. Ngài bèn từ giã bậc đạo sư
mà đến nước Magadha (Ma Kiệt đà), và trú tại
vườn Uruvelu (Ưu lậu tần
loa).
Nơi đây núi rừng yên tĩnh mà cũng không xa dân chúng. Ban đầu Ngài tu khổ hạnh. Mặc dầu thân thể ốm yếu, Ngài vẫn không chứng ngộ. Ngài bèn từ bỏ lối tu khổ hạnh mà lập nên một con đường khác là trung đạo. Lối tu này không khổ hạnh nhưng cũng không theo dục lạc. Lúc này, một tín nữ tên là Sujata con gái của Nandika chưởng binh ở Uruvela, dâng sữa khuấy với mật ong. Uống xong, Ngài thấy thân thể khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt. Ngài bèn xuống sông tắm rửa, và cầm bát đi khất thực. Bọn năm người ông Trần Kiều Như thấy đức Phật từ bỏ khổ hạnh, bèn tỏ thái độ khinh khi, rÒi họ bỏ đi nơi khác.
Nơi đây núi rừng yên tĩnh mà cũng không xa dân chúng. Ban đầu Ngài tu khổ hạnh. Mặc dầu thân thể ốm yếu, Ngài vẫn không chứng ngộ. Ngài bèn từ bỏ lối tu khổ hạnh mà lập nên một con đường khác là trung đạo. Lối tu này không khổ hạnh nhưng cũng không theo dục lạc. Lúc này, một tín nữ tên là Sujata con gái của Nandika chưởng binh ở Uruvela, dâng sữa khuấy với mật ong. Uống xong, Ngài thấy thân thể khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt. Ngài bèn xuống sông tắm rửa, và cầm bát đi khất thực. Bọn năm người ông Trần Kiều Như thấy đức Phật từ bỏ khổ hạnh, bèn tỏ thái độ khinh khi, rÒi họ bỏ đi nơi khác.
Trong khi n¢m ngủ, Ngài thấy năm giấc
mộng báo hiệu Ngài sắp chứng
được vô thượng chánh gi ác ngộ.
1.Ngài thấy lấy đất
làm giường, Tuyết Sơn làm gối,
tay trái nằm ở biển đông,
tay mặt ở biển tây, hai chân ở
biển nam.
2. Ở l‡ rún, cỏ Tirya mọc ra chạm đến trời
3. Các sâu trắng đầu đen
bò ra từ chân đến đầu gối
và che kín cả hai ch ân.
4. BÓn con chim màu s¡c khác nhau tØ
bÓn hܧng
bay
ljn ÇŠu rÖi xuÓng chân Ngài và trª thành tr¡ng toát.
5. Ngài Çi kinh hành trên m¶t hòn núi
ÇÀy phân nhÜng Ngài không bÎ lÃm phân (Tæng
Chi B¶ Kinh III, 203-204).
Sau 49 ngày thiŠn
ÇÎnh dܧi cây Tala (BÒ ñŠ), thái tº TÃt ñåt ña Çã giác ng¶. Ma vÜÖng bèn ljn
quÃy phá, song Çã thÃt båi. Ngài Çi tØ sÖ thiŠn, lên nhÎ, tam, tÙ thiŠn và vô
s¡c thiŠn. ñêm mÒng 8 tháng hai âm lÎch, Ngài Ç¡c Çåo, danh hiŒu là Thích Ca
Mâu Ni PhÆt, vào tu°i Ç©i là 35 tu°i. PhÆt (Buddha) là bÆc giác ng¶, là bÆc Çåi giác. Danh hiŒu này
Çã có trong Bà La Môn giáo. NgÜ©i ta tôn xÜng ÇÙc PhÆt b¢ng nhiŠu danh hiŒu
khác nhÜ NhÜ Lai (Tathagata), Th‰ Tôn. Khi Ngài thành Çåo, Ngài phân vân không
bi‰t nên im l¥ng nhÆp Ni‰t Bàn hay ª låi cõi trÀn truyŠn bá chánh pháp. Lúc bÃy
gi© ñåi Phåm Thiên (Brahma) và ñ‰ Thích (Indra) ª trên tr©i, bi‰t tâm š ÇÙc
PhÆt nên hiŒn xuÓng trܧc m¥t ÇÙc PhÆt, cÀu xin vì chúng sinh mà thuy‰t pháp.
Vì vÆy mà ÇÙc PhÆt quy‰t ÇÎnh Çi truyŠn chánh pháp. Ngài suy nghï ljn hai vÎ thÀy ÇÀu tiên, nhÜng h† Çã ch‰t. Ngài bèn nghï ljn truyŠn chánh pháp cho næm ngÜ©i ông TrÀn KiŠu NhÜ. Ngài bèn Çi ljn thành Bénares, tåi vÜ©n L¶c Uy‹n. MÃy vÎ này thÃy ÇÙc PhÆt Çi ljn, bèn bàn ÇÎnh së ngÒi im, không ÇÙng dÆy, không chào hÕi. NhÜng khi ÇÙc PhÆt låi gÀn, cä b†n h† ÇŠu ÇÙng dÆy chào hÕi, lÃy nܧc rºa chân và sºa soån ch‡ ngÒi cho ÇÙc PhÆt. ñÙc PhÆt bèn thuy‰t pháp cho h†. ñÃy là bu°i thuy‰t pháp ÇÀu tiên cûa ÇÙc PhÆt, mª ÇÀu cho tri‰t lš PhÆt giáo và thành lÆp giáo h¶i PhÆt giáo ÇÀu tiên.
Vì vÆy mà ÇÙc PhÆt quy‰t ÇÎnh Çi truyŠn chánh pháp. Ngài suy nghï ljn hai vÎ thÀy ÇÀu tiên, nhÜng h† Çã ch‰t. Ngài bèn nghï ljn truyŠn chánh pháp cho næm ngÜ©i ông TrÀn KiŠu NhÜ. Ngài bèn Çi ljn thành Bénares, tåi vÜ©n L¶c Uy‹n. MÃy vÎ này thÃy ÇÙc PhÆt Çi ljn, bèn bàn ÇÎnh së ngÒi im, không ÇÙng dÆy, không chào hÕi. NhÜng khi ÇÙc PhÆt låi gÀn, cä b†n h† ÇŠu ÇÙng dÆy chào hÕi, lÃy nܧc rºa chân và sºa soån ch‡ ngÒi cho ÇÙc PhÆt. ñÙc PhÆt bèn thuy‰t pháp cho h†. ñÃy là bu°i thuy‰t pháp ÇÀu tiên cûa ÇÙc PhÆt, mª ÇÀu cho tri‰t lš PhÆt giáo và thành lÆp giáo h¶i PhÆt giáo ÇÀu tiên.
CHÐ÷NG III
ñÙc
phÆt Chuy‹n Pháp Luân
và lÆp giáo h¶I phÆt giáo
và lÆp giáo h¶I phÆt giáo
Bu°i thuy‰t pháp
ÇÀu tiên cûa ÇÙc PhÆt ÇÜ®c g†i là Chuy‹n pháp luân ( quay bánh xe pháp). Khi
nghe ÇÙc PhÆt thuy‰t pháp, h† tÕ vÈ th© Ö. ñ‰n lÀn thÙ ba, h† m§i chú tâm nghe
PhÆt giäng dåy. H† trª thành næm ÇŒ tº ÇÀu tiên cûa ÇÙc PhÆt. Bài thuy‰t pháp
ÇÀu tiên mà ÇÙc PhÆt truyŠn giäng cho h† là thuy‰t trung Çåo, là con ÇÜ©ng tu
tÆp do ÇÙc PhÆt sáng khªi. Thuy‰t này chû trÜÖng tránh xa hai c¿c Çoan, m¶t là
khoái låc chû nghïa, và m¶t là kh¡c k› chû nghïa. Khi ÇÙc PhÆt chuy‹n pháp
luân, ba ngàn th‰ gi§i chuy‹n Ƕng, chÜ thiên mØng vui. Sau næm ngày nghe
thuy‰t pháp, næm ngÜ©i b†n ông TrÀn KiŠu NhÜ ÇŠu Ç¡c quä A La Hán.
TØ
Çó ÇÙc PhÆt Çi kh¡p nÖi Ç‹ truyŠn chính pháp. Ngài thÜ©ng ljn thuy‰t pháp tåi
thành Rajagana (VÜÖng Xá ) nܧc Magadha
(Ma kiŒt Çà), thành Vesali ( PhŒ Xá lÎ), thành Shavasti (Xá VŒ) nܧc Kosala ( Câu Tát La) v. v. . .
SÓ ÇŒ tº cûa ÇÙc PhÆt lên ljn 1250 vÎ, trong Çó có nh»ng vÎ n°i danh nhÜ :
-Sariputta ( Xá L®i PhÃt): ñåi trí
tuŒ
- Maha Moggaliana ( ñåi Møc KiŠu
Liên): ñåi thÀn thông.
-Maha Kassapa (ñåi Ca Di‰p): ñŒ
nhÃt hånh ÇÀu Çà
-Upali (Ðu Bà Li): trì luÆt ÇŒ nhÃt
-Ananda ( A Nan): Ça væn.
-Anuruddha ( A na luÆt Çà): ÇŒ nhÃt thiên nhãn.
NgÜ©i ÇŒ tº cuÓi cùng ÇÜ®c ÇÙc PhÆt thu nhÆn là Suddbad- dha. Th©i
PhÆt tåi th‰, có 500 ÇŒ tº Ç¡c quä A la hán.
PhÆt
giáo lan r¶ng trong ƒn ñ¶. Vua Pasehadi nܧc Kosala, vua Seniya Bimbisara nܧc
Magadha Çã tôn kính ÇÙc PhÆt, do Çó tåi hai vÜÖng quÓc này, Çåo PhÆt månh nhÃt.
Næm ÇÙc PhÆt th† 80 tu°i, tåi rØng cây Sala (song th†), ngoài thành Kusihara
(Câu thi na), ÇÙc PhÆt tÎch diŒt. Trܧc khi nhÆp Ni‰t Bàn, ÇÙc PhÆt tóm t¡t
cu¶c Ç©i cûa Ngài nhÜ sau:
Này Subhadda, năm 29 tuổi,Ta
xuất gia hướng tìm chân, thiện, đạo. Trải 50 năm với thêm một năm.Từ
khi xuất gia, này Subhadda, Ta là du sĩ tu trí, tu đức (Trường Bộ Kinh 3, Kinh Đại Niết Bàn, 151A)
Trong gi© phút cuÓi cùng, ÇÙc PhÆt ân cÀn dåy bäo ÇŒ tº:
ñây là gi§i, Çây là ÇÎnh, Çây là tuŒ. ñÎnh cùng tu v§i
gi§i së ÇÜa ljn quä vÎ l§n, l®i ích l§n. TuŒ cùng tu v§i ÇÎnh së ÇÜa ljn quä vÎ
l§n. Tâm cùng tu v§i tuŒ së ÇÜa ljn giäi thoát hoàn toàn các món vô lÆu ho¥c,
tÙc là døc lÆu, h»u lÆu ( tri ki‰n lÆu), vô minh lÆu ( TrÜ©ng B¶ Kinh III, 127)
Ngài khuyên các ÇŒ tº chuyên cÀn tu tÆp nh»ng pháp môn Ngài Çã giäng dåy:
Chính là bÓn niŒm xÙ, bÓn chánh cÀn, bÓn thÀn túc, næm
cæn, næm l¿c, bäy bÒ ÇŠ phÀn, tám thánh Çåo phÀn, này các tÿ kheo, chính nh»ng
pháp này do ta chÙng ng¶ và giäng dåy mà các ngÜÖi phäi khéo léo h†c hÕi, th¿c
chÙng tu tÆp và truyŠn r¶ng Ç‹ phåm hånh ÇÜ®c trÜ©ng tÒn, vïnh cºu, vì hånh
phúc cho chúng sinh, vì lòng thÜÖng tܪng cho Ç©i, vì l®i ích l§n, vì an låc
cho loài ngÜ©i và loài tr©i (TrÜ©ng B¶ Kinh III,119B).
Tôn giä Ananda hܧng dÅn dân Malla ª Kusinara khâm liŒm ÇÙc PhÆt và hÕa táng Ngài m¶t cách tr†ng th‹:
RÒi nh»ng ngÜ©i Malla ª Kusinara vÃn tròn thân Th‰ Tôn
v§i väi m§i. Sau khi vÃn väi m§i xong, låi vÃn thêm v§i väi gai bŒn. Sau khi
vÃn väi gai bŒn, låi vÃn thêm v§i väi gai m§i, và ti‰p tøc nhÜ vÆy cho ljn næm
træm l§p cä hai loåi väi. Ròi Ç¥t thân NhÜ Lai vào trong m¶t hòm dÀu b¢ng s¡t,
Çây hòm s¡t này vào m¶t hòm s¡t khác, d¿ng lên m¶t dàn hÕa gÒm m†i hÜÖng và Ç¥t
thân Th‰ Tôn trên dàn hÕa (TrÜ©ng B¶ Kinh III, Kinh ñåi Bát Ni‰t
Bàn, 156-157).
Lúc bÃy gi© Ngài Maha Kassapa ( ñåi Ca Di‰p) và næm træm tÿ kheo Çang Çi
gi»a ÇÜ©ng. Sau khi nghe tin Th‰ Tôn tÎch diŒt, các tÿ kheo than khóc.
BÓn vÎ t¶c trܪng g¶i ÇÀu, m¥c áo m§i rÒi châm lºa dàn thiêu nhÜng lºa không
cháy. Khi tôn giä Ca Di‰p và các tÿ kheo vŠ ljn ÇŠn Makuta Bandhana, choàng áo
vŠ m¶t bên vai, chÃp tay, Çi nhiÍu phía tay phäi xung quanh dàn hÕa ba lÀn, cªi
mª chân ra và cúi ÇÀu Çänh lÍ Th‰ Tôn. Khi ñåi Ca Di‰p và các tÿ kheo Çänh lÍ
xong, dàn hÕa t¿ nhiên bÓc cháy.
NhÜ sanh tô hay
dÀu bÎ cháy, tÃt cä cháy såch, không có tro, không có than. CÛng vÆy, khi thân
Th‰ Tôn cháy, tØ da ngoài cho ljn da mÕng, thøt, dây gân hay nܧc gi»a kh§p
xÜÖng, tÃt cä ÇŠu cháy såch, không có tro, không có than, chÌ có xÜÖng xá l®i
còn låi. Và næm træm tÀng l§p väi gai bŒn, cä hai l§p trong nhÃt và ngoài nhÃt
ÇŠu bÎ cháy thiêu. Khi thân Th‰ Tôn bÎ thiêu cháy xong, m¶t dòng nܧc tØ hÜ
không chäy xuÓng tܧi t¡t giàn hÕa Th‰ Tôn, và m¶t giòng nܧc tØ kho nܧc (hay
tØ cây sala) phun lên tܧi t¡t dàn hÕa Th‰ Tôn, và các ngÜ©i Malla ª Kusinara
dùng nܧc v§i m†i loåi hÜÖng tܧi t¡t dàn hÕa Th‰ Tôn.
RÒi các ngÜ©i Malla xÙ Kusinara Ç¥t xá l®i Th‰ Tôn trong giäng ÇÜ©ng, dùng cây thÜÖng àm hàng rào, dùng cây cung làm bÙc thành xung quanh, và trong bäy ngày tôn tr†ng, cung kính Çänh lÍ, cúng dÜ©ng v§i các ÇiŒu múa, hát, nhåc, vòng hoa, hÜÖng (nhÜ trên ).
RÒi các ngÜ©i Malla xÙ Kusinara Ç¥t xá l®i Th‰ Tôn trong giäng ÇÜ©ng, dùng cây thÜÖng àm hàng rào, dùng cây cung làm bÙc thành xung quanh, và trong bäy ngày tôn tr†ng, cung kính Çänh lÍ, cúng dÜ©ng v§i các ÇiŒu múa, hát, nhåc, vòng hoa, hÜÖng (nhÜ trên ).
CuÓi
cùng, xá l®i cûa ÇÙc PhÆt ÇÜ®c chia làm 8 phÀn, gºi ljn các nÖi Ç‹ lÆp tháp
cúng dÜ©ng.
ñÙc
PhÆt ra Ç©i Çã mª ra m¶t k› nguyên m§i cho nhân loåi. PhÆt giáo là m¶t tôn giáo l§n bÆc nhì tåi ƒn
ñ¶ sau Bà La Môn giáo, và Çã truyŠn bá sang nhiŠu nܧc trên th‰ gi§i. ñåo PhÆt
có nh»ng Ç¥c Çi‹m sau:
-ñåo
PhÆt thØa hܪng phÀn l§n Bà La Môn giáo sau này là ƒn ñ¶ giáo. Chính ÇÙc PhÆt
trܧc Çó là thành viên cûa Bà La Môn giáo, và các ÇŒ tº cûa Ngài ÇŠu xuÃt thân
tØ Bà La Môn giáo ho¥c các giáo phái khác ÇÜÖng th©i. Tuy nhiên, ÇÙc PhÆt Çã
tåo ra m¶t ÇÜ©ng lÓi riêng khác v§i Bà La Môn giáo.
-Bà
La Môn giáo th© ThÜ®ng ñ‰, ÇÙc PhÆt không th© thÜ®ng lj vì Ngài quan niŒm thÜ®ng
lj là vÎ chû t‹ m¶t cõi tr©i trong tam thÆp tam thiên th‰ gi§i. Sau m¶t th©i
gian cai trÎ, thÜ®ng lj cÛng phäi ÇÀu thai trong løc Çåo luân hÒi. ñÙc PhÆt
muÓn hoàn toàn thoát khÕi luân hÒi, nghïa là hܧng ljn cõi Ni‰t Bàn thanh tÎnh,
là m¶t siêu cänh gi§i, cao hÖn løc Çåo luân hÒi. Ÿ Çây, ÇÙc PhÆt chû trÜÖng
phÀn chính y‰u là t¿ l¿c Ç‹ Çåt giäi thoát, trong khi Bà La Môn và các tôn giáo
chû trÜÖng cÀu khÄn thÀn linh.
-ñÙc
PhÆt chû trÜÖng trung Çåo, khác v§i ÇÜ©ng lÓi kh° hånh cûa Bà La Môn ƒn ñ¶.
-ThiŠn
có nguÒn gÓc ª Bà La Môn giáo, ÇÙc PhÆt ti‰p thu phÜÖng pháp ThiŠn cûa truyŠn
thÓng ƒn ñ¶ song møc tiêu không phäi cÀu thÀn thông, hay vŠ cõi tr©i, mà cÀu
chÙng ng¶ Ni‰t Bàn.
-
ñÙc PhÆt chÓng låi s¿ phân chia giai cÃp
trong truyŠn thÓng ƒn ñ¶. Ngài tuyên bÓ con ngÜ©i trong xã h¶i ÇŠu bình Ç£ng (Trungbo
2, kinh Madhura)
-Khác
v§i Bà La Môn giáo chuyên cÀu khÄn ThÀn linh, ÇÙc PhÆt dåy các ÇŒ tº
Çåo ÇÙc và tu tÆp. Tri‰t lš cûa Ngài sâu xa và phong phú: TÙ diŒu lj,
Bát chánh Çåo, ThÆp NhÎ Nhân Duyên. . . .
.
.
CHÐ÷NG IV
viŒc ki‰t tÆp kinh Çi‹n
Khi
ÇÙc PhÆt tåi th‰, ƒn ñ¶ Çã có væn t¿. Khi ÇÙc PhÆt thuy‰t pháp, Ngài Ùng khÄu
mà giäng giäi, không hŠ có s¿ biên soån, ghi chép. Sau này, chúng ÇŒ tº cÛng
nh§ n¢m lòng theo truyŠn thÓng mà tøng džc, và cÛng không ai ghi chép.
Sau
khi ÇÙc PhÆt nhÆp diŒt, chÜ tæng Çã cùng nhau h¶i h†p Ç‹ tøng džc kinh Çi‹n. Có
bÓn Çåi h¶i.
I. KIẾT TẬP I ( thế kỷ V trước Tây lịch)
Sau
khi ÇÙc PhÆt tÎch diŒt 3 tháng, các Çåi ÇŒ tº Çã nghï ljn viŒc triŒu tÆp m¶t
Çåi h¶i PhÆt giáo ÇÀu tiên Ç‹ tøng džc kinh Çi‹n. ViŒc này ÇÜ®c các sº sách
PhÆt giáo g†i là kÿ ki‰t tÆp thÙ nhÃt, gÒm 500 vÎ A la hán ÇŒ tº cûa PhÆt, tåi
Ƕng Saltapani, gi»a rØng Migradha gÀn thành
Radjargriha (VÜÖng Xá). Các vÎ trܪng lão A la hán này Çã tôn Ngài ñåi Ca Di‰p làm h¶i chû tæng h¶i. Ngài
ñåi Ca Di‰p cº tôn giä Ananda ÇÙng ra trông coi viŒc sÜu tÆp l©i PhÆt dåy thành
b¶ kinh tång (Sutra); cº Upali trông coi viŒc thu thÆp nh»ng gi§i luÆt mà ÇÙc
PhÆt Çã quy ÇÎnh thành b¶ LuÆt tång (Vinaya), còn Ca Di‰p t¿ chû trì viŒc giäi
thích Çåo lš trong kinh Çi‹n, mà thành b¶ LuÆn tång (Ahbidharma).
Ba b¶ Kinh tång, LuÆt tång và LuÆn tång ÇÜ®c g†i là tam tång kinh Çi‹n ( Tripitaka) cûa PhÆt giáo. Sau bäy tháng làm viŒc, công cu¶c trùng tøng kinh Çi‹n Çã thành t¿u tÓt ÇËp. Theo Phan Væn Hùm, cÛng vi‰t r¢ng cu¶c ki‰t tÆp lÀn ÇÀu ÇÜ®c t° chúc vài tháng sau khi PhÆt tÎch diŒt ( 39). ñiŠu này có lë Çúng vì PhÆt nhÆp Ni‰t Bàn næm 80 tu°i, mà Ca Di‰p cÛng l§n tu°i, và Ç‹ lâu thì m†i ngÜ©i quên h‰t. HÖn n»a, theo lŒ do truyŠn thÓng ƒn ñ¶, các ÇŒ tº h¢ng ngày phäi tøng džc kinh Çi‹n, nhÃt là vào ngày r¢m và mÒng m¶t hàng tháng, trong lÍ Uposatha (Bố Tát trai gi§i), phäi tÆp h†p Ç‹ tøng džc kinh Çi‹n và gi§i b°n. ñÙc PhÆt Çã dåy chÜ tæng:
Ba b¶ Kinh tång, LuÆt tång và LuÆn tång ÇÜ®c g†i là tam tång kinh Çi‹n ( Tripitaka) cûa PhÆt giáo. Sau bäy tháng làm viŒc, công cu¶c trùng tøng kinh Çi‹n Çã thành t¿u tÓt ÇËp. Theo Phan Væn Hùm, cÛng vi‰t r¢ng cu¶c ki‰t tÆp lÀn ÇÀu ÇÜ®c t° chúc vài tháng sau khi PhÆt tÎch diŒt ( 39). ñiŠu này có lë Çúng vì PhÆt nhÆp Ni‰t Bàn næm 80 tu°i, mà Ca Di‰p cÛng l§n tu°i, và Ç‹ lâu thì m†i ngÜ©i quên h‰t. HÖn n»a, theo lŒ do truyŠn thÓng ƒn ñ¶, các ÇŒ tº h¢ng ngày phäi tøng džc kinh Çi‹n, nhÃt là vào ngày r¢m và mÒng m¶t hàng tháng, trong lÍ Uposatha (Bố Tát trai gi§i), phäi tÆp h†p Ç‹ tøng džc kinh Çi‹n và gi§i b°n. ñÙc PhÆt Çã dåy chÜ tæng:
-Này các tÿ
kheo! Các pháp do ÇÜ®c nghe b¢ng tai, do tøng džc b¢ng l©i, do š quan sát, do
ki‰n khéo th‹ nhÆp có bÓn l®i ích ÇÜ®c ch© Ç®i (Tæng Chi b¶ kinh I,327-328)
-Này các tÿ
kheo, bän tøng džc này gÒm hÖn 150 h†c gi§i, cÀn phäi džc nºa tháng m¶t lÀn. Ÿ
Çây, các thiŒn
nam
tº muÓn ÇÜ®c l®i ích, h†c tÆp bän tøng džc Ãy (Tæng Chi B¶ Kinh, 267.)
Th©i
ÇÙc PhÆt tåi th‰, Ngài thÜ©ng sai Xá L®i PhÃt và Ananda nh¡c låi các bài giäng
cûa ÇÙc PhÆt ( TrÜ©ng B¶ Kinh IV, kinh Phúng
tøng, kinh ThÆp thÜ®ng, kinh T¿ hoan hÌ ). ViŒc này Çã h»u
ích cho viŒc ki‰t tÆp sau này.
II. KIẾT TẬP II ( Thế kỷ IV trước tây lịch)
Sau cuộc kiết tập lần thứ nhất 100 næm, các trܪng lão låi tÆp h†p lÀn thÙ hai do trܪng lão Yaga ( cÛng vi‰t là Yasa) làm chû t†a. Ngài ljn Vesali, thÃy các sÜ vùng này sÓng buông thä, nhÜ chÃp nhÆn tiŠn båc, trái v§i gi§i luÆt cûa ÇÙc PhÆt. Ngài là m¶t vÎ cao tæng, có tu°i th† l§n nhÃt là 165 tu°i, ÇÎa di‹m là thành Vesali, gÒm 12.000 tæng sï ( Thích Quäng Liên, 22-23). CÛng có tài liŒu ghi là Çåi h¶i có 700 tæng sï ( Phan Væn Hùm, 30-31).
Cu¶c ki‰t tÆp này ÇÜa ljn nhiŠu bÃt ÇÒng š ki‰n, gây ra vài vấn đề tranh cãi về giới luật, có 10 điều mới phát sinh: Diêm tịnh, chỉ tịnh, tụ lạc gian tịnh, trụ xứ tịnh, tùy š tịnh, cửu trụ tịnh, sinh hòa hiệp tịnh, bất ích lũ ni sư đàn tịnh, thủy tịnh, kim tiền tịnh. Những vị cho 10 điều trên là phi pháp đã tách riêng thành Thượng tọa bộ, những vị chủ trương thực hiện 10 điều cải cách thì tách riêng thành Đại chúng bộ . Tuy vÆy, hai phái vÅn sº døng kinh điển và vẫn duy trì bằng phương thức đọc tụng thuộc lòng chứ không viết thành văn. Đây là lần kiết tập kinh điển thứ hai.Tæng chúng chia làm hai phái. M¶t phái là ThÜ®ng t†a b¶ (Sthaviras) gÒm các thành phÀn bäo thû) , và ñåi chúng b¶ ( Mahasamghikas) gÒm nh»ng thành phÀn cÃp ti‰n.
Sau cuộc kiết tập lần thứ nhất 100 næm, các trܪng lão låi tÆp h†p lÀn thÙ hai do trܪng lão Yaga ( cÛng vi‰t là Yasa) làm chû t†a. Ngài ljn Vesali, thÃy các sÜ vùng này sÓng buông thä, nhÜ chÃp nhÆn tiŠn båc, trái v§i gi§i luÆt cûa ÇÙc PhÆt. Ngài là m¶t vÎ cao tæng, có tu°i th† l§n nhÃt là 165 tu°i, ÇÎa di‹m là thành Vesali, gÒm 12.000 tæng sï ( Thích Quäng Liên, 22-23). CÛng có tài liŒu ghi là Çåi h¶i có 700 tæng sï ( Phan Væn Hùm, 30-31).
Cu¶c ki‰t tÆp này ÇÜa ljn nhiŠu bÃt ÇÒng š ki‰n, gây ra vài vấn đề tranh cãi về giới luật, có 10 điều mới phát sinh: Diêm tịnh, chỉ tịnh, tụ lạc gian tịnh, trụ xứ tịnh, tùy š tịnh, cửu trụ tịnh, sinh hòa hiệp tịnh, bất ích lũ ni sư đàn tịnh, thủy tịnh, kim tiền tịnh. Những vị cho 10 điều trên là phi pháp đã tách riêng thành Thượng tọa bộ, những vị chủ trương thực hiện 10 điều cải cách thì tách riêng thành Đại chúng bộ . Tuy vÆy, hai phái vÅn sº døng kinh điển và vẫn duy trì bằng phương thức đọc tụng thuộc lòng chứ không viết thành văn. Đây là lần kiết tập kinh điển thứ hai.Tæng chúng chia làm hai phái. M¶t phái là ThÜ®ng t†a b¶ (Sthaviras) gÒm các thành phÀn bäo thû) , và ñåi chúng b¶ ( Mahasamghikas) gÒm nh»ng thành phÀn cÃp ti‰n.
III. KIẾT TẬP III (250 tr.tây lịch)
ñ‰n Ç©i vua Asoka ( A Døc) (274-227BC)[1], nhà vua
là ngÜ©i sùng bái Çåo PhÆt, Çã xây d¿ng nhiŠu chùa chiŠn, bäo tháp, và ra lŒnh
cho các tæng sï Çi ra nܧc ngoài truyŠn bá PhÆt pháp. Do
Çó Çåo PhÆt phát tri‹n månh. Vào næm thÙ 18, tåi thành Pataliputta ( nay là
Patna), dܧi s¿ bäo tr® cûa nhà vua, cu¶c ki‰t tÆp lÀn thÙ ba ÇÜ®c t° chÙc gÒm
m¶t ngàn trܪng lão, do Ngài Moggaliputta Tissa
chû t†a. ñåi h¶i làm
viŒc trong 9 tháng Çã hoàn thành ba tång kinh Çi‹n nhÜng cÛng chÌ ª trong tình
trång khÄu truyŠn. Lần kiết tập
kinh điển thứ ba vào
khoảng năm 200 đến 234 năm
sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn. Lúc này, hai bộ phái
chính là Thượng tọa
và Đại chúng
sản sinh ra nhiều bộ
phái, gồm khoảng 20 bộ phái. Giáo lš được
giải thích tùy theo khuynh
hướng của bộ phái.
Lúc này, Đại Thiên (Mahadeva), một học giả Phật tử khá nổi tiếng đã đưa ra 5 điều giới hạn của quả vị a-la-hán: A la hán còn m¶ng tinh, còn nghi, còn phäi h†c, thi‰u ki‰n thÙc, còn than van (Dư sở dụ, vô tri, do dự, tha linh nhập và đạo nhân thanh cố khởi ). Ý ki‰n này làm mọi người hoang mang vì tÜ tܪng cûa ông và Bà La Môn giáo Çã Çi vào PhÆt giáo, pha tr¶n v§i PhÆt giáo. Vua A-dục quyết định triệu tập đại hội Phật giáo dưới sự chủ tọa của ngài Moggalipputta Tissa (Mộc-kiền-liên Đế-tu), thầy của vua A-dục. Kỳ này gọi là lần kiết tập thứ ba, chấn chỉnh lại sự pha tạp trong giáo lš. Thượng tọa bộ lúc bấy giờ được gọi là Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavada), được vua A-dục đỡ đầu và ủng hộ mạnh mẽ. Phân biệt thuyết bộ là cha đẻ của Đồng diệp bộ, chính Đồng diệp bộ (Tamrasatiyah) đã kiết tập 5 bộ Nikàya rất đầy đủ.
Lúc này, Đại Thiên (Mahadeva), một học giả Phật tử khá nổi tiếng đã đưa ra 5 điều giới hạn của quả vị a-la-hán: A la hán còn m¶ng tinh, còn nghi, còn phäi h†c, thi‰u ki‰n thÙc, còn than van (Dư sở dụ, vô tri, do dự, tha linh nhập và đạo nhân thanh cố khởi ). Ý ki‰n này làm mọi người hoang mang vì tÜ tܪng cûa ông và Bà La Môn giáo Çã Çi vào PhÆt giáo, pha tr¶n v§i PhÆt giáo. Vua A-dục quyết định triệu tập đại hội Phật giáo dưới sự chủ tọa của ngài Moggalipputta Tissa (Mộc-kiền-liên Đế-tu), thầy của vua A-dục. Kỳ này gọi là lần kiết tập thứ ba, chấn chỉnh lại sự pha tạp trong giáo lš. Thượng tọa bộ lúc bấy giờ được gọi là Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavada), được vua A-dục đỡ đầu và ủng hộ mạnh mẽ. Phân biệt thuyết bộ là cha đẻ của Đồng diệp bộ, chính Đồng diệp bộ (Tamrasatiyah) đã kiết tập 5 bộ Nikàya rất đầy đủ.
IV. KIẾT
TẬP IV ( 30 tr.tây lịch-100 sau tây lịch)
Một hệ phái khác khá mạnh cũng phát xuất từ Thượng tọa bộ là phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) không được vua A-dục ủng hộ vì họ chủ trương luận lš hơn là kinh luật. Họ chuyển dần lên Đông bắc Ấn, đặt căn cứ địa tại Ca-thấp-di-la (Kasmira), dần dần họ truyền bá chánh pháp toàn
cõi biên cương phía Bắc và sang các nước lân cận.
Sau
khi vua A Døc bæng, các triŠu Çåi sau khûng bÓ PhÆt giáo. Mãi ljn Ç©i vua
Kanishka (Ca ni s¡c ca), PhÆt giáo m§i phøc hÜng. Vua thÜ©ng m©i chÜ tæng vào
cung thuy‰t giäng, nhÜng vua thÃy chÜ tæng lš luÆn khác nhau, tÜ tܪng khác
nhau bèn hÕi Hi‰p tôn giä ( Parsva). VÎ
này giäi thích r¢ng PhÆt giáo có nhiŠu b¶ phái khác nhau cho nên m‡i b¶ phái có
giáo lš, giáo nghïa khác nhau.Vì vÆy nhà vua có š ÇÎnh h®p nhÃt các phái b¢ng
triŒu tÆp ki‰t tÆp kÿ tÜ .
Nhà vua tÆp h†p 500 vÎ cao tæng, tinh thông tam tång kinh Çi‹n, h†p tåi tinh xá Hoàn Lâm (Kundalavana- samagharama) nܧc Kasmitra Ç‹ ki‰t tÆp tam tång. Ngài Vasumitra (Th‰ H»u) chû trì Çåi h¶i, gÒm các danh tài nhÜ Dharmatrata (Pháp CÙu), Ghosa (DiŒu Âm ), Budhadeva (Giác Thiên ), và Parsva ( Hi‰p tôn giä). VŠ niên Çåi kÿ ki‰t tÆp này, nhiŠu tài liŒu nói khác nhau, là 400, 500 hay 600 næm sau ngày PhÆt tÎch diŒt (Thích Thanh Ki‹m, LÜ®c Sº PhÆt Giáo ƒn ñ¶, 107-111). CÛng có thuy‰t nói lần kiết tập kinh điển thứ tư xäy vào khoảng đầu thế kỷ thứ II sau Tây lịch. ñåi h¶i thu thÆp ÇÜ®c thành quä tÓt ÇËp:
Nhà vua tÆp h†p 500 vÎ cao tæng, tinh thông tam tång kinh Çi‹n, h†p tåi tinh xá Hoàn Lâm (Kundalavana- samagharama) nܧc Kasmitra Ç‹ ki‰t tÆp tam tång. Ngài Vasumitra (Th‰ H»u) chû trì Çåi h¶i, gÒm các danh tài nhÜ Dharmatrata (Pháp CÙu), Ghosa (DiŒu Âm ), Budhadeva (Giác Thiên ), và Parsva ( Hi‰p tôn giä). VŠ niên Çåi kÿ ki‰t tÆp này, nhiŠu tài liŒu nói khác nhau, là 400, 500 hay 600 næm sau ngày PhÆt tÎch diŒt (Thích Thanh Ki‹m, LÜ®c Sº PhÆt Giáo ƒn ñ¶, 107-111). CÛng có thuy‰t nói lần kiết tập kinh điển thứ tư xäy vào khoảng đầu thế kỷ thứ II sau Tây lịch. ñåi h¶i thu thÆp ÇÜ®c thành quä tÓt ÇËp:
-Kinh
tång : 10 vån bài tøng
-LuÆt
tång: 10 vån bài tøng.
-LuÆt
tång: 10 vån bài tøng.
TÃt cä 30 vån bài tøng, 660 vån
l©i. TÃt cä ÇŠu ÇÜ®c kh¡c in vào bän ÇÒng, trܧc sau phäi 12 næm m§i hoàn
thành. Sau khi công viŒc hoàn tÃt, tam tång kinh Çi‹n ÇÜ®c cÃt trong m¶t bäo
tháp m§i xây. It lâu sau, kinh tång và luÆt tång bÎ thÃt låc, chÌ còn phÀn chú
thích LuÆn tång.
NhÜ
Çã trình bày, kÿ ki‰t tÆp III Çã sÜu tÆp næm b¶ Nikàya. Năm
bộ Nikàya này được hoàng tử Mahinda sau khi xuất gia đem khẩu
truyền ở Tích Lan, cho đến khi một đại
hội kiết tập khác được tổ chức tại Tích Lan ở
làng Aluvihata.
NhÜ vÆy là có hai Çåi h¶i IV. Đây là lần đầu
tiên tạng Pàli được
chép bằng chữ trên lá buông vào năm 83 trước Tây lịch.
Lần này cÛng ÇÜ®c gọi là lần kiết
tập kinh điển
thứ tư (Kinh tạng Nikàya).
Các
tài liŒu chÌ nói ljn bÓn kÿ ki‰t tÆp. Riêng phái PhÆt giáo Nguyên Thûy ( Theravada) , vÓn
thu¶c ThÜ®ng T†a b¶ có hai Çåi h¶i n»a:
·
-ñåi h¶i 1871 ( Çåi h¶i 5): t° chÙc
tåi Madalay Mi‰n ñiŒn du§i triŠn Mindon
có møc Çích xem låi các kinh Çi‹n do ÇÙc PhÆt truyŠn dåy, kinh nào bÎ bÕ sót
hay Çem lÅn vào. ñiŠu này thÆt s¿ khó th¿c hiŒn.
·
-ñåi h¶i 1954 (Çåi h¶i 6), t° chÙc tåi Kaba Aye ª Yangon, vÓn là Rangoon næm 1954, 83 næm sau Çåi h¶i 5 tåi Madalay.
Kinh
tång Pali là kinh cûa Nguyên Thûy PhÆt giáo, vÓn ÇÜ®c truyŠn khÄu, ÇÜ®c chép
tay vào kÿ ki‰t tÆp thÙ tÜ vào th‰ k› thÙ nhÃt tru§c tây lÎch, sau ÇÜ®c ngÜ©i
Anh sÜu tÀm và do h¶i The Pali Text Society dÎch
Anh ng», ljn th‰ k› 19 m§i ÇÜ®c in, và
nay thì Çã ÇÜ®c vào chÜÖng trình ÇiŒn toán.
Trܧc
th©i ÇÙc PhÆt, ngÜ©i ta Çã dùng væn t¿ chép kinh Çi‹n Bà La môn. Trong các kinh
Çi‹n PhÆt giáo, các vÎ Bà la môn ÇÜ®c mô tä là nh»ng ngÜ©i thông hi‹u kinh Çi‹n,
væn phåm (Trung B¶ Kinh II.ThÜÖng già kinh
168A) Và th©i PhÆt tåi th‰, ngÜ©i ta Çã chÖi trò ÇÓ ch» (TrÜ©ng B¶ Kinh I, Kinh Phåm võng, 6). Theo
W.Durant, khoäng th‰ k› thÙ 8 hay 9 trܧc công nguyên, các thÜÖng nhân ƒn ñ¶ Çã
Çem tØ Tây Á thÙ ch» Sémitique Ç‹ tåo ra mÅu t¿ ƒn ñ¶. Và trong nhiŠu th‰ k›,
væn t¿ chÌ ÇÜ®c dùng trong thÜÖng måi và hành chánh ( LÎch sº Væn Minh ƒn ñ¶, NguyÍn Hi‰n Lê dÎch, 66),
Sanskrit
là ngôn ng» cûa dân Népal và ƒn ñ¶, và là væn t¿ cûa ƒn ñ¶ giáo, PhÆt giáo và
m¶t sÓ tôn giáo khác. Khªi ÇÀu
Sanskrit tØ 1700 trܧc tây lÎch
trong kinh Veda, là ngôn ng» cûa Indo-Aryan. ñ‰n th‰ k› 18, ch» Sanskrit
ÇÜ®c Latin hóa các mÅu t¿. Væn t¿
Sankrit ra Ç©i trܧc, sau Çó m§i xuÃt hiŒn ch» Pali, cÛng là væn t¿ xÙ ƒn ñ¶ và
Nepal. Theo T.W. Rhys Davids trong sách Buddhist India, và
Wilhelm Geiger trong sách "Pali Literature and Language", ch» Pali Çã ÇÜ®c dùng vào th©i PhÆt giáo. M¶t sÓ h†c
giä cho r¢ng ch» Pali xuÃt hiŒn vài th‰ k›
trܧc khi kinh tång Pali ra Ç©i. Kinh tång Pali ÇÜ®c truyŠn ª PhÆt giáo nguyên
thûy (Theravada), và theo m¶t sÓ nhà khäo cÙu, kinh Pali ÇÜ®c chép vào th‰ k›
thÙ nhÃt trܧc tây lÎch (T¿ Çi‹n Wikipedia).
ñåo
PhÆt ra Ç©i sau Çåo Bà La môn cho nên kinh Çi‹n cÛng chÌ m§i ÇÜ®c chép sau khi
PhÆt tÎch diŒt. M¶t sÓ h†c giä cho r¢ng kinh tång PhÆt giáo ÇÜ®c chép ª th‰ k›
thÙ ba trܧc tây lÎch k› nguyên, nghïa là phäi ba træm næm sau khi ÇÙc PhÆt
nhÆp Ni‰t Bàn, kinh Çi‹n PhÆt giáo, b¶ Pali kinh Çi‹n m§i ÇÜ®c ghi chép. B¶ này
m¶t phÀn ÇÜ®c truyŠn qua Trung Hoa là các b¶ A Hàm, nhÜng phÀn l§n b¶ kinh Pali bÎ mai m¶t, gÀn Çây m§i ÇÜ®c tìm
thÃy và do cô L. B. Horner cûa h¶i Pali
Text Society và các vÎ
khác, nhất là các sa môn
dÎch ra Anh ng».
CHÐ÷NG V
CÁC TÔNG PHÁI PHẬT GIÁO
Sau
kÿ ki‰t tÆp thÙ ba khoäng 200 næm, tÙc là sau khi ÇÙc PhÆt tÎch diŒt 500 næm,
b¶ Bát Nhã Ba La MÆt ña (Prajna Paramita Sutra ) ra Ç©i, gÒm 600 quy‹n không
bi‰t tác giä là ai, lÃy l©i PhÆt dåy
Subhuti (Tu BÒ ñŠ) vŠ không
tính. Trong th©i Çåi Kanishka, m¶t danh
tài xuÃt hiŒn là ngài Asvaghosa ( Mã Minh). NhiŠu tài liŒu khác nhau vŠ Mã
Minh. Có tài liŒu nói Ngài ÇÒng th©i v§i Hi‰p tôn giä, chính Mã Minh Çã tham d¿
kÿ ki‰t tÆp IV, Çäm trách viŒc nhuÆn s¡c væn chÜÖng. Mã Minh là tác giä cûa
nhiŠu b¶ sách kinh, luÆn, gÒm 100 b¶, hiŒn nay còn 8 b¶:
-
PhÆt Hånh Sª Tán, 5 quy‹n.
-
ñåi Trang Nghiêm LuÆn Kinh, 15 quy‹n.
-
ThÆp BÃt ThiŒn NghiŒp ñåo Kinh, 1
quy‹n.
-
Løc Thú Luân Hòi Kinh, 1 quy‹n.
-
S¿ sÜ pháp ngÛ thÆp tøng, 1 quy‹n.
-
Ni KiŠn Tº VÃn Vô K‰ Ngã Nghïa
Kinh, 1 q.
-
ñåi Tôn ñÎa HuyŠn Væn bän LuÆn, 20
q.
-
ñåi ThØa Khªi Tín LuÆn, 1 quy‹n.
Thích Thanh Ki‹m cho bi‰t có nhiŠu
thuy‰t vŠ Mã Minh. Có thuy‰t nói Ngài thu¶c Ti‹u ThØa, thuy‰t khác nói ñåi
ThØa. Có thuy‰t nói Ngài sinh trܧc Tây lÎch k› nguyên, có thuy‰t låi nói sau
tây lÎch (114-121).
Ÿ
Çâu, con ngÜ©i cÛng có nhiŠu loåi khác nhau vŠ tÜ tܪng, ki‰n thÙc và Çåo hånh.
ñÙc PhÆt Çã thÃy rõ ÇiŠu này khi Ngài trä l©i Thiên chû Sakka khi Thiên chû hÕi
PhÆt:
-Båch Th‰ Tôn,
có phäi tÃt cä các vÎ sa môn, Bà la môn ÇÒng m¶t tÜ tܪng, m¶t gi§i hånh, ÇÒng
m¶t mong cÀu, ÇÒng m¶t chí hܧng?
-Này Thiên chû,
tÃt cä sa môn, Bà la môn không ÇÒng m¶t tÜ tܪng, không ÇÒng m¶t gi§i hånh, không
ÇÒng m¶t mong cÀu, không ÇÒng m¶t chí hܧng.
-Båch Th‰ Tôn,
vì sao tÃt cä sa môn, Bà la môn không ÇÒng m¶t tÜ tܪng, không ÇÒng m¶t gi§i
hånh, không ÇÒng m¶t mong cÀu, không ÇÒng m¶t chí hܧng?
-Này Thiên chû,
th‰ gi§i này có nhiŠu loåi gi§i, nhiŠu gi§i sai biŒt. Trong th‰ gi§i gÒm nhiŠu
loåi gi§i , nhiŠu gi§i sai biŒt.này, các h»u tình t¿ nhiên thiên chÃp m¶t loåi
gi§i nào, và khi thiên chÃp Çã thành kiên trì, cÓ thû v§i ÇÎnh ki‰n ‘ñây là s¿
thÆt, ngoài ra là si mê’’. Do vÆy tÃt cä sa môn, Bà la môn không ÇÒng m¶t tÜ
tܪng, không ÇÒng m¶t gi§i hånh, không ÇÒng m¶t mong cÀu, không ÇÒng m¶t chí
hܧng.
-Båch Th‰ Tôn,
có phäi tÃt cä các vÎ sa môn, Bà la môn ÇÒng m¶t cÙu cánh, không ÇÒng m¶t an °n, không ÇÒng m¶t møc Çích?
-Này Thiên chû,
tÃt cä các vÎ sa môn, Bà la môn không ÇÒng m¶t cÙu cánh, không ÇÒng m¶t an °n, không ÇÒng m¶t møc Çích.
-Båch Th‰ Tôn,
vì sao tÃt cä các vÎ sa môn, Bà la môn không ÇÒng m¶t cÙu cánh, không ÇÒng m¶t an °n, không ÇÒng m¶t møc Çích?
-Này Thiên chû,
chÌ nh»ng vÎ sa môn, Bà la môn nào Çã giäi thoát tham ái, nh»ng vÎ Ãy m§i ÇÒng m¶t
cÙu cánh, ÇÒng m¶t an °n, ÇÒng m¶t phåm hånh, ÇÒng m¶t møc Çích. Do vÆy, tÃt cä vÎ sa môn, Bà la môn không ÇÒng m¶t cÙu
cánh, không ÇÒng m¶t an °n, không ÇÒng m¶t phåm hånh, không
ÇÒng m¶t møc Çích.
( TrÜ©ng B¶ Kinh III, Kinh ñ‰ Thích sª vÃn, 236)
Ÿ Çâu có con
ngÜ©i, dù là chÓn tu hành là có trí tuệ khác nhau, kiến thức khác nhau, ý kiến khác nhau, và có ngã mån,
có ganh tÎ, ghen ghét. Ngay th©i ÇÙc PhÆt tåi th‰, Ngài Çã nhìn thÃy s¿ phân
hóa trong lòng các sa môn. Do Çó ÇÙc PhÆt Çã dåy các tÿ kheo tôn tr†ng lÅn
nhau, sÓng trong hòa h®p:
Nhưng ở đây, này chư Hiền, có những Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp,
chỉ tán thán các Tỷ-kheo
chuyên tâm về Pháp, không tán thán
các Tỷ-kheo tu Thiền. Và ở đây, các Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp không được hoan hỷ; các Tỷ-kheo tu Thiền không được hoan hỷ. Hành đông như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều người, an lạc cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Nhưng ở đây, này chư Hiền, có những Tỷ-kheo tu Thiền chỉ tán thán các Tỷ-kheo tu
Thiền, không tán thán các
Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp.
Và ở đây, các Tỷ-kheo tu Thiền không được hoan hỷ; các Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp không được hoan hỷ. Sở hành như vậy không đưa lại hạnh phúc cho nhiều nguời, an lạc cho nhiều người, không đưa lại lợi ích, hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người.
"Chúng
ta là những người chuyên tâm về Pháp,
chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo tu Thiền ". Này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập như vậy. Vì cớ sao? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người cảm giác bất tử giới với thân và an trú. Do vậy, này
chư Hiền, cần phải học tập như sau: "Chúng ta là những người tu thiền, chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo
chuyên tâm về Pháp". Này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập như vậy. Vì cớ sao? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người với trí tuệ thể nhập và thấy con đường thâm sâu hướng dẫn đến đích.
(Tæng Chi Bộ kinh, chÜÖng 6 Sáu pháp, phÄm chÜ
thiên)
NhÜ
Çã trình bày ª trên, trong kÿ ki‰t tÆp kÿ hai Çã hình thành hai phái ThÜ®ng T†a
và ñåi Chúng. Sau Çó låi phân ra khoäng 20 b¶ phái. Lúc này, PhÆt giáo Çã phát tri‹n ra ngoài ƒn
ñ¶. M¶t khÓi ª phía nam ƒn ñ¶ qua các
nܧc Tích Lan, Mi‰n ñiŒn, Thái Lan, Cao Miên, Lào. Phái này ÇÜ®c g†i là Nam
PhÜÖng PhÆt giáo. Phái này chû trÜÖng triŒt Ç‹ tuân thû ÇÜ©ng lÓi cûa PhÆt giáo
th©i PhÆt tåi th‰. Phái này có danh hiŒu
là PhÆt giáo Nguyên Thûy. Phái này lÃy kinh tång Pali làm kinh Çi‹n. M¶t phái
khác, truyŠn vŠ B¡c ƒn ñ¶ qua các nܧc Trung Hoa, ViŒt Nam, NhÆt Bän, TriŠu
Tiên, Mông C°. Giữa thế kỷ thứ I trước công nguyên đến thế kỷ thứ I sau công nguyên, hai thuật ngữ Đại thừa (Mahayana) và Tiểu thừa (Hinayana) xuất hiện trong tác phÄm ñåi ThØa Khªi Tín LuÆn cûa Mã Minh, và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (Saddharma pundarika sutra).
Khoảng thế
kỷ thứ II sau công nguyên, chữ "ñại thừa"
dần dần được định
nghĩa rõ ràng hơn. Ngài Long Th† (Nagarjuna) phát huy
triết học đại thừa
về tánh Không và trong một bản kinh nhỏ
được người ta gọi là Trung luận
thuyết (Madhyamika-karika,
còn gọi là Trung quán luận) chứng minh rằng
vạn pháp đều rỗng không. Khoảng
thế kỷ thứ IV, Vô Trước
(Asanga) và Thế Thân
(Vasubandhu ) sáng tác một
số tác phẩm về kinh điển Đại thừa.
H† ÇÜ®c g†i là B¡c
phÜÖng PhÆt giáo còn h† t¿ xÜng là ñåi ThØa, và g†i Nam PhÜÖng PhÆt giáo là Ti‹u
ThØa. H† dùng kinh Çi‹n m§i, vi‰t b¢ng Sanskrit. Ngài Long Th† vÓn dòng Bà La
Môn, giÕi thiên væn, ÇÎa lš. Ngài quê ª nܧc Vidharbha ( Tÿ ñåt Bà), thÜ©ng
truyŠn bá PhÆt pháp tåi Kosala (KiŠu TÃt La). Sau Ngài Long Th† m¶t træm næm,
xuÃt hiŒn nhiŠu tài næng nhÜ Vô Trܧc, Th‰ Thân, TrÀn Na, Thanh BiŒn, H¶ Pháp,
Trí Quang, Gi§i HiŠn. . thu¶c ñåi ThØa.
Sau
khi ÇÙc PhÆt tÎch diŒt, PhÆt giáo Çã phát tri‹n thành nhiŠu tông phái.
I. CÂU XÁ TÔNG
Th‰
Thân ( Vasubandhu) là m¶t Çåi sÜ ª th‰ k› IV, V, Çã vi‰t b¶ Câu Xá LuÆn. B¶ này
lÃy nghïa ª sách Mahavibhasa Catra mà soån thành. Tên cûa nó là Kosa
( kho vàng), rút tØ ch»
Abhidharmakosa ( A tÿ Çåt ma câu xá luÆn). Nh»ng ÇŒ tº cûa ngài lÃy quan Çi‹m
cûa Câu Xá LuÆn làm tôn chÌ nên ÇÜ®c g†i là Câu Xá Tông. Næm 563, Ngài
Paramartha ( ChÖn ñ‰) ngÜ©I ƒn ñ¶ Çã dÎch b¶ A Tÿ ñåt Ma Câu Xá LuÆn ra ch»
Hán, sau Ngài HuyŠn Trang dÎch låi lÀn n»a. Ngày nay phái này không còn.
II. THàNH THẬT TÔNG
Tông
phái này ÇÒng th©i v§i Câu Xá Tông. Khoäng th‰ k› IV, Ngài Ha Ly Båt Ma (
Harivarman) soån b¶ Thành ThÆt LuÆn ( Satya Siddhi Catra) rút š nghïa tØ Tam
tång kinh Çi‹n. ñ‰n th‰ k› V, Ngài CÜu Ma La ThÆp dÎch ra ch» Hán. Ba ngàn ÇŒ
tº cûa Ngài trì tøng và giäng truyŠn b¶ này, lÆp ra phái Thành ThÆt luÆn. Câu
Xá và Thành ThÆt chÓng ÇÓi nhau. Câu xá luÆn cho bän ngã hÜ dÓi, chÌ có pháp
tÒn tåi. Còn phái Thành ThÆt cho bän ngã và pháp ÇŠu hÜ dÓi.
III. LUẬT TÔNG
Tông
phái này lÃy LuÆt tång làm cæn bän trong Ç©i sÓng tu hành. Tông này do ñåo
Tuyên chû xܧng ª th‰ k› VII. Ông hiŒu Nam SÖn, ngÜ©i Ç©i ñÜ©ng.
IV. PHÁP TÐỚNG TÔNG
Tông
này do các ngài Vô Trܧc (Asangha), Th‰
Thân ( Vasubandha) và H¶ Pháp
(Dharmapala) lãnh Çåo, lÃy Thành Duy ThÙc LuÆn làm gÓc, cho r¢ng vån vÆt
do thÙc mà bi‰n ra. ñÀu th‰ k› VII, Ngài HuyŠn Trang dÎch Duy ThÙc LuÆn và ra
sÙc quäng bá h†c thuy‰t Duy ThÙc.
V. TAM LUẬN TÔNG
Tông
này tôn Long Th† ( Nagarjuna) làm t° sÜ. Ngài sinh khoàng th‰ k› 2, vi‰t nhiŠu
b¶ luÆn. Hai b¶ luÆn cûa Ngài là Trung Quán LuÆn ( Madhyamaka Castra), ThÆp NhÎ
Môn LuÆn (Dvadaga Nikaya Castra) và b¶ Bách LuÆn
( Cata Castra) cûa ñŠ Bà ÇÜ®c coi
là nŠn täng cûa LuÆn tông. Theo Trung LuÆn, h»u và không cùng h‡n h®p. Trung
Çåo là ra ngoài chÃp h»u chÃp không.
VI. HOA NGHIÊM TÔNG
Mã
Minh (th‰ k› I), Long Th† (th‰ k› II) Çu®c tôn là t° sÜ cûa tông này. TÜÖng
truyŠn Long Th† Çã xuÓng Long cung thÌnh ÇÜ®c kinh Hoa Nghiêm, và tông này lÃy
kinh Hoa Nghiêm làm cæn bän. Ngài Giác HiŠn ( Bud- dhhabhadra) tØ ƒn ñ¶ sang
dÎch kinh này næm 418 tåi thành Ki‰n XÜÖng.
ñåo Tuyên (Do Sen) là t° Hoa Nghiêm tông tåi NhÆt.
VII. THIÊN THAI TÔNG
Tông
này Ç¥t cÖ sª tåi núi Thiên Thai nên ÇÜ®c g†i là tông Thiên Thai. NgÜ©i
sáng lÆp là ñåi sÜ Trí Khäi (538-597), ngÜ©i Ç©i Tùy. Kinh này lÃy DiŒu Pháp
Liên Hoa Kinh làm cæn bän, nên cÛng g†i là Pháp Hoa Tông. Th¿c ra Trí Khäi chÌ
là ÇŒ tam t°, nhÜng ÇÜ®c tôn xÜng vì có công lao nhiŠu.
VIII. CH÷N NGÔN TÔNG
Tông
này cÛng có tên là MÆt Tông. Tông này là s¿ k‰t h®p gi»a PhÆt giáo và Tân Bà La
Môn giáo ( ƒn ñ¶ giáo), møc Çich dùng uy l¿c PhÆt và BÒ Tát cÙu Ƕ chúng sinh.
MÆt Tông cæn cÙ vào b¶ ñåi NhÆt Kinh xuÃt hiŒn th‰ k› VII ª Nam ƒn. CuÓi
th‰ k› VII, Kim CÜÖng ñính Kinh xuÃt hiŒn, cho nên Tông này có tên là Kim CÜÖng
ThØa.Tông này lÃy ñåi NhÆt NhÜ Lai ( Mahavairocana) tÙc PhÆt Thích Ca làm giáo
chû. ñåi NhÆt NhÜ Lai truyŠn cho Kim Cang Tát Trøy ( Vajrasata), Kim Cang Tát
Trøy truyŠn cho Long Th†, Long Th† truyŠn cho Long Trí (Na-gabodhi), Long Trí truyŠn cho Kim
Cang Trí (Vajrabodhi).
ix. THI“N TÔNG
Tông
này lÃy PhÆt Thích làm giáo t°, Ca Di‰p làm t° thÙ nhÃt. BÒ ñŠ ñåt Ma (
Bodhidharma) ngܩi Nam
ƒn ñ¶ ÇÜ®c coi là khai t° ThiŠn Tông Trung QuÓc. ThiŠn Tông Trung QuÓc truyŠn
tØ ñåt Ma, HuŒ Khä, Tæng Xán, ñåo Tín, Ho¢ng NhÅn, HuŒ Næng. Tông phái này
truyŠn sang ViŒt Nam
do Tÿ Ni ña LÜu Chi và Vô Ngôn Thông.
X. TÎNH ñ¶ TÔNG
Chúng
ta không bi‰t rõ tông này phát xuÃt tØ Çâu. Tåi Trung QuÓc, ViÍn công, th‰ k›
VII, và ª NhÆt, Pháp Nhiên ( Ho nen) th‰ k› VIII ÇÜ®c xem là t° sÜ. Ngày nay,
các h†c giä nhÆn ÇÎnh có ba tông phái
chính:
-1.Nam
phÜÖng PhÆt giáo, trong Çó l§n nhÃt là PhÆt giáo nguyên thûy.
2-B¡c
phÜÖng PhÆt giáo, có ThiŠn Tông, TÎnh ñ¶ Tông và Liên Hoa tông.
3.
MÆt tông: tåi Tây Tång, là Kim CÜÖng ThØa.
Chúng
tôi muÓn nói rõ hÖn vŠ s¿ phân phái trong PhÆt giáo. S¿ phân phái này là tình
trång chung cûa các tôn giáo. Thời kỳ Phật
giáo Nguyên thủy cho đến thời kỳ
Bộ phái (sau Đức Phật 400 năm)
chưa có danh từ Đại thừa
hay Tiểu thừa. Danh từ Đại thừa
và Tiểu thừa xuất hiện
đồng thời với kinh điển Đại thừa
khoảng thế kỷ thứ
I trước hoặc sau Tây lịch. S¿ sai lÀm này còn tÒn tåi trong các tØ
Çi‹n, các tác phÄm nghiên cÙu và kinh
Çi‹n. Năm 1950, Hội Phật Tử
Thân Hữu Thế Giới (World Fellowship of Buddhists, WFB) họp tại Colombo (Tích Lan) đã nhất
trí quyết nghị loại bỏ
danh từ Tiểu thừa khi nói đến
Nam tông Phật giáo.
Ta nên hi‹u giáo lš được phân làm hai truyền thống: Truyền thống Nguyên thủy và truyền thống Phát triển. Ta cÛng có th‹ g†i phái này là PhÆt giáo Cäi Cách, hay Tân PhÆt giáo. Về mặt địa lš, truyền thừa thì gọi là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Sử dụng từ ngữ Nguyên thủy và Phát triển nói lên tính xuyên suốt của cây đại thọ, giáo lš đạo Phật, mà phần gốc, rễ là Nguyên thủy; phần thân ngọn cành lá là Phát triển. Nguyên thủy và Phát triển ( Cäi Cách, Tân PhÆt giáo) cả hai bổ sung cho nhau. Ngày nay, ngÜ©i tu h†c nên džc cä hai loåi kinh Çi‹n Ç‹ có m¶t cái nhìn thông suÓt theo tinh thÀn trung Çåo. Các t° sÜ Ç©i trܧc Çã tìm ra nh»ng con ÇÜ©ng nhÜng chính h† cÛng Çi xa nguÒn c¶i PhÆt giáo, nhÃt là sau khi ÇÙc PhÆt tÎch diŒt, tÜ tܪng Bà La Môn låi tràn ngÆp trong PhÆt giáo, mà m¶t sÓ Çåi sÜ cÛng tØ Ba La Môn Çi vào PhÆt giáo, mang nh»ng hành trang Bà La Môn giáo. Chúng ta phäi tìm džc và suy luÆn ch§ tin theo truyŠn thÓng, tin theo kinh Çi‹n, vì kinh Çi‹n có loåi chép sai, dÎch sai, hay do Ç©i sau sáng tác. Ta cÛng không nên tin theo Çåo sÜ cûa mình vì thÀy ta cÛng có th‹ thiên ki‰n, sai lÀm. ñÙc PhÆt Çã dåy:
Ta nên hi‹u giáo lš được phân làm hai truyền thống: Truyền thống Nguyên thủy và truyền thống Phát triển. Ta cÛng có th‹ g†i phái này là PhÆt giáo Cäi Cách, hay Tân PhÆt giáo. Về mặt địa lš, truyền thừa thì gọi là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Sử dụng từ ngữ Nguyên thủy và Phát triển nói lên tính xuyên suốt của cây đại thọ, giáo lš đạo Phật, mà phần gốc, rễ là Nguyên thủy; phần thân ngọn cành lá là Phát triển. Nguyên thủy và Phát triển ( Cäi Cách, Tân PhÆt giáo) cả hai bổ sung cho nhau. Ngày nay, ngÜ©i tu h†c nên džc cä hai loåi kinh Çi‹n Ç‹ có m¶t cái nhìn thông suÓt theo tinh thÀn trung Çåo. Các t° sÜ Ç©i trܧc Çã tìm ra nh»ng con ÇÜ©ng nhÜng chính h† cÛng Çi xa nguÒn c¶i PhÆt giáo, nhÃt là sau khi ÇÙc PhÆt tÎch diŒt, tÜ tܪng Bà La Môn låi tràn ngÆp trong PhÆt giáo, mà m¶t sÓ Çåi sÜ cÛng tØ Ba La Môn Çi vào PhÆt giáo, mang nh»ng hành trang Bà La Môn giáo. Chúng ta phäi tìm džc và suy luÆn ch§ tin theo truyŠn thÓng, tin theo kinh Çi‹n, vì kinh Çi‹n có loåi chép sai, dÎch sai, hay do Ç©i sau sáng tác. Ta cÛng không nên tin theo Çåo sÜ cûa mình vì thÀy ta cÛng có th‹ thiên ki‰n, sai lÀm. ñÙc PhÆt Çã dåy:
Này các
Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo
cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin
vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị Sa-môn là bậc đạo sư của mình.
Nhưng này các Kàlàmà, khi nào tự mình biết rõ như sau: "Các pháp này là thiện; Các pháp này là không có tội; Các pháp này được người có trí tán thán; Các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc an lạc", thời này Kàlàmà, hãy chứng đạt và an trú! Ðiều đã được nói lên như vậy, chính do duyên như vậy được nói lên. (Tæng Chi B¶ III, PhÄm nhÕ 3.65)
Mặc
dù truyền thống Nguyên thủy và Phát triển, hay Cäi Cách có những khác biŒt, vÅn có những điểm tương đồng quan tr†ng sau:
-Cả hai đều
nhìn nhận Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là bậc Đạo
sư.
-Cả hai đều
chấp nhận và hành trì giáo lš Tứ thánh đế, Bát chánh đạo,
Duyên khởi...; đều chấp nhận
pháp ấn Khổ, Không, Vô ngã; đều chấp nhận
con đường tu tập: Giới-Định-Tuệ.
- Cả hai đều
từ chối về một đấng tối cao sáng tạo
và ngự trị thế giới.
Tuy nhiên, Çi sâu vào n¶i dung và hình
thÙc các kinh tång, ta thÃy gi»a l©i PhÆt và l©i chÜ t° có khác nhau, m¶t bên
giän dÎ, m¶t bên khò hi‹u.
Tóm lại, Kinh tạng
Nguyên thủy là kinh tạng ghi chép lại những lời
Phật và Thánh chúng một cách đầy đủ
nhất, tÜÖng ÇÓi trung
thành v§i l©i ÇÙc PhÆt dåy bu°i ban sÖ. Kinh tạng này mang tính thiết
thực gần gũi với
tâm lš con người và sự sinh hoạt của
xã hội. Đây là cơ sở
giáo lš mà chúng ta lấy
làm nền tảng cho mọi nghiên cứu,
thực tập và nhất là hiểu
một cách đúng đắn tư
tưởng đạo Phật phát triển.
chÜÖng vi
PHẬT GIÁO TRÊN THẾ GIỚI
K‹
tØ khoäng sau tây lÎch, PhÆt giáo Çã truyŠn bá sang nhiŠu quÓc gia, nhÃt à tåi
Á châu. Ngày nay, m¶t sÓ ngÜ©i Âu MÏ cÛng theo PhÆt giáo và nghiên cÙu PhÆt
giáo. Sau Çây chúng tôi xin trình bày sÖ lÜ®c vài nét vŠ các quÓc gia theo PhÆt
giáo.
i.
ƒn ñ¶
TØ
th‰ k› thÙ 8 trª Çi, PhÆt giáo tåi ƒn ñ¶ suy vi vì nhiŠu lš do nhÜng lš do
chính là s¿ xâm læng và tàn phá cûa HÒi giáo.V§i møc Çích xây d¿ng m¶t lj quÓc
HÒi giáo, và vì lš tܪng phát tri‹n nܧc Chúa, ngÜ©i HÒi Çã tiêu diŒt nh»ng tôn
giáo không thu¶c HÒi giáo, trái v§i chû trÜÖng tØ bi, bác ái cûa ThÜ®ng ñ‰.
Ngày nay ƒn ñ¶ có khoäng bÓn triŒu tín ÇÒ trong khi dân sÓ ƒn ñ¶ 400 triŒu.
Ngày nay, tåi ƒn ñ¶ còn có nhiŠu di tích PhÆt giáo nhÜ L¶c Uy‹n (Migadana), BÒ
ñÒ Çåo tràng ( BuÇha-gaya), trÜ©ng Çåi h†c Nalanda, Kÿ Viên tinh xá.
Ngay th©i
ÇÙc PhÆt tåi th‰, Ngài Çã dåy các ÇŒ hãy Çi các nÖi truyŠn giäng chánh pháp:
"Này các Tỷ-kheo, hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích,
vì an lạc cho loài Người, loài Trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ. Này các Tỷ-kheo, hãy thuyết giảng chánh pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn đầy đủ, văn cú vẹn toàn. Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có
những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe, sẽ thâm hiểu chánh pháp. Cứ sáu năm, hãy đến tại kinh đô Bandhumati để tụng đọc giới bổn". (TrÜ©ng b¶ Kinh I,
Kinh ñåi B°n)
Không rõ th©i này, có sa môn ÇŒ tº
nào cûa ÇÙc PhÆt Çã ra khÕi biên cÜÖng ƒn ñ¶ Ç‹ truyŠn PhÆt pháp chÜa. ñ‰n Ç©i
A Døc vÜÖng ( khoäng th‰ k› 3 tr.TL), nhà vua m§i hå lŒnh cho các sa môn truyŠn
bá Çåo PhÆt ra th‰ gi§i bên ngoài.
ii. T´CH LAN
VÎ
Çåo sÜ ÇÀu tiên ljn Tích Lan là Mahinda. Con gái A Døc vÜÖng là Sanghamitta Çã
mang m¶t nhánh cây bÒ ÇŠ nÖi ÇÙc PhÆt thành Çåo vŠ trÒng tåi Tích Lan. TØ Çây
PhÆt giáo tåi Tích Lan phát tri‹n månh. PhÆt giáo Tích Lan ÇÜ®c g†i là ñåi Tinh
Xá T¿ phái (Mahavihara) hay g†i t¡t là ñåi T¿ phái, thu¶c ThÜ®ng T†a B¶
(Theriya-Nykayan).
Sau
PhÆt giáo Tích Lan thành lÆp ba giáo Çoàn khác nhau. PhÆt giáo Tích Lan trܧc
Çây vÅn theo phÜÖng thÙc tøng džc, ljn triŠu vua Vatthagamani-Abhaya ( Vô Úy
vÜÖng), th‰ k› I trܧc tây lÎch, các kinh Çi‹n m§i ÇÜ®c chép b¢ng ch» Pali. ñ‰n
th‰ k› V, ngài Buddhaghoso (PhÆt Âm) tØ Trung ƒn sang Tích Lan nghiên cÙu, và
chú thích kinh Çi‹n, sau låi có ngài
Dhammapala (H¶ Pháp) sang ti‰p tøc công viŒc này. Dân sÓ Tích Lan 9 triŒu, PhÆt giáo 5 triŒu.
III. MIẾN ñIỆN
Tåi
Mi‰n ñiŒn, PhÆt giáo cÛng ÇÜ®c truyŠn bá
vào th©i A Døc vÜÖng. Mi‰n ñiŒn chÎu änh hܪng cûa phái NhÃt Thi‰t H»u B¶. ñ‰n
th‰ k› V, ThÜ®ng T†a B¶, rÒi MÆt giáo cÛng truyŠn vào Mi‰n ñiŒn. Mi‰n ñiŒn có
19 triŒu dân, PhÆt giáo 16 triŒu.
IV. THÁI LAN
PhÆt
giáo truyŠn vào Thái Lan vào th©i vÜÖng triŠu Sukhotai (1238-1406), chÎu änh
hܪng ThÜ®ng t†a b¶. Næm 1361, vua Thái Lan Suriyavamsa Rama phái sÙ thÀn sang
Tích Lan cÀu giáo lš ñåi T¿ Phái và suy tôn PhÆt giáo làm quÓc giáo. Dân sÓ
Thái Lan khoäng 20 triŒu, PhÆt giáo 15 triŒu.
V. TÂY TẠNG
PhÆt
giáo truyŠn vào Tây Tång khoäng th‰ k› thÙ ba, nhÜng chính thÙc là th©i
vua
Sron btsan sgame (569-650). Nhà vua còn sai sÙ thÀn sang ƒn ñ¶, Trung
QuÓc
thÌnh kinh. Sau th©i Çåi Sron btsan sgame Khri Ide bstan (755-781), MÆt
Tông
truyŠn vào Tây Tång. Nh© s¿ c¶ng tác v§i chÜ tæng ƒn ñ¶, Tây Tång có b¶
ñåi
Tång kinh Tây Tång. Khoäng th‰ k› IX, Ngài Rin -chènbran- po qua Nepal
h†c MÆt
giáo rÒi vŠ nܧc truyŠn bá MÆt giáo. ñ‰n th‰ k› XIV, Ngài Tson Khaapa
tÙc Tôn
Kha Ba (1357-1419), là ngÜ©i Cam Túc Çã
soån b¶ ‘’BÒ ñŠ ñåo ThÙ ñŒ LuÆn’’, ‘’Chân Ngôn ThÙ ñŒ LuÆn’’, lÆp ra
‘’phái MÛ
Vàng’’( Hoàng Måo phái), lÆp chùa Dgah Idan Ö Çông b¡c thû Çô Lhasa.
Trܧc khi viên tÎch, Tôn Kha Ba Çã kš chúc cho hai Çåi ÇŒ tº là ñåt Lai Låt Ma và Ban ThiŠn Låt Ma, hai vÎ này Ç©i Ç©i chuy‹n sinh. Dân chúng xem hai vÎ này là PhÆt sÓng. ñåi Lai Låt Ma cÛng là vua cûa Tây Tång. TØ Ç©i Låt Ma thÙ VI, Tây Tång thÜ©ng bÎ xâm læng, các Låt Ma phäi trÓn tránh ra ngoåi quÓc. VÎ Låt Ma thÙ VI vì nhà Thanh áp bÙc phäi trÓn qua Mông C°. VÎ Låt Ma thÙ VIII bÎ quân Anh xâm lÜ®c phäi qua Mông C° sau vŠ Lhasa nhÜng bÎ quân TÙ Xuyên tràn vào phäi chåy qua ƒn ñ¶. VÎ Låt Ma hiŒn nay là Ç©i XIV, tên là Chamo Todrup , sinh ngày 6-6-1935 tåi Amo, tÌnh Thanh Häi ( Tainghai), là m¶t tÌnh giáp Trung QuÓc, bÎ Trung c¶ng xâm lÜ®c phäi tœ nån tåi ƒn ñ¶.
Trܧc khi viên tÎch, Tôn Kha Ba Çã kš chúc cho hai Çåi ÇŒ tº là ñåt Lai Låt Ma và Ban ThiŠn Låt Ma, hai vÎ này Ç©i Ç©i chuy‹n sinh. Dân chúng xem hai vÎ này là PhÆt sÓng. ñåi Lai Låt Ma cÛng là vua cûa Tây Tång. TØ Ç©i Låt Ma thÙ VI, Tây Tång thÜ©ng bÎ xâm læng, các Låt Ma phäi trÓn tránh ra ngoåi quÓc. VÎ Låt Ma thÙ VI vì nhà Thanh áp bÙc phäi trÓn qua Mông C°. VÎ Låt Ma thÙ VIII bÎ quân Anh xâm lÜ®c phäi qua Mông C° sau vŠ Lhasa nhÜng bÎ quân TÙ Xuyên tràn vào phäi chåy qua ƒn ñ¶. VÎ Låt Ma hiŒn nay là Ç©i XIV, tên là Chamo Todrup , sinh ngày 6-6-1935 tåi Amo, tÌnh Thanh Häi ( Tainghai), là m¶t tÌnh giáp Trung QuÓc, bÎ Trung c¶ng xâm lÜ®c phäi tœ nån tåi ƒn ñ¶.
VI. TRUNG QU–C
PhÆt
giáo tåi Trung QuÓc rÃt månh. Có nhiŠu thuy‰t vŠ viŒc truyŠn bá PhÆt giáo tåi
Trung QuÓc. Có lë vào niên hiŒu Nguyên Th† nguyên niên (2 tr.TL), Ç©i Ai ñ‰ nhà
Hán, sÙ thÀn nܧc ñåi Nhøc Chi là Y TÒn Çem PhÆt giáo truyŠn cho TrÀn Cänh
Hiên. CÛng có thuy‰t cho r¢ng niên hiŒu Vïnh Bình thÙ 10 (67 TL) Ç©i Minh ñ‰
nhà HÆu Hán næm mÖ thÃy ngÜ©i vàng r¿ r« ª phÜÖng Tây bèn sai Thái Hâm, TÀn
Cänh, VÜÖng TuÃn, cä b†n 18 ngÜ©i, qua Tây V¿c thÌnh tÜ®ng PhÆt.
Gi»a ÇÜ©ng b†n Thái Hâm g¥p Ca Di‰p Ma ñ¢ng ( Kasyapamayanga) và Trúc Pháp Lan. ( Dharmaraksa) täi kinh và tÜ®ng PhÆt b¢ng ng¿a tr¡ng Çi vŠ phÜÖng Çông, bèn m©i hai vÎ vŠ Trung QuÓc. Khi hai ngài t§i Trung QuÓc, Minh ñ‰ tôn kính h†, lÆp chùa Båch Mã là ngôi chùa ÇÀu tiên tåi Trung QuÓc Ç‹ hai ngài dÎch kinh Çi‹n. Hai ngài Çã dÎch b¶ ‘’TÙ ThÆp NhÎ ChÜÖng Kinh’’; Riêng Trúc Pháp Lan dÎch ‘’ThÆp ñÎa ñoån K‰t Kinh’’, 8 quy‹n, ‘’Pháp Häi Tång Kinh’’ , 1 q; PhÆt Bäo Hånh Kinh’’ 5 q; ‘’PhÆt Bän Sinh Kinh ‘’, 1 q;v. .v.. TØ Çó vŠ sau, chÜ tæng ƒn ñ¶ thÜ©ng ljn Trung QuÓc truyŠn bá PhÆt pháp. Nh»ng vÎ sÜ n°i danh th©i kÿ này là Bud- dhasimha ( PhÆt ñÒ TrØng), Kumarajiva (CÜu Ma La ThÆp), Dharmaraksa (ñàm Vô SÃm), Buddhabhadra (PhÆt ñà Båt ñà La), Bodhidharma (BÒ ñŠ ñåt Ma).
Gi»a ÇÜ©ng b†n Thái Hâm g¥p Ca Di‰p Ma ñ¢ng ( Kasyapamayanga) và Trúc Pháp Lan. ( Dharmaraksa) täi kinh và tÜ®ng PhÆt b¢ng ng¿a tr¡ng Çi vŠ phÜÖng Çông, bèn m©i hai vÎ vŠ Trung QuÓc. Khi hai ngài t§i Trung QuÓc, Minh ñ‰ tôn kính h†, lÆp chùa Båch Mã là ngôi chùa ÇÀu tiên tåi Trung QuÓc Ç‹ hai ngài dÎch kinh Çi‹n. Hai ngài Çã dÎch b¶ ‘’TÙ ThÆp NhÎ ChÜÖng Kinh’’; Riêng Trúc Pháp Lan dÎch ‘’ThÆp ñÎa ñoån K‰t Kinh’’, 8 quy‹n, ‘’Pháp Häi Tång Kinh’’ , 1 q; PhÆt Bäo Hånh Kinh’’ 5 q; ‘’PhÆt Bän Sinh Kinh ‘’, 1 q;v. .v.. TØ Çó vŠ sau, chÜ tæng ƒn ñ¶ thÜ©ng ljn Trung QuÓc truyŠn bá PhÆt pháp. Nh»ng vÎ sÜ n°i danh th©i kÿ này là Bud- dhasimha ( PhÆt ñÒ TrØng), Kumarajiva (CÜu Ma La ThÆp), Dharmaraksa (ñàm Vô SÃm), Buddhabhadra (PhÆt ñà Båt ñà La), Bodhidharma (BÒ ñŠ ñåt Ma).
CÜu Ma La ThÆp là ngÜ©i Khâu TÜ (Kucha) và qua
các nܧc Tây V¿c h†c PhÆt, bÎ nhà TÀn b¡t vŠ Trung QuÓc. Ngài ª TrÜ©ng An dÎch
nhiŠu b¶ kinh, trong Çó có:
-Ma Ha Bát Nhã
Ba La MÆt ña Kinh, 27 q.
-Kim CÜÖng Bát Nhã Ba La MÆt ña Kinh, 1q.
-DiŒu Pháp Liên Hoa Kinh, 7 q.
- Duy Ma CÆt Sª Thuy‰t Kinh, 3 q.
-Thû Læng Nghiêm Tam Mu¶i Kinh, 3 q.
-ñåi Trí ñ¶ LuÆn, 100q.
-Trung LuÆn, 4 q.
-Bách
LuÆn, 2 q.
-Thành
Th¿c LuÆn, 20 q.
VII. TRI“U TIÊN
PhÆt
giáo truyŠn vào TriŠu Tiên th©i Tam QuÓc
(372-668). Lúc này TriŠu Tiên gÒm ba nܧc Cao CÀu Ly, Bách T‰ và Tân La. Cæn cÙ
b¶ Tam QuÓc Sº Kš, PhÆt giáo truyŠn sang Cao CÀu Ly vào th©i vua Ti‹u Thú Lâm
næm thÙ hai (372), vào Bách T‹ th©i vua ChÄm LÜu nguyên niên (384), và truyŠn
ljn Tân La th©i vua Pháp HÜng thÙ 5 (528). ñ©i ñông TÃn, TÃn vÜÖng Phù Kiên sai
sÜ ThuÆn ñåo Çem kinh Çi‹n và tÜ®ng PhÆt cho vua Ti‹u Thú Lâm. Sau Çó 13 næm
(384), ngài Ma La Nan ñà, ngÜ©i ƒn ñ¶ Çem PhÆt giáo tØ ñông TÃn truyŠn t§i Bách
T‰ vào th©i vua ChÄm LÜu. Sau Çó khoäng 40 næm Ç©i Thánh Minh vÜÖng, PhÆt giáo
hÜng thÎnh, vua sai sÙ thÀn và sÜ sãi truyŠn PhÆt giáo sang NhÆt Bän. ñó là
th©i vua Kemmei Tenne ( Khâm Minh Thiên hoàng) næm thÙ 13 (552). ñ©i ñÜ©ng, ba
nܧc thÓng nhÃt thành TriŠu Tiên. Các h†c giä n°i danh nhÜ Nguyên Hi‹u (618-686), Nghïa TÜÖng pháp
sÜ (625-702) Çã sang nhà ñÜ©ng h†c PhÆt. H†c giä Nguyên Hi‹u Çi nºa ÇÜ©ng, n¢m
ngû m¶ ÇÎa, uÓng nܧc suÓi cÀm hÖi mà ng¶ Çåo. Ngài trª vŠ nghiên cÙu và chú
thích 90 b¶ kinh.
VIII. NHẬT BẢN
PhÆt
giáo truyŠn ljn PhÆt giáo khoäng th‰ k› VI. Vào Ç©i Khâm Minh Thiên hoàng næm
thÙ 13 (552), khoäng tháng 10, vua nܧc Bách T‰ ( TriŠu Tiên) là Thánh Minh
vÜÖng sai sÙ thÀn là TÜ Trí Khi‰t mang tÜ®ng PhÆt Thích Ca b¢ng ÇÒng và kinh
Çi‹n PhÆt giáo ljn cÓng. CÛng có thuy‰t nói trܧc Çó Ç©i K‰ Th‰ Thiên hoàng næm
thÙ 16 (?), có ngÜ©i nhà ñÜ©ng tên là TÜ Mã ñåt ChÌ Ç‰n NhÆt Bän, lÆp m¶t thäo
am th© PhÆt. Lúc bÃy gi© Thánh ñÙc thái tº nhi‰p chính, là m¶t nhà væn hóa, m¶
Çåo PhÆt Çã khuy‰n khích dân chúng th© PhÆt.
Ngài
h†c PhÆt v§i sÜ HuŒ TØ ngÜ©i TriŠu Tiên, tinh thông Nho h†c, Çã giäi thích ba
b¶ kinh trong sáu næm, tØ 609 ljn 615, là các b¶ Th¡ng Man Kinh, Phap Hoa Kinh
và Duy Ma Kinh. Ngài cÛng cho nhiŠu phái Çoàn sang Trung QuÓc h†c Çåo, ljn khi
h† thành tài, trª vŠ, Ngài cho lÆp nh»ng viŒn nghiên cÙu giáo lš nhà PhÆt. PhÆt
giáo NhÆt Bän liên låc mÆt thi‰t v§i Trung QuÓc và TriŠu Tiên tåo nên m¶t nŠn
hòa bình tåi vùng này.
IX. VIÊT NAM
ViŒt
Nam
ª trên trøc giao thông Hoa ƒn. Ban ÇÀu các sÜ ƒn ñ¶ sang ViŒt Nam truyŠn Çåo,
và ngÜ©i ViŒt Nam
cÛng Çã sang ƒn ñ¶ tu h†c. TruyŒn ñàm Thiên pháp sÜ có chép viŒc vua Cao T° nhà
Tùy r¢ng vua muÓn xây chùa d¿ng tháp ª Giao Châu, và ûy thác sÜ tuy‹n l¿a tæng
tài Ç‹ ÇÜa sang Giao Châu truyŠn pháp. SÜ trä l©i:
Cõi Giao Châu
có ÇÜ©ng thông sang Thiên Trúc gÀn hÖn ta. Khi PhÆt giáo chÜa nhÆp vào ÇÃt
Giang ñông ta, mà cõi Ãy Çã xây d¿ng ÇÜ®c hÖn 20 ng†n bäo tháp, Ƕ ÇÜ®c hÖn 500
tæng sï, dÎch ÇÜ®c 15 b¶ kinh rÒi. Vì vÆy, bên Ãy gÀn nܧc PhÆt hÖn ta. Bãy gi©
Çã có các vÎ Maha Kÿ V¿c, KhÜÖng Tæng H¶i, Chi CÜÖng LÜÖng và Mâu Bác ljn
truyŠn Çåo. . . Ngài muÓn bÓ thí m¶t
cách bình Ç£ng phái chÜ tæng sang truyŠn Çåo, nhÜng ª Çó h† có Çû rÒi, ta không
cÀn phäi sang n»a (
Thích MÆt Th‹, 64-65).
Tài liŒu cûa DÜÖng Quäng Hàm cÛng nhÜ Cao Tæng truyŒn sai lÀm khi cho r¢ng Mâu Bác và Khang Tæng H¶i ljn ViŒt Nam truyŠn Çåo. S¿ th¿c cä hai ljn ViŒt Nam h†c PhÆt.
KhÜÖng Tæng H¶i ngÜ©i nܧc
Transoxiane, thu¶c giÓng Khang CÜ (Sodiane), ti‹u sº Ngài cÛng nhÜ ñàm Thiên
ÇÜ®c chép trong Cao Tæng TruyŒn, do HuŒ Håo soån næm 519. T° tiên Ngài sÓng tåi
Thiên Trúc, thân phø ngài sang Giao Châu buôn bán. Khi ngài lên mÜ©i, thân phø
mÃt, Ngài xuÃt gia ÇÀu PhÆt, thông hi‹u tam tång kinh Çi‹n và giÕi væn chÜÖng ( TrÀn Væn Giáp, 54). Mâu Bác ÇÒng th©i v§i KhÜÖng Tæng
H¶i. Theo Pelliot, Mâu Bác sinh khoäng 165-170, khi Hán Linh ñ‰ mÃt, ông và mË
chåy qua Giao Châu, ljn næm 26 tu°i trª vŠ ThÜÖng Ngô lÃy v®. Ông thông thåo
Nho, Lão, PhÆt, vi‰t Mâu Tº Lš Ho¥c. (TrÀn
Væn Giáp, 56). Theo Thích MÆt Th‹, Mâu Bác sang Giao Châu nghiên cÙu
PhÆt pháp ( 70).
PhÆt giáo truyŠn sang Trung Hoa vào Ç©i Hán
nhÜng th©i Tam QuÓc, PhÆt giáo tåi Çây
còn sÖ sài, KhÜÖng Tæng H¶i m§i sang Çây truyŠn giáo và xây chùa chiŠn ( TrÀn Væn Giáp, 53).
Sº
sách cho bi‰t có nhiŠu vÎ sÜ ƒn ñ¶ sang ta tØ th‰ k› II, III nhÜ:
1. Ma Ha Kÿ V¿c:
( Mahajivaka). Cao Tæng truyŒn cÛng ÇŠ cÆp ljn Ngài. SÜ có phép thÀn thông.
Ngài theo ÇÜ©ng bi‹n ljn Phù Nam, Giao
Châu, Quäng Châu. Ngài ljn Låc DÜÖng vào niên hiŒu Vïnh Bình thÙ tÜ
(294TL), rÒi trª vŠ ƒn ñ¶.
2. Khâu ñà La: (Kaudra)
Theo Báo C¿c TruyŒn, ông ljn Giao
Châu vào th©i Hán Linh ñ‰ cùng v§i Ma Ha Kÿ V¿c.
3. Chi CÜÖng LÜÖng (
Kalaruci) :
Vì phiên âm khác nhau, ông
còn ÇÜ®c ghi là CÜÖng LÜÖng Lâu Chí, Chi
CÜÖng LÜÖng Ti‰p. Theo Pelliot, ông ngÜ©i Nhøc Chi. Theo TrÀn Væn Giáp, sÜ Çã
ljn Giao Châu khoäng 255-256 trên ÇÜ©ng tØ ƒn ñ¶ sang Trung Hoa.
Th©i gian sau, m¶t sÓ nhà
sÜ ViŒt Nam sang ƒn ñ¶ nghiên cÙu PhÆt pháp và sang Trung Hoa thuy‰t pháp. Sau
Çó, änh hܪng PhÆt giáo Trung Hoa truyŠn sang ViŒt Nam.
TØ trܧc ljn nay, PhÆt giáo Çå bÎ bách håi các các th‰ l¿c ngoåi bang xâm lÜ®c và Ƕc tài. Tuy vÆy, PhÆt giáo cÛng ÇÜ®c các h†c giä Tây phÜÖng chú š. PhÆt giáo Çã có nh»ng mÓi giao häo và phát tri‹n v§I Châu Âu và châu MÏ.
Ngày nay, nhiŠu ngÜ©i Âu MÏ Çã chú š ljn PhÆt giáo. Trܧc
Çây,
m¶t nhà báo MÏ, ñåi tá Henry Steele
Olcott Çã thành lÆp H¶i PhÆt giáo tåi New York, rÒi ông qua Tích Lan, ƒn
ñ¶,
thành lÆp h¶i Thanh Niên PhÆt giáo Tích Lan, sáng lÆp PhÆt giáo hiŒp h¶i
tåi
Colombo. Ngày 17-2-1909, ông mÃt, ngÜ©i Tích Lan lÃy ngày này k› niŒm
Olcott. Chính Olcott tåi Srit Lanska ch‰
ra c© PhÆt giáo gÒm næm màu vào næm 1880. Næm 1881, ông T.W. Rhys
Davids lÆp H¶i Væn bän Pali Ç‹ nghiên cÙu và dÎch các kinh Çi‹n PhÆt
giáo
vi‰t b¢ng væn t¿ Pali ra Anh ng».
Lúc bÃy gi© tåi
Tích Lan có trܪng lão Tÿ kheo Hikkaduwe Sri Sumangura Çã thi‰t lÆp PhÆt H†c
viŒn ‘’Vidyodaya Pirivena’’ và h†c giä Anagarika Dharmapala là ngÜ©i Çã c¶ng
tác v§i Çåi tá Olcott trong viŒc chÃn hÜng
PhÆt giáo, lo trùng tu các PhÆt tích
ª ƒn ñ¶, và sáng lÆp h¶i ‘’Maha Bodhi’’
Ç‹ chÃn hÜng PhÆt giáo tåi ƒn ñ¶. Næm 1950, bác sï Malalasekera, giáo sÜ Çåi
h†c Tích Lan Çã Çi
nhiŠu nܧc, vÆn Ƕng thành lÆp viŒc
thÓng nhÃt PhÆt giáo th‰ gi§i. H¶i nghÎ PhÆt giáo th‰ gi§i ÇÀu tiên ÇÜ®c triŒu
tÆp
vào tháng 5- 1950, gÒm Çåi bi‹u 29
nܧc h†p tåi chùa ‘’Ræng PhÆt’’, tÌnh
Candy, cách Colombo khoäng 150km Ç‹ thành lÆp h¶i PhÆt H†c Th‰ Gi§i ( The World
Fellowship of Buddhists) vi‰t t¡t là WFB.
CHƯƠNG VII
TRIẾT HỌC VÀ TÔN GIÁO
Viết về một
triết lý, một tôn giáo đã là khó khăn huống hồ bàn về các triết lý và tôn giáo
lại là việc vô cùng to lớn . Triết lý thì nhiều, tôn giáo thì đông đảo, tuy
nhiên giữa triết lý và các tôn giáo vẫn có cái riêng, cái chung, và những thuộc
tính cần thiết.Vì vậy ở đây chúng tôi chỉ nói sơ lược vài vấn đề để độc giả
thấy mối tương quan giữa các triết lý và tôn giáo.
I. TRIẾT HỌC
Vấn đề tôn giáo là một vấn đề quan trọng, đã tốn nhiều giấy mực và thời giờ giảng giải, tranh luận.Ở đây, chúng ta thử xem xét sự khác biệt giữa triết học và tôn giáo. Triết học theo quan niệm Trung Hoa là do chữ Triết có nghĩa là mổ xẻ, phân tách, và chữ Khẩu: miệng nói, là giảng giải, bàn luận, lý luận. Còn chữ Học là nghiên cứu, học tập, làm theo, bắt chước. Triết học tức là một bộ môn nhằm phân tách, mổ xẻ sự vật để tìm hiểu ngọn nguồn , rồi truyền dạy cho mọi người hiểu rõ và thực hành trong cuộc sống.
Triết học là môn học luận lý có tính
cách mổ xẻ, phân tích làm cho sáng tỏ từng vấn đề như quan niệm nho gia là
“cách vật trí tri” là ngành học nhằm nghiên cứu những vấn đề về vũ trụ vạn
vật. Nhưng cách vật trí tri là bao gồm cả khoa học cho nên thời Pháp thuộc
có môn Cách Trí dạy về khoa học thường thức. Dẫu sao, triết học xưa hiện nay
chỉ là nghiên cứu tinh thần, còn nghiên cứu về vật chất và xã hội thì thuộc
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Theo tự điển Wikipedia, triết học là bộ
môn nghiên cứu các vấn đề tổng quát và căn bản như là sự hiện hữu, kiến thức,
giá trị, lý luận, tinh thần ,ngôn ngữ. Từ ngữ triết học xuất phát từ chữ Hy Lạp
φιλοσοφία (philosophia) nghĩa là sự khôn ngoan.Tự điển này cho biết có nhiều
ngành triết học như là siêu hình học, nhận thức luận, luân lý, lý luận, triết
học về ngôn ngữ, triết học luật, triết học về tinh thần, triết học về tôn giáo,
và triết học về khoa học (2). Phật giáo bao gồm siêu hình học, nhận thức luận,
đạo đức học, tinh thần và tôn giáo. Như vậy, Phật giáo là một triết lý.Dù Marx
có xưng xe rằng triết học của ông là Duy Vật, là khoa học, nhưng thực sự cũng
chỉ là một lý thuyết chính trị, ở ngoài vật chất, và hoàn toàn phản khoa học.
Quan điểm triết học của Đông Phương cũng gần ý nghĩa chữ Philosophie của
Tây phương. Ở Ấn Độ, triết học lại có một định nghĩa khác: Minh tri, minh
giác. Tất cả tư tưởng triết học đều bắt nguồn từ kinh Védas có nghĩa là
khoa học, thiêng liêng và thánh trí. Mục đích của nó tương tự như ở Phật
giáo là đưa người ra khỏi cái vô minh (avidyà) để đến cõi giác: giải
thoát (apavargah).
II. TÔN
GIÁO
Có nhiều định nghĩa về tôn giáo. Triết học khác với các môn khác là do lý
luận, và hệ thống hóa mà thành và còn do việc nghiên cứu, thảo luận của lý trí.
Còn tôn giáo hay đạo (tiếng Anh: “religion” và “religion” lại xuất phát từ
thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên
- xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để giúp con người sống
và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người.
Religion vốn gốc ở chữ Latinh religionem
(nom. religio) nghĩa là tôn kính những cái gì thiêng liêng, những cái gì
thuộc thần thánh, hoặc mối liên hệ giữa người và thần thánh. Theo Ciceron, tôn
giáo nghĩa là lựa chọn, quan sát kỹ lưỡng. Thời trung cổ, nói đến tôn giáo tức
nói đến giáo hội . Theo Max Muller, nguồn gốc Anh ngữ chữ "religion"
là ở chữ Latin religio, nghĩa là tôn kinh, thượng Đế hay quỷ thần, là
quan tâm đến những vấn đề thiêng liêng và lòng nhân từ. (Wikipedia)
Theo định nghĩa trên, Phật giáo
có nói lục đạo, niết bàn, luân hồi là đề cập đến những vấn đề thiêng liêng, đến
quỷ thần , đến từ bi bác ái cho nên Phật giáo đích thực là một tôn giáo. Tôn
giáo đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì
siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ
và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế
giới thành hai phần: thiêng liêng và trần tục. Theo quan niệm trên và nhận xét
thực tế, một tôn giáo thường có những điều kiện sau:
-Giáo chủ
-Kinh điển
-Thờ cúng, nghi thức
-Tin ngưỡng
-Tín đồ.
Theo Đông Phương, Tông giáo 宗敎 nghĩa là một
đường lối giáo dục, tạo cho con người trở thành thánh thiện. Cũng có một danh
từ khác là Đạo 道
, đạo là con đường lớn. Hai danh từ này có ý nghĩa này rất rộng rãi.Như vậy,
triết học thiên về lý tính, còn tôn giáo thiên vè niềm tin, kinh điển và lễ
nghi.
Khi nói đến tôn giáo tức là chỉ cho
những đoàn thể có ít nhiều tổ chức về hình thức lễ nghi, có tính cách biểu thị
sự liên lạc giữa người và thần linh, bao trùm một nghĩa sợ sệt và tôn kính.
Ngoài ra lại còn giải thích chữ tôn giáo với những giáo điều...
Tự điển
Wikipedia trong khi định nghĩa tôn giáo đã đưa ra một bản thống kê các tôn giáo
gồm vài chục tôn giáo trên thế giới như là Hồi giáo, Thiên Chúa giáo, Phật
giáo, Do Thái giáo, Bà La môn, Bahá'í , Khổng giáo, Thần Đạo.. . Nhiều tài liệu
nói đến số tín đồ của các tôn giáo. Các tài liệu nói khác nhau nhưng tài liệu
cuối thế kỷ XX thì cho rằng dân số thế giới gần bảy tỷ. Một số cho rằng Hồi
giáo đông nhân rồi đến Thiên chúa giáo, thứ ba là Phật giáo. Cũng có tài liệu nói
Thiên Chúa giáo đông nhất. Tự điển Wikipedia ước lượng như sau:
-Thiên chúa giáo: 2.2 tỷ - - 34%
-Islam 1.6 tỷ - -23%
-Phật giáo 1,9 tỷ - -29%
-ẤnĐộ giáo 1,1 tỷ - -16%
Các tôn giáo đều khác nhau, vì
văn hóa khác nhau. Có tôn giáo nhấn mạnh đức tin, có tôn giáo nhấn mạnh mặt
thực hành. Có tôn giáo chú tâm về mặt kinh nghiệm tâm linh, có tôn giáo chú
trọng về công tác xã hội. Nhiều tôn giáo muốn phổ cập toàn cầu, tin vào những
quy luật phổ quát của vũ trụ, và tin rằng đạo gắn bó với mọi người., trong khi
một số tôn giáo chỉ đặt mối tương quan trong một nhóm nhỏ, trong một địa phương
nhỏ..`Có những tôn giáo đặt nặng giáo dục, bệnh viện, gia đình, chính quyền,
hoặc chính trị.
Có nhiều tôn giáo không có triết
học, có nhiều triết học không phải là tôn giáo. Sự thực tôn giáo và triết học
khó có sự phân biệt như triết học Marx đã mang tính cách tôn giáo vì cuồng tín
và thần thánh hóa hay sùng bái cá nhân..
Một số người trong đó có một số Phật tử
cho rằng Phật giáo chỉ là một triết học , không phải là tôn giáo vì đức Phật
không hề nói Ngài là con trời, hay thượng đế, hay người thay mặt thượng Đế, hay
kẻ được Thượng Đế giao sứ mạng. Cái quan trọng nhất là Ngài đã không tôn thờ
Thượng Đế. Xuất thân từ đạo Bà La môn, mà niềm tin lớn lao nhất của Ấn Độ giáo
cũng như đa số tôn giáo đều thờ Thượng Đế, thếheo lối định nghĩa thông thường,
một cách chính xác, Phật Giáo không phải là một tôn giáo (religion) bởi vì Phật
Giáo không phải là "một hệ thống tín ngưỡng và tôn sùng lễ bái",
trung thành với một thần linh siêu nhiên. Phật Giáo không đòi hỏi nơi tín đồ
một đức tin mù quáng, cũng không bắt buộc tín đồ phải tuân theo giáo lý hay
tuân theo lệnh của sư trưởng. Các tín đồ phải tự mình tìm hiểu chân lý, đừng
nghe ai, đừng sợ ai:
“Này, hãy nghe đây các vị Kālāmas, đừng vội tin vào
truyền thuyết (các bản báo cáo ghi sự kiện), truyền thống (các tín ngưỡng,
phong tục lâu đời), lời đồn (nghe nói).Đừng tin vào lý luận hay suy đoán suông
không có căn cứ; cũng đừng vội chấp nhận điều gì sau khi chỉ xem xét một vài
nguyên nhân hay ngẫm nghĩ qua loa; cũng đừng tin khi thấy điều đó có vẻ hợp lý
hay chính bậc thầy đáng kính của mình dạy bảo. Nhưng khi tự mình biết rõ: Những
pháp này đáng chê trách, bất thiện; các pháp này bị người hiền trí chỉ trích;
nếu được thực hành và chấp nhận, chúng sẽ đưa đến bất hạnh, khổ đau thì các vị
phải bác bỏ chúng". (Tăng Chi Bộ Kinh, Anguttara Nikāya I, p 189)
Thực ra đức Phật không phủ nhận Thượng
Đế. Các tôn giáo có nhiều quan niệm về Thượng Đế. Phật giáo cũng tin có Thượng
Đế nhưng hình trạng Thượng Đế có khác với các tônh giáo khác mà thôi.Ta có thể
chia hai loại triết học. Một loại tin vào thần thánh (theism) và một loại vô
thần (Atheism). Loại thần giáo cũng có thể chia hai, một loại tôn giáo chỉ thờ
một vị thần tức độc thần giáo (monotheism) , và một loại tôn giáo thờ nhiều vị
thần tức là Đa thần giáo (Polytheism ). Sự thực không có tôn giáo nào là độc
thần giáo vì lẽ bên cạnh Thượng Đế người ta còn thờ nhiều vị thần khác. Như
vậy, ta có thể nói rằng Phật giáo là triết học và cũng là tôn giáo.Chúng tôi sẽ
phân tích sâu xa hơn về khía cạnh của tôn giáo.
Khoa học không tin có thượng đế, và
triết học có hai loại, một loại tin có thượng đế, một loại không tin có thượng
đế và bài xích tôn giáo. Marx cho rằng "tôn giáo là thuốc phiện". Ngày
nay, nhiều thuyết mới về vũ trụ cho rằng vũ trụ và con người là từ không mà
sinh ra như thuyết thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, nghĩa là
vạn vật tự nhiên sinh ra, không do Thượng Đế. Thuyết “big
bang” cho rằng thế giới sinh ra từ vụ nỗ lớn. Stephen Hawking trong sách “The
Grand Design” mà đài BBC dịch là “Sự Tạo Dựng Vĩ Đại”. đưa ra lý thuyết cho
rằng Thượng đế không tạo dựng vũ trụ., và con người chết là hết như cái
computer hư là đem quăng đi.
Thuộc tính của tôn giáo là gì? Thuộc tính là tính chất của tôn giáo là những vấn đề căn bản của tôn giáo. Đó là linh hồn, kiếp sau, thượng đế, nhân quả, thiện ác. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng thuộc về triết học, là bộ môn siêu hình học.Nhiều người kể cả những tỳ kheo cho rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo có lẽ họ đã bị ảnh hưởng của Marx chống tín ngưỡng, chống tôn giáo.
Thuộc tính của tôn giáo là gì? Thuộc tính là tính chất của tôn giáo là những vấn đề căn bản của tôn giáo. Đó là linh hồn, kiếp sau, thượng đế, nhân quả, thiện ác. Tuy nhiên, những vấn đề này cũng thuộc về triết học, là bộ môn siêu hình học.Nhiều người kể cả những tỳ kheo cho rằng Phật giáo không phải là một tôn giáo có lẽ họ đã bị ảnh hưởng của Marx chống tín ngưỡng, chống tôn giáo.
III. LINH HỒN
Các tôn giáo đều tin con người sống có
hai phần, là phần thân xác và phần linh hồn. Sau khi chết, thể xác bị tiêu hủy,
linh hồn vẫn tồn tại sau chết. Người Việt Nam còn gọi linh hồn là vía,
phách.Khoa học và phái duy vật cho rằng con người chết là hết, không có linh
hồn, không có kiếp sau. không có ma quỷ, không có thượng đế, không có thiên
đường, địa ngục.Trái lại, tôn giáo tin có ma quỷ, có linh hồn.
Tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại là Vệ Đà (Vedism) lấy kinh Vedas bốn quyển làm chủ, ra đời khoảng ngàn rưỡi năm trước tây lịch. Đến khoảng năm 800 trước tây lịch, cải thành Bà La Môn giáo (Bramanism) ,do chữ Brahma là nguồn gốc tối cao của vũ trụ, tức là Đại Ngã, là Đại Vũ trụ, là Đại hồn, nay thường gọi là Thượng Đế.
Đến thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch cải danh là Ấn Độ giáo (Hinduism) giáo lý căn cứ vào kinh Vedas, và các kinh điển khác như Phạm Thư ( Brahmanas), Sâm lâm thư (Aranyakas ), Áo Nghĩa Thư( Upanishads ).Ấn Độ giáo tin rằng con người sau khi chết vẫn tồn tại. Con người ta, linh hồn con người đưọc gọi là Atman là bản ngã , là Tiểu Ngã, là Tiểu hồn, Tiểu Vũ trụ, là một phần rất nhỏ của Đại Ngã tức Thượng Đế. Do đó, Brahman và Atman đồng bản chất, nên thông đồng được với nhau. Thuyết này cũng giống thuyết thiên địa vạn vật tương quan, thiên nhân tương dữ của Nho giáo.
Tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại là Vệ Đà (Vedism) lấy kinh Vedas bốn quyển làm chủ, ra đời khoảng ngàn rưỡi năm trước tây lịch. Đến khoảng năm 800 trước tây lịch, cải thành Bà La Môn giáo (Bramanism) ,do chữ Brahma là nguồn gốc tối cao của vũ trụ, tức là Đại Ngã, là Đại Vũ trụ, là Đại hồn, nay thường gọi là Thượng Đế.
Đến thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch cải danh là Ấn Độ giáo (Hinduism) giáo lý căn cứ vào kinh Vedas, và các kinh điển khác như Phạm Thư ( Brahmanas), Sâm lâm thư (Aranyakas ), Áo Nghĩa Thư( Upanishads ).Ấn Độ giáo tin rằng con người sau khi chết vẫn tồn tại. Con người ta, linh hồn con người đưọc gọi là Atman là bản ngã , là Tiểu Ngã, là Tiểu hồn, Tiểu Vũ trụ, là một phần rất nhỏ của Đại Ngã tức Thượng Đế. Do đó, Brahman và Atman đồng bản chất, nên thông đồng được với nhau. Thuyết này cũng giống thuyết thiên địa vạn vật tương quan, thiên nhân tương dữ của Nho giáo.
Các dân tộc
và tôn giáo tin rằng sau khi chết linh hồn sẽ đi vào cõi âm. Đa số tin rằng
linh hồn sẽ đi vào hai cõi là thiên đàng và địa ngục. Người thiện lên thiên
đàng, kẻ ác xuống địa ngục. Theo Thiên Chúa giáo, Satan bị đày xuống địa ngục.
Con người sau khi chết vẫn tồn tại để chờ ngày phán xét cuối cùng.
Theo Ấn Độ
giáo, linh hồn sau khi chết sẽ chuyển sang nhiều thế giới khác, và gọi là luân
hồi. Luân hồi là vũ trụ quan của Ấn Độ giáo mà Phật giáo thừa hưởng. Vũ trụ và
con người luân chuyển theo chu kỳ thành, hoại, trụ, diệt. Cũng có cách diễn tả
khác, thế giới sẽ biến chuyển từ thượng nguyên, sang trung nguyên, rồi đến hạ
nguyên. Con người cũng bị luân hồi. Do đó có thuyết tái sinh và thuyết nhân
quả.
Đi cùng với thuyết luân hồi là
thuyết tái sinh (punarjanman) và thuyết nhân quả ( karma). Tất cả những truyền
thống tôn giáo cao cấp xuất phát từ tiểu lục địa Ấn Độ - kể cả Phật giáo và
Kì-na giáo - đều thừa nhận thuyết này mặc dù có một vài điểm trong đó được biến
đổi. Phật giáo cho rằng sau khi chết, con người sẽ phải trầm luân lục đạo,
nghĩa là sau khi chết, tùy theo nhân quả mà đầu thai vào các cõi: thiên,
a-tu-la , nhân , súc sinh , ngạ quỷ, địa ngục. Cõi trời là cao nhất, thấp nhất
là địa ngục.
Phật giáo nói rõ là có quỷ thần. Trong lục đạo, ngã quỷ, và A tu la là ma quỷ, là quỷ thần. Cõi trời là thánh thần, tiên và cũng có A tu la tức là quỷ, là hung thần, họ luôn chống đối chư thiên, chư thánh, chư thần trong cõi trời. Ngay trong trái đất, noi con người ở là đã có ma quỷ. Phật dạy:
Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có.. Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngaỵ.. . Nếu có người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đại thần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người; thì việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười nghiệp thiện, như một người có trăm ngàn thần hộ vệ. Vì nhân duyên này cho nên, người thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu. ( Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm Đao Lợi Thiên. 414-415)
Phật giáo nói rõ là có quỷ thần. Trong lục đạo, ngã quỷ, và A tu la là ma quỷ, là quỷ thần. Cõi trời là thánh thần, tiên và cũng có A tu la tức là quỷ, là hung thần, họ luôn chống đối chư thiên, chư thánh, chư thần trong cõi trời. Ngay trong trái đất, noi con người ở là đã có ma quỷ. Phật dạy:
Tất cả mọi loại cây cối dù là cực nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không có chỗ nào là không có.. Tất cả mọi người nam, người nữ khi mới bắt đầu sinh ra đều có quỷ thần theo bên ủng hộ; nếu khi nào họ chết thì quỷ thần giữ gìn họ, thu nhiếp tinh khí của họ, nên người này sẽ chết ngaỵ.. . Nếu có người nào tu hành pháp thiện, chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười nghiệp thiện, chỉ một người như vậy, thì cũng có trăm ngàn thần bảo hộ rồi. Giống như quốc vương, đại thần của quốc vương có trăm ngàn người hộ vệ một người; thì việc này cũng như vậy, người tu hành pháp thiện, đầy đủ mười nghiệp thiện, như một người có trăm ngàn thần hộ vệ. Vì nhân duyên này cho nên, người thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu. ( Trường A Hàm, Kinh Thế Ký, Phẩm Đao Lợi Thiên. 414-415)
Linh hồn có chết hay không? Phật
không nói rõ linh hồn trường tồn hay đoạn diệt. Nhưng Phật dạy vô thường và
trầm luân. Vô thường nghĩa là luôn thay đổi trong trầm luân, từ con người có
thể chuyển sang súc sinh,, ngã quỷ , Atu la, hay chư thiên ...Nếu ở cõi trời,
tuổi thọ có thể hàng ngàn năm, hàng vạn năm. Phật giáo cho rằng con người trầm
luân mãi mãi, như vậy là không kết thúc , mà có thể coi là lâu dài dù là tương
đối với cái nhìn nhân thế của chúng ta.
Tôn giáo nào
cũng thờ thần linh, cúng vái, cũng tin rằng linh hồn tồn tại, có ma quỷ, thánh
thần như vậy thì đều như nhau, dưới mắt khoa học và người vô thần, các tôn gíao
đều mê tín dị đoan. Người ta tin rằng sau khi chết linh hồn tồn tại. Những hồn
linh thiêng , có quyền lực thì được tôn thành thần linh. Trong thế giới thần
linh, vị thần tối linh thiêng tức là thương đế.Như vậy, các tôn giáo đều tin có
ma quỷ, thánh thàn, và các tôn giáo này đều thuộc triết phái hữu thần. Nếu
không tin ma quỷ thì họ chỉ là triết học chứ không phải là tôn giáo.
IV. THƯỢNG ĐẾ
Phần lớn các tôn giáo đều thờ thượng đế, công nhận thương đế hiện hữu mặc dầu mỗi tôn giáo có quan niệm khác nhau.
-Thượng đế trong Đạo giáo Trung
Quốc là Ngọc Hoàng, hay Thiên hoàng Thượng đế
-Thượng đế trong Do Thái giáo là
Jehovah
-Thượng đế trong Ki-tô giáo là Thiên Chúa (God, Deus, Dieu)
-Thượng đế trong Hồi giáo là Allah
-Thượng đế trong Ki-tô giáo là Thiên Chúa (God, Deus, Dieu)
-Thượng đế trong Hồi giáo là Allah
-Thượng đế trong Ấn Độ giáo là
Brahma (hoặc tập hợp cả Brahma, Vishnu, Shiva)
-Thượng đế trong đạo Cao Đài là
Đức Chí Tôn (Đức Cao Đài)
-Thượng đế trong Phật giáo thì nhiều vị, trong đó Đế Thích là cao nhất.
-Thượng đế trong Phật giáo thì nhiều vị, trong đó Đế Thích là cao nhất.
Trước tiên muốn biết vấn đề này,
ta phải tìm hiểu vũ trụ quan Phật giáo. Người ta tin chỉ có một thái dương hệ,
một thiên đàng, một địa ngục và một thượng Đế. Nhưng theo Phật giáo Nam Tông và
Bắc tông vũ trụ có tam thiên đại thiên thế giới. Vũ trụ là vô cùng vô
tận, vạn vật vô thủy vô chung. Ngoài có to nhất còn có cái to hơn nữa, trong
cái bé nhất còn có cái bé hơn nữa ( Lớn không trong, bé không ngoài).
"Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy. Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di ; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác, bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Ðao-lợi, ngàn trời Diệm-ma, ngàn trời Ðâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm ; đó là tiểu thiên thế giới. Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới. Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật.” (Trường A Hàm, Thế Ký, Diêm Phù Đề)
"Như trong chỗ mà một mặt trời, mặt trăng vận hành khắp bốn thiên hạ, tỏa ánh sáng chiếu; có một ngàn thế giới như vậy. Trong ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di ; có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường ác, bốn ngàn đường ác lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngàn Diêm-la vương, ngàn Tứ thiên vương, ngàn trời Ðao-lợi, ngàn trời Diệm-ma, ngàn trời Ðâu-suất, ngàn trời Hóa tự tại, ngàn trời Tha hóa tự tại, ngàn trời Phạm ; đó là tiểu thiên thế giới. Như một tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một trung thiên thế giới. Như một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một tam thiên đại thiên thế giới. Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật.” (Trường A Hàm, Thế Ký, Diêm Phù Đề)
Trong vũ trụ quan Phật giáo, Đế Thích thiên vương chỉ là một trong các vị thiên vương (ông trời) ở trên các tầng trời, do công đức tu hành cao nên khi hết một báo thân, chúng sanh đó được sanh lên các tầng trời theo nghiệp báo của họ, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi vòng sinh tử.
Các tôn giáo đều tin Thượng Đế, Allah, Brahma , ông Trời tạo nên vũ trụ và loài người, còn Phật giáo quan niệm như thế nào về sự sinh khởi loài người? Các tỳ kheo đã thảo luận với nhau về vấn đề này:
Chư Hiền!
Thật chưa từng có, nay đây trời đất này do đâu mà tan hoại? Do đâu mà hình
thành? Quốc độ mà chúng sanh ở là như thế nào?”
Triết lý Phật
giáo là luân hồi. Phật giáo cho rằng thuở hồng hoang trái đất chỉ là khí hỗn
độn, các vị thần linh ở cõi trời Quang Âm thiên bị hủy hoại nên xuống trái đất.
10.Này
Vàsettha, có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế
giới này chuyển hoại. Trong khi thế giới chuyển hoại, các loại hữu tình phần
lớn sanh qua cõi Abhassara (Quang Âm thiên). Ở tại đây, những loại chúng sanh
này do ý sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không,
sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài. Này Vàsettha,
có một thời đến một giai đoạn nào đó, sau một thời hạn rất lâu, thế giới này
chuyển thành. Trong khi thế giới này chuyển thành, một số lớn chúng sanh từ
Quang Âm thiên thác sanh qua tại đây. Những chúng sanh này do ý sanh, nuôi sống
bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh
và sống như vậy một thời gia khá dài.
11. Này Vàsettha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù. Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi. Này Vàsettha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước. Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra. Ðất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đề hồ hay thuần túy như tô, vị của đất như mật ong thuần tịnh... ( Trường Bộ kinh, Khởi Nhân thế bổn)
11. Này Vàsettha, lúc bấy giờ, vạn vật trở thành một thế giới toàn nước đen sẫm, một màu đen khiến mắt phải mù. Mặt trăng, mặt trời không hiện ra; sao và chòm sao không hiện ra; không có ngày đêm; không có tháng và nửa tháng; không có năm và thời tiết; không có đàn bà đàn ông. Các loài hữu tình chỉ được xem là loài hữu tình mà thôi. Này Vàsettha, đối với các loài hữu tình ấy, sau một thời gian rất lâu, vị đất tan ra trong nước. Như bọt nổi lên trên mặt cháo sữa nóng đang nguội dần, cũng vậy đất hiện ra. Ðất này có màu sắc, có hương và có vị. Màu sắc của đất giống như đề hồ hay thuần túy như tô, vị của đất như mật ong thuần tịnh... ( Trường Bộ kinh, Khởi Nhân thế bổn)
1. Tại sao
lại tin có Thượng Đế?
Người ta tin vào luật Nhân quả, Phật giáo, Khổng giáo và khoa học cũng tin vào luật nhân quả. Luật này tin rằng có nhân và quả liên hệ với nhau. Mọi vật sinh ra đều có lý do hiện hữu Ai sinh ra loài người? Ai sinh ra vũ trụ? Các nhà tôn giáo bảo là do Thượng Đế sinh ra. Nhưng quan niệm này cũng gặp nan giải là vì có ai hỏi: Ai sinh ra ta? Cha mẹ ta? Ai sinh ra cha me? Ông bà? Ai sinh ra ông bà? Cứ thế mãi...Câu trả lời cuối cùng sẽ là Thượng Đế sinh ra. Vậy ai sinh ra Thượng Đế? Các nhà tôn giáo bảo rằng:"Thượng đế là nguyên nhân sau cùng!"
Nếu như vậy thì Thượng Đế không
ai sinh ra cả, Thượng Đế là ngẫu nhiên. Nếu không ai sinh ra cả. Giải đáp này
sẽ gặp hai vấn nạn:
-Nếu thượng đế không ai sinh ra
thì trái với luật n hân quả má quý Ngài đã đề ra.
-Nếu Thượng Đế không ai sinh ra
cả thì con người cũng có thể không ai sinh ra cả.
Bảo rằng vạn vật
sinh ra là có nguyên nhân, rồi lại bảo thượng đế là tự nhiên sinh ra , không do
nguyên nhân nào cả thì là mâu thuẫn. Cũng như Marx bảo vạn vật biến chuyển ,
cái mới phủ định cái cũ, xã hội càng ngày thì càng đi lên theo hình xoán ốc. Ấy
thế mà Marx lại bảo xã hội con người qua năm giai đoạn, đến giai đoạn cộng sản
là dừng lại. Như vậy là mâu thuẫn.
Lại nữa, nếu bảo
Thượng Đế toàn năng sao lại sinh ra kẻ gian ác, sinh ra con rắn, sinh ra Satan,
sinh ra tai họa như bão lụt, chiến tranh?
Tôn giáo xưa
nhất có lẽ là Ấn Độ giáo, là đa thần giáo vì thờ nhiều thần linh. Kinh điển của
tôn giáo này là ở bộ Upanishads, Purāṇas và một số kinh sách khác. Ấn giáo
không có giáo chủ, tôn thờ thượng Đế là Brahma, Vishnu và và Shiva Cũng như các
tôn giáo khác, Ấn Độ giáo có nhiều tông phái với nghi thức và kinh điển khác
nhau. Tuy bị xếp vào đa thần giáo, dân Ấn Độ cho rằng họ là độc thần giáo vì ba
vị Brahma, Vishnu, và Shiva đều là thị hiện của Brahman là đấng Sáng Tạo.
Theo Nguyễn Văn
Thọ, một số giáo sĩ Thiên Chúa giáo dùng chữ Thiên và Thượng Đế để diễn tả danh
từ “ chúa Trời” của Thiên chúa giáo, và họ cho rằng quan niệm Thượng Đế của
Trung Quốc là đồng nghĩa với Chúa Trời của Thiên Chúa giáo. Nhưng một số linh
mục không đồng ý dùng chữ Thiên hay Thượng Đế của Trung Hoa: Cha Pasio khuyến
cáo cha Longobardo, người kế nghiệp cha Ricci, rằng nếu dùng chữ Thượng Đế, chữ
Thiên để chỉ Thiên Chúa e bất lợi cho công cuộc truyền giáo, nhất là ở Nhật
Bản. Cuộc tranh luận về từ ngữ kéo dài mãi cho tới hội nghị Kiating (1628). Các
giáo sĩ đành vấn ý Giáo Hội La Mã như sau: «Những chữ Thiên, chữ Thượng Đế còn
có nên giữ để chỉ Chúa người Công giáo không?» Mãi đến 1704 Giáo Hội mới trả
lời: «Không, hãy dùng chữ Thiên Chúa.» (3)
2. Bản ngã thượng đế
Trong các tôn giáo, Thượng đế có bản ngã, có mang nhân tính, có hiểu
biết, tình cảm, hành động, và có thể có hình dạng cụ thể, hoặc thể hiện mình ra
dưới hình dạng cụ thể cho con người đoán nhận.Tuy nhiên có niềm tin cho rằng
Thượng đế chỉ là cội nguồn quy luật của tự nhiên, là tạo hoá tự nhiên, hoàn
toàn khách quan không mang tính chất nào của bản ngã, nhân tính.Cũng có niềm
tin cho rằng Thượng đế là kết hợp của cả hai, vừa hữu ngã vừa vô ngã, hoặc con
người không thể nhận biết được bản chất của Thượng đế.Nho giáo cho rằng Thượng
Đế là do khí thuở thiên địa mịt mù mà sinh ra, và nho giáo gọi là Vô cực, Thái
cực. Chu Liêm Khê viết thiên Thái Cực đồ thuyết luận về Thái Cực và sự khởi
nguyên của Vạn Hữu, khởi đầu ông nói : "Vô Cực nhi Thái Cực" 無 極 而太 極. Vô
cực, Thái Cực, Đạo hay Tâm đều là nói về Thương Đế và vũ trụ.
Quan niệm này mang tính chất vật chất, vật lý không có hình tượng siêu việt , khác với ý nghĩ các nhà thần học Tây phương. Họ bất mãn vì Trung Hoa lại có thể dùng chữ Thiên mà chỉ Thượng Đế, vịn lẽ rằng trời là vòm trời, vô tri giác, sao lại có thể kính tôn và thờ phụng được. Linh mục Ruggieri viết: «Trời không phải là thần minh mà là tòa của thần minh… Có thể ông Khổng đã dùng chữ trời mà chỉ danh một trí tuệ tối cao cai trị trời đất, nhưng tôi không biết ông Khổng đã nghĩ thế nào? (4).
Quan niệm này mang tính chất vật chất, vật lý không có hình tượng siêu việt , khác với ý nghĩ các nhà thần học Tây phương. Họ bất mãn vì Trung Hoa lại có thể dùng chữ Thiên mà chỉ Thượng Đế, vịn lẽ rằng trời là vòm trời, vô tri giác, sao lại có thể kính tôn và thờ phụng được. Linh mục Ruggieri viết: «Trời không phải là thần minh mà là tòa của thần minh… Có thể ông Khổng đã dùng chữ trời mà chỉ danh một trí tuệ tối cao cai trị trời đất, nhưng tôi không biết ông Khổng đã nghĩ thế nào? (4).
3. Tính chất của Thượng Đế
Một phái triết học cho rằng thượng đế là cao siêu bí hiểm, là :" bất
khả tư nghi". Sách Trung Dung nói "đạo trời đất thì khó nói một
lời cho hết" (5).Kinh Thi cho rằng "Thượng Đế không tiếng,
không hơi ".(6)
Một số người cho rằng thượng đế và con người có liên quan, đó là quan niệm Atman của Ấn Độ giáo, và thiên địa vạn vật tưong dữ của Nho gia. Một số triết gia đi xa hơn cho rằng thượng đế và con người tươn g quan cho nên muốn hiểu ta, ta phải tìm hiểu thượng đế.
Saint Martin viết: Ta chỉ có thể hiểu biết được chúng ta trong Thượng Đế và sự vinh quang ngài. (7)
Có lẽ, cũng vì thế mà Trung Dung đã viết: «Muốn biết người phải biết trời "(8)
Một số người cho rằng thượng đế và con người có liên quan, đó là quan niệm Atman của Ấn Độ giáo, và thiên địa vạn vật tưong dữ của Nho gia. Một số triết gia đi xa hơn cho rằng thượng đế và con người tươn g quan cho nên muốn hiểu ta, ta phải tìm hiểu thượng đế.
Saint Martin viết: Ta chỉ có thể hiểu biết được chúng ta trong Thượng Đế và sự vinh quang ngài. (7)
Có lẽ, cũng vì thế mà Trung Dung đã viết: «Muốn biết người phải biết trời "(8)
Có hai nhận định
trái ngược về tính tình của thượng đế. Một phái cho rằng Thương đế nhân từ,
công bằng, thương dân:
-Trời sinh dân trời chẳng bỏ
liều (9)
-Trời thương dân (10).
-Trời nghe ý dân, thuận lòng
dân. (11).
Trời cũng như Phật là nơi nương
tựa của con người ,luôn phù hộ độ trì cho người:
"Lạy trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống..."(Ca dao)
-Lạy trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa ruộng, nơi thì bừa
sâu.. ."(Ca dao)
Một nhóm khác cho rằng thượng đế
có nhiều tính xấu.
Trời thiên vị:
Trời không thân ai, chỉ thân
kẻ biết kính sợ Ngài (12).
-Thượng Đế hay nổi giận
(13)
-Trời độc ác, giáng tai họa
cho loài người (14)
Trời đất độc ác, coi như như chó
rơm (15)
-Thượng đế ghen tuông, nhỏ
mọn.(16)
"Trời ơi, trời ờ không
cân,
Kẻ ăn không hết, người mần
không ra"(Ca dao)
"Lạ gì bỉ sắc tư phong,
"Lạ gì bỉ sắc tư phong,
Trời xanh quen thói, má hồng
đánh ghen."(Kiều)
Trẻ tạo hóa đành hanh quá
đáng,
Giết đuối người trên cạn mà
chơi"! (Cung Oán)
(1).Thượng đế trong Thiên Chúa giáo
(1).Thượng đế trong Thiên Chúa giáo
Theo Sáng Thế Ký, lúc khởi đầu,
Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối
bao trùm vực thẳm, và thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa tạo ra
ánh sáng và bóng tối tượng trưng cho ngày và đêm, cái “vòm” mà Ngài tạo ra để
phân rẽ khối nước thì gọi là “trời”. Từ khối nước, ngài phân rẽ thành “đất” và
“biển”; thực vật có mang hạt giống thì mọc trên khắp mặt đất. “Ngày thứ bảy,
Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm. Khi làm xong mọi công việc của Người,
ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi. Thiên Chúa phán: chúng ta sẽ làm ra con
người theo hình ảnh của chúng ta…”
Thiên Chúa đặt con người trong Vườn Eden và cho phép ăn tất cả mọi loại trái cây trong đó, ngoại trừ cây biết điều thiện điều ác, “…vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” . Thiên Chúa quyết định tạo ra cho con người một trợ tá, Ngài “…lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời…, hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế… Nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thế rồi, Thiên Chúa tạo ra người nữ từ cạnh sườn con người. “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Lúc bấy giờ có con rắn, nó nói với người nữ rằng sẽ không bị chết nếu ăn trái cây mà Thiên Chúa cấm ăn. Người nữ hái trái đó ăn và đưa cho người nam ăn. Thiên Chúa nguyền rủa con rắn rằng: “mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”Ngài phán người nữ: “ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi và nó sẽ thống trị ngươi” và với người nam: “ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất”
Thiên Chúa đặt con người trong Vườn Eden và cho phép ăn tất cả mọi loại trái cây trong đó, ngoại trừ cây biết điều thiện điều ác, “…vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết” . Thiên Chúa quyết định tạo ra cho con người một trợ tá, Ngài “…lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời…, hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế… Nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thế rồi, Thiên Chúa tạo ra người nữ từ cạnh sườn con người. “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Lúc bấy giờ có con rắn, nó nói với người nữ rằng sẽ không bị chết nếu ăn trái cây mà Thiên Chúa cấm ăn. Người nữ hái trái đó ăn và đưa cho người nam ăn. Thiên Chúa nguyền rủa con rắn rằng: “mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi”Ngài phán người nữ: “ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi và nó sẽ thống trị ngươi” và với người nam: “ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất”
Bàn về thượng đế thì có nhiều ý
kiến, đôi khi mâu thuẫn nhau dù là người đồng đạo với nhau. Thật ra thế giới
rộng lớn, ta chưa hiểu hết vật chất dù nay khoa học tiến bộ, còn vấn đề thần
linh, linh hồn và siêu hình thì coi như chưa có khám phá mới, vẫn tồn tại bí
ẩn. Nhà khoa học và chính trị không chuyên về siêu hình thì không nên luận về
siêu hình. Đi theo tôn giáo này thì không nên chỉ trích tôn giáo khác vì sẽ gây
ra tranh luận vô ích và phạm đức từ bi, bác ái của Trời, Phật, thánh thần. Ở
đây, chúng tôi chỉ nêu lên các ý kiến để độc giả thấy trong cõi thế gian này có
nhiều ý kiến khác nhau chứ không phải ý kiến riêng mình là đúng.
(2). Thượng Đế trong quan niệm Trung Quốc
Theo quan niệm Trung Quốc, Ngọc Hoàng Thượng đế là vị vua của Thiên đình, cai quản toàn bộ bầu trời, mặt đất, biển cả, và cõi âm phủ. Ngọc Hoàng đứng đầu tất cả các thần, tiên, có quyền lực tối cao với các quyền năng tự nhiên như mây mưa sấm chớp, nước lửa... Ngọc Hoàng có quyền ra lệnh cho các vị thần thực hiện các ý định của mình, thường là những điều tốt đẹp. Ngọc Hoàng cũng là người xét phong cho các vị thần, hoặc xét phạt các thần tiên. Trong Đạo giáo, Ngọc Hoàng vẫn ở dưới Tam Thanh, do Nguyên Thuỷ Thiên Tôn chỉ định làm vua.
(3). Thượng đế trong Phật giáo
Đức Phật sinh trưởng trong môi
trường Bà La Môn giáo, là một tôn giáo kính thờ thượng đế. Ngài có tinh thần
cách mạng, không tôn thờ thượng đế các tôn giáo khác
Phần nhiều tôn giáo cho rằng chỉ
có một cõi trời nhưng đức Phật lại quan niệm có nhiều cõi trời.
"Trong ngàn thế giới có
một ngàn mặt trời, mặt trăng; có một ngàn núi chúa Tu-di
có bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn đại thiên hạ, bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn,
bốn ngàn rồng, bốn ngàn rồng lớn, bốn ngàn chim cánh vàng, bốn ngàn chim cánh vàng lớn, bốn ngàn đường dữ, bốn ngàn đường ác lớn,
bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn, bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, ngàn
Diêm-la vương, ngàn Tứ
thiên vương, ngàn trời
Đao-lị, ngàn trời
Diệm-ma, ngàn trời Đâu-suất ngàn trời Hóa Tự Tại, ngàn trời Tha Hóa Tự Tại, ngàn trời Phạm. Đó là Tiểu
thiên thế giới. Như
một Tiểu thiên thế giới, ngàn tiểu thiên thế giới như thế là một Trung thiên
thế giới“Như
một Trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới như vậy là một Tam
thiên Đại thiên thế giới Phạm vi thế giới thành hoại
như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi là một cõi Phật”
". (Trường A Hàm, Phẩm Châu Diêm Phù Đề)
Có đến khoảng ba mươi cõi trời,
tuy rằng có tài liệu nêu lên it hơn. Mỗi cõi trời do một vị thượng đế hay Thiên
chúa làm chủ. Có ba loại là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
Trong kinh Trường A hàm, phẩm Đao Lợi Thiên, đức Phật nói:
"Chúng sanh cõi Dục có mười hai loại, đó là: 1. Địa ngục, 2. Súc sanh, 3. Ngạ quỷ, 4. Người, 5. A-tu-la, 6. Tứ thiên vương, 7. Đao-lị thiên, 8. Diệm-ma thiên, 9. Đâu-suất thiên, 10. Hóa Tự Tại thiên, 11. Tha-hóa-tự-tại thiên, 12. Ma thiên. “Chúng sanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là: 1. Phạm thân thiên, 2. Phạm phụ thiên, 3. Phạm chúng thiên, 4. Đại Phạm thiên, 5. Quang thiên, 6. Thiểu quang thiên, 7. Vô lượng quang thiên, 8. Quang Âm thiên, 9. Tịnh thiên, 10. Thiểu tịnh thiên, 11. Vô lượng tịnh thiên, 12. Biến Tịnh thiên, 13. Nghiêm sức thiên, 14. Tiểu nghiêm sức thiên, 15. Vô lượng nghiêm sức thiên, 16. Nghiêm thắng quả thật thiên, 17. Vô tưởng thiên, 18. Vô phiền thiên, 19. Vô nhiệt thiên, 20. Thiện kiến thiên, 21. Đại thiện kiến thiên, 22. A ca nị trá thiên.“Chúng sanh cõi Vô sắc có bốn loại, đó là: 1. Không trí thiên, 2. Thức trí thiên, 3. Vô sở hữu trí thiên, 4. Hữu-tưởng vô tưởng trí thiên.” (Trường A hàm, ,Thế Ký, Phẩm Đao Lợi Thiên)
Trong kinh Trường A hàm, phẩm Đao Lợi Thiên, đức Phật nói:
"Chúng sanh cõi Dục có mười hai loại, đó là: 1. Địa ngục, 2. Súc sanh, 3. Ngạ quỷ, 4. Người, 5. A-tu-la, 6. Tứ thiên vương, 7. Đao-lị thiên, 8. Diệm-ma thiên, 9. Đâu-suất thiên, 10. Hóa Tự Tại thiên, 11. Tha-hóa-tự-tại thiên, 12. Ma thiên. “Chúng sanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là: 1. Phạm thân thiên, 2. Phạm phụ thiên, 3. Phạm chúng thiên, 4. Đại Phạm thiên, 5. Quang thiên, 6. Thiểu quang thiên, 7. Vô lượng quang thiên, 8. Quang Âm thiên, 9. Tịnh thiên, 10. Thiểu tịnh thiên, 11. Vô lượng tịnh thiên, 12. Biến Tịnh thiên, 13. Nghiêm sức thiên, 14. Tiểu nghiêm sức thiên, 15. Vô lượng nghiêm sức thiên, 16. Nghiêm thắng quả thật thiên, 17. Vô tưởng thiên, 18. Vô phiền thiên, 19. Vô nhiệt thiên, 20. Thiện kiến thiên, 21. Đại thiện kiến thiên, 22. A ca nị trá thiên.“Chúng sanh cõi Vô sắc có bốn loại, đó là: 1. Không trí thiên, 2. Thức trí thiên, 3. Vô sở hữu trí thiên, 4. Hữu-tưởng vô tưởng trí thiên.” (Trường A hàm, ,Thế Ký, Phẩm Đao Lợi Thiên)
Như đã nói trên , theo quan niẹm
của Phật giáo thì có nhiều cõi trời, có nhiều vị cư trú nơi đó, tức là tiên,
thánh, thần, chư thiên. Tại sao những vị này được sinh vào cõi trời? Theo
thuyết luân hồi, thì những kẻ được tái sinh ở cõi trời là do công đức tu tập,
do nhân quả các kiếp trước:
28. Này Vàsettha, vị Khattiya
làm chánh hạnh về thân, chánh hạnh về miệng, chánh hạnh về ý, có chánh kiến. Do
chánh kiến, chánh nghiệp làm nhơn duyên, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào
thiện thú, Thiên giới. Này Vàsettha, vị Bà-la-môn... Này Vàsettha, vị Sessà...
Này Vàsettha, vị Suddà làm chánh hạnh về thân, chánh hạnh về miệng, chánh hạnh
về ý, có chánh kiến. Do chánh kiến, chánh nghiệp làm nhơn duyên, sau khi thân
hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới. (Trường Bộ Kinh. Kinh Khởi
thế nhân bổn)
Có nhiều cõi
trời nên mỗi cõi trời đều có vị thần linh cai quản. Đó là Thiên vương, thiên
chủ, thượng đế, chúa Trời...nên có nhiều thượng đế cai quản các thần thánh.
Thượng Đế cũng luân hồi, đi từ cõi trời này sang cõi trời khác. Thượng Đế sinh
ra ở cõi trời này, cai trị một thời gian rồi luân hồi nghĩa là đi sang cõi trời
khác. Ở đây ban đầu trống không, vị nào đến đầu tiên tức là Thượng Đế:
"Sau
khi qua khỏi hỏa tai, khi trời đất của thế gian này sắp sửa thành tựu trở lại,
một số chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, mạng chung ở cõi trời
Quang âm thiên, sinh vào cung điện Phạm thiên trống không, rồi sinh tâm đắm nhiễm chỗ đó, yêu thích chỗ đó,
nên nguyện cho chúng sanh khác cũng sinh vào nơi này. Sau khi phát sanh ý nghĩ
này rồi, thì những chúng sanh khác phước hết, hành hết, mạng hết, từ cõi trời
Quang âm thiên, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cung điện Phạm thiên
trống không. Bấy giờ, vị Phạm thiên sinh ra trước liền tự nghĩ rằng: ‘Ta là
Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương, không có ai sáng tạo ra ta, ta tự nhiên mà
có, không bẩm thọ cái gì từ ai hết; ở trong một nghìn thế giới ta hoàn toàn tự
tại, thông rõ các nghĩa lý, giàu có sung mãn, có khả năng tạo hóa vạn vật; ta
là cha mẹ của tất cả chúng sanh." (Trường A Hàm, Thế Ký, Thế Bổn
duyên)
Các tôn giáo
cho rằng thượng đế là cao cả nhất song Phật giáo cho rằng chư thần linh và
thượng đế rồi cũng luân hồi:
Ba dục sanh:Này các Hiền giả, có những loại hữu tình do dục an trú. Ðối với các dục, họ chịu sự an trú, họ bị chi phối phụ thuộc, như loài Người, một số chư Thiên, một số tái sanh trong đọa xứ. Ðó là loại dục sanh thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối với những sự vật do họ tạo ra. Họ tạo hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng ấy, như các loài chư Thiên Nimmàna-Rati (Hóa Lạc thiên). Ðó là loại dục sanh thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối sự vật do các loài khác tạo ra. Họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng đối với sự vật do các loại khác tạo ra. Như các loài chư Thiên Para-nimmitava-savatti (Tha Hóa Tự tại thiên). Ðó là hạng dục sanh thứ ba.. . .( Trường A Hàm, kinh Phúng tụng).
Ba dục sanh:Này các Hiền giả, có những loại hữu tình do dục an trú. Ðối với các dục, họ chịu sự an trú, họ bị chi phối phụ thuộc, như loài Người, một số chư Thiên, một số tái sanh trong đọa xứ. Ðó là loại dục sanh thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối với những sự vật do họ tạo ra. Họ tạo hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc hóa ra các sự vật và họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng ấy, như các loài chư Thiên Nimmàna-Rati (Hóa Lạc thiên). Ðó là loại dục sanh thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình có lòng dục đối sự vật do các loài khác tạo ra. Họ sống bị chi phối phụ thuộc trong những dục vọng đối với sự vật do các loại khác tạo ra. Như các loài chư Thiên Para-nimmitava-savatti (Tha Hóa Tự tại thiên). Ðó là hạng dục sanh thứ ba.. . .( Trường A Hàm, kinh Phúng tụng).
Trong cõi
Trời, Đế Thích là vị thượng đế cao nhất, thế mà đức Phật phê phán ông ấy chưa
dứt dâm dục, chưa được giải thoát:
"Vì
Đế Thích chưa dứt hết dâm dục, sân hận, si mê, chưa thoát khỏi sanh, già, bệnh,
chết, ưu, bi, khổ não. Ta bảo người này chưa lìa khỏi gốc khổ. Tỳ-kheo nào của
Ta, nếu lậu hoặc đã hết, đắc A-la-hán, những gì cần làm đã làm xong, đã trút bỏ
gánh nặng, đã được tự lợi, đã sạch hết kết sử các hữu, chân chánh giải thoát (
Trường A Hàm, Thế Ký, Phẩm Đao Lợi Thiên).
Tái sinh
trong loài người là đã khó, tái sinh trong cõi trời lại khó hơn. Vì các tôn
giáo đa số cầu trời, mong muốn sau khi chết sẽ về bên thượng đế nhưng đức Phật
cho rằng cõi trời còn nằm trong luân hồi:
"Này
các Hiền giả, lại nữa vị Tỷ kheo sống đời sống phạm hạnh với hy vọng mong được
thành một loại chư Thiên: "Với nghi thức này, với giới luật này, với khổ
hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ trở thành loại chư Thiên này hay loại
chư Thiên khác". Này các Hiền giả, khi vị Tỷ kheo sống đời sống phạm hạnh
với hy vọng được thành một loại chư Thiên: "Với nghi thức này, với giới
luật này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này, tôi sẽ trở thành loại chư
Thiên này hay chư Thiên khác". Tâm của vị này không hướng về nỗ lực, hăng
hái, kiên trì và tinh tấn. Như vậy là tâm triền phược thứ năm " (
Trường A Hàm, Kinh Thế Ký. Phẩm Đao Lợi Thiên).
Ngoài các
cõi Trời, đức Phật luôn nói đến Niết Bàn. Việc này cũng đã được bàn luận rất
sôi nổi. Đa số cho rằng Niết Bàn là trống không, hoặc Niết Bàn chỉ ở trong tâm
tưởng. Niết-bàn ( 涅槃, nirvāṇa, pi. nibbāna, ja. nehan) là từ được dịch âm từ
gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Nirvāṇa nguyên là phân từ thụ
động quá khứ của động từ niḥ-√vā nirvāti với nghĩa "thổi tắt",
"dập tắt" (một ngọn lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập
tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Diệt ( 滅),
Diệt tận ( 滅盡),
Diệt độ ( 滅度),
Tịch diệt ( 寂滅),
Bất sinh (不生),
Viên tịch ( 圓寂),
và vì sự tịch diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa
cũng được dịch ý là Giải thoát ( 解脫), Vô vi (無爲), An lạc ( 安樂). Như trên đã nói, vô
sắc giới là tối cao nhưng vẫn bị luân hồi, còn Niết Bàn là chấm dứt luân hồi.
Vậy Niết Bàn cao nhất. Chư thiên còn bị luân hồi, đức Phật ở Niết Bàn, như vậy là đức Phật cao hơn Thượng Đế. Và trong các kinh điể, đức Phật có thần thông quảng đại, bay đến các cõi trời để thuyết pháp. Như vậy, đức Phật chinh là thần linh có pháp lực. Và trong các cuộc thuyết pháp ở cõi trời, Ngài được các thiên vương tôn trọng và lắng tai nghe Pháp. Điều này chứng tỏ đức Phật là bậc thầy của chư Thiên vương, Thiên Chúa và Thượng Đế.
Đức Phật đã nhấn mạnh rằng đức Phật là cao hơn chư thần linh trong vũ trụ:
Vậy Niết Bàn cao nhất. Chư thiên còn bị luân hồi, đức Phật ở Niết Bàn, như vậy là đức Phật cao hơn Thượng Đế. Và trong các kinh điể, đức Phật có thần thông quảng đại, bay đến các cõi trời để thuyết pháp. Như vậy, đức Phật chinh là thần linh có pháp lực. Và trong các cuộc thuyết pháp ở cõi trời, Ngài được các thiên vương tôn trọng và lắng tai nghe Pháp. Điều này chứng tỏ đức Phật là bậc thầy của chư Thiên vương, Thiên Chúa và Thượng Đế.
Đức Phật đã nhấn mạnh rằng đức Phật là cao hơn chư thần linh trong vũ trụ:
“Các Tỳ-kheo, ánh sáng của con đom đóm không
bằng đèn, nến; ánh sáng của đèn, nến không bằng bó đuốc; ánh sáng của bó đuốc
không bằng đống lửa; ánh sáng của đống lửa không bằng ánh sáng của sắc thân, y
phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương; ánh sáng của sắc
thân, y phục, anh lạc, thành quách, cung điện của Tứ thiên vương không bằng ánh
sáng của Tam thập tam thiên; ánh sáng của Tam thập tam thiên không bằng ánh
sáng của Diệm-ma thiên; ánh sáng của Diệm-ma thiên không bằng ánh sáng của
Ðâu-suất thiên, ánh sáng của Ðâu-suất thiên không bằng ánh sáng của Hóa tự tại
thiên; ánh sáng của Hóa tự tại thiên không bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại
thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên không bằng ánh sáng của sắc thân, y
phục, cung điện Phạm-ca-di thiên; ánh sáng của sắc thân, y phục, cung điện Phạm-ca-di
thiên không bằng ánh sáng của Quang âm thiên; ánh sáng của Quang âm thiên không
bằng ánh sáng của Biến tịnh thiên; ánh sáng của Biến tịnh thiên không bằng ánh
sáng của Quả thật thiên; ánh sáng của Quả thật thiên không bằng ánh sáng của Vô
tưởng thiên; ánh sáng của Vô tưởng thiên không bằng ánh sáng của Vô tạo thiên;
ánh sáng của Vô tạo thiên không bằng ánh sáng của Vô nhiệt thiên; ánh sáng của
Vô nhiệt thiên không bằng ánh sáng của Thiện kiến thiên; ánh sáng của Thiện
kiến thiên không bằng ánh sáng của Ðại Thiện kiến thiên; ánh sáng của Ðại Thiện
kiến thiên không bằng ánh sáng của Cứu cánh thiên; ánh sáng của Cứu cánh thiên
không bằng ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên; ánh sáng của Tha hóa tự tại thiên
không bằng ánh sáng của Phật. Từ ánh sáng của con đom đóm đến ánh sáng của
Phật, mà kết hợp những thứ ánh sáng như vậy lại, thì cũng không bằng ánh sáng
của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế. Cho nên, các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánh
sáng, thì phải cầu ánh sáng của Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế. Các ngươi
nên như vậy mà tu hành. (Trường A Hàm, kinh Thế ký, Phẩm Đao Lợi thiên)
Nói tóm lại,
Phật giáo là một triết học và là một tôn giáo. Phật giáo tin có kiếp sau, có
nhân quả, có thánh thần, thượng đế vì thượng đế vẫn bị trầm luân. Con đường rốt
ráo là phải đạt Niết Bàn là đỉnh cao nhất. Đức Phật không xưng là đại diện
thượng đế, nhưng ngài xưng là bậc thầy của cõi Trời và người. Hơn nữa, đức Phật
đã lập giáo hội với 1250 đệ tử ngay từ khi Ngài còn tại thế, và 500 đệ tử của
Ngài đã thành bấc A La hán. Đạo Phật đã đi sau vào lòng người, là một trong ba
tôn giáo lớn nhất thế giới. Đạo Phật đã gây cảm hứng cho nghê sĩ và các nhà
kiến trúc cho nên ở nhiều nơi nay vẫn còn chùa chiền và tượng Phật đẹp đẽ, to
lớn. Như vậy, những điều này chứng tỏ Phật giáo là một triết học, một tôn giáo
vĩ đại của loài người.
___
(1). Có tài
liŒu ghi A Døc (260 -- 218 BC)
(2).Philosophy is the study of general and fundamental problems, such as those connected with existence, knowledge, values, reason, mind, and language. Philosophy is distinguished from other ways of addressing such problems by its critical, generally systematic approach and its reliance on rational argument. The word "philosophy" comes from the Greek φιλοσοφία (philosophia), which literally means "love of wisdom" Wikipedia.
(2).Philosophy is the study of general and fundamental problems, such as those connected with existence, knowledge, values, reason, mind, and language. Philosophy is distinguished from other ways of addressing such problems by its critical, generally systematic approach and its reliance on rational argument. The word "philosophy" comes from the Greek φιλοσοφία (philosophia), which literally means "love of wisdom" Wikipedia.
(3).
Nguyễn Văn Thọ. Khổng Học Tinh Hoa. chương 1. Nhantu.net
(4). Le ciel n’est pas la divinité, mais le siège de la divinité... Peut-être (forsan) par ce mot que vous croyez signifier le ciel, votre Confucius a-t-il voulu désigner cette intelligence suprême qui gouverne le ciel et la terre, mais j’ignore ce qu’il a pensé au juste (quid ille senserit ignoro). Catéchisme du P. Ruggieri (1584); Opere storiche, tome II page 507, 520. – Henri Bernard Maître, Sagesse chinoise et philosophie chrétienne, page 99. Trich Nguyễn Văn Thọ. Khổng Học Tinh Hoa, chương 1.
(4). Le ciel n’est pas la divinité, mais le siège de la divinité... Peut-être (forsan) par ce mot que vous croyez signifier le ciel, votre Confucius a-t-il voulu désigner cette intelligence suprême qui gouverne le ciel et la terre, mais j’ignore ce qu’il a pensé au juste (quid ille senserit ignoro). Catéchisme du P. Ruggieri (1584); Opere storiche, tome II page 507, 520. – Henri Bernard Maître, Sagesse chinoise et philosophie chrétienne, page 99. Trich Nguyễn Văn Thọ. Khổng Học Tinh Hoa, chương 1.
(5). 天 地 之 道, 可 一 言 而 盡 也 Thiên địa chi đạo,
khả nhất ngôn nhi tận dã . Trung Dung Chương XX.
(6). Thượng thiên chi tải, vô thanh vô xú… 天 之 載, 無 聲 無 臭 (Kinh Thi, Đại Nhã tam, Văn Vương chi thập tam chi
nhất.)
(7). Nous ne pouvons nous lire que dans Dieu lui même, et nous comprendre que dans sa propre splendeur. — Saint Martin, Ecce Homo page 18. Tableau naturel agen. Nguyễn Văn Thọ, Dịch Kinh Yếu Chỉ. Vô Cực Luận, chú 19. nhantu.net
(7). Nous ne pouvons nous lire que dans Dieu lui même, et nous comprendre que dans sa propre splendeur. — Saint Martin, Ecce Homo page 18. Tableau naturel agen. Nguyễn Văn Thọ, Dịch Kinh Yếu Chỉ. Vô Cực Luận, chú 19. nhantu.net
(8).
思 知 人, 不 可 以 不 知 天. Tư chi nhân
bất khả dĩ bất tri Thiên.»Trung Dung Chương XX.
(9).Đế
tác bang, tác đối. 帝 作 邦 作 對 (Kinh Thi – Văn Vương – Hoàng Hĩ 3)
(10).
Thiên căng vu dân 天 矜 于 民 (Kinh
Thư – Thái Thệ thượng 2)
Thiên thị tự ngã dân thị, Thiên thính tự ngã dân thính 天 視 自 我 民 視, 天 聽 自 我 民 聽 (Kinh Thư – Thái Thệ trung 7.)
(11). Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi 民 之 所 欲, 天 必 從 之 (Kinh Thư – Thái Thệ 1.)
Thiên thị tự ngã dân thị, Thiên thính tự ngã dân thính 天 視 自 我 民 視, 天 聽 自 我 民 聽 (Kinh Thư – Thái Thệ trung 7.)
(11). Dân chi sở dục, Thiên tất tòng chi 民 之 所 欲, 天 必 從 之 (Kinh Thư – Thái Thệ 1.)
(12).
Duy thiên vô thân, khắc kính duy thân. 惟 天 無 親, 克 敬 惟 親 (Kinh Thư – Thái Giáp hạ 1)
(13).
Đế nãi chấn nộ. 帝 乃 震 怒 (Kinh
Thư – Hồng Phạm 3.) Hoàng Thiên chấn nộ 皇 天 震 怒 (Kinh Thư – Thái Thệ thượng 3.)
(14). Thiên giáng úy 天 降 畏 (Kinh Thư – Đại Cáo) Thiên độc giáng tai hoang vu Ân bang 天 毒 降 災 荒 于 殷 邦 (Kinh Thư – Vi Tử 4.)
(15). Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật vi sô cẩu. Chương 5 天地不仁,以萬物為芻狗 第五章.
(14). Thiên giáng úy 天 降 畏 (Kinh Thư – Đại Cáo) Thiên độc giáng tai hoang vu Ân bang 天 毒 降 災 荒 于 殷 邦 (Kinh Thư – Vi Tử 4.)
(15). Thiên địa bất nhân dĩ vạn vật vi sô cẩu. Chương 5 天地不仁,以萬物為芻狗 第五章.
(16)..Ngươi
không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất
thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.Ngươi không được phủ phục
trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một
vị thần ghen tương. Ðối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời
vì tội lỗi của cha ông.Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta,
thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời. (Xuất Hành 20:1-6 - Bản Dịch Các
Giờ Kinh Phụng Vụ)
No comments:
Post a Comment