HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Thursday, 14 June 2012

28*HỒ TUẤN HÙNG * HO CHI MINH SINH BÌNH KHẢO


Hồ Tuấn Hùng 






Hồ Chí Minh sinh bình khảo
(Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn chuyển ngữ


Thiên IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
1 2 3 4 5


Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc

Câu chuyện hôn nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh (TTM) đến trụ sở “Hội Phụ nữ Vận động Diễn tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. Khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với TTM nên Thái Sướng đã có nhã ý giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.

Cô Tăng Tuyết Minh thời trẻ
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đã từng kinh doanh ở Đàn Hương Sơn (San Francisco, California, Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến năm 1917, Tăng Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, TTM vào học trường Nữ Hộ Sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân, Quảng Châu. Lúc ấy, TTM vừa tròn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ Vận động Diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, TTM thường đến trụ sở Hội nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.

TTM có người anh thứ hai là Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng 10 năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.

Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ TTM là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy TTM có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.

Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện Trung Sơn Hạm triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để sang Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.

Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của QTCS, thành lập ĐCSVN tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được tin, các chị gái TTM nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật sư biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa. TTM theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.

Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đống sự có người tố cáo, trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung – Việt, sự việc mới lắng xuống.

Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng Văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì qua đời ở tuổi 86.

Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho HCM mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa được cố vấn Mikhail Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 năm của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu Văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp Thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nghiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô TTM, cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lãnh tụ HCM, chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.

Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Viết về hôn nhân và tình ái của HCM, có thể điểm đến các tác phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”, năm 2001, kỳ 1; William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh” gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).

Phần thứ nhất, chương 4 – “Long đích truyền nhân” (Người nối dòng rồng), trang 143, nội dung như sau: “Mùa xuân, năm 1927, NAQ dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc Dân Đảng cánh tả (là đảng viên ĐCSTQ) Liêu Trọng Khải v.v. Đến lúc ấy, chẳng những NAQ đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với NAQ một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. NAQ bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự của Mikhail Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.

Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám Đông Dương
chặn được ngày 14.8.1928,
hiện tàng trữ tại C.A.O.M.
(Aix en Provence).
Xuất xứ Daniel Hémery,
HO CHI MINH De L’Indochine au
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 – “Xích sắc Nghệ Tĩnh” (Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết: “Tình yêu giữa NTMK và NAQ không phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo An: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không hợp với mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi NAQ rời Quảng Châu có gửi cho TTM một bức thư: “Hai ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của NAQ và TTM chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là NTMK, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và HCM. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.

Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh

NAQ và TTM, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo An Pháp như sau: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không phù hợp với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm lòng trung trinh của TTM với NAQ, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với W.J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của bà cô TTM đối với NAQ trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.

Nguyệt san
Vũ Hán Văn Sử Tư Liệu
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: “Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn Hối Báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông (MTĐ) kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.

Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.

Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép

Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói: “người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng”, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ TQ Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận TTM và HCM đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên.

Liệu HCM có biết TTM vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?

Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Thủ tướng Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính Trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này.

Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của TTM và NAQ bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính NAQ bị biến thành HCM theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc HCM nhờ ĐCSTQ nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Mikhail Borodin, Trung Cộng và QTCS chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ.

Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.

“Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”
Trên tường treo ảnh
chân dung Hồ Chí Minh
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối có kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức NAQ treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh NAQ chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung NAQ và tấm chân dung TTM để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh: “HCM và bạn bè thanh minh, suốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, HCM bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng NAQ và HCM chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ HCM suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định NAQ và HCM không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?

Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.

Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài hòa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.

(Còn tiếp)





Phần một: Vỡ tuồng trộm long tráo phượng
Chương một (từ trang 22-37)
Sự thật về cái chết của Hồ Chí Minh
Thân phận bí ẩn của Hồ Chí Minh

Để xác định về thân phận của Hồ Chí Minh là người Việt Nam Nguyễn Ái Quốc hay là Hồ Tập Chương người Đài Loan, mấu chốt quan trọng nhất trong việc này là có phải Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932 không? Và người tiếp tục Nguyễn Ái Quốc có phải là Hồ Tập Chương không?
Những nhà văn (sử gia) viết tiểu sử nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tuy đối với những (sách vở) ghi chép về cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc sau năm 1932 rất ư ngờ vực, thậm chí nảy sinh hoài nghi về thân phận của ông. Song dù có nghi ngờ đến đâu đi nữa (các sử gia này) vẫn không có cách nào tiến thêm bước nữa trong việc xác thực cái chết của Nguyễn Ái Quốc, địa điểm chôn cất, mà ngay cả bối cảnh thân phận của Hồ Tập Chương người tiếp tục thay thế Nguyễn Ái Quốc ra sao đều mù mịt không biết. Do đó những học giả chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh cuối cùng chỉ đành chọn dùng những tư liệu của chính phủ Việt Nam như "Cuộc đời Hồ Chí Minh" (tựa tiếng Trung: HCM truyện, eng: HCM- a life) hay "Những tài liệu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh" ..v..v... để hợp lí hóa rằng Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Bởi thế, càng truyền càng sai làm cho thân phận thực sự của Hồ Chí Minh và câu chuyện về cuộc đời của ông thật giả khó phân, để lại cho người đời quá nhiều điều bí ẩn và nghi hoặc.
Khi đã kiểm nghiệm sâu sát tận tường những ghi chép về cuộc đời Hồ Chí Minh từ 1933 đến 1945 thì có không ít chứng cứ nghịch lý với những sự thật đã xảy ra và (nhiều chứng cứ cho thấy) sự thật lịch sử về Hồ Chí Minh đã bị cắt xén bóp méo. Ví dụ như là (1) vào năm 1933, người từ Hạ Môn (Xiamen) đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa không hề phải là Nguyễn Ái Quốc mà là một người khác. (2) Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh mỗi người có những chuyện tình và hôn nhân khác nhau. (3) Tác phẩm Nhật ký trong tù không phải của Nguyễn Ái Quốc viết. ... tất cả đều rõ ràng dễ thấy, lại còn có nhiều Nguyễn Ái Quốc bị coi như là Hồ Chí Minh, sự thật được dẫn chứng không hề mâu thuẫn đủ để cho thấy Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc. Hai người vốn không là một. Do đó chứng thực Nguyễn Ái Quốc đã thật sự chết vào năm 1932. Đã chết rồi mà sống lại là do có người cố ý âm mưu bày trò "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây" (lật lờ đánh lận con đen).
 
Nguyễn Ái Quốc đã chết thật hay chết giả?
Nguyễn Ái Quốc có bệnh phổi lâu năm, vào tháng 6 năm 1931 bị cảnh sát HongKong bắt và chuyển đến bệnh viện của nhà tù để điều trị. Đầu năm 1932 có tin đồn bị mất tích tung ra từ Hồng Kông, khoảng tháng 7 tháng 8 giới truyền thông báo chí đưa tin bị chết vì bệnh ho lao. Những tin này rất phổ biến mà mọi người vào năm đó đều biết. Báo chí thời bấy giờ của Hồng Kông, Anh Quốc, Pháp và Nga Sô đều tung tin sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Singapore trở lại Hồng Kông không rõ nguyên nhân vì đâu mất tích rồi sau bệnh chết. Sinh viên Việt Nam ở Đại học Đông Phương Mạc Tư Khoa (Moscow) còn đặc biệt làm lễ truy điệu và tang lễ cho ông và đảng CS quốc tế phái cả người đến chia buồn. Trong tài liệu hồ sơ của NAQ năm 1933 của Cảnh sát an ninh Pháp cũng ghi rõ ràng NAQ bệnh chết đến nỗi 10 năm sau tình báo viên của Pháp báo cáo với chính phủ thực dân rằng Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở biên giới Trung-Việt. Chính phủ trả lời: "Vô lí, cái thằng điên đưa tin bậy bạ, đầu thập niên 30 (1930) NAQ đã chết ở Hồng Kông rồi!"
Những tài liệu nguyên thuỷ về sự việc trên vẫn còn rành rành trước mắt và đều được báo chí thời đó ghi chép, là tư liệu lịch sử đầu tiên nắm giữ sự thật mà mọi người lúc ấy đều không nghi ngờ gì nữa. Trong vòng mười năm đó (1932-1941) Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn mất tích, không có một dấu vết gì trên "sân khấu lịch sử". Trong mười năm đó tất cả ghi chép về bất kỳ hoạt động nào của Nguyễn AQ đều là của một HCM tự xưng là Nguyễn ái Quốc. mà là những tư liệu được quay lại bổ túc thêm sau này.

HCMinh sau hơn 10 năm (xuất hiện trở lại) phủ nhận mình chết vì ho lao, biện minh rằng năm ấy vì phương tiện muốn đào vong nên cố ý ngụy tạo tin đã bệnh chết. Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ tập chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử. Ví dụ vào năm 1933 vì để tạo ấn tượng giả rằng NAQ vẫn còn sống mà tung tin NAQ cùng với người bạn Pháp Paul Vaillant Couturier gặp gỡ nhau tại Thượng Hải với ý đồ muốn người đời tin là NAQ vào năm 1933 vẫn hoạt động ở Thượng Hải diễn thành màn "chuyển hoa ghép cây". Muời năm sau khi NAQ bệnh chết, ngày 6 tháng 6 năm 1941 Hồ Chí Minh lần đầu tiên xuất hiện công khai với tên NAQ phát biểu thư hiệu triệu toàn quốc đồng bào, kêu gọi nhân dân VN đứng lên cách mạng làm tròn nhiệm vụ xây dựng độc lập cho đất nước. Từ đó, NAQ vốn im lặng trong mười năm trường, đã bị thế nhân quên rồi trong ý thức chợt hồi sinh và xuất hiện trở lại trên sân khấu lịch sử. Và rồi HCM đem chuyện đời của mình những ngày tháng "chuyển hoa ghép cây" sau khi NAQ đã chết ngụy biện rằng: "Mùa xuân năm 1932 sau khi mất tích ở HongKong, trốn đến Hạ Môn dưỡng bịnh nửa năm. Đầu năm 1933 từ Hạ Môn đến Thượng Hải, cùng năm ấy mùa xuân từ Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa." Từ ấy, ve sầu thoát xác tạo nên một HCM - tức là nhân sinh mới của NAQ.
Như cả đến sự thật NAQ bệnh chết, đã bị lịch sử giải thích là vì muốn tránh sự truy lùng của (cảnh sát) đặc vụ Pháp nên cố ý đưa tin giả. (Để rồi) cuối cùng dưới sự tuyên bố của cấp cao đảng CS quốc tế làm củng cố thêm hình ảnh"HCM tức là NAQ", đảng CS Trung Quốc và đảng CS Việt Nam đã tạo dựng thành công màn "NAQ chết đi sống lại" do đảng CS quốc tế đạo diễn. NAQ có thật sự chết vì bệnh lao không? Đảng CS Quốc tế có đạo diễn màn "chết đi sống lại" không? Xin mời mọi người cùng nhìn lại lịch sử năm xưa, nghe chứng cớ lịch sử phân trần để trả chân tướng lại cho lịch sử.



Tài liệu văn kiện Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao.
Thẩm phán Sophie Quinn có viết trong tác phẩm ‘HCM - những năm tháng mất tích 1919-1941’ đặc biệt trong chương 6 lấy thẳng chuyện HCM "chết ở HongKong và được chôn ở Mạc tư Khoa hay sao?" làm tựa, đưa ra nghi vấn đối với "điều bí ẩn trong sự sống và chết của HCM". Nghi vấn của thẩm phán Quinn có y cứ vào những thông tin từ báo chí truyền thông thời bấy giờ không rất không thể xác định được vì chẳng hề có tư liệu bằng chứng nào cả. Song, năm ấy thật sự có những tờ báo của đảng CS quốc tế, thay nhau loan bố tin NAQ chết vì lao phổi. Như là báo Chân Lí của đảng CS quốc tế, báo Nhân Đạo của đảng CS Pháp, báo Công nhân của đảng CS Anh quốc và nhóm sinh viên VN của đại học Đông Phương ở Mạc tư khoa còn cử hành lễ truy điệu NAQ từ trần, đảng CS quốc tế phái cả đại biểu đến chia buồn. 

Trang 74-75 trong sách "HCM tại TQ" của giáo sư sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính có chép:
Đầu năm 1932 Nguyễn Ái Quốc đến Singapore, lại bị chính quyền Anh bắt đưa về lại HongKong rồi từ đó mất tích, chính quyền Anh không hề nói ra tình trạng mất tích, Sau khi mất tích, báo chí khắp nơi loan bố NAQ bệnh phổi nặng và chết trong ngục. Những tờ báo này, bao gồm luôn cả báo của chính quyền Pháp Việt thực dân lúc bấy giờ, cùng với các cơ quan báo chí của các nước CS …(các tờ báo như trên) đều tuyên truyền NAQ đã bệnh chết …
 
Sách HCM Truyện (HCM - a Life) của giáo sư William Duiker trang 209 và 212 ghi:
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932 CS quốc tế trong tờ Công nhân nhật báo phát hành ở London loan tin NAQ đã chết trong tù. …… (xin phép lướt qua vì là dẫn chứng từ nhiều sách, dịch đại khái vài dẫn chứng thôi)

Bí mật về cái chết vì bệnh của NAQ
Tin bệnh chết của NAQ vì sao chỉ duy có các tờ báo của CS đưa tin? Vì sao sinh viên VN ở Mạc Tư Khoa lại làm tang lễ cho NAQ (mà không phải sinh viên Vn nước nào khác)? Và vì sao chuyện cách hơn mười năm sau HCM mới giải thích "cái chết của mình là chết giả, tin giả đó được tạo nên chỉ là vì để dễ dàng trốn thoát."?
Đầu năm 1932, NAQ mất tích ở Hongkong, bí mật đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Dọc đường bệnh tình thêm trầm trọng hơn, vào mùa thu 1932 bệnh chết ở Mạc Tư Khoa. Năm ấy, bí mật này chỉ có đảng CS quốc tế một mình biết được cho nên chỉ có báo chí của đảng CS báo tin NAQ bệnh lao phổi mà chết. Ngay khi NAQ chết, đảng CS quốc tế còn chưa quyết định HCM sẽ thay thế thân phận NAQ nên các báo của đảng CS quốc tế mới loan tin thật "NAQ bệnh ho lao chết, sinh viên Vn du học bên Nga cử hành tang lễ và lễ truy điệu cho NAQ tại Mạc Tư Khoa."
Ban đầu cái chết của NAQ sau khi được giới truyền thông loan tin rồi cũng "hạ màn", đối với quốc tế chẳng để lại dư âm gì réo rắt. Song liên lạc viên Hồ Tập Chương của đảng CS quốc tế ở Viễn đông cục vào năm 1933 từ Thưọng Hải đến Mạc Tư Khoa. Nhân vì nhiệm vụ công tác (của HTC) với NAQ rất trùng nhau, lại đã từng tham gia trong việc trù bị thành lập đảng CSVN. Đảng CS quốc tế mới yêu cầu HTC thay thế thân phận của NAQ, tiếp tục tham dự vận động giải phóng của đảng CSVN. Hồ Tập Chương với bí danh P.C Lin từng thọ 5 năm giáo dục cải tạo của đảng CS quốc tế, có bí danh Hồ Quang, Hồ Chí Minh lại từng hoạt động giữa biên giới TQ và Việt Nam. Vì (với thân phận như) thế mới có thể phá tan được nghi vấn đối với cái chết vì bệnh của NAQ và (phá tan nghi vấn đối) với sự nhận đồng thân phận (với NAQ) của HCM.
NAQ có phải vào mùa thu năm 1932 bệnh chết vì lao phổi không cứ phân tích tình huống chính ngay lúc ấy thì hầu như có thể xác định được vậy. Y cứ hồi kí của đảng viên Việt Cộng Lí Đức Phương: "Năm 1925-1927 NAQ ở Quảng Châu 900 ngày lao lực hơn bình thường, làm việc cả ngày lẫn đêm, đem chất lên ắt nhiều như núi, từ sáng 5 giờ làm đến 2 giờ khuya. Sức khoẻ không tốt, ho rất nhiều, có khi ho ra cả máu." Năm 1930 từ tháng 7 đến tháng 9 NAQ gửi 6 lá thư cho Viễn Đông Cục kể rõ việc mình bị hành bởi cơn bệnh lao phổi. Ông đem bệnh tình diễn tả như sau: "Phổi rất khó chịu, lại ho ra máu, thân thể rất là hư nhược mệt mỏi." Cuối tháng 11 năm 1931 NAQ viết thư gửi đồng chí Lam Đức Thư trong Liên minh thanh niên cách mạng rằng: "Thân thể tôi sức khoẻ đã đến hồi đáng ngại, thường xuyên ho ra máu. Cứ thế tiếp tục tôi e phải chết trong tù mất thôi." Năm 1932 tình báo của Anh Quốc Long Paul lúc dùng thủy phi cơ giúp đỡ NAQ trốn khỏi HongKong thấy: " NAQ rất yếu, chẳng ngừng ho hen, chừng như không còn đủ sức để nói chuyện." (1) [đoạn này tác giả có ghi chú thêm là tài liệu trong cuốn nhật ký của Paul Draken có để trong sách để người đọc tham khảo]
Những gì ghi trên đây đều là kể trước lúc NAQ từ Hongkong trốn đi Thượng Hải, với bệnh tình nghiêm trọng như thế kia khi phải trải qua bao gian khổ lúc đi thuyền, lúc đi thuỷ phi cơ liệu có thể chịu đựng được không? Huống hồ gì sau khi lên bờ, đảng Quốc dân ở Thượng Hải cùng với cảnh sát ở tô giới của Anh và Pháp như cọp chăm chăm canh chừng tất cả hoạt động của đảng CS, NAQ cũng sẽ tự nhiên không dám lộ mặt đi tìm nơi cứu chữa bệnh tình, chỉ có thể cố gắng chịu đựng đến Mạc Tư Khoa. Chuyện bệnh chết ở Mạc Tư Khoa là khá có thể vậy. Vì thế, báo chí của đảng CS các nước sau khi tờ báo Chân Lí của Liên bang Sô Viết đưa tin trước tiên thì đến tờ NHân Đạo của đảng CS Pháp, tờ Công nhân của đảng CS Anh thay phiên nhau liên tiếp trong tháng 7 tháng 8 năm 1932 báo tin NAQ chết vì bệnh lao phổi và du học sinh Vn tại Nga cử hành tang lễ cho NAQ. Theo đây suy luận "NAQ bệnh chết trên đường đến Mạc Tư Khoa và được mai táng ở Mạc Tư Khoa" thì có thể xác nhận là sự thật, tuyệt chẳng phải là cái chết giả như HCM biện minh đó chỉ là cái cớ để dễ bề đào vong thì có thể dễ dàng chôn vùi chân tướng của sự thật.
 
Sự sai lầm trong cách biện minh của HCM về cái chết vì bệnh của mình
Cách giải thích về cái chết của HCM có trái ngược nhau không? Có lúc nói "tin chết giả được tung ra là tin đồn của đương cục thực dân Pháp phát tán. Có khi lại bảo: "Luật sư Frank Loseby cố ý đưa tin NAQ chết là muốn tung hỏa mù để NAQ dễ dàng trốn thoát." Và rồi phiên bản tiếng Việt của HCM truyện hay HCM Biên Niên Tùng Thư biện minh về cái chết của NAQ trước sau khác nhau rất khó khiến người chấp nhận đó đồng với cách giải thích của HCM. (Sách nói) rằng: "Loan truyền tin đã chết là cớ để trốn khỏi HongKong." Và (sách ghi) đặc biệt HCM nói là: "Tin chết giả được phát tán là lời đồn của thực dân Pháp ý đồ muốn làm xuống tinh thần tranh đấu của dân chúng." Đây hầu như có điểm chẳng thông. Tin NAQ chết là được bắt đầu loan truyền vào mùa thu năm 1932 mà HCM nói lúc rời HongKong đến Hạ Môn là tháng 1 năm 1933. Thời gian cách nhau gần nửa năm, thật không đúng với kinh nghiệm và lý lẽ thường tình. Theo tình huống thật mà nói, bảo chết tạo hỏa mù để dễ trốn thoát thì thời gian tung tin giả và thời gian thật sự trốn thoát phải tiến hành cùng lúc thì mới phù hợp sự thật. Đằng này thời gian cách nhau gần nửa năm trời. Và càng vô lý hơn nữa là đến những 10 năm sau mới nói mình vẫn còn sống để nói rõ (nguyên nhân) tin tức đã tung ra từ 10 năm trước. Chưa chết mà cứ nói đã chết còn làm nhọc công mọi người lo lắng làm đám tang và mở lễ truy điệu cùng lúc với tổng thư ký Trần Phú khi ấy cũng vừa mất. Cách giải thích hoang đường và tức cười như thế không hợp với lý lẽ thông thường. Những lời biện minh ấy thật như là tự lấy đá ném chân mình. Mà nguyên nhân thật sự là HCM đang sử dụng mánh khoé lừa dối "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây". 

Hồ sơ ghi chép về bệnh tình của NAQ và HCM
Chủ tịch đoàn trung ương Việt Nam đặc biệt công bố: "Chủ tịch Hồ Chí Minh bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần ngày 3 tháng 9 năm 1969 lúc 9 giờ 47 phút." Đây quả thật là một điều dối trá, tin Nguyễn Ái Quốc tháng 8 năm 1932 được truyền ra chết vì lao phổi nghiêm trọng, mà Hồ Chí Minh trong 37 năm sau không hề thấy có một ghi chép nào về sự điều trị bệnh tình ho lao rồi lại chết vì bệnh tim trầm trọng. Đây là một chuyện rất ư kỳ lạ! Để tìm giải thích hợp lí hơn, mùa hạ năm 1932 NAQ xác định chết vì bệnh lao, HCM tháng 9 năm 1969 chết vì bệnh tim, (tác giả) lấy năm 1933 làm thời gian phân điểm, nhìn rõ lại và so sánh hai thời gian trước và sau đã phát hiện ra quả nhiên tình trạng sức khoẻ được ghi chép không đồng, (tác giả) đặc biệt soạn ra bệnh sử ho lao của NAQ để độc giả tham khảo.
Hồ sơ bệnh sử ho lao của NAQ. (phần này xin dịch lướt vì tác giả trích dẫn từ nhiều sách khác nhau nói về tiến trình bệnh lao của NAQ)
1. tháng 1 năm 1920, có gián điệp với bí danh Phu Bay thuộc đặc vụ gián điệp Pháp tên Edouard báo cáo: "hai người NAQ và Phan Chu Trinh đều bị bệnh viêm khí quản và ho lao. Họ không thể tìm lại cuộc sống khoẻ khoắn và thoải mái." (Sách của Sophie Quinn - HCM những ngày tháng mất tích 1919-1941, trang 28)
2. lướt qua, cùng sách như trên (1), nói tháng 8 năm 1920 bị mụn nhọt bên vai phải làm trở ngại hoạt động chính trị, có được trị liệu.
3. đầu năm 1921 sau hội nghị Tours, NAQ chứng thực ông không chỉ quan tâm sự thành bại của việc cách mạng thế giới, mà còn quan tâm cả vận mệnh của quốc gia mình. Vào tháng 2 NAQ nghi là như mình bệnh phổi đã nằm viện trị liệu 1 thời gian. (trích từ "HCM truyện" - William Duiker, trang 173)
4. ……
5. ……6,7,8,9,10,11,12… đều trích dẫn từ các sách nói NAQ bị bệnh phổi hành hạ.
13. Cuối tháng 11 năm 1931 NAQ viết thư gửi đồng chí Lam Đức Thư trong Liên minh thanh niên cách mạng rằng: "Thân thể tôi sức khoẻ đã đến hồi đáng ngại, thường xuyên ho ra máu. Cứ thế tiếp tục tôi e phải chết trong tù mất thôi. Song tôi sẽ tiếp tục ở trên trời mà hoàn thành ý nguyện của mình. "(trích từ "HCM truyện" - William Duiker, trang 206)
14.,15,16,17,18 vẫn là những trích dẫn từ các sách nói về bệnh lao của NAQ
19. năm 1933 Hồ đến Mạc tư khoa, tình hình sức khoẻ lộ rõ rất tệ, bệnh phổi vẫn đeo mang, người rất ốm, sắc mặt trắng xám, đầu cạo trọc lóc, đôi khi ho sù sụ, trong đàm có máu. Do vì lúc ấy không có thuốc trị bệnh lao đặc biệt hiệu nghiệm nào, Hồ trị bằng phương pháp phải rất quy cũ trong sinh hoạt, nghiêm túc tuân thủ giờ giấc làm việc và nghỉ ngơi đúng mực. Mỗi ngày sáng sớm thức dậy đều tập thể dục. Trong phòng của ông có quả tạ và dụng cụ thể thao tập ngực. (HCM tại TQ - Tưởng Vĩnh Kính, trang 82)
20. Cuối năm 1944 thiếu úy Lieutenant Shaw, mời HCM cùng đến Côn Minh. HCM cùng hai đồng chí trẻ lên đường. Ngang đến Di Lương (Yi Liang) bị bạn đồng hành lây bệnh cảm mạo, phải dừng lại Di Lương ngơi nghỉ vài hôm đợi khôi phục rồi mới một mình tiếp tục đuổi theo. (HCM truyện- William Duiker, trang 287)
21. Sau tháng 3 năm 1945 - ….. tại Đông Khê HCM bị sốt, lúc nóng lúc lạnh ….(Hồi ký cách mạng của Hoàng Văn Hoan, trang 180-181)
22. Tháng 7. 1945 Võ Nguyên Giáp thuật lại HCM trên đường về lại Trung Nam bán đảo, trở bệnh sốt cao, nằm hôn mê …. (HCM truyện - William Duiker, trang 301-302)
23. Năm 1950 sau khi Trung Cộng thống trị hoàn toàn TQ, tư liệu văn kiện của TQ cũng có ghi HCM nhiều lần sang trị bệnh, song không hề có ghi chép nào liên can đến trị liệu bệnh lao phổi.
Tổng kết lại những tư liệu tường thuật bệnh tình ở trên: theo những ghi chép trước năm 1933, bệnh sử của NAQ đều có liên hệ chặt chẽ đến bệnh lao phổi, rất phù hợp với sự thật NAQ bệnh mất vì ho lao vào mùa hạ năm 1932. Và sau 1933 hầu như không hề thấy một ghi chép nào nói HCM có bệnh lao phổi. Cuối cùng tháng 9 năm 1969 HCM lại chết vì bệnh tim suy kiệt mà không phải bệnh ho lao. Tuy nhiên ở điểm 19 ghi lúc HCM đến Mạc tư khoa sức khoẻ yếu kém, vẫn mang bệnh phổi, thỉng thoảng ho và trong đàm có máu. Song nguồn phần tư liệu này (của sách HCM tại TQ) lại là từ hồi kí của phó bộ trưởng bộ giáo dục của Bắc Việt Nguyễn Khánh Tuyền, mục đích là để HCM thuận lợi tiếp tục sự nghiệp cách mạng khiến VN độc lập của NAQ, cố ý đem chứng bệnh lao phổi vừa lấy mất sinh mạng của NAQ gán cho HCM. Cái ý đồ ghép bệnh sử ho lao để nối kết hai người là sai lầm (vì bệnh đã nặng vậy mà từ 1933 trở đi không có một ghi chép nào về bệnh ho lao gì nữa).
(từ trang 22-37, hết chương 1)

Ảnh hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương

(hình 1 và 2 từ trái sang phải)

(hình 3,4,5 và 6 từ trái dọc xuống và sang cột phải là hình 6 của HCM trước năm 1933, phần chú thích ở dưới)
(Trang 108)
[Theo tác giả]: Nếu từ diện mạo bên ngoài của bức ảnh để phân biệt thân phận của một người thì theo nhận xét chủ quan của cá nhân tôi, nhất là khi tấm ảnh cách nhau một hai thập kỷ, muốn phân biệt Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau thì có lẽ rất khó khăn, đặt biệt là khi người phương tây nhìn người phương đông càng không dễ dàng gì (thấy sự khác biệt). Khuôn mặt bề ngoài của một người dù theo thời gian có đổi thay nhiều đi chăng nữa nhưng hình dạng và đường cong của đôi tai tuyệt đối không dễ thay đổi. Riêng về các đường cong và phần trái tai của Nguyễn Ái Quôc và Hồ Chí Minh thổ lộ nhiều điểm khác nhau rất rõ ràng, và có thể dùng đó làm bằng chứng rằng hai người thân phận khác nhau. Mời độc giả xem kỷ và nhận dạng.
Tấm ảnh trong hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc phía bên phải (William Duiker, Hồ Chí Minh truyện) chưa ghi rõ thời gian xuất xứ. Còn trong cuốn "Các nguyên thủ quốc gia nước ngoài tại Trung Quốc trong cuộc chiến chống Nhật" của sử gia Trung Quốc Tào Tấn Kiệt có ghi chú là ảnh chụp tại Quảng Châu vào mùa xuân năm 1925. Tấm ảnh này cùng với tấm ảnh của Hồ Tập Chương phía bên trái thường xuyên xuất hiện bên nhau để hỗ trợ cho sự liên kết diện mạo bên ngoài của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương). Như hình trên: bên trái là Nguyễn Ái Quốc, bên phải là Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) [hình trang 109 đầu tiên trong entry này]. Người viết cho rằng tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc thật ra là tấm ảnh giả, đặc biệt là tai bên trái sự sai lệch rất rõ ràng. Vì ý đồ muốn tạo sự liên kết giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (để cho thấy hai người) là một nên mượn dùng tấm ảnh của Hồ Tập Chương chụp tại Mạc Tư Khoa năm 1934. Song qua sự đối chiếu so sánh từ nhiều tấm ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) thấy được hai người diện mạo bên ngoài có nhiều khác biệt. (coi hình 1 và 2 + chú thích)
 
Chú thích hình ảnh trang 109, 110
1. Bức ảnh này được chụp ở Pháp, 1923, sách về HCM của William J. Duiker
2. Như trên tại Liên bang Nga Sô
3. Tấm này có nghi vấn, không ghi chú thời gian xuất xứ. do William chụp
4. Tấm ảnh này của NAQ chụp lại từ Viện triển lãm HCM tại VN
5. Tranh vẽ của thân phụ của NAQ - Nguyễn Sinh Huy - từ cuốn Cuộc đời HCM của William J. Duiker.
6. Tấm ảnh này chụp tại Liên bang Nga Sô năm 1924 từ sách HCM những năm tháng mất tích 1919-1941 (HCM the missing year 1919-1941) của thẩm phán Sophie Quinn.

(hình HCM sau năm 1933, hình 1,2,3 và 4 từ cột trái dọc xuống rồi sang phải)
Trang 111
1. Tấm ảnh này từ sách của William J. Duiker, HCM chụp tại Mạc tư khoa năm 1934.
2. Ảnh Thân phụ của Hồ Tập Chương, Hồ Dần Lượng (do người nhà cung cấp)
3. Ảnh này do Andred Roth chụp tại Bắc Việt năm 1946, trong sách Tân Việt Nam.
4. Ảnh này chụp tại Bắc Việt năm 1954 trong sách "Vĩ nhân chính trị khai sáng thời đại - HCM, bản tiếng Trung. 
 
Blacky & nhi
ps. Hai câu dưới đây là thông tin nhi trích thêm để mọi người biết xíu xiu về tuổi tác HTC với NAQ.
(Trang 100) - Hồ Tập Chương sinh năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (Trang 103) Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi)
ps2. xin lưu ý, sách dày 341 trang, entry này chỉ là trích dịch, còn rất nhiều vấn đề về thân phận của Hồ Tập Chương, con đường hoạt động cách mạng, khả năng ngôn ngữ, hôn nhân tình ái ..vv.. mà chúng tôi chưa thể dịch hết, mọi phán xét về sự thật cũng như bình luận xin nhường lại cho người đọc.


 

Hồ Chí Minh sinh bình khảo
(Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn chuyển ngữ


Thiên IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)


1 2 3 4 5



Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc

Câu chuyện hôn nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh (TTM) đến trụ sở “Hội Phụ nữ Vận động Diễn tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. Khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với TTM nên Thái Sướng đã có nhã ý giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.

Cô Tăng Tuyết Minh thời trẻ
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đã từng kinh doanh ở Đàn Hương Sơn (San Francisco, California, Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến năm 1917, Tăng Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, TTM vào học trường Nữ Hộ Sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân, Quảng Châu. Lúc ấy, TTM vừa tròn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ Vận động Diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, TTM thường đến trụ sở Hội nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.

TTM có người anh thứ hai là Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng 10 năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.

Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ TTM là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy TTM có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.

Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện Trung Sơn Hạm triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để sang Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.

Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của QTCS, thành lập ĐCSVN tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được tin, các chị gái TTM nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật sư biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa. TTM theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.

Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đống sự có người tố cáo, trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung – Việt, sự việc mới lắng xuống.

Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng Văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì qua đời ở tuổi 86.

Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho HCM mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa được cố vấn Mikhail Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 năm của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu Văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp Thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nghiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô TTM, cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lãnh tụ HCM, chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.

Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Viết về hôn nhân và tình ái của HCM, có thể điểm đến các tác phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”, năm 2001, kỳ 1; William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh” gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).

Phần thứ nhất, chương 4 – “Long đích truyền nhân” (Người nối dòng rồng), trang 143, nội dung như sau: “Mùa xuân, năm 1927, NAQ dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc Dân Đảng cánh tả (là đảng viên ĐCSTQ) Liêu Trọng Khải v.v. Đến lúc ấy, chẳng những NAQ đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với NAQ một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. NAQ bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự của Mikhail Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.

Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám Đông Dương
chặn được ngày 14.8.1928,
hiện tàng trữ tại C.A.O.M.
(Aix en Provence).
Xuất xứ Daniel Hémery,
HO CHI MINH De L’Indochine au
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 – “Xích sắc Nghệ Tĩnh” (Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết: “Tình yêu giữa NTMK và NAQ không phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo An: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không hợp với mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi NAQ rời Quảng Châu có gửi cho TTM một bức thư: “Hai ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của NAQ và TTM chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là NTMK, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và HCM. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.

Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh

NAQ và TTM, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo An Pháp như sau: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không phù hợp với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm lòng trung trinh của TTM với NAQ, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với W.J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của bà cô TTM đối với NAQ trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.

Nguyệt san
Vũ Hán Văn Sử Tư Liệu
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: “Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn Hối Báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông (MTĐ) kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.

Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.

Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép

Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói: “người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng”, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ TQ Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận TTM và HCM đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên.

Liệu HCM có biết TTM vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?

Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Thủ tướng Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính Trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này.

Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của TTM và NAQ bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính NAQ bị biến thành HCM theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc HCM nhờ ĐCSTQ nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Mikhail Borodin, Trung Cộng và QTCS chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ.

Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.

“Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”
Trên tường treo ảnh
chân dung Hồ Chí Minh
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối có kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức NAQ treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh NAQ chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung NAQ và tấm chân dung TTM để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh: “HCM và bạn bè thanh minh, suốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, HCM bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng NAQ và HCM chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ HCM suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định NAQ và HCM không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?

Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.

Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài hòa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.




(Còn tiếp)

 4

Hồ Chí Minh sinh bình khảo
(Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn chuyển ngữ


Thiên IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
1 2 3 4 5


Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc

Câu chuyện hôn nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc (NAQ) đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm 1925, Tăng Tuyết Minh (TTM) đến trụ sở “Hội Phụ nữ Vận động Diễn tập” tìm gặp Thái Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. Khi ấy, hai người chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có quan hệ thế nào với Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với TTM nên Thái Sướng đã có nhã ý giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.

Cô Tăng Tuyết Minh thời trẻ
Tăng Tuyết Minh sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đã từng kinh doanh ở Đàn Hương Sơn (San Francisco, California, Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến năm 1917, Tăng Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa xuân năm 1923, TTM vào học trường Nữ Hộ Sinh, năm 1925 tốt nghiệp. Sau khi được Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản Sở Y vụ La Tú Vân, Quảng Châu. Lúc ấy, TTM vừa tròn hai mươi tuổi. Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ Vận động Diễn tập”. Chịu ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng, TTM thường đến trụ sở Hội nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng.

TTM có người anh thứ hai là Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực, nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng 10 năm 1926, hôn lễ được cử hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.

Cuối năm 1926, Tăng Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui làm bố. Có điều, mẹ TTM là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy TTM có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nước mắt bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.

Tình hình cách mạng Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra sự kiện Trung Sơn Hạm triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy sát các đảng viên cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn động dư luận quốc tế. Trước tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau đó đến Vladivostok để sang Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.

Năm 1929, Lý Thụy đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của QTCS, thành lập ĐCSVN tại Cửu Long, Hương Cảng. Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị câu lưu. Được tin, các chị gái TTM nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời luật sư biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa. TTM theo các chị đến nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.

Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đống sự có người tố cáo, trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói, người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung – Việt, sự việc mới lắng xuống.

Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua sóng gió Cách mạng Văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì qua đời ở tuổi 86.

Vợ tôi, đối với Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc, ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư ngày trước viết cho HCM mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng lúc đính hôn cùng với tấm rèm cửa được cố vấn Mikhail Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày sinh 111 năm của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là thành viên Sở Nghiên cứu Văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp Thành phố, là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nghiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng nhớ đến người cô TTM, cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lãnh tụ HCM, chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.

Hồ sơ về hôn nhân, tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh

Viết về hôn nhân và tình ái của HCM, có thể điểm đến các tác phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”, năm 2001, kỳ 1; William J. Duiker, với “Truyện Hồ Chí Minh” gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung tâm Quân viễn chinh Bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc Hải ngoại”, hòm số 367, tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).

Phần thứ nhất, chương 4 – “Long đích truyền nhân” (Người nối dòng rồng), trang 143, nội dung như sau: “Mùa xuân, năm 1927, NAQ dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm. Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc Dân Đảng cánh tả (là đảng viên ĐCSTQ) Liêu Trọng Khải v.v. Đến lúc ấy, chẳng những NAQ đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với NAQ một thiếu nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. NAQ bất chấp mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng trên tầng 2 biệt thự của Mikhail Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.

Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám Đông Dương
chặn được ngày 14.8.1928,
hiện tàng trữ tại C.A.O.M.
(Aix en Provence).
Xuất xứ Daniel Hémery,
HO CHI MINH De L’Indochine au
Một phần khác, ghi chép tại chương 6 – “Xích sắc Nghệ Tĩnh” (Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết: “Tình yêu giữa NTMK và NAQ không phải mọi người đều biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ tháng 4 năm 1927, tuy NAQ đã rời TQ, vẫn còn chưa mất hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, TTM ngẫu nhiên gặp lại chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giưa hai người vẫn không nối lại. Theo một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một người quen ở Cục Bảo An: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không hợp với mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi NAQ rời Quảng Châu có gửi cho TTM một bức thư: “Hai ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình cảm chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ hôn nhân của NAQ và TTM chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là NTMK, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và HCM. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc là Tăng Tuyết Minh.

Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh

NAQ và TTM, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản Việt Nam bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo An Pháp như sau: “TTM chê NAQ nhiều tuổi, không phù hợp với mình, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm lòng trung trinh của TTM với NAQ, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với W.J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại Nguyệt san “Vũ Hán Văn sử Tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của bà cô TTM đối với NAQ trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.

Nguyệt san
Vũ Hán Văn Sử Tư Liệu
Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: “Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn Hối Báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông (MTĐ) kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân Dân Nhật Báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước VNDCCH. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, TTM lại đề nghị với nhà nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa sang Hà Nội gặp HCM nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.

Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, NAQ của năm 1926 và HCM của năm 1950 là không cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của HCM nên không dám dể TTM gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ HCM năm 1950 không phải là NAQ (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ TTM đau khổ mà không làm gì được.

Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép

Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “Năm 1958, Viện Vệ sinh Y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây TTM và HCM có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, TTM chỉ nói: “người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng”, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ TQ Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của HCM thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận TTM và HCM đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên.

Liệu HCM có biết TTM vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?

Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Thủ tướng Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính Trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này.

Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của TTM và NAQ bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính NAQ bị biến thành HCM theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia” hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” kể về việc HCM nhờ ĐCSTQ nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, Mikhail Borodin, Trung Cộng và QTCS chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên Bộ Chính Trị Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ.

Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.

“Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”
Trên tường treo ảnh
chân dung Hồ Chí Minh
Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối có kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức NAQ treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh NAQ chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung NAQ và tấm chân dung TTM để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh: “HCM và bạn bè thanh minh, suốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, HCM bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng NAQ và HCM chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ HCM suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định NAQ và HCM không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?

Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là HCM chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp… đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenine hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.

Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc NAQ 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, NAQ vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh còn lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: “Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn Judge ‘Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang’. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài hòa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.

(Còn tiếp)

Thiên IV
Khúc ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
(Hôn nhân luyến tình đích bi ca)

1 2 3 4 5


Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu thư

Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan

Chuyện tình của HCM và Lâm Y Lan chủ yếu căn cứ vào ghi chép của Lương Ích Tân qua bài viết “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Lương Văn Nguyên viết “Thế giới lịch sử Đảng Cộng Sản Trung Quốc” năm 2004, đăng trên Nguyệt san “Nhân Dân Văn Trích”, kỳ 12, dài khoảng ba ngàn ba trăm chữ, là bài viết muộn nhất cung cấp cho bạn đọc tư liệu về chuyện tình ái của Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của Hồ Chí Minh (HCM) với Lâm Y Lan (LYL). Nội dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết khá lý thú, làm xúc động lòng người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng, chỗ thì lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp trình bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối tình với Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác giả có ý đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc , đồng nhất hai người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế, Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu. William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 5 “Quyết chiến tối tiền tuyến”(…), trang 554- 555, có những chi tiết tương đồng với các tư liệu báo chí đã công bố. Từ đó có thể khẳng định, mối tình của HCM và LYL là có thực.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan

Từ những năm 30 của thế kỷ trước, để tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh công tác tại Quảng Đông, Hương Cảng, Trung Cộng đã bố trí một thiếu nữ là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta. Không lâu sau, hai người có tình ý với nhau. nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy sóng gió, nên cuối cùng mối quan hệ luyến ái này không đi đến hôn nhân. LYL hoài niệm về mối tình xưa, nhớ thương HCM, lâu ngày không biết còn sống hay đã chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. HCM biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau cũng tạ thế. Lúc hấp hối ông có nhắc đến tên LYL.

Lời đầu (Dẫn tử)

Mùa đông, Mạc Tư Khoa tuyết rơi không ngừng. HCM ở một ga xe bên sườn núi ngoại thành, dầm mình trong cái lạnh khốc liệt của tiết trời băng giá, nước mắt lã chã rơi thấm ướt cả lá thư. Bức thư báo tin dữ, người bạn gái thân thiết Nguyễn Thanh Linh (NTL) vừa bị giặc sát hại. Ông nghĩ đấy không phải là sự thật, mắt trừng trừng nhìn vào dòng chữ, đọc đi đọc lại nhiều lần từng chữ một. Không sai, thư viết rất rõ ràng, NTL đã bị ngộ hại tại VN.

Bạn gái Nguyễn Thanh Linh bị sát hại

HCM và NTL bắt đầu quen nhau vào mùa xuân năm 1930. Năm ấy HCM đang bôn ba hải ngoại tìm chân lý cách mạng, trên đường về Việt Nam ngẫu nhiên gặp NTL. NTL chẳng để ý đến việc gia đình phản đối, kiên quyết hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền bá ngọn lửa cách mạng, trở thành người bạn thân thiết và trợ thủ đắc lực của HCM. Tại Việt Nam, NTL vận động giới phụ nữ tham gia đấu tranh chống thực dân, đế quốc áp bức bóc lột, trở thành một cán bộ đảng rất có uy tín. Thời kỳ HCM sang Liên Xô học tập kinh nghiệm cách mạng, do bị một kẻ phản bội khai báo, NTL chẳng may bị địch bắt. Đối mặt với những dụ dỗ, truy bức, cô vẫn kiên trinh bất khuất, đến chết vẫn không chịu cúi đầu. Cuối năm ấy, trong cuộc họp VNTNCMĐCH của lưu học sinh Việt Nam, HCM tuyên bố trước mọi người: “Đồng chí Nguyễn Thanh Linh đã hy sinh anh dũng nhưng đồng chí vẫn sống mãi trong lòng chúng ta. Dòng máu đỏ của đồng chí không chảy phí hoài mà nó càng tô thắm ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tôi tuyên bố với thể giới, một khi nước Việt Nam chưa được giải phóng thì đời này, kiếp này sẽ không xây dựng gia đình”. HCM không thể ngờ, câu nói trên lại ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân sau này. Nó giống như trái núi lớn đè nặng lên tâm lý, không thể chống đỡ làm ông đau khổ cho đến lúc qua đời.

Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu

Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc Dân Đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. HCM lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, HCM bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ HCM để bảo vệ an toàn cho ông ta. Khi ấy HCM trở về nhà trọ thu xếp hành lý tìm đến nơi ở mới. Vừa vào đến cửa ông sững lại bởi cô gái đứng trước mình có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Thanh Linh, người yêu của mình đã bị địch xử tử năm nào. Cô gái không biết làm cách nào giải thích cho đối phương mà chỉ hỏi: “Ông là HCM tiên sinh phải không? Tôi họ Lâm, thường gọi là Lâm Y Lan”. HCM biết mình nhận lầm người, vội nói: “Xin lỗi cô Lâm, tôi lầm”.

Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh

Sau đó, HCM từ từ kể lại mối tình mười năm với NTL gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. LYL nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như mình lâm vào cảnh ngộ ấy, trong lòng vô cùng cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng Đông thông báo với HCM hiện tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc vụ Quốc Dân Đảng có mặt khắp nơi, không có việc gì chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại LYL phải bảo vệ HCM an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa thật bảo: “Các bạn nên nhớ, đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt đối không được bỏ rơi “phu quân” mà không quản lý đấy nhé”, làm LYL, vốn là một tiểu thư chưa chồng, hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, LYL chăm sóc HCM trong sinh hoạt thường ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho HCM đặc biệt cảm kích, đã có lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên trong lòng vẫn trù trừ. LYL thấy HCM nói với mình những lời chân thành, thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Lúc chia tay, HCM ôm lấy LYL, dùng khăn tay lau nước mắt cho cô: “Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật ký đưa cho LYL: “Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em”.

Trong hoạn nạn thấy sự chân thành

Ba ngày sau khi HCM được cứu thoát, LYL nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi: “Chí Minh, sao không đợi tôi đến đón?”. HCM nói: “Tôi nghĩ, càng về nhanh càng chóng được gặp muội”. Nói rồi HCM đưa cho LYL một nhành hoa lan: “Xin tặng muội, chúc mọi sự vui vẻ”. Thấy LYL có vẻ bối rối, HCM lại nói: “Muội đã đọc nhật ký chưa? Lòng tôi luôn tin tưởng hoa lan không bao giờ bị héo”. LYL nhận hoa, không nén được tình cảm, ngã vào lòng HCM.

Những năm 50 của thế kỷ XX, Trung Quốc đại lục đã được giải phóng, lúc này LYL là cán bộ cao cấp của Tỉnh ủy Quảng Đông. HCM trở về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng chưa hoàn thành. Bấy giờ, Đào Chú là Bí thư Trung ương Cục Hoa Nam kiêm Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, thấy LYL vẫn sống cô đơn đã đứng ra làm mối vài đám nhưng lần nào cũng bị cô khéo léo từ chối. Lúc ấy Đào Chú không hiểu tâm trạng LYL, sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng ông hỏi thẳng cô ta: “Giấy không bọc được lửa, hơn nữa, việc này cũng chẳng có gì là bí mật. Nói thật đi, người ấy là ai?” LYL thong thả bảo: “Hồ Chí Minh”. Đào Chú nghe xong thất kinh, mãi một lúc sau mới hỏi lại: “Chủ tịch ĐCSVN Hồ Chí Minh? Ông ta yêu cô phải không?”. LYL gật đầu: “Hồ Chí Minh nói là tôi hãy đợi ông ấy”. Nghe xong, Đào Chú tự trách mình: “Ôi chao! Chỉ tại ngày ấy tôi hồ đồ giao nhiệm vụ cho cô, nào ngờ dẫn đến chuyện hai người ở hai phương trời thương nhớ lẫn nhau…”

Không di lưỡng đại tương tư

LYL vẻ mặt rạng rỡ hạnh phúc, cười khẽ: “Việc này không thể trách đồng chí. Tôi và HCM hai người đã dốc lòng cùng nhau, hồng nhạn đưa tin, thế nào cũng có ngày tái ngộ. Huống hồ, tình cảm của hai người đã là vĩnh cửu, há đâu phải một sớm một chiều (Lưỡng tình nhược thị trường cửu thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ). Tôi tin tưởng tình yêu qua thời gian đã được thử thách”. Đào Chú chỉ biết xoa tay. Ông đã rõ chuyện, chỉ đợi xem tình huống phía Việt Nam. Mối nhân duyên này, có thể nói, sự thành công là không dám chắc. Ông hiểu rõ mình gánh trọng trách, hơi thiếu cẩn trọng, rất có thể sẽ gây nên bi kịch di hận ngàn thu.

Dịp may đã đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch HCM vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú, LYL và những Ủy viên Thường vụ khác về Bắc Kinh. LYL nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. HCM kết thúc chuyến thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông nhìn thấy LYL vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời. Hai người nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc phi cơ khởi trình, LYL lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại HCM, nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật ký, xin gửi lại anh”.

Ủy thác Đào Chú làm mối

Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng lẽ buông cần câu. Họ chính là HCM và Đào Chú. Lúc ấy HCM thần sắc có vẻ khác thường, trịnh trọng nói với Đào Chú: “TQ có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và LYL biết nhau đã hơn hai mươi năm, vì sự nghiệp cách mạng đành tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi cũng đã có tuổi, muốn đón LYL sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ý nguyện từ những năm trước”. Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương ĐCSTQ. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của HCM đến Tổng lý Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị lãnh đạo đều vô cùng kinh ngạc.

Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ

Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng, chính là chúng ta đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.

Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam

Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy viên Bộ Chính Trị. Sự việc được đưa ra nhưng mọi người đều im lặng không nói. Cuối cùng HCM đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ rồi. Thật tình tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định việc riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”. Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình tĩnh nói: “Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân nhắc kỹ rồi hãy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác. Bác từng nói ‘Việt Nam chưa giải phóng thì đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình’. Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề thì ý nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín ‘cha già dân tộc’ của Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe XHCN cũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép HCM, nhưng vì ở cương vị Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.

Thiểu số phục tùng đa số

HCM thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc riêng tư của mình, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nhìn sang hai bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi im. Mọi người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thõng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật mình là, HCM không nổi trận lôi đình, trái lại, ông chỉ cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.

Bi kịch tình yêu kết thúc

Tại bệnh viện Quảng Châu, LYL trông ngóng HCM nhưng chỉ nhận được bức thư vài dòng ngắn ngủi: “Y Lan thân mến! Chúng ta vô duyên không thể tái hợp. Muội đã nghe nói đến tình yêu theo kiểu Platonic chưa? Tuy không được ở bên nhau nhưng tâm hồn hai ta mãi mãi dung hòa nhất thể”. LYL cầm lá thư ném xuống bệ cửa sổ, nhìn theo lá thư vờn bay theo gió, hai dòng lệ lã chã tuôn rơi. Sau đó LYL viết thư hồi đáp HCM, trong thư, bà sử dụng hai câu trong “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị:
“Trên trời xin làm chim chắp cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành; Trời cao đất dày rồi cũng tận, tình này vĩnh viễn mãi không nguôi”.
(Tại thiên nguyện vi tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi; Thiên trường địa cửu hữu tận thời, thử tình miên miên vô tuyệt kỳ).
Bà chuyển chữ “hận” cải thành chữ “tình” để chứng tỏ tấm lòng thủy chung như nhất của mình đối với HCM. Bức thư bất đắc dĩ của HCM là một đòn nặng nề đánh vào tinh thần LYL khiến bà bị suy sụp rồi mắc trọng bệnh, năm 1968 thì qua đời. HCM nghe tin người yêu mất thì vô cùng ân hận và thương cảm. Sau đấy một năm, vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, lúc hừng đông, HCM bỗng nhiên thở dài, lúc hấp hối ông đã gọi tên Lâm Y Lan.
Trở lên là câu chuyện tình của HCM và LYL. Chuyện ly kỳ này là do Lương Ích Tân viết trong tác phẩm “Mối tình nồng cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”.

Sự thật về mối tình của Lâm Y Lan

Trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 554-555, William J.Duiker viết: “Tháng 8 năm 1965, Đào Chú thăm Hà Nội, HCM có nhờ ông làm mối cho một phụ nữ trẻ, người Quảng Đông trước đây từng quen biết nhau. Khi trở lại Trung Quốc, Đào Chú báo cáo với Chu Ân Lai lời thỉnh cầu trên. Chu Ân Lai bèn cùng với lãnh đạo Bắc Việt thương thảo việc này nhưng cuối cùng không có kết quả”. William J. Duiker viết đoạn này, nếu đem đối chiếu với các bài “Mối tình nồng cháy của HCM và LYL”; “Ủy thác Đào Chú làm mối”; “Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam”v.v. thì các chương mục gần như có nội dung thống nhất. Chi tiết Hồ Chí Minh yêu cầu Đào Chú tác thành với một người phụ nữ Quảng Đông để làm bạn là xác thực với những sự việc báo chí dã đưa tin. William J.Duiker viết tại chương này: (Hán văn trang 668) chỉ rõ nguồn gốc là “Chu Đào chi mê” của tác giả Quách Trinh, đăng tải trên tạp chí “Văn học Quân sự Tây Nam”, kỳ 72, Thành Đô 1995. Trong phần chú giải phụ thêm, William J. Duiker có một đoạn như sau: “Từ Cách mạng Văn hóa cho đến lúc trước khi bị thanh toán là lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông. Bà và HCM trước đây từng rất thân thiết nhau. Tôi căn cứ vào văn bản suy đoán, sự kiện này xảy ra vào mùa xuân hoặc mùa hạ năm 1966”.

Trong bài viết “Mối tình nồng cháy giữa HCM và Lâm Y Lan”, ở phần “Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu”, có đoạn: “Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc Dân Đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. HCM lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, HCM bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông - Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ HCM để bảo vệ an toàn cho ông ta”. Ở mục: Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ Hồ Chí Minh” và “Trong hoạn nạn thấy sự chân thành” đều có viết: “Không lâu sau, do một kẻ phản bội khai báo, HCM bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”.

Những phần ghi chép trên nói rõ là, vào đầu năm 1930, HCM đúng là bị bắt ở Quảng Châu. Đối chiếu với “Hồi ức Trịnh Siêu Lân” về sự kiện HCM bị bắt ở Quảng Châu vào năm 1931, đồng thời so sánh với bài viết “Hồ Tập Chương, đến từ Miêu Lật - Đài Loan bị bắt ở Quảng Châu, giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu” trên “Đài Loan Nhật Nhật Tân Báo” thì thấy rất rõ ràng, nhân vật nam chính trong bài “Mối tình nồng cháy giữa HCM và LYL” chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật - Đài Loan. [Xem lại Thiên III “Ve sầu lột xác, thật giả kiếp người” (Kim thiền thoát xác chân giả nhân sinh), “Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Châu”, và Thiên IV “Những năm tháng phiêu bạt” (Phiêu bạt lưu lãng đích tuế nguyệt) đăng tải trên “Đài Loan Nhật Nhật Tân Báo”.]

Theo nhận định của William J. Duiker, các bài viết “Nhờ Đào Chú làm mối”“Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là xác thực. Nhìn lại cuộc đời hoạt động chính trị thăng trầm của Đào Chú cũng có thể gián tiếp khẳng định, Chu Đào và LYL là một người. Đào Chú lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông từ mùa xuân năm 1951 đến năm 1966, từng là “phong cương đại lại” rồi nhảy nhanh lên Ủy viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Bộ trưởng Tuyên truyền, Cố vấn Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa, thứ bậc chỉ xếp sau Mao, Lâm, Chu, ngồi ghế thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính Trị, có thể nói vận số vô cùng hanh thông. Thế nhưng, tai vạ bỗng đâu ập đến, trong Đại Cách mạng Văn hóa, Đào Chú bị “Lũ bốn tên” vu cáo thuộc phe “bảo hoàng”. Chúng xúi giục Hồng Vệ Binh đấu tố, hạ nhục ông cho đến lúc thân tàn ma dại rồi chết một cách tức tưởi vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Cùng thời kỳ sóng gió ấy, Chu Đào bị hạ phóng ra biên giới Tây Nam.

Theo nội dung các bài “Hội nghị Bộ Chính Trị Đảng Lao động Việt Nam”“Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ”, có thể thấy một sự thực là, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng câu nói ‘Một ngày đất nước chưa độc lập, tôi quyết không kết hôn’ làm cái cớ gây áp lực mạnh lên ý nguyện xây dựng gia đình của Hồ Chí Minh.

(Còn tiếp)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ
© Thông Luận 2010

Trang liên hệ
· Đọc thêm về Đọc Sách Báo






Bài được đọc nhiều nhất trong Đọc Sách Báo:
Điểm sách: Cung vua phủ Chúa… của Bùi Tín (Nguyễn Hữu Tấn Đức)



Lựa chọn

 Trang in Trang in

 Gởi đến cho bạn bè Gởi đến cho bạn bè
Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc

Căn cứ vào “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “Lĩnh Nam Di Dân”, thì Hồ Chí Minh có bốn người phụ nữ trong các thời kỳ khác nhau. Người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh, tiếp theo là Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ Thị Lạc và cuối cùng là Nông Thị Xuân. Mối tình với Đỗ Thị Lạc, tác giả viết: “Sau khi ra tù, HCM được tướng Trương Phát Khuê, tướng Tiêu Văn tín nhiệm. Ông được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (VNCMĐMH), hoạt động rất có uy tín. Không lâu sau, được sự đồng ý của các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng, HCM mang theo 18 người trở về Bắc Việt Nam sau khi kết thúc khóa huấn luyện cán bộ. Một trong 18 người theo HCM trở về là Đỗ Thị Lạc, người phụ nữ duy nhất trong Đoàn thường được mọi người goi là “chị Thuận”. Nhân thân Đỗ Thị Lạc không rõ, người ta chỉ biết cô này từ năm 1942 tại Liễu Châu, Quảng Tây, với tư cách học viên Ban Huấn Luyện quân sự. Trở về Cao Bằng, Việt Bắc, Đỗ Thị Lạc và Hồ Chí Minh sống chung với nhau một thời gian tại vùng Khuê Nam (?!), phụ trách công tác dân vận và thiếu nhi. Sử gia Trần Trọng Kim, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, viết: “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con gái. Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, HCM dấn thân vào cao trào cách mạng, không bao giờ còn trở lại với ĐTL nữa”.

Căn cứ vào các tư liệu đã tra cứu được, vào thời kỳ HCM đem theo 18 cán bộ về Việt Bắc thì người phụ nữ có tên Đỗ Thị Lạc là có thật. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, trong cuốn “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang 194 đến 206 viết: “Ngày 10 tháng 9 năm 1943, HCM được phóng thích tại Liễu Châu, được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ VNCMĐMH. HCM đề nghị với Trương Phát Khuê ý định về Việt Nam hoạt động, đồng thời chuyển giao cho ông bản đề cương kế hoạch “Nhập Việt công tác” được khởi thảo với bốn mục tiêu lớn. Căn cứ vào kế hoạch đại cương, HCM tự tuyển chọn 18 thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc huấn luyện nhiệm vụ cách mạng. Danh tính của 18 người như sau: Dương Văn Lộc, Lê Nguyên, Vi Văn Tôn, Hoàng Nhân, Hoàng Quảng Triều, Nông Kim Thành, Hoàng Kim Vận, Hoàng Thanh Thủy, Phạm Văn Minh, Hà Hiến Minh, Hoàng Sỹ Vinh, Lê Văn Tiền, Nông Văn Mưu, Dương Văn Lễ, Hoàng Gia Tiên, Đỗ Trọng Viện, Trương Hữu Chí (đều thuộc Tổng đội Công tác Chiến địa) và Đỗ Thị Lạc (thuộc Đội Công tác Chính trị Biên giới)”. Lại căn cứ vào “Hồ Chí Minh tại Liễu Châu” do Quảng Tây Nhân Dân xuất bản xã phát hành năm 2005, trang 103, có đoạn viết: “Từ 1943 đến 1944, dưới chân núi Cao Lượng, Liễu Châu, nơi Ban Huấn Luyện cán bộ mở lớp học, HCM thường đến giảng bài. Trong số học viên có một phụ nữ là Đỗ Thị Loan, quê tại thị trấn Bắc Môn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, bị bệnh, chữa không khỏi, chết tại Liễu Châu, mai táng dưới chân núi Cao Lượng, bia mộ ghi ngày sinh, ngày mất và quê quán bằng Trung văn”. Có thể phỏng đoán, Đỗ Thị Lạc, Đỗ Lạc, Đỗ Thị Loan, danh tính ba lần chuyển dịch không giống nhau nhưng có lẽ vẫn cùng là một người.

Trần Trọng Kim viết: “Nghe tin Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với HCM nên có thể xem chuyện này là có thật”. Căn cứ vào “Hồ Chí Minh và Trung Quốc” trang 164 của giáo sư Hoàng Tranh, có đoạn ghi chép về “Hồ Chí Minh và Đỗ Lệ Hoa”, tôi phỏng đoán, Đỗ Lệ Hoa chính là Đỗ Thị Lạc. Chuyện như sau: “Tháng 8 năm 1962, HCM đến Trung Quốc, ở lại một thời gian, đã từng đến thăm phong cảnh nổi tiếng ‘Thạch Lâm’ ở Vân Nam. Đoàn Văn công Vân Nam có nữ ca sĩ hát giọng nữ cao Đỗ Lệ Hoa tháp tùng Chủ tịch HCM tham quan. Bên cạnh HCM, Đỗ tiểu thư đã có những giây phút vô cùng hạnh phúc. Trước đó một năm, HCM đã từng quen biết Đỗ Lệ Hoa. Đó là năm 1961, HCM cùng đoàn đại biểu Đảng Lao Động Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Một ngày, tại Hoài Nhân Đường, Bắc Kinh, đoàn nghệ thuật chuẩn bị thăm Miến Điện, biểu diễn một buổi dành riêng cho các vị khách Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, HCM đặc biệt đề nghị Đỗ Lệ Hoa cùng ông và Chủ tịch Mao Trạch Đông chụp chung một kiểu ảnh. HCM cười hiền từ nhìn Đỗ Lệ Hoa rất lâu như muốn lưu giữ mãi hình ảnh của cô. Lần này, khi đến nhà khách, Đỗ Lệ Hoa được thông báo, HCM mời vợ chồng cô đến Thạch Lâm tham quan thắng cảnh. Đỗ Lệ Hoa vô cùng phấn chấn, lòng thầm nghĩ, đã một năm qua rồi, không biết HCM giờ đây thế nào, cô hận là không thể lập tức chạy ngay đến bên Hồ Chủ tịch. Khi Đỗ Lệ Hoa vừa đến nhà khách Thạch Lâm, HCM đã chờ sẵn ở cửa trước, vừa nhìn thấy cô văn công, ông vội bước ra, thân mật gọi: ‘Tiểu thư Lệ Hoa, hoan nghênh cô đến, có nhớ năm trước chúng ta gặp nhau ở Bắc Kinh không?’. Đỗ Lệ Hoa phấn khởi nói: ‘Nhớ, nhớ ạ’, rồi trân trọng trao tấm ảnh kỷ niệm đã được phóng to cho HCM”.

Từ việc Đỗ Thị Lạc chết, độ tuổi của Đỗ Lệ Hoa; Đỗ Lệ Hoa đứng giữa Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm, đến cuộc gặp gỡ và tình cảm đặc biệt giữa Đỗ Lệ Hoa và Hồ Chí Minh ở khu nghỉ mát Thạc Lâm, làm cho người ta khó nói Đỗ Lệ Hoa không phải là người tình của Hồ Chí Minh.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân

Trần Quốc Hoàn vì có công trong việc trấn áp các phần tử phản cách mạng mà thành danh, năm 1953 được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công An. Năm 1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân (NTX) từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được Chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, NTX sinh với HCM một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của HCM là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào một ngày năm 1957, người ta phát hiện NTX bị tai nạn ô tô chết bên đường chân dốc Chèm. Không lâu sau, hai người em họ của cô Nông Thị Xuân cũng bị đột tử. Khi mới xảy ra sự kiện này rất ít người biết chuyện, nhưng nhiều năm sau, người chồng chưa cưới của một trong hai thiếu nữ, đã viết thư gửi lên Quốc Hội, tố cáo Trần Quốc Hoàn cưỡng dâm Nông Thị Xuân rồi sát hại cô bằng một vụ tai nạn được công an dàn dựng. Anh ta nói rõ, Trần Quốc Hoàn sợ hai người em họ của Nông Thị Xuân tố cáo tội ác nên hắn đã cho mật vụ thủ tiêu cả hai chị em. Tất nhiên, sự kiện này bị ỉm đi và cũng không có bất cứ phiên tòa nào đủ bản lĩnh đứng ra thụ lý vụ án trên.Trần Quốc Hoàn xem như vô can, tại Đại hội III, y còn được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính Trị, những tin tức về vụ giết người bịt miệng dã man này đã được các cán bộ cao cấp của ĐCSVN tại Hà Nội biết rõ, có điều tất cả đều ngậm miệng, bởi họ không lạ gì Cảnh Con (tên tục của Trần Quốc Hoàn) vốn xuất thân từ dân đao búa, đã từng làm đủ nghề, từ cầm cờ đám ma, lưu manh trộm cắp đến lừa thầy phản bạn… HCM có biết hay không sự kiện động trời này, mọi người đều không dám khẳng định, cho dù, ông mới là “chính danh thủ phạm” của vụ án thảm khốc cướp đi mạng sống của ba thiếu nữ xinh đẹp, vô tội.

Mối tình của HCM và NTX được William J. Duiker ghi chép tại chương 9: “Giữa hai lần chiến dịch”, trang 505-506 trong tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”. Phần chú thích từ trang 63 đến 660, nội dung dẫn từ “Đêm giữa ban ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên (con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, thư ký riêng cho HCM thời kỳ 1946-1955). Nguyên văn bản tố cáo tội ác Trần Quốc Hoàn của vị hôn phu cô Nguyễn Thị Vàng đăng tải trong “Việt Nam lục”, mùa thu, tháng 8 năm 1997, trang 8-11.

Lúc ấy Hồ Chí Minh đã 65,
Nông Thị Xuân mới gần 22
Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “ Lĩnh Nam Di Dân” cũng ghi chép về mối quan hệ luyến ái giữa HCM và NTX: “Ngày 20 tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genève, HCM trở về Hà Nội đảm nhiệm chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH). Năm 1955, Ban Bảo vệ Sức khỏe Trung ương tuyển một thiếu nữ thuộc thành phần gia đình cách mạng miền núi đưa về Hà Nội, phục vụ sinh hoạt cho HCM. Cô gái là Nông Thị Xuân, dân tộc Nùng (một chi nhánh của người Tráng, Quảng Tây, Trung Quốc. Việt Nam gọi là người Nùng), nhà ở thôn Hà Ma, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc ấy Hồ Chí Minh đã 65, Nông Thị Xuân mới gần 22. Ít lâu sau, hai cô khác, một tên Vàng, một tên Nguyệt là con người cậu của Nông Thị Xuân cũng được chọn đưa về Hà Nội. Ba cô cùng ở trên gác hai ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Nhuộm. Vì để mối quan hệ giữa HCM và NTX không bị tiết lộ, mỗi lần cô Nông Thị Xuân đến Phủ Chủ tịch đều được Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn cho xe đến đón”.

Những câu chuyện “Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc”, “Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân”, cùng “Chuyện tình ái và những người con sinh ra trong bóng tối”, (cho đến nay, dân gian vẫn lưu truyền, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh) cũng như thân phận thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc, vẫn còn là những bí mật, chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân, thời gian ghi chép, địa điểm, nội dung, nguồn gốc tin tức… sự thật chỉ có một mà sự tô vẽ, phóng đại thì rất nhiều bởi người đời làm cho sự việc ngày càng trở nên phức tạp, khó xác định chân tướng.

Tổng kết về hôn nhân và tình ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh

Khảo cứu về hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong vô vàn sự kiện cũng như mối quan hệ phức tạp, phải nói rất khó khăn và tốn nhiều công sức. Tuy nhiên, cần phải tin chắc một điều, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, cho nên chuyện hôn nhân và tình ái của họ cũng khác nhau. Trong khi tra cứu hồ sơ, tìm hiểu manh mối qua các nguồn tư liệu, (người viết) cần có thái độ khách quan, tôn trọng chứng cứ mới tìm ra được sự thật trong mớ tài liệu hỗn độn do lịch sử để lại, về quan hệ hôn nhân, tình ái của nhân vật đặc biệt này.

Trước hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh; Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Thị Minh Khai khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ Chí Minh với Đỗ Thị Lạc; Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân; Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Từ đó có thể rút ra kết luận: quan hệ tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh; Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai; Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều hình thành trong đấu tranh cách mạng một cách chân tình, nồng nhiệt. Những cuộc tình bắt nguồn từ khói lửa chiến loạn này rất đáng được ca ngợi, không cần phải giấu diếm, càng không nhất thiết có thái độ bôi nhọ.

Tình ái giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan, trong đó hàm chứa những nỗi đau triền miên làm người đọc cảm động, tỏ thái độ đồng tình, đồng thời phản đối chiến tranh, phản đối bạo lực. Hy vọng rằng những tình cảm nam nữ chân thành này sớm được làm sáng tỏ để nhân gian có cái nhìn đúng đắn về nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh.
Mùa hè năm 1959, ĐCSTQ họp Bộ Chính Trị mở rộng tại Lư Sơn, cũng là lúc Hồ Chí Minh đến thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Chiều ngày 8 tháng 10, Lưu Thiếu Kỳ cùng Vương Quang Mỹ, Chu Đức cùng Khang Khắc Thanh, Chu Ân Lai cùng Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân cùng Thái Sướng đến biệt thự 394. Hồ Chí Minh thấy nhiều bạn bè cũ đến thăm, chợt cao hứng hỏi Đặng Dĩnh Siêu: “Tiểu Siêu, nhiều khách quý thế này, hôm nay tôi phải lấy gì chiêu đãi?”. Một tiếng “Tiểu Siêu” làm Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu nhớ lại một thời đã qua. Dịp ấy vào năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vừa từ Liên Xô về Quảng Châu, biết tin Chu Ân Lai vừa được bổ nhiệm là Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, ông ta đã đến tận phòng ở của hai người chúc mừng. Lúc ấy, Chu Ân Lại gọi vào trong nhà: “Tiểu Siêu, mang đường ra đây”. Đã hơn ba mươi năm, Hồ Chí Minh đã trở thành ông già “cổ lai hy”, từ một chí sĩ vong quốc đến người đứng đầu nhà nước Việt Nam, tất cả dường như chỉ mới hôm qua. Đặng Dĩnh Siêu đón tiếp Hồ Chí Minh, ánh mắt tươi rói, cười bảo: “Pha cà phê”.

Chiều ngày 12 tháng 8, vào lúc 5 giờ, Dương Thượng Côn cùng Vương Giá Tường đến biệt thự 394 thăm Hồ Chí Minh. Một lúc sau có tiếng phụ nữ ồn ào từ ngoài vọng vào. Hồ Chí Minh quay đầu nhìn ra, chính là đội ngũ “nương tử quân” “giá đáo” gồm Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu, Khang Khắc Thanh, Vương Quang Mỹ, ngoài ra còn một vài người chưa quen biết. Mọi người mời Hồ Chí Minh ở lại Lư Sơn thêm ít ngày.

- Được thôi, sau này Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm.

- Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé! Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý.

- Đương nhiên, tôi biết, vì thế, tôi sẽ mời một số đồng bào…

- Không đâu, chỉ đề nghị Chủ tịch cùng phu nhân đến thôi.

Hồ Chí Minh cười, chậm rãi nói:

- Được thôi, nhờ Tiểu Siêu đề đạt ý kiến với Hội Phụ nữ, không được thì phải đền đấy.

- Đúng vậy, Chủ tịch nên chọn một người vợ cách mạng, chẳng nên bắt đền chị Đặng.

Các bà khách chẳng giữ ý tứ gì, nói năng thoải mái, cười khanh khách vang khắp nhà. Hồ Chí Minh luôn sống độc thân. Nhiều năm qua, Việt Nam và Trung Quốc quan tâm đến tình trạng hôn nhân của ông không ít, nhưng có lẽ, ngay từ thờ trai trẻ, ông đã chủ tâm lập chí, đất nước chưa độc lập, thì chưa thành gia thất chăng?

Các “nữ đồng bào” vẫn vui vẻ cười đùa:

- Lần sau Chủ tịch đến đây chị em chúng tôi mong được ăn kẹo cưới.

Hồ Chí Minh đứng lên, vẫy tay gọi vào trong:

- Mời mang kẹo ra đây chiêu đãi khách quý.

- Loại kẹo này chúng tôi không ăn.

- Vậy xin mời các phu nhân dùng cà phê.

- Cà phê cũng không uống.

Hồ Chí Minh cười:

- Vậy tôi đọc một bài thơ được không?

- Không yêu cầu Chủ tịch làm thơ.

Các vị khách đều biết Hồ Chí Minh sành làm thơ nên mới nói đùa vậy.

Hồ Chí Minh là một người có tính cách đặc biệt, ông nhẹ nhàng nói, thời kỳ năm 1940, cơ cấu ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam được thành lập tại Côn Minh, để cổ vũ quần chúng, tôi có làm một số “du thi”, xin đọc một bài để các nữ đồng chí nghe: Tam tứ niên lai vọng đoạn trường
Niệm lang lưu lạc tại tha hương
Đồng tâm kết phát thùy thiếp kiên
Cửu biệt lệ lưu thấp lang diện
Quốc hận gia sầu lang vật vong
Gia thường tỏa sự thiếp toàn đương
Đãi lang diệt địch quy lai nhật
Huề thủ đoàn viên lạc điền trang.
Tạm dịch nghĩa: Ba bốn năm nay trông ngóng đến đứt ruột
Nhớ chàng lưu lạc nơi quê người
Dải tóc kết đồng tâm rủ xuống vai thiếp
Dòng lệ khi từ biệt thấm ướt mặt chàng
Nợ nước thù nhà chàng không quên
Công việc ở nhà thiếp gánh vác
Đợi ngày chàng diệt địch trở về
Dắt tay nhau vui vẻ sống cảnh điền viên. Các phu nhân chăm chú nghe Hồ Chí Minh đọc từng câu thơ với tâm trạng vô cùng xúc động. Ông biểu thị tình cảm sâu sắc qua từng ngữ điệu, khiến các vị khách, sau khi rời biệt thự 394 lòng đầy cảm thán: “Nếu như Việt Nam sớm độc lập, thống nhất, Hồ Chí Minh nhất định sẽ là người chồng mẫu mực, hết lòng thương yêu vợ”. Trước lúc chia tay, các phu nhân còn tranh nhau đứng gần Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm làm Dương Thượng Côn và Vương Giá Tường phải bật cười”. Đoạn viết trên là căn cứ vào “Hồ sơ Lư Sơn” của Mã Xã Hương, chương 4 “Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, do Nhân Dân Xuất Bản Xã ấn hành tháng 5 năm 2006. Căn cứ văn bản trên, tôi đặc biệt nghi ngờ Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu. Có một tấm ảnh Hồ Chí Minh cầm tay Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng cười giữa một đoạn đường núi được Han Suyin chụp, Trương Liên Khang dịch trong cuốn “Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại”, trang 314. “Hồ sơ Lư Sơn – Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, kèm theo tấm ảnh, Hồ Chí Minh đứng giữa, bên phải cầm tay Đặng Dĩnh Siêu, bên trái cầm tay Thái Sướng, ba người tỏ ra rất thân mật. Tôi không tin việc Hồ Chí Minh, với tư cách Chủ tịch, lấy quốc gia làm trọng, vậy mà lại gọi phu nhân của Chu Ân Lai bằng cái tên “Tiểu Siêu”, Đặng Dĩnh Siêu chẳng những không phật ý mà còn vui vẻ mỉm cười. Lại nữa, Hồ Chí Minh trả lời các mệnh phụ phu nhân: “Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm”. Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý: “Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé!”. Những lời đối đáp có tính cợt nhả ấy đều vượt qua nghi lễ ngoại giao, thậm chí vượt qua cả tình cảm đồng chí, nhất là, khi ấy Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng lại là cán bộ cao cấp lãnh đạo Hội Phụ nữ Trung Quốc. Chuyện các vị nữ khách đề nghị Hồ Chí Minh đọc thơ tình cũng rất khó xảy ra. Người viết không tin là giữa Hồ Chí Minh và các phu nhân có bất kỳ mối quan hệ tình cảm mờ ám nào. Tôi đồ rằng, trong số các mệnh phụ phu nhân đến biệt thự 394 hôm ấy, có người ngấm ngầm muốn công khai bí mật thân phận thật của Hồ Chí Minh trước bàn dân thiên hạ. Chính vì vậy, qua những lời nói khá tình cảm của Hồ Chí Minh và Đặng Dĩnh Siêu, làm tác giả Bùi Tín hiểu lầm là hai người đã từng yêu nhau.

Trở lại năm 1926, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh chính thức cử hành hôn lễ tại Quảng Châu: Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng từng là người làm mối và chủ trì. Năm 1958, xảy ra vụ “Tăng Tuyết Minh hôn nhân xung đột song bào án kiện” (“Vụ án kép những mâu thuẫn hôn nhân của Tăng Tuyết Minh”), Thái Sướng phải đứng ra giải quyết mới dẹp được sóng gió. Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng biết rất rõ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng kính trọng và biểu đồng tình.

Ngày 16 tháng 7 năm 1947, Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn một tờ báo nước ngoài: “Đã hỏi đến chuyện hôn nhân và tương lai, xin hãy để tôi tự nhiên trả lời. Tôi không có gia đình, không vợ con, Việt Nam chính là gia đình tôi, các bậc phụ lão chính là người thân của tôi, phụ nữ Việt Nam chính là chị em tôi. Tôi chỉ có một điều duy nhất phải theo đuổi là đấu tranh để Việt Nam độc lập, thống nhất và dân chủ. Sau khi nguyện vọng hoàn thành, tôi sẽ cáo lão hồi hương, làm một người dân bình thường, du ngoạn núi sông, trồng cây, viết sách”.

Đoạn trả lời phỏng vấn trên được dẫn từ “Hồ Chí Minh toàn tập”, tập V, trang 171, NXB Chính trị Quốc gia, làm tôi suy nghĩ mãi. Trừ đoạn nói là không gia đình, không vợ con, Hồ Chí Minh sau khi hoàn thành nguyện vọng không thấy ông cáo lão về quê, bởi suy cho cùng, nếu thực hiện lời hứa ấy thì ông về quê nào?

Vào thời kỳ trước năm 1947, Hồ Chí Minh chưa từng công khai quê quán hoặc thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, thậm chí còn tích cực tranh thủ nước Mỹ, yêu cầu viện trợ giúp đỡ Việt Nam giành độc lập. Trong thâm tâm Hồ Chí Minh, phải chăng, ông đợi sau khi Việt Nam độc lập, Đài Loan được ủy thác cho quân Đồng minh quản lý cũng giành độc lập, như thế, ông có thể đàng hoàng trở về quê hương, thực hiện lời hứa với người em Hồ Tập Dưỡng: “Không thành công không về quê hương”. Tuy nhiên, trời chẳng chiều người, chỉ một năm sau, quân đội Quốc Dân Đảng tiến nhập Đài Loan, thế là Hồ Chí Minh chẳng bao giờ có thể trở về cố hương, đúng như lời Ngô Trọc Lưu nói, ông Hồ là “đứa con côi châu Á”.

(Hết Thiên IV)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ
© Thông Luận 2010
Hồ Chí Minh sinh bình khảo
(Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn chuyển ngữ

Thiên V
Chữ Hán Nhật ký trong tù và “Di chúc”
(Hán văn Ngục trung nhật ký dữ Di chúc)

♦ Bài 20
學奕棋

雙方勢力本平均,勝利终須屬一人
攻守運籌無漏著算,才稱英勇大將軍

Học dịch kỳ
3
Song phương thế lực thản bình quân
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu toán,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.

Học đánh cờ 3
Vốn trước hai bên ngang thế lực,
Mà sau thắng lợi một bên giành;
Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng anh hùng mới xứng danh.

Văn Trực – Văn Phụng dịch
Chú giải:

“Lậu toán”(著算): trong từ vựng Trung văn không có từ “lậu toán”, nhân vì văn bản Nhật ký trong tù xuất bản năm 1960 của nhà xuất bản Văn học Việt Nam đã chỉnh lý thơ HCM, đem từ “lậu toán” cải thành “lậu trước”(漏著). Bản in năm 1990 lại phục hồi từ “lậu toán”. “Lậu toán” là loại ngữ từ tiêu chuẩn của người Khách Gia, chỉ sự tính toán sai lầm khi đánh cờ tướng.

♦ Bài 25

民間賭博被官拉,獄裡賭博可公開
被拉賭犯常嗟悔,何不先到這裡來

Đổ
Dân gian đổ bác bị quan lạp
Ngục lý đổ bác khả công khai
Bị lạp đổ phạm thường ta hối
Hà bất tiên đáo giá lý lai!?

Đánh bạc
Đánh bạc ở ngoài, quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai;
Bị tù, con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Quan lạp”(官拉) là từ ngữ rất thông dụng của người Khách Gia, Miêu Lật. Thời Nhật chiếm đóng Đài Loan, nhân dân bị cảnh sát rượt đuổi gọi là “quan lạp”, còn người Khách Gia ở các địa phương khác có xưng hô như vậy hay không thì tôi chưa rõ.

♦ Bài 37
自勉
没有冬寒憔悴景,將無春暖的輝煌
災殃把我來鍛鍊,使我精神更緊張

Tự miễn
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoạn luyện
Sử ngã tinh thần cánh kiện cường.

Tự khuyên mình
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Nam Trân dịch

Chú giải:

“Khẩn trương”(緊張), gần giống như “lậu toán”, năm 1960, văn bản Nhật ký trong tù của nhà xuất bản Văn học đổi “khẩn trương” thành “kiện cường”(健強), đến năm 1990 đã lấy lại hai từ này. “Khẩn trương” là từ rất thông dụng của người Khách Gia Miêu Lật, ý nghía của nó là, thời gian cấp bách rồi, cần phải có tinh thần phấn chấn, ví dụ như cách dùng tiếng Khách Gia sau đây: “ Tham gia thi đấu, thời gian càng gần càng phải khẩn trương”.

♦ Bài 48
落了一隻牙
你的心情硬且剛,不如老舌軟而長
從來與你同甘苦,現在東西各一方

Lạc liễu nhất chích nha
Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương
Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường
Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ
Hiện tại đông tây các nhất phương.

Rụng mất một chiếc răng
Cứng rắn như anh chẳng kém ai,
Chẳng như lão lưỡi dẻo và dài;
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời.

Trần Đắc Thọ dịch
Dị bản:

Cứng rắn như anh khác thói thường,
Phải đâu mềm tựa lưỡi không xương;
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay phải xa nhau, kẻ một đường.

Chú giải:

“Lạc liễu nhất chích nha”(落了一隻牙): càng tìm hiểu, nghiên cứu, giải nghĩa thơ HCM, càng phát hiện ra, ông là nhà thơ dân gian chính hiệu, vì trong bài này, ông đã biểu đạt được mối quan hệ giữa “nha xỉ”(牙齒-răng) với “thần thiệt” (唇舌-môi lưỡi) rồi lấy đó làm tựa đề. “Lạc liễu nhất chích nha”, thực chất là một câu văn bất thông trong cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa Trung văn, nhưng lại là một phương ngôn rất thông dụng nếu phát âm theo cách của người Khách Gia, Miêu Lật, cho dù không tương ứng với với ý nghĩa biểu đạt cùng một đối tượng trong Hán ngữ. Vì vậy, HCM phải dùng “lạc”(落) và “chỉ”(只) để thay thế.
Bản “Ngục Trung Nhật Ký” được sửa lại
để cho trùng hợp với những ngày ở tù của HCM


♦ Bài 62
一个賭犯硬了
他身只有骨包皮,痛苦飢寒不可支
昨夜他仍睡我側,今朝他已九泉歸

Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu
Tha thân chỉ hữu cốt bao bì
Thống khổ cơ hàn bất khả chi
Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.

Một người tù cờ bạc chết cứng
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Ngạnh liễu”(硬了) hàm ý chỉ sự chết, là một từ rất thông dụng trong ngôn ngữ Khách Gia Miêu Lật. Người Khách Gia thường nói “ngạnh liễu” thay cho “nhân tử liễu”(người chết) của Trung văn.

♦ Bài 65
夜半聞哭夫 嗚呼夫君兮夫君,何故夫君遽棄塵
使妾從今何處見,十分心合意投人

Dạ bán văn khốc phu
Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cố phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,
Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.

Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng
Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được,
Con người tâm ý hợp mười mươi.

Nguyễn Sĩ Lâm dịch
Chú giải:

“Thập phần tâm hợp ý đầu nhân” (十分心合意投人), thoạt nhìn không hiểu ý tứ ra sao, nhất thời chưa thể giải nghĩa. Nhưng nếu ta biết được HCM thường có thói quen dùng ngôn ngữ Khách Gia làm thơ, đồng thời đọc diễn cảm bài thơ, thì có thể giải đáp được thắc mắc trên. HCM sáng tác thơ thường hay chú ý việc gieo vần nên rất khoái sử dụng thủ pháp “đảo trang”, nếu đem câu thơ này đổi thành “Thập phần hợp ý tâm đầu nhân” và dùng tiếng Khách Gia đọc diễn cảm, sẽ thấy rất rõ ràng “Thập phần ý hợp tâm đầu nhân” hàm ý chỉ sự đống ý đồng tình trong tâm trạng con người.

♦ Bài 91
獄中生活
每人各有一火炉,大大小小幾個鍋
煮飯煮茶又煮采,成天煙火没時無

Ngục trung sinh hoạt
Mỗi nhân các hữu nhất hỏa lô,
Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Chử phạn chử trà hựu chử thái,
Thành thiên yên hoả một thời vô.

Sinh hoạt trong tù
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Một thời vô”(没時無), mấy từ này rất không hợp lý nếu xét theo cú pháp Trung văn, trái lại, đọc theo Khách Gia thoại sẽ dễ dàng biết được ý tứ của nó. Đó là “lúc nào cũng có”. Bài thơ này, đọc diễn cảm theo tiếng Khách Gia, Miêu Lật rất thuận miệng và dễ hiểu.

♦ Bài 94
遷江獄
籠外六十九人盎,籠中的盎不知數
監房卻像刨藥堂,又像街上買盎鋪

Thiên Giang ngục
Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,
Lung trung đích áng bất tri số;
Giam phòng khước tượng bào dược đường,
Hựu tượng nhai thượng mại áng phố.

Nhà lao Thiên Giang
Ngoài lao sáu chín chiếc ang người,
Chồng chất trong lao biết mấy mươi;
Nhà ngục mà như nhà chế thuốc,
Gọi là hàng chĩnh cũng không sai.

Băng Thanh dịch
Chú giải:
“Áng”(盎), giáo sư Hoàng Tranh giải thích: Là loại đồ đựng bằng gốm thời cổ, bụng to, miệng nhỏ. “Nhân áng” chỉ loại chum bằng gốm, một số địa phương vùng Quảng Tây có tập quán dùng chôn người chết. HCM những năm ấy bị giam tại nhà tù Thiên Giang, có thể đã nhìn thấy loại đồ gốm như đã nói trên đựng xương người chết sau khi được quy tập vào một nơi trước cửa nhà tù rồi mới đem chôn, nên mới có từ “nhân áng”(人盎).”Áng” rất giống với cách phát âm Khách Gia được chuyển sang Hán ngữ.

♦ Bài 95
搭火車往來賓
幾十日來勞走路,今天得搭火車行
雖然只得坐炭上,畢竟比徒步漂亮

Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ,
Kim thiên đắc tháp hoả xa hành;
Tuy nhiên chỉ đắc tọa thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lượng.

Đáp xe lửa đi Lai Tân
Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả,
Hôm nay được bước lên xe hỏa;
Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ.

Đỗ Văn Hỷ, Huệ Chi dịch
Chú giải:

“Lai Tân” là tên một huyện ở Quảng Tây, thuộc quyền quản lý địa khu Liễu Châu, cách Liễu Châu 80 km. “Lao” (勞), “đắc”(得), “chỉ đắc”(只得), “phiêu lượng”(漂亮) cho dù đọc diễn cảm bằng Trung văn cũng sẽ thấy rất không lọn nghĩa, thậm chí không biết tác giả nói về cái gì. Tuy nhiên, nếu dùng Khách Gia thoại, đọc diễn cảm thì hoàn toàn thông suốt và dễ hiểu.“Lao”(勞)là “lao động” (vất vả),“đắc”(得)là“khả dĩ”(可以),“chỉ đắc”(只得)là“chỉ khả dĩ”(只可以) , ý nghĩa là “ chỉ được, có thể được” đều là từ ngữ Khách Gia được chuyển âm. “phiêu lượng” cũng là tiếng Khách Gia được chuyển thành từ ngữ Trung văn, chỉ sự so sánh tốt hơn. Vì không có từ Trung văn phiên âm đối ứng nên HCM đành phải dùng từ “phiêu lượng” thay thế.

♦ Bài 114
伍科長,黃科員
伍科長與黃科員,兩人見我太可憐
慇勤慰問和幫助,這像冬寒見暖天

Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên
Ngũ khoa trưởng dữ Hoàng khoa viên,
Lưỡng nhân kiến ngã thái khả liên,
Ân cần ủy vấn hòa bang trợ,
Giá tượng đông hàn kiến noãn thiên.

Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng
Họ Ngũ trưởng khoa với họ Hoàng,
Thấy ta cùng cực động lòng thương;
Ân cần thăm hỏi và cứu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá sương.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng” đều là các viên chức của cơ quan Chính trị bộ thuộc Đệ tứ Chiến khu.

1 – “Giá tượng”: Ngữ pháp Trung văn không có từ loại này mà là khẩu ngữ của người Khách Gia. “lưỡng nhân” chỉ hai người, còn “giá tượng” chỉ “hình như”, “như”.

2- Phải là người có trình độ Hán học khá uyên bác mới trước tác được Nhật ký trong tù, trong đó có một số bài rất khó tưởng tượng một người Việt Nam lại có thể viết nổi, huống hồ, cho dù đã học Hán văn rất cẩn thận, nhưng không thường xuyên tu dưỡng, bổ sung kiến thức, làm sao sử dụng ngôn ngữ nhuần nhuyễn như HCM để diễn đạt tư tưởng tình cảm của mình qua các thể tài trên.

♦ Bài 7
世路難
走遍高山與峻岩,那知平路更難堪
高山遇虎終無恙,平路逢人却被監

余原代表越南民,擬到中华見要人
無奈風波平地起,送余入獄作嘉賓

忠誠我本無心疚,却被嫌疑做漢奸
處世原來非易易,而今處世更難難

Thế lộ nan *
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

**
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
***
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.

Đường đời hiểm trở *
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
**
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
***
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Trung thành”, “Hán gian”: Nhật ký trong tù nếu do một người Việt Nam là NAQ sáng tác thì xem ra thật vô lý, bởi người viết đã dùng các từ “trung thành”, “Hán gian”. Đặc biệt từ “Hán gian” càng tỏ rõ, người viết bài thơ này không thể là công dân nước ngoài. Nếu quả như NAQ viết thật thì phải tự xưng là “Việt gian” hoặc “Cộng điệp” (gián điệp của QTCS) mới hợp lý.

Tác phẩm này
có đích thục của ông không?
♦ Bài 88
寄尼魯
其一
我奮鬥時君活動,君入獄時我住籠
萬里遥遥未见面,神交自在不言中

Ký Nê Lỗ
Ngã phấn đấu thời quân hoạt động,
Quân nhập ngục thời ngã trú lung;
Vạn lý dao dao vị kiến diện,
Thần giao tự tại bất ngôn trung.

Gửi Nehru
Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động,
Anh phải vào lao, tôi ở tù;
Muôn dặm xa vời chưa gặp mặt,
Không lời mà vẫn cảm thông nhau.

Hoàng Trung Thông dịch
Chú giải:

Nê Lỗ (尼魯): Giáo sư Hoàng Tranh chú thích, Nê Lỗ tức Nê Hách Lỗ ( Jawaharlal Nehru - 1889-1964), nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa, lãnh tụ đảng Quốc Đại, Thủ tướng nhiệm kỳ đầu (1947- 1964) sau khi Ấn Độ độc lập. HCM và Nehru là người cùng thời đại, đều cùng ra sức phấn đấu cho nền độc lập dân tộc và quốc gia. Hai người chưa từng gặp mặt nhưng đã là bạn tâm giao từ lâu. Từ tháng 12 năm 1921 đến tháng 6 năm 1945, Nehru trước sau từng bị bắt 9 lần. Thời kỳ HCM bị bắt tại Quảng Tây, Nehru cũng bị nhà đương cục của chủ nghĩa thực dân Anh, kẻ thù của nhân dân Ấn Độ giam giữ, mà kẻ bắt giam HCM, lại là chính phủ Quốc Dân đảng, một láng giềng hữu hảo, là đồng minh chống chủ nghĩa phát xít.

Năm 1939, HCM từng nhiệm chức Đài trưởng Đài thông tin vô tuyến cơ quan Bát Lộ quân Quảng Tây và nhân viên Đài vô tuyến Ban Huấn luyện cán bộ du kích Hành Dương, phụ trách thu thập thông tin ngoại văn, sau đó dịch sang tiếng Trung. Đối với tình hình quốc tế và các lãnh tụ quốc gia lúc ấy, trình độ của ông là tương đối cao.

Tháng 12 năm 1927, NAQ từ Paris đến Bruxelles tham dự “Hội nghị thế giới các dân tộc bị áp bức”, Jawaharlal Nehru cũng tham dự hội nghị này và được bầu làm Ủy viên chấp hành, đồng thời, cùng với NAQ có mối quan hệ rất mật thiết. Xem lại bài “Ký Nê Lỗ”: “Ngã phấn đấu thời quân hoạt động/ Quân nhập ngục thời ngã trú lung/ Vạn lý dao dao vị kiến diện/ Thần giao tự tại bất ngôn trung”,(Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động/Anh phải vào lao, tôi ở tù/Muôn dặm xa vời chưa gặp mặt/Không lời mà vẫn cảm thông nhau),thì thấy rõ ràng, trước năm 1943, HCM chưa từng gặp Nehru. Một lần nữa, bài thơ này chứng thực NAQ và HCM không phải là một người.

♦ Bài 77
折字
囚人出去或為國,患過頭時始見忠
人有憂愁優點大,籠開竹閂出真龍

Chiết tự
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Chơi chữ
Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Chiết tự”(折字) : Giáo sư Hoàng Tranh chú giải, Trung Quốc từ lâu đã lưu truyền một loại văn học du hý, đem phân giải tổ hợp chữ Hán này thành một số chữ Hán khác, những chữ mới này biểu đạt một ý nghĩa nào đấy. Trình độ Hán học của HCM phải khá uẩn súc mới có thể sử dụng thành thạo lối chiết tự du hý chữ Hán như vậy.

Trong bài thơ này, HCM vận dụng lối bẻ chữ, nghĩa là từ một chữ Hán, ông chia tách ra thành những chữ khác nhau vốn là các thành tố cấu tạo nên chữ đó, rồi thêm vào hoặc bớt đi một vài nét, tạo nên những chữ mới, mục đích vui đùa lúc nhà rỗi trong ngục. Cụ thể là, chữ 囚 (tù) bỏ chữ人(nhân) bên trong rồi thêm chữ 或(hoặc) thì biến thành chữ 國(quốc). Chữ 患 (hoạn) bỏ một chữ 中 (trung) trên đầu thì sẽ còn chữ 忠 (trung) nghĩa là trung thành. Chữ 憂 (ưu) vốn là lo lắng, thêm chữ 人 (chính xác là bộ “nhân đứng”) bên trái sẽ biến thành chữ 優 ưu, nghĩa là ưu điểm. Chữ 籠 (lung) là nhà lao, lược bỏ bộ trúc ( 竹 ) trên đầu sẽ thành chữ 龍 (long) nghĩa là rồng. Bài thơ này, sau khi chiết tự sẽ thành bốn chữ mới 國(quốc), 忠 (trung) .優 (ưu), 龍(long), hàm ý của nó là, vì đất nước tâm trạng nhà thơ đầy ưu phiền, trong hoạn nạn càng rèn luyện ý chí đợi khi ra khỏi nhà tù sẽ tiếp tục sự nghiệp.
♦ Bài 63
又一个
夷齊不食周朝粟,賭犯不吃公家粥
夷齊餓死首陽山,賭犯餓死公家獄

Hựu nhất cá...
Di, Tề bất thực Chu triều túc,
Đổ phạm bất ngật công gia chúc;
Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn,
Đổ phạm ngã tử công gia ngục.

Lại một người nữa...
Di, Tề chẳng ăn gạo nhà Chu,
Tù bạc chẳng ăn cháo nhà nước;
Di, Tề chết đói ngàn Thú Dương,
Tù bạc chết đói trong nhà ngục.

Nam Trân dịch
Chú giải:

Tiêu đề “Hựu nhất cá”, chỉ sự tiếp tục của bài trước, “Lại một tù cờ bạc nữa chết đói trong ngục”. Bài thơ này, HCM lấy việc tù cờ bạc chết đói trong nhà giam so sánh với sự tích Bá Di, Thúc Tề con vua nước Cô Trúc đời nhà Ân (1401- 1122 trước CN, Trung Quốc), không ăn thóc nhà Chu mà chết đói ở núi Thú Dương, chứng tỏ ông hiểu rất rõ các nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, nên luôn chuyên tâm trau giồi đạo đức, khí tiết. Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) từ nhỏ đã được tiếp thụ nền gióa dục truyền thống của gia đình. Thân sinh ra ông là Hồ Dần Lượng thường lấy sự tích “Di Tề không ăn thóc nhà Chu”, “Quan Công qua năm ải chém sáu tướng” để giảng giải về đại nghĩa, hy vọng giáo dục HCM thành người có nhân cách lớn, khí tiết cao cả. Ngô Trọc Lưu trong tác phẩm “Hồ Chí Minh”, đã xen kẽ giới thiệu lịch sử gia tộc HCM (Hồ Tập Chương). Tại thiên “Vân thê thư viện” (Thư viện thang mây) của ông, có thuật lại việc từ nhỏ HCM đã được dạy về điển tích “Bá Di, Thúc Tề”.

♦ Bài 132
即景
樹梢巧畫張飛像,赤日長明關羽心
祖國終年無信息,故鄉每日望回音

Tức cảnh
Thụ sao xảo họa Trương Phi tượng,
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm;
Tổ quốc chung niên vô tín tức,
Cố hương mỗi nhật vọng hồi âm.

Tức cảnh
Cành lá khéo in hình Dực Đức,
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công;
Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng,
Tin tức bên nhà bữa bữa trông.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Trương Phi”, “Quan Vũ”: Tại nhà HCM ở Miêu Lật, Đồng La, thời kỳ trước sau năm 1960, tác giả đã nhìn thấy một tập tranh “Tam quốc diến nghĩa” cổ, ước khoảng 10 hồi, đóng thành quyển, ngoài ra còn có “Tứ thư độc bản”, “Thiên gia thi”, “Dược thang ca quyết” và một số loại sách khác.

“Tổ quốc”, “cố hương”: Ý trực tiếp để thông báo với mọi người là quê hương Nghệ An, Việt Nam, nhưng thực chất lại chỉ Miêu Lật, Đài Loan. Vào đầu năm 1939, HCM (Hồ Tập Chương) gặp người em ruột là Hồ Tập Dưỡng lần cuối cùng, sau đó thì không nhận được tin tức gì của gia đình nữa. Trong bài thơ này có câu “chung niên vô tín tức” (suốt năm không tin tức) là phù hợp với hoàn cảnh thực tế của ông. Trước khi chia tay, HCM (Hồ Tập Chương) đặc biệt dặn Hồ Tập Dưỡng: “Sau này, nếu không thành công sẽ không về nhà, mong gia đình đừng mất công tìm tôi”. Tác giả dự đoán, Thời gian ấy, Hồ Tập Chương đã quyết định phấn đấu hy sinh vì nền độc lập của Việt Nam. Vậy mà tạo hóa trêu ngươi, không ai ngờ, sau năm 1948, tập đoàn Tưởng Giới Thạch thoái thủ Đài Loan, HCM dù có thành công đến mấy cũng không còn đường về quê cha đất tổ.

♦ Bài 115
限制
沒有自由真痛苦,出恭也被人制裁
開籠之時肚不痛,肚痛之時籠不開

Hạn chế
Một hữu tự do chân thống khổ,
Xuất cung dã bị nhân chế tài;
Khai lung chi thì đỗ bất thống,
Đỗ thống chi thì lung bất khai.

Bị hạn chế
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở, không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Xuất cung”(出恭): Từ thời Nhật Bản chiếm đóng, người dân ở Miêu Lật, Đồng La gọi việc đến nhà xí đại tiện là “xuất cung”. Cách gọi này lưu truyền cho đến ngày nay nhưng rất ít người hiểu được nguồn gốc ra đời của nó. Qua quá trình khảo cứu thư tịch cổ, tác giả xin cung cấp những tư liệu sau đây có liên quan đến từ “xuất cung”:

1- Trong các kỳ thi của hệ thống khoa cử triều Minh, người ta đặt ra một loại thẻ bài “xuất cung nhập kính” (出恭入敬) để đề phòng thí sinh tự tiện bỏ vị trí ra ngoài. Khảo sinh muốn đi đại tiện, trước hết phải lĩnh thẻ “xuất cung nhập kính” mới được ra, từ đó mới có tên gọi “xuất cung”.

2- Cuối triều nhà Thanh, trước khi bị Nhật chiếm đóng, văn chương, học vấn của người Miêu Lật, Đồng La rất hưng thịnh, xuất hiện không ít tiến sĩ, cử nhân, tú tài. Đầu triều Thanh, cử nhân Ngô Tử Quang đã mở trường học tại Đồng La, thu nhận nhiều môn đệ. Nhà chí sĩ kháng Nhật Khâu Phùng Giáp chính là học trò xuất sắc của ông. Phụ thân HCM (Hồ Tập Chương) là Hồ Dần Lượng, những năm đầu Quốc dân cũng từng mở trường dạy học tại quê nhà. Nhiều năm trước đó, học trò Miêu Lật, Đồng La thường xuyên vào Đại lục tham dự các kỳ thi của triều đình, nên khi về quê đã dùng từ “xuất cung” thay cho “đại tiện”, nghe có vẻ trang nhã hơn.

Từ “xuất cung” được lưu truyền cho đến ngày nay trở thành một thứ phương ngôn đặc thù của người Đồng La. Năm 1929, HCM vừa mới rời Miêu Lật, Đồng la đến Thượng Hải, nên từ “xuất cung” ông sử dụng không có gì lạ.

3- Đối với một người nắm chắc ngôn ngữ Nhật Bản như HCM (Hồ Tập Chương), khi viết Nhật ký trong tù, có thể chen vào một số từ tiếng Nhật mà lại không có vốn từ Nhật Bản thì khó mà viết được những bài thơ hàm súc và thấm đẫm tinh thần nhân văn như thế.

♦ Bài 59
南寧獄
監房建築頂摩登,澈夜輝煌照電燈
因為每餐惟有粥,使人肚子戰兢兢

Nam Ninh ngục
Giam phòng kiến trúc đính “ma-đăng”
Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng
Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc
Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.

Nhà ngục Nam Ninh
Nhà lao xây dựng kiểu tân thời,
Đèn điện thâu đêm sáng rực trời;
Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát cháo,
Cho nên cái bụng cứ rên hoài.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Ma đăng”(摩登): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, có một số từ nước ngoài du nhập vào Đồng La mà từ “ma đăng” vốn có nguồn gốc Anh ngữ (modern), nghĩa là “hiện đại” là một ví dụ.

♦ Bài 67
工金 煮一鍋飯六毛錢,一盆開水銀一元
一元買物得六角,獄中價格定昭然

Công kim
Chử nhất oa phạn lục mao tiền,
Nhất bồn khai thủy ngân nhất nguyên;
Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác,
Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.

Tiền công
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Một đồng của đáng sáu hào chỉ,
Giá cả trong tù định rõ sao!

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Công kim”(工金): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan có một số từ nước ngoài được du nhập vào hệ thống từ vựng Hán ngữ. “Công kim” chỉ tài sản công, tiền công.

♦ Bài 85
獄丁窃我之士的
一生正直又坚剛,携手同行幾雪霜
恨彼奸人離我俩,長教我你各凄凉

Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.

Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Sĩ đích”(士的): là danh từ chỉ cái gậy chống (quải trượng). Trong Nhật ngữ, “quải trượng”(guăi zhàng), đọc âm nhấn mạnh như “sĩ đích”. Giáo sư Hoàng Tranh chú giải: “quải trượng” vốn là từ tiếng Anh “stick” được phiên âm sang Hán ngữ. Tác giả có hỏi các tiên sinh cao tuổi biết Nhật ngữ thời Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, “sĩ đích” phải chăng là tiếng Nhật được đưa vào Hán ngữ. Một số người nói đúng, nhưng số khác lại bảo không thể xác định rõ ràng. Tôi cảm thấy thật kỳ lạ. HCM vì sao không trực tiếp dùng từ “stick” hoặc “quải trượng” làm tiêu đề bài thơ, đọc vừa thuận tai vừa dễ hiểu. Trái lại, ông chơi trò đùa bỡn, lấy “sĩ đích” đặt tên khiến người đọc không tìm ra đầu mối. Câu thơ “Ngục đinh thiết ngã chi sĩ đích”, rốt cuộc hàm chưa ý tứ gì? Nhật ký trong tù được sáng tác vào năm 1942–1943, là thời kỳ HCM bị giải đi giải lại từ Quế Lâm đến Liễu Châu. Lúc ấy, mỗi chuyến xe xuất phát từ Liễu Châu đều có viết hai chữ “đích sĩ” lên cái chiêu bài bốn mặt trên nóc làm dấu hiệu. Có thể, khi bị giải trên đường, đúng vào lúc tinh thần cao hứng, HCM liền đem âm tiếng Nhật của hai từ “quải trượng”, tạm mượn hai chữ “đích sĩ” trên biển hiệu nóc xe, đảo trật tự thành “sĩ đích” thay thế cho âm “quải trượng” Hán ngữ để đùa vui chăng? Chuyện này không phải không có khả năng. HCM hoạt động gần biên giới Trung – Việt, đi đi về về, không lúc nào rời xa chiếc gậy chống, đối với nó vô cùng thân thiết như người bạn tâm giao. Một người bạn thân Trung Quốc, tướng quân Vi Quốc Thanh, sau này đã từng tặng HCM một gốc trúc vuông Quảng Tây đặc biệt hiếm để ông làm gậy chống.

Tổng hợp những phần đã phân tích ở trên, chúng tôi đi đến kết luận, tác giả Nhật ký trong tù nhất định phải là người có đủ ba điều kiện sau đây:

1- Đối với ngữ văn Trung Quốc phải có trình độ cao, mà đối với nền Quốc học thường thức cũng phải đạt trình độ tương đối khá. Sáng tác được thơ trong Nhật ký trong tù tuyệt đối không phải là người chỉ có trình độ chữ Hán ba, bốn năm tiểu học.

2- Tác giả Nhật ký trong tù nhất định phải là người sắc tộc Khách Gia thuộc cộng đồng cư dân Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan.

3- Tác giả Nhật ký trong tù phải là người Khách Gia thông thạo Nhật ngữ.

(Còn tiếp)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ

♦ Bài 20
學奕棋

雙方勢力本平均,勝利终須屬一人
攻守運籌無漏著算,才稱英勇大將軍

Học dịch kỳ
3
Song phương thế lực thản bình quân
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu toán,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.

Học đánh cờ 3
Vốn trước hai bên ngang thế lực,
Mà sau thắng lợi một bên giành;
Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng anh hùng mới xứng danh.

Văn Trực – Văn Phụng dịch
Chú giải:

“Lậu toán”(著算): trong từ vựng Trung văn không có từ “lậu toán”, nhân vì văn bản Nhật ký trong tù xuất bản năm 1960 của nhà xuất bản Văn học Việt Nam đã chỉnh lý thơ HCM, đem từ “lậu toán” cải thành “lậu trước”(漏著). Bản in năm 1990 lại phục hồi từ “lậu toán”. “Lậu toán” là loại ngữ từ tiêu chuẩn của người Khách Gia, chỉ sự tính toán sai lầm khi đánh cờ tướng.

♦ Bài 25

民間賭博被官拉,獄裡賭博可公開
被拉賭犯常嗟悔,何不先到這裡來

Đổ
Dân gian đổ bác bị quan lạp
Ngục lý đổ bác khả công khai
Bị lạp đổ phạm thường ta hối
Hà bất tiên đáo giá lý lai!?

Đánh bạc
Đánh bạc ở ngoài, quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai;
Bị tù, con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Quan lạp”(官拉) là từ ngữ rất thông dụng của người Khách Gia, Miêu Lật. Thời Nhật chiếm đóng Đài Loan, nhân dân bị cảnh sát rượt đuổi gọi là “quan lạp”, còn người Khách Gia ở các địa phương khác có xưng hô như vậy hay không thì tôi chưa rõ.

♦ Bài 37
自勉
没有冬寒憔悴景,將無春暖的輝煌
災殃把我來鍛鍊,使我精神更緊張

Tự miễn
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoạn luyện
Sử ngã tinh thần cánh kiện cường.

Tự khuyên mình
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Nam Trân dịch

Chú giải:

“Khẩn trương”(緊張), gần giống như “lậu toán”, năm 1960, văn bản Nhật ký trong tù của nhà xuất bản Văn học đổi “khẩn trương” thành “kiện cường”(健強), đến năm 1990 đã lấy lại hai từ này. “Khẩn trương” là từ rất thông dụng của người Khách Gia Miêu Lật, ý nghía của nó là, thời gian cấp bách rồi, cần phải có tinh thần phấn chấn, ví dụ như cách dùng tiếng Khách Gia sau đây: “ Tham gia thi đấu, thời gian càng gần càng phải khẩn trương”.

♦ Bài 48
落了一隻牙
你的心情硬且剛,不如老舌軟而長
從來與你同甘苦,現在東西各一方

Lạc liễu nhất chích nha
Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương
Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường
Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ
Hiện tại đông tây các nhất phương.

Rụng mất một chiếc răng
Cứng rắn như anh chẳng kém ai,
Chẳng như lão lưỡi dẻo và dài;
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời.

Trần Đắc Thọ dịch
Dị bản:

Cứng rắn như anh khác thói thường,
Phải đâu mềm tựa lưỡi không xương;
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay phải xa nhau, kẻ một đường.

Chú giải:

“Lạc liễu nhất chích nha”(落了一隻牙): càng tìm hiểu, nghiên cứu, giải nghĩa thơ HCM, càng phát hiện ra, ông là nhà thơ dân gian chính hiệu, vì trong bài này, ông đã biểu đạt được mối quan hệ giữa “nha xỉ”(牙齒-răng) với “thần thiệt” (唇舌-môi lưỡi) rồi lấy đó làm tựa đề. “Lạc liễu nhất chích nha”, thực chất là một câu văn bất thông trong cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa Trung văn, nhưng lại là một phương ngôn rất thông dụng nếu phát âm theo cách của người Khách Gia, Miêu Lật, cho dù không tương ứng với với ý nghĩa biểu đạt cùng một đối tượng trong Hán ngữ. Vì vậy, HCM phải dùng “lạc”(落) và “chỉ”(只) để thay thế.
Bản “Ngục Trung Nhật Ký” được sửa lại
để cho trùng hợp với những ngày ở tù của HCM


♦ Bài 62
一个賭犯硬了
他身只有骨包皮,痛苦飢寒不可支
昨夜他仍睡我側,今朝他已九泉歸

Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu
Tha thân chỉ hữu cốt bao bì
Thống khổ cơ hàn bất khả chi
Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.

Một người tù cờ bạc chết cứng
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Ngạnh liễu”(硬了) hàm ý chỉ sự chết, là một từ rất thông dụng trong ngôn ngữ Khách Gia Miêu Lật. Người Khách Gia thường nói “ngạnh liễu” thay cho “nhân tử liễu”(người chết) của Trung văn.

♦ Bài 65
夜半聞哭夫 嗚呼夫君兮夫君,何故夫君遽棄塵
使妾從今何處見,十分心合意投人

Dạ bán văn khốc phu
Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cố phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,
Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.

Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng
Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được,
Con người tâm ý hợp mười mươi.

Nguyễn Sĩ Lâm dịch
Chú giải:

“Thập phần tâm hợp ý đầu nhân” (十分心合意投人), thoạt nhìn không hiểu ý tứ ra sao, nhất thời chưa thể giải nghĩa. Nhưng nếu ta biết được HCM thường có thói quen dùng ngôn ngữ Khách Gia làm thơ, đồng thời đọc diễn cảm bài thơ, thì có thể giải đáp được thắc mắc trên. HCM sáng tác thơ thường hay chú ý việc gieo vần nên rất khoái sử dụng thủ pháp “đảo trang”, nếu đem câu thơ này đổi thành “Thập phần hợp ý tâm đầu nhân” và dùng tiếng Khách Gia đọc diễn cảm, sẽ thấy rất rõ ràng “Thập phần ý hợp tâm đầu nhân” hàm ý chỉ sự đống ý đồng tình trong tâm trạng con người.

♦ Bài 91
獄中生活
每人各有一火炉,大大小小幾個鍋
煮飯煮茶又煮采,成天煙火没時無

Ngục trung sinh hoạt
Mỗi nhân các hữu nhất hỏa lô,
Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Chử phạn chử trà hựu chử thái,
Thành thiên yên hoả một thời vô.

Sinh hoạt trong tù
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Một thời vô”(没時無), mấy từ này rất không hợp lý nếu xét theo cú pháp Trung văn, trái lại, đọc theo Khách Gia thoại sẽ dễ dàng biết được ý tứ của nó. Đó là “lúc nào cũng có”. Bài thơ này, đọc diễn cảm theo tiếng Khách Gia, Miêu Lật rất thuận miệng và dễ hiểu.

♦ Bài 94
遷江獄
籠外六十九人盎,籠中的盎不知數
監房卻像刨藥堂,又像街上買盎鋪

Thiên Giang ngục
Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,
Lung trung đích áng bất tri số;
Giam phòng khước tượng bào dược đường,
Hựu tượng nhai thượng mại áng phố.

Nhà lao Thiên Giang
Ngoài lao sáu chín chiếc ang người,
Chồng chất trong lao biết mấy mươi;
Nhà ngục mà như nhà chế thuốc,
Gọi là hàng chĩnh cũng không sai.

Băng Thanh dịch
Chú giải:
“Áng”(盎), giáo sư Hoàng Tranh giải thích: Là loại đồ đựng bằng gốm thời cổ, bụng to, miệng nhỏ. “Nhân áng” chỉ loại chum bằng gốm, một số địa phương vùng Quảng Tây có tập quán dùng chôn người chết. HCM những năm ấy bị giam tại nhà tù Thiên Giang, có thể đã nhìn thấy loại đồ gốm như đã nói trên đựng xương người chết sau khi được quy tập vào một nơi trước cửa nhà tù rồi mới đem chôn, nên mới có từ “nhân áng”(人盎).”Áng” rất giống với cách phát âm Khách Gia được chuyển sang Hán ngữ.

♦ Bài 95
搭火車往來賓
幾十日來勞走路,今天得搭火車行
雖然只得坐炭上,畢竟比徒步漂亮

Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ,
Kim thiên đắc tháp hoả xa hành;
Tuy nhiên chỉ đắc tọa thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lượng.

Đáp xe lửa đi Lai Tân
Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả,
Hôm nay được bước lên xe hỏa;
Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ.

Đỗ Văn Hỷ, Huệ Chi dịch
Chú giải:

“Lai Tân” là tên một huyện ở Quảng Tây, thuộc quyền quản lý địa khu Liễu Châu, cách Liễu Châu 80 km. “Lao” (勞), “đắc”(得), “chỉ đắc”(只得), “phiêu lượng”(漂亮) cho dù đọc diễn cảm bằng Trung văn cũng sẽ thấy rất không lọn nghĩa, thậm chí không biết tác giả nói về cái gì. Tuy nhiên, nếu dùng Khách Gia thoại, đọc diễn cảm thì hoàn toàn thông suốt và dễ hiểu.“Lao”(勞)là “lao động” (vất vả),“đắc”(得)là“khả dĩ”(可以),“chỉ đắc”(只得)là“chỉ khả dĩ”(只可以) , ý nghĩa là “ chỉ được, có thể được” đều là từ ngữ Khách Gia được chuyển âm. “phiêu lượng” cũng là tiếng Khách Gia được chuyển thành từ ngữ Trung văn, chỉ sự so sánh tốt hơn. Vì không có từ Trung văn phiên âm đối ứng nên HCM đành phải dùng từ “phiêu lượng” thay thế.

♦ Bài 114
伍科長,黃科員
伍科長與黃科員,兩人見我太可憐
慇勤慰問和幫助,這像冬寒見暖天

Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên
Ngũ khoa trưởng dữ Hoàng khoa viên,
Lưỡng nhân kiến ngã thái khả liên,
Ân cần ủy vấn hòa bang trợ,
Giá tượng đông hàn kiến noãn thiên.

Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng
Họ Ngũ trưởng khoa với họ Hoàng,
Thấy ta cùng cực động lòng thương;
Ân cần thăm hỏi và cứu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá sương.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng” đều là các viên chức của cơ quan Chính trị bộ thuộc Đệ tứ Chiến khu.

1 – “Giá tượng”: Ngữ pháp Trung văn không có từ loại này mà là khẩu ngữ của người Khách Gia. “lưỡng nhân” chỉ hai người, còn “giá tượng” chỉ “hình như”, “như”.

2- Phải là người có trình độ Hán học khá uyên bác mới trước tác được Nhật ký trong tù, trong đó có một số bài rất khó tưởng tượng một người Việt Nam lại có thể viết nổi, huống hồ, cho dù đã học Hán văn rất cẩn thận, nhưng không thường xuyên tu dưỡng, bổ sung kiến thức, làm sao sử dụng ngôn ngữ nhuần nhuyễn như HCM để diễn đạt tư tưởng tình cảm của mình qua các thể tài trên.

♦ Bài 7
世路難
走遍高山與峻岩,那知平路更難堪
高山遇虎終無恙,平路逢人却被監

余原代表越南民,擬到中华見要人
無奈風波平地起,送余入獄作嘉賓

忠誠我本無心疚,却被嫌疑做漢奸
處世原來非易易,而今處世更難難

Thế lộ nan *
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

**
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
***
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.

Đường đời hiểm trở *
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
**
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
***
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Trung thành”, “Hán gian”: Nhật ký trong tù nếu do một người Việt Nam là NAQ sáng tác thì xem ra thật vô lý, bởi người viết đã dùng các từ “trung thành”, “Hán gian”. Đặc biệt từ “Hán gian” càng tỏ rõ, người viết bài thơ này không thể là công dân nước ngoài. Nếu quả như NAQ viết thật thì phải tự xưng là “Việt gian” hoặc “Cộng điệp” (gián điệp của QTCS) mới hợp lý.


Tác phẩm này
có đích thục của ông không?
♦ Bài 88
寄尼魯
其一
我奮鬥時君活動,君入獄時我住籠
萬里遥遥未见面,神交自在不言中

Ký Nê Lỗ
Ngã phấn đấu thời quân hoạt động,
Quân nhập ngục thời ngã trú lung;
Vạn lý dao dao vị kiến diện,
Thần giao tự tại bất ngôn trung.

Gửi Nehru
Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động,
Anh phải vào lao, tôi ở tù;
Muôn dặm xa vời chưa gặp mặt,
Không lời mà vẫn cảm thông nhau.

Hoàng Trung Thông dịch
Chú giải:

Nê Lỗ (尼魯): Giáo sư Hoàng Tranh chú thích, Nê Lỗ tức Nê Hách Lỗ ( Jawaharlal Nehru - 1889-1964), nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa, lãnh tụ đảng Quốc Đại, Thủ tướng nhiệm kỳ đầu (1947- 1964) sau khi Ấn Độ độc lập. HCM và Nehru là người cùng thời đại, đều cùng ra sức phấn đấu cho nền độc lập dân tộc và quốc gia. Hai người chưa từng gặp mặt nhưng đã là bạn tâm giao từ lâu. Từ tháng 12 năm 1921 đến tháng 6 năm 1945, Nehru trước sau từng bị bắt 9 lần. Thời kỳ HCM bị bắt tại Quảng Tây, Nehru cũng bị nhà đương cục của chủ nghĩa thực dân Anh, kẻ thù của nhân dân Ấn Độ giam giữ, mà kẻ bắt giam HCM, lại là chính phủ Quốc Dân đảng, một láng giềng hữu hảo, là đồng minh chống chủ nghĩa phát xít.

Năm 1939, HCM từng nhiệm chức Đài trưởng Đài thông tin vô tuyến cơ quan Bát Lộ quân Quảng Tây và nhân viên Đài vô tuyến Ban Huấn luyện cán bộ du kích Hành Dương, phụ trách thu thập thông tin ngoại văn, sau đó dịch sang tiếng Trung. Đối với tình hình quốc tế và các lãnh tụ quốc gia lúc ấy, trình độ của ông là tương đối cao.

Tháng 12 năm 1927, NAQ từ Paris đến Bruxelles tham dự “Hội nghị thế giới các dân tộc bị áp bức”, Jawaharlal Nehru cũng tham dự hội nghị này và được bầu làm Ủy viên chấp hành, đồng thời, cùng với NAQ có mối quan hệ rất mật thiết. Xem lại bài “Ký Nê Lỗ”: “Ngã phấn đấu thời quân hoạt động/ Quân nhập ngục thời ngã trú lung/ Vạn lý dao dao vị kiến diện/ Thần giao tự tại bất ngôn trung”,(Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động/Anh phải vào lao, tôi ở tù/Muôn dặm xa vời chưa gặp mặt/Không lời mà vẫn cảm thông nhau),thì thấy rõ ràng, trước năm 1943, HCM chưa từng gặp Nehru. Một lần nữa, bài thơ này chứng thực NAQ và HCM không phải là một người.

♦ Bài 77
折字
囚人出去或為國,患過頭時始見忠
人有憂愁優點大,籠開竹閂出真龍

Chiết tự
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Chơi chữ
Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Chiết tự”(折字) : Giáo sư Hoàng Tranh chú giải, Trung Quốc từ lâu đã lưu truyền một loại văn học du hý, đem phân giải tổ hợp chữ Hán này thành một số chữ Hán khác, những chữ mới này biểu đạt một ý nghĩa nào đấy. Trình độ Hán học của HCM phải khá uẩn súc mới có thể sử dụng thành thạo lối chiết tự du hý chữ Hán như vậy.

Trong bài thơ này, HCM vận dụng lối bẻ chữ, nghĩa là từ một chữ Hán, ông chia tách ra thành những chữ khác nhau vốn là các thành tố cấu tạo nên chữ đó, rồi thêm vào hoặc bớt đi một vài nét, tạo nên những chữ mới, mục đích vui đùa lúc nhà rỗi trong ngục. Cụ thể là, chữ 囚 (tù) bỏ chữ人(nhân) bên trong rồi thêm chữ 或(hoặc) thì biến thành chữ 國(quốc). Chữ 患 (hoạn) bỏ một chữ 中 (trung) trên đầu thì sẽ còn chữ 忠 (trung) nghĩa là trung thành. Chữ 憂 (ưu) vốn là lo lắng, thêm chữ 人 (chính xác là bộ “nhân đứng”) bên trái sẽ biến thành chữ 優 ưu, nghĩa là ưu điểm. Chữ 籠 (lung) là nhà lao, lược bỏ bộ trúc ( 竹 ) trên đầu sẽ thành chữ 龍 (long) nghĩa là rồng. Bài thơ này, sau khi chiết tự sẽ thành bốn chữ mới 國(quốc), 忠 (trung) .優 (ưu), 龍(long), hàm ý của nó là, vì đất nước tâm trạng nhà thơ đầy ưu phiền, trong hoạn nạn càng rèn luyện ý chí đợi khi ra khỏi nhà tù sẽ tiếp tục sự nghiệp.
♦ Bài 63
又一个
夷齊不食周朝粟,賭犯不吃公家粥
夷齊餓死首陽山,賭犯餓死公家獄

Hựu nhất cá...
Di, Tề bất thực Chu triều túc,
Đổ phạm bất ngật công gia chúc;
Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn,
Đổ phạm ngã tử công gia ngục.

Lại một người nữa...
Di, Tề chẳng ăn gạo nhà Chu,
Tù bạc chẳng ăn cháo nhà nước;
Di, Tề chết đói ngàn Thú Dương,
Tù bạc chết đói trong nhà ngục.

Nam Trân dịch
Chú giải:

Tiêu đề “Hựu nhất cá”, chỉ sự tiếp tục của bài trước, “Lại một tù cờ bạc nữa chết đói trong ngục”. Bài thơ này, HCM lấy việc tù cờ bạc chết đói trong nhà giam so sánh với sự tích Bá Di, Thúc Tề con vua nước Cô Trúc đời nhà Ân (1401- 1122 trước CN, Trung Quốc), không ăn thóc nhà Chu mà chết đói ở núi Thú Dương, chứng tỏ ông hiểu rất rõ các nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, nên luôn chuyên tâm trau giồi đạo đức, khí tiết. Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) từ nhỏ đã được tiếp thụ nền gióa dục truyền thống của gia đình. Thân sinh ra ông là Hồ Dần Lượng thường lấy sự tích “Di Tề không ăn thóc nhà Chu”, “Quan Công qua năm ải chém sáu tướng” để giảng giải về đại nghĩa, hy vọng giáo dục HCM thành người có nhân cách lớn, khí tiết cao cả. Ngô Trọc Lưu trong tác phẩm “Hồ Chí Minh”, đã xen kẽ giới thiệu lịch sử gia tộc HCM (Hồ Tập Chương). Tại thiên “Vân thê thư viện” (Thư viện thang mây) của ông, có thuật lại việc từ nhỏ HCM đã được dạy về điển tích “Bá Di, Thúc Tề”.

♦ Bài 132
即景
樹梢巧畫張飛像,赤日長明關羽心
祖國終年無信息,故鄉每日望回音

Tức cảnh
Thụ sao xảo họa Trương Phi tượng,
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm;
Tổ quốc chung niên vô tín tức,
Cố hương mỗi nhật vọng hồi âm.

Tức cảnh
Cành lá khéo in hình Dực Đức,
Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công;
Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng,
Tin tức bên nhà bữa bữa trông.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Trương Phi”, “Quan Vũ”: Tại nhà HCM ở Miêu Lật, Đồng La, thời kỳ trước sau năm 1960, tác giả đã nhìn thấy một tập tranh “Tam quốc diến nghĩa” cổ, ước khoảng 10 hồi, đóng thành quyển, ngoài ra còn có “Tứ thư độc bản”, “Thiên gia thi”, “Dược thang ca quyết” và một số loại sách khác.

“Tổ quốc”, “cố hương”: Ý trực tiếp để thông báo với mọi người là quê hương Nghệ An, Việt Nam, nhưng thực chất lại chỉ Miêu Lật, Đài Loan. Vào đầu năm 1939, HCM (Hồ Tập Chương) gặp người em ruột là Hồ Tập Dưỡng lần cuối cùng, sau đó thì không nhận được tin tức gì của gia đình nữa. Trong bài thơ này có câu “chung niên vô tín tức” (suốt năm không tin tức) là phù hợp với hoàn cảnh thực tế của ông. Trước khi chia tay, HCM (Hồ Tập Chương) đặc biệt dặn Hồ Tập Dưỡng: “Sau này, nếu không thành công sẽ không về nhà, mong gia đình đừng mất công tìm tôi”. Tác giả dự đoán, Thời gian ấy, Hồ Tập Chương đã quyết định phấn đấu hy sinh vì nền độc lập của Việt Nam. Vậy mà tạo hóa trêu ngươi, không ai ngờ, sau năm 1948, tập đoàn Tưởng Giới Thạch thoái thủ Đài Loan, HCM dù có thành công đến mấy cũng không còn đường về quê cha đất tổ.

♦ Bài 115
限制
沒有自由真痛苦,出恭也被人制裁
開籠之時肚不痛,肚痛之時籠不開

Hạn chế
Một hữu tự do chân thống khổ,
Xuất cung dã bị nhân chế tài;
Khai lung chi thì đỗ bất thống,
Đỗ thống chi thì lung bất khai.

Bị hạn chế
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở, không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Xuất cung”(出恭): Từ thời Nhật Bản chiếm đóng, người dân ở Miêu Lật, Đồng La gọi việc đến nhà xí đại tiện là “xuất cung”. Cách gọi này lưu truyền cho đến ngày nay nhưng rất ít người hiểu được nguồn gốc ra đời của nó. Qua quá trình khảo cứu thư tịch cổ, tác giả xin cung cấp những tư liệu sau đây có liên quan đến từ “xuất cung”:

1- Trong các kỳ thi của hệ thống khoa cử triều Minh, người ta đặt ra một loại thẻ bài “xuất cung nhập kính” (出恭入敬) để đề phòng thí sinh tự tiện bỏ vị trí ra ngoài. Khảo sinh muốn đi đại tiện, trước hết phải lĩnh thẻ “xuất cung nhập kính” mới được ra, từ đó mới có tên gọi “xuất cung”.

2- Cuối triều nhà Thanh, trước khi bị Nhật chiếm đóng, văn chương, học vấn của người Miêu Lật, Đồng La rất hưng thịnh, xuất hiện không ít tiến sĩ, cử nhân, tú tài. Đầu triều Thanh, cử nhân Ngô Tử Quang đã mở trường học tại Đồng La, thu nhận nhiều môn đệ. Nhà chí sĩ kháng Nhật Khâu Phùng Giáp chính là học trò xuất sắc của ông. Phụ thân HCM (Hồ Tập Chương) là Hồ Dần Lượng, những năm đầu Quốc dân cũng từng mở trường dạy học tại quê nhà. Nhiều năm trước đó, học trò Miêu Lật, Đồng La thường xuyên vào Đại lục tham dự các kỳ thi của triều đình, nên khi về quê đã dùng từ “xuất cung” thay cho “đại tiện”, nghe có vẻ trang nhã hơn.

Từ “xuất cung” được lưu truyền cho đến ngày nay trở thành một thứ phương ngôn đặc thù của người Đồng La. Năm 1929, HCM vừa mới rời Miêu Lật, Đồng la đến Thượng Hải, nên từ “xuất cung” ông sử dụng không có gì lạ.

3- Đối với một người nắm chắc ngôn ngữ Nhật Bản như HCM (Hồ Tập Chương), khi viết Nhật ký trong tù, có thể chen vào một số từ tiếng Nhật mà lại không có vốn từ Nhật Bản thì khó mà viết được những bài thơ hàm súc và thấm đẫm tinh thần nhân văn như thế.

♦ Bài 59
南寧獄
監房建築頂摩登,澈夜輝煌照電燈
因為每餐惟有粥,使人肚子戰兢兢

Nam Ninh ngục
Giam phòng kiến trúc đính “ma-đăng”
Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng
Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc
Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.

Nhà ngục Nam Ninh
Nhà lao xây dựng kiểu tân thời,
Đèn điện thâu đêm sáng rực trời;
Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát cháo,
Cho nên cái bụng cứ rên hoài.

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Ma đăng”(摩登): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, có một số từ nước ngoài du nhập vào Đồng La mà từ “ma đăng” vốn có nguồn gốc Anh ngữ (modern), nghĩa là “hiện đại” là một ví dụ.

♦ Bài 67
工金 煮一鍋飯六毛錢,一盆開水銀一元
一元買物得六角,獄中價格定昭然

Công kim
Chử nhất oa phạn lục mao tiền,
Nhất bồn khai thủy ngân nhất nguyên;
Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác,
Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.

Tiền công
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Một đồng của đáng sáu hào chỉ,
Giá cả trong tù định rõ sao!

Nam Trân dịch
Chú giải:

“Công kim”(工金): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan có một số từ nước ngoài được du nhập vào hệ thống từ vựng Hán ngữ. “Công kim” chỉ tài sản công, tiền công.

♦ Bài 85
獄丁窃我之士的
一生正直又坚剛,携手同行幾雪霜
恨彼奸人離我俩,長教我你各凄凉

Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.

Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.

Nam Trân dịch
Chú giải:


“Sĩ đích”(士的): là danh từ chỉ cái gậy chống (quải trượng). Trong Nhật ngữ, “quải trượng”(guăi zhàng), đọc âm nhấn mạnh như “sĩ đích”. Giáo sư Hoàng Tranh chú giải: “quải trượng” vốn là từ tiếng Anh “stick” được phiên âm sang Hán ngữ. Tác giả có hỏi các tiên sinh cao tuổi biết Nhật ngữ thời Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, “sĩ đích” phải chăng là tiếng Nhật được đưa vào Hán ngữ. Một số người nói đúng, nhưng số khác lại bảo không thể xác định rõ ràng. Tôi cảm thấy thật kỳ lạ. HCM vì sao không trực tiếp dùng từ “stick” hoặc “quải trượng” làm tiêu đề bài thơ, đọc vừa thuận tai vừa dễ hiểu. Trái lại, ông chơi trò đùa bỡn, lấy “sĩ đích” đặt tên khiến người đọc không tìm ra đầu mối. Câu thơ “Ngục đinh thiết ngã chi sĩ đích”, rốt cuộc hàm chưa ý tứ gì? Nhật ký trong tù được sáng tác vào năm 1942–1943, là thời kỳ HCM bị giải đi giải lại từ Quế Lâm đến Liễu Châu. Lúc ấy, mỗi chuyến xe xuất phát từ Liễu Châu đều có viết hai chữ “đích sĩ” lên cái chiêu bài bốn mặt trên nóc làm dấu hiệu. Có thể, khi bị giải trên đường, đúng vào lúc tinh thần cao hứng, HCM liền đem âm tiếng Nhật của hai từ “quải trượng”, tạm mượn hai chữ “đích sĩ” trên biển hiệu nóc xe, đảo trật tự thành “sĩ đích” thay thế cho âm “quải trượng” Hán ngữ để đùa vui chăng? Chuyện này không phải không có khả năng. HCM hoạt động gần biên giới Trung – Việt, đi đi về về, không lúc nào rời xa chiếc gậy chống, đối với nó vô cùng thân thiết như người bạn tâm giao. Một người bạn thân Trung Quốc, tướng quân Vi Quốc Thanh, sau này đã từng tặng HCM một gốc trúc vuông Quảng Tây đặc biệt hiếm để ông làm gậy chống.
Tổng hợp những phần đã phân tích ở trên, chúng tôi đi đến kết luận, tác giả Nhật ký trong tù nhất định phải là người có đủ ba điều kiện sau đây:

1- Đối với ngữ văn Trung Quốc phải có trình độ cao, mà đối với nền Quốc học thường thức cũng phải đạt trình độ tương đối khá. Sáng tác được thơ trong Nhật ký trong tù tuyệt đối không phải là người chỉ có trình độ chữ Hán ba, bốn năm tiểu học.

2- Tác giả Nhật ký trong tù nhất định phải là người sắc tộc Khách Gia thuộc cộng đồng cư dân Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan.

3- Tác giả Nhật ký trong tù phải là người Khách Gia thông thạo Nhật ngữ.

(Còn tiếp)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn
chuyển ngữ




Hồ Chí Minh sinh bình khảo
(Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh)
Hồ Tuấn Hùng
Thái Văn chuyển ngữ

Thiên V
Chữ Hán Nhật ký trong tù và “Di chúc”
(Hán văn Ngục trung nhật ký dữ Di chúc)


1 2 3


Thư pháp chữ Hán của Hồ Chí Minh

Ngoại trừ Nhật ký trong tù, từ sau năm 1938, HCM đã dùng Trung văn công bố một số chuyên luận, sáng tác văn thơ và viết thư pháp. Toàn bộ trước tác của ông, bao gồm cả những bức thư pháp đại, tiểu khải, thật ra rất khó thuyết phục được người ta tin là, NAQ thuở niên thiếu chỉ học qua vài năm Hán ngữ lại có thể viết được. Những dẫn chứng sau đây có thể chứng minh nhận định trên:

1- Từ tháng 12/1938 đến tháng 06/1939, HCM viết 7 bài báo và chuyên luận bằng Trung văn, các bản thảo được gửi đến Hà Nội, Việt Nam. Các bài có tiêu đề như sau: ° Tháng 12/1938: “Người Nhật muốn khai hóa Trung Quốc như thế nào?” ° Tháng 02/1939: “Thư gửi đến Trung Quốc” ° Tháng 03/1939: “Thư gửi đến Trung Quốc” ° Tháng 04/1939: “Chủ nghĩa anh hùng trong kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc” và “Thư gửi đến Trung Quốc” ° Tháng 06/1939: “Thư gửi đến Trung Quốc”, trong đó có bài “Người Nhật muốn khai thác Trung Quốc như thế nào?” dài khoảng hai nghìn chữ, nội dung tự thuật và chuyên thuật, nhất định phải là người có trình độ Nhật văn khá mới có thể viết được. ° Tháng 11 đến tháng 12/1940, HCM thường xuyên viết cho tờ Cứu vong nhật báo Quảng Tây với bút danh Bình Sơn, đăng tải 11 bài chuyên đề bằng Trung văn. Tiêu đề các bài như sau:

- “Thiên thượng cố muội” (Tác giả tự dịch ra tiếng Việt là “Ông trời có mắt”, 24/11/1940);
- “Ác tác kịch của La Tư Phúc tiên sinh” (It started with a kiss of Mrs Roosevelt, 27/11/1940);
- “Lưỡng cá Phàm Nhĩ Tái chính phủ” (Hai chính phủ Versailles, 29/11/1940);
- “Vu khống”(01/12/1940);
- “Báo chí Trung Quốc và nhân dân Việt Nam” (02/12/1940);
- “Ca dao Việt Nam với phong trào kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc” (04/12/1940);
- “Ngư mục hỗn châu” (05/12/1940);
- “Bàn về huyết thống” (08/12/1940);
- “Nghĩa Đại Lợi (Ytalia) thực bất đại lợi” (16/12/1940);
- “Quân phục quốc Việt Nam trở thành quân bán nước Việt Nam” (18/12/1940);

Tổng cộng 11 thiên chuyên đề. Sau khi nghiên cứu các bài viết này, tác giả thấy, chẳng những khả năng bình luận những vấn đề thời cuộc sắc sảo mà bút pháp của HCM còn vô cùng sinh động, câu văn trôi chảy, giầu hình ảnh, không thể do một người ngoại quốc viết mà phải là tác giả Trung Hoa, hiểu biết sâu sắc về văn hóa Nhật Bản.

2 – Sáng tác thơ, phú ngẫu hứng
贈陳賡將軍詩抄 (一)

攜杖登高觀陣地,
萬重山擁萬重雲
義兵壯志吞牛斗,
誓滅豺狼侵掠軍

Tặng tướng quân Trần Canh thi sao (1)

Huề trượng đăng cao quan trận địa
Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân
Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thệ diệt sài lang xâm lược quân.

Dịch:

Tặng tướng quân Trần Canh (1)

Chống gậy lên non xem trận địa
Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy.

贈陳賡將軍詩抄 (二)

香檳美酒夜光杯,
欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑,
敵人休放一人回

Tặng tướng quân Trần Canh thi sao(2)

Hương tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch nhân hưu phóng nhất nhân hồi.

Dịch:

Tặng tướng quân Trần Canh (2)

Rượu ngọt sâm banh lấp lánh ly
Muốn uống, tỳ bà thúc ngựa phi
Đừng cười say nghỉ nơi trận mạc
Không tha quân địch một tên về.

贈韋國清將軍詩抄

百里尋君未遇君,
馬蹄踏碎領頭雲
歸來偶過山梅樹,
每朵黃花一點春

Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân thi sao

Bách ký tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề đạp toái lãnh đầu vân,
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân.

Dịch nghĩa:
Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân
Trăm dặm đi tìm ông mà chưa gặp ông,
Vó ngựa xéo nát đám mây đầu núi,
Trở về, bỗng đi qua cây mai già trên núi,
Mỗi đóa hoa vàng điểm một nét xuân.

遊長城即興賦詩
聽說長城萬里長,
頭連東海尾西疆
幾千百萬勞動者,
建築斯城鎮一方

Du Trường Thành tức hứng phú thi
Thính thuyết Trường Thành vạn lý trường,
Đầu liên Đông Hải vĩ Tây Cương,
Kỷ thiên bách vạn lao động giả,
Kiến trúc tư thành trấn nhất phương
Dịch nghĩa:
Chơi Vạn Lý Trường Thành ngẫu hứng làm thơ
Nghe nói Trường Thành dài vạn dặm,
Đầu liền với Đông Hải, cuối đến tận biên giới phía tây,
Hàng trăm ngàn vạn người lao động
Đắp nên thành này để trấn giữ một phương.


遊太湖即興賦詩
西湖不比太湖美,
太湖更比西湖寬
魚舟來去朝陽暖,
桑稻滿田花滿山

Du Thái Hồ tức hứng phú thi
Tây Hồ bất tỉ Thái Hồ mỹ,
Thái Hồ cánh tỉ Tây Hồ khoan,
Ngư chu lai khứ triêu dương noãn,
Tang đạo mãn điền hoa mãn sơn.

Dịch nghĩa:
Chơi Thái Hồ ngẫu hứng làm thơ
Tây Hồ không đẹp bằng Thái Hồ,
Thái Hồ rộng hơn Tây Hồ,
Thuyền đánh cá qua lại trong nắng sớm ấm áp,
Dâu lúa đầy ruộng, hoa nở đầy núi.

遊漓江即興賦詩
桂林風景甲天下,
如詩中畫,畫中詩
山中樵夫唱,
江上客船歸。奇!

Du Ly Giang tức hứng phú thi
Quế Lâm phong cảnh giáp thiên hạ,
Như thi trung họa, họa trung thi.
Sơn trung tiều phu xướng,
Giang thượn khách thuyền quy.
Kỳ!

Dịch nghĩa:

Chơi Ly Giang ngẫu hứng làm phú
Phong cảnh Quế Lâm đẹp nhất thiên hạ,
Như thơ trong họa, như họa trong thơ.
Trong núi tiều phu hát,
Trên sồng thuyền khách về.
Lạ kỳ!
3 – Thơ cổ và điển tích

HCM là người rất thuộc thơ chữ Hán và các điển cố Hán học nên thường tùy miệng xuất ngôn dẫn dụng tặng bạn bè Trung Quốc hoặc khuyến khích, động viên nhân dân trong nước mỗi khi ông viếng thăm một vùng nào đó. Hai ví dụ dưới đây có thể chứng minh, nếu không dày công học tập, tu dưỡng nền văn hóa Hán thì khó có thể tùy miệng dọc ngay được những bài thơ, bài từ như thế:

♦ Lỗ Tấn và bài thơ “Tự trào”
自嘲(魯迅)
橫眉冷對千夫指,
府首甘為孺子牛
躲進小樓成一統,
管他冬夏與春秋

Tự trào (Lỗ Tấn) Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ,
Phủ thủ cam vi nhụ tử ngưu.
Đoá tiến tiểu lâu thành nhất thống,
Quản tha đông hạ dữ xuân thu.

Tự giễu mình (Lỗ Tấn)
Mắt trừng đối mặt phường hung bạo
Cổ cúi làm trâu đám tí nhau
Nấp chốn lầu con thành nhất thống
Kể gì Đông, Hạ với Xuân, Thu.

Hoàng Trung Thông dịch
Tháng 10 năm 1945, Hà Nội, Việt Nam vừa xây dựng xong chính quyền cách mạng, HCM dẫn hai câu đầu trong bài thơ “Tự trào” của văn hào Lỗ Tấn: “Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ, Phủ thủ cam vi nhụ tử ngưu” đê khuyến khích quân đội, xác định thái độ , nguyện vì nhân dân phục vụ.

♦ Vương Xương Linh và bài thơ “Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm”
芙蓉樓送辛漸(王昌齡)
寒雨連江夜入吳,
平明送客楚山孤
洛陽親友如相問,
一片冰心在玉壺

Phù Dung lâu tống Tân Tiệm (Vương Xương Linh)
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô,
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Dịch nghĩa:
Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm (Vương Xương Linh)
Mưa lạnh rơi khắp mặt sông trong đêm vào đất Ngô.
Khi trời sáng tiễn khách chỉ có ngọn núi đất Sở trơ trọi.
Nếu như bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm,
(Thì xin đáp rằng lòng tôi đã thành) một mảnh lòng băng giá trong bầu ngọc rồi.
Ngày 10/10/1962, HCM đặt tiệc tại Hà Nội tiễn Bành Chân, Trưởng Đoàn đại biểu Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Trong tiệc, HCM tùy miệng đọc diễn cảm hai câu thơ: “北京親友如相問,
一片冰心在玉壺”
(Bắc Kinh thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ).
Đồng thời, nhờ Bành Chân chuyển lời thăm hỏi đến các đồng chí Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức.

4 – Múa bút viết thư pháp Đại khải và Tiểu khải

Mùa thu năm 1938, thời kỳ HCM làm việc ở Quế Lâm đã để lại không ít bức thư pháp. Lúc ấy, ông còn kiêm luôn cả công việc biên tập tờ “Sinh hoạt tiểu báo” (có lẽ là báo tường – ND). Bản thảo đều dùng bút lông tự viết trên giấy báo, sau đó đóng thành sách, trang bìa viết chữ Đại khải.

Năm 1959, HCM đến Lư Sơn, Giang Tây, nhà Khách đặc biệt mời ghi lưu niệm, vì bút lông quá nhỏ, ông bèn lấy ngón tay nhúng mực viết lên giấy Tuyên ba chữ lớn: “盧山好” (Lư Sơn hảo), sau đó dùng bút tiểu khải viết dòng lạc khoản “Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 1959”.

Trung tuần tháng 5 năm 1961, HCM đến Ly Giang, (Quế Lâm, Quảng Tây). Theo đề nghị của khách sạn Dung Hồ, ông ngẫu hứng cầm bút viết bài phú tả cảnh Ly giang vào tờ giấy Tuyên khổ rộng trải trên chiếc sạp lớn:


桂林風景甲天下,
如詩中畫,畫中詩
山中樵夫唱,
江上客船歸。奇!

Phong cảnh Quế Lâm đẹp nhất thiên hạ,
Như thơ trong họa, như họa trong thơ.
Trong núi tiều phu hát,
Trên sồng thuyền khách về.
Lạ kỳ!
Tại nhà khách Dương Sóc, HCM dùng bút đại tự viết 5 chữ lớn: “陽朔風景好” (Dương Sóc phong cảnh hảo) thành bức tranh chữ rồi rồi đề lạc khoản phia dưới góc trái bằng bút tiểu khải “ Hồ Chí Minh, 15 tháng 5 năm 1961”. Tác phẩm này đến nay vẫn còn lưu giữ trong nhà khách Dương Sóc.

Ngôn ngữ thơ HCM đều biểu đạt tình cảm chân thành, thường tương ứng với hoàn cảnh mà mình đã trải qua bằng ngôn ngữ mẹ đẻ một cách thuần thục, sinh động. Như vậy, trong số không ít các bài thơ, nhất là Nhật ký trong tù và thơ ngẫu hứng, rồi đến các bức thư họa mà HCM sáng tác trong quá trình hoạt động cách mạng, xét về logic, không thể là tác phẩm của một người nước ngoài, chỉ được tiếp cận với nền văn hóa Hán vài năm tiểu học. Lại nữa, từ trước năm 1933, hầu như NAQ không để lại bất kỳ bài viết bằng Trung văn nào, vậy mà sau năm 1933, HCM lại có một khối lượng lớn các tác phẩm Trung văn, bao gồm cả chuyên luận, tạp văn, thông tấn, thơ, từ và thư pháp. Từ đó suy ra, NAQ và HCM chắc chắn phải là hai người khác nhau.

Di chúc của Hồ Chí Minh lúc lâm chung









Căn cứ vào lời kể của Vũ Kỳ, thư ký riêng của HCM, qua bài “Hồ Chủ tịch 5 năm viết Di chúc” như sau:“Đến đúng 9h sáng 10/5/1965, Người đặt bút viết dòng đầu tiên, đó là câu: “Tài liệu tuyệt đối bí mật”.

Hồ Chủ tịch làm việc trong 10 ngày liền, mỗi ngày đúng 1 tiếng vào thời gian con người minh mẫn, sảng khoái nhất, đó là từ 9h đến 10h sáng. Khi viết, Người không tiếp bất cứ ai. Cứ viết đến 10h thì Người lại bỏ tài liệu vào một bì thư đưa ông Kỳ cất giữ hôm sau lấy ra. Sau 4 ngày, Người bắt đầu đánh máy và đến 16h thì hoàn thành. Bản di chúc dài ba trang ở cuối đề ngày 15/5/1965. Hồ Chủ tịch ký và bên cạnh có chữ ký của ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp Hành Trung ương Đảng hồi bấy giờ. Đọc, sửa đến ngày 20/5, Người lại bỏ vào bì thư cất đi.

Đúng một năm sau, Hồ Chủ tịch lại lấy “tài liệu tuyệt đối bí mật” ra và viết tiếp, mỗi ngày một tiếng từ 9h đến 10h. Nhưng năm ấy Người hầu như chỉ đọc và ngẫm nghĩ. Mấy ngày sau, Người viết thêm câu: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” trong đoạn nói về Đảng.

Năm 1967, Hồ Chủ tịch không sửa gì nhiều bản di chúc, nhưng đến năm 1968 thì Người sửa rất nhiều. Phần mở đầu Người viết năm 1965 là: “Năm nay tôi đã 75 tuổi. Tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khoẻ mạnh”. Nhưng sau Người lại sửa: “Năm nay tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người trung thọ. Tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây”. Và viết tiếp: “Người ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khoẻ càng thấp. Đó là một điều bình thường”.

Sau đó Hồ Chủ tịch viết thêm đoạn “Về việc riêng” có ý mới là sau khi hỏa táng sẽ lấy tro xương của Người để vào ba hộp sành cho mỗi miền Bắc, Trung, Nam. Người viết thêm về những công việc cần làm sau khi giải phóng miền Nam. Đó là chỉnh đốn Đảng, chăm sóc đời sống các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm... Những đoạn về chỉnh đốn Đảng, chăm sóc thương binh, Hồ Chủ tịch viết rồi lại gạch chéo. Rất nhiều đoạn vòng xuống vòng lên, mực xanh lẫn mực đỏ.

Năm 1969, Hồ Chủ tịch viết di chúc lần cuối cùng vào tháng 5. Ngày 10/5, Người viết lại đoạn mở đầu, gồm một trang viết tay vào mặt sau của tờ “Tin tham khảo đặc biệt”. Đó cũng là lần duy nhất Người viết quá 10 giờ sáng”.

HCM phải mất 5 năm mới viết xong “Di chúc”, không thể nói là không thận trọng. Đúng như Vũ Kỳ kể: Tại bản viết năm 1965 ông có nói đến “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Chỉ trong đoạn ngắn này mà HCM đã đặc biệt nhấn mạnh vào các cụm từ “đạo đức cách mạng”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, “là người đầy tớ trung thành của nhân dân” đều mang hàm ý “chân chính”, hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên.

Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh viết văn hoặc nói chuyện đều hết sức tránh dùng từ ngữ rườm rà, nhưng ở đây lại có khá nhiều từ mang nội dung “đạo đức cách mạng”, và sự “chân chính” của cán bộ đảng viên, hẳn là có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Vũ Kỳ từng viết: “Ngày 15 tháng 2 năm 1965, Hồ Chủ tịch về thăm Côn Sơn, buổi trưa, nghỉ lại Côn Sơn, thăm đền thờ Nguyễn Trãi và đọc tấm bia cổ. Ở vào thời kỳ chuyển tiếp của lịch sử, HCM về thăm Cô Sơn viếng Nguyễn Trãi, liệu có phải là sự ngẫu nhiên? Cả hai người đều là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, là bậc vĩ nhân, là nhà thơ lớn, đồng thời cùng có niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh to lớn của nhân dân, cùng có khát vọng đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy cách nhau 5 thế kỷ (1380 – 1890), vậy mà, dường như có sự tương hợp kỳ diệu, như là từ lâu đã có ước định hội ngộ lịch sử”. Vũ Kỳ mượn Nguyễn Trãi và HCM mục đích là để nhấn mạnh phẩm chất “cần chính”, “ái dân” của hai bậc vĩ nhân, nhằm ngầm khuyến cáo Đảng phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Từ đó có thể suy ra, lời Vũ Kỳ chính là lời HCM trong “Di chúc” mà ông đã dành hẳn 5 năm cuối đời để viết. Có thể nói, từng câu từng chữ đều vô cùng cẩn trọng (“句句推敲,字琢蘑”: cú cú thôi xao, tự tự trác ma).

Nội dung “Di chúc” của Hồ Chí Minh

“Di chúc Hồ Chí Minh”, qua 5 năm soạn thảo, sửa chữa và bổ sung, đến ngày 10 tháng 5 năm 1969 mới hoàn chỉnh. Bản “Di chúc” này được xem là bản chính thức, công bố lần đầu tiên. Nội dung có thể quy nạp vào mấy điểm sau đây:

1 – Chú trọng đến Chủ nghĩa Quốc gia và Chủ nghĩa xã hội.

2 – Nhấn mạnh chỉnh đốn Đảng, tăng cường đoàn kết nội bộ và tu dưỡng đạo đức cách mạng.

3- Chú trọng nâng cao đời sống nhân dân cùng với việc tạo địa vị bình đẳng xã hội cho phụ nữ.

Dưới đây là toàn văn “Di chúc Hồ Chí Minh” được sao lục từ bản Hán văn, Nhà xuất bản Ngoại Văn Hà Nội, năm 1971, trong cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội”, trang 320–323 (đã được người dịch chuyển trở lại bằng tiếng Việt):







Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(Công bố nǎm 1969)

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn.

Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thǎm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.

Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng "Nhân sinh thất thập cổ lai hy", nghĩa là "Người thọ 70, xưa nay hiếm".

Nǎm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người "xưa nay hiếm" nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài nǎm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?

Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.

TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.

NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.

Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!

Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.

VỀ PHONG TRÀO CỘNG SẢN THẾ GIỚI - là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!

Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.

Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.

VỀ VIỆC RIÊNG - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.

Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.

Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.

Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.

Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Hà nội, ngày 10 tháng 5 nǎm 1969
Hồ Chí Minh
“Di chúc Hồ Chí Minh” có nhiều bản, trừ bản đầu tiên Vũ Kỳ giới thiệu trong bài “Hồ Chủ tịch 5 năm viết di chúc” ra, Nhà xuất bản Thanh Niên, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia cũng lần lượt cho ra đời các “Bản cảo” gốc “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Tại nhà kỷ niệm HCM ở Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc, trong tủ kính trưng bày hiện vật cũng có bản “Di chúc” ngày 5 tháng 10 năm 1969 được dịch sang tiếng Trung do Nhà xuất bản Ngoại Văn Hà Nội ấn hành.

Những nghi vấn về “Di chúc Hồ Chí Minh”

Về “Di chúc Hồ Chí Minh”, giáo sư William J. Duiker có nghi ngờ mấy điểm sau đây:

1 – Cắt bỏ nội dung “Di chúc” có liên quan đến việc xử lý thi thể sau khi chết.

2 – Bản “Di chúc” công bố năm 1969, cắt bớt phần HCM đề nghị miễn một năm thuế nông nghiệp cho nông dân.

3 – Dự đoán với đồng bào về cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài thêm mấy năm.

Về việc xử lý di thể đã bị cắt bỏ so nội dung với bản gốc, căn cứ vào lời vị Đại sứ tiền nhiệm của Trung Quốc tại Việt Nam Lý Gia Trung trong bài: “Nói chuyện về việc sinh hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh” như sau:

“Sau khi tôi qua đời chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.

Tôi yêu cầu, thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng, cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống là tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện thì “điện táng” càng tốt hơn.

Tro thì chia thành ba phần, cho vào ba cái hộp sành, một cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam.

Đồng bào mỗi miền, nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá, tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.

Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc chăm sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão”.

Cái điều mà tôi nghi ngờ, không phải ở chỗ “Di chúc” bị cắt bỏ mà là ở chố có vẻ như nội dung của nó đã bị thay đổi. Mở đầu “Di chúc” viết: “Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng Trung Quốc thời nhà Đường, có câu rằng: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”.

Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.

(“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là”Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”). Cứ theo logic ngữ nghĩa của đoạn văn này mà xét, tôi phát hiện thấy dấu vết còn lại khá rõ của câu “Năm nay tôi vừa 69 tuổi” bị sửa thành “Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Như vậy, có khả năng nguyên văn bản gốc đoạn “Di chúc” này như sau: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 69 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”, như thế , đọc vừa thuận miệng, vừa thuận lý mà lại tránh được sự tối nghĩa. Cứ tìm trong các bản thảo Hán văn của HCM thì thấy rất rõ, ông không bao giờ viết câu văn lủng củng, mâu thuẫn, đại loại như: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Huống chi, nội dung “Di chúc” đã phải qua 5 năm chỉnh lý, bổ sung, sửa chữa, không thể có chuyện câu trước câu sau mâu thuẫn với nhau. Từ đó, chúng tôi dự đoán, “Di chúc Hồ Chí Minh, trước tiên được khởi thảo bằng Hán văn, sau đó căn cứ vào bản Hán văn, ông mới dần dần dịch sang tiếng Việt, nên mới được liệt vào loại “văn kiện tuyệt mật” giao cho thư ký riêng Vũ Kỳ bảo quản.

Hồ Chí Minh (Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, mà Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901, chênh nhau 11 tuổi. HCM tạ thế ngày 2 tháng 9 năm 1969, tính ra thì Nguyễn Ái Quốc tròn 79 tuổi, còn Hồ Tập Chương tính cả tuổi mụ mới đủ 69. Đối chiếu với “Di chúc” (“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”), lại nói: “Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.

Nội dung đoạn “Di chúc” này, tuổi 79 căn bản không phù hợp với việc dẫn dụng thơ Đỗ Phủ: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Dấu tích của câu “Năm nay tôi vừa 69 tuổi” bị sửa thành “Năm nay tôi vừa 79 tuổi” còn rất rõ.

Những bí mật về việc bảo tồn di thể Hồ Chí Minh

Cựu Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Lý Gia Trung có bài viết: “Bí mật về việc giữ gìn di thể Hồ Chí Minh”, trong đó, ông thuật lại phương thức bảo tồn di thể liệu có phù hợp với tình trạng người đã từng mắc bệnh ho lao? Tuy không hiểu biết nhiều về y học, bệnh lý, nhưng chúng tôi cũng rất lấy làm nghi ngờ.

Lý Gia Trung kể, thời trẻ ông từng làm phiên dịch tiếng Việt trong Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội như sau:

“Về cuối đời, sức khoẻ Hồ Chí Minh không được tốt. Các vị lãnh đạo Trung Quốc rất quan tâm đến sức khoẻ HCM, nên năm 1968 đã cử một đoàn chuyên gia y tế cao cấp sang Việt Nam. Lúc ấy, tôi cũng được đi theo đồng chí Tham tán đến sân bay đón tổ chuyên gia này. Các bác sĩ luôn luôn túc trực bên cạnh HCM theo dõi sức khoẻ của Người.

Hạ tuần tháng 8 năm 1969, HCM lúc ấy 79 tuổi, bị bệnh nặng. Cho dù tổ chuyên gia y tế đã hết lòng cứu chữa, nhưng Thủ tướng Chu Ân Lai vẫn không yên tâm, nên ngày 24 và 26 tháng 8 lại cử tiếp tổ thứ hai và thứ ba sang Hà Nội. Ngày 31 tháng 8, Chu Tổng lý cử Viện trưởng Viện Y học nổi tiếng là Giáo sư Y khoa Ngô Giai Bình đi chuyên cơ mang biệt dược sang Hà Nội và chẩn đoán bệnh tình cho HCM. Ngày 1 tháng 9, Chu Ân Lai đích thân nghe Giáo sư Ngô báo cáo, đồng thời triệu tập ngay các giáo sư y khoa đầu ngành thảo luận trong 5 giờ liền, cuối cùng đi đến quyết định, để ông Ngô Giai Bình dẫn đầu tổ chuyên gia thứ tư cùng với các thiết bị y tế và thuốc men, sáng sớm ngày 2 tháng 9 lên máy bay sang Hà Nội cấp cứu. Thật đáng tiếc, tổ chuyên gia thứ tư mới bay đến vùng trời Quảng Tây thì nhận được tin HCM đã ngừng thở vào lúc 9 giờ 47 phút. Kết quả, chiếc chuyên cơ đành quay trở về Bắc Kinh”. Tác giả kể tiếp: “Ngày 2 tháng 9 là Quốc khánh Việt Nam. Cân nhắc kỹ, thấy đây là thời điểm có liên quan đến sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Chính phủ Việt Nam đề phòng trong nước có biến động, nên đã quyết định chuyển ngày mất của HCM sang mồng 3 tháng 9, đồng thời ấn định ngày mồng 9 tháng 9 sẽ cử hành Quốc tang”.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng LĐVN ra thông cáo đặc biệt: “Chủ tịch Hồ Chí Minh mắc bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần vào lúc 9 giờ 47 phút ngày mồng 3 tháng 9 năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi”.

Sau khi HCM mất hai tháng, Trung ương Đảng LĐVN họp vào ngày 29/11/1969, ra công bố quyết định giữ gìn di thể của người. Thực ra, trước đó một năm, xét thấy sức khoẻ HCM mỗi ngày một suy giảm, Ban lãnh đạo Việt Nam đã bàn đến vấn đề làm thế nào để bảo quản được di thể trong tương lai. Tuy nhiên VN lúc ấy tình trạng kinh tế vô cùng khó khăn, khoa học kỹ thuật lạc hậu, lại đang bận kháng chiến chống Mỹ, không thể có khả năng giải quyết được vấn đề kỹ thuật ướp xác cao như thế. Vì vậy, ngày 14 tháng 9 năm 1967, bí mật cử một nhóm cán bộ kỹ thuật đặc biệt sang Liên Xô. Tại Viện nghiên cứu Lăng Lenin ở Mạc Tư Khoa, dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của các chuyên gia, nhóm kỹ thuật viên VN, sau 7 tháng bồi dưỡng nghiệp vụ, đã nắm vững được kỹ thuật bảo quản di thể sau khi con người tắt thở từ 15 đến 20 giờ, còn trình tự các bước tiến hành như thế nào, đến lúc ấy, các chuyên gia Liên Xô sẽ bay sang Hà Nội tiếp tục xử lý.

Sau khi rời Liên Xô về nước, căn cứ vào đặc điểm khí hậu, thời tiết, tổ kỹ thuật VN đem những kiến thức chuyên môn đã học được vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể trong nước. Tháng 6 năm 1968, VN chính thức bí mật thành lập nhóm kỹ thuật đặc biệt. Nhiệm vụ của nhóm là thâm nhập, nghiên cứu như thế nào để bảo quản được di thể trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Thời gian ấy, các nhà lãnh đạo VN chỉ thị, nếu như Chủ tịch HCM qua đời mà lăng mộ còn chưa được xây dựng thì nhiệm vụ của nhóm kỹ thuật đặc biệt này là bảo quản di thể của ông tại một địa phương. Trong thời gian này, họ phải tuyệt đôi tuân thủ những tiêu chuẩn kỹ thuật như sau: Nhất định phải giữ di thể ở nhiệt độ 16o C, chênh lệch không quá 0,2oC, độ ẩm ổn định 75%. Lúc ấy, các nhà lãnh đạo Liên Xô nêu ý kiến là, sẽ có trách nhiệm bảo quản lâu dài di thể HCM, chỉ mong phía VN tuyệt đối tin tưởng phối hợp với các chuyên gia Liên Xô, khắc phục những đặc điểm hoàn cảnh, nhất định sẽ nắm vững kỹ thuật do các chuyên gia truyền thụ, để tự mình sẽ bảo quản di thể lãnh tụ HCM một cách tôt nhất.

Thời gian HCM lâm trọng bệnh, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã cử Do Tiệp Bột Phu (由捷勃夫) (LTS: Denisov Nikolsky), cầm đầu nhóm chuyên gia y tế kịp thời đến Hà Nội. Sau khi HCM qua đời, phía VN lập tức chuyển giao thi thể của ông cho các chuyên gia. Xét thấy VN đang trong hoàn cảnh chiến tranh, các chuyên gia Liên Xô kiến nghị, đưa di thể HCM sang Mạc Tư Khoa tiến hành xử lý để tránh bị phân hủy, nhưng các nhà lãnh đạo VN không đồng ý phương án này. Vì thế, Liên Xô phải đem máy móc, thiết bị bằng đường hàng không sang VN. Lại vì để tránh máy bay Mỹ oanh tạc, VN lúc đầu chọn một nơi cách Hà Nội 30 km, thuộc vùng rừng nhiệt đới rậm rạp, tạm thời xây một hầm mộ rồi đưa quan tài thủy tinh của HCM xuống đó. Không lâu sau lại phát hiện cách nơi ấy chừng 2 km có biệt kích Mỹ nhảy dù tìm phi hành đoàn do bị không quân Việt Nam bắn hạ nên đành phải chuyển quan tài vào một hang động. Vì vậy phải gấp rút làm một nhánh đường núi. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, mỗi khi mở xong một đoạn, xe bọc thép chở quan tài thủy tinh vừa đi qua, lập tức có bộ phận phá hủy rồi ngụy trang. Cứ như vậy, di thể HCM được bảo quản bí mật trong hang động cho đến ngày chiến tranh VN kết thúc. Ngày 29 tháng 8 năm 1975, lăng Chủ tịch HCM hoàn thành. Quan tài thủy tinh chính thức được đưa vào.

Đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, Liên bang Xô viết giải thể, do tình hình đất nước hỗn loạn, không còn khả năng cử chuyên gia sang Hà Nội chỉ đạo việc duy trì bảo tồn di thể HCM. Đối mặt với tình huống này, các cán bộ, kỹ sư VN khắc phục bằng cách trực tiếp sang nước Nga liên hệ với chuyên gia, nhờ họ hướng dẫn nghiệp vụ.

Đến nay, VN đã đào tạo được một đội ngũ chuyên gia giỏi, chẳng những nắm chắc kỹ thuật chuyên ngành ướp xác mà còn đạt đến trình độ cao. Có thể nói, đã có đầy đủ kinh nghiệm, bản lĩnh để đảm nhiệm một cách xuất sắc việc giữ gìn lâu dài di thể lãnh tụ HCM.

Vì muốn giữ gìn di hài HCM thật tốt, các chuyên gia VN đã dồn hết sức lực và tâm huyết trong công đoạn cũng không kém phần quan trọng, đó là chỉnh trang dung mạo di hài. Mỗi sợ tóc, mỗi sợi râu đều được chú ý giữ gìn. Khi tiêm dưới da, mỗi mũi kim luôn được tính toán chính xác để đạt hiệu quả tốt nhất.

Hiện tại, Lăng Chủ tịch HCM trang nghiêm tọa lạc tại góc tây bắc Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Lăng cao 21,6 m, toàn bộ được xây bằng đá hoa cương (cẩm thạch đen). Trước cửa chính, suốt ngày đêm luôn có hai cảnh vệ đứng gác. Thời kỳ tôi còn công tác tại Việt Nam, đã nhiều lần được vào lăng viếng Chủ tịch HCM. Đi đến cửa chính, bạn sẽ nhìn thấy trên tường hành lang khảm câu danh ngôn bằng vàng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của HCM. Từ từ bước lên 33 bậc thềm, tiến vào đại sảnh, sẽ thấy di thể HCM nằm trong quan tài thủy tinh mặc bộ quần áo ka ki kiểu Tôn Trung Sơn màu vàng nhạt, hai tay dặt trước bụng. Một đôi dép cao su – dép kháng chiến, đặt bên chân. Chung quanh quan tài thủy tinh thường xuyên có 4 chiến sĩ đứng nghiêm túc trực. Dưới ánh đèn êm dịu, gương mặt HCM hồng hào, phong thái an nhiên với chòm râu bạc, có thể thấy như Người đang ngủ.

HCM sau 60 năm trường hoạt động cách mạng, một lòng một dạ vì Tổ quốc và nhân dân, chết mà như còn sống mãi. Trong tâm trí và tình cảm của nhân dân VN, HCM là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, là niềm kiêu hãnh của dân tộc. HCM ra đi đã 30 năm. Mối ngày có hàng ngàn vạn lượt người đến viếng. Khoảng 10 năm gần đây, các thành viên của bộ phận kỹ thuật đặc biệt chăm sóc di hài Chủ tịch HCM, vẫn âm thầm làm việc cần cù, nguyện làm người anh hùng sau hậu trường. Họ đã đem hết tài trí và tâm huyết giữ gìn di thể lãnh tụ HCM một cách xuất sắc”.

(Hết Thiên V)
© Thông Luận 2011





 

Trích dịch Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo

(tác giả Hồ Tuấn Hùng)
 

Dec 28, '08 7:57 AM
Blacky & nhi
Phần một: Vỡ tuồng trộm long tráo phượng
Chương một (từ trang 22-37)
Sự thật về cái chết của Hồ Chí Minh
Thân phận bí ẩn của Hồ Chí Minh
 
Để xác định về thân phận của Hồ Chí Minh là người Việt Nam Nguyễn Ái Quốc hay là Hồ Tập Chương người Đài Loan, mấu chốt quan trọng nhất trong việc này là có phải Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932 không? Và người tiếp tục Nguyễn Ái Quốc có phải là Hồ Tập Chương không?
Những nhà văn (sử gia) viết tiểu sử nghiên cứu về Hồ Chí Minh, tuy đối với những (sách vở) ghi chép về cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc sau năm 1932 rất ư ngờ vực, thậm chí nảy sinh hoài nghi về thân phận của ông. Song dù có nghi ngờ đến đâu đi nữa (các sử gia này) vẫn không có cách nào tiến thêm bước nữa trong việc xác thực cái chết của Nguyễn Ái Quốc, địa điểm chôn cất, mà ngay cả bối cảnh thân phận của Hồ Tập Chương người tiếp tục thay thế Nguyễn Ái Quốc ra sao đều mù mịt không biết. Do đó những học giả chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh cuối cùng chỉ đành chọn dùng những tư liệu của chính phủ Việt Nam như "Cuộc đời Hồ Chí Minh" (tựa tiếng Trung: HCM truyện, eng: HCM- a life) hay "Những tài liệu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh" ..v..v... để hợp lí hóa rằng Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Bởi thế, càng truyền càng sai làm cho thân phận thực sự của Hồ Chí Minh và câu chuyện về cuộc đời của ông thật giả khó phân, để lại cho người đời quá nhiều điều bí ẩn và nghi hoặc.
Khi đã kiểm nghiệm sâu sát tận tường những ghi chép về cuộc đời Hồ Chí Minh từ 1933 đến 1945 thì có không ít chứng cứ nghịch lý với những sự thật đã xảy ra và (nhiều chứng cứ cho thấy) sự thật lịch sử về Hồ Chí Minh đã bị cắt xén bóp méo. Ví dụ như là (1) vào năm 1933, người từ Hạ Môn (Xiamen) đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa không hề phải là Nguyễn Ái Quốc mà là một người khác. (2) Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh mỗi người có những chuyện tình và hôn nhân khác nhau. (3) Tác phẩm Nhật ký trong tù không phải của Nguyễn Ái Quốc viết. ... tất cả đều rõ ràng dễ thấy, lại còn có nhiều Nguyễn Ái Quốc bị coi như là Hồ Chí Minh, sự thật được dẫn chứng không hề mâu thuẫn đủ để cho thấy Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc. Hai người vốn không là một. Do đó chứng thực Nguyễn Ái Quốc đã thật sự chết vào năm 1932. Đã chết rồi mà sống lại là do có người cố ý âm mưu bày trò "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây" (lật lờ đánh lận con đen).

Nguyễn Ái Quốc đã chết thật hay chết giả?
Nguyễn Ái Quốc có bệnh phổi lâu năm, vào tháng 6 năm 1931 bị cảnh sát HongKong bắt và chuyển đến bệnh viện của nhà tù để điều trị. Đầu năm 1932 có tin đồn bị mất tích tung ra từ Hồng Kông, khoảng tháng 7 tháng 8 giới truyền thông báo chí đưa tin bị chết vì bệnh ho lao. Những tin này rất phổ biến mà mọi người vào năm đó đều biết. Báo chí thời bấy giờ của Hồng Kông, Anh Quốc, Pháp và Nga Sô đều tung tin sau khi Nguyễn Ái Quốc từ Singapore trở lại Hồng Kông không rõ nguyên nhân vì đâu mất tích rồi sau bệnh chết. Sinh viên Việt Nam ở Đại học Đông Phương Mạc Tư Khoa (Moscow) còn đặc biệt làm lễ truy điệu và tang lễ cho ông và đảng CS quốc tế phái cả người đến chia buồn. Trong tài liệu hồ sơ của NAQ năm 1933 của Cảnh sát an ninh Pháp cũng ghi rõ ràng NAQ bệnh chết đến nỗi 10 năm sau tình báo viên của Pháp báo cáo với chính phủ thực dân rằng Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở biên giới Trung-Việt. Chính phủ trả lời: "Vô lí, cái thằng điên đưa tin bậy bạ, đầu thập niên 30 (1930) NAQ đã chết ở Hồng Kông rồi!"
Những tài liệu nguyên thuỷ về sự việc trên vẫn còn rành rành trước mắt và đều được báo chí thời đó ghi chép, là tư liệu lịch sử đầu tiên nắm giữ sự thật mà mọi người lúc ấy đều không nghi ngờ gì nữa. Trong vòng mười năm đó (1932-1941) Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn mất tích, không có một dấu vết gì trên "sân khấu lịch sử". Trong mười năm đó tất cả ghi chép về bất kỳ hoạt động nào của Nguyễn AQ đều là của một HCM tự xưng là Nguyễn ái Quốc. mà là những tư liệu được quay lại bổ túc thêm sau này.
HCMinh sau hơn 10 năm (xuất hiện trở lại) phủ nhận mình chết vì ho lao, biện minh rằng năm ấy vì phương tiện muốn đào vong nên cố ý ngụy tạo tin đã bệnh chết. Những cấp cao của đảng CS quốc tế, Trung Cộng và Việt Cộng một mặt toàn lực che đậy những hoạt động của HCM (Hồ tập chương) từ năm 1929 đến 1933, một mặt không ngừng truyền tin giả rằng HCM tức là Nguyến Ái Quốc để làm NAQ sống lại trên sân khấu lịch sử. Ví dụ vào năm 1933 vì để tạo ấn tượng giả rằng NAQ vẫn còn sống mà tung tin NAQ cùng với người bạn Pháp Paul Vaillant Couturier gặp gỡ nhau tại Thượng Hải với ý đồ muốn người đời tin là NAQ vào năm 1933 vẫn hoạt động ở Thượng Hải diễn thành màn "chuyển hoa ghép cây". Muời năm sau khi NAQ bệnh chết, ngày 6 tháng 6 năm 1941 Hồ Chí Minh lần đầu tiên xuất hiện công khai với tên NAQ phát biểu thư hiệu triệu toàn quốc đồng bào, kêu gọi nhân dân VN đứng lên cách mạng làm tròn nhiệm vụ xây dựng độc lập cho đất nước. Từ đó, NAQ vốn im lặng trong mười năm trường, đã bị thế nhân quên rồi trong ý thức chợt hồi sinh và xuất hiện trở lại trên sân khấu lịch sử. Và rồi HCM đem chuyện đời của mình những ngày tháng "chuyển hoa ghép cây" sau khi NAQ đã chết ngụy biện rằng: "Mùa xuân năm 1932 sau khi mất tích ở HongKong, trốn đến Hạ Môn dưỡng bịnh nửa năm. Đầu năm 1933 từ Hạ Môn đến Thượng Hải, cùng năm ấy mùa xuân từ Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa." Từ ấy, ve sầu thoát xác tạo nên một HCM - tức là nhân sinh mới của NAQ.
Như cả đến sự thật NAQ bệnh chết, đã bị lịch sử giải thích là vì muốn tránh sự truy lùng của (cảnh sát) đặc vụ Pháp nên cố ý đưa tin giả. (Để rồi) cuối cùng dưới sự tuyên bố của cấp cao đảng CS quốc tế làm củng cố thêm hình ảnh"HCM tức là NAQ", đảng CS Trung Quốc và đảng CS Việt Nam đã tạo dựng thành công màn "NAQ chết đi sống lại" do đảng CS quốc tế đạo diễn. NAQ có thật sự chết vì bệnh lao không? Đảng CS Quốc tế có đạo diễn màn "chết đi sống lại" không? Xin mời mọi người cùng nhìn lại lịch sử năm xưa, nghe chứng cớ lịch sử phân trần để trả chân tướng lại cho lịch sử.

Tài liệu văn kiện Nguyễn Ái Quốc chết vì bịnh lao.
Thẩm phán Sophie Quinn có viết trong tác phẩm ‘HCM - những năm tháng mất tích 1919-1941’ đặc biệt trong chương 6 lấy thẳng chuyện HCM "chết ở HongKong và được chôn ở Mạc tư Khoa hay sao?" làm tựa, đưa ra nghi vấn đối với "điều bí ẩn trong sự sống và chết của HCM". Nghi vấn của thẩm phán Quinn có y cứ vào những thông tin từ báo chí truyền thông thời bấy giờ không rất không thể xác định được vì chẳng hề có tư liệu bằng chứng nào cả. Song, năm ấy thật sự có những tờ báo của đảng CS quốc tế, thay nhau loan bố tin NAQ chết vì lao phổi. Như là báo Chân Lí của đảng CS quốc tế, báo Nhân Đạo của đảng CS Pháp, báo Công nhân của đảng CS Anh quốc và nhóm sinh viên VN của đại học Đông Phương ở Mạc tư khoa còn cử hành lễ truy điệu NAQ từ trần, đảng CS quốc tế phái cả đại biểu đến chia buồn.

Trang 74-75 trong sách "HCM tại TQ" của giáo sư sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính có chép:
Đầu năm 1932 Nguyễn Ái Quốc đến Singapore, lại bị chính quyền Anh bắt đưa về lại HongKong rồi từ đó mất tích, chính quyền Anh không hề nói ra tình trạng mất tích, Sau khi mất tích, báo chí khắp nơi loan bố NAQ bệnh phổi nặng và chết trong ngục. Những tờ báo này, bao gồm luôn cả báo của chính quyền Pháp Việt thực dân lúc bấy giờ, cùng với các cơ quan báo chí của các nước CS …(các tờ báo như trên) đều tuyên truyền NAQ đã bệnh chết …

Sách HCM Truyện (HCM - a Life) của giáo sư William Duiker trang 209 và 212 ghi:
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1932 CS quốc tế trong tờ Công nhân nhật báo phát hành ở London loan tin NAQ đã chết trong tù. …… (xin phép lướt qua vì là dẫn chứng từ nhiều sách, dịch đại khái vài dẫn chứng thôi)

Bí mật về cái chết vì bệnh của NAQ
Tin bệnh chết của NAQ vì sao chỉ duy có các tờ báo của CS đưa tin? Vì sao sinh viên VN ở Mạc Tư Khoa lại làm tang lễ cho NAQ (mà không phải sinh viên Vn nước nào khác)? Và vì sao chuyện cách hơn mười năm sau HCM mới giải thích "cái chết của mình là chết giả, tin giả đó được tạo nên chỉ là vì để dễ dàng trốn thoát."?
Đầu năm 1932, NAQ mất tích ở Hongkong, bí mật đến Thượng Hải để đi Mạc Tư Khoa. Dọc đường bệnh tình thêm trầm trọng hơn, vào mùa thu 1932 bệnh chết ở Mạc Tư Khoa. Năm ấy, bí mật này chỉ có đảng CS quốc tế một mình biết được cho nên chỉ có báo chí của đảng CS báo tin NAQ bệnh lao phổi mà chết. Ngay khi NAQ chết, đảng CS quốc tế còn chưa quyết định HCM sẽ thay thế thân phận NAQ nên các báo của đảng CS quốc tế mới loan tin thật "NAQ bệnh ho lao chết, sinh viên Vn du học bên Nga cử hành tang lễ và lễ truy điệu cho NAQ tại Mạc Tư Khoa."
Ban đầu cái chết của NAQ sau khi được giới truyền thông loan tin rồi cũng "hạ màn", đối với quốc tế chẳng để lại dư âm gì réo rắt. Song liên lạc viên Hồ Tập Chương của đảng CS quốc tế ở Viễn đông cục vào năm 1933 từ Thưọng Hải đến Mạc Tư Khoa. Nhân vì nhiệm vụ công tác (của HTC) với NAQ rất trùng nhau, lại đã từng tham gia trong việc trù bị thành lập đảng CSVN. Đảng CS quốc tế mới yêu cầu HTC thay thế thân phận của NAQ, tiếp tục tham dự vận động giải phóng của đảng CSVN. Hồ Tập Chương với bí danh P.C Lin từng thọ 5 năm giáo dục cải tạo của đảng CS quốc tế, có bí danh Hồ Quang, Hồ Chí Minh lại từng hoạt động giữa biên giới TQ và Việt Nam. Vì (với thân phận như) thế mới có thể phá tan được nghi vấn đối với cái chết vì bệnh của NAQ và (phá tan nghi vấn đối) với sự nhận đồng thân phận (với NAQ) của HCM.
NAQ có phải vào mùa thu năm 1932 bệnh chết vì lao phổi không cứ phân tích tình huống chính ngay lúc ấy thì hầu như có thể xác định được vậy. Y cứ hồi kí của đảng viên Việt Cộng Lí Đức Phương: "Năm 1925-1927 NAQ ở Quảng Châu 900 ngày lao lực hơn bình thường, làm việc cả ngày lẫn đêm, đem chất lên ắt nhiều như núi, từ sáng 5 giờ làm đến 2 giờ khuya. Sức khoẻ không tốt, ho rất nhiều, có khi ho ra cả máu." Năm 1930 từ tháng 7 đến tháng 9 NAQ gửi 6 lá thư cho Viễn Đông Cục kể rõ việc mình bị hành bởi cơn bệnh lao phổi. Ông đem bệnh tình diễn tả như sau: "Phổi rất khó chịu, lại ho ra máu, thân thể rất là hư nhược mệt mỏi." Cuối tháng 11 năm 1931 NAQ viết thư gửi đồng chí Lam Đức Thư trong Liên minh thanh niên cách mạng rằng: "Thân thể tôi sức khoẻ đã đến hồi đáng ngại, thường xuyên ho ra máu. Cứ thế tiếp tục tôi e phải chết trong tù mất thôi." Năm 1932 tình báo của Anh Quốc Long Paul lúc dùng thủy phi cơ giúp đỡ NAQ trốn khỏi HongKong thấy: " NAQ rất yếu, chẳng ngừng ho hen, chừng như không còn đủ sức để nói chuyện." (1) [đoạn này tác giả có ghi chú thêm là tài liệu trong cuốn nhật ký của Paul Draken có để trong sách để người đọc tham khảo]
Những gì ghi trên đây đều là kể trước lúc NAQ từ Hongkong trốn đi Thượng Hải, với bệnh tình nghiêm trọng như thế kia khi phải trải qua bao gian khổ lúc đi thuyền, lúc đi thuỷ phi cơ liệu có thể chịu đựng được không? Huống hồ gì sau khi lên bờ, đảng Quốc dân ở Thượng Hải cùng với cảnh sát ở tô giới của Anh và Pháp như cọp chăm chăm canh chừng tất cả hoạt động của đảng CS, NAQ cũng sẽ tự nhiên không dám lộ mặt đi tìm nơi cứu chữa bệnh tình, chỉ có thể cố gắng chịu đựng đến Mạc Tư Khoa. Chuyện bệnh chết ở Mạc Tư Khoa là khá có thể vậy. Vì thế, báo chí của đảng CS các nước sau khi tờ báo Chân Lí của Liên bang Sô Viết đưa tin trước tiên thì đến tờ NHân Đạo của đảng CS Pháp, tờ Công nhân của đảng CS Anh thay phiên nhau liên tiếp trong tháng 7 tháng 8 năm 1932 báo tin NAQ chết vì bệnh lao phổi và du học sinh Vn tại Nga cử hành tang lễ cho NAQ. Theo đây suy luận "NAQ bệnh chết trên đường đến Mạc Tư Khoa và được mai táng ở Mạc Tư Khoa" thì có thể xác nhận là sự thật, tuyệt chẳng phải là cái chết giả như HCM biện minh đó chỉ là cái cớ để dễ bề đào vong thì có thể dễ dàng chôn vùi chân tướng của sự thật.

Sự sai lầm trong cách biện minh của HCM về cái chết vì bệnh của mình
Cách giải thích về cái chết của HCM có trái ngược nhau không? Có lúc nói "tin chết giả được tung ra là tin đồn của đương cục thực dân Pháp phát tán. Có khi lại bảo: "Luật sư Frank Loseby cố ý đưa tin NAQ chết là muốn tung hỏa mù để NAQ dễ dàng trốn thoát." Và rồi phiên bản tiếng Việt của HCM truyện hay HCM Biên Niên Tùng Thư biện minh về cái chết của NAQ trước sau khác nhau rất khó khiến người chấp nhận đó đồng với cách giải thích của HCM. (Sách nói) rằng: "Loan truyền tin đã chết là cớ để trốn khỏi HongKong." Và (sách ghi) đặc biệt HCM nói là: "Tin chết giả được phát tán là lời đồn của thực dân Pháp ý đồ muốn làm xuống tinh thần tranh đấu của dân chúng." Đây hầu như có điểm chẳng thông. Tin NAQ chết là được bắt đầu loan truyền vào mùa thu năm 1932 mà HCM nói lúc rời HongKong đến Hạ Môn là tháng 1 năm 1933. Thời gian cách nhau gần nửa năm, thật không đúng với kinh nghiệm và lý lẽ thường tình. Theo tình huống thật mà nói, bảo chết tạo hỏa mù để dễ trốn thoát thì thời gian tung tin giả và thời gian thật sự trốn thoát phải tiến hành cùng lúc thì mới phù hợp sự thật. Đằng này thời gian cách nhau gần nửa năm trời. Và càng vô lý hơn nữa là đến những 10 năm sau mới nói mình vẫn còn sống để nói rõ (nguyên nhân) tin tức đã tung ra từ 10 năm trước. Chưa chết mà cứ nói đã chết còn làm nhọc công mọi người lo lắng làm đám tang và mở lễ truy điệu cùng lúc với tổng thư ký Trần Phú khi ấy cũng vừa mất. Cách giải thích hoang đường và tức cười như thế không hợp với lý lẽ thông thường. Những lời biện minh ấy thật như là tự lấy đá ném chân mình. Mà nguyên nhân thật sự là HCM đang sử dụng mánh khoé lừa dối "mượn xác hoàn hồn", "chuyển hoa ghép cây".

Hồ sơ ghi chép về bệnh tình của NAQ và HCM
Chủ tịch đoàn trung ương Việt Nam đặc biệt công bố: "Chủ tịch Hồ Chí Minh bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần ngày 3 tháng 9 năm 1969 lúc 9 giờ 47 phút." Đây quả thật là một điều dối trá, tin Nguyễn Ái Quốc tháng 8 năm 1932 được truyền ra chết vì lao phổi nghiêm trọng, mà Hồ Chí Minh trong 37 năm sau không hề thấy có một ghi chép nào về sự điều trị bệnh tình ho lao rồi lại chết vì bệnh tim trầm trọng. Đây là một chuyện rất ư kỳ lạ! Để tìm giải thích hợp lí hơn, mùa hạ năm 1932 NAQ xác định chết vì bệnh lao, HCM tháng 9 năm 1969 chết vì bệnh tim, (tác giả) lấy năm 1933 làm thời gian phân điểm, nhìn rõ lại và so sánh hai thời gian trước và sau đã phát hiện ra quả nhiên tình trạng sức khoẻ được ghi chép không đồng, (tác giả) đặc biệt soạn ra bệnh sử ho lao của NAQ để độc giả tham khảo.
Hồ sơ bệnh sử ho lao của NAQ. (phần này xin dịch lướt vì tác giả trích dẫn từ nhiều sách khác nhau nói về tiến trình bệnh lao của NAQ)
1. tháng 1 năm 1920, có gián điệp với bí danh Phu Bay thuộc đặc vụ gián điệp Pháp tên Edouard báo cáo: "hai người NAQ và Phan Chu Trinh đều bị bệnh viêm khí quản và ho lao. Họ không thể tìm lại cuộc sống khoẻ khoắn và thoải mái." (Sách của Sophie Quinn - HCM những ngày tháng mất tích 1919-1941, trang 28)
2. lướt qua, cùng sách như trên (1), nói tháng 8 năm 1920 bị mụn nhọt bên vai phải làm trở ngại hoạt động chính trị, có được trị liệu.
3. đầu năm 1921 sau hội nghị Tours, NAQ chứng thực ông không chỉ quan tâm sự thành bại của việc cách mạng thế giới, mà còn quan tâm cả vận mệnh của quốc gia mình. Vào tháng 2 NAQ nghi là như mình bệnh phổi đã nằm viện trị liệu 1 thời gian. (trích từ "HCM truyện" - William Duiker, trang 173)
4. ……
5. ……6,7,8,9,10,11,12… đều trích dẫn từ các sách nói NAQ bị bệnh phổi hành hạ.
13. Cuối tháng 11 năm 1931 NAQ viết thư gửi đồng chí Lam Đức Thư trong Liên minh thanh niên cách mạng rằng: "Thân thể tôi sức khoẻ đã đến hồi đáng ngại, thường xuyên ho ra máu. Cứ thế tiếp tục tôi e phải chết trong tù mất thôi. Song tôi sẽ tiếp tục ở trên trời mà hoàn thành ý nguyện của mình. "(trích từ "HCM truyện" - William Duiker, trang 206)
14.,15,16,17,18 vẫn là những trích dẫn từ các sách nói về bệnh lao của NAQ
19. năm 1933 Hồ đến Mạc tư khoa, tình hình sức khoẻ lộ rõ rất tệ, bệnh phổi vẫn đeo mang, người rất ốm, sắc mặt trắng xám, đầu cạo trọc lóc, đôi khi ho sù sụ, trong đàm có máu. Do vì lúc ấy không có thuốc trị bệnh lao đặc biệt hiệu nghiệm nào, Hồ trị bằng phương pháp phải rất quy cũ trong sinh hoạt, nghiêm túc tuân thủ giờ giấc làm việc và nghỉ ngơi đúng mực. Mỗi ngày sáng sớm thức dậy đều tập thể dục. Trong phòng của ông có quả tạ và dụng cụ thể thao tập ngực. (HCM tại TQ - Tưởng Vĩnh Kính, trang 82)
20. Cuối năm 1944 thiếu úy Lieutenant Shaw, mời HCM cùng đến Côn Minh. HCM cùng hai đồng chí trẻ lên đường. Ngang đến Di Lương (Yi Liang) bị bạn đồng hành lây bệnh cảm mạo, phải dừng lại Di Lương ngơi nghỉ vài hôm đợi khôi phục rồi mới một mình tiếp tục đuổi theo. (HCM truyện- William Duiker, trang 287)
21. Sau tháng 3 năm 1945 - ….. tại Đông Khê HCM bị sốt, lúc nóng lúc lạnh ….(Hồi ký cách mạng của Hoàng Văn Hoan, trang 180-181)
22. Tháng 7. 1945 Võ Nguyên Giáp thuật lại HCM trên đường về lại Trung Nam bán đảo, trở bệnh sốt cao, nằm hôn mê …. (HCM truyện - William Duiker, trang 301-302)
23. Năm 1950 sau khi Trung Cộng thống trị hoàn toàn TQ, tư liệu văn kiện của TQ cũng có ghi HCM nhiều lần sang trị bệnh, song không hề có ghi chép nào liên can đến trị liệu bệnh lao phổi.
Tổng kết lại những tư liệu tường thuật bệnh tình ở trên: theo những ghi chép trước năm 1933, bệnh sử của NAQ đều có liên hệ chặt chẽ đến bệnh lao phổi, rất phù hợp với sự thật NAQ bệnh mất vì ho lao vào mùa hạ năm 1932. Và sau 1933 hầu như không hề thấy một ghi chép nào nói HCM có bệnh lao phổi. Cuối cùng tháng 9 năm 1969 HCM lại chết vì bệnh tim suy kiệt mà không phải bệnh ho lao. Tuy nhiên ở điểm 19 ghi lúc HCM đến Mạc tư khoa sức khoẻ yếu kém, vẫn mang bệnh phổi, thỉng thoảng ho và trong đàm có máu. Song nguồn phần tư liệu này (của sách HCM tại TQ) lại là từ hồi kí của phó bộ trưởng bộ giáo dục của Bắc Việt Nguyễn Khánh Tuyền, mục đích là để HCM thuận lợi tiếp tục sự nghiệp cách mạng khiến VN độc lập của NAQ, cố ý đem chứng bệnh lao phổi vừa lấy mất sinh mạng của NAQ gán cho HCM. Cái ý đồ ghép bệnh sử ho lao để nối kết hai người là sai lầm (vì bệnh đã nặng vậy mà từ 1933 trở đi không có một ghi chép nào về bệnh ho lao gì nữa).
(từ trang 22-37, hết chương 1)
Ảnh hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương
(hình 1 và 2 từ trái sang phải)
(hình 3,4,5 và 6 từ trái dọc xuống và sang cột phải là hình 6 của HCM trước năm 1933, phần chú thích ở dưới)
(Trang 108)
[Theo tác giả]: Nếu từ diện mạo bên ngoài của bức ảnh để phân biệt thân phận của một người thì theo nhận xét chủ quan của cá nhân tôi, nhất là khi tấm ảnh cách nhau một hai thập kỷ, muốn phân biệt Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau thì có lẽ rất khó khăn, đặt biệt là khi người phương tây nhìn người phương đông càng không dễ dàng gì (thấy sự khác biệt). Khuôn mặt bề ngoài của một người dù theo thời gian có đổi thay nhiều đi chăng nữa nhưng hình dạng và đường cong của đôi tai tuyệt đối không dễ thay đổi. Riêng về các đường cong và phần trái tai của Nguyễn Ái Quôc và Hồ Chí Minh thổ lộ nhiều điểm khác nhau rất rõ ràng, và có thể dùng đó làm bằng chứng rằng hai người thân phận khác nhau. Mời độc giả xem kỷ và nhận dạng.
Tấm ảnh trong hồ sơ của Nguyễn Ái Quốc phía bên phải (William Duiker, Hồ Chí Minh truyện) chưa ghi rõ thời gian xuất xứ. Còn trong cuốn "Các nguyên thủ quốc gia nước ngoài tại Trung Quốc trong cuộc chiến chống Nhật" của sử gia Trung Quốc Tào Tấn Kiệt có ghi chú là ảnh chụp tại Quảng Châu vào mùa xuân năm 1925. Tấm ảnh này cùng với tấm ảnh của Hồ Tập Chương phía bên trái thường xuyên xuất hiện bên nhau để hỗ trợ cho sự liên kết diện mạo bên ngoài của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương). Như hình trên: bên trái là Nguyễn Ái Quốc, bên phải là Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) [hình trang 109 đầu tiên trong entry này]. Người viết cho rằng tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc thật ra là tấm ảnh giả, đặc biệt là tai bên trái sự sai lệch rất rõ ràng. Vì ý đồ muốn tạo sự liên kết giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (để cho thấy hai người) là một nên mượn dùng tấm ảnh của Hồ Tập Chương chụp tại Mạc Tư Khoa năm 1934. Song qua sự đối chiếu so sánh từ nhiều tấm ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) thấy được hai người diện mạo bên ngoài có nhiều khác biệt. (coi hình 1 và 2 + chú thích)

Chú thích hình ảnh trang 109, 110
1. Bức ảnh này được chụp ở Pháp, 1923, sách về HCM của William J. Duiker
2. Như trên tại Liên bang Nga Sô
3. Tấm này có nghi vấn, không ghi chú thời gian xuất xứ. do William chụp
4. Tấm ảnh này của NAQ chụp lại từ Viện triển lãm HCM tại VN
5. Tranh vẽ của thân phụ của NAQ - Nguyễn Sinh Huy - từ cuốn Cuộc đời HCM của William J. Duiker.
6. Tấm ảnh này chụp tại Liên bang Nga Sô năm 1924 từ sách HCM những năm tháng mất tích 1919-1941 (HCM the missing year 1919-1941) của thẩm phán Sophie Quinn.


(hình HCM sau năm 1933, hình 1,2,3 và 4 từ cột trái dọc xuống rồi sang phải)
Trang 111
1. Tấm ảnh này từ sách của William J. Duiker, HCM chụp tại Mạc tư khoa năm 1934.
2. Ảnh Thân phụ của Hồ Tập Chương, Hồ Dần Lượng (do người nhà cung cấp)
3. Ảnh này do Andred Roth chụp tại Bắc Việt năm 1946, trong sách Tân Việt Nam.
4. Ảnh này chụp tại Bắc Việt năm 1954 trong sách "Vĩ nhân chính trị khai sáng thời đại - HCM, bản tiếng Trung.

Blacky & nhi
ps. Hai câu dưới đây là thông tin nhi trích thêm để mọi người biết xíu xiu về tuổi tác HTC với NAQ.
(Trang 100) - Hồ Tập Chương sinh năm 1901 (năm Minh Trị thứ 34 của Đài Loan) ngày 11 tháng 10 âm lịch. (Trang 103) Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 (hai người cách nhau 11 tuổi)
ps2. xin lưu ý, sách dày 341 trang, entry này chỉ là trích dịch, còn rất nhiều vấn đề về thân phận của Hồ Tập Chương, con đường hoạt động cách mạng, khả năng ngôn ngữ, hôn nhân tình ái ..vv.. mà chúng tôi chưa thể dịch hết, mọi phán xét về sự thật cũng như bình luận xin nhường lại cho người đọc

No comments:

Post a Comment