hồ chí minh thật và giả
Sự thật thì có rất nhiều ông HCM, ông Hồ vào năm 1911 đi theo Tàu Pháp
kiếm việc đã mất từ năm 1953 , sau đó Trung Quốc ngụy tạo một nhân vật
đưa vào VN lãnh đạo, nhân vật nầy tương đối giống ông Hồ nhưng tướng
tá mập hơn .
Thưa ông, theo ông cho biết là có nhiều ông HCM, xin ông cho biết cụ thể hơn về vấn đề nầy .
Cán bộ:
Sự thật thì có rất nhiều ông HCM, ông Hồ vào năm 1911 đi theo Tàu
Pháp kiếm việc đã mất từ năm 1953 , sau đó Trung Quốc ngụy tạo một
nhân vật đưa vào VN lãnh đạo, nhân vật nầy tương đối giống ông Hồ nhưng
tướng tá mập hơn . Ông Hồ thứ hai đã ra lệnh chôn sống, ném đá chết
hằng chục nghìn người lúc bấy giờ . Nhiều gia đình có công với cách
mạng trong thời kỳ Điện Biên cũng bị giết không tha . Sau đó thì ông
Hồ nầy có lên Đài xin lổi, khóc lóc cho là phong trào Cải Cách Ruộng
Đất đi sai đường lối .
Vào
năm 1965 ông Hồ thứ hai cũng già nua và chết, lần nữa Trung Quốc lại
cho phẩu thuật một người VN tương đối giống ông Hồ để lên ngồi chức
chủ tịch . CS lúc bấy giờ đang dấy động phong trào chống Mỹ nên họ
không thể đưa tin ông Hồ bị chết được . Ông Hồ thứ 3 không giống lắm,
vì khó tìm được một người khác với số tuổi lớn mà giống nhưng ông Hồ
nên đảng CS cho thủ tiêu ông Hồ giả thứ 3 vào năm 1969, sau đó họ cho
làm tang lễ toàn quốc để che đậy sự việc nầy .
Thu Hiền: Thưa ông, những chuyện ông vừa kể ra , theo ông có bao nhiêu người biết về vấn đề nầy ?
Cán bộ:
Theo tôi rất nhiều người biết, những người trong bộ chính trị hầu như
ai cũng biết chuyện nầy nhưng không ai dám nói ra . Kể từ năm 1965,
ông Lê Duẩn là người đã nắm hết quyền hành trong tay . Ông HCM giả
được ngụy tạo năm 1965 rất ít khi ra đường vì đảng CS sợ dân chúng biết
được . Nhiều người miền Bắc có dịp tiếp xúc với ông Hồ 1953 (thứ hai)
nên họ có thể nhận ra nhân vật giả dạng HCM vào năm 1965, nếu việc nầy
đồn ra ngoài sẽ ảnh hưởng rất lớn .
Thu Hiền: Vậy thưa ông cho biết về những tài liệu của ông Hồ như nhật ký là của ông Hồ nào viết ra ?
Cán bộ: Những nhật ký của ông Hồ đều do đảng CSVN ngụy tạo kể cả những huyền thoại về ông Hồ cũng do họ dựng ra .
Thu Hiền:
Lúc trước nói chuyện với ông, ông có nói về cái xác của ông HCM nằm
trong lăng là cái xác giả, xin ông cho biết chi tiết như thế nào .
Cán bộ:
Xác ông HCM đã được đưa qua Nga nhiều lần để tẩm thuốc , năm 1980 họ
lại đưa xác HCM qua Nga để sửa lại sóng mũi vì bị gẫy nhiều lần, họ
dùng một loại keo để dán lại như sau đó keo không giữ được sóng mũi mà
làm bấy nhầy thêm . Sau năm 1990, nước Nga thay đổi chính thể nên xác
ông Hồ được đưa qua Trung Quốc để tu sửa nhưng TQ không làm được vì
khung mặt của Hồ đã bị vữa thối vì không có thuốc của Nga nên khó kềm
lại . Lăng Hồ chủ tịch đã lấy cớ tu sửa một thời gian dài vì lúc đó họ
không biết làm gì với cái xác ông HCM .
Một
điều rất dễ nhận xét là xác ông Hồ nằm dưới ánh đèn , hai bàn tay để
phía trên bụng, nếu người đi xem nhìn kỹ thì sẽ thấy ánh đèn phản
chiếu làn da óng lên . Thường thì xác chết không phản quang chỉ có
những nơi như trán , nơi có xương căng ra mới có thể phản quang chứ
còn da người chết không có óng lên qua ánh đèn được . Đây là xác bằng
thạch cao nên mới có hiện tượng đó . Vì vấn đề che đậy nên các chiến
sĩ bảo vệ lăng không cho ai đứng lại nhìn lâu . Đoàn người đi xem xác
chỉ được đi qua thật nhanh chứ không được nhìn kỹ .
Thu Hiền: Xin cám ơn ông đã cho biết về những chuyện thâm cung bí sử nầy , xin hẹn ông lần tới .
PHIM SỰ THẬT VỀ HỒ CHÍ MINH
PHIM ĐẠI HỌA MẤT NƯỚC
do Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy thực hiện...
gồm 8 tập , đã được post trên Youtube..... MD
Chapter-1/8: http://www.youtube.com/watch?v=JQwicWxsRB8
Chapter-2/8: http://www.youtube.com/watch?v=tNVG-lqJnDg
Chapter-3/8: http://www.youtube.com/watch?v=YLnqNJssvHY
Chapter-4/8: http://www.youtube.com/watch?v=O29v7zjUUzs
Chapter-5/8: http://www.youtube.com/watch?v=XpbRLRzE1S4
Chapter-6/8: http://www.youtube.com/watch?v=uTzkoZoO_IE
Chapter-7/8: http://www.youtube.com/watch?v=yLaaU26NWh0
Chapter-8/8: http://www.youtube.com/watch?v=jm3Un1Kbb3Y
<object
style="height: 390px; width: 640px"><param name="movie"
value="http://www.youtube.com/v/p2-tfohVTqw?version=3&feature=player_detailpage"><param
name="allowFullScreen" value="true"><param
name="allowScriptAccess" value="always"><embed
src="http://www.youtube.com/v/p2-tfohVTqw?version=3&feature=player_detailpage"
type="application/x-shockwave-flash" allowfullscreen="true"
allowScriptAccess="always"
width="640" height="360"></object>
ững sự kiện và các nhân chứng đương thời với Hồ Chí Minh ( tiếp theo )
Nạn đói đang hoành hành, Hồ Chí Minh ra
lời kêu gọi tuần lễ vàng để “chống giặc đói, chống giặc dốt, chống giặc
ngoại xâm”. Toàn dân nô nức hưởng ứng. Rất tiếc! số vàng đồ sộ mà ông ta
thu được không dành một phần nào để mua gạo, mua sách vở giấy bút mà
giao hết cho Tàu! Để mua chức chủ tịch nước hay để thực thi bổn phận?
Toàn bộ thư tịch cổ (ngoại trừ thư viện
của trường Viễn Đông Bác Cổ) đều bị thiêu đốt, hủy bỏ hoặc dùng lót
đường chống lầy hoặc chuyển sang Cầu Đuống tái chế theo lệnh ông ta.
Hành vi đó không khác gì những việc mà quân Minh đã làm đầu thế kỷ XV.
Giành được chính quyền rồi, phá được
chính phủ Trần Trọng Kim rồi, Hồ Chí Minh chưa yên tâm, bởi còn sợ thế
lực và lòng dân ủng hộ một chính phủ liên hiệp có Nguyễn Hải Thần,
Nguyễn Tường Tam nên đã sai Lê Giản, giám đốc công an tìm kiếm vài ba
xác người xấu số chết đói ngoài đường lén chôn vào vườn văn phòng của
Việt Nam Quốc Dân đảng ở đường Ôn Như Hầu (nay là Nguyễn Gia Thiều, Hà
Nội) rồi bù lu, bù loa lên là Quốc Dân đảng thủ tiêu cán bộ Việt Minh để
đánh lừa dư luận, đánh lừa cả Phó Chủ tịch nước lúc đó là Huỳnh Thúc
Kháng đang giữ thế trung lập ngả hẳn về phía Hồ Chí Mình, giúp Hồ Chí
Minh loại bỏ Nguyễn Hải Thần, một yếu nhân trung thành của Phan Bội
Châu!
Huỳnh Thúc
Kháng nhận ra sự thật, uất quá tìm cách ly khai chính phủ Hồ Chí Minh về
Quảng Ngãi chết. Núi Ấn sông Trà mãi mãi lưu giữ bóng dáng, khí phách
của một sĩ phu đất Quảng.
Hồ Chí Minh vừa hô to “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết! Thì ngay lập tức, người Tàu tặng người ta bài hát kết đoàn. “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh. Kết đoàn chúng ta là sắt gang. Đoàn kết ta đoàn kết. Dù sắt hay là gang…”
Tiền hô, hậu ủng. Vì sao mà kịp thời đến vậy?
Lấy tư cách chủ tịch nước, Hồ Chí Minh
mời Tạ Thu Thâu (con một người thợ mộc Nam Bộ, có lòng yêu nước cao cả
và đã từng du học tại Pháp, nghĩa là người vừa có năng lực vừa có uy
tín) ra Hà Nội nói là để lập mặt trận liên minh kháng chiến chống Pháp.
Tạ Thu Thâu thành tâm ra Hà Nội tham gia thành lập mặt trận chống Pháp
xong, trên đường trở về đến Quảng Ngãi thì bị giết. Tại thời điểm đó,
ngoài Hồ Chí Minh ai biết Tạ Thu Thâu đi xe gì và ngày giờ rời Hà Nội về
nam! Tại thời điểm đó, ngoài chủ tịch nước, ai có quyền ra lệnh ngầm
cho Quảng Ngãi giết Tạ Thu Thâu không cần xét xử? Xin mọi người biết
cho rằng Tạ Thu Thâu tuy thuộc nhóm Đệ tứ nhưng lại là một trong những
người sáng lập tờ báo La Lute và là bạn của Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Lựu,
Nguyễn Văn Cừ. Phan Đăng Lưu…
Cuối năm 1945, Pháp dựa vào quân Anh quay
trở lại xâm lược nước ta, nhân dân Nam Bộ đồng loạt đứng lên chống Pháp
(23/11/1945). Đội ngũ trí thức yêu nước, có học, gắn bó mật thiết với
Nam Bộ và được nhân dân Nam Bộ tin cậy như Trần Văn Giàu, Dương Bạch
Mai, Phạm Ngọc Thạch, Ung Văn Khiêm. Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Trấn…bị
Hồ Chí Minh điều hết ra Bắc rồi vô hiệu hóa họ tại chiến khu Thái – Hà –
Tuyên. Nam Bộ như rắn mất đầu.
Để tỏ ra quan tâm Nam Bộ, chủ tịch nước
cử Trung tướng Nguyễn Bình vào thay thế. Tuy là một vị chỉ huy có tài,
nhưng Nguyễn Bình làm sao mà thấu hiểu Nam Bộ và được Nam Bộ tin yêu như
nhóm Trần Văn Giàu. Nguyễn Bình vào đến nơi còn lạ nước lạ cái , thì bị
ám sát! Ai đứng đằng sau vụ giết vị tướng lừng danh, đã từng có mặt ở
Hoa Nam, Trung Quốc này!
Nguyễn Bình chết, Nam Bộ thiếu cán bộ
quân sự, nhiều ý kiến đề xuất cử Võ Nguyên Giáp vào trực tiếp chỉ huy
chiến trường Nam Bộ, Hồ Chí Minh sợ mất chổ dựa tin cậy vội phong hàm
Đại tướng và giao quyền Tổng Tư lệnh tối cao cho ông. Đã là Đại tướng
Tổng Tư lệnh, mặc nhiên là phải có chỗ đứng ở Trung ương bên cạnh Chủ
tịch nước. Võ Nguyên Giáp không thể đi xa, nên Lê Đức Thọ buộc phải rời
miền Bắc vào miền Nam (1948). Vậy là Hồ Chí Minh vừa giữ được người của
mình, lại loại được người đối lập. Mâu thuẩn giữa Lê Đức Thọ với Võ
Nguyên Giáp cũng có nghĩa là với Hồ Chí Minh, được Lê Đức Thọ mang vào
Nam Bộ báo với Lê Duẩn (từ nhà tù Côn Đảo ra ở lại lãnh đạo Nam Bộ).
Lê Duẩn là một trong những người có mặt
tại Hội nghị lần thứ 6 của Ban Thường vụ Trung ương đảng Cộng sản Đông
Dương, tháng 11 năm 1939, nên gắn bó mật thiết với Hà Huy Tập, Nguyễn
Văn Cừ, Lê Hồng Phong, Phan Đăng Lưu. Nghĩa là người đã biết rõ Hồ Chí
Minh là ai!
Vì công cuộc kháng chiến chống Pháp quá
cấp thiết, bức xúc nên người ta đành gác mọi toan tính bất đồng, hoài
nghi chưa thể phân định. Lê Duẩn, Lê Đức Thọ cùng những người cộng sản
dân tộc rõ ràng đã đứng về một phía không dung hòa với phe “thế giới đại
đồng” của Đại Hán mà Hồ Chí Minh là con sóc đầu đàn.
“Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết” và di
họa của nó còn thể hiện hầu như toàn diện trên mọi mặt sinh hoạt của xã
hội Việt Nam từ ngày Hô Chí Minh cao giọng hô hào. Cái gọi là phong trào
thi đua ái quốc đã để di chứng dối trá, bịp bợm phổ biến. Bệnh thành
tích trở nên mãn tính làm xói mòn nhân cách, đạo đức, để lại sự tan nát
thế thái nhân tình trên toàn xã hội. Tranh công, khai man đã làm nên
thành ngữ “làm thì láo báo cáo thì hay” lan tràn khắp hang cùng ngõ hẽm.
Tiếp theo phong trào “thi đua yêu nước”
thì đến phong trào hợp tự chống mê tín dị đoan, hô hào phá bỏ đình,
chùa, đền, miếu…Dân ta vốn nhẹ dạ, cả tin tưởng những di sản văn hóa
truyền thống của cha ông mình là lạc hậu, nghe lời “Bác” để mau chóng
xây dựng thế giới đại đồng. Hậu quả phá bỏ được các di sản văn hóa vật
chất cũng có nghĩa là phá bỏ luôn di sản văn hóa tinh thần. Điều này mới
thực sự “thâm Nho” đã làm nên đại họa. Đình không còn, tình làng nghĩa
nước cứ thế mà tan. Chùa không còn niềm tin hướng thiện cứ thế mà mất.
Xã hội rối ren. Trộm cắp lộng hành. Xì ke ma túy tràn lan. Đĩ điếm trở
thành vấn nạn. Sau ngày Pháp rút quân, những vùng gọi là hậu địch, tạm
chiếm rất may là các đền chùa đình miếu còn nguyên vẹn. Người Pháp không
tàn bạo như Hồ Chí Minh. Di sản văn hóa dân tộc cho ta tự hào hôm nay,
rất may là trước năm 1956, đều nằm trong vùng người Pháp và quân đội
Việt Nam Cộng Hòa quản lý!
Sau chủ trương hợp tự phá đền chùa, chia
nhập làng xã để xóa sạch mọi di sản truyền thống thì phát động cải cách
ruộng đất. Đồng thời với lời hô hào “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết!”
Hồ Chí Minh lại tung thêm khẩu hiệu “Có khổ nói khổ. Nông dân vùng lên”.
Vậy là vừa hô hào đoàn kết vừa hô hào chém giết? Hậu quả của nó thì mọi
người đã rõ. Cuộc đấu tố đại quy mô mang tính toàn quốc này thực sự là
tổng hủy diệt cộng đồng dân tộc. Con đấu cha, vợ đấu chồng, em đấu anh,
cháu đấu bác, học trò đấu tố xỉ vả thầy cô…đều xẩy ra từ sau lời hô hào
đoàn kết đó.
…
Thời gian này (1953 – 1956) bộ máy tuyên truyền của Hồ Chí Minh ngày ngày ra rả và bắt toàn dân ra rả ca khúc “Nông
dân Trung Quốc đang ngăn sông Hoài. Đời ta ấm no sướng vui từ đây. Vì
chúng ta có đảng cộng sản. Vì chúng ta có bác Mao Trạch Đông. Đã lãnh
đạo ta phóng tay phát động...”
Mù quáng, quá khích vốn là thuộc tính của
người nghèo khổ, ít học, bị Hồ Chí Minh lợi dụng kích động đã làm nên
cuộc thảm sát tàn bạo nhất trong lịch sử đất nước con Lạc cháu Hồng ngàn
đời. “Phóng tay phát động” là dã tâm làm đảo điên thế thái nhân tình
tài nguyên thiêng liêng nhất của dân tộc.
Thù hận trong dân chúng sục sôi, làng xóm
xơ xác tiêu điều, tình anh nghĩa em tan nát, Hồ Chí Minh lại hô hào tết
trồng cây để vá víu. Qua đại họa này mong mọi người nhìn cho rõ chân
tướng Hồ Chí Minh chính là kẻ vừa đấm vừa xoa. Xoa thật êm để đấm tiếp.
Tết trồng cây mà ông ta hô hào nằm trong tâm địa đó.
“Vì lợi ích mười năm trồng cây.
Vì lơi ích trăm năm trồng người”
Ai cũng tưởng danh ngôn trên là xuất phát
từ tấm lòng cao cả “tại tâm” nên mê muội ngợi ca. Thật ra điều đó lại
thêm một vết nhơ về tội đánh cắp vô liêm sĩ. Nguồn gốc là của Quản Trọng
bên Tàu, từ thời chiến quốc. Nguyên văn như sau:
“Nhất niên chi kế. Mạc như thụ cốc.
Thập niên chi kế. Mạc như thụ mộc.
Bách niên chi kế. Mạc như thụ nhân.”
( Mưu kế cho một năm thì phải trồng lúa.
Mưu kế cho mười năm thì phải trồng cây.
Mưu kế cho trăm năm thì phải trồng người.)
Hồ Chí Minh cắt bỏ một câu để giấu đầu
làm ra vẻ sáng tạo. Nhưng ăn cắp thì lòi đuôi liền. Điều mà người viết
muốn láy lại là Hồ Chí Minh bị bệnh mất tính liêm sĩ nên không biết
thẹn. Ăn cắp tên Nguyễn Ái Quốc của nhóm Phan Chu Trinh, Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh. Ăn cắp quyền tác giả bản
“Thỉnh nguyện thư gửi Hòa hội Vecxây cũng của nhóm này. Ăn cắp Mặt trận
Việt Nam Độc lập Đồng minh của Hồ Học Lãm. Ghép thơ Lý Bạch với thơ Đỗ
Phủ làm thơ mình… Lạ thay! Hạng người như thế lại luôn luôn ngạo mạn. Về
Pắc Bó chưa đứng yên trong hang đã ba hoa “Hai tay gây dựng một sơn
hà”. Moi danh ngôn Quản Trọng để lừa người nhẹ dạ. Xuống Kiếp Bạc thì
sánh mình với Hưng Đạo Đại Vương.
Bác anh hùng, tôi cũng anh hùng
Cũng bậc mày râu cũng kiếm cung
Bác đuổi quân Nguyên vung kiếm bạc.
Tôi trừ giặc Pháp phất cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ.
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
…
“Tôi dắt năm châu đến đại đồng”.
Người Việt Nam ta có tục ngữ “Xấu thì hay làm tốt. Dốt thì hay nói
chữ”. Hồ Chí Minh, chỉ là một tay sai của Tàu lại khoác lác “dắt năm
châu”. Thì ra nói để khoe, để dọa mà thực tâm là che kín miếng võ “Tớ dắt An Nam nhập tịch Tàu”.
Để dắt “năm châu đến đại đồng” Hồ Chí
Minh đã đạo diễn và ra lệnh thành lập các khu tự trị Tây Bắc và Việt
Bắc. May thay Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và những người cộng sản dân tộc, qua
Đại hội lần thứ III (1960) của đảng đã nhận ra nguy cơ mất nước khi bên
Tàu đã lập khu trự trị Choang sát biên giới Trung Việt.
Như mọi người biết người Choang, người
Tày – Nùng và người Thái cùng chung ngữ hệ, có nghĩa là rất thuận khi
cùng chung lãnh thổ.
Nhân đây xin nói thêm một luồng dư luận
từ sau cải cách ruộng đất rằng Hồ Chí Minh có lẽ là Hồ Học Lãm, người
của Tàu. Tàu Tưởng hay Tàu cộng thì người ta không rõ. Bởi người Tàu đối
lập nhau về chính kiến nhưng thống nhất về chủ nghĩa bá quyền. Hồ Học
Lãm chỉ hơn Hồ Chí Minh 6 tuổi, chính là người đã thành lập Việt Nam Độc
lập Đồng minh (Việt Minh) tại Nam Kinh, năm 1936.
Hồ Chí Minh chết, Lê Duẩn sợ bẩn non sông
không thực hiện di chúc đốt xác vãi tro lên đất đai nước Việt mà cho mổ
ruột moi gan nghĩa là phanh thây giữa thanh thiên bạch nhật để thiên hạ
nhìn như là một hình phạt bêu đầu thuở trước. Tuy nhiên, ông ta cũng đã
để lại cho Nông Thị Trưng một đứa con khai sinh theo họ mẹ tiếp tục
thực hiện mười sáu chữ vàng : “Láng diềng hữu nghị. Hợp tác toàn diện. Ổn định lâu dài. Hướng tới tương lai”. Những người cầm quyền dưới sự điều khiển của Nông Đức Mạnh, trung thành với mẫu quốc đã thực hiện triệt để. “Hợp tác toàn diện”
là giao rừng đầu nguồn, nơi đã từng là hậu cứ an toàn cho dân ta thế
thủ mỗi lần Tàu ồ ạt tràn sang, ta chưa thể tổ chức đánh đuổi chúng. “Ốn định lâu dài” là giao các vùng chiến lược cốt tử nhất của đất nước cho họ lập làng bền vững tổ thành đội xâm lược nằm vùng. “Hướng tới tương lai” là nước ta sẽ trở thành quận huyện của chúng.
Nhìn lại giai đoạn lịch sử sau ngày Lê
Duẩn, Lê Đức Thọ và những người cộng sản dân tộc chân chính qua đời, các
thế hệ cầm quyền thuộc dòng Hồ Chí Minh, Trường Chinh chuẩn bị, đang ra
sức thực hiện nhiều chữ vàng để biến nước ta thành “nam tạng” theo tinh thần bốn tốt: “Láng diềng tốt. Bạn bè tốt. Đồng chí tốt. Đối tác tốt”.
Vâng! Người Tàu đang thực hiện vượt mức bốn tốt và còn có thể nhiều thứ
tốt hơn. Nhà cầm quyền người Việt vốn mang ơn che chở cưu mang đùm bọc
của Tàu, sá chi rừng biển của Tổ quốc.
Để kết thúc bài viết này xin mọi người
đừng bao giờ quên thuộc hạ thân tín nhất của Hồ Chí Minh là Phạm Văn
Đồng, là người đã cùng Chu Ân Lai ký Hiệp định Geneve, chia đôi đất nước
xong lại tổ chức lực lượng vừa nằm vùng vừa vượt tuyến phá hoại Hiệp
định đã ký để bày đủ mưu ma chước quỷ gây nên cuộc chiến tranh huynh đệ
tương tàn, biến nước ta thành bãi chiến trường có lợi cho Tàu, rồi hô
hào chống ngoại xâm cứu nước. Ta đánh ta, cứu nước ta ra khỏi ảnh hưởng
của Pháp và Mỹ để Tàu dễ bề thao túng và nuốt chửng ta.
Đoàn kết! Đoàn kêt! Đại đoàn kết! Thế lực
của Tàu đứng đầu là Hồ Chí Minh, lợi dụng tâm lý và khát vọng độc lập
dân tộc nên hô hào dân ta ra sức “Đánh cho Mỹ cút. Đánh cho ngụy nhào”,
kết hợp với xây dựng chủ nghĩa xã hội, một thứ bánh vẽ rất hấp dẫn dễ
được nhiều người hưởng ứng, đã đưa hàng loạt con em miền Bắc vào lò “sát
sinh” khủng khiếp.
Càng đánh ta càng kiệt quệ, suy yếu và bị
cô lập trước cộng đồng nhân loại làm mồi cho con gấu Thiên An Môn. Thực
tế đó lẽ nào các thế hệ hôm nay không sáng mắt ra.
Bất hạnh của dân tộc ta là những người
yêu nước thương nòi nhận ra tai họa của nền chuyên chính vô sản và nạn
diệt chủng trước dã tâm Đại Hán của Tàu, đã quy tụ chung quanh chính phủ
Việt Nam Cộng Hòa, nhưng thất thế ngay sau khi Nội các Trần Trọng Kim
bị lật đổ, buộc phải liên minh với Pháp rồi Mỹ để cùng chống cộng – kẻ
thù của nhân loại. Qua con mắt lịch sử và luận điệu tuyên truyền kích
động của những người cộng sản với sự phụ họa của Tàu, họ mang tội là
những kẻ ôm chân đế quốc.
Sự ngộ nhận và lầm lẫn của nhân dân hai miền đã làm nên hậu họa bỏ bạn đón thù hôm nay.
“Năm qua thắng lơi vẻ vang
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập vì tự do
Đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên chiến sĩ đồng bào.
Bắc Nam xum họp xuân nào vui hơn.”
Xuân 1968
“Xum họp”, “đoàn kết” kiểu Hồ Chí Minh là
vậy đó. Ngày Tết, nhè vào phút giao thừa thiêng liêng nhất của mỗi giá
đình Việt Nam mà chém, mà giết một cách dã man tàn bao để lại nỗi đau
cùng mối hận thù lâu dài nhất trong lịch sử đất nước.
Khen chê một vị Tổng thống chiến bại của Việt Nam Cộng Hòa là quyền của mọi người. Riêng câu “Đừng nghe cộng sản nói. Hãy nhìn cộng sản làm”
của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tôi nghĩ là chí lý. Hãy nhìn vào thế
thái nhân tình của người Việt Nam từ sau ngày Hồ Chí Minh chủ trương hợp
tự, cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp… đến nay và nghiệm
lai lời hô hào “Đoàn kết! Đoàn kết! Đại đoàn kết” của ông ta xem có phải
nói một đường làm một nẻo hay không!
“Đoàn kết chúng ta là sức mạnh. Đoàn kết chúng ta là sắt gang…”. Đúng như ca khúc người Tàu đặt ra cho ta hát để ta chịu sự hủy diệt của sắt gang đúng như Hồ Chí Minh viết :
“Nay ở trong thờ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Toàn đảng toàn dân theo Hồ Chí Minh đoàn kết để theo Hồ Chí Minh “trở mỏ cắm cánh” hủy diệt dân tộc mình.
Suy nghĩ về Cứu Quốc Quân và cái chết của Phùng Chí Kiên
Ngày 22 tháng 9 năm
1940, Nhật đánh vào Lạng Sơn. Quân Pháp đại bại. Một số tàn binh Pháp
tháo chạy về ngả Bắc Sơn. Thấy có cơ hội trả thù quân cướp nước, ngày 27
tháng 9 người Bắc Sơn tự phát nổi dậy đánh Pháp và ùa lên chiếm đồn Mỏ
Nhài. Vài ngày sau Pháp hòa hoãn với Nhật kéo quân lên Bắc Sơn khủng bố
trả thù, lùng bắt những người khởi xướng. Trước tình thế đó, một số
người né tránh chạy vào trường Vũ Lăng hợp thành lực lượng du kích để tự
vệ. Xứ ủy Bắc Kỳ đảng cộng sản Đông Dương nhận thấy sự cần thiết duy
trì và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng nên đã cử Trần Đăng Ninh
lên chỉ đạo củng cố đội du kích Bắc Sơn. Vào thời điểm này, Trần Tử
Bình, Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi vốn là những thành viên của Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội (có tài liệu lại gọi là Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên), đã học trường quân sự Hoàng Phố của Tôn Trung
Sơn, về nước mở lớp quân chính tại một căn cứ bí mật thuộc huyện Bình
Lục, tỉnh Hà Nam. Để giúp Trần Đăng Ninh duy trì đội du kích Bắc Sơn,
trường quân chính kháng Nhật Bình Lục đã cử Vũ Bật, một học viên xuất
sắc người Thái Bình mang tên mới là Nguyễn Cao Đàm lên giúp Trần Đăng
Ninh. Nguyễn Cao Đàm đến Vũ Lăng thì được Trần Đăng Ninh trao cây kiếm
Nhật, coi như bàn giao đội du kích Bắc Sơn cho ông. Nguyễn Cao Đàm tập
hợp số du kích còn lại rút vào Mỏ Pia, tránh sự truy lùng của Pháp. Bởi
Mỏ Pia không có đường liên hương nối với Mỏ Nhài như Vũ Lăng. Quân đội
Pháp không dám đi lẻ giữa rừng nên đội du kích an toàn hơn.
Mấy tháng sau, Phùng Chí Kiên (Lý Mạnh
Liệu), Lương Văn Chi (Huy Còm) lại được Xứ ủy Bắc Kỳ cử lên Bắc Sơn
thành lập Cứu Quốc quân. Đội du kích Bắc Sơn là lực lượng nòng cốt của
đơn vị Cứu quốc quân đầu tiên này.
Ngày 16 tháng 2 năm 1941 lễ thành lập Cứu
quốc quân đã được tổ chức tại khu rừng Khuổi Nọi, bản Tứ Tổng nay thuộc
xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn với sự có mặt của Hoàng Văn
Thái, Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi, Nguyễn Cao Đàm và bà con bản Tứ
Tổng, xã Vũ Lễ. Ngày đó, anh Lương Văn Thốn đã hiến một con bò đực và bà
con sở tại thì góp gạo nếp góp công làm lễ tế cờ khao quân.
Vài ngày sau, Phùng Chí Kiên, Lương Văn
Chi nhận được lệnh lên Cao Bằng. Hoàng Văn Thái rời Bắc Sơn đi Lạng Sơn.
Nguyễn Cao Đàm được giao nhiệm vụ vừa xây dựng căn cứ Bắc Sơn phát
triển thành chiến khu Bắc Sơn – Vũ Nhai vừa tổ chức huấn luyện đội quân
mới thành lập. Với kiến thức cơ bản học tại trường quân chính Bình Lục,
Nguyễn Cao Đàm đã duy trì được đội Cứu quốc quân non trẻ đầu tiên này.
Phùng Chí Kiên, Lương Văn Chi rời Bắc
Sơn, qua ngả Thái Nguyên lên đến Ngân Sơn, Bắc Cạn thì bị Pháp phục kích
bắn chết. Cái chết như có ai báo trước cho Pháp nên quá bất ngờ.
Thiết nghĩ đã đến lúc mỗi người Việt Nam
thực sự yêu Tổ quốc mình, yêu dân tộc mình cần tỉnh táo nhìn lại những
biến đổi mau lẹ trước tình thế đất nước trong hai năm 1940 và 1941.
Tháng 11 năm 1939 hội nghị lần thứ 6 của
Trung ương đảng Cộng sản họp tại Bà Điểm đã quyết định thành lập Mặt
trân Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ
Đông Dương. Nửa cuối năm 1940 xung đột vũ trang giữa quân đội Thái Lan
do Nhật điều khiển với quân đội Đông Dương của Pháp dọc tuyến biên giới
Miên – Thái và Lào – Thái, Pháp bắt thanh niên Việt Nam ra trận đã gây
nên sự bất bình trong dân chúng Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy chống bắt lính lan
rộng và trở thành khởi nghĩa (23 tháng 11 năm 1940). Nhân cớ đó Pháp huy
động lực lượng lớn để đàn áp khởi nghĩa đồng thời vây ráp truy lùng các
tổ chức hội kín chủ yếu là những người cộng sản. Hầu như toàn bộ những
đảng viên cộng sản ưu tú vừa tham dự hội nghị lần thứ 6 của Trung ương
đều bị bắt.
Bà Điểm – Hoóc Môn là cơ sở được coi như
an toàn khu, bổng dưng bị phát hiện. Hà Huy Tập bị Pháp bắt từ trước đã
thành án và cũng như Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Lê Hồng Phong, Nguyễn
Thị Minh Khai không liên quan gì đến cuộc nổi dậy phản chiến của bà con
Nam Kỳ đều bị Pháp xử tử. Lê Duẩn và một số khác bị đày ra Côn Đảo.
Như lịch sử đảng đã ghi, Hà Huy Tập là
Tổng bí thư Đảng năm 1932-1936, dù đã bị bắt trước, không tham dự hội
nghị lần thứ 6 và càng không liên quan với khởi nghĩa Nam Kỳ ngày 23
tháng 11 nhưng vẫn bị lôi từ nhà tù ra pháp trường.
Cái chết của Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,
cho đến nay, bảy mươi năm đã qua, nhưng với riêng tôi, có điều gì đó vẫn
còn day dứt không yên. Nghĩ lại lớp thanh niên Việt Nam đầu thế kỷ XX
hưởng ứng lời kêu gọi của Phan Bội Châu lần lượt lên đường tham gia
phong trào Đông Du, đã làm nên Tâm Tâm xã rồi làm nên Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên (nhiều tài liệu và theo Trần Dân Tiên thì ghi Việt Nam
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội) là tổ chức tiền thân của đảng Cộng
sản Đông Dương. Trong số đó có Hà Huy Tập và Lê Hồng Phong. Vì sớm nhận
ra sự thiếu tin cậy ở con người mang tên Tống Vân Sơ nên cả hai (Hà Huy
Tập và Lê Hồng Phong) đều có chung một thái độ tẩy chay không cho Tống
Vân Sơ tham dự Đại hội I của đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Macao, năm
1935. Có lẽ vì thế mãi cho đến những năm 60 của thế ký XX, mỗi khi
những người thuộc ban Nghiên cứu lịch sử đảng nhắc đến Hà Huy Tập, Hồ
Chí Minh đều gạt ngay với thái độ hằn học. Điều thứ hai là trong khi
những người đứng đầu đảng Cộng sản Đông Dương gồm Tổng Bí thư và Ban
Thường vụ đang có mặt ở Nam Kỳ trước ngày xẩy ra khởi nghĩa, thì lại có
một ban thường vụ nào đó ra chỉ thị hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ. Như vậy là
đã có một ban thường vụ dự phòng trên ban Thường vụ chính thức chăng?
Ban thường vụ này do ai nặn ra và vì sao lại gắn bó với Tàu và đơn giản
dễ dãi đón một người mang tên rất lạ là Hồ Chí Minh mà trước đó chưa hề
liên hệ, giao dịch. Bởi cho đến trước ngày 28 tháng 01 năm 1941 chưa một
ai trong nội bộ đảng cộng sản Đông Dương nghe nói đến nhân vật Hồ Chí
Minh, chưa ai biết ông ta vào đảng ở đâu! Thuộc đảng phái nào! Có chăng,
cuối năm 1940, Võ Nguyên Giáp đang dạy ở trường Tiểu học Thăng Long làm
báo Notre Vois (Tiếng nói của chúng ta) có nhận được một hai bài báo
gửi từ Trung Quốc về với tên P.C. Line. Chẳng lẽ từ một hai bài báo vớ
vẫn đó lại đủ tin cậy để coi P.C. Line là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh,
lãnh tụ cộng sản được sao. Trịnh Đông Hải, người Quảng Trị lang bạt sang
Vân Nam làm nghề sửa xe dọc đường Mông Tự (Vân Nam) được Hồ Nam nhờ
manh mối với Lê Quảng Ba người Nùng từ Quảng Tây sang Pắc Bó để vào Cốc
Lếu. Cùng thời gian đó Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt qua Hoàng Văn Thụ ở
Lạng Sơn sang Trung Quốc để bàn về hội nghị lần thứ 8 do Hồ Chí Minh
triệu tập. Tính vô nguyên tắc một cách buồn cười này đã bị hội nghị bất
thường mở rộng của xứ ủy Bắc kỳ họp khẩn cấp tại Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh
Phúc phê phán kịch liệt và coi đó là cuộc đào ngũ. Mong mọi đảng viên
cộng sản có tấm lòng yêu nước trong sáng hãy nhìn lại diễn biến vòng vo
của một vị “lãnh tụ” ba mươi năm đi tìm đường cứu nước trở về hôn nắm
đất tổ quốc mình và đứng ra triệu tập hội nghị trung ương đảng.
Nguyên tắc tổ chức của một chính đảng
hoạt động bí mật để cứu nước đơn giản chợ trời như vậy sao. Ba vị tự coi
là thường vụ làm nên hội nghị lần thứ 7 ở Đình Bảng đã không được thừa
nhận là Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ ra đời từ bao giờ,
tại đâu, khi hội nghị Trung ương lần thứ 6 vừa mới kết thúc? Ban thường
vụ dự phòng này không nằm trong mạch chuẩn bị của Việt Nam Thanh niên
Cách mạng Đồng chí hội lại rất được Hồ Chí Minh tin cậy trọng dụng làm
chỗ dựa để sai khiến trọn đời!
Xin mọi người hãy nhìn vào thời điểm nhập
Cốc Lếu của Hồ Chí Minh ngay sau khi toàn bộ những đảng viên đứng đầu
đảng Cộng sản Đông Dương bị xử bắn ở Hoóc Môn mà minh định lẽ đời, lẽ
đảng. Đó là ngày 28 tháng 01 năm 1941. Chưa nói gì về nguyên tắc cao xa
đối với một người chưa hề giao tiếp mà ngay trong hàng ngũ với nhau ai
đó không may bị địch bắt hoặc vì vắng mặt lâu ngày không rõ lý do khi
trở lại còn bị thẩm tra xem xét thấu đáo, huống hồ một người hoàn toàn
xa lạ. Nếu không có sự thu xếp đạo diễn khôn khéo giấu mặt nào đó thì
không thể có cái gọi là hội nghị lần thứ 8.
Điều đáng tiếc cho lịch sử đất nước là
không ai rõ, chưa ai biết lai ngang nhiên coi Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái
Quốc để rồi gán Nguyễn Ái Quốc vào Nguyễn Sinh Cung. Trong khi đó, 30
năm đã qua Nguyễn Sinh Cung không có mặt trên đất nước, làm gì ở đâu,
với ai chưa hề thẩm định. Vậy từ mối liên hệ nào, ai kiểm tra biết rõ
ngọn ngành mà để cho ông ta đứng ra triệu tập hội nghi.
Thiết nghĩ, không có sự vô lý, vô nguyên tắc nào đáng tiếc, đáng lên án hơn.
Đã đến lúc mọi người Việt Nam, trước hết
là đảng viên cộng sản thử nhìn vào người chủ trì và các thành viên có
mặt tại Cốc Lếu tháng 5 năm 1941 có xứng đáng và đã đủ đại diện đảng
cộng sản Đông Dương hay chưa! Theo nguyên tắc hoạt động bí mật, một
người xa lạ, không rõ nguồn gốc, không biết tung tích lai lịch, tự nhận
mình là người của Quốc tế Cộng sản mà dễ dãi tin cậy ngay được hay sao.
Vả lại con người với hơn trăm tên như một gián điệp quốc tế bổng dưng
nhảy vào hang Cốc Lếu triệu tập Hội nghị của một đảng nội địa, hoạt động
bí mật đã bị tổn thất nặng và đang bị truy lùng?
Đã đến lúc những người cộng sản Việt Nam
cùng những nhà sử học thuộc ban nghiên cứu lịch sử đảng hãy tỉnh táo để
định ra một phương pháp luận khách quan, khoa học nhận định sự kiện gọi
là hội nghị trung ương lần thứ 8 tại Pắc Bó, tháng 5 năm 1941 mà con
người mang tên Hồ Chí Minh triệu tập về nguyên tắc đúng hay sai, về đại
biểu đủ hay thiếu và vì sao hội nghị bất thường của Xứ ủy Bắc Kỳ họp tại
Vĩnh Tường cùng thời điểm đó tẩy chay phê phán, coi Trường Chinh,
Hoàng Quốc Việt chạy làng vô nguyên tắc, để cuối cùng lại bị ăn đòn.
Chuyện đó thuộc nội bộ đảng, xin nhường
lại để đảng xét. Riêng về tai họa thì từ đó dân tộc Việt Nam mắc bẩy,
gánh chịu nên phải viết những dòng này.
Lại nói về Cứu quốc quân sau ngày bảo vệ
dẫn đường đưa Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt từ Pắc Bó về xuôi, thoát
khỏi vòng vây phục kích của Pháp thì Lưu Xuân Trường được Xứ ủy Bắc Kỳ
cử lên bổ sung xây dựng thành Trung đội Cứu quốc quân. Lưu Xuân Trường
sơ ý bị Pháp bắt (đã có nghi vấn bị chỉ điểm), Chu Văn Tấn, là một người
Tày ra đời bên Trung Quốc, lớn lên mới được đưa sang Võ Nhai lúc đầu
làm lính dõng cho Pháp sau ngày tham gia bảo vệ hội nghị Pắc Bó, Hồ Chí
Minh nâng đỡ dần rồi giành cứu quốc quân từ tay Lưu Xuân Trường, Nguyễn
Cao Đàm.
Xét về ngày ra đời, thời gian tồn tại,
địa bàn và mục tiêu hoạt động, Cứu quốc quân mang trọn vẹn phẩm chất và
trọng trách của một đội quân cứu nước, một lực lượng vũ trang đúng với
tên gọi của nó. Ngày 16 tháng 2 năm 1941 đúng là ngày sinh của đội quân
cứu nước đầu tiên này. Nó và chỉ riêng nó mới xứng đáng là tiền thân của
quân đội cách mạng.
Xin mọi người lưu ý rằng sau cái gọi là
hội nghị Pắc Bó với Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, … Hồ Chí Minh trở về
Tàu (chắc để báo cáo và lãnh sứ mạng xây dựng cơ sở lâu dài). Những sự
cố như bị bắt ở Túc Vinh, bị giải qua các nhà lao, với “ngục trung nhật
ký” quả là một cuộc dàn cảnh bài bản. Nếu Hồ Chí Minh đúng là Nguyễn Ái
Quốc thì chắc chắn với chủ trương bài cộng ráo riết, Tưởng Giới Thạch
không dễ dải giao ông ta cho Trương Phát Khuê quản lý ngót ba năm để
cuối cùng tha bổng. Tháng 10 năm 1944, Hồ Chí Minh trở vào Pắc Bó thì
biết tin Cứu quốc quân đã phát triển lớn mạnh và đang hoạt động vũ trang
trên một địa bàn rộng từ Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Quảng Yên … Nếu là người mang động cơ cứu nước lành mạnh,
trong sáng, vô tư tất cả vì đại nghĩa thì coi đó là một tin mừng để tập
trung tri thức, kinh nghiệm dồn sức, góp phần củng cố, nuôi dưỡng phát
triển Cứu quốc quân. Nhưng điều đó đã không thể hiện mà còn ngược lại là
ông ta đã vội vả viết cho Võ Nguyên Giáp tức Lý Quang Hoa một lá thư
tay về sau người ta nâng lên thành “Chỉ thị” thành lập đội vũ trang
tuyên truyền giải phóng quân đồng thời bày mưu cho Võ Nguyên Giáp đánh
chiếm hai đồn lính dõng của Pháp đã bỏ trống sau ngày Nhật đánh vào Lạng
Sơn (22 tháng 9 năm 1940) là Phay Khắt và Na Ngần ở châu Nguyên Bình
tỉnh Cao Bằng, rồi tuyền truyền phô trương rùm beng lên để khuyếch
trương chiến quả mà gây thanh thế. Từ đó, Hồ Chí Minh nghiễm nhiên tự
coi mình là cha đẻ của quân đội cách mạng. Như vậy là vị “cha già dân
tộc” mà chi với “hai tay gây dựng một sơn hà” lại có thêm uy quyền của
“cha đẻ quân đội cách mạng” tiếng tăm Hò Chí Minh vang dội khắp non
sông. Người Việt Nam đang nuôi chí đánh giặc cứu nước mê muội trước “đức
hy sinh ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước” của ông ta.
Để củng cố uy tín cho đội quân do mình
sáng lập, nhân khi nhà điện ảnh người Nga là Cácmen, được ông ta mời
sang làm phim “Việt Nam trên đường thắng lợi” và “Chiến thắng Điện Biên
Phủ” năm 1954, Hồ Chí Minh đã bày cho Võ Nguyên Giáp chụp ảnh với một số
người gọi là thành lập đội Võ trang Tuyên truyền Giải phóng quân làm tư
liệu lịch sử. Đó là tấm ảnh đen trắng Võ Nguyên Giáp mặc áo vét đội mũ
phớt và nhóm người đeo ruột tượng trong các bảo tàng và các bộ tư liệu
lịch sử đã và đang phổ biến rộng rãi. Người viết những dòng này xin một
lần nữa khẳng định đó là tấm ảnh giả đóng kịch sau sự kiện 22/12/1944
mười năm.
Xem lại hành tung Hồ Chí Minh mọi người
đều dễ nhận thấy một chuỗi dối trá. Không phải Nguyễn Ái Quốc lại nhận
là Nguyễn Ái Quốc. Không phải tác giả thỉnh nguyện thư gửi Hòa hội Véc
xây năm 1919, nhận là tác giả. Không tham gia thành lập Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí hội lại nhận là người sáng lập. Không biết gì về
nhóm thanh niên Việt Nam đầu tiên có mặt tại trường Đại học Phương Đông
Mạc Tư Khoa lại nhận là do mình lựa chọn. Chỉ tham dự với tư cách quan
sát viên hội nghị hợp nhất hai tổ chức cộng sản để thành lập đảng lại
nhận mình là người sáng lập. Không đủ trình độ lý luận viết Luân cương
chính trị mà chỉ đạo văn của Trần Phú để có cái gọi là chính cương vắn
tắt và sách lược vắn tắt để cướp công Trần Phú (LiKi), Trịnh Đình Cửu
(Lê Đình), Trần Văn Cung (Quốc Anh). Ăn cắp sáng kiến thành lập Mặt trận
Viết Nam Độc lập Đồng minh của Hồ Học Lãm lập tại Nam Kinh năm 1936 để
cố tình xóa bỏ Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương của hội
nghị lần thứ 6 tháng 11 năm 1939. Tư tưởng đồng minh dưới chiêu bài đại
đồng để thực hiện đại Hán đã lò ra từ đây. Không thừa nhận Cứu quốc quân
đã có từ ngày 16 tháng 2 năm 1941, để phịa ra đội Việt Nam truyên
truyền giải phóng quân rồi nhận mình là cha đẻ của quân đội cách mạng kể
từ ngày 22 tháng 12 năm 1944.
Hơn lúc nào hết, mong những người cộng
sản yêu nước chân chính hãy tỉnh táo, sáng suốt, khôn khéo gở bỏ cái dây
thừng Tàu dắt từ khi Hồ Chí Minh xâu được vào mũi mình, để thoát khỏi
vòng cương tỏa, o bế của chúng, cùng toàn dân lập thành phòng tuyến giữ
nước như cha ông ta đã phải đương đầu. Cái bẩy Tau tinh vi, khốn nạn
nhưng không lẽ cứ để vậy mãi sao. Hơn lúc nào hết, mọi đảng viên cộng
sản cần tỉnh táo xác định rõ mối quan hệ giữa dân tộc với đảng lãnh đạo
một cách khách quan, công tâm, khoa học. Bởi đảng là con đẻ của dân tộc,
chứ không phải dân tộc là con đẻ của đảng. Cứu được dân tộc là cứu được
đảng. Nhưng nếu chỉ vì lợi ích cục bộ của đảng mà thực chất là của một
ít cá nhân, hung hăng, tàn bạo nhắm mắt thực hiện điều gọi là “còn đảng
còn mình” tiếp tục lừa gạt, đàn áp tất cả các thành phần ưu tú của toàn
xã hội, chính là tự sát. Bởi dân tộc không toàn thì đảng đứng với ai.
Nước không còn cá sống ở đâu! Trong giờ phút Tổ quốc lâm nguy, tha thiết
mong mọi thành phần xã hội Việt Nam hãy trung với dân, hiếu với nước
theo lời dặn của cha ông : “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”.
Mọi thế lực cơ hội bán nước cầu vinh dù giữ cương vị gì cũng đều là phản bội, thì trời không tha, đất không dung.
Những người con yêu dấu của Dân tộc đã
chiến đấu, hy sinh vì sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, hải đảo của Tổ
Quốc bất luận đứng ở trận tuyến nào đều là Cứu Quốc quân.
Tổ quốc lâm nguy mỗi người dân hãy đứng vào vị trí Cứu Quốc Quân của mình.
***
Trương Văn Lĩnh nhầm
Bốn người vượt ngục
Đắc Min ngày mồng 04 tháng 12 năm 1942 là: Trương Văn Lĩnh, Nguyễn Tạo,
Chu Huệ và Trần Hữu Doanh. Vượt ngục thuở đó không chỉ trốn tránh khỏi
lưới vây bủa của Pháp mà còn sợ nhiều nguồn tai mắt khác nên họ không đi
bất cứ một con đường có sẵn nào kể cả lối mòn quen thuộc mà phải luồn
sâu giữa đại ngàn. Rau rừng, nước suối là nguồn sống để đi. Nhắm hướng
bắc mà đi. Đêm đêm trèo lên cây cao ngủ tránh cọp, ngày vác mỗi người
một gốc nứa già, khô vát nhọn. Kinh nghiệm của người đi rừng dạy họ rằng
cọp sợ nứa nhọn và tiếng cọ tinh nứa khô. Vác dọc ống nứa vát nhọn
thỉnh thoảng lại dùng ống nứa khô ngắn cọ vào khúc nứa khô trên vai như
kéo vĩ cầm nên đi không nhanh nhưng an toàn. Rừng thuở đó còn dày, nhiều
thú dữ, ít người vào tận thâm sơn cùng cốc. Gian nan. Vất vả. Nhưng
tránh được lưới săn tìm vây đuổi của mật thám Pháp (nguồn Nguyễn Tạo).
Ba tháng ròng luồn rừng, lội suối, từ Đắc
Min mới về thấu Nghệ An thì Chu Huệ và Trần Hữu Doanh bị bắt lại.
Nguyễn Tạo không ghé về nhà ở xã Đức Bình, huyện Đức Thọ và Trương Văn
Lĩnh không ghé về Nghi Lộc, Nghệ An nên thoát ra Thanh Hóa thì bắt liên
lạc với cơ sở và hai người được đưa về hai nơi. Nguyễn Tạo ra ngả Đông
Bắc tham gia xây dựng Đệ Tứ chiến khu. Tức chiến khu Đông Triều. Trương
Văn Lĩnh được giao nhiệm vụ xây dựng chiến khu Phú Bình, phía Thái
Nguyên.
Chiến khu Phú Bình lúc đó coi như an toàn
khu giao cho một tiểu đội thanh niên vũ trang bảo vệ. Đội vũ trang ngày
đêm gắn bó với nhiệm vụ nên Trương Văn Lĩnh có phần an tâm và chủ quan.
Hàng tuần vào ngày, giờ, địa điểm quy định Trương Văn Lĩnh tự ra bến đò
nhận công văn chỉ thị. Cũng như thường lệ, không có tín hiệu bất an của
đội bảo vệ, Trương Văn Lĩnh yên chí đi như một người dân bình thường.
Thế là ông bị bắt. Như thể có nội gián chỉ điểm, mật thám Pháp cho tay
chân cải trang phục kích rất kín chực sẵn bên bến đò Hà Châu. Trương Văn
Linh vừa bước tới là bị chúng ùa ra bắt ngay. Tin Trương Văn Lĩnh bị
bắt truyền nhanh. Hai thanh niên bảo vệ hốt hoảng bởi quên nhiệm vụ. Họ
bàn nhau báo cáo với cấp trên là Trương Văn Lĩnh cố tình đi đầu thú.
Một con người lặn lội suốt ba tháng dọc
đường Trường Sơn ăn đói nhịn khát, chống nhau với cọp dữ, rắn độc, sên
vắt, muỗi mòng mới lên được Phú Bình và đang hưng phấn hăng say chuẩn bị
thời cơ giành chính quyền lại tự nhiên đi đầu thú. Chỉ có thằng mất trí
mới tin. Vậy mà có người tin.
Nguyễn Tạo ở chiến khu Đông Triều biết
chuyện, liên hệ với Nguyễn Khang đang phụ trách địa bàn Hà Nội, tìm cách
bắt liên lạc với Trương Văn Lĩnh, bạn vượt ngục của mình. Nhờ cơ sở
binh vận, Nguyễn Khang biết Trương Văn Lĩnh đang bị biệt giam tại nhà tù
Hỏa Lò, Hà Nội. Vậy là Nguyễn Tạo biết rõ lý do Trương Văn Lĩnh bị bắt
là vì hai thanh niên tự vệ làm nhiệm vụ canh gác bỏ vị trí cảnh giới đưa
nhau vào chỗ kín trong rừng làm chuyện gì chỉ có trời mới biết. Để chạy
tội chúng nó đã đổ hết cho người bị bắt. Cũng từ đó, Nguyễn Tạo nghi có
tay trong, mật thám Pháp mới bủa lưới kín đáo đúng giờ, đúng chỗ. Tay
trong đó là ai? Không lẽ. Mỗi lần nhắc đến cái chết của Trương Văn Lĩnh,
cuối cùng Nguyễn Tạo đều để lửng hai tiếng “không lẽ”.
Tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chính Pháp.
Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời. Một trong những việc đầu tiên của Chính
phủ này là yêu cầu Nhật thả hết chính trị phạm trong các nhà tù Pháp.
Trương Văn Lĩnh cùng hàng trăm, hàng nghìn tù nhân bị Pháp bắt giam được
giải thoát dịp đó. Nguyễn Khang đón Trương Văn Lĩnh về bổ sung vào Ban
Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội. Sau ngày mồng 2 tháng 9, yêu cầu cấp thiết của
chính quyền mới là tổ chức lực lượng vũ trang cách mạng. Trương Văn
Lĩnh là một trong số thanh niên tham gia phong trào Đông Du sau ngày
Nhật bắt tay với Pháp nên không sang Đông Kinh mà được gửi vào học
trường quân sự Hoàng Phố thuộc Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tôn Dật
Tiên. Trong số những người tham gia tổ chức cướp chính quyền ở Hà Nội
tại thời điểm đó, Trương Văn Lĩnh là người có kiến thức quân sự hơn cả
nên được chỉ định làm Hiệu trưởng trường Quân chính.
Trong số học viên có mặt ngày khai giảng
khóa đầu tiên lại có hai thanh niên vốn là hai người bảo vệ bỏ vị trí
cảnh giới làm Trương Văn Lĩnh bị bắt. Trớ trêu là chỗ đó. Họ sợ hãi vị
Hiệu trưởng mới nhận ra mình nên đã vội vả viết thư nặc danh tố cáo
Trương Văn Lĩnh đã đầu hàng, là tay chân Pháp chui vào hàng ngũ cách
mạng. Mặt khác hai người này còn rủ rê kích động số học viên mới gặp
nhau gây nên hoang mang trong toàn Khu học xá Bạch Mai (nay là trường
Đại học Bách Khoa).
Biết là có tay trong phá hoại lại đích
danh tố cáo mình, Trương Văn Lĩnh bối rối dường như bế tắc mới nghĩ đến
Hồ Chí Minh đã về làm chủ tịch nước nên viết một lá thư tường trình đầy
đủ quá trình vượt ngục, nguyên nhân bị bắt và đang bị học viên trường
quân chính vu oan giá họa. Hy vọng chủ tịch nước nhớ lại hai lần được
Trương Văn Lĩnh cứu nguy ông ta ở bên Tàu mà minh oan cho mình. Lần thứ
nhất vào tháng 5 năm 1927, đang đêm được tin cảnh sát Tưởng Giới Thạch
sắp vây bắt Lý Thụy, Trương Văn Lĩnh kịp đến báo cho Lý Thụy chạy thoát.
Lần thứ hai vào năm 1931 khi Tống Văn Sơ bị mật thám Anh bắt theo giao
kèo với mật thám Pháp, Trương Văn Lĩnh đã đến tận nhà riêng luật sư
người Anh là Lô giơ bai kêu cứu. Nhờ vậy Tống Văn Sơ mới không rơi vào
tay Pháp, tránh khỏi án tử hình vắng mặt.
Thư cầu cứu gửi đi, Trương Văn Lĩnh hy
vọng sớm được giải oan. Bởi ông tin rằng Hồ Chí Minh là Lý Thụy mà mình
đã cứu sống hai lần thế nào cũng nhớ. Nhưng sau một tuần bặt vô âm tín,
Trương Văn Lĩnh mới nhận được mấy dòng chữ hồi âm viết vào mặt trong bao
thuốc lá Caravenna : “Tổ quốc còn bận trăm công nghìn việc. Chuyện quan
hệ cá nhân xét sau”.
Nhìn hàng chữ vừa bất lịch sự, thiếu văn
hóa vừa vong ân, Trương Văn Lĩnh quá uất ức phẩn nộ, chưa kịp nghĩ rằng
đó là âm mưu thâm độc của người không muốn có mặt mình trên cõi đời này.
Ông ngồi xếp bằng bình tĩnh lấy khăn quàng thắt thòng lọng vào cổ mình
rồi dùng hai tay kéo thẳng ngang sang hai bên. Cho đến khi tắt thở ông
vẫn ngồi yên theo tư thế của một cây thánh giá dựng giữa giáo đường.
Được tin Trương Văn Lĩnh thắt cổ, Nguyễn Tạo, Nguyễn Khang … chạy đến nhưng cứu không kịp.
Vốn là một con chiên ngoan đạo, yêu nước, Trương Văn Lĩnh về với Đức Chúa Trời trong tư thế lẫm liệt như vậy đó.
“Đời tôi chưa bao giờ khóc ai to và thống
thiết đến thế”. Có lần Nguyễn Tạo đã nói với đồng nghiệp, bạn bè và
thuộc cấp tại Tổng Cục Lâm Nghiệp ở số nhà 25 đường Lò Đúc, Hà Nội như
vậy. Ông là người vuốt mắt cho bạn vượt ngục thủy chung, son sắt của
mình.
Hồ Chí Minh bình chân như vại và yên tâm
nghĩ rằng, những người ít nhiều có biết Lý Thụy, Nguyễn Tất Thành, Tống
Vân Sơ … dần dần sẽ không còn ai.
Trương Văn Lĩnh chết. Bị tuyên bố kỷ
luật. Hai học viên viết thư nặc danh gây nên cái chết đó chính là hai
người được giao nhiệm vụ cảnh giới bảo vệ Trương Văn Lĩnh tại chiến khu
Phú Bình.
Cái hay là người có tội đã nên công. Tay
đàn ông được cất nhắc dần lên chức Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản. Ả
đàn bà leo lên chức Trưởng ban Kiểm tra đảng. Đó là cặp vợ chồng Nguyễn
Trọng Tĩnh và Hà Thị Quế – tác giả “chính hiệu con nai vàng” về cái chết
của Trương Văn Lĩnh.
Nếu Hồ Chí Minh đúng là Tống Vân Sơ – Lý Thụy thì đời nào lại về hùa với hai kẻ vu oan giá họa kia.
Trương Văn Lĩnh nhầm.
Ghi chú về 4 người vượt ngục:
- Trương Văn Lĩnh (như trên).
- Trần Hữu Doanh không rõ.
- Chu Huệ bị xử tử trong cải cách ruộng đất với tội danh là Quốc Dân đảng phản động.
- Nguyễn Tạo (Tạo Cuội- bị Pháp tra tấn vẫn lì như cuội, sỏi) cuối đời vận động lập làng Lâm nghiệp đầu nguồn và xây dựng công sự chống Tàu dọc biên giới Việt – Trung. Bị bắc. Chết bệnh, chôn theo niềm nghi vấn đắng cay: “Không lẽ”.
***
May còn có Jao và may còn có Phông Sông
Nhiều nhà báo, nhà giáo, nhà sử miền Bắc
gần thế kỷ qua không ngớt lời ca tụng công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Rất tiếc, công lao đó lại ít căn cứ vào hành tung cụ thể về tính trung
thực mà chỉ dựa vào huyền thoại của vài cuốn sách dưới dạng xảo thuật
như “Lịch sử nước ta”. “Những mẫu chuyện về đời hoạt động cách mạng của Hồ chủ tịch”. “Vừa đi đường vừa kể chuyện”. “Giấc ngủ mười năm”... của các tác giả Trần Dân Tiên, T.Lan. Hồ Quang, Trần Lực…
Xin thưa. Các tác giả này cũng chính là Hồ Chí Minh.
Chưa nói phẩm chất chính khách mà người cầm bút bình thường, minh bạch,
đàng hoàng không ai lại vòng vo li kì để tự tâng bốc mình. Nói theo
kiểu các bà miệt vườn quê tôi : Xạo. Ai lại làm thế. Vậy mà đã có người
làm.
“Triệu Đà là tổ nước ta.
Nước ta khi đó gọi là Văn Lang”
(Lịch sử nước ta, Pắc Bó 1941, bản in li tô).
Nhầm hay cố ý xem hồi sau sẽ rõ. Thật lắm chuyện để viết về con người này. Xin được trình “May còn có Jao và may còn có Phôngsông” trước.
Bởi các nhà báo, nhà giáo, nhà sử, nhà
văn, nhà thơ… đều đồng loạt viết Hồ Chí Minh là người sáng lập Việt Nam
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, là người trực tiếp huấn luyện, giảng
dạy và cũng lại là người đã chọn thanh niên ưu tú giới thiệu với Mạc Tư
Khoa. Ý thức trách nhiệm chuẩn bị nhân sự cho cách mạng Việt Nam như thế
quả là quá vĩ đại nói mấy đời người không hết.
Chỉ riêng chuyện ở trường Đại học Phương Đông, Mạc Tư Khoa cũng đủ soi sáng công lao vĩ đại đó lắm rồi.
Năm 1929, Nguyễn Sinh Cung từ Thái Lan
vừa qua Mạc Tư Khoa thì được tin tại trường Đại học Phương Đông có năm
người Việt Nam đang theo học và đã thành lập chi bộ đảng. Dưới tên Nga
là Line, Nguyễn Sinh Cung xin đến trường gặp gỡ thăm viếng năm thanh
niên trên. Lần đầu cả năm người này đều từ chối với lý do không quen
biết và không có người giới thiệu. Vài ngày sau Line lại đến nhờ người
gác tại phòng thường trực vào Ký túc xá nói với Liki. Liki từ chối gặp.
Nhưng Litvi có vẻ ái ngại rồi bàn với anh em nên gặp vì dù sao cũng là
một đồng hương xa xứ. Nhưng chỉ gặp ngoài thường trực thôi. Cả nhóm năm
người đồng ý kéo nhau ra cổng trường. Hai bên chào hỏi vài câu lấy lệ
rồi chia tay ngay. Không đàm đạo trò chuyện gì. Bởi với hiểu biết của
nhóm thanh niên này thì Nguyễn Sinh Cung từng làm việc cho Pháp, lai
lịch không rõ ràng nhất là không thuộc tuyến, không thuộc đường dây hoạt
động, không có người giới thiệu. Mặt khác, từ sau ngày Phan Bội Châu bị
Pháp đón bắt ở Thượng Hải (1/6/1925), Lý Thụy trở thành kẻ nghi can
đáng ngại nhất. Hơn nữa, cảnh giác là nội quy và cũng là điều lệnh của
nhà trường mà cả nhóm đều phải tuân thủ.
Vì thế, buổi tiếp xúc lần đầu và cũng là
lần cuối quá thờ ơ, nhạt nhẽo nên Line chỉ biết sơ qua tên tiếng Nga của
vài người thôi. Không ai giới thiệu tên tiếng Việt của mình với anh ta.
Vả lại, cuộc giao tiếp quá ngắn ngủi vài câu chào hỏi chỉ bằng tiếng
Nga. Theo Phôngsông tiếng Nga của Line cũng bập bõm không hơn gì tiếng
Pháp.
Trong số năm thanh niên thành lập chi bộ
đảng cộng sản tại trường Đại học Phương Đông năm 1929, thì Phôngsông,
Litvi và Ruki là thành viên của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
hội, Jao là của đảng Thanh niên Sài Gòn và Liki là của Tân Việt. Họ đều
là những thanh niên ưu tú được Tổng bộ Thanh niên lựa chọn và giới thiệu
với trường Đại học Phương Đông. Hơn ai hết họ biết rõ Tổng bộ, biết rõ
người sáng lập và huấn luyện họ. Đó là Hồ Tùng Mậu, Lê Duy Điếm, Lê Văn
Phan (tức Lê Hồng Sơn), Lê Hồng Phong.
Điều này chứng tỏ Nguyễn Sinh Cung,
Nguyễn Tất Thành hay Lý Thụy không hề là người sáng lập Việt Nam Thanh
niên Cách mạng Đồng chí Hội, không hề là người tham gia giảng dạy tại
các khóa huấn luyện ngắn ngày (có kiến thức đâu mà dạy) và càng không hề
là người chọn gửi “một số thanh niên đi học để chuẩn bị nhân sự cho
cách mạng Việt Nam” như các nhà sử, nhà giáo, nhà báo miền Bắc đã ngợi
ca, thêu dệt trong các tác phẩm biên khảo hay giáo trình, giáo khoa của
họ. Lê Hồng Phong học tại trường quân chính Xô Viết cũng không hề tiếp
Lý Thụy – Nguyễn Sinh Cung. Mặc dầu Lê Hồng Phong cũng là yếu nhân của
Tâm Tâm xã tiền thân của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội.
Người đã từng nằm trong Tổng bộ của tổ chức này.
Nếu cả năm vị thanh niên trên không còn
ai thì công lao vĩ đại nhất định thuộc về “bác”. Bác là người sáng lập,
là người huấn luyện, đào tạo, là người gửi thanh niên sang học các
trường Đại học quốc tế, là người dày công chuẩn bị nhân sự cho cách mạng
Việt Nam…
Nhưng thưa không phải. Bác nhận vơ thôi.
Thực tế thì sau tiếng bom Sa Điện của Phạm Hồng Thái (19/6/1924) không
ai dại gì mà giao dịch với người ngoài tuyến, nhất là những người đã
từng làm công cho Pháp, từ Pháp đến. Lý Thụy lảng vảng ở Quảng Châu vài
năm (1925-1926) không bám vào đâu được, phải chạy sang Thái Lan. Nhưng ở
đây theo Đông Tùng – Nguyễn Tư Hồng thì tuyến Vương Thúc Oánh (con rể
Phan Bội Châu), Đặng Quỳnh Anh (em ruột Đặng Thúc Hứa) không tin Chín
Thậu nên ông ta lại phải chạy sang Nga. Đó là những ngày Chín Thậu –
Nguyễn Sinh Cung mong làm quen với nhóm thanh niên Việt Nam, tại trường
Đại học Phương Đông. Cũng như ở Thái, ông ta bị nghi ngờ nên cuộc gặp
hết sức nhạt nhẽo. Nếu không muốn nói là bị tẩy chay.
Lê Duy Điếm, Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong
đều chết trước năm 1945. Hồ Tùng Mậu bị “máy bay Pháp” bắn chết trong
lần một mình một ngựa đi đường tại vùng tự do đầu những năm kháng chiến 9
năm. Cái chết của ông cũng giống như cái chết của Trung tướng Nguyễn
Bình ở Nam Bộ và Phùng Chí Kiên ở Bắc Cạn. Thật đáng ngờ. Tưởng hết nhân
chứng.
May là ông Trời không muốn dân ta bị lừa
suốt bến nên đã để Jao và Phôngsông thầm lặng sống hết tuổi già ở Hà
Nội. Jao chính là Giao lấy tên từ “giáo” là người từng làm nghề dạy học
tại Sài Gòn trước năm 1928. Đó là Bùi Công Trừng ở số 4 Dốc Ngọc Hà, Hà
Nội. Phôngsông chính là Bùi Lâm ở số 5 Dã Tượng, Hà Nội. Cả hai người
này đã khẳng định là lúc đầu năm người đều từ chối tiếp. Nhưng Litvi –
Ngô Đức Trì lấy lẽ đồng hương, nên cả bọn kéo nhau ra thường trực nhìn
cho biết mặt thôi. Dứt khoát không cho anh ta vào Ký túc xá. Vụ Phan Bội
Châu bị Pháp đón bắt ở Thượng Hải còn mới quá.
Như vậy là trước đó họ chưa biết nhau.
Chưa cùng hội cùng thuyền với nhau nên tiếp một cách xã gia miễn cưỡng.
Điều này chứng tỏ, người nọ không tổ chức, dạy bảo, giới thiệu người
kia.
Nếu Lý Thụy quả thật có tham gia sáng lập
Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, có tham gia huấn luyện hội
viên, lại là người lựa chọn, giới thiệu thanh niên Việt Nam để gửi sang
Liên Xô đào tạo, theo tài liệu tuyên truyền và giảng dạy, thì năm thanh
niên trên không đời nào xử sự với anh ta như thế. Đạo lý Việt Nam ai
cũng coi trọng thầy theo lẽ “Quân, Sư, Phụ với ân nghĩa “nhất tự vi sư,
bán tự vi sư”.
Như vây là về người thỉnh thoảng có ra
mắt thính giảng vài giờ tại một hai khóa huấn luyện cấp tốc, mà một vài
người thuật lại, phải chăng là Liêu Trọng Khải, Hội trưởng “Hội Liên
hiệp các Dân tộc bị áp bức ở Á Châu” do người Tàu lập ra. Vì lén lút
nhập nhoạng trong tình thế hoạt động bị mật, nhiều người về sau tưởng
ông đó là Nguyễn Ái Quốc “hữu danh” từ lâu. Bên cố ý, bên vô tâm. Nhầm
lẩn do láu cá và ngộ nhận là thế. Đôi khi cái bệnh mãn tính “thấy sang
bắt quàng làm họ” đã làm cho một số người đời thêu dệt thêm.
Liki là Trần Phú. Litvi là Ngô Đức Trì.
Rucki là Nguyễn Thế Rục đều đã qua đời khi chưa kịp viết di chúc. May
còn có Jao và may còn có Phôngsông.
Trước anh linh năm vị tiền bối từng là
sinh viên trường Đại học Phương Đông Mạc Tư Khoa (1928-1929), tôi có bổn
phận nói lên sự thật và sau khi viết được những dòng này tự cảm thấy
lấy làm mãn nguyện. Nếu có điều gì chẳng hay đến với tôi, tôi thanh thản
ra đi không mảy may ân hận.
No comments:
Post a Comment