HỒ CHÍ MINH là Hồ Tập Chương, dân Ðài Loan
Tri’ch Posted by Quản trị on February 8, 2009
Thiên Ðức
Vào ngày 1 tháng 11 năm 2008, một tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Hoa mang tên “HỒ CHÍ MINH SANH BÌNH KHẢO” (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do tác giả Giáo sư Hồ Tuấn Hùng (Ðài Loan) được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Ðài Loan (mã số ISBN: 9789866820779). (ISBN: International Standard Book Number).
Hình số 1: Sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo
Tác phẩm được sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc bởi những nét đặc trưng như sau:
1)- Tác giả Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949 là người gốc sắc tộc Khách Gia ở Ðài Loan, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Ðại Học Quốc Lập Ðài Loan, có kinh nghiệm giáo chức 30 năm đồng thời ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Cuộc đời và sự nghiệp hoàn toàn không có quan hệ gì đến cuộc chiến Việt Nam. Tác phẩm chính là hoài vọng của tác giả mong mỏi đem lại một sự thật lịch sử rằng Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, thuộc cho dòng giống Khách Gia (Hakka) tại Ðài Loan. Tác phẩm không mang tính phê bình hay ủng hộ cá nhân Hồ Chí Minh. Ngoài ra ông còn là tác giả của những tác phẩm như Dịch Kinh Tân Thuyên, Dịch Kinh Ðại Diễn Chiêm Phệ, Dương Trạch Phong Thủy, Trạch Nhật Bảo Ðiển, Lưỡng Hán Mệnh Lý Tư Tưởng Giản Giới.
2)- Tác phẩm: Là một công trình nghiên cứu nghiêm túc trong nhiều năm, với phần tham khảo, trưng dẫn tài liệu bằng Hoa, Anh, Pháp, Nhật, Việt kể cả hình ảnh của Hồ Chí Minh và Hồ Tập Chương qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tập sách dày 342 trang, xuất bản lần thứ nhất bằng tiếng Hoa, đến thời điểm bài viết này chưa có bản dịch chính thức tiếng Việt hay tiếng nước ngoài nào khác.
3)- Nội dung: Theo phần trích và điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính trong bài viết “Nhận xét về Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” .
Nội dung Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo chia làm 6 thiên [không kể lời nói đầu và một số thư giới thiệu]:
Thiên thứ nhất: Màn kịch thay long đổi phượng (Thâu Long Chuyển Phượng đích hí khúc)
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Ái Quốc tử vong đích chân tướng)
Nguyên ủy của việc Nguyễn Ái Quốc chết rồi sống lại (Nguyễn Ái Quốc tử nhi phục sinh đích hí mã)
Thiên thứ hai: Việc thật giả của kế Kim Thiền Thoát Xác (Kim Thiền Thoát Xác chân giả nhân sinh)
Thiên thứ ba: Những năm tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư: Khúc tình ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm: Bản văn Nhật Ký Trong Tù và bản di chúc (Hán Văn “Ngục Trung Nhật Ký” dữ di chúc)
Thiên thứ sáu: Lời kết hạ màn (Lạc Mạc Cảm Ngôn)
Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ Chí Minh [tức Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng là đúng sự thực và sau đó là Hồ Tập Chương, một người Ðài Loan đồng tộc với tác giả giả dạng theo cái kế mà người Trung Hoa gọi là “thâu long chuyển phượng” và “kim thiền thoát xác”.
Cũng nên nói thêm, Hồ Tập Chương, người đóng vai ông Hồ Chí Minh sau này kém Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi [theo năm sinh 1890 mà người ta ghi trên tiểu sử, mặc dù tuổi thật theo một số nguồn có thể còn cao hơn] và đây cũng là một điểm ông Hồ Tuấn Hùng dùng để chứng minh ông Hồ Chí Minh là giả hiệu mà chúng tôi sẽ đề cập đến sau.
1. Lý giải thứ nhất: Ông Nguyễn Ái Quốc [thật] dốt chữ Hoa, Hồ Chí Minh [giả] phải là người Trung Hoa mới có thể làm thơ được.
Theo lối tính của tác giả Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Hồ Chí Minh cho đến năm 21 tuổi không thể được học Hán văn quá 3 năm, còn tiếng Việt và tiếng Pháp không thể quá 4 năm rồi kết luận (tr. 258):
2. Lý giải thứ hai: Hồ Chí Minh trẻ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi, không thể già như người ta nói
Ðể chứng minh tuổi “thật” của ông “Hồ Chí Minh” giả kia phải thấp hơn năm sinh 1890, Hồ Tuấn Hùng căn cứ vào câu sau đây trong bản di chúc ông Hồ viết năm 1969 để giải thích: “Ông Ðỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung quốc, đời nhà Ðường có câu rằng nhân sinh thất thập cổ lai hy nghĩa là người thọ 70 xưa nay hiếm!”.
“Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây …”
Từ câu này, Hồ Tuấn Hùng lý luận:
Theo đoạn di chúc này, bút giả [tức Hồ Tuấn Hùng] nhận định rằng [câu này] phải là “nay tôi vừa sáu mươi chín tuổi” và đã bị sửa thành “nay tôi vừa bảy mươi chín tuổi”, vết sửa còn ngấn rõ ràng. Câu di chúc đó phải hiểu như sau:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hi, năm nay, tôi vừa đến tuổi sáu mươi chín, đã vào hạng người xưa nay hiếm rồi. Có như thế thì văn mới thông? … Không lẽ ông Hồ Chí Minh là người thông hiểu Hán văn lại viết một câu mâu thuẫn kém ngữ pháp như thế ?
Tiếp theo, Hồ Tuấn Hùng cho rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương] khi đó mới 69 tuổi [sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901] nên việc ông Hồ so sánh tuổi 79 với câu “nhân sinh thất thập cổ lai hy” là không phù hợp [mà chỉ 69 mới thích đáng] (tr. 313-4).
3. Lý giải thứ ba: Hồ Chí Minh [giả] rất “kém” tiếng Việt, dịch một câu ngắn cũng không thông [vì là người Hoa mới học].
Ðể chứng minh rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương giả dạng] không rành tiếng Việt khi viết những bài xã luận đăng trên Cứu Vong Nhật Báo [năm 1940], Hồ Tuấn Hùng đưa ra một bài viết nhan đề Thiên Thượng Cố Muội có chú thích ngay bên cạnh bằng quốc ngữ “Ông Trời Có Mắt” [để trong ngoặc đơn].
Theo ông, nếu hiểu nghĩa câu “ông trời có mắt” một cách rành mạch thì phải dịch ra chữ Hán tương đương là Hoàng Thiên Hữu Nhãn mới phải. Từ so sánh này, Hồ Tuấn Hùng cho rằng khi đó vì mới học tiếng Việt nên ông Hồ Chí Minh [Hồ Tập Chương] đã hiểu sai một “cụm từ” rất thông thường (tr. 190-1).
Luận cứ Hồ Tuấn Hùng để nhiều trang chứng minh rằng phải người Trung Hoa được học từ nhỏ là thư pháp [phép viết chữ Hán]. Xét những lần Hồ Chí Minh thăm Trung Hoa năm 1959, 1961 ông đã trổ tài đề chữ lưu niệm, theo Hồ Tuấn Hùng phải là “người học thuần thục tiếng mẹ đẻ mới làm nổi” đi đến kết luận Hồ Chí Minh không thể là Nguyễn Ái Quốc (tr. 305). (1)
(hết trích)
Bài viết điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính có phần nghiêm túc thế nhưng phần phản biện đã không đưa ra được một tài liệu, hay một chứng cứ nào có thể lật đổ luận chứng của tác giả Hồ Tuấn Hùng, mà lại vội vàng kết luận phủ định sạch trơn (như sau) e rằng đã tự hạ thấp giá trị và trình độ viết lách của chính mình chăng (?)
Hơn thế nữa, vào thời kỳ 1930, Nguyễn Ái Quốc [sau này là Hồ Chí Minh] chỉ mới là một cán bộ cỡ trung, so với nhiều người khác ngay trong các cán bộ thuộc Á Ðông Vụ ông cũng chưa phải là con bài sáng giá thì hà cớ gì đảng cộng sản Trung Hoa phải mất công dàn dựng cho người đóng giả ?
Chẳng ai lại rỗi hơi “buôn” một ông vua trong khi chính những đầu não của Trung Hoa thời đó như Mao Trạch Ðông, Chu Ðức, Chu Ân Lai … còn long đong, luân lạc, sống nay chết mai.
Tác giả cũng không cho biết một chi tiết cụ thể nào chứng minh những điều ông nghe được quả thực xảy ra, chưa kể nguồn tin vốn từ những người hoàn toàn không có thẩm quyền hay vai trò quan trọng. Ông “bán thịt lợn” hay thương gia Ðài Loan đều vô danh, không ai biết tung tích ra thế nào.
Viết sử nếu chỉ dựa trên những “tin đồn” hay “nguồn tin riêng trong gia tộc” thì ít khi được công nhận một cách chính thức. Nghi án Hồ Chí Minh trong 37 năm sau cùng là một người Trung Hoa giả dạng thật không có gì đáng cho chúng ta tin. (1)
Bài viết này, không nhằm bình phẩm sách “Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo” bởi lý do người viết chưa có cơ hội đọc được bản chính tác phẩm nói trên. Thế nhưng nhân cơ hội này người viết có thể đặt vấn đề như sau: “Ông Hồ Chí Minh là người Hoa có thật hay không ?”
Ðây là một vấn đề nghiêm túc cần được sự lý giải rõ ràng bởi lý do:
Có hai giả thiết để trả lời câu hỏi nêu trên:
1)- Hồ Chí Minh không phải là người Hoa: Ðây chính là công việc của đảng csvn và những ai từng tôn thờ và binh vực cho ông Hồ Chí Minh phải làm bằng những công trình nghiên cứu phản biện có chứng cứ, tài liệu mang tính thuyết phục chứ không phải là những bài báo hàm hồ phản bác qua loa không thể nào đánh tan được nguồn dư luận này. Rất tiếc cho đến nay đảng csvn chưa hề lên tiếng hay phản biện chính thức về vấn đề này. Chúng ta đành chờ đợi vậy.
2)- Hồ Chí Minh là người Hoa thật sự theo như luận cứ của ông Hồ Tuấn Hùng.
Ðọc lại tác phẩm Trần Dân Tiên cũng như xét lại hành động của Hồ Chí Minh khi còn sống đã tự xưng là cha già dân tộc Việt nam, cũng từng kiêu hãnh so sánh công lao của mình là một người Hoa ngang hàng với vua tổ Hùng Vương, Trần Hưng Ðạo.
Ngày 18/9/1954, trước Ðền Hạ thuộc Ðền Hùng, Phú Thọ, ông Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn quân Tiền Phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Bác căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” ! (2)
Ðây là một quốc nhục cho tất cả những ai mang dòng máu Việt Nam kể cả trong và ngoài nước Cọng Sản hay không Cọng Sản. Ðảng csvn phải là người chịu trách nhiệm chính đã gây ra mối quốc nhục này.
Ðể tìm hiểu sự thật, không gì hơn lấy mốc thời gian từ giai đoạn Nguyễn Ái Quốc xuất dương đến lúc ở tù từ 1931 – 1933 so sánh với con người Hồ Chí Minh xuất hiện trở lại sau năm 1934 có phải là một người hay không ?
Trong trường hợp, Hồ Chí Minh đóng được vai Nguyễn Ái Quốc, phải là một điệp viên quốc tế siêu hạng đã đánh lừa được cả thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ qua.
Trình độ tình báo quốc tế vào thập niên 40s có thể huấn luyện con người có tác phong giọng nói của hai người giống nhau, cũng như giải phẫu chỉnh hình theo một đối tượng nào đó thật dễ dàng. Nhưng không có khả năng tái tạo hay nhân bản vô tính (Cloning) hai con người khác nhau như hiện nay. Vì thế, nếu nhân vật Hồ Chí Minh đóng vai Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể thực hiện được về mặt hình thức và sinh hoạt thường ngày mà thôi, không thể nào có sự giống nhau trong các lãnh vực vượt quá khả năng tác động của con người. Ðó là:
- Hồ sơ bịnh lý
- Khả năng tiếng Hoa
- Tình cảm gia đình
- Ức chế tình cảm cuối đời
Do vậy mời bạn đọc cùng chúng tôi so chiếu lại con người thực tế của hai nhân vật này có phải là một hay không. Nếu có sự khác biệt thì câu hỏi ai là tác giả của vụ án buôn vua này cũng cần phải giải mã vậy.
Vào ngày 1 tháng 11 năm 2008, một tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Hoa mang tên “HỒ CHÍ MINH SANH BÌNH KHẢO” (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do tác giả Giáo sư Hồ Tuấn Hùng (Ðài Loan) được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Ðài Loan (mã số ISBN: 9789866820779). (ISBN: International Standard Book Number).
Hình số 1: Sách Hồ Chí Minh sanh bình khảo
Tác phẩm được sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc bởi những nét đặc trưng như sau:
1)- Tác giả Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949 là người gốc sắc tộc Khách Gia ở Ðài Loan, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Ðại Học Quốc Lập Ðài Loan, có kinh nghiệm giáo chức 30 năm đồng thời ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Cuộc đời và sự nghiệp hoàn toàn không có quan hệ gì đến cuộc chiến Việt Nam. Tác phẩm chính là hoài vọng của tác giả mong mỏi đem lại một sự thật lịch sử rằng Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, thuộc cho dòng giống Khách Gia (Hakka) tại Ðài Loan. Tác phẩm không mang tính phê bình hay ủng hộ cá nhân Hồ Chí Minh. Ngoài ra ông còn là tác giả của những tác phẩm như Dịch Kinh Tân Thuyên, Dịch Kinh Ðại Diễn Chiêm Phệ, Dương Trạch Phong Thủy, Trạch Nhật Bảo Ðiển, Lưỡng Hán Mệnh Lý Tư Tưởng Giản Giới.
2)- Tác phẩm: Là một công trình nghiên cứu nghiêm túc trong nhiều năm, với phần tham khảo, trưng dẫn tài liệu bằng Hoa, Anh, Pháp, Nhật, Việt kể cả hình ảnh của Hồ Chí Minh và Hồ Tập Chương qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tập sách dày 342 trang, xuất bản lần thứ nhất bằng tiếng Hoa, đến thời điểm bài viết này chưa có bản dịch chính thức tiếng Việt hay tiếng nước ngoài nào khác.
3)- Nội dung: Theo phần trích và điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính trong bài viết “Nhận xét về Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo” .
Nội dung Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo chia làm 6 thiên [không kể lời nói đầu và một số thư giới thiệu]:
Thiên thứ nhất: Màn kịch thay long đổi phượng (Thâu Long Chuyển Phượng đích hí khúc)
Sự thật về cái chết của Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Ái Quốc tử vong đích chân tướng)
Nguyên ủy của việc Nguyễn Ái Quốc chết rồi sống lại (Nguyễn Ái Quốc tử nhi phục sinh đích hí mã)
Thiên thứ hai: Việc thật giả của kế Kim Thiền Thoát Xác (Kim Thiền Thoát Xác chân giả nhân sinh)
Thiên thứ ba: Những năm tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc (Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư: Khúc tình ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm: Bản văn Nhật Ký Trong Tù và bản di chúc (Hán Văn “Ngục Trung Nhật Ký” dữ di chúc)
Thiên thứ sáu: Lời kết hạ màn (Lạc Mạc Cảm Ngôn)
Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ Chí Minh [tức Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng là đúng sự thực và sau đó là Hồ Tập Chương, một người Ðài Loan đồng tộc với tác giả giả dạng theo cái kế mà người Trung Hoa gọi là “thâu long chuyển phượng” và “kim thiền thoát xác”.
Cũng nên nói thêm, Hồ Tập Chương, người đóng vai ông Hồ Chí Minh sau này kém Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi [theo năm sinh 1890 mà người ta ghi trên tiểu sử, mặc dù tuổi thật theo một số nguồn có thể còn cao hơn] và đây cũng là một điểm ông Hồ Tuấn Hùng dùng để chứng minh ông Hồ Chí Minh là giả hiệu mà chúng tôi sẽ đề cập đến sau.
1. Lý giải thứ nhất: Ông Nguyễn Ái Quốc [thật] dốt chữ Hoa, Hồ Chí Minh [giả] phải là người Trung Hoa mới có thể làm thơ được.
Theo lối tính của tác giả Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Hồ Chí Minh cho đến năm 21 tuổi không thể được học Hán văn quá 3 năm, còn tiếng Việt và tiếng Pháp không thể quá 4 năm rồi kết luận (tr. 258):
2. Lý giải thứ hai: Hồ Chí Minh trẻ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi, không thể già như người ta nói
Ðể chứng minh tuổi “thật” của ông “Hồ Chí Minh” giả kia phải thấp hơn năm sinh 1890, Hồ Tuấn Hùng căn cứ vào câu sau đây trong bản di chúc ông Hồ viết năm 1969 để giải thích: “Ông Ðỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung quốc, đời nhà Ðường có câu rằng nhân sinh thất thập cổ lai hy nghĩa là người thọ 70 xưa nay hiếm!”.
“Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là hạng người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây …”
Từ câu này, Hồ Tuấn Hùng lý luận:
Theo đoạn di chúc này, bút giả [tức Hồ Tuấn Hùng] nhận định rằng [câu này] phải là “nay tôi vừa sáu mươi chín tuổi” và đã bị sửa thành “nay tôi vừa bảy mươi chín tuổi”, vết sửa còn ngấn rõ ràng. Câu di chúc đó phải hiểu như sau:
“Nhân sinh thất thập cổ lai hi, năm nay, tôi vừa đến tuổi sáu mươi chín, đã vào hạng người xưa nay hiếm rồi. Có như thế thì văn mới thông? … Không lẽ ông Hồ Chí Minh là người thông hiểu Hán văn lại viết một câu mâu thuẫn kém ngữ pháp như thế ?
Tiếp theo, Hồ Tuấn Hùng cho rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương] khi đó mới 69 tuổi [sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901] nên việc ông Hồ so sánh tuổi 79 với câu “nhân sinh thất thập cổ lai hy” là không phù hợp [mà chỉ 69 mới thích đáng] (tr. 313-4).
3. Lý giải thứ ba: Hồ Chí Minh [giả] rất “kém” tiếng Việt, dịch một câu ngắn cũng không thông [vì là người Hoa mới học].
Ðể chứng minh rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương giả dạng] không rành tiếng Việt khi viết những bài xã luận đăng trên Cứu Vong Nhật Báo [năm 1940], Hồ Tuấn Hùng đưa ra một bài viết nhan đề Thiên Thượng Cố Muội có chú thích ngay bên cạnh bằng quốc ngữ “Ông Trời Có Mắt” [để trong ngoặc đơn].
Theo ông, nếu hiểu nghĩa câu “ông trời có mắt” một cách rành mạch thì phải dịch ra chữ Hán tương đương là Hoàng Thiên Hữu Nhãn mới phải. Từ so sánh này, Hồ Tuấn Hùng cho rằng khi đó vì mới học tiếng Việt nên ông Hồ Chí Minh [Hồ Tập Chương] đã hiểu sai một “cụm từ” rất thông thường (tr. 190-1).
Luận cứ Hồ Tuấn Hùng để nhiều trang chứng minh rằng phải người Trung Hoa được học từ nhỏ là thư pháp [phép viết chữ Hán]. Xét những lần Hồ Chí Minh thăm Trung Hoa năm 1959, 1961 ông đã trổ tài đề chữ lưu niệm, theo Hồ Tuấn Hùng phải là “người học thuần thục tiếng mẹ đẻ mới làm nổi” đi đến kết luận Hồ Chí Minh không thể là Nguyễn Ái Quốc (tr. 305). (1)
(hết trích)
Bài viết điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính có phần nghiêm túc thế nhưng phần phản biện đã không đưa ra được một tài liệu, hay một chứng cứ nào có thể lật đổ luận chứng của tác giả Hồ Tuấn Hùng, mà lại vội vàng kết luận phủ định sạch trơn (như sau) e rằng đã tự hạ thấp giá trị và trình độ viết lách của chính mình chăng (?)
Hơn thế nữa, vào thời kỳ 1930, Nguyễn Ái Quốc [sau này là Hồ Chí Minh] chỉ mới là một cán bộ cỡ trung, so với nhiều người khác ngay trong các cán bộ thuộc Á Ðông Vụ ông cũng chưa phải là con bài sáng giá thì hà cớ gì đảng cộng sản Trung Hoa phải mất công dàn dựng cho người đóng giả ?
Chẳng ai lại rỗi hơi “buôn” một ông vua trong khi chính những đầu não của Trung Hoa thời đó như Mao Trạch Ðông, Chu Ðức, Chu Ân Lai … còn long đong, luân lạc, sống nay chết mai.
Tác giả cũng không cho biết một chi tiết cụ thể nào chứng minh những điều ông nghe được quả thực xảy ra, chưa kể nguồn tin vốn từ những người hoàn toàn không có thẩm quyền hay vai trò quan trọng. Ông “bán thịt lợn” hay thương gia Ðài Loan đều vô danh, không ai biết tung tích ra thế nào.
Viết sử nếu chỉ dựa trên những “tin đồn” hay “nguồn tin riêng trong gia tộc” thì ít khi được công nhận một cách chính thức. Nghi án Hồ Chí Minh trong 37 năm sau cùng là một người Trung Hoa giả dạng thật không có gì đáng cho chúng ta tin. (1)
Bài viết này, không nhằm bình phẩm sách “Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo” bởi lý do người viết chưa có cơ hội đọc được bản chính tác phẩm nói trên. Thế nhưng nhân cơ hội này người viết có thể đặt vấn đề như sau: “Ông Hồ Chí Minh là người Hoa có thật hay không ?”
Ðây là một vấn đề nghiêm túc cần được sự lý giải rõ ràng bởi lý do:
- Liên quan đến sự sinh tồn của đảng cọng sản Việt Nam, nếu thật sự đi tôn thờ thần tượng của mình chính là một người Hoa
- Ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử cận đại vừa qua và sắp đến.
Có hai giả thiết để trả lời câu hỏi nêu trên:
1)- Hồ Chí Minh không phải là người Hoa: Ðây chính là công việc của đảng csvn và những ai từng tôn thờ và binh vực cho ông Hồ Chí Minh phải làm bằng những công trình nghiên cứu phản biện có chứng cứ, tài liệu mang tính thuyết phục chứ không phải là những bài báo hàm hồ phản bác qua loa không thể nào đánh tan được nguồn dư luận này. Rất tiếc cho đến nay đảng csvn chưa hề lên tiếng hay phản biện chính thức về vấn đề này. Chúng ta đành chờ đợi vậy.
2)- Hồ Chí Minh là người Hoa thật sự theo như luận cứ của ông Hồ Tuấn Hùng.
Ðọc lại tác phẩm Trần Dân Tiên cũng như xét lại hành động của Hồ Chí Minh khi còn sống đã tự xưng là cha già dân tộc Việt nam, cũng từng kiêu hãnh so sánh công lao của mình là một người Hoa ngang hàng với vua tổ Hùng Vương, Trần Hưng Ðạo.
Ngày 18/9/1954, trước Ðền Hạ thuộc Ðền Hùng, Phú Thọ, ông Hồ Chí Minh đã nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn quân Tiền Phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Bác căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” ! (2)
Ðây là một quốc nhục cho tất cả những ai mang dòng máu Việt Nam kể cả trong và ngoài nước Cọng Sản hay không Cọng Sản. Ðảng csvn phải là người chịu trách nhiệm chính đã gây ra mối quốc nhục này.
Ðể tìm hiểu sự thật, không gì hơn lấy mốc thời gian từ giai đoạn Nguyễn Ái Quốc xuất dương đến lúc ở tù từ 1931 – 1933 so sánh với con người Hồ Chí Minh xuất hiện trở lại sau năm 1934 có phải là một người hay không ?
Trong trường hợp, Hồ Chí Minh đóng được vai Nguyễn Ái Quốc, phải là một điệp viên quốc tế siêu hạng đã đánh lừa được cả thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ qua.
Trình độ tình báo quốc tế vào thập niên 40s có thể huấn luyện con người có tác phong giọng nói của hai người giống nhau, cũng như giải phẫu chỉnh hình theo một đối tượng nào đó thật dễ dàng. Nhưng không có khả năng tái tạo hay nhân bản vô tính (Cloning) hai con người khác nhau như hiện nay. Vì thế, nếu nhân vật Hồ Chí Minh đóng vai Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể thực hiện được về mặt hình thức và sinh hoạt thường ngày mà thôi, không thể nào có sự giống nhau trong các lãnh vực vượt quá khả năng tác động của con người. Ðó là:
- Hồ sơ bịnh lý
- Khả năng tiếng Hoa
- Tình cảm gia đình
- Ức chế tình cảm cuối đời
Do vậy mời bạn đọc cùng chúng tôi so chiếu lại con người thực tế của hai nhân vật này có phải là một hay không. Nếu có sự khác biệt thì câu hỏi ai là tác giả của vụ án buôn vua này cũng cần phải giải mã vậy.
Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh (1)
Thiên Ðức
Vào ngày 1 tháng 11 năm 2008, một tác phẩm nghiên cứu bằng tiếng Hoa mang tên
"HỒ CHÍ MINH SANH BÌNH KHẢO" (Khảo cứu về cuộc đời Hồ Chí Minh) do tác giả Giáo
sư Hồ Tuấn Hùng (Ðài Loan) được Nhà xuất bản Bạch Tượng Văn Hóa ấn hành tại Ðài
Loan (mã số ISBN: 9789866820779). (ISBN: International Standard Book Number).
Hình minh họa số 1:
Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo. |
Tác phẩm được sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc bởi những nét đặc trưng như sau:
1)- Tác giả Hồ Tuấn Hùng, sinh năm 1949 là người gốc sắc tộc Khách Gia ở Ðài
Loan, tốt nghiệp khoa Lịch sử của Trường Ðại Học Quốc Lập Ðài Loan, có kinh nghiệm
giáo chức 30 năm đồng thời ông còn là viên chức cao cấp Giáo Dục Hành Chính. Cuộc
đời và sự nghiệp hoàn toàn không có quan hệ gì đến cuộc chiến Việt Nam. Tác phẩm
chính là hoài vọng của tác giả mong mỏi đem lại một sự thật lịch sử rằng Hồ Chí
Minh chính là Hồ Tập Chương, thuộc cho dòng giống Khách Gia (Hakka) tại Ðài Loan.
Tác phẩm không mang tính phê bình hay ủng hộ cá nhân Hồ Chí Minh. Ngoài ra ông còn
là tác giả của những tác phẩm như Dịch Kinh Tân Thuyên, Dịch Kinh Ðại Diễn Chiêm
Phệ, Dương Trạch Phong Thủy, Trạch Nhật Bảo Ðiển, Lưỡng Hán Mệnh Lý Tư Tưởng Giản
Giới.
2)- Tác phẩm: Là một công trình nghiên cứu nghiêm túc trong nhiều năm, với phần
tham khảo, trưng dẫn tài liệu bằng Hoa, Anh, Pháp, Nhật, Việt kể cả hình ảnh của
Hồ Chí Minh và Hồ Tập Chương qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tập sách dày
342 trang, xuất bản lần thứ nhất bằng tiếng Hoa, đến thời điểm bài viết này chưa
có bản dịch chính thức tiếng Việt hay tiếng nước ngoài nào khác.
3)- Nội dung: Theo phần trích và điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính trong bài
viết "Nhận xét về Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo".
Nội dung Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo chia làm 6 thiên
[không kể lời nói đầu và một số thư giới thiệu]:
Thiên thứ nhất: Màn kịch
thay long đổi phượng (Thâu Long Chuyển Phượng đích hí khúc)
Sự thật về cái chết của
Nguyễn Ái Quốc (Nguyễn Ái Quốc tử vong đích chân tướng)
Nguyên ủy của việc Nguyễn
Ái Quốc chết rồi sống lại (Nguyễn Ái Quốc tử nhi phục sinh đích hí mã)
Thiên thứ hai: Việc thật
giả của kế Kim Thiền Thoát Xác (Kim Thiền Thoát Xác chân giả nhân sinh)
Thiên thứ ba: Những năm
tháng phiêu bạt giang hồ (Phiêu bạc lưu lãng đích tuế nguyệt)
Hồ Chí Minh tại Trung Quốc
(Hồ Chí Minh tại Trung Quốc) (1938-1945)
Thiên thứ tư: Khúc tình
ca nhân duyên đầy đau khổ (Hôn nhân luyến tình đích bi ca)
Thiên thứ năm: Bản văn Nhật
Ký Trong Tù và bản di chúc (Hán Văn "Ngục Trung Nhật Ký" dữ di chúc)
Thiên thứ sáu: Lời kết hạ
màn (Lạc Mạc Cảm Ngôn)
Hồ Tuấn Hùng khẳng định
rằng Hồ Chí Minh [tức Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo
cáo của nhà đương cục Anh tại Hương Cảng là đúng sự thực và sau đó là Hồ Tập Chương,
một người Ðài Loan đồng tộc với tác giả giả dạng theo cái kế mà người Trung Hoa
gọi là "thâu long chuyển phượng" và "kim thiền thoát xác".
Cũng nên nói thêm, Hồ Tập
Chương, người đóng vai ông Hồ Chí Minh sau này kém Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi [theo
năm sinh 1890 mà người ta ghi trên tiểu sử, mặc dù tuổi thật theo một số nguồn có
thể còn cao hơn] và đây cũng là một điểm ông Hồ Tuấn Hùng dùng để chứng minh ông
Hồ Chí Minh là giả hiệu mà chúng tôi sẽ đề cập đến sau.
1. Lý giải thứ nhất:
Ông Nguyễn Ái Quốc [thật] dốt chữ Hoa, Hồ Chí Minh [giả] phải là người Trung Hoa
mới có thể làm thơ được.
Theo lối tính của tác giả
Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, Hồ Chí Minh cho đến năm 21 tuổi không thể được học Hán
văn quá 3 năm, còn tiếng Việt và tiếng Pháp không thể quá 4 năm rồi kết luận (tr.
258).
2. Lý giải thứ hai: Hồ
Chí Minh trẻ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi, không thể già như người ta nói
Ðể chứng minh tuổi "thật"
của ông "Hồ Chí Minh" giả kia phải thấp hơn năm sinh 1890, Hồ Tuấn Hùng căn cứ vào
câu sau đây trong bản di chúc ông Hồ viết năm 1969 để giải thích: "Ông Ðỗ Phủ là
người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung quốc, đời nhà Ðường có câu rằng nhân sinh thất
thập cổ lai hy nghĩa là người thọ 70 xưa nay hiếm!"
"Năm nay tôi vừa 79 tuổi,
đã là hạng người "xưa nay hiếm" nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức
khỏe có kém so với vài năm trước đây ..."
Từ câu này, Hồ Tuấn Hùng
lý luận:
Theo đoạn di chúc này, bút
giả [tức Hồ Tuấn Hùng] nhận định rằng [câu này] phải là "nay tôi vừa sáu mươi chín
tuổi" và đã bị sửa thành "nay tôi vừa bảy mươi chín tuổi", vết sửa còn ngấn rõ ràng.
Câu di chúc đó phải hiểu như sau:
"Nhân sinh thất thập cổ
lai hi, năm nay, tôi vừa đến tuổi sáu mươi chín, đã vào hạng người xưa nay hiếm
rồi. Có như thế thì văn mới thông? ... Không lẽ ông Hồ Chí Minh là người thông hiểu
Hán văn lại viết một câu mâu thuẫn kém ngữ pháp như thế?
Tiếp theo, Hồ Tuấn Hùng
cho rằng Hồ Chí Minh [tức Hồ Tập Chương] khi đó mới 69 tuổi [sinh ngày 11 tháng
10 năm 1901] nên việc ông Hồ so sánh tuổi 79 với câu "nhân sinh thất thập cổ lai
hy" là không phù hợp [mà chỉ 69 mới thích đáng] (tr. 313-4).
3. Lý giải thứ ba: Hồ
Chí Minh [giả] rất "kém" tiếng Việt, dịch một câu ngắn cũng không thông [vì là người
Hoa mới học].
Ðể chứng minh rằng Hồ Chí
Minh [tức Hồ Tập Chương giả dạng] không rành tiếng Việt khi viết những bài xã luận
đăng trên Cứu Vong Nhật Báo [năm 1940], Hồ Tuấn Hùng đưa ra một bài viết nhan đề
Thiên Thượng Cố Muội có chú thích ngay bên cạnh bằng quốc ngữ "Ông Trời Có Mắt"
[để trong ngoặc đơn].
Theo ông, nếu hiểu nghĩa câu "ông trời có mắt" một cách rành mạch thì phải
dịch ra chữ Hán tương đương là Hoàng Thiên Hữu Nhãn mới phải. Từ so sánh này, Hồ
Tuấn Hùng cho rằng khi đó vì mới học tiếng Việt nên ông Hồ Chí Minh [Hồ Tập Chương]
đã hiểu sai một "cụm từ" rất thông thường (tr. 190-1).
Luận cứ Hồ Tuấn Hùng để
nhiều trang chứng minh rằng phải người Trung Hoa được học từ nhỏ là thư pháp [phép
viết chữ Hán]. Xét những lần Hồ Chí Minh thăm Trung Hoa năm 1959, 1961 ông đã trổ
tài đề chữ lưu niệm, theo Hồ Tuấn Hùng phải là "người học thuần thục tiếng mẹ đẻ
mới làm nổi" đi đến kết luận Hồ Chí Minh không thể là Nguyễn Ái Quốc (tr. 305).
(1)
(hết trích)
Bài viết điểm sách của ông Nguyễn Duy Chính có phần
nghiêm túc thế nhưng phần phản biện đã không đưa ra được một tài liệu, hay một chứng
cứ nào có thể lật đổ luận chứng của tác giả Hồ Tuấn Hùng, mà lại vội vàng kết luận
phủ định sạch trơn (như sau) e rằng có điều gì đó chưa ổn(?)
Hơn thế nữa, vào thời kỳ
1930, Nguyễn Ái Quốc [sau này là Hồ Chí Minh] chỉ mới là một cán bộ cỡ trung, so
với nhiều người khác ngay trong các cán bộ thuộc Á Ðông Vụ ông cũng chưa phải là
con bài sáng giá thì hà cớ gì đảng cộng sản Trung Hoa phải mất công dàn dựng cho
người đóng giả?
Chẳng ai lại rỗi hơi "buôn"
một ông vua trong khi chính những đầu não của Trung Hoa thời đó như Mao Trạch Ðông,
Chu Ðức, Chu Ân Lai ... còn long đong, luân lạc, sống nay chết mai.
Tác giả cũng không cho biết
một chi tiết cụ thể nào chứng minh những điều ông nghe được quả thực xảy ra, chưa
kể nguồn tin vốn từ những người hoàn toàn không có thẩm quyền hay vai trò quan trọng.
Ông "bán thịt lợn" hay thương gia Ðài Loan đều vô danh, không ai biết tung tích
ra thế nào.
Viết sử nếu chỉ dựa trên
những "tin đồn" hay "nguồn tin riêng trong gia tộc" thì ít khi được công nhận một
cách chính thức. Nghi án Hồ Chí Minh trong 37 năm sau cùng là một người Trung Hoa
giả dạng thật không có gì đáng cho chúng ta tin. (1)
Bài viết này, không nhằm bình phẩm sách "Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo" bởi lý do
người viết chưa có cơ hội đọc được bản chính tác phẩm nói trên. Thế nhưng nhân cơ
hội này người viết có thể đặt vấn đề như sau: "Ông Hồ Chí Minh là người Hoa có thật
hay không?"
Ðây là một vấn đề nghiêm túc cần được sự lý giải rõ ràng bởi lý do:
1)- Liên quan đến sự sinh tồn của đảng cộng sản Việt Nam, nếu thật sự đi tôn
thờ thần tượng của mình chính là một người Hoa
2)- Ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử cận đại
vừa qua và sắp đến.
Tác giả Hồ Tuấn Hùng có động cơ trong sáng và chính đáng trong công việc đi tìm
sự thật cho một người trong thân tộc đó là ông Hồ Tập Chương. Nói đúng hơn đứng
về phía gia tộc của ông Hồ Tuấn Hùng, nếu Hồ Tập Chương chính là Hồ Chí Minh thì
đó là một sự vinh hạnh thành công của gia tộc họ Hồ. Thế nhưng đứng về phía Việt
Nam, nếu đây là sự thật thì dù là người Việt trong hay ngoài nước cũng không khỏi
thắt ruột đau lòng cho một giai đoạn lịch sử dân tộc bị đánh tráo bịp bợm.
Có hai giả thiết để trả lời câu hỏi nêu trên:
1)- Hồ Chí Minh không phải là người Hoa: Ðây chính là công việc của đảng csvn
và những ai từng tôn thờ và binh vực cho ông Hồ Chí Minh phải làm bằng những công
trình nghiên cứu phản biện có chứng cứ, tài liệu mang tính thuyết phục chứ không
phải là những bài báo hàm hồ phản bác qua loa không thể nào đánh tan được nguồn
dư luận này. Rất tiếc cho đến nay đảng csvn chưa hề lên tiếng hay phản biện chính
thức về vấn đề này. Chúng ta đành chờ đợi vậy.
2)- Hồ Chí Minh là người Hoa thật sự theo như luận cứ của ông Hồ Tuấn Hùng.
Ðọc lại tác phẩm Trần Dân Tiên cũng như xét lại hành động của Hồ Chí Minh khi
còn sống đã tự xưng là cha già dân tộc Việt nam, cũng từng kiêu hãnh so sánh công
lao của mình là một người Hoa ngang hàng với vua tổ Hùng Vương, Trần Hưng Ðạo.
Ngày 18/9/1954, trước Ðền Hạ thuộc Ðền Hùng, Phú Thọ, ông Hồ Chí Minh đã nói
chuyện với cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn quân Tiền Phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô.
Bác căn dặn: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước"! (2)
Ðây là một quốc nhục cho tất cả những ai mang dòng máu Việt Nam kể cả trong và
ngoài nước Cộng Sản hay không Cộng Sản. Ðảng csvn phải là người chịu trách nhiệm
chính đã gây ra mối quốc nhục này.
Ðể tìm hiểu sự thật, không gì hơn lấy mốc thời gian từ giai đoạn Nguyễn Ái Quốc
xuất dương đến lúc ở tù từ 1931-1933 so sánh với con người Hồ Chí Minh xuất hiện
trở lại sau năm 1934 có phải là một người hay không?
Trong trường hợp, Hồ Chí Minh đóng được vai Nguyễn Ái Quốc, phải là một điệp
viên quốc tế siêu hạng đã đánh lừa được cả thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam
nói riêng trong suốt gần một thế kỷ qua.
Trình độ tình báo quốc tế vào thập niên 40s có thể huấn luyện con người có tác
phong giọng nói của hai người giống nhau, cũng như giải phẫu chỉnh hình theo một
đối tượng nào đó thật dễ dàng. Nhưng không có khả năng tái tạo hay nhân bản vô tính
(Cloning) hai con người khác nhau như hiện nay. Vì thế, nếu nhân vật Hồ Chí Minh
đóng vai Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể thực hiện được về mặt hình thức và sinh hoạt
thường ngày mà thôi, không thể nào có sự giống nhau trong các lãnh vực vượt quá
khả năng tác động của con người. Ðó là:
- Hồ sơ bịnh lý
- Khả năng tiếng Hoa
- Tình cảm gia đình
- Ức chế tình cảm cuối đời
Do vậy mời bạn đọc cùng chúng tôi so chiếu lại con người thực tế của hai nhân
vật này có phải là một hay không. Nếu có sự khác biệt thì câu hỏi ai là tác giả
của vụ án buôn vua này cũng cần phải giải mã vậy.
(còn tiếp)
–––––––––––––––––––––––––––––––
Ghi chú:
(1) "Nhận xét về Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo" tác giả Nguyễn Duy Chính.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2008/12/081231_hochiminh_book_review.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2008/12/081231_hochiminh_book_review.shtml
(2) Báo Tuổi Trẻ
http://www3.tuoitre.com.vn/TheoguongBac/ArticleView.aspx?ChannelID=7&ArticleID=25239
http://www3.tuoitre.com.vn/TheoguongBac/ArticleView.aspx?ChannelID=7&ArticleID=25239
Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh (2)
I/- Hồ sơ bịnh lý:
1)- Nguyễn Ái Quốc
Trong sách Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo, tác giả Hồ Tuấn Hùng khẳng định rằng Hồ
Chí Minh [tức Nguyễn Ái Quốc] đã chết từ năm 1932 vì bệnh lao, theo báo cáo của
nhà đương cục Anh tại Hương Cảng.
Vấn đề chết của Nguyễn Ái Quốc đã có nhiều nguồn tin phản biện cho là tin giả
tạo. Thế nhưng Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao nặng là sự thật đã được kiểm chứng qua
nhiều nguồn tin. Trong cuốn The missing years, tác giả Sophie Quinn Judge ghi rõ
Ðến cuối năm 1931, Hồ Chí Minh được chuyển vào bịnh viện có gác. Vào tháng
12 Hoàng Thân Cường Ðể gửi thư cho ông khi nghe tin ông bị bịnh nặng. Hoàng thân
đã gởi 300 Yên để trả viện phí cho ông (1)
Ðiều đáng chú ý, đây không phải lần đầu tiên Hồ Chí Minh bị bịnh lao, mà là lần
thứ tư bị tái phát như sau:
Lần 1:
Khi Hồ Chí Minh trốn khỏi Quảng Châu vào tháng 4/1927, ông qua Thượng Hải
và Vladivostok để đến Moscow. Tại Moscow, như ta đã thấy, ông đã tìm kiếm hậu thuẫn
để đến cơ sở mới tại Xiêm nhằm tiếp tục công việc mà ông đã bắt đầu tại Quảng Châu.
Một phần của mùa hè năm ấy ông phải nằm viện ở Crimean để điều trị bệnh lao. (2)
Lần 2:
Hồi ký của Ðặng Văn Cáp cho biết rằng Hồ lúc đó đã học được nghề thuốc Ðông
y để giúp chữa bệnh cho dân địa phương]. (Có lẽ ông đã tìm cách chữa chạy chứng
lao phổi của mình, vì sau này ông (HCM) có kể với một đồng nghiệp người Việt tại
Hồng Kông là ông đã bị bệnh hơn một năm ở Thái Lan, (Khoảng thời gian từ tháng 7/1928
- 11/1929) (3)
Lần 3:
Trong số này, chỉ có bức thư ngày 2 tháng 9 năm 1930 là nằm trong văn khố
của QTCS. Trong thư ông đã giải thích rằng vào ngày 13 tháng 8 năm 1930 ông đã bị
một cơn lao phổi, một thứ bệnh mà ông tường thuật là đau phổi và nôn ra máu, vô
cùng yếu đuối và mệt mỏi. (4)
Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao nghiêm trọng có thể chưa chết tại nhà lao. Sau đó
Nguyễn Ái Quốc đã rời Hồng Kông trên chiếc thuyền Dân sự An Huy ngày 22/1/1933 tại
cảng Hồng Kông (5)
Hồ Chí Minh đã không về đến Mosow, theo lời của ông là mãi cho đến tháng 7/1934.
Không có thông tin gì về việc ông đã sống như thế nào trong giai đoạn giữa mùa thu
1933 cho đến những tháng đầu của năm 1934. (6)
2)- Hồ Chí Minh
Từ năm 1934 Nguyễn Ái Quốc sau này đổi tên là Hồ Chí Minh xuất hiện trở lại,
ông tự khai trong bản câu hỏi tiểu sử của mình rằng ông đã trải qua vài tháng phục
hồi căn bệnh của mình tại vùng Crimea trong năm 1934, sau đó theo học tại đại học
Lenin vào tháng 10. Vào lúc ấy ông là người Ðông Dương duy nhất ghi danh tại trường
này. (7)
Từ bản khai này cho thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn không bị bịnh lao phổi bởi lý
do:
Hồ Chí Minh chưa từng trải qua bịnh lao phổi nên không thể biết rằng bịnh lao
phổi không thể nào chữa trị phục hồi trong vài tháng được, nhất là trong trường
hợp bịnh đã có di căn, tái phát nhiều lần.
Theo y học cổ truyền đông phương ghi nhận bịnh lao phổi là một trong tứ chứng
nan y, vào thời điểm này chưa có thuốc chữa. Thuốc đặc trị lao phổi Streptomycin
được sáng chế từ năm 1943, thuốc para aminosalicylic sáng chế từ năm 1946. Với hai
loại thuốc đặc chế này muốn chữa trị bịnh lao thì cũng cần một thời gian tối thiểu
là từ 6 tháng đến 2 năm tùy trường hợp. Và với nền y học tiến bộ hiện nay, và nhiều
loại thuốc mới được sáng chế ra cũng cần thời gian chữa trị bịnh lao không thể nào
rút ngắn hơn 6 tháng.
Do vậy Hồ Chí Minh khai báo đã chữa trị bịnh lao trong vài tháng là khai láo
hay là không hề bị bịnh nên không có kiến thức về bịnh lao.
Bịnh lao là một loại bịnh không thể tự chữa trị mà không qua sự theo dõi của
bác sĩ hay bịnh viện, thế mà hiện nay các nhà viết sử cũng không hề tìm thấy nào
dấu tích nào về hồ sơ chữa bịnh lao của Hồ Chí Minh tại vùng Crimea (vào thời điểm
1934 chỉ là một tỉnh lỵ nhỏ, chưa phát triển phía nam Ukraine trực thuộc Liên Bang
Xô Viết, thiếu thốn mọi phương tiện, lại có thể chữa trị thành công về bịnh lao
ho ra máu tái phát nhiều lần mà không cần thuốc đặc trị trong vài tháng?).
Hồ Chí Minh là người hút thuốc lá nặng, bị tù lần thứ hai từ năm 1942 di chuyển
qua 30 trại tù rất khổ cực, thể xác và tinh thần bị suy nhược, và cả thời gian kháng
chiến vùng Việt Bắc cũng không tái phát bịnh lao? Cuối cùng Hồ Chí Minh chết vì
bịnh tim ngày 3/9/1969 lúc 9g 43 Theo hồ sơ chính thức của đảng csvn.
II/- Trình độ tiếng Hoa và khả năng làm thơ:
1)- Nguyễn Ái Quốc
Sinh năm 1890 tại làng Hoàng Trù (tên nôm là làng Chùa, nằm cách làng Sen
khoảng 2 km) xã Chung Cự, thuộc tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Ðàn, Nghệ An.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên. Sau
khi mẹ mất (1901), ông về Nghệ An ở với bà ngoại một thời gian ngắn rồi theo cha
về quê nội, từ đây ông bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành. Tất Thành theo học cử
nhân Hoàng Phạm Quỳnh và một số ông giáo khác.
Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu
học Pháp-Việt Ðông Ba. Tháng 9 năm 1907, ông vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng
bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908. (8)
Năm 1911 xuống tàu đi ra nước ngoài với công việc phụ đốt lò than.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc chỉ có trình độ học vấn tiểu học, có thể nói khả năng
ngoại ngữ như Hoa văn, Pháp văn nếu có vẫn thuộc loại sơ đẳng không thể có khả năng
làm thơ, viết văn, và nhất là thư pháp.
Ðiểm đáng chú ý ông Nguyễn Ái Quốc bị tù một thời gian dài tại Hồng Kông từ ngày
8/6/1931 đến ngày 22/01/1933, trong nổi nhớ vợ mới cưới, nhớ cha bị bịnh vừa liên
lạc (sẽ trình bày sau), nhớ quê hương mà lại không làm nổi một vần thơ chữ Việt
hay chữ Hán (?)
Trong khi bị điều tra Hồ Chí Minh tỏ ra hòa nhã và dễ mến. Hồ nói tiếng Anh,
chứ không nói tiếng Quảng Ðông. Hồ học tiếng Tàu tương đối chậm, vào năm 1925 khi
nói chuyện với một hội nghị Quốc Dân Giảng thì ông dùng tiếng Pháp. Những người
thẩm vấn không ngạc nhiên khi thấy Hồ còn yếu tiếng Quảng Ðông vì họ biết Hồ là
người Việt Nam. (9)
2)- Hồ Chí Minh:
Xuất hiện sau một thời gian vắng bóng đã tự viết cuốn tiểu sử đầu tiên cho
cá nhân mình dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, xuất bản năm 1947 bằng tiếng Trung Quốc,
sau này được in lại nhiều lần bằng tiếng Việt với tiêu đề: "Những mẩu chuyện về
cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch". (10)
Với tác phẩm đầu tay này của Hồ Chí Minh, tự thân của nó đã phát sinh ra nhiều
nghi vấn:
Ông Hồ Chí Minh có tất cả 3 bí thư riêng vào thời đó là Hoàng Tùng, Vũ Kỳ, và
Vũ Ðình Huỳnh, cả ba người này không hề tiết lộ rằng đã giúp ông Hồ Chí Minh viết
tác phẩm nói trên. Ðiều này chứng tỏ rằng Hồ Chí Minh với bút hiệu Trần Dân Tiên
đã tự mình hoàn thành tác phẩm này bằng chữ Hoa.
Như vậy vấn đề đặt ra là trong vùng kháng chiến, rừng núi Việt Bắc, tại sao ông
Hồ viết tiểu sử bằng tiếng Hoa cho người Tàu đọc từ năm 1948 sau đó dịch ra tiếng
Pháp. Và bản tiếng Việt chỉ là bản dịch từ nguyên tác này. Phải chăng chủ đích cuốn
sách nhằm vào đối tượng người Tàu chứ không phải là người Việt Nam? Hay là Hồ Chí
Minh không có khả năng viết sách tiếng Việt?
Ngoài ra còn những nghi vấn khác theo tác giả Minh Võ trong tác phẩm Hồ Chí Minh
nhận định tổng hợp.
Thứ nhất, là chủ tịch nước, chủ tịch đảng giữa lúc chiến tranh khốc liệt,
sao Hồ Chí Minh lại dành thời giờ làm một việc mà nhiều người, trong số có Vũ Thư
Hiên cho là ngớ ngẩn và thừa? có thật thừa không?
Thứ hai Hồ Chí Minh muốn phổ biến cuốn sách một cách khẩn cấp (ngay sau khi
vừa viết xong, có thể là cuối năm 1947) (bằng tiếng Hoa tại Trung Quốc năm 1948?)
và rộng rãi ra khắp thế giới sau đó mới đến Việt Nam? Tại sao? (11)
Ngục Trung Nhật ký là một tập thơ được viết trong thời gian Hồ Chí Minh bị bắt
từ 29/8/1942 đến 10/9/1943 đã trải qua 30 nhà tù. Tập thơ gây nhiều tranh cãi và
ngộ nhận.
Xét về nội dung: Người viết hoàn toàn đồng ý với tác giả Hồ Tuấn Hùng, Giáo sư
Lê Hữu Mục, Ðổ Thông Minh và các tác giả khác đã từng chứng minh tác giả Ngục Trung
Nhật Ký không phải là người Việt mà là một người Hoa. Ở đây người viết xin miễn
nhắc lại e quá dài dòng.
Xét về hình thức và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này cho thấy Hồ Chí Minh cho
dù là người Hoa thật sự cũng chưa bao giờ là tác giả của tập thơ này, mà chỉ là
kẽ chiếm đoạt mà thôi.
Trong tác phẩm "Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo" có một điều sai lầm rất cơ bản, làm
cho tác phẩm mất đi một phần giá trị. Ðó là giáo sư Hồ Tuần Hùng đã sử dụng tác
phẩm Ngục Trung Nhật Ký như là một chứng cứ căn bản để xác nhận rằng Hồ Chí Minh
chính là Hồ Tập Chương. Ðây là một sai lầm nghiêm trọng.
Dùng một tác phẩm ăn cắp để chứng minh nhân thân một người không phải là tác
giả thì đó là một nghịch lý khó có thể tiếp nhận.
Thật vậy, hãy đọc kỹ lời tự khai của Hồ Chí Minh trong cuốn: "Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch" có đoạn kể về thời gian ở tù từ năm 1942 như sau:
Quốc dân Ðảng giam Cụ vào nhà lao C.H.S hơn hai tuần, ngày mang gông,
đêm cùm chân. ...
Một tháng rưỡi sau, người ta giải Cụ Hồ đi nhưng không cho Cụ biết
đi đâu. ...
Tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, có sáu người lính mang súng
giải đi, Cụ Hồ Chí Minh đi mãi, đi mãi nhưng vẫn không biết đi đâu.
Dầm mưa dãi nắng, trèo núi qua truông. ...
Cụ Hồ tiếp tục đi, bị trói và bị xích như thế trong hơn tám mươi ngày.
Cụ đã trải qua gần ba mươi nhà tù xã và huyện. ...
Từ Quế Lâm người ta giải Cụ đi Liễu Châu, giam vào nhà giam quân sự. Ở đây
Cụ được hưởng "Chế độ chính trị". Có đủ cơm ăn, mười lăm phút buổi sáng và mười
lăm phút buổi chiều để đi vệ sinh, có người gác. Không bị gông, không bị xích. Thỉnh
thoảng Cụ có thể đọc một tờ báo hoặc một quyển sách. (12)
Tổng cộng thời gian tù đày gian khổ này là: hơn hai tuần + Một tháng rưởi sau
+ hơn tám mươi ngày = trên bốn tháng gần năm tháng.
Hồ Chí Minh đến được Liễu Châu là nhà giam quân sự mới hưởng được quy chế tù
nhân chính trị, được tự do thoải mải, được cung cấp giấy bút và sách báo. Như vậy
thời gian trước khi đến Liễu Châu hoàn toàn bị còng tay cấm cố dưới sự giám sát
đặc biệt, di chuyển đường dài trải qua hơn 30 nhà tù, Hồ Chí Minh không thể nào
có cơ hội viết nhật ký được kể cả làm thơ được viết ra giấy.
Theo hồi ký Nguyễn Ðăng Mạnh:
So sánh hoàn cảnh này với bài thơ Bốn tháng rồi có thể coi là bản tổng kết
giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của Ông Hồ - "Sống khác
loài người vừa bốn tháng, Tiều tụy còn hơn mười năm trời"
Chuyển sang chế độ nhà tù mới, Ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh
thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo.
Ðiều đáng chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài Bốn
tháng rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài
nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều
kiện (13)
Ðây là một nghịch lý, tác giả Nguyễn Ðăng Mạnh chỉ đặt chấm hỏi Vì sao? nhưng
chưa giải thích rõ ràng.
Ðến đây có thể có người giải thích là Hồ Chí Minh đã làm thơ trong thời gian
này, và viết lại trong thời gian ở Liễu Châu chăng?
Như vậy, ở Liễu Châu Hồ Chí Minh có hoàn cảnh thuận lợi, tự do, được cấp giấy
bút, có thì giờ thong thả chép lại những bài thơ đã làm.
Giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã chứng minh:
Xét những lần Hồ Chí Minh thăm Trung Hoa năm 1959, 1961 ông đã trổ tài đề
chữ lưu niệm, theo Hồ Tuấn Hùng phải là "người học thuần thục tiếng mẹ đẻ mới làm
nổi" đi đến kết luận Hồ Chí Minh không thể là Nguyễn Ái Quốc. (14)
Một người luyện tập được thư pháp tiếng hoa có thể đem chuông đi đánh xứ người,
biểu diễn trước mặt quan khách quốc tế, thì không thể nào không trình bày được thư
pháp của mình trên trang bìa Ngục trung nhật ký, bạn đọc hãy xem những nét bút còn
non nớt trong bản chính Ngục trung nhật ký gồm trang bìa và trang trong, để có thể
tự bình phẩm nét chữ này có phải là của một người giỏi thư pháp tiếng tàu hay không?
(15)
(16)
Nét chữ trong hình trên chỉ có thể đánh giá là một nét bút tầm thường chứ không
phải do một người giỏi thư pháp nắn nót trình bày ra, nhất là trên tác phẩm thơ
văn của chính mình.
Ðây cũng là một lý do giải thích vì sao đảng csvn không bao giờ công bố toàn
bộ bản gốc Ngục Trung Nhật Ký. Bởi vì khi công bố sẽ lộ ra chứng tích giả mạo do
nét chữ của Hồ Chí Minh ghi chép lặt vặt ở những trang cuối cùng hoàn toàn khác
hẳn với nét bút đề thơ ở phần trước cuốn nhật ký.
Ngoài ra còn một nghi vấn nữa, nếu Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, một người Việt
đã khổ công luyện được thư pháp tiếng Hoa, tất yếu chữ viết tiếng Việt là tiếng
mẹ đẻ sử dụng hằng ngày phải điêu luyện và cũng có khả năng trình bày thư pháp tiếng
Việt, tệ lắm cũng trình bày được bản văn của mình cho đẹp đẽ. Vậy thử nhìn vào bản
di chúc viết tay của Hồ Chí Minh để bạn đọc đánh giá và kết luận. Ðây có phải là
một người Việt giỏi thư pháp hay là người Hoa giỏi thư pháp tiếng hoa, viết tiếng
Việt?
(17)
Tác giả thật của Ngục Trung Nhật Ký trong bốn tháng đầu ngồi tù lao khổ có thể
làm được 103 bài thơ thì phải là một nhà thơ chính hiệu, có tinh thần thơ ca cao
độ, có khả năng sáng tác nhanh, xuất khẩu thành thơ ở bất cứ hoàn cảnh nào. Thế
mà trong 10 tháng ở tù còn lại Hồ Chí Minh chỉ có thể làm thêm khoảng 30 bài nhập
chung với số bài bốn tháng cấm cố lao tù là 133 bài.
Nếu đem số bài thơ này so sánh với tổng số bài thơ Hồ Chí Minh làm được trong
suốt cuộc đời (kể cả thơ của Nguyễn Ái Quốc) theo sưu tập được của trang web thivien.net
có được là:
53 bài thơ + 22 bài thơ chúc tết chưa đầy 80 bài tính từ khi mẹ mất năm 1901
mới bắt đầu đi học cho đến lúc chết là 1969.
Tổng kết cả cuộc đời Hồ Chí Minh làm thơ trên dưới 70 năm không bằng số thơ làm
được trong bốn tháng tù đày lao khổ là một nghịch lý khó thể chấp nhận được.
Hồ Chí Minh có tâm hồn thi ca hay không? Ðể có thể viết ra Ngục Trung Nhật Ký
trong hoàn cảnh đặc biệt như đã trình bày trên. Hãy nghe lời tự biện của Hồ Chí
Minh:
Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra
suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: "Hồi ấy
bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là
nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là
săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ". Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ
cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi.
Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối
không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà
thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi.
(18)
Hồ Chí Minh qua bút hiệu T.Lan tự thuật qua tác phẩm "Vừa đi vừa kể chuyện"
Biết bao nhiêu là kế hoạch chủ quan, mình tự đặt ra, rồi mình lại thảo luận,
bàn cãi với mình. Nếu người ngoài nhìn thấy vậy có thể cho Bác là đãng trí, lẩm
cẩm....
Còn một cách tiêu khiển nữa là gây chiến tranh với rệp, hoặc là xem kinh thánh
Cơ đốc. Kinh thánh Cơ đốc là một thứ sách được khuyến khích xem trong nhà tù. ...
"Thưa Bác, lúc đang bị giam, Bác có làm nhiều thơ. Nếu Bác cho đăng lên báo,
chắc cán bộ và đồng bào sẽ hoan nghênh lắm"
Bác cười và trả lời: "Các cháu không nhắc thì Bác cũng không nhớ đến nữa.
Bác không phải là người hay thơ, mà thơ của Bác cũng không hay. Mười mấy tháng bị
nhốt trong một cái phòng u ám và quạnh hiu, một mình một bóng, không được nói chuyện
với ai, không có việc gì làm. Muốn 'du lịch' thì đi dọc chỉ 5 bước, đi ngang 4 bước.
Ðể 'tiêu khiển' ngày giờ, chỉ có cách nghêu ngao, vắt tắt ghi lại mấy nét sinh hoạt
của người ở tù, cho khuây khỏa thế thôi, phải thơ phú gì đâu. (19)
Ngục Trung Nhật Ký là một đứa con tinh thần, đầy tâm huyết được sáng tác trong
một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, tại sao Hồ Chí Minh lại có thể bỏ quên đến hơn 10
năm mới cho xuất bản.
Qua những lời tự khai trên cho thấy Hồ Chí Minh chỉ làm thơ khi nào nhàn nhã
không có việc làm gì khác, sự ưu tiên làm thơ còn đứng sau việc đọc kinh, bắt rệp,
hay đếm ngói lành hay bể. Như vậy trong bốn tháng tù, với tình trạng còng hai tay,
dẫn đi qua 30 nhà tù, tâm trí luôn luôn phải thích ứng và đối phó với hoàn cảnh
đổi thay mới, Hồ Chí Minh không thể nào có hứng khởi để làm thơ, thậm chí làm thơ
với tốc độ nhanh và nhiều đến 103 bài thơ được.
Tóm lại qua trình bày trình trên đã cho thấy một nghịch lý khó giãi bày là từ
Nguyễn Ái Quốc với vốn liếng tiếng Hoa ở bậc tiểu học, lại trở thành Hồ Chí Minh
giỏi tiếng Hoa có thể viết sách, làm thơ kể cả viết thư pháp là một môn công phu
phải luyện tập từ thủa nhỏ mới thành đạt.
Ðến đây có thể có người cho rằng Nguyễn Tất Thành đã khổ luyện tiếng Hoa trong
thời gian vắng bóng chăng (từ 1933 đến 1942)? Vậy chúng ta hãy tìm hiểu công việc
của Nguyễn Ái Quốc (hay Hồ Chí Minh?) trong thời gian này qua thông tin chính thức
của viện bảo tàng Hồ Chí Minh:
Từ 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc
thuộc địa tại Mátxcơva.
Tháng 10 năm 1938 Người rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức
Ðảng chuẩn bị về nước. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Người về nước sau hơn 30 năm xa
Tổ quốc. Tháng 5-1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung
ương Ðảng,
Tháng 8-1942, lấy tên Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và
Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc tìm sự liên
minh quốc tế,
Trong thời gian một năm 14 ngày bị tù, Người đã viết tập thơ "Nhật ký trong
tù" với 133 bài thơ chữ Hán. Tháng 9-1943, Người được trả tự do. (20)
Theo trang web Wikipedia:
Ông đến Moskva vào mùa xuân năm 1934. Với bí danh Lin, Nguyễn Ái Quốc học
ở Trường Quốc tế Lenin (1934-1935). Ông dự Ðại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản (từ
ngày 25 tháng 7 đến ngày 20 tháng 8 năm 1935) với vai trò quan sát viên của ban
thư ký Dalburo với tên Linov. Theo tài liệu của một số nhà sử học, ông bị buộc ở
Liên Xô cho đến năm 1938 và bị giam lỏng ở đó do bị nghi ngờ về lý do ông được nhà
cầm quyền Hương Cảng trả tự do. Trong những năm 1931-1935, ông đã bị Trần Phú và
sau đó là Hà Huy Tập phê phán về đường lối cải lương "liên minh với tư sản và địa
chủ vừa và nhỏ", không đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Quốc tế Cộng sản].
Từ năm 1938 đến đầu năm 1941
Năm 1938, ông trở lại Trung Quốc. Trong vai thiếu tá Bát Lộ quân Hồ Quang,
Nguyễn Ái Quốc đến công tác tại văn phòng Bát Lộ quân Quế Lâm, sau đó đi Quý Dương,
Côn Minh rồi đến Diên An, căn cứ đầu não của Ðảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng quân
Trung Quốc mùa đông 1938. (21)
Ðiểm chú ý trong khoảng thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bịnh lao, tinh thần xuống
thấp, tương lai và cuộc sống chưa ổn định thì làm sao còn tâm trí thư thả học tiếng
Hoa, tập luyện thư pháp để xử dụng sau này.
(còn tiếp)
–––––––––––––––––––––––––––––––
Ghi chú:
(1), (2), (3), (4), (5), (6), (7), The missing years, tác giả Sophie Quinn Judge
(tr.162, tr.105, tr.114, tr.149, tr.163, tr.167, tr.168).
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
(8) Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh
http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ch%C3%AD_Minh
(9) Bí Ẩn Tù Tội Của Hồ Chí Minh Ở Hồng Kông (1931-1932) Trần Viết Ðại Hưng
http://xoathantuong.tripod.com/tvdh/tvdh_batt.htm
http://xoathantuong.tripod.com/tvdh/tvdh_batt.htm
(10) The missing years tr.20
(11) Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp, tác giả Minh Vỏ tr.176
(12) Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch tác giả Trần Dân Tiên
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=9184&rb=08
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=9184&rb=08
(13) Hồi Ký Nguyễn Ðăng Mạnh tr.123
http://www.doi-thoai.com/pictures/NguyenDangManh.pdf
http://www.doi-thoai.com/pictures/NguyenDangManh.pdf
(14) Hồ Chí Minh Sanh Bình Khảo tác giả Hồ Tuấn Hùng tr. 305
(15) Tác giả Ngục Trung Nhật Ký là ai? Ðổ Thông Minh
http://xoathantuong.tripod.com/dtm_tacgiantnk.htm
http://xoathantuong.tripod.com/dtm_tacgiantnk.htm
(16) BBC
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050808_trongcoi.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050808_trongcoi.shtml
(17) Ðối thoại
http://www.doi-thoai.com/HoChiMinh_DiChuc.html
http://www.doi-thoai.com/HoChiMinh_DiChuc.html
(18) Hồi ký Nguyễn Ðăng Mạnh tr.128
http://www.doi-thoai.com/pictures/NguyenDangManh.pdf
http://www.doi-thoai.com/pictures/NguyenDangManh.pdf
(19) "Vừa đi vừa kể chuyện" tác giả T.Lan
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=9219&rb=08
http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=9219&rb=08
(20) Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh
http://www.baotanghochiminh.vn/Noidung/2006/12/15/121674.bthcm
http://www.baotanghochiminh.vn/Noidung/2006/12/15/121674.bthcm
Vụ án buôn vua Việt Nam Hồ Chí Minh (kết)
III/- Tình cảm gia đình:
1)- Nguyễn Ái Quốc:
Ðể tìm hiểu tình cảm trung thực của Nguyễn Ái Quốc đối với gia đình như thế nào,
không gì hơn là đọc lại những dòng sử liệu của tác giả trong nước.
Trong tác phẩm "Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh" (Sự hình thành một chọn
lựa) của Lữ Phương có đoạn:
Chúng ta đã biết lá đơn của anh gửi Tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được
vào học Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích cho nước Pháp vừa làm lợi cho đồng
bào mình. Ðiều chúng ta cần biết thêm là sau khi gửi bức thư đó, Nguyễn Tất Thành
đã theo tàu trở về Việt Nam qua hành trình Marseille-Sài Gòn-Hải Phòng-Sài Gòn-Marseille-Le
Havre. Tại Sài Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc
Nguyễn Tất Ðạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin
vào Ecole Coloniale. Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này
được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ.
Sự quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ý với cách
thức đặc biệt của anh. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói trên cùng với việc
gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911,
Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng
(Ðông Dương) cho cha, vì cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được.
Suốt thời gian làm việc trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn
làm Nguyễn Tất Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có ý xin chính
quyền thuộc địa phục chức hoặc tìm việc cho cha nữa. Bản khai của Bùi Quang Chiêu
với Mật thám Sài Gòn ngày 21-9-1922 có nói đến việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang
tên Văn Ba) trên tàu Latouche-Tréville (ông nói đã quên tên) như sau:
"Anh đang làm việc trên tàu. Anh đến gặp tôi vì tôi từng là giáo sư nông nghiệp
dạy cha anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần đầu tiên anh sang
Pháp, mục đích là để khiếu nại cho cha anh về việc ông vừa mới bị bãi chức. Anh
muốn đến ở nhà thuyền trưởng Do-huu-Chan (?) đang công tác tại Marseille, với tư
cách là người giúp việc nhà cho ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó".
Ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm xứ Huế báo rằng trong ba cái mandat
gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính
Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ
Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những
đoạn lời lẽ như sau:
"Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận
được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao!
Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha
tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?)
để, dưới tấm lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai" (1)
Ðọc: Thư của Nguyễn Ái Quốc gởi Tăng Tuyết Minh
Nguyễn Ái Quốc đã vài lần nhờ người chuyển thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không
có kết quả. Khi ở Thái Lan, ông đã viết một lá thư bằng chữ Hán với nội dung như
sau:
Dữ muội tương biệt,
Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm, Bất ngôn tự hiểu.
Tư nhân hồng tiện,
Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng (hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu vạn phúc.
Chuyết huynh Thụy.
|
Dịch nghĩa: "Từ ngày chia tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương
khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên
tâm, đó là điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về, Thụy".
Bản dịch của N.H.Thành:
Cùng em xa cách,
Ðã hơn một năm,
Thương nhớ tình thâm,
Không nói cũng rõ.
Ðã hơn một năm,
Thương nhớ tình thâm,
Không nói cũng rõ.
Cánh hồng thuận gió,
Vắn tắt vài dòng,
Ðể em an lòng,
Ấy anh ngưỡng vọng.
Vắn tắt vài dòng,
Ðể em an lòng,
Ấy anh ngưỡng vọng.
Và xin kính chúc,
Nhạc mẫu vạn phúc.
Nhạc mẫu vạn phúc.
Anh ngu vụng: Thụy
Bức thư này bị mật thám Ðông Dương chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện
được lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des Archives d'Outre-Mer _Trung tâm Lưu
trữ Hải ngoại) đặt tại Aix-en-Provence.
Ðầu tháng 5 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lại viết một lá thư nữa từ Thượng Hải
hẹn Tăng Tuyết Minh lên Thượng Hải để gặp nhau. Tiếc thay lá thư này cũng không
đến được tay Tăng Tuyết Minh do cô đã rời địa chỉ ghi trong thư là trạm y tế của
bác sĩ Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu và người ta đã xem trộm rồi đốt đi. Mãi nửa
năm sau Tăng Tuyết Minh mới biết chuyện. (2)
Một số sử gia người Việt tin rằng Hồ đã nối lại liên lạc với thân phụ của ông
trong những năm 1928 và 1929 qua sự môi giới của người vợ góa của Lương Ngọc Can,
người này có nhà ở Phnom Penh và làm công tác liên lạc giữa cộng sản và những người
Việt quốc gia. (3)
Có thể tóm tắt, ở bất cứ hoàn cảnh nào, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn thể hiện là
một người nặng tình cảm gia đình với cha, với anh trai và cả người vợ mới cưới của
mình.
2)- Hồ Chí Minh
Sau cách mạng tháng 8/1945 Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước đã đối xử với
người thân như thế nào qua những tài liệu sau:
Theo nhật ký Hoàng Tùng
Hồi đó còn chuyện này nữa. Chuyện này chắc ông Vũ Kỳ biết hơn tôi. Khoảng
tháng 10 năm 1945, khi bà Bạch Liên, chị ruột của Bác, biết em mình trở về, đã ra
Hà Nội muốn gặp. Gặp Bác, bà nắm tai Bác kéo lên và kêu: Ðúng nó đây rồi! Bà nhận
ra vì Bác có cái sẹo nhỏ ở tai, khi còn bé ở nhà câu cá, giựt câu bị lỡi câu mắc
vào tai. Ðể bà ở Bắc bộ phủ thì không tiện, Bác nói tôi đưa bà về nhà tôi ở. Bà
ăn trưa, ngủ đêm ở nhà tôi, còn ban ngày đưa bà đi chơi thăm các nơi. Sau chuyến
này tôi không biết bà có ra thăm Bác lần nào nữa không. Lúc đó tôi ở 23 Hàng Nón.
Bà ra có mang theo biếu Bác hai chục trứng gà. Bác bảo đem luôn về nhà tôi.(
4) http://xoathantuong.tripod.com/ht_nknvh.htm
Ngày chủ nhật (27-10-1946), Nguyễn Thị Thanh đã ra tận Hà Nội để gặp gỡ, thăm
hỏi em trai mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Một tuần lễ sau, khi Nguyễn Thị Thanh
trở về Kim Liên, thì ngày chủ nhật (03-11-1946) Nguyễn Sinh Khiêm lại ra Hà Nội
gặp em trai mình....
Bác nói: "Anh mới ra, anh khỏe không? Quý hóa quá, chị Thanh về trong đó
có khỏe không anh? Hôm chị ra đây có hai cháu này cùng đến với em, nhưng em quá
bận không tiếp được nhiều. Em có mời chị và hai cháu ở chơi đến chiều, nhưng chị
về".
Bác Khiêm trả lời: "Chị Thanh về có nói chuyện lại bảo chú gầy lắm, công việc
bận rộn suốt ngày, bà con ai cũng đến hỏi thăm và lấy làm sung sướng".
Bác Khiêm nói: "Hôm nay ông cháu đến thăm chú, tôi mang biếu chú ít quả cam
Xã Ðoài". Bác Khiêm bảo anh Thọ xách gói cam để lên bàn.
Nhân đang vui vẻ, bác Khiêm có hỏi Bác Hồ: "Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia
đình riêng của chú ra sao?" Bác Hồ thong thả trả lời: "Cảm ơn anh, em chưa bao giờ
dám nghĩ đến việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi". Bác cười vui
vẻ nói: "Mình không phải là người tu hành nhưng vì việc nước phải quên việc nhà".
Bác Khiêm biết ý không hỏi thêm nữa và nói tiếp: "Chú có ý định lúc nào về
thăm quê?". Bác Hồ thong thả trả lời: "Về đến đây cũng là về đến nhà rồi, tình hình
là công việc thế này chưa cho phép nghĩ tới, chắc việc đó còn lâu". (5)
Mãi 11 năm sau, cũng là ngày chủ nhật (16-5-1957) ông Hồ mới trở về thăm quê
lần đầu tiên. Tại sao lại lạt lẽo và xa lạ với quê hương như vậy?
Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm "Ma đầu Hồ Chí Minh" cho biết: Hồ Chí Minh "lạnh
lùng tàn nhẫn" khi được báo tin đồng bào miền Nam đã an táng thân phụ của ông ta
năm xưa (tr.12). Ðến việc viện cớ "vì công việc quốc gia quá bận rộn, tôi không
thể về để nhìn mặt anh (Nguyễn Sinh Khiêm) lần cuối" rồi so sánh với việc Hồ sốt
sắng đến thăm vợ bác sĩ Tôn Thất Tùng, khi nghe tin bà này đẻ và kết luận rằng "Ðó!
Không có thì giờ về đưa ma anh ruột, mà lại có thì giờ đi thăm gái đẻ". (6)
Qua những nguồn sử liệu trên cho thấy một điều không ổn không thể không nói ra:
Tại sao sau mấy chục năm xa cách, anh chị là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn thị
Thanh đã cất công đường xa khó khăn đến thăm Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh lại không
mời ở lại ăn một bữa cơm để hàn huyên chuyện gia đình, còn tệ bạc đến nỗi một gói
quà quê hương của chị nghèo khổ đem từ quê nhà đến biếu, Hồ Chí Minh cũng từ chối
khéo qua hình thức bảo Hoàng Tùng lấy đi luôn, ngay trước mặt chị ruột của mình.
Tại sao?
Sau đây tôi kể thêm một số kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên. Khi Bác đi Liễu
Châu gập Chu Ân Lai, thì ở nhà chị Bác (bà Bạch Liên) qua đời. Lúc đó Bác cùng Bộ
Chính trị đóng tại xã Kim Quan, huyện Yên sơn, tỉnh Tuyên Quang. Nhận được điện
báo từ khu Bốn đánh ra, tôi báo cáo anh Trường Chinh, anh Trường Chinh ngậm ngùi
nhưng không nói phải làm gì. Khi Bác về tôi báo cáo lại. Bác hỏi tôi: "Thế các chú
có nhân danh Bác điện vào chia buồn và xin lỗi gia đình và địa phương là Bác bận
việc không về được không? Tôi trả lời: "Thưa Bác, không ạ". Bác nói: "Các chú ngốc
quá". (7)
Tại sao nghe tin chị chết mà lại không có một phản ứng tình cảm yêu thương nào
nhỉ? Cũng không có một cữ chỉ sốt sắng nào để đi thắp một nén nhang cho người chị
dù là muộn màng? Trái lại, lại trách nhân viên sao không nói láo giùm cho ông Hồ.
Trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh lúc làm chủ tịch nước, không hề tổ chức một buổi
sinh hoạt họp mặt gia đình hay gia tộc dù là trong ngày tết hay ngày kỵ giỗ của
cha mẹ, tại sao?
Nghĩa tử là nghĩa tận, anh ruột Nguyễn Sinh Sắc trong suốt thời gian đau ốm,
và chết cũng không được Hồ Chí Minh thăm hỏi hay thắp nén nhang đưa tiễn. Tại sao?
Trong khi lại sốt sắng viết thư an ủi với người bạn khi nghe tin người con chết,
như sau:
Nhớ năm 1947, khi nghe người con trai của bác sĩ Vũ Ðình Tụng hy sinh trong
chiến đấu. Hồ Chí Minh đã viết thư cho bác sĩ Vũ Ðình Tụng với những lời chia buồn
thống thiết: " Tôi được báo cáo rằng con ngài đã oanh liệt hy sinh cho tổ quốc.
Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia
đình của tôi. Tất cả thanh niên là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì như
tôi đứt một đoạn ruột" (8)
Ở đây có một nghi vấn đặt ra, tại sao Hồ Chí Minh cố tình xa lạ và tách biệt
hẳn những người quen thân của Nguyễn Ái Quốc như gia đình, dòng họ, bạn bè đồng
hương cùng lứa tuổi và cả người vợ Tăng Tuyết Minh?
Chỉ có thể trả lời rằng Hồ Chí Minh không mang dòng máu của Nguyễn Ái Quốc, nên
không thể nào có những cảm xúc thân tình đối với những người kể trên được. Hồ Chí
Minh rất sợ bị lật tẩy vai trò giả dối của mình khi phải đối diện với họ.
Hồ Chí Minh có thể được huấn luyện để đóng vai diễn Nguyễn Ái Quốc thành công
ở giai đoạn trưởng thành, thế nhưng Hồ Chí Minh không thể nào biết được quá khứ
tuổi thơ của cậu bé "Sinh Coong" giả dụ như là những kỷ niệm "đái dầm" hay tắm "truồng"
với bạn bè đồng trang lứa, những lúc "hái rau mò ốc" của những chuỗi ngày hai anh
em theo mẹ cùng nhau tha hương cầu thực. Làm sao biết những ký ức của tháng ngày
bụng đói nằm đếm sao trời ở làng Chùa, làng Sen để mơ ước tương lai có một bữa cơm
"không độn rau khoai".
Hồ Chí Minh cũng không thể nào biết những kỷ niệm "buồng the" hay "trăng thề
hứa hẹn" thì làm sao dám tìm gặp lại Tăng Tuyết Minh mà không bị phát hiện giả mạo.
Vì thế sau khi Hồ Chí Minh trở thành chủ tịch nước cho đến ngày chết không hề
có một động thái nào tìm lại người vợ Tăng Tuyết Minh cả. Cho dù Hồ Chí Minh đã
có nhiều dịp đến Trung Quốc trong thời gian làm chủ tịch cũng như lúc cuối đời.
Trong Tâm tình với tuổi trẻ về Hồ Chí Minh tác giả Bùi Tín ghi lại:
Có nhà nghiên cứu nói đến trái tim thép lạnh tanh của ông khi bà vợ cũ có
hôn thú Tăng Tuyết Minh dò hỏi về ông suốt từ 1945 đến 1964, ông vẫn làm ngơ, cho
đến khi đảng CS Trung quốc khuyên bà nên quên chuyện này đi, và bà vẫn ở vậy cho
đến chết vào tháng 11 năm 1991, thọ 86 tuổi. Cũng có người nói thái độ không bình
thường của ông đối với người anh cả Nguyễn Tất Khiêm và với bà Thanh chị ruột ông,
cũng như với làng quê Kim Liên, khi ông về Hà Nội từ năm 1945 mà đến tận năm 1957
mới về thăm quê lần đầu! (9)
IV/- Tâm lý chân thật của con người cuối đời:
Thông thường khi một người già về cuối cuộc đời có khuynh hướng sống thật với
nội tâm cội nguồn của mình như gia đình, vợ con, ông bà, tổ tiên, quê hương và tổ
quốc. Vậy cuối cuộc đời của Hồ Chí Minh như thế nào?
Những tháng cuối cùng của năm 1969, túc trực bên giường bệnh của ông Hồ là
đoàn bác sĩ Trung Quốc, cùng bác sĩ Việt Nam.
Theo sách của Hoàng Tranh, một buổi chiều cuối tháng Tám, khi tỉnh lại, Hồ
Chí Minh nói với các bác sĩ Trung Quốc: "Mong nghe ai hát một bài ca Trung Quốc."
Một y tá của bệnh viện Bắc Kinh hát, Hồ Chủ tịch nghe xong, mỉm cười, và "đấy là
nụ cười chót" của ông trước khi hôn mê mải cho đến lúc qua đời. (10)
Trong tác phẩm Hồ Chí Minh, a life tác giả William J. Duiker đã kể về đời
tư Hồ Chí Minh với một loạt người tình và vợ Nguyễn Thị Minh Khai Tăng Tuyết Minh...
và cả chuyện Hồ Chí Minh vào lúc cuối cuộc đời đã nhờ một cán bộ cao cấp Trung Cộng
giới thiệu cho một cô gái trẻ để dưỡng già (11).
Tại sao Hồ Chí Minh một người Việt Nam (?) cuối cuộc đời lại thèm nghe nhạc tàu,
được sống với vợ tàu, trong khi không hề nhắc đến Tăng Tuyết Minh người vợ Tàu đã
cưới hỏi đầy đủ một lần nào?
Tâm lý này còn thể hiện qua bản di chúc viết tay. Hồ Chí Minh là một người viết
sách báo lưu loát, nhiều năm kinh nghiệm, thế mà cuối cuộc đời không thể viết một
bản di chúc hoàn chỉnh.
Hồ Chí Minh từng tự hào trong tác phẩm Trần Dân Tiên "Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chí Minh: "Có thể nói là ông Nguyễn suốt ngày nghỉ tới tổ quốc
và suốt đêm mơ đến tổ quốc" (12).
Người xưa theo quan niệm duy tâm, cho rằng "Sinh ký tử quy" con người sinh ra
chỉ là ký gởi mà thôi, khi chết luôn luôn trở về cội nguồn. Hồ Chí Minh cũng là
con người duy tâm, tin rằng con người có linh hồn, khi chết, ao ước được ghi rõ
ràng trên di chúc là đi thăm cụ Mác, cụ Lê.
Sao Hồ Chí Minh không mong muốn về với tổ tiên vua Hùng dựng nước mà đã nhiều
lần ông từng kiêu hãnh so sánh công lao gìn giữ đất nước.
Sao đành quên đi người mẹ, từng cực khổ đùm bọc ông từ quê nhà vào Huế ăn học
để rồi chết chôn thây ở xứ người.
Sao nở quên người cha chết tha phương ở vùng đất Cao Lãnh hoang lạnh, mà Nguyễn
Ái Quốc đã từng nhọc công thăm hỏi từ vùng rừng núi Xiêm La, thế nhưng khi trở thành
Hồ Chí Minh chủ tịch nước lại hững hờ lạnh lùng khi nghe tin đồng bào miền Nam đã
cưu mang đùm bọc xây dựng bảo trì an táng cha ruột của mình.
Sao không mong về gặp lại người anh, để tỏ một lời tạ tội vì lở quên thăm viếng
lúc đau ốm cũng như quên thắp một nén nhang đưa tiễn?
Sao đành quay lưng với người chị ruột nghèo khổ đã cưu mang gói quà nghĩa tình
đường xa thăm viếng? Phải chăng Hồ Chí Minh không mua nổi một bó bông để tiễn đưa
người chị một chặng đường cuối?
Ðến đây có thể tổng lược lại những nét đặc trưng hai nhân vật trên như sau:
Nguyễn Ái Quốc, với trình độ tiểu học, vốn chữ hán rất tầm thường, chưa hề thể
hiện tài năng chữ Hoa qua văn chương, thi ca hay thư pháp, mang bịnh lao kinh niên
ở thời kỳ ho ra máu. Là một người nặng tình cảm gia đình đã nhiều lần liên lạc với
anh trai, giúp đỡ tiền bạc và hỏi thăm cha dù đang ở hoàn cảnh khó khăn chiến tranh
xa cách, phải nhờ người trung gian chuyển nhắn giùm. Ðã có vợ Tăng Tuyết Minh, yêu
thương từng diễn tả qua bút tích để lại.
Trái lại Hồ Chí Minh, mạnh khỏe không có dấu hiệu tật bệnh gì cho đến tuổi già
79 tuổi, chết vì bịnh tim. Hút thuốc nặng, ở tù cực khổ, kháng chiến ở rừng sâu
nước độc cũng không hề nhiễm bịnh lao. Giỏi tiếng Hoa có thể viết sách, thơ ca và
có khả năng trổ tài thư pháp. Hoàn toàn không nhớ hay không hề nhắc đến người vợ
Tăng Tuyết Minh cho dù đã từng qua Trung Quốc công du hay chữa bịnh thời gian dài.
Ðối với với gia đình xem như là người xa lạ và tuyệt tình. Thậm chí một hành vi
"nghĩa tử nghĩa tận" đối với cái chết của anh và chị ruột, Hồ Chí Minh cũng không
làm. Trong suốt thời gian làm chủ tịch, Hồ Chí Minh không bao giờ tổ chức được một
buổi ăn sum họp gia đình hay kỵ giỗ cha mẹ, ông bà tổ tiên. Cuối cuộc đời chỉ mong
có vợ Tàu săn sóc và nghe nhạc Tàu. Lúc chết mong về tổ quốc Mác chứ không phải
tổ tiên ông bà xứ Nghệ.
Qua toàn bộ phần trình bày trên có thể kết luận rằng: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí
Minh không thể là một người. Vậy Hồ Chí Minh là ai? là người Hoa? Là Hồ Tập Chương?
Hay ai đó sẽ còn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi, cho đến khi nào Liên Xô chính
thức bạch hóa hồ sơ Cộng Sản Ðệ Tam Quốc tế hay là đảng csvn chấp nhận công khai,
chính thức làm một cuộc thử nghiệm DNA giữa Hồ Chí Minh với gia tộc họ Hồ, cùng
với gia tộc họ Hồ Tập Chương. Mọi sự thật lịch sử sẽ được sáng tỏ.
Phần kết: Vụ án buôn vua cần lý giải:
Nếu Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc sẽ nảy sinh là một câu hỏi: Ai là
người chủ mưu trong vụ án buôn vua này? nhằm mục đích gì?
Có 3 giả thuyết được hình thành để thỏa mãn câu hỏi này:
- Giả thuyết 1: Tác giả vụ buôn vua này là cộng sản Trung Quốc. Giả thuyết này khó đứng vững bởi lý do vào thời điểm 1931-1933 Nguyễn Ái Quốc ở tù chưa chết, Trung Quốc không thể nào có thời gian đào tạo huấn luyện một người khả dĩ có thể thay thế. Hơn nữa vào thời điểm này cộng sản Trung Quốc cũng còn gặp nhiều khó khăn trong công cuộc chiến đấu, chưa biết tương lai thành quả chính trị ra sao, thì khó có thể đầu tư công sức và tiền của để làm một công việc buôn vua lâu dài được. Ngoài ra còn một yếu tố nữa, sự giả mạo khó mà qua mặt được tình báo Liên Xô.
- Giả thuyết 2: Ðảng Cộng Sản Việt Nam chính là thủ phạm lại càng không đứng vững bởi lý do trong bối cảnh lịch sử đảng csvn ở giai đoạn thanh trừng nội bộ, Nguyễn Ái Quốc bị tố giác chịu trách nhiệm về việc nhiều thanh niên bị bắt ở Hồng Kông. Cả ba tổng bí thư đầu tiên của đảng cộng sản Việt Nam là Trần Phú, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đều muốn loại trừ Hồ Chí Minh qua những cáo giác và buộc tội rất nặng nề. Do vậy đảng csvn không cần thiết và không có nhu cầu để đào tạo một Hồ Chí Minh giả thay thế Nguyễn Ái Quốc.
- Giả thuyết 3: Còn lại một người có khả năng thực hiện việc buôn vua nói trên đó là: Cộng Sản Liên Xô (hay Cộng Sản Ðệ Tam quốc tế).
Trở lại lịch sử để biết rõ vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ở thập niên 30s
ra sao?
Sau Ðại Hội 5 QTCS (1924), Nguyễn Ái Quốc còn tham gia vào Ðại Hội 3 Công
Ðoàn Quốc Tế Ðỏ (Red International of Trade Unions, còn gọi là Profintern, thành
lập năm 1921).( 13).
Thời gian này uy tín và ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc lên cao, sau đó vì một số
lý do nào đó Hồ đã không thực hiện hết những chỉ thị của QTCS tại Pháp.
Dấu hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không hoàn toàn vững chắc của Hồ trong
QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi ông bắt đầu chuẩn bị quay
lại châu Á. (14).
Ðiều quan trọng mà ta nên lưu ý là Ðại Hội 6 QTCS bắt đầu trong tháng 7 1928,
lúc Hồ vẫn còn lênh đênh trên biển. Có thể ông đã không biết đến những tin tức chi
tiết về kết quả của đại hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả những bằng chứng
có được, dường như ông đã đi châu Á với hành trang không có gì ngoài những chỉ thị
trong tháng 9 1 mình.( 15)
Tại Ðại Hội Toàn Thể Ban Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đã có dịp công
bố vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin, người chiến thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá
nội bộ của ÐCS Liên Xô, ông còn tuyên bố [47]. Thành viên của bất cứ đảng cộng sản
nào không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ bị khai trừ. (16)
Vì cuối tháng 2 1930 ông đã viết thư cho đại diện QTCS để tìm hiểu rõ ràng
hơn nhiệm vụ của mình: "Hiện nay tôi không biết được chính xác vị thế của mình là
gì... tôi là đảng viên của ÐCS Pháp hay ÐCS Việt Nam? Ông còn hỏi: "Nhiệm vụ mà
QTCS đã giao cho tôi đã bị hủy bỏ rồi chăng? Nếu không thì tôi có phải là nhân viên
của Phân Bộ Viễn Ðông hay không?" Ông yêu cầu Ban Chấp Hành QTCS đưa ra quyết định
về việc này. (17)
Theo quan điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính
sách giai cấp rõ rệt trong nội bộ đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến sự mất đoàn kết trong đảng. (18)
Hội Nghị ÐCS Ðông Dương từ ngày 27-31 tháng 3 tại Macao đã bầu ra một Ủy Ban
Trung Ương mới, cho phép Hà Huy Tập nắm quyền ÐCS Ðông Dương trong thời gian Lê
Hồng Phong vắng mặt... Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thứ 13 như là một thành viên dự
bị
Ðến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập trong bức thư viết tay dài 4 trang bằng tiếng
Pháp đã kết tội phản bội của Hồ Chí Minh những lý do như sau:
(a) Quốc đã biết rằng Lâm Ðức Thụ là một kẻ khiêu khích, nhưng vẫn tiếp tục
sử dụng ông ta;
(b) Quốc đã phạm sai lầm khi đòi hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa
chỉ, tên cha mẹ, ông bà nội ngoại và ông bà cố...
(c) trong nước, tại Xiêm và trong tù, họ vẫn tiếp tục nói về trách nhiệm của
Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể chối bỏ được;
(d) những bức ảnh do Quốc và Lâm đòi hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh
sát;
(e) dần dần khi đường lối của đảng đã trở nên rõ ràng hơn đối với đảng viên
và quần chúng, họ đã phê phán mạnh mẽ hơn chính sách mà Ðồng Chí Quốc theo đuổi.
Tổng bí thư của ÐCS Xiêm, từng là người học trò thuần thành của Quốc, là một trong
những người nói rằng trước năm 1930, Quốc không phải là một người cộng sản!!! (19)
Một nguồn tin được biết nhiều năm sau từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc
Ủy Ban Trung Ương Sô viết là Anatoly Voronin cho biết rằng Hồ đã bị điều tra bởi
bộ ba Dmitry Manuilsky, Khang Sinh và Vera Vailieva. Theo nguồn tin này, Mauilsky
đã giữ vị trí trung lập trong khi Khang Sinh muốn Hồ bị xử tử hình. Vasilieva được
cho là đã bảo vệ ông trên cơ sở rằng những sai lầm của ông về những biện pháp an
ninh đã xảy ra là do thiếu kinh nghiệm].
Vào năm 1935 có khả năng là Khang Sinh đề nghị Hồ bị trục xuất ra khỏi đảng
hơn là tử hình, nếu ông tin rằng Hồ đã có một phần lỗi trong những bắt bớ vào năm
1931. Nhưng vì không có những tài liệu làm bằng chứng mà rất có thể vẫn còn được
giấu kín trong tàng thư của KGB, chúng ta không thể biết được những tố giác của
Hà Huy Tập đã được xử lý nghiêm trọng đến mức độ nào. (20)
Trong giai đoạn giao thời giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh đã xuất hiện hai
nghịch lý như sau:
- Nguyễn Ái Quốc là bị bịnh lao tái phát lần thứ tư ho ra máu, có thể nào được
quan tâm chữa trị đầy đủ để sống còn qua thời kỳ bị theo dõi giám sát như là một
tội đồ bội phản, ở Liên Xô hay không?
- Nguyễn Ái Quốc bị cáo giác phản bội bởi chính những tổng bí thư đảng csvn (Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập), người chịu trách nhiệm về vụ bắt bớ thanh niên
năm 1931. Cũng là người không hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cộng sản. Tại sao không
chịu hình phạt nào như khai trừ, kỷ luật hay hạ tầng công tác, an trí mà trái lại
còn được nuôi dưỡng chữa bịnh, cho đi học đại học (một hình thức tái huấn luyện)
để trở lại lãnh đạo đảng csvn, được xóa trắng tội lỗi năm xưa? Hoàn toàn đi ngược
lại truyền thống "Thà giết lầm hơn bỏ sót" của cộng sản.
Phải chăng nghi vấn Nguyễn Ái Quốc trong thời gian thất sủng này phải nhận lãnh
cuộc sống trong tăm tối, khó khăn cùng với căn bịnh lao kinh niên cho đến chết ở
một vùng đất hẻo lánh nào đó là sự thật?
Vào thời điểm này QTCS rất cần một cán bộ đủ tin cậy để thực hiện tham vọng thống
nhất tất cả các đảng thành một đảng Cộng Sản Ðông Dương, biến Liên Bang Ðông Dương
trực thuộc Liên Bang Xô Viết. (Tham vọng Liên Bang Ðông Dương Cộng Sản này được
Lê Duẩn tiếp nối thực hiện bằng cách đem quân xâm chiếm Campuchia vào cuối thập
niên 70s). Nguyễn Ái Quốc đã từng thất bại trong nhiệm vụ này trước năm 1930, thế
nhưng thực tế vai trò của họ Hồ vẫn cần thiết để tập hợp lại các đảng phái khác
nhau. Thế nhưng tình hình sức khỏe của Hồ Chí Minh không thể nào tiếp tục công cuộc
chiến đấu gian khổ và lâu dài này được. Vì thế QTCS đã sử dụng kế "Kim Thiền Thoát
Xác" như giáo sư Hồ Tuấn Hùng đã trình bày trong tác phản "Hồ Chí Minh Sanh Bình
Khảo".
Như vậy, Liên Xô thực hiện kịch bản "buôn vua" nhằm thôn tính và thống nhất Liên
Bang Ðông Dương bằng mọi giá, trên căn bản quyền lợi của Liên Xô chứ không phải
là quyền lợi của Việt Nam.
Chẳng may, kẽ buôn vua "Liên Xô" đã chết tức tưởi vào thập niên 80s kéo theo
sự phá sản của dự án Liên Bang Ðông Dương. Phải chăng nhân cơ hội này, tình báo
Trung Quốc đã "chôm?" được bí mật hồ sơ buôn vua Hồ Chí Minh của Liên Xô để từ đó
làm con bài tẩy khống chế đảng Cộng Sản Việt Nam?
Một câu hỏi được đặt ra ở đây là đảng csvn có biết vụ án buôn vua này hay không?
Và biết từ thời gian nào?
Câu trả lời: Biết được ở thời gian nào rất khó khẳng định. Nhưng với khả năng
tình báo của csvn, cho thấy không thể không biết mà biết rất rõ. Thế nhưng vì nhiều
lý do nhạy cảm, đảng csvn phải câm miệng, ngậm bồ hòn làm ngọt, cam phận làm kẽ
đồng lõa qua động thái tiếp tục thần thánh hóa Hồ Chí Minh. Vì nếu câu chuyện được
tiết lộ sẽ làm sụp đổ tất cả từ thần tượng, chế độ đến sự nghiệp chính trị của đảng
csvn cũng tiêu tan, kéo theo nhiều tình huống bi thảm ngoài dự kiến của người trong
cuộc.
Ðây là một trong những lý do để đảng csvn trở nên hèn hạ, cam tâm làm nô lệ cho
Trung Quốc qua hành động bán đất cắt biển.
Ngày 22-12, tại cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Bộ Ngoại giao, UBND tỉnh Lạng Sơn
đã tổ chức lễ cắm cột mốc số 1116, một trong những cột mốc cuối cùng trên tuyến
biên giới đất liền giữa hai nước Việt - Trung. (22)
Thời gian tới sẽ hoàn tất việc phân định ranh giới lãnh hải. Hoàng, Trường Sa
phải biến mất trên bản đồ Việt Nam (?).
Kỷ niệm 1000 năm Hoàng Thành Thăng Long là một dấu mốc vinh quang cho một quá
trình dựng nước và giữ nước. Phải chăng đây cũng là dấu mốc đầu tiên của chuỗi ngày
tủi nhục của lịch sử Việt Nam mất đất, mất biển do hệ quả của vụ án buôn vua này?
Cho dù bào chữa bằng lý do nào chăng nữa, trách nhiệm không ai khác ngoài đảng
Cộng Sản Việt Nam.
–––––––––––––––––––––––––––––––
Ghi chú:
(1) "Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh" (Sự hình thành một chọn lựa) của Lữ
Phương.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9090&rb=08
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9090&rb=08
(2) Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng_Tuy%E1%BA%BFt_Minh
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng_Tuy%E1%BA%BFt_Minh
(3) The missing years Tr.115.
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
(4) Nhật ký Hoàng Tùng
http://xoathantuong.tripod.com/ht_nknvh.htm
http://xoathantuong.tripod.com/ht_nknvh.htm
(5) Trần Minh Siêu Nhà xuất bản Nghệ An - năm 003
http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/Huyen-thoai-huyet-dao-ba-Hoang-Thi-Loan-trên-nui-Dong-Tranh-Chuong-III/68/416/
http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/Huyen-thoai-huyet-dao-ba-Hoang-Thi-Loan-trên-nui-Dong-Tranh-Chuong-III/68/416/
(6) Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm Ma đầu Hồ Chí Minh. Tr. 16
(7) Nhật ký Hoàng Tùng
http://xoathantuong.tripod.com/ht_nknvh.htm
http://xoathantuong.tripod.com/ht_nknvh.htm
(8) Phùng Thế Tài và Bác Hồ, những Kỷ niệm không quên Tr. 179
(9) http://dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=1740
(10) BBC
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080820_hoangtranh.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080820_hoangtranh.shtml
(11) Hồ chi Minh nhận định tổng hợp - Minh Võ tr. 619
(12) Trần Dân Tiên "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh" tr.53.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9151&rb=08
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9151&rb=08
(13), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20): Missing years, tr.66, tr.71, tr.108, tr.112,
tr.134, tr.168, tr.171, tr.172)
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
(21) Ðàn Chim Việt
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4625
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4625
(22) Báo Hà Nội Mới
http://hanoimoi.com.vn/vn/41/191819/
http://hanoimoi.com.vn/vn/41/191819/
Nguồn: Đối Thoại (tháng 2 năm 2009):
- http://www.doi-thoai.com/baimoi0209_081.html
- http://www.doi-thoai.com/baimoi0209_082.html
- http://www.doi-thoai.com/baimoi0209_083.html
- http://www.doi-thoai.com/baimoi0209_082.html
- http://www.doi-thoai.com/baimoi0209_083.html
Đọc thêm:
Nguyễn Duy Chính,
Nhận xét về cuốn Hồ Chí Minh Sinh Bình Khảo, 2008.
Chương Dương, Thư Ngỏ Gửi Ông Nguyễn Minh Triết..., 2009
Bùi Tín, Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt, 2009.
Chương Dương, Thư Ngỏ Gửi Ông Nguyễn Minh Triết..., 2009
Bùi Tín, Những luận điệu hoang tưởng, bịa đặt, 2009.
Vụ án buôn vua
Việt Nam Hồ
Chí Minh
Thiên Ðức
III/- Tình cảm gia đình:
1)- Nguyễn Ái Quốc:
Ðể tìm hiểu tình cảm trung thực của Nguyễn Ái Quốc đối với gia đình
như thế nào, không gì
hơn là đọc lại những dòng sử liệu của tác giả
trong nước.
Trong tác phẩm “Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh” (Sự
hình thành một chọn lựa) của Lữ Phương có đoạn:
Chúng ta đã
biết lá đơn của anh gửi Tổng
thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được vào học Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích
cho nước Pháp vừa làm lợi cho
đồng bào mình. Ðiều chúng ta cần
biết thêm là sau khi
gửi bức thư đó, Nguyễn Tất Thành đã theo
tàu trở về Việt Nam qua hành trình Marseille-Sài Gòn-Hải Phòng-Sài Gòn-Marseille-Le
Havre& Tại Sài Gòn, anh đã
gửi thư cho anh là
ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc
Nguyễn Tất Ðạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung
Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole
Coloniale. Ông Khiêm đã gửi
thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư
này được chuyển về Khâm sứ Trung
Kỳ.
Sự quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ý với cách thức đặc biệt của anh. Cũng tại Sài Gòn nhân
chuyến về nước nói trên , cùng với
việc gửi thư cho Nguyễn
Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911, Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ
Trung kỳ xin nhờ chuyển
mandat 15 đồng (Ðông Dương) cho cha, vì cha anh không thể
nhận mandat trực tiếp được .
Suốt thời gian làm việc
trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn làm Nguyễn Tất Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có
ý xin chính quyền thuộc địa phục chức hoặc tìm việc cho cha nữa. Bản khai của Bùi Quang
Chiêu với Mật thám Sài Gòn ngày
21-9-1922 có nói đến
việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn
Ba) trên tàu Latouche-Tréville (ông nói đã
quên tên) như sau:
“Anh đang làm
việc trên tàu. Anh đến
gặp tôi vì tôi từng
là giáo sư
nông nghiệp dạy cha anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần đầu tiên anh sang Pháp,
mục đích là để khiếu nại cho cha anh về
việc ông vừa mới bị bãi chức.
Anh muốn đến ở nhà thuyền trưởng
Do-huu-Chan (?)đang công tác tại
Marseille, với tư
cách là người
giúp việc nhà cho ông,
để nhờ ông giúp đỡ
trong việc khiếu nại đó” .
Ngày 15-12-1912,
khi qua Mỹ, thư gửi Khâm xứ Huế
báo rằng trong ba cái
mandat gửi cha, anh chỉ nhận
được một
thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm sứ chuyển
trực tiếp. Lần này anh
muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp
đỡ và nhân đó xin
Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa.
Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau:
“Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ,
rất hiếm nhận được
tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không
biết làm sao!
Thôi thúc bởi tình yêu của đứa
con, tôi dám xin Ngài vui
lòng thuận cho cha tôi một
công việc như là thừa
biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?)
để, dưới tấm lòng nhân hậu
cao cả của Ngài, ông ấy có
được kế
sinh nhai” (1)
Ðọc: Thư
của Nguyễn Ái Quốc gởi
Tăng Tuyết Minh
Nguyễn Ái Quốc đã vài lần nhờ người
chuyển thư cho Tăng Tuyết Minh nhưng không có
kết quả. Khi ở Thái Lan, ông đã viết một lá
thư bằng chữ Hán với nội dung như sau:
Dữ muội tương
biệt,
Chuyển thuấn niên dư,
Hoài niệm tình thâm,
Bất ngôn tự
hiểu.
Tư nhân hồng
tiện,
Dao ký thốn tiên,
Tỷ muội an tâm,
Thị ngã ngưỡng
(hoặc sở) vọng.
Tinh thỉnh
Nhạc mẫu vạn
phúc.
Chuyết huynh Thụy.
Dịch nghĩa: “Từ ngày chia tay với em, đã hơn
một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải,
chẳng nói cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng,
gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là điều
anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Người
anh vụng về, Thụy”.
Bản dịch của N.H.Thành:
Cùng em xa cách,
Ðã hơn một năm,
Thương nhớ tình
thâm,
Không nói cũng rõ.
Cánh hồng thuận
gió,
Vắn tắt vài dòng,
Ðể em an lòng,
Ấy anh ngưỡng
vọng.
Và xin kính chúc,
Nhạc mẫu vạn
phúc.
Anh ngu vụng: Thụy
Bức thư này bị mật thám Ðông Dương
chặn được ngày 14 tháng 8 năm 1928, hiện được
lưu trữ tại CAOM (viết tắt của Centre des
Archives d'Outre-Mer _Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại) đặt
tại Aix-en-Provence.
Hình số 5: Bản gốc bức thư
của nguyễn Ái Quốc
Nguồn: Wikipedia
Ðầu tháng 5 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc lại
viết một lá thư nữa từ Thượng Hải
hẹn Tăng Tuyết Minh lên Thượng Hải để
gặp nhau. Tiếc thay lá thư này cũng không đến được
tay Tăng Tuyết Minh do cô đã rời địa chỉ
ghi trong thư là trạm y tế của bác sĩ Dư Bác Văn
ở thị trấn Lặc Lưu và người ta đã
xem trộm rồi đốt đi. Mãi nửa năm sau Tăng
Tuyết Minh mới biết chuyện. (2)
Một số sử gia người
Việt tin rằng Hồ đã nối lại liên lạc
với thân phụ của ông trong những năm 1928 và 1929
qua sự môi giới của người vợ góa của Lương
Ngọc Can, người này có nhà ở Phnom Penh và làm công tác
liên lạc giữa cộng sản và những người
Việt quốc gia . (3)
Có thể tóm tắt, ở bất cứ
hoàn cảnh nào, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn thể hiện
là một người nặng tình cảm gia đình với
cha, với anh trai và cả người vợ mới cưới
của mình.
2)- Hồ Chí Minh
Sau cách mạng tháng 8/1945 Hồ Chí Minh
trở thành chủ tịch nước đã đối
xử với người thân như thế nào qua những
tài liệu sau:
Theo nhật ký Hoàng Tùng
Hồi đó
còn chuyện này nữa. Chuyện này chắc ông Vũ
Kỳ biết hơn tôi. Khoảng tháng 10 năm 1945, khi bà
Bạch Liên, chị ruột của Bác, biết em mình
trở về, đã ra Hà Nội muốn gặp. Gặp
Bác, bà nắm tai Bác kéo lên và kêu: Ðúng nó đây rồi! Bà
nhận ra vì Bác có cái sẹo nhỏ ở tai, khi còn bé ở
nhà câu cá, giựt câu bị lỡi câu mắc vào tai. Ðể
bà ở Bắc bộ phủ thì không tiện, Bác nói tôi đưa
bà về nhà tôi ở. Bà ăn trưa, ngủ đêm ở
nhà tôi, còn ban ngày đưa bà đi chơi thăm các nơi.
Sau chuyến này tôi không biết bà có ra thăm Bác lần nào
nữa không. Lúc đó tôi ở 23 Hàng Nón. Bà ra có mang theo
biếu Bác hai chục trứng gà. Bác bảo đem luôn
về nhà tôi.( 4)
http://geocities.com/xoathantuong/ht_nknvh.htm
Ngày
chủ nhật (27-10-1946), Nguyễn Thị Thanh đã ra
tận Hà Nội để gặp gỡ, thăm hỏi em
trai mình là Chủ tịch Hồ Chí Minh.Một tuần
lễ sau, khi Nguyễn Thị Thanh trở về Kim Liên, thì
ngày chủ nhật (03-11-1946) Nguyễn Sinh Khiêm lại ra Hà
Nội gặp em trai mình....
Bác nói: “Anh mới ra, anh khỏe không? Quý hóa quá, chị
Thanh về trong đó có khỏe không anh? Hôm chị ra đây
có hai cháu này cùng đến với em, nhưng em quá bận
không tiếp được nhiều. Em có mời chị và
hai cháu ở chơi đến chiều, nhưng chị
về”.
Bác Khiêm trả lời:
“Chị Thanh về có nói chuyện lại bảo chú gầy
lắm, công việc bận rộn suốt ngày, bà con ai
cũng đến hỏi thăm và lấy làm sung sướng”.
Bác Khiêm nói: “Hôm nay ông cháu đến
thăm chú, tôi mang biếu chú ít quả cam Xã Ðoài”. Bác Khiêm
bảo anh Thọ xách gói cam để lên bàn.
Nhân đang vui vẻ, bác Khiêm
có hỏi Bác Hồ: “Tôi muốn hỏi riêng chú, việc gia đình
riêng của chú ra sao?” Bác Hồ thong thả trả lời:
“Cảm ơn anh, em chưa bao giờ dám nghĩ đến
việc này, đến nay đã tu, tu trót, qua thì, thì thôi”. Bác
cười vui vẻ nói: “Mình không phải là người tu
hành nhưng vì việc nước phải quên việc nhà”.
Bác Khiêm biết ý không hỏi
thêm nữa và nói tiếp: “Chú có ý định lúc nào về thăm
quê?”. Bác Hồ thong thả trả lời: “Về đến
đây cũng là về đến nhà rồi, tình hình là công
việc thế này chưa cho phép nghĩ tới, chắc
việc đó còn lâu”. (5)
Mãi 11 năm sau, cũng là
ngày chủ nhật (16-5-1957) ông Hồ mới trở về
thăm quê lần đầu tiên. Tại sao lại lạt
lẽo và xa lạ với quê hương như vậy?
Hoàng Quốc
Kỳ trong tác phẩm “Ma đầu Hồ Chí Minh “ cho
biết: Hồ Chí Minh “lạnh lùng tàn nhẫn” khi được
báo tin đồng bào miền Nam đã an táng thân phụ
của ông ta năm xưa(tr.12) . Ðến việc viện
cớ “vì công việc quốc gia quá bận rộn, tôi không
thể về để nhìn mặt anh (Nguyễn Sinh Khiêm)
lần cuối” rồi so sánh với việc Hồ sốt
sắng đến thăm vợ bác sĩ Tôn Thất Tùng,
khi nghe tin bà này đẻ và kết luận rằng “Ðó! Không
có thì giờ về đưa ma anh ruột, mà lại có thì
giờ đi thăm gái đẻ”. (6)
Qua những nguồn sử liệu trên cho
thấy một điều không ổn không thể không nói
ra:
Tại sao sau mấy chục năm xa cách,
anh chị là Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn thị Thanh đã
cất công đường xa khó khăn đến thăm
Hồ Chí Minh, mà Hồ Chí Minh lại không mời ở
lại ăn một bữa cơm để hàn huyên
chuyện gia đình, còn tệ bạc đến nỗi
một gói quà quê hương của chị nghèo khổ đem
từ quê nhà đến biếu, Hồ Chí Minh cũng
từ chối khéo qua hình thức bảo Hoàng Tùng lấy đi
luôn, ngay trước mặt chị ruột của mình.
Tại sao?
Sau đây
tôi kể thêm một số kỷ niệm mà tôi không bao giờ
quên. Khi Bác đi Liễu Châu gập Chu Ân Lai, thì ở nhà
chị Bác (bà Bạch Liên) qua đời. Lúc đó Bác cùng
Bộ Chính trị đóng tại xã Kim Quan, huyện Yên sơn,
tỉnh Tuyên Quang. Nhận được điện báo
từ khu Bốn đánh ra, tôi báo cáo anh Trường Chinh,
anh Trường Chinh ngậm ngùi nhưng không nói phải làm
gì. Khi Bác về tôi báo cáo lại. Bác hỏi tôi: “Thế các
chú có nhân danh Bác điện vào chia buồn và xin lỗi gia đình
và địa phương là Bác bận việc không về được
không? Tôi trả lời: “Thưa Bác, không ạ”. Bác nói: “Các
chú ngốc quá”. (7)
Tại sao nghe tin chị chết mà lại
không có một phản ứng tình cảm yêu thương nào
nhỉ? Cũng không có một cữ chỉ sốt sắng
nào để đi thắp một nén nhang cho người
chị dù là muộn màng? Trái lại,
lại trách nhân viên sao không nói láo giùm cho ông Hồ.
Trong suốt cuộc đời Hồ Chí
Minh lúc làm chủ tịch nước, không hề tổ
chức một buổi sinh hoạt họp mặt gia đình
hay gia tộc dù là trong ngày tết hay ngày kỵ giỗ
của cha mẹ, tại sao?
Nghĩa tử là nghĩa tận, anh
ruột Nguyễn Sinh Sắc trong suốt thời gian đau
ốm, và chết cũng không được Hồ Chí Minh
thăm hỏi hay thắp nén nhang đưa tiễn.
Tại sao?
Trong khi lại sốt sắng viết thư
an ủi với người bạn khi nghe tin người
con chết, như sau:
Nhớ năm 1947, khi nghe người con trai của bác
sĩ Vũ Ðình Tụng hy sinh trong chiến đấu.
Hồ Chí Minh đã viết thư cho bác sĩ Vũ Ðình
Tụng với những lời chia buồn thống
thiết: “ Tôi được báo cáo rằng con ngài đã
oanh liệt hy sinh cho tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình,
cũng không có con cái. Nước Việt Nam là gia đình
của tôi. Tất cả thanh niên là con cháu của tôi.
Mất một thanh niên thì như tôi đứt một đoạn
ruột” (8)
Ở đây có một nghi vấn đặt
ra, tại sao Hồ Chí Minh cố tình xa lạ và tách
biệt hẳn những người quen thân của
Nguyễn Ái Quốc như gia đình, dòng họ, bạn bè đồng
hương cùng lứa tuổi , và cả người
vợ Tăng Tuyết Minh?
Chỉ có thể trả lời rằng
Hồ Chí Minh không mang dòng máu của Nguyễn Ái Quốc, nên
không thể nào có những cảm xúc thân tình đối
với những người kể trên được.
Hồ Chí Minh rất sợ bị lật tẩy vai trò
giả dối của mình khi phải đối diện
với họ.
Hồ Chí Minh có thể được
huấn luyện để đóng vai diễn Nguyễn Ái
Quốc thành công ở giai đoạn trưởng thành,
thế nhưng Hồ Chí Minh không thể nào biết được
quá khứ tuổi thơ của cậu bé “Sinh Coong” giả
dụ như là những kỷ niệm “đái dầm” hay
tắm “truồng” với bạn bè đồng trang
lứa, những lúc “hái rau mò ốc” của những
chuỗi ngày hai anh em theo mẹ cùng nhau tha hương
cầu thực. Làm sao biết những
ký ức của tháng ngày bụng đói nằm đếm
sao trời ở làng Chùa, làng Sen để mơ ước
tương lai có một bữa cơm “không độn rau
khoai”.
Hồ Chí Minh cũng không thể nào
biết những kỷ niệm “buồng the” hay “trăng
thề hứa hẹn” thì làm sao dám tìm gặp lại Tăng
Tuyết Minh mà không bị phát hiện giả mạo.
Vì thế , sau khi Hồ Chí Minh trở thành
chủ tịch nước cho đến ngày chết không
hề có một động thái nào tìm lại người
vợ Tăng Tuyết Minh cả. Cho dù Hồ Chí Minh đã
có nhiều dịp đến Trung Quốc trong thời gian
làm chủ tịch cũng như lúc cuối đời.
Trong Tâm
tình với tuổi trẻ về Hồ Chí Minh tác giả
Bùi Tín ghi lại:
Có nhà nghiên
cứu nói đến trái tim thép lạnh tanh của ông khi bà
vợ cũ có hôn thú Tăng Tuyết Minh dò hỏi về
ông suốt từ 1945 đến 1964, ông vẫn làm ngơ,
cho đến khi đảng CS Trung quốc khuyên bà nên quên
chuyện này đi, và bà vẫn ở vậy cho đến
chết vào tháng 11 năm 1991, thọ 86 tuổi. Cũng có người
nói thái độ không bình thường của ông đối
với người anh cả Nguyễn Tất Khiêm và
với bà Thanh chị ruột ông, cũng như với làng
quê Kim Liên, khi ông về Hà Nội từ năm 1945 mà đến
tận năm 1957 mới về thăm quê lần đầu!
(9)
IV/- Tâm lý chân thật của con người
cuối đời:
Thông thường khi một người
già về cuối cuộc đời có khuynh hướng
sống thật với nội tâm cội nguồn của
mình như gia đình, vợ con, ông bà, tổ tiên, quê hương
và tổ quốc. Vậy cuối cuộc đời
của Hồ Chí Minh như thế nào?
Những
tháng cuối cùng của năm 1969, túc trực bên giường
bệnh của ông Hồ là đoàn bác sĩ Trung Quốc,
cùng bác sĩ Việt Nam.
Theo sách
của Hoàng Tranh, một buổi chiều cuối tháng Tám,
khi tỉnh lại, Hồ Chí Minh nói với các bác sĩ Trung
Quốc: “Mong nghe ai hát một bài ca Trung Quốc.” Một y
tá của bệnh viện Bắc Kinh hát, Hồ Chủ
tịch nghe xong, mỉm cười, và “đấy là nụ
cười chót” của ông trước khi hôn mê mải cho đến
lúc qua đời. (10)
Trong tác
phẩm Hồ Chí Minh, a life tác giả William J. Duiker đã
kể về đời tư Hồ Chí Minh với một
loạt người tình và vợ Nguyễn Thị Minh Khai ,
Tăng Tuyết Minh... và cả chuyện Hồ Chí Minh vào
lúc cuối cuộc đời đã nhờ một cán
bộ cao cấp Trung Cộng giới thiệu cho một cô
gái trẻ để dưỡng già (11).
Tại sao Hồ Chí Minh một người
Việt Nam (?)cuối cuộc đời lại thèm nghe
nhạc tàu, được sống với vợ tàu, trong
khi không hề nhắc đến Tăng Tuyết Minh người
vợ Tàu đã cưới hỏi đầy đủ
một lần nào?
Tâm lý này còn thể hiện qua bản di chúc
viết tay. Hồ Chí Minh là một người viết sách
báo lưu loát, nhiều năm kinh nghiệm, thế mà
cuối cuộc đời không thể viết một
bản di chúc hoàn chỉnh.
Hồ Chí Minh từng tự hào
trong tác phẩm Trần Dân Tiên “Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chí Minh:
“Có thể nói là ông Nguyễn suốt ngày nghỉ tới
tổ quốc và suốt đem mơ đến tổ
quốc” (12).
Người xưa theo quan
niệm duy tâm, cho rằng “Sinh ký tử quy” con người
sinh ra chỉ là ký gởi mà thôi, khi chết luôn luôn trở
về cội nguồn . Hồ Chí Minh cũng là con người
duy tâm, tin rằng con người có linh hồn, khi chết,
ao ước được ghi rõ ràng trên di chúc là đi thăm
cụ Mác, cụ Lê.
Sao Hồ Chí Minh không mong muốn
về với tổ tiên vua Hùng dựng nước mà đã
nhiều lần ông từng kiêu hãnh so sánh công lao gìn giữ đất
nước.
Sao đành quên đi người
mẹ, từng cực khổ đùm bọc ông từ quê
nhà vào Huế ăn học để rồi chết chôn
thây ở xứ người.
Sao nở quên người cha
chết tha phương ở vùng đất Cao Lãnh hoang
lạnh, mà Nguyễn Ái Quốc đã từng nhọc công thăm
hỏi từ vùng rừng núi Xiêm La, thế nhưng khi
trở thành Hồ Chí Minh chủ tịch nước
lại hững hờ lạnh lùng khi nghe tin đồng bào
miền Nam đã cưu mang đùm bọc xây dựng
bảo trì an táng cha ruột của mình.
Sao không mong về gặp lại
người anh, để tỏ một lời tạ
tội vì lở quên thăm viếng lúc đau ốm
cũng như quên thắp một nén nhang đưa
tiễn?..
Sao đành quay lưng với người
chị ruột nghèo khổ đã cưu mang gói quà nghĩa
tình đường xa thăm viếng? Phải chăng
Hồ Chí Minh không mua nổi một bó bông để
tiễn đưa người chị một chặng đường
cuối?
Ðến đây có thể tổng lược
lại những nét đặc trưng hai nhân vật trên như
sau:
Nguyễn Ái Quốc, với trình độ
tiểu học, vốn chữ hán rất tầm thường,
chưa hề thể hiện tài năng chữ Hoa qua văn
chương, thi ca hay thư pháp, mang bịnh lao kinh niên
ở thời kỳ ho ra máu. Là một người nặng
tình cảm gia đình đã nhiều lần liên lạc
với anh trai, giúp đỡ tiền bạc và hỏi thăm
cha dù đang ở hoàn cảnh khó khăn chiến tranh xa
cách, phải nhờ người trung gian chuyển nhắn
giùm. Ðã có vợ Tăng Tuyết Minh, yêu thương
từng diễn tả qua bút tích để lại.
Trái lại Hồ Chí Minh, mạnh khỏe
không có dấu hiệu tật bệnh gì cho đến
tuổi già 79 tuổi, chết vì bịnh tim. Hút thuốc
nặng, ở tù cực khổ, kháng chiến ở
rừng sâu nước độc cũng không hề
nhiễm bịnh lao. Giỏi tiếng
Hoa có thể viết sách, thơ ca và có khả ngăn
trổ tài thư pháp. Hoàn toàn không nhớ hay không
hề nhắc đến người vợ Tăng Tuyết
Minh cho dù đã từng qua Trung Quốc công du hay chữa
bịnh thời gian dài. Ðối với với gia đình xem
như là người xa lạ và tuyệt tình. Thậm chí
một hành vi “nghĩa tử nghĩa tận” đối
với cái chết của anh và chị ruột, Hồ Chí
Minh cũng không làm. Trong suốt thời gian làm chủ
tịch, Hồ Chí Minh không bao giờ tổ chức được
một buổi ăn sum họp gia đình hay kỵ giỗ
cha mẹ, ông bà tổ tiên. Cuối cuộc đời
chỉ mong có vợ tàu săn sóc và nghe nhạc Tàu. Lúc
chết mong về tổ quốc Mác chứ không phải
tổ tiên , ông bà xứ Nghệ.
Qua toàn bộ phần trình bày trên có thể
kết luận rằng: Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí
Minh không thể là một người. Vậy Hồ Chí Minh
là ai? là người Hoa? Là Hồ Tập Chương? Hay ai đó
sẽ còn là một vấn đề còn nhiều tranh cãi,
cho đến khi nào Liên Xô chính thức bạch hóa hồ sơ
Cọng Sản Ðệ Tam Quốc tế hay là đảng
csvn chấp nhận công khai, chính thức làm một cuộc
thử nghiệm DNA giữa Hồ Chí Minh với gia tộc
họ Hồ, cùng với gia tộc họ Hồ Tập Chương.
Mọi sự thật lịch sử
sẽ được sáng tỏ.
Phần kết: Vụ án buôn vua cần lý giải:
Nếu Hồ Chí Minh không phải là
Nguyễn Ái Quốc sẽ nảy sinh là một câu hỏi:
Ai là người chủ mưu trong vụ án buôn vua này?
nhằm mục đích gì?
Có 3 giả thuyết được
hình thành để thỏa mãn câu hỏi này:
- Giả thuyết 1: Tác giả vụ buôn vua này là cọng sản Trung Quốc. Giả thuyết này khó đứng vững bởi lý do vào thời điểm 1931 - 1933 Nguyễn Ái Quốc ở tù chưa chết, Trung Quốc không thể nào có thời gian đào tạo huấn luyện một người khả dĩ có thể thay thế. Hơn nữa vào thời điểm này cọng sản Trung Quốc cũng còn gặp nhiều khó khăn trong công cuộc chiến đấu, chưa biết tương lai thành quả chính trị ra sao, thì khó có thể đầu tư công sức và tiền của để làm một công việc buôn vua lâu dài được. Ngoài ra còn một yếu tố nữa, sự giả mạo khó mà qua mặt được tình báo Liên Xô.
- Giả thuyết 2: Ðảng Cọng Sản Việt Nam chính là thủ phạm lại càng không đứng vững bởi lý do trong bối cảnh lịch sử đảng csvn ở giai đoạn thanh trừng nội bộ, Nguyễn Ái Quốc bị tố giác chịu trách nhiệm về việc nhiều thanh niên bị bắt ở Hồng Kông. Cả ba tổng bí thư đầu tiên của đảng cọng sản Việt Nam là Trần Phú, Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập đều muốn loại trừ Hồ Chí Minh qua những cáo giác và buộc tội rất nặng nề. Do vậy đảng csvn không cần thiết và không có nhu cầu để đào tạo một Hồ Chí Minh giả thay thế Nguyễn Ái Quốc.
- Giả thuyết 3: Còn lại một người có khả năng thực hiện việc buôn vua nói trên đó là: Cọng Sản Liên Xô ( hay Cọng Sản Ðệ Tam quốc tế).
Trở lại lịch sử để
biết rõ vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ở
thập niên 30s ra sao?
Sau Ðại
Hội 5 QTCS (1924), Nguyễn Ái Quốc còn tham gia vào Ðại
Hội 3 Công Ðoàn Quốc Tế Ðỏ (Red International of Trade
Unions, còn gọi là Profintern, thành lập năm 1921).( 13).
Thời
gian này uy tín và ảnh hưởng của Nguyễn Ái
Quốc lên cao, sau đó vì một số lý do nào đó
Hồ đã không thực hiện hết những chỉ
thị của QTCS tại Pháp.
Dấu
hiệu đầu tiên về vị thế chính trị
không hoàn toàn vững chắc của Hồ trong QTCS chỉ
xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi
ông bắt đầu chuẩn bị quay lại châu Á. (14).
Ðiều
quan trọng mà ta nên lưu ý là Ðại Hội 6 QTCS bắt đầu
trong tháng 7 1928, lúc Hồ vẫn còn lênh đênh trên biển.
Có thể ông đã không biết đến những tin
tức chi tiết về kết quả của đại
hội cho đến nhiều tháng sau. Theo tất cả
những bằng chứng có được, dường như
ông đã đi châu Á với hành trang không có gì ngoài những
chỉ thị trong tháng 9 1 mình.( 15)
Tại Ðại Hội Toàn Thể Ban
Chấp Hành QTCS lần thứ 10 Kuusinen đã có dịp công
bố vào ngày 3 tháng 7 1929. Stalin, người chiến
thắng tuyệt đối trong cuộc đấu đá
nội bộ của ÐCS Liên Xô, ông còn tuyên bố [47]. Thành
viên của bất cứ đảng cộng sản nào
không chấp nhận quyết định của QTCS sẽ
bị khai trừ. (16)
Vì cuối
tháng 2 1930 ông đã viết thư cho đại diện QTCS
để tìm hiểu rõ ràng hơn nhiệm vụ của
mình: “Hiện nay tôi không biết được chính xác
vị thế của mình là gì... tôi là đảng viên
của ÐCS Pháp hay ÐCS Việt Nam? Ông còn hỏi: “Nhiệm
vụ mà QTCS đã giao cho tôi đã bị hủy bỏ
rồi chăng? Nếu không thì tôi có phải là nhân viên
của Phân Bộ Viễn Ðông hay không?” Ông yêu cầu Ban
Chấp Hành QTCS đưa ra quyết định về
việc này. (17)
Theo quan điểm của Trần Phú,
việc Hồ thất bại trong việc đưa ra
một chính sách giai cấp rõ rệt trong nội bộ đảng
là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự mất đoàn kết trong đảng. (18)
Hội
Nghị ÐCS Ðông Dương từ ngày 27-31 tháng 3 tại Macao
đã bầu ra một Ủy Ban Trung Ương mới, cho
phép Hà Huy Tập nắm quyền ÐCS Ðông Dương trong
thời gian Lê Hồng Phong vắng mặt... Hồ Chí Minh
nằm ở vị trí thứ 13 như là một thành viên
dự bị
Ðến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập trong
bức thư viết tay dài 4 trang bằng tiếng Pháp đã
kết tội phản bội của Hồ Chí Minh
những lý do như sau:
(a) Quốc đã biết rằng Lâm
Ðức Thụ là một kẻ khiêu khích, nhưng vẫn
tiếp tục sử dụng ông ta;
(b) Quốc đã phạm sai lầm khi đòi
hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa
chỉ, tên cha mẹ, ông bà nội ngoại và ông bà cố...
(c) trong nước, tại Xiêm và trong tù,
họ vẫn tiếp tục nói về trách nhiệm
của Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể
chối bỏ được;
(d) những bức ảnh do Quốc và Lâm đòi
hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh
sát;
(e) dần dần khi đường
lối của đảng đã trở nên rõ ràng hơn đối
với đảng viên và quần chúng, họ đã phê phán
mạnh mẽ hơn chính sách mà Ðồng Chí Quốc theo đuổi.
Tổng bí thư của ÐCS Xiêm, từng là người
học trò thuần thành của Quốc, là một trong
những người nói rằng trước năm 1930,
Quốc không phải là một người cộng
sản!!! (19)
Một
nguồn tin được biết nhiều năm sau
từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc
Ủy Ban Trung Ương Sô viết là Anatoly Voronin cho
biết rằng Hồ đã bị điều tra bởi
bộ ba Dmitry Manuilsky, Khang Sinh và Vera Vailieva. Theo nguồn tin
này, Mauilsky đã giữ vị trí trung lập trong khi Khang
Sinh muốn Hồ bị xử tử hình. Vasilieva được
cho là đã bảo vệ ông trên cơ sở rằng
những sai lầm của ông về những biện pháp an
ninh đã xảy ra là do thiếu kinh nghiệm].
Vào năm
1935 có khả năng là Khang Sinh đề nghị Hồ
bị trục xuất ra khỏi đảng hơn là
tử hình, nếu ông tin rằng Hồ đã có một
phần lỗi trong những bắt bớ vào năm 1931. Nhưng
vì không có những tài liệu làm bằng chứng mà rất
có thể vẫn còn được giấu kín trong tàng thư
của KGB, chúng ta không thể biết được
những tố giác của Hà Huy Tập đã được
xử lý nghiêm trọng đến mức độ nào. (20)
Hình số 6: Hình Hồ Chí Minh xuất hiện lần đầu
tiên
Nguồn: The missing years
Trong giai đoạn giao thời giữa
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh đã xuất hiện
hai nghịch lý như sau:
-
Nguyễn Ái Quốc là bị bịnh lao tái
phát lần thứ tư ho ra máu, có thể nào được
quan tâm chữa trị đầy đủ để
sống còn qua thời kỳ bị theo dõi giám sát như là
một tội đồ bội phản, ở Liên Xô hay
không?
-
Nguyễn Ái Quốc bị cáo giác phản
bội bởi chính những tổng bí thư đảng
csvn (Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập), người
chịu trách nhiệm về vụ bắt bớ thanh niên năm
1931. Cũng là người không hoàn thành nhiệm vụ
quốc tế cọng sản. Tại sao không chịu hình
phạt nào như khai trừ, kỷ luật hay hạ
tầng công tác, an trí mà trái lại còn được nuôi dưỡng
chữa bịnh, cho đi học đại học
(một hình thức tái huấn luyện) để trở
lại lãnh đạo đảng csvn, được xóa
trắng tội lỗi năm xưa? Hoàn toàn đi ngược
lại truyền thống “Thà giết lầm hơn bỏ
sót” của cọng sản.
Phải chăng nghi vấn Nguyễn Ái
Quốc trong thời gian thất sủng này phải
nhận lãnh cuộc sống trong tăm tối, khó khăn
cùng với căn bịnh lao kinh niên cho đến chết
ở một vùng đất hẻo lánh nào đó là sự
thật ?
Vào thời điểm này QTCS rất
cần một cán bộ đủ tin cậy để
thực hiện tham vọng thống nhất tất cả
các đảng thành một đảng Cọng Sản Ðông Dương,
biến Liên Bang Ðông Dương trực thuộc Liên Bang Xô
Viết. (Tham vọng Liên Bang Ðông Dương Cọng
Sản này được Lê Duẩn tiếp nối
thực hiện bằng cách đem quân xâm chiếm Campuchia
vào cuối thập niên 70s). Nguyễn Ái Quốc đã
từng thất bại trong nhiệm vụ này trước
năm 1930, thế nhưng thực tế vai trò của
họ Hồ vẫn cần thiết để tập
hợp lại các đảng phái khác nhau. Thế nhưng
tình hình sức khỏe của Hồ Chí Minh không thể nào
tiếp tục công cuộc chiến đấu gian khổ
và lâu dài này được. Vì thế QTCS đã sử
dụng kế “Kim Thiền Thoát Xác” như giáo sư Hồ
Tuấn Hùng đã trình bày trong tác phản “Hồ Chí Minh Sanh
Bình Khảo”.
Như
vậy, Liên Xô thực hiện kịch bản “buôn vua”
nhằm thôn tính và thống nhất Liên Bang Ðông Dương
bằng mọi giá, trên căn bản quyền lợi
của Liên Xô chứ không phải là quyền lợi của
Việt Nam.
Chẳng may,
kẽ buôn vua “Liên Xô” đã chết tức tưởi vào
thập niên 80s kéo theo sự phá sản của dự án Liên
Bang Ðông Dương. Phải chăng nhân cơ hội này,
tình báo Trung Quốc đã “chôm?” được bí mật
hồ sơ buôn vua Hồ Chí Minh của Liên Xô để
từ đó làm con bài tẩy khống chế đảng
Cọng Sản Việt Nam?
Một câu
hỏi được đặt ra ở đây là đảng
csvn có biết vụ án buôn vua này hay không? Và biết từ
thời gian nào?
Câu trả
lời: Biết được ở thời gian nào
rất khó khẳng định. Nhưng với khả năng
tình báo của csvn, cho thấy không thể không biết mà
biết rất rõ. Thế nhưng vì nhiều lý do nhạy
cảm, đảng csvn phải câm miệng, ngậm bồ
hòn làm ngọt, cam phận làm kẽ đồng lõa qua động
thái tiếp tục thần thánh hóa Hồ Chí Minh. Vì nếu
câu chuyện được tiết lộ sẽ làm
sụp đổ tất cả từ thần tượng,
chế độ đến sự nghiệp chính trị
của đảng csvn cũng tiêu tan, kéo theo nhiều tình
huống bi thảm ngoài dự kiến của người
trong cuộc.
Ðây là một
trong những lý do để đảng csvn trở nên hèn
hạ, cam tâm làm nô lệ cho Trung Quốc qua hành động
bán đất cắt biển.
Ngày 22-12, tại cửa khẩu
quốc tế Hữu Nghị, Bộ Ngoại giao, UBND
tỉnh Lạng Sơn đã tổ chức lễ cắm
cột mốc số 1116, một trong những cột
mốc cuối cùng trên tuyến biên giới đất
liền giữa hai nước Việt - Trung. (22)
Thời gian tới sẽ hoàn tất
việc phân định ranh giới lãnh hải. Hoàng, Trường
Sa phải biến mất trên bản đồ Việt Nam
(?).
Kỷ niệm 1000 năm Hoàng Thành Thăng
Long là một dấu mốc vinh quang cho một quá trình
dựng nước và giữ nước. Phải chăng đây
cũng là dấu mốc đầu tiên của chuỗi ngày
tủi nhục của lịch sử Việt Nam mất đất,
mất biển do hệ quả của vụ án buôn vua này?
Cho dù bào chữa bằng lý do nào chăng
nữa, trách nhiệm không ai khác ngoài đảng Cọng
Sản Việt Nam.
Ghi chú:
(1) “Từ Nguyễn Tất Thành đến
Hồ Chí Minh” (Sự hình thành một chọn lựa)
của Lữ Phương.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9090&rb=08
(2) Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/T%C4%83ng_Tuy%E1%BA%BFt_Minh
(3) The missing years Tr.115.
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
(4) Nhật ký Hoàng
Tùng
http://geocities.com/xoathantuong/ht_nknvh.htm
(5) Trần Minh Siêu Nhà xuất bản Nghệ An - năm
003
http://www.lyhocdongphuong.org.vn/News/03/Huyen-thoai-huyet-dao-ba-Hoang-Thi-Loan-trên-nui-Dong-Tranh-Chuong-III/68/416/
(6) Hoàng Quốc Kỳ trong tác phẩm Ma đầu
Hồ Chí Minh. Tr. 16
(7) Nhật ký Hoàng Tùng
http://geocities.com/xoathantuong/ht_nknvh.htm
(8) Phùng
Thế Tài và Bác Hồ, những Kỷ niệm không quên Tr.
179
(9)
http://danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=1740
(10) BBC
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/story/2008/08/080820_hoangtranh.shtml
(11) Hồ chi Minh nhận định
tổng hợp - Minh Võ tr. 619
(12) Trần Dân Tiên “Những
mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chí Minh” tr.53.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9151&rb=08
(13)(14)(15),(16),(17),(18),(19),(20):
Missing years, tr.66, tr.71, tr.108, tr.112, tr.134, tr.168, tr.171, tr.172)
http://www.doi-thoai.com/pictures/HCM_missing_years.pdf
(21) Ðàn Chim Việt
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4625
(22) Báo Hà Nội
Mới
No comments:
Post a Comment