Một người vợ Trung quốc khác của hồ chí minh
Một độc giả vừa gửi tới bản dịch có dẫn
nguồn và cả bản gốc dưới đây cùng lời bình. Ba Sàm chỉ xin thêm mấy
lời, rằng dường như đã thành lệ, cứ mỗi khi cần tác động gây sức ép về
một vấn đề hệ trọng nào đó, phía Trung Quốc lại hé lộ những thông tin
rất nhạy cảm mà đảng, nhà nước Việt Nam bấy lâu vẫn chưa muốn hoặc chưa
có cách gì công bố sao cho tiện. Nhưng trước đây, ít nhất 2 lần, họ chỉ
cho rò rỉ ở cấp tỉnh. Vậy lần này, cũng chỉ những thông tin như 2 lần
trước, nhưng đặc biệt chưa từng thấy, lại cho đăng lại trên báo đảng
trung ương Nhân dân Nhật báo, liệu có phải họ đang nhắm vào vấn đề có
thể được coi là hệ trọng nhất, Biển Đông?
Một người vợ Trung Quốc khác của Hồ Chí Minh
胡志明的另一个中国爱人
Dương Thành Vãn Báo (Báo Dương Thành buổi chiều) 羊城晚報, 12-11-2011
Tác giả: Đinh Đông Văn
Trần Hiểu Nông ghi lại lời của cha là Trần Bá Đạt[1]: “Thời trẻ Hồ Chí Minh đã từng kết hôn.
Vợ ông ta
là một người Hạ Môn, nhưng đã mất rất sớm. Sau đó ông ta sống độc thân
một thời gian rất dài. Sau khi cách mạng Việt Nam thắng lợi, ông muốn
cưới một người Phúc Kiến làm vợ, nhưng Trung ương Đảng Việt Nam không
đồng ý, ông không thể không phục tùng quyết định của Trung ương Đảng
Việt Nam, vì vậy ông không bao giờ tái hôn nữa”.
Thực ra, người phụ nữ thứ nhất phải là Tăng Tuyết Minh. Người phụ nữ thứ hai là Lâm Y Lan.
Năm 1930, Hồ Chí Minh bị truy bắt ở
Việt Nam, không chốn dung thân, thông qua liên lạc viên cầu sự trợ giúp
từ Tỉnh ủy Quảng Đông Đảng Cộng sản Trung Quốc đang còn trong vòng bí
mật. Đào Chú[2]
bố trí cho nữ đảng viên Đảng cộng sản (Trung Quốc) Lâm Y Lan giả làm vợ
Hồ Chí Minh, đồng thời dặn dò nhất hiết phải đảm bảo an toàn cho Hồ Chí
Minh.
Lúc đó Hồ Chí Minh 40 tuổi, ông cảm
thấy Lâm Y Lan đặc biệt giống người yêu Nguyễn Thanh Linh đã hi sinh,
ông viết trong nhật ký: “Cô ta giống hệt Nguyễn Thanh Linh cả về lời nói
cử chỉ lẫn tính cách sở thích. Ánh mắt vừa chạm nhau, tôi đã tự thấy
mình sẽ không còn là một kẻ vô thần thuần túy nữa. Tôi cho đây tất cả
đều là ý trời”.
Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt,
trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật ký của mình giao cho Lâm Y Lan và
nói: “Anh để trái tim mình lại bên em, hãy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ
Chí Minh được giải cứu. Ông hỏi Lâm Y Lan: “Đọc xong nhật ký của anh rồi
chứ gì! Anh tin rằng đóa hoa lan trong trái tim anh sẽ không bao giờ
khô héo”. Lâm Y Lan không ngăn được tình cảm nhào vào lòng Hồ Chí Minh.
Vào những năm 50 của thế kỷ trước, Lâm Y
Lan đã là cán bộ cao cấp, nhưng vẫn ở một mình. Khi Đào Chú quan tâm
đến chuyện hôn nhân của bà, bà mới nói vẫn còn yêu Hồ Chí Minh. Đào Chú
hỏi: “Ông ta có yêu bà không?” Đáp: “Ông ấy bảo tôi đợi ông”.
Hồ Chí Minh sang thăm Trung Quốc vào
những năm 50, yêu cầu gặp lại người bạn cũ Lâm Y Lan. Mao Trạch Đông lập
tức cho gọi Đào Chú và Lâm Y Lan lên Bắc Kinh. Đúng lúc Hồ Chí Minh
chuẩn bị lên máy bay về nước, Lâm Y Lan chạy đến bên ông, hai đôi bàn
tay nắm chặt lấy nhau. Trước khi máy bay cất cánh, Lâm Y Lan lấy cuốn
nhật ký trả lại cho Hồ Chí Minh, nhưng Hồ Chí Minh nhẹ nhàng đẩy lại và
nói: “Bên mình anh không có em, rất lâu rồi anh không còn viết nhật ký
nữa, cứ để nó lưu lại nơi em làm kỷ niệm!”.
Năm 1958, Hồ Chí Minh 68 tuổi, có mời
Đào Chú sang thăm cùng đi câu. Ông nói: “Tôi và Lâm Y Lan yêu nhau đã
hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng mà đã lỡ tuổi thanh xuân. Bây giờ
tuổi đã cao, muốn nhanh chóng được đoàn tụ với Y Lan. Mong anh khi về
nước thử thăm dò thái độ của Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân
Lai xem sao, nếu họ tán thành, tôi muốn đưa Y Lan đến Hà Nội cử hành
hôn lễ bí mật để thỏa nỗi mong muốn đã ấp ủ từ nhiều năm”.
Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta khuyến
khích tự do yêu đương, tự chủ hôn nhân. Thế nhưng việc này lại liên quan
đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước Trung-Việt, không thể khinh
suất được”. Còn khi Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam họp để thảo luận
về việc này, số ý kiến phản đối đã vượt quá số ý kiến tán thành.
Hồ Chí Minh không biết làm thế nào đành
viết thư cho Lâm Y Lan: “Y Lan thân yêu, chúng ta không có duyên tái
hợp. Em đã nghe kể về tình yêu tinh thần của Plato chưa? Hãy để cho tâm
hồn của hai chúng mình mãi mãi hòa làm một!”
Lâm Y Lan trả lời: Nếu là trên trời xin
làm đôi chim liền cánh, nếu là dưới đất xin làm đôi cây giao cành. Trời
dài đất rộng có lúc tận, còn mối tình này không bao giờ cạn. Năm 1968,
Lâm Y Lan lâm bệnh mất. Trước lúc lâm chung, bà nhờ người gửi trả cuốn
nhật ký cho Hồ Chí Minh. Một năm sau, Hồ Chí Minh cũng qua đời, trong
lúc hấp hối vẫn còn gọi tên Lâm Y Lan.
(Trích từ “Tham khố văn sử” số 17 năm 2011)
[1] Trần Bá Đạt (1904 – 20.9.1989,
[2]Đào ChúNguồn: http://vietsuky.wordpress.com/2012/01/31/63-mot-nguoi-vo-trung-quoc-khac-cua-ho-chi-minh/
Danlambao: Ngày 30/08/2006 tờ báo Tin nhanh Văn hóa, kỳ 421 của Trung Quốc đã đăng bài viết về “thâm cung bí sử” này.
Danlambao: Ngày 30/08/2006 tờ báo Tin nhanh Văn hóa, kỳ 421 của Trung Quốc đã đăng bài viết về “thâm cung bí sử” này.
“Tôi để trái tim tôi lưu lại với em”
Người dịch Viêm Hoàng Xuân Thu, Quan Công Nhân
Năm 1930, trong lúc khu hành chính tại
Bạch Sắc bị khủng bố, các địa bàn khác cũng đang bị địch tăng cường lùng
bắt các “phần tử cộng sản”. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đã đến Quảng Châu. Xuất
phát từ suy nghĩ bảo vệ an toàn cho mình, ông ta nhờ tỉnh ủy bí mật ở
Quảng Đông giúp đỡ. Tỉnh ủy Quảng Đông cử Đào Chú sắp xếp cho Hồ Chí
Minh cùng một nữ đảng viên cộng sản tên là Lâm Y Lan đóng giả làm một
cặp vợ chồng để bảo vệ Hồ Chí Minh.
Hôm ấy, Hồ Chí Minh tìm đến chỗ ở mới,
vừa mới bước vào đến cửa liền đứng sững người lại vì kinh ngạc, vì người
phụ nữ đang đứng trước mặt ông ta rõ ràng là người mà ông ngày đêm
tưởng nhớ : Nguyễn Thanh Linh. Tựa hồ như trong giấc chiêm bao, Hồ Chí
Minh liền hỏi : “Thanh Linh, em … em chưa chết ư ?” Cô gái cũng ngỡ
ngàng chưa hiểu được chuyện gì, nhìn kỹ ông ta rồi nói : “Ông có phải là
Hồ Chí Minh ? Tôi họ Lâm, tên gọi là Y Lan”. Hồ Chí Minh lúc ấy mới
biết là mình đã nhận nhầm người, vội mỉm cười nhận lỗi : “Xin lỗi cô,
tôi thất thố quá !”.
Lát sau, Hồ Chí Minh mới chậm rãi kể
lại : 10 năm về trước ông ta có yêu một người con gái tên là Nguyễn
Thanh Linh, nói đến chuyện ấy lại động lòng rơi lệ, gạt tay lau nước mắt
lưng tròng. Hồ Chí Minh viết trong nhật ký : “Tôi phát hiện ra rằng tự
bản thân mình cũng không thể là một con người “vô thần”, nhất định là
tấm lòng chân tình của tôi đã làm cảm động đến Thượng đế, tôi quyết
không để một lần nữa phải chia ly cô ấy”.
Để yểm hộ cho Hồ Chí Minh triển khai
công việc tại Quảng Đông, Hương Cảng, Lâm Y Lan đã thực hiện vai trò như
một người vợ thực sự, chăm sóc lo liệu cho Hồ Chí Minh từng ly từng tí
trong mọi sinh hoạt hàng ngày. Hồ Chí Minh cảm động vô cùng, nhưng lại
lo rằng thời cơ vẫn chưa chín muồi, sợ bị Lâm Y Lan cự tuyệt, cuối cùng
cũng không dám biểu lộ ra tình yêu của mình. Về phần Lâm Y Lan thì thấy
rằng Hồ Chí Minh đã dốc hết bầu tâm sự với mình, nên cũng từ rất sớm
trong trái tim đã thầm hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng lại nhận thấy
chưa đến lúc nói ra tình cảm của mình một cách rõ ràng nên cũng lại im
lặng.
Không lâu sau, do bị kẻ phản bội bán
rẻ, Hồ Chí Minh bị bắt. Lúc sắp chia tay, Hồ Chí Minh ôm hôn Lâm Y Lan,
lấy khăn tay lau nước mắt trên khuôn mặt cô và nói : “Kiên cường lên em,
đừng để kẻ địch nhìn thấy chúng ta yếu mềm”, nói xong liền lấy ra từ
trong người một quyển nhật ký được giấu kỹ đưa cho Lâm Y Lan và nói :
“Tôi để trái tim lưu lại với em, hãy giữ lấy nhé !”.
Ba hôm sau, Hồ Chí Minh được cứu ra,
ông ta mang hoa lan đến tặng Lâm Y Lan, nhìn thấy Lâm Y Lan với thái độ
ngại ngùng, Hồ Chí Minh nói : “Em đã xem qua quyển nhật ký chưa ? Tôi
tin tưởng rằng hoa lan trong trái tim này mãi mãi không bao giờ khô
héo”.
Dự định bí mật tổ chức hôn lễ tại Hà Nội
Bánh xe lịch sử đã lăn chuyển đến thập
niên 50 của thế kỷ 20, đất nước TC được “giải phóng”. Lúc ấy, Lâm Y Lan
đã là cán bộ lãnh đạo cao cấp của tỉnh Quảng Đông, Hồ Chí Minh cũng đã
về nước tiếp tục thực hiện sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh kể từ khi tạm biệt Lâm Y
Lan, lòng yêu thương nhớ nhung ngày càng thêm da diết. Vài năm sau đó,
Hồ Chí Minh nhận lời mời đến thăm TC, nhân tiện đó đã đề nghị chủ tịch
Mao Trạch Đông thu xếp cho mình được gặp lại các bạn cũ cùng hoạt động ở
Quảng Đông để ôn lại chuyện cũ. Chủ tịch Mao Trạch Đông lập tức điện
cho tỉnh ủy Quảng Đông bố trí cho Đào Chú, Lâm Y Lan và một vài người
khác đến Bắc Kinh để gặp mặt Hồ Chí Minh.
Năm 1958, tại Hà Nội, bên bờ sông có
hai người bạn già ngồi thong thả buông câu, họ chính là Đào Chú và Hồ
Chí Minh. Hồ Chí Minh nói với Đào Chú một cách rất nghiêm túc : “TC có
câu nói : Trẻ là vợ chồng, già làm bạn. Tôi và Lâm Y Lan thương yêu nhau
đã trên 20 năm, cũng bởi vì sự nghiệp cách mạng mà làm lỡ đi tuổi thanh
xuân, giờ đây cả hai người tuổi tác đều đã cao, tôi càng cảm thấy cô
đơn gấp bội lần, cho nên càng muốn sớm được cùng Lâm Y Lan đoàn tụ. Mong
ông khi trở về bên ấy xin ý kiến của Mao chủ tịch và thủ tướng Chu Ân
Lai giúp xem giải quyết việc này như thế nào ? Nếu quả là Mao chủ tịch
và Chu thủ tướng tán thành thì tôi định là sẽ đón Lâm Y Lan về Hà Nội và
bí mật tổ chức hôn lễ, đấy chính là đạt đuợc nguyện vọng đã ấp ủ từ bấy
nay của tôi”.
Sau khi Đào Chú về đến Bắc Kinh liền
truyền đạt ngay ý nguyện của Hồ Chí Minh với Trung ương Đảng và Mao chủ
tịch. Mao chủ tịch trầm ngâm giây lát rồi mới nói : “Chúng ta đề xướng
“tự do yêu đương, tự chủ hôn lễ”, cá nhân tôi ủng hộ yêu cầu của Hồ chủ
tịch, thế nhưng sự việc này quả là một việc “nhỏ mà không nhỏ”, nó có
liên quan đến quan hệ giữa hai đảng và hai nước Việt – Trung, không thể
lơ là được”. Thủ tướng Chu Ân Lai cũng nhận thấy rằng cần thiết phải bàn
bạc với các đồng chí trong Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về việc
này.
Lê Duẩn giơ tay phải rồi lại bỏ xuống
Trong phòng họp của Bộ chính trị Trung
ương Đảng cộng sản Bắc Việt. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau,
hai bên bố trí chỗ ngồi cho các ủy viên. Tất cả mọi người trong phòng
họp đều ngồi lặng im không lên tiếng. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đập bàn
đứng dậy nói : “Tôi chịu như vậy đủ rồi ! Tôi không muốn sống như một
con người khác nữa ! Tôi cũng có những quyền lợi của mình để tự đưa ra
quyết định chứ, lần này các anh đừng mong thuyết phục tôi !”
Lê Duẩn không hề tỏ ra nóng nảy, bình
tĩnh điềm đạm nói : “Cụ Hồ, cụ đừng quá nóng vội ! Phàm là làm việc gì
thì cũng phải suy tính cho kỹ, không thể không tính trước tính sau, tôi
cũng vì lo cho cụ mà muốn khuyên cụ thế này. Chẳng phải cụ đã từng nói :
vì Việt Nam thống nhất nên trọn đời không lấy vợ ? Câu nói ấy có ảnh
hưởng rất lớn, một khi mà cụ đã vi phạm vào lời hứa đó có nghĩa là chúng
ta hủy bỏ sự nghiệp giải phóng miền Nam thiêng liêng, như thế không chỉ
ảnh hưởng tới hình tượng “người cha già dân tộc” của cụ đối với nhân
dân, mà còn làm mất đi thanh danh của Đảng cộng sản Việt Nam. Vì vậy,
tôi thà bị cụ quở trách, căm ghét cũng không thể để nhân dân trách cứ
chúng ta là phạm nhân thiên cổ !”
Hồ Chí Minh vẫn không giữ nổi bình
tĩnh, nói : “Đúng là tôi đã nói câu nói ấy, thế nhưng con người không
phải là thần thánh, ai không phải trải qua ? Vả lại, nhân dân cũng không
chỉ nhìn vào lời nói của tôi, điều quan trọng là công việc của tôi như
thế nào chứ. Tôi tin rằng nhân dân sẽ lượng thứ cho tôi !”
Hồ Chí Minh thấy Lê Duẩn không nói một
lời, nghiến chặt răng nói : “Đã như thế, bàn bạc không thống nhất được
thì mọi người biểu quyết, dựa theo nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số
để giải quyết vấn đề này. Ai đồng ý với tôi xin giơ tay”.
Hồ Chí Minh đưa mắt nhìn bốn bên, số
ủng hộ và phản đối cũng tương đương nhau, đang nhìn xem thái độ Lê Duẩn
thế nào. Lúc ấy, Lê Duẩn ngập ngừng giơ tay phải lên rồi đột nhiên lại
hạ xuống, thở dài nói : “ Tôi không thể hại cụ được !”
Điều khiến Lê Duẩn bất ngờ là Hồ Chí
Minh đã không những không nổi giận đùng đùng, chửi mắng ầm ĩ, ngược lại
ông ta chỉ cười gượng một cách khô khan rồi bước ra bên ngoài.
Giữa lúc hấp hối vẫn nhớ đến Lâm Y Lan
Tình yêu của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan
đã ảnh hưởng rất lớn đến tinh thần Lâm Y Lan, bà ta mất vào năm 1968,
trước lúc lâm chung cũng không quên lấy ra quyển “nhật ký tình yêu” mà
Hồ Chí Minh tặng cho mình và nhờ người chuyển cho Hồ Chí Minh, cũng nhắn
nhủ Hồ Chí Minh không nên quá buồn phiền.
Hồ Chí Minh nhận được tin người yêu
thương mất, buồn không muốn sống nữa, lệ rơi như mưa. Cách một năm sau
đó, ngày 02/09/1969, Hồ Chí Minh cũng đột ngột qua đời, giữa lúc hấp hối
vẫn còn nhắc đến tên Lâm Y Lan.
Mối tình bi kịch giữa Hồ Chí Minh với người yêu Trung Quốc
(Trích từ: 胡志明 http://baike.baidu.com/view/63018.htm#4_4)
Trong những năm tháng đặc biệt, lãnh tụ
Hồ Chí Minh của Cách mạng Việt Nam đã để lại mối tình cách mạng tấm tức
suốt đời ở Trung Quốc.
Năm 1930, Trung Quốc đang lâm vào cảnh
khủng bố trắng, Hồ Chí Minh đến Quảng Châu. Để yểm hộ cho việc triển
khai công tác của Hồ Chí Minh ở Quảng Đông và Hồng Kông, Tỉnh ủy Quảng
Đông đã bố trí nữ đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc Lâm Y Lan giả làm
vợ Hồ Chí Minh. Lâm Y Lan đã chăm sóc hết mức mọi sinh hoạt ăn ở của Hồ
Chí Minh, khiến cho ông vô cùng cảm kích, nhưng mãi vẫn không dám thổ lộ
tình yêu. Không lâu sau, Hồ Chí Minh bị bắt vì bọn phản bội bán rẻ.
Trước lúc chia tay, ông lấy cuốn nhật ký quý báu trao cho Lâm Y Lan và
nói: “Anh để trái tim mình lại bên em, hãy nhận lấy đi!” Ba hôm sau, Hồ
Chí Minh được giải cứu. Ông tặng hoa lan cho Lâm Y Lan và tình yêu của
hai người cuối cùng đã bắt đầu.
Sau khi Trung Quốc mới được thành lập,
Hồ Chí Minh về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng còn chưa hoàn thành.
Sau khi xa cách Lâm Y Lan, nỗi nhớ của Hồ Chí Minh ngày càng nặng thêm.
Khi được mời đến thăm Trung Quốc, ông xin Mao Trạch Đông bố trí cho gặp
lại bạn cũ ở Quảng Đông để ôn lại tình xưa. Mao Trạch Đông lập tức gọi
điện cho Tỉnh ủy Quảng Đông, Đào Chú và Lâm Y Lan… đến Bắc Kinh gặp mặt
Hồ Chí Minh. Đúng lúc Hồ Chí Minh chuẩn bị lên máy bay về nước, ông thấy
Lâm Y Lan chạy về phía mình. Hai người đắm đuối nhìn nhau rất lâu và
đều không ngăn được những dòng lệ.
Năm 1958, Hồ Chí Minh trịnh trọng nói
với Đào Chú nguyện vọng muốn đón Lâm Y Lan đến Hà Nội để cử hành hôn lễ
bí mật. Sau khi về đến Bắc Kinh, Đào Chú chuyển ý của Hồ Chí Minh lên
Trung ương Đảng và Mao Chủ tịch. Mao Chủ tịch trầm ngân giây lát rồi
nói: “Cá nhân tôi ủng hộ lời yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thế nhưng
việc này lại liên quan đến mối quan hệ giữa hai Đảng và hai nước
Trung-Việt, nên không thể khinh suất được”. Chu Ân Lai cũng nói: “Nên
bàn bạc với các đồng chí bên Đảng Cộng Sản Việt Nam một chút, nếu như họ
đồng ý, thì chúng ta quyết không làm hòn đá cản đường”.
Thế nhưng, trong phòng họp của Bộ Chính
trị Trung ương Đảng Bắc Việt, một vị lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam
(Lê Duẩn) đã điềm tĩnh nói với Hồ Chí Minh: “Anh đã từng nói rằng Việt
Nam còn chưa giải phóng thì anh sẽ suốt đời không lấy vợ, câu nói này có
ảnh hưởng rất lớn, một khi Bác đã phản bội lại lời hứa đó, thì có nghĩa
là chúng ta đã từ bỏ sự nghiệp thiêng liêng giải phóng Miền Nam, điều
này không chỉ làm tổn hại đến hình tượng Cha già dân tộc của anh, mà
ngay cả Đảng cộng sản Việt Nam cũng sẽ vì thế mà mất hết sạch danh
tiếng. Cho nên, tôi thà bị anh trách móc, thù ghét, chứ không thể để cho
dân chúng Việt Nam chửi mắng chúng ta là kẻ tội nhân ngàn đời”.
Nghe xong, Hồ Chí Minh vô cùng nản
lòng, cười một cách đau khổ, bỏ chỗ ngồi đi ra… Lâm Y Lan lúc này đang
nằm trong bệnh viện thành phố của Quảng Châu mỏi mắt trông chờ, rồi điều
bà trông đợi lại là một mẩu thư ngắn của Hồ Chí Minh: “Y Lan thân yêu,
chúng mình không có duyên tái hợp. Em đã nghe tình yêu tinh thần của
Plato chưa? Xin hãy để linh hồn của hai đứa chúng ta mãi mãi hòa làm
một!” Y Lan đặt lá thư lên bậu cửa sổ, để cho gió lành cuốn nó đi. Bà
nhìn theo lá thư bay lượn trong gió, lặng khóc thầm. Mối tình giữa Hồ
Chí Minh và Y Lan đã đánh một cú quá lớn vào tinh thần Y Lan, bệnh tình
của bà bắt đầu trở nên xấu đinăm 1968, Lâm Y Lan mất, trước lúc lâm
chung, bà còn không quên nhờ người giao trả lại cuốn “Nhật ký tình yêu”
mà Hồ Chí Minh đã tặng cho mình, đồng thời dặn lại ông hãy ghìm nén nỗi
đau. Hồ Chí Minh đã sốc khi nhận được tin người yêu mất, đau đớn chẳng
muốn sống, nước mắt giàn giụa… Sau đó một năm, cũng chính là vào sáng
sớm ngày 2 tháng 9 năm 1969, Hồ Chí Minh cũng đã qua đời. Trong lúc hấp
hối, ông còn đã gọi tên Lâm Y Lan…
(Trung Quốc) Bách Độ Bách Khoa.
Đọc thêm:
Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc
Hoàng Tranh
“Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống
độc thân suốt thời gian dài lâu nhưng hoàn toàn không phải Người suốt
đời không lấy vợ. Thực ra, Hồ Chí Minh từng có một giai đoạn sống trong
hôn nhân chính thức. Đó là vào thời kì những năm 20 đầu thế kỉ XX khi
người tiến hành công tác cách mạng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Nói cụ
thể là vào tháng 10 năm 1926, Hồ Chí Minh từng lấy cô gái Quảng Châu
Tăng Tuyết Minh làm vợ, đã cử hành hôn lễ, sau khi cưới đã chung sống
với nhau hơn nửa năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời Quảng Châu, Hồ
Chí Minh đã mất liên lạc với vợ và từ đó không thể gặp lại nữa. Từ đó,
đôi tình nhân ấy, người không bao giờ đi bước nữa, người không một lần
nào nữa cưới vợ, mỗi người một phương trời, đều sống độc thân cho đến
khi từ biệt cõi đời này.”
“Tăng Tuyết Minh, người vợ Trung Quốc của Hồ Chí Minh, quê ở huyện
Mai tỉnh Quảng Đông, sinh tháng 10 năm 1905 ở thành phố Quảng Châu. Thân
phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa, thời trẻ một mình đến Đàn Hương
Sơn (Honolulu) lúc đầu làm công, sau buôn bán ; khi tích luỹ được ít vốn
liếng, trở về nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh khấm khá, vui vẻ. Người
vợ đầu của ông Tăng Khai Hoa họ Phan, sinh được hai trai một gái. Sau
khi bà Phan bị bệnh mất, ông lấy bà vợ kế họ Lương là người huyện Thuận
Đức sinh được 7 cô con gái nữa. Tăng Tuyết Mai là con út, bởi vậy những
người quen biết Tăng Tuyết Minh thường gọi cô là “ cô Mười ”. Khi cô 10
tuổi thì người cha qua đời, để lại một chút bất động sản. Bà Lương thị
cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ vào tiền thuê nhà, gia cảnh không được
như trước. Năm 1918, mới 13 tuổi, Tuyết Minh đã bắt đầu theo chị là
Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ sản khoa, học việc hộ lí và đỡ đẻ. Đầu năm
1923, người chị ấy đưa Tăng Tuyết Minh đến Phiên Ngu để học Cao đẳng
tiểu học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng may lìa đời, Tăng Tuyết
Minh mất đi nguồn chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy phải vào trường Hộ sinh
Quảng Châu học tập. Tháng 6 năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường
trợ sản, được ông hiệu trưởng giới thiệu đến trạm y tế La Tú Vân làm nữ
hộ sinh. Chính thời gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với Hồ Chí Minh
lúc ấy đang tiến hành công tác cách mạng ở Quảng Châu.”
“(…) Tháng 11 năm 1924, Hồ Chí Minh từ
Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu, lấy tên là Lý Thuỵ, làm việc tại phòng phiên
dịch của cố vấn Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn Trung Sơn, trú ngụ
tại nhà hàng của ông Bào tại quảng trường Đông Hiệu. Sau những giờ làm
công tác phiên dịch, Hồ Chí Minh dành nhiều thì giờ và tâm sức vào công
việc liên kết và tổ chức các chiến sĩ cách mạng Việt Nam, sáng lập tổ
chức cách mạng Việt Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng Việt Nam trong công
tác. Trong thời gian ấy, những thanh niên cách mạng Việt Nam đến Quảng
Châu trước như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ đều trở thành trợ thủ đắc lực
cho Người. Lâm Đức Thụ cùng người vợ Trung Quốc của ông là Lương Huệ
Quần chính là ông mối bà mối cho cuộc hôn nhân của Hồ Chí Minh và Tăng
Tuyết Minh.”
“Lâm Đức Thụ vốn tên là Nguyễn Công
Viễn, người huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, Việt Nam, sinh năm 1890
(cùng tuổi với Hồ Chí Minh). Hồ Chí Minh cùng với gia đình Lâm Đức Thụ
có thể nói là chỗ giao hảo nhiều đời. Hai người quen biết nhau từ thuở
thiếu thời, lại cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ Chí Minh đến châu Âu tìm
chân lí cách mạng, gần như đồng thời, hưởng ứng lời hiệu triệu của nhà
chí sĩ chống Pháp lão thành Phan Bội Châu, Lâm Đức Thụ muốn Đông du qua
Nhật, nhưng khi nổ ra Cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu tới Trung Quốc,
sáng lập Việt Nam Quang phục hội ở Quảng Châu, Lâm Đức Thụ theo Phan Bội
Châu đến Quảng Châu và gia nhập hội đó. Đầu năm 1922, một số thanh niên
nhiệt huyết trong Việt Nam Quang phục hội cảm thấy thất vọng về cánh
già bảo thủ nên đã li khai Quang phục hội để lập ra một đoàn thể cấp
tiến hơn là Tâm tâm xã. Sau khi đến Quảng Châu, Hồ Chí Minh rất nhanh
chóng liên hệ được với Tâm tâm xã và quyết định cải tạo tổ chức này
thành một tổ chức cách mạng chân chính của giai cấp vô sản Việt Nam. Hồ
Chí Minh vốn quen biết Lâm Đức Thụ từ trước nên ở Quảng Châu Người coi
Lâm là cốt cán có thể tin cậy.”
Tăng Tuyết Minh ở tuổi 20
“Lâm Đức Thụ hoạt động ở Quảng Châu một
thời gian khá lâu. Ở đây ông đã lấy cô gái Trung Quốc Lương Huệ Quần
làm vợ. Mẹ của Lương Huệ Quần là một thầy thuốc đã mở tại thành phố
Quảng Châu một dịch vụ y tế. Lương Huệ Quần có làm công tác y tá tại đó.
Năm 1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường Bảo sinh trợ sản, qua sự
giới thiệu của ông hiệu trưởng đã tới cơ sở dịch vụ y tế của mẹ Lương
Huệ Quần làm cô đỡ nên đã nhanh chóng quen biết với Lương Huệ Quần và
trở nên thân thiết. Lương Huệ Quần lớn hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên cô
thường gọi là “ chị Quần ”, hai cô đối xử với nhau như chị em ruột.”
Nguyễn Ái Quốc ở tuổi 30
“Lâm Đức Thụ sau năm 1927 đã từng bước
phản bội, li khai hàng ngũ cách mạng Việt Nam làm không ít điều nguy hại
cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhưng tại thời điểm mấy năm Hồ Chí
Minh mới đến Quảng Châu thì ông ta cũng là một thanh niên cách mạng hăng
hái có triển vọng. Hồ Chí Minh chẳng những được Lâm Đức Thụ phối hợp và
chi viện trong công tác mà còn được Lâm giúp đỡ cả về mặt kinh tế. Hồ
Chí Minh thậm chí đã đem cả chuyện trăm năm của mình phó thác cho Lâm
Đức Thụ. Mùa hè năm 1926, Hồ Chí Minh đề xuất với Lâm Đức Thụ rằng do
việc công quá bận rộn, anh cũng muốn tìm một cô gái Trung Quốc để tiện
trong cuộc sống nơi cư trú có người chăm sóc. Lâm Đức Thụ cùng với vợ là
Lương Huệ Quần bàn bạc thấy Tăng Tuyết Minh là đối tượng thich hợp bèn
giới thiệu cho Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh làm quen với nhau. Hồ Chí
Minh sau khi gặp mặt Tăng Tuyết Minh đã rất có cảm tình với cô gái Quảng
Châu có gương mặt trái xoan, da trắng nõn điềm đạm, đoan trang, thông
minh, sáng dạ, vì vậy sau giờ làm thường hẹn gặp và trò chuyện với cô.
Nơi gặp gỡ thường là nhà Lương Huệ Quần. Cảm tình của đôi bên ngày càng
sâu sắc, nhanh chóng đi đến trao đổi về hôn lễ. Thời gian này Hồ Chí
Minh thường đưa Tăng Tuyết Minh đến nhà hàng của ông Bào để gặp phu nhân
họ Bào và tranh thủ ý kiến của bà về việc hôn nhân của họ. Phu nhân họ
Bào nhiệt liệt tán thành việc kết hôn của họ. Thế nhưng bà mẹ Tăng Tuyết
Minh ngay từ đầu không đồng ý cuộc hôn nhân này vì thấy Hồ Chí Minh là
một nhà cách mạng phiêu lưu bạt xứ, ở không định nơi, con gái lấy người
như vậy rồi sẽ khổ đau một đời. Đúng vào lúc ấy người anh hai của Tăng
Tuyết Minh là Tăng Cẩm Tương, sau một thời gian sang Mỹ học tập đã trở
về Quảng Châu. Anh gặp Hồ Chí Minh, dùng tiếng Anh trò chuyện, thấy Hồ
Chí Minh có học vấn rất tốt, lão luyện và cẩn trọng, lại tâm huyết với
sự nghiệp, vì thế anh đã thuyết phục bà mẹ đồng ý với cuộc hôn nhân
này.”
“Hồ Chí Minh gặp Tăng Tuyết Minh luôn
luôn. Một mặt, cố nhiên, anh thích tính giản dị, đoan trang, thông minh,
chăm chỉ của cô gái ; mặt khác anh cũng cảm thấy cô còn non nớt, cần
phải giác ngộ chân lí cách mạng hơn, hiểu đời hơn nữa và nâng cao năng
lực hoạt động hơn. Vì vậy anh động viên Tuyết Minh thôi việc nữ hộ sinh ở
cơ sở dịch vụ y tế và tham gia học tập ở một lớp huấn luyện vận động
phụ nữ. Lúc ấy Ban phụ vận của Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc do Hà
Hương Nghi chủ trì, đang dự định mở một cơ sở huấn luyện vận động phụ
nữ tại Quảng Châu nhằm bồi dưỡng cán bộ phụ nữ trong nước. Hồ Chí Minh
thông qua sự quen biết trực tiếp với các vị Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu,
Lí Phú Xuân, Thái Sướng, xin được hai suất cho Tăng Tuyết Minh và Lương
Huệ Quần cùng vào học lớp huấn luyện vận động phụ nữ. Kì ấy, lớp khai
giảng ngày 16 tháng 9 năm 1926 và kết thúc vào ngày 16 tháng 3 năm 1927,
thời gian học tập là nửa năm. Quảng Châu thời ấy là trung tâm của cách
mạng Trung Quốc. Trong quá trình lớp huấn luyện phụ vận tiến hành, người
ta chẳng những đã mời không ít các đồng chí có trách nhiệm của Đảng
cộng sản Trung Quốc đến giảng mà còn tổ chức cho học viên tham gia các
hoạt động xã hội. Nhờ được học tập, quả nhiên Tăng Tuyết Minh tiến bộ
rất nhanh, trong khoá học, được bạn đồng học là Trịnh Phúc Như giới
thiệu, cô đã gia nhập Đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa.”
“Do Hồ Chí Minh lại thúc giục nên hôn
lễ của hai người đã được cử hành vào tháng 10 năm 1926. Lúc ấy Hồ Chí
Minh 36 tuổi, còn Tăng Tuyết Minh 21. Địa điểm tổ chức hôn lễ là nhà
hàng Thái Bình trước Ty Tài chính ở trung tâm thành phố. Đó cũng là địa
điểm mà một năm trước đấy Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu mời khách đến dự
lễ kết hôn của mình. Tham dự hôn lễ có phu nhân Bào La Đình, Thái Sướng,
Đặng Dĩnh Siêu và một bộ phận học viên khoá huấn luyện phụ vận. Phu
nhân họ Bào tặng một lẵng hoa tươi. Mấy ngày đầu sau lễ cưới, Hồ Chí
Minh và Tăng Tuyết Minh tạm trú trong Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng
chí hội, vốn là nơi nghỉ ngơi của Hồ Chí Minh. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đang
chủ trì khoá huấn luyện chính trị đặc biệt thứ III của Việt Nam, do học
viên khá đông nên địa điểm học tập đã chuyển từ Tổng bộ Thanh niên cách
mạng đồng chí hội đến phố Nhân Hưng ở đường Đông Cao. Mấy ngày sau Hồ
Chí Minh và Tăng Tuyết Minh dọn đến trú ngụ ở quán của ông Bào, lúc đầu
dùng bếp tập thể, sau tự nấu nướng. Hồ Chí Minh bận rộn công tác, mọi
việc nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán xuyến. Cô chăm sóc chu đáo mọi sự
ăn uống, sinh hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh, giúp cho anh từ tuổi 21
đã xa nhà bôn tẩu, làm “ kẻ phiêu diêu ” góc bể chân trời, thì nay sau
15 năm lại có được cảm giác ấm áp “ ở nhà mình ”. Hồ Chí Minh rất mãn
nguyện về cô vợ Trung Quốc của mình. Sau ngày cưới, Hồ Chí Minh từng
nhiều lần đàm đạo với Lâm Đức Thụ, Lương Huệ Quần về vợ mình, đều nói rõ
điều đó.”
Uyên ương chia lìa đôi ngả
“Thế nhưng phúc chẳng dài lâu. Ngày 12
tháng 4 năm 1927, mới nửa năm sau khi Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh
kết hôn, Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, phát động cuộc chính biến
phản cách mạng tại Thượng Hải, tình thế ở Quảng Châu cũng chuyển biến
theo. Trước đó, chính phủ Quốc dân đã rời tới Vũ Hán. Trụ sở của đoàn cố
vấn Lao Liên cũng rời tới Vũ Hán. Và tất nhiên, Hồ Chí Minh cũng phải
chuyển đến Vũ Hán. Trung tuần tháng 5, Hồ Chí Minh lưu luyến chia tay
với Tăng Tuyết Minh, trước lúc lên đường dặn đi dặn lại Tăng Tuyết Minh :
“ Em phải bảo trọng, đợi tin tức của anh ; ổn định nơi chốn một chút là
anh đón em ngay ”. Thế rồi, Hồ Chí Minh rời Quảng Châu, chuyển đến Vũ
Hán, rồi lại chuyển đến Thượng Hải, đi đường Hải Sâm Uy, khoảng giữa
tháng 6 năm 1927 đến Mạc Tư Khoa. Sau đó, Hồ Chí Minh lại vội vàng đến
Đức, Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Italia… tạm ngừng công tác, cuối cùng, tháng 8
năm 1929, đến Thái Lan.”
Lev Trotsky và Nguyễn Ái Quốc năm 1924 ở Moskva
“Do Tưởng Giới Thạch phản bội, thành
Quảng Châu rơi vào giữa một cuộc khủng bố trắng. Sau khi chia tay với Hồ
Chí Minh, Tăng Tuyết Minh một mình về sống với mẹ và những người thân.
Trong hai năm, từ tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm 1929, Tăng Tuyết Minh
vào trường Anh văn Kiêm Bá và trường Trung học nữ sinh Tân Á học tập.
Thời gian đầu, cô còn giữ được liên hệ với một số đồng chí cách mạng
quen biết ở cơ sở huấn luyện phụ vận. Về sau do Quốc dân đảng ngày càng
đàn áp tàn bạo các đảng viên cộng sản, các đồng chí mà Tăng Tuyết Minh
quen biết đều rời Quảng Châu, mối liên hệ về tổ chức của cô với đoàn
viên Đoàn Thanh niên xã hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng bị gián đoạn.
Tháng 7 năm 1929, Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, về quê nhà của mẹ ở
Thuận Đức, làm nữ hộ sinh tại một trạm y tế tư ở thị trấn Lặc Lưu. Đầu
năm 1930, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh ở y xá Quần An của Dư Gia
Viên, thị trấn Lạc Tòng, huyện Thuận Đức.”
“Thời gian này, Hồ Chí Minh có hai lần
nhờ người mang thư và gửi thư liên hệ với Tăng Tuyết Minh, nhưng đều
không kết quả. [...] Sau khi đến Thái Lan, Người lấy tên là Đào Cửu,
tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trên đất Thái Lan.
[...] đã hơn một năm Hồ Chí Minh li biệt với Tăng Tuyết Minh, nhớ nhung
da diết. Nơi đây cách Trung Quốc tương đối gần, nhờ người chuyển thư
cũng tiện, bèn cầm bút viết thư cho Tăng Tuyết Minh. Hồ Chí Minh cũng
nghĩ đến thời cuộc biến loạn, tình huống thiên biến vạn hoá, thư có đến
được tay vợ hay không, thật khó dự đoán. Vì vậy, anh quyết định dùng lời
lẽ ngắn gọn, hàm súc viết một bức thư ngắn, bảo cho biết mình vẫn bình
an và thăm hỏi người thân. Nội dung bức thư đó như sau : “ Từ ngày chia
tay với em, đã hơn một năm trôi qua. Nhớ thương khắc khoải, chẳng nói
cũng hiểu. Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng thư để em yên tâm, đó là
điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc mẫu vạn phúc. Anh trai vụng về, Thuỵ
”.
Thư gửi Tăng Tuyết Minh bị Mật thám
Đông Dương chặn được ngày 14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix en
Provence). Xuất xứ : Daniel Hémery, HO CHI MINH De L’Indochine au
Vietnam, Gallimard, Paris 1990, tr.145.
PHIÊN ÂM : Dữ muội tương biệt,
chuyển thuấn niên dư, hoài niệm tình thâm, bất ngôn tự hiểu. Tư nhân
hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng/sở vọng.
Tinh thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thuỵ.
DỊCH : Cùng em xa cách Đã hơn một
năm Thương nhớ tình thâm Không nói cũng rõ. Cánh hồng thuận gió Vắn tắt
vài dòng Để em an lòng Ấy anh ngưỡng vọng. Và xin kính chúc Nhạc mẫu vạn
phúc. Anh ngu vụng : Thuỵ (Bản dịch của N.H. Thành)
“ [...] Không rõ người mang thư sơ
suất, hay là anh ta vốn dĩ không thể tin cậy, mà bức thư đó đã nhanh
chóng lọt vào tay cơ quan mật thám Pháp ở Đông Dương, cuối cùng thành
vật lưu trữ tại Cục hồ sơ can án quốc gia của nước Pháp. Năm 1990, trong
dịp kỉ niệm 100 năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
Gallimard ở Pháp đã cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Hồ Chí Minh – từ Đông
Dương đến Việt Nam, giữa tranh ảnh minh hoạ trong sách có bản in chụp
bức thư bằng Trung văn nói trên của Hồ Chí Minh gửi cho vợ, với những
dòng thuyết minh : “ Thư của Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết cho
vợ. Chuyển tới cơ quan đặc vụ Đông Dương ngày 14 tháng 8 năm 1928 ”.
[...] Một tác giả tên là Bùi Đình Kế trên báo Nhân Dân của Việt Nam, số
ra ngày 19 tháng 5 năm 1991 đã dẫn lại bức thư đó trong bài nhan đề Về
một tài liệu liên quan sinh hoạt cá nhân của Nguyễn Ái Quốc. Bài báo đã
phân tích và phỏng đoán bức thư đó liệu có phải của Hồ Chí Minh hay
không. Tuy nhiên, đã không đưa ra được kết luận rõ ràng. Thực ra, bức
thư đó chính xác là do Hồ Chí Minh viết. Một là, đối chiếu với những thư
cảo Trung văn của Hồ Chí Minh thì bức thư đó hoàn toàn ăn khớp với bút
tích của người. Hai là, lúc Hồ Chí Minh viết bức thư đó cách thời điểm
chia tay với Tăng Tuyết Minh đúng là hơn một năm như nói ở trong thư. Ba
là, tên kí dưới thư Thuỵ đúng là bí danh Hồ Chí Minh dùng trong thời
gian ở Quảng Châu. Bốn là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất cha, chỉ có mẹ lúc
ấy còn sống, và Hồ Chí Minh nắm rõ điều đó, nên trong thư chỉ vấn an
nhạc mẫu. Căn cứ những điều trên, bức thư đó do Hồ Chí Minh viết, không
còn nghi ngờ gì nữa. Thư viết xong đã rơi vào tay mật thám Pháp, đó là
điều Hồ Chí Minh đã không thể lường trước được.
“Lúc ấy, Hồ Chí Minh công tác ở Thái
Lan đến tận tháng 11 năm 1929. Sau đó, Người được Quốc tế Cộng sản cử
đến Hương Cảng, triệu tập hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản thành
một đảng cộng sản. “ Hội nghị thống nhất ” đã khai mạc tại Hương Cảng
ngày 3 tháng 2 năm 1930, chính thức tuyên bố thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Sau hội nghị, tháng 3 năm đó Hồ Chí Minh trở lại Thái Lan,
tháng 4 lại đến Hương Cảng. Sau, nhiều lần lại từ Hương Cảng đến Thượng
Hải, tiến hành công tác tuyên truyền và tổ chức cách mạng trong Việt
kiều tại tô giới Pháp ở Thượng Hải. Lúc ấy, các đảng viên cộng sản Việt
Nam Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng… cũng đang hoạt động trong Việt kiều ở
Thượng Hải. Đầu tháng 5 năm 1930, Hồ Chí Minh lại viết một bức thư nữa
từ Thượng Hải gửi Tăng Tuyết Minh. Bức thư này gửi qua Quảng Châu cho
Tăng Tuyết Minh lúc ấy đang làm nữ hộ sinh ở cơ sở dịch vụ y tế tại Gia
Dư Viên, thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nội dung yêu cầu Tăng Tuyết
Minh mau mau đến Thượng Hải đoàn tụ. Trong thư có hẹn kì hạn và nói rõ
nếu quá hạn đó mà Tăng Tuyết Minh không đến sẽ đành một mình xuất ngoại.
Thế nhưng, với cả bức thư này nữa, cũng đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn,
Tăng Tuyết Minh cũng không sao nhận được. Tài liệu hồi ức do Tăng Tuyết
Minh viết cũng như lời kể lại của bà qua thư từ trao đổi với tác giả bài
này đều nói tới hoàn cảnh của sự cố này.
“Hoá ra, tháng 7 năm 1929 Tăng Tuyết
Minh sau khi đã rời Quảng Châu, làm nữ hộ sinh ở trạm y tế của bác sĩ Dư
Bác Văn mới mở ra ở thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức, đến cuối năm.
Đầu năm sau, cô lại chuyển đến làm nữ hộ sinh tại y xá Quần An của Sa
Khiếu ở thị trấn Lạc Tòng cũng huyện Thuận Đức. Bức thư của Hồ Chí Minh
chuyển đến cho trạm y tế của Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc Lưu thì lúc ấy
Tăng Tuyết Minh đã rời đi rồi. Trưởng trạm y tế Dư Bác Văn chẳng những
không kịp thời chuyển thư đến Tăng Tuyết Minh mà ngược lại còn tự ý mở
thư trước mặt vợ mình, lại còn gọi thêm cả nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng, xem
trộm nội dung thư, sau đó đem đốt đi. Nửa năm sau khi xảy ra chuyện đó,
Tăng Tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm mẹ và nhận lời mời đến dự lễ
khai trương cơ sở y tế tại nhà một bạn đồng học cũ. Tại đây cô bất ngờ
gặp lại nữ y sĩ Hoàng Nhã Hồng, người đã từng làm việc cùng tại thị trấn
Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nữ y sĩ đó đã đem toàn bộ sự việc tuôn ra hết
ngọn ngành. Lúc ấy so với thời hạn Hồ Chí Minh hẹn gặp nhau ở Thượng
Hải thì đã qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ còn biết kêu khổ khôn nguôi,
nuốt nước mắt vào lòng. Như vậy con người kia đã gieo tại hoạ khiến
Tăng Tuyết Minh mất đi cơ hội được trở lại bên chồng, cũng gây cho cô
một bi kịch suốt đời trong tương lai.”
Luật sư Loseby, người bảo vệ N.A.Q. ở Hồng Kông
“Đến cuối năm 1931, rốt cuộc Tăng Tuyết
Minh cũng có được một cơ hội gặp Hồ Chí Minh nhưng lại là tại toà án
của nhà đương cục Anh ở Hương Cảng xét xử Hồ Chí Minh. Tăng Tuyết Minh
chỉ có thể nhìn thấy Hồ Chí Minh từ rất xa, còn Hồ Chí Minh thì hoàn
toàn không biết vợ mình có mặt tại toà. Cuối những năm 20 – đầu 30 hoàn
cảnh của các nhà cách mạng Việt Nam hoạt động tại Hương Cảng rất tồi tệ.
Trong hàng ngũ cách mạng có kẻ phản bội, các cơ sở bí mật bị phá hoại,
chính quyền thực dân Pháp và nhà đương cục Anh ở Hương Cảng cấu kết với
nhau bắt bớ các chiến sĩ cách mạng. Hồ Tùng Mậu bị các nhà đương cục Anh
bắt rồi giao cho mật thám Pháp “ dẫn độ ” về Việt Nam giam cầm. Hồ Chí
Minh cũng bị các nhà đương cục Anh bắt ngày 5-6-1931, lí do là làm tay
sai cho hội Lao Liên, âm mưu tiến hành hoạt động phá hoại tại Hương
Cảng. Sau khi Hồ Chí Minh bị bắt, Quốc tế Cộng sản thông qua hội Chữ
thập đỏ quốc tế kêu gọi cứu giúp. Tổ chức đó lại mời một luật sư tiến bộ
người Anh ở Hương Cảng là ông Loseby bào chữa cho Hồ Chí Minh. Sau vài
tháng bị giam giữ, Hồ Chí Minh bị đưa ra xét xử. Lần này đến Hương Cảng,
Người lấy bí danh là Tống Văn Sơ. Nhưng sau khi bị bắt nhà đương cục
Anh đã phát hiện đó chính là Lý Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy
rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này, thân mẫu Tăng
Tuyết Minh đang bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú tại cơ sở chữa
bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Đọc được tin toà sẽ xét xử chồng
mình là Lý Thuỵ liền nhờ bạn bè cũ cùng đến toà. Người đến dự thính xét
xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa phòng xử án. Nhìn
thấy hình dáng tiều tuỵ của người chồng xa cách đã năm năm mà lòng khôn
ngăn trăm mối ngổn ngang. Nhưng do khoảng cách khá xa, lại giữa toà án
vợ chồng chẳng những vô phương trò chuyện mà Hồ Chí Minh thậm chí chắc
chắn không hề biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước mắt mình. Tăng Tuyết
Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một trọng phạm
chính trị không được phép thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi dò
nhiều nơi và biết được rằng hội Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby
đang tìm cách cứu Hồ Chí Minh, tình cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành
cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, lòng hoang mang không biết làm sao.
N.A.Q. khoảng năm 1934 khi ra tù, trở lại Moskva.
Bà Tăng Tuyết Minh (ảnh chụp năm 1965, ở tuổi 60)
“Tháng 2 năm 1932, thân mẫu Lương thị
của Tăng Tuyết Minh bệnh nặng qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Tăng Tuyết
Minh chuyển đến công tác ở y xá Quần An ở huyện Đông Hoàn, vốn là cơ cấu
phân chi của y xá Quần An huyện Thuận Đức, vẫn làm nữ hộ sinh. Lúc này,
cha mẹ cô đều đã mất, anh em đông nhưng người thì đi xa, người thì chết
sớm, Tăng Tuyết Minh côi cút độc thân, thật là buồn khổ. Năm 1943, sau
tiết xuân, thầy giáo cũ là Trương Tố Hoa mở tại đường Long Tân ở Quảng
Châu một phòng chẩn trị, có lời mời Tăng Tuyết Minh đến giúp sức. Cô bèn
xin thôi việc ở Đông Hoàn, đến phòng chẩn trị của Trương Tố Hoa làm nữ
hộ sinh và làm việc ở đó cho đến tận ngày (Trung Quốc) giải phóng. Sau
khi nước Trung Quốc mới được thành lập, chính phủ tiến hành cải tạo và
chỉnh đốn các cơ sở kinh tế tư nhân, thành lập các trạm vệ sinh bảo vệ
sức khoẻ tại các khu. Tăng Tuyết Minh hưởng ứng lời kêu gọi của chính
phủ, đã đến công tác tại trạm số 8 ở khu vực phía Tây. Về sau trạm này
đổi gọi là Viện Vệ sinh Kim Hoa (nay là Viện Y học Trung y khu Lệ Loan).
Tăng Tuyết Minh công tác ở đó, hành nghề nữ hộ sinh đến tận năm 1977
khi về hưu.”
Thế là từ sau lần trông thoáng thấy
chồng ở Hương Cảng, không bao giờ Tăng Tuyết Minh gặp lại Nguyễn Ái Quốc
nữa. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình Chủ tịch Hồ Chí
Minh đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng với tóm tắt tiểu sử, bà tin chắc
Hồ Chí Minh chính là chồng mình, nhất là sau khi tìm mua được cuốn
Truyện Hồ Chí Minh (nhà xuất bản Tân Hoa). Bà đã “báo cáo với tổ chức”,
đồng thời gửi mấy bức thư cho chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua đại sứ Việt
Nam tại Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan. Những bức thư ấy “đều như đá chìm
biển khơi (…) thậm chí chúng có được gửi ra khỏi Quảng Châu hay không là
điều còn đáng hoài nghi”. Tuy nhiên, một cán bộ lãnh đạo Quảng Châu đã
tới gặp Tăng Tuyết Minh, trao cho bà lá thư của bà Thái Sướng (một trong
những người đã tới dự tiệc cưới năm 1926 cùng với bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ
của Chu Ân Lai) “chứng thực Hồ Chí Minh chính là Lý Thuỵ cũng tức là
chồng Tăng Tuyết Minh”. Cán bộ này cũng “ giải thích (…) lí do tại sao
không tiện liên lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hy vọng Tăng Tuyết Minh
hiểu và lượng thứ việc này, yên tâm công tác”. Vẫn theo sử gia Hoàng
Tranh thì về phần mình, Hồ Chí Minh đã “từng thông qua Tổng lãnh sự Việt
Nam tại Quảng Châu dò tìm tăm tích của Tăng Tuyết Minh, năm 1960 lại
nhờ Bí thư Trung Nam cục Đào Chú dò tìm dấu vết của bà” song “việc trên
đương nhiên không thể có bất kì kết quả gì ” vì “điều này vào thời ấy
hoàn toàn không kì lạ”.
Bà Tăng Tuyết Minh đã “yên tâm công
tác” cho đến năm 1977 mới về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề nữ hộ
sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đình bà theo đạo Công giáo từ đời ông nội,
và bà “thường xuyên đi lễ ở giáo đường”. Bà “có thói quen ăn uống đạm
bạc, không dùng cá thịt”, cuộc sống “vô cùng giản dị”, “luôn vui vẻ giúp
người”…
“11 giờ 15 phút ngày 14 tháng 11 năm
1991, sau 86 năm trải qua con đường đầy lận đận long đong, tại nơi cư
ngụ [687 đường Long Tân Đông, Quảng Châu], cụ bà Tăng Tuyết Minh đã bình
yên nhắm mắt, thanh thản trút hơi thở cuối cùng”.
Hoàng Tranh
Toàn văn bài này, Hồ Chí Minh với người vợ Trung
Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên số tháng 11-2001 của tạp chí Đông Nam
Á tung hoành (Dọc ngang Đông Nam Á), xuất bản tại Nam Ninh. Tác giả
Hoàng Tranh (Huang Zheng) là nhà sử học, viện phó Viện Khoa học Xã hội
Quảng Tây, tác giả cuốn Hồ Chí Minh với Trung Quốc (Nhà xuất bản Tân
Tinh, Nam Ninh, 1990). Bản dịch của Minh Thắng. Theo thông tin từ Hà
Nội, một tạp chí sử học có ý đăng bài này, những đã bị chặn lại.
*
Đọc thêm:
Không bao giờ đánh đổ được huyền thoại Hồ Chí Minh
QĐND – Chủ Nhật, 15/05/2011, 21:8 (GMT+7)
Bắc Hà (QĐND)
– Tổng kết kinh nghiệm “Diễn biến hòa bình” – tiến hành cuộc “chiến
tranh không có khói súng” ở nhiều nước XHCN, các thế lực thù địch cho
rằng, muốn đánh đổ chế độ xã hội XHCN, thì không chỉ tiến công vào hệ tư
tưởng, cường điệu các sai lầm, khuyết tật của Đảng Cộng sản, của cán bộ
đảng viên mà còn phải “hạ bệ thần tượng”, đánh đổ “huyền thoại” – những
người tiêu biểu nhất cho ý chí cách mạng, khát vọng của nhân dân, trí
tuệ của dân tộc, làm sụp đổ tận gốc niềm tin của quần chúng đối với con
đường cách mạng do Đảng Cộng sản dẫn dắt.
Về Chủ tịch Hồ Chí Minh, những kỳ tích
của Cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp,
đạo đức của Người, đã thật sự là một huyền thoại trong tâm thức của
nhân dân ta và bè bạn quốc tế.
Hằng năm, cứ vào dịp Tháng Năm lịch sử,
cả dân tộc ta vui mừng tổ chức ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh –
người con ưu tú nhất của dân tộc, linh hồn của cách mạng Việt Nam trong
thế kỷ XX; người khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; Người đã cùng Đảng ta lãnh đạo nhân
dân cả nước làm nên Cuộc cách mạng Tháng Tám lịch sử và chống lại những
kẻ thù xâm lược hung bạo nhất thời đại, giành lại độc lập dân tộc, các
quyền công dân và quyền con người cho nhân dân ta, mở ra giai đoạn mới
cho phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cũng trong thời điểm
đó, các thế lực thù địch lại dấy lên làn sóng xuyên tạc, vu cáo, bôi nhọ
thân thế, sự nghiệp, đạo đức của Người, với tham vọng “đánh đổ huyền
thoại Hồ Chí Minh”.
Khác với nhiều năm trước khi các thế
lực thù địch thi nhau nói bậy, chửi càn…, năm nay chúng lại cạnh tranh,
nói xấu nhau theo kiểu “lục súc tranh công” về các thủ đoạn chống Cộng.
Có kẻ nói DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” do linh mục Nguyễn Hữu Lễ, một
thầy tu phá giới và Trần Quốc Bảo, khổ công thực hiện đã không đáp ứng
được cái mà chúng mong đợi, tức là trừ khử được cái huyền thoại về Hồ
Chí Minh… Có kẻ còn cho rằng: DVD là “một thất bại”, vì đã không đánh đổ
được huyền thoại Hồ Chí Minh, trái lại đã “remodel” (làm lại, củng cố)
nó, thậm chí DVD “là một kế hoạch rất tinh vi và thâm độc, kín đáo và
tài tình trong âm mưu duy trì và củng cố cái ngôi thần tượng Hồ Chí Minh
trong lòng người dân Việt Nam và mãi mãi con cháu sau này”…
Việc những kẻ sản xuất ra DVD “Sự thật
về Hồ Chí Minh” do Nguyễn Hữu Lễ và Trần Quốc Bảo tổ chức thực hiện với
nguồn tài chính đáng ngờ thực ra chỉ là những điều nhặt nhạnh, gom góp
lặt vặt, hoặc là “những suy luận chủ quan” theo kiểu “suy bụng ta ra
bụng người”, hoặc những sự kiện chẳng có liên quan gì đến Hồ Chí Minh
“mà chỉ là một sản phẩm chống Hồ Chí Minh, và chống Cộng sản, hoàn toàn
vô giá trị” (Trần Chung Ngọc – Hoa Kỳ). Có người còn cho rằng, sản xuất
DVD này là một thủ đoạn kiếm tiền một cách khéo léo của Nguyễn Hữu Lễ,
Trần Quốc Bảo dựa vào các lực lượng cực hữu trong chính quyền Mỹ và
những kẻ vẫn còn giữ hận thù với cách mạng Việt Nam.
Sau đây là một vài ví dụ chúng dẫn ra
trong DVD này: Về ngày sinh và ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng
cho rằng Bác và những người Cộng sản Việt Nam là những người “không
trung thực”. Nhận định đó hoàn toàn không khách quan, thiếu trí tuệ.
Cũng như nhiều người, nhất là ở một quốc gia phong kiến, lạc hậu trước
đây vì không có giấy khai sinh, không nhớ ngày sinh hoặc vì những lý do
khác nhau, Cụ Hồ chọn ngày 19-5 làm ngày sinh của mình là bình thường,
không có gì là không trung thực cả. Vì ở đây không có động cơ xấu xa
nào. Còn về ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì hoàn toàn không gắn
gì với Người. Về sự kiện này, trước khi có DVD trên một chục năm, Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói: “Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời lúc 9 giờ
47 phút ngày 2-9-1969… Để ngày Bác mất không trùng với ngày vui lớn của
dân tộc, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa III) đã quyết
định công bố Chủ tịch Hồ Chí Minh mất vào lúc 9 giờ 47 phút ngày
3-9-1969. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) cho rằng,
nay cần công bố lại đúng ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời”.
Thêm một ví dụ khác, DVD của Nguyễn Hữu
Lễ và Trần Quốc Bảo cho rằng: “Hồ bị Chủ nghĩa Mác mê hoặc” (trả lời
phỏng vấn của Bùi Tín); “Hồ là tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa Cộng sản”
(trả lời phỏng vấn của Olivier Todd)… Sự thật thì sao? Như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nhiều lần nói rằng, Người lựa chọn Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là
vì học thuyết đó đã trả lời cho Người câu hỏi phải làm gì và làm như
thế nào để cứu nước và giải phóng dân tộc. Đồng thời, Người sẵn sàng
chọn lọc, học hỏi tất cả những tinh hoa trí tuệ của nhân loại, không
phân biệt phương Đông hay phương Tây, kể cả những mặt tích cực của tôn
giáo nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Bản Tuyên ngôn Độc lập do
Người soạn thảo và Tuyên bố vào ngày mồng 2-9-1945 đã trích Tuyên ngôn
Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp
năm 1789 là một ví dụ. Trong một văn kiện khác, Người nói: Học tập Chủ
nghĩa Mác – Lê-nin là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với
mọi người, và đối với bản thân mình,…là để áp dụng một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh thực tế của nước ta”.
Vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh là gì? Các
thế lực thù địch dù có quỷ quyệt, thâm độc đến đâu cũng không thể đánh
đổ được huyền thoại đó, là vì Huyền thoại Hồ Chí Minh là thành quả vĩ
đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX – là sự nghiệp giành và bảo vệ
vững chắc độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mở ra con
đường đưa dân tộc ta, Nhà nước ta, xã hội ta tiếp cận với các giá trị
của nền văn minh nhân loại trong thời đại ngày nay. Đồng thời, bằng
chính sự nghiệp đó dân tộc ta đã góp phần quan trọng mở ra thời đại cách
mạng giải phóng cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.
Huyền thoại đó chính là cuộc đời, sự
nghiệp, trí tuệ, ý chí, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh – một tấm gương
hiếm có trong các vĩ nhân của nhân loại. Người đã dành trọn cả cuộc đời
mình với những hoạt động cách mạng phong phú, đầy gian nan, nguy hiểm vì
dân tộc Việt Nam, vì công cuộc giải phóng các dân tộc thuộc địa và vì
nhân loại.
Huyền thoại đó sẽ không bao giờ có thể
bị đánh đổ, bởi vì những thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng của Người lãnh đạo đã trở thành một trong những
trang lịch sử đẹp nhất, đáng tự hào nhất của dân tộc ta. Huyền thoại đó
sẽ không bao giờ có thể mất đi còn bởi vì đạo đức, lối sống của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là kết tinh văn hóa của dân tộc, là sự hội tụ văn hóa
của cả phương Đông và phương Tây. Hơn nữa, đó còn là một dự báo về một
nền “văn hóa của tương lai” của nhân loại../.
Tôi không thể cảm ơn Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đủ để giúp tôi khôi phục lại cuộc hôn nhân của mình với niềm vui và sự an tâm của nhiều vấn đề gần như dẫn đến ly hôn. Cảm ơn Chúa, tôi đã tổ chức Tiến sĩ EKPEN TEMPLE đúng giờ. Hôm nay tôi có thể nói với bạn rằng Tiến sĩ EKPEN TEMPLE là giải pháp cho vấn đề này trong hôn nhân và mối quan hệ của bạn. Liên lạc với anh ấy tại (ekpentemple@gmail.com)
ReplyDelete