Vừa đi đường vừa kể chuyện
T.LAN
Đi thăm mặt trận
Chuyện này bắt đầu cách đây đã 40 năm về trước. Chúng tôi được nghe kể lại cách đây hơn 10 năm. Tôi nhớ được thế nào xin thuật lại thế ấy.
Năm 1950, ta chuẩn bị đánh quét giặc Pháp ra khỏi đường số 4 và giải phóng biên giới Việt–Trung. Bác định đi thăm mặt trận.
Để Bác đi đỡ mệt, chúng tôi làm một chiếc cáng. Gọi là “cáng” cho vui, chứ sự thật chỉ là một tấm vải thô, hai đầu cột chặt vào một đoạn tre, một người có thể nằm để hai người khiêng. Nhưng Bác bảo: “Thôi dẹp nó đi!”.
Bác cùng chúng tôi đi bộ từ Phủ Chủ tịch ở Tuyên Quang đến mặt trận biên giới, rồi đi ngược đến tỉnh lỵ Cao Bằng, công việc xong lại trở về Tuyên Quang.
Xin thưa rằng, trong câu chuyện này nhiều danh từ chỉ có nghĩa thô sơ thôi. Như “Phủ Chủ tịch” chỉ là một túp nhà sàn, bốn bề phên không vách, làm ở trong rừng, xây dựng một ngày là xong, ở vài tháng rồi lại dời đi nơi khác.
Đối với chúng tôi, cuộc đi này thật vất vả, nhưng cũng thật thú vị.
Đi theo Bác có: một tiểu đội bảo vệ, một thầy thuốc – Bác sĩ Chân, đồng chí Thành với tôi, T. Lan. Muốn đi nhanh Bác cho đội bảo vệ đi trước vài mươi phút, rồi Bác và ba anh em chúng tôi đi sau.
Để tránh máy bay địch, chúng tôi khi thì đi ban đêm, khi thì đi đường rừng. Sáng dậy thật sớm. Đến trưa, hễ gặp một ngọn suối trong, có cây cao bóng mát, có những tảng đá to, thì Bác bảo dừng lại. Giở cơm nắm ra ăn với thịt Việt Minh (một cân thịt vằm với một cân muối và một cân ớt). Ăn xong, mỗi người nằm nghỉ lưng trên một tảng đá, tha hồ mà “vui thú lâm tuyền”. Nghỉ một tiếng đồng hồ rồi lại tiếp tục đi.
Phần thì để giữ bí mật; phần thì không muốn làm phiền đồng bào, mỗi tối, chúng tôi thường đóng quân ở một ngôi đình, ngôi chùa, hoặc một cái lán bỏ hoang. Mấy đống lá cây phủ thêm mấy tấm vải bạt, ở giữa đốt bếp lửa, thế là thành “hành doanh” của đội “phụ tử binh [1] ” chúng tôi.
Tôi còn nhớ một lần đi đêm, trời đã khuya, thì may gặp một cái quán làm bằng vải tấm tranh cột trên bốn cái cọc tre. Ban ngày đồng bào miền núi thường đưa chuối, sắn, mía, khoai, v.v. treo vào đó. Khách qua đường ai muốn ăn thì cứ ăn, ăn hết bao nhiêu, khách tự tính giá phải chăng và tự bỏ tiền vào một cái ống nứa để sẵn ở đó. Tối đến, chủ quán ra thu dọn số hàng còn lại và lấy tiền về, không bao giờ thâm vào vốn. Trước quán có một cái “ghe dài” làm bằng một đoạn cây to và cong queo, gác trên hai chữ X bằng nứa để cho khách ngồi. Bác đặt ba lô xuống, ghé lưng vào ghế, hai chân, hai tay giữ lấy ghế cho khỏi ngã… Một lát sau Bác đã ngủ ngon!
Có đêm, đang đi giữa đường thì nghe máy bay địch ném bom phía trước và phía sau, như chúng muốn chặn đường lính. Nhưng kinh nghiệm cho biết rằng chúng chỉ ném lung tung để phá đường giao thông và doạ các đội vận tải của ta.
Hôm nào trời nắng ráo, thì vừa đi vừa “ngoạn thuỷ du sơn” cũng thích. Nhưng hôm nào trời mưa to thì cũng khổ thật. Các toán vắt “lợi dụng thời cơ” mà tấn công chúng tôi; thêm vào đó là đường trơn, gió rét. Tình cảnh ấy khiến tôi nhớ lại câu đối mà cha tôi thường đọc:
“Đi đường đất thịt trơn như mỡ
Ngồi gốc cây đa rét tận xương”.
Có những đoạn đường đất đỏ, bùn lút mắt cá, đi một bước trượt hai bước. Bác ra lệnh rút dép cao su ra, xắn quần quá đầu gối, tay thì chống gậy mà đi. Trong mấy anh em chúng tôi, bác sĩ Chân đi kém nhất, mà lại có nhiệm vụ phải đi theo kịp Bác. Nhiều khi đồng chí ấy muốn nghỉ chân, nhưng không dám nói. Một buổi sáng, mưa như đê trên trời bị vỡ, sau khi đi được vài tiếng đồng hồ, thì thấy mấy cái nhà nhấp nhô dưới rừng cây cổ thụ. Nỗi lòng không nín được nữa, bác sĩ ta bèn thốt lên một tiếng, chỉ một tiếng mà thôi “Nhà!”.
Bác cười và bảo: “Đúng rồi. Đó là lán của các anh em vận tải đấy…” Chúng tôi hiểu ý Bác, nhìn nhau cười thầm.
Đến đường số 4, đồng chí Tổng tư lệnh đưa một chiếc xe gíp ra đón. Chúng tôi đã mừng và khẽ bảo nhau: “Bây giờ khỏi cuốc bộ rồi!”. Không ngờ Bác bảo đồng chí cán bộ “đưa xe về cho bộ đội dùng chở tiếp tế. Bác đi bộ quen rồi, không cần đi xe”.
Trên đường đi, Bác thường ghé thăm một cách bất thình lình đồng bào các bản làng và các đơn vị bộ đội. Anh em chiến sĩ và cán bộ thấy Bác đến một cách đột ngột, lúc đầu thì ngơ ngác rồi thì mừng quýnh lên, reo hò nhảy nhót, quây quần lấy Bác, có khi quên cả trật tự. Sau khi xem tận nơi bếp nấu, chỗ ở, công tác vệ sinh, Bác thân mật hỏi han thăm sắc khỏe mọi người, dặn dò, phê bình, khuyến khích mấy lời như cha nói với đàn con, rồi lại tiếp tục đi.
Chúng tôi được biết rằng sau những cuộc đến thăm “du kích” của Bác, kết quả là về tinh thần thì bộ đội thêm ngăn nắp và càng chú ý công tác vệ sinh.
Trong chiến dịch này, bộ đội ta tỏ ra rất anh dũng, điều đó ai cũng biết. Đây tôi chỉ muốn nói thêm rằng nhân dân ta cũng anh dũng vô cùng. Đồng bào các dân tộc đi dân công không quản dãi nắng dầm mưa, không quản trèo đèo lội suối, không quản máy bay địch uy hiếp suốt ngày, họ luôn luôn vui vẻ, làm tròn nhiệm vụ.
Một hôm, trời hửng sáng, Bác ghé thăm một xóm ở gần đường. Ngoài đồng ruộng thấy mấy trăm chị em dân công, Kinh có, Tày có, Nùng có, Mán có… Người thì vừa nhóm bếp nấu cơm, vừa nói chuyện vui vẻ. Người thì chụm năm chụm ba, đang ngồi dựa lưng vào nhau mà ngủ. Bác hỏi mấy chị đang nhóm lửa: “Các cô cả đêm ngồi ngủ ngoài trời như vậy cả sao?”
Các chị trả lời: “Vâng ạ, nhà đồng bào chật, chỉ đủ chỗ để chứa lương thực của bộ đội khỏi ướt. Các cháu ngủ ngoài đồng thế này càng vui…”.
Bác ôn tồn khen ngợi chị em, rồi bảo chúng tôi: “Bộ đội ta dũng cảm như vậy, nhân dân ta dũng cảm như vậy, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.
Lời nói của Bác đã thành thật. Trận ấy ta thắng to, tiêu diệt được nhiều địch, giải phóng được biên giới, bắt được ba tên quan năm. Ta tạm giữ ba tên quan năm này trong những hang núi, Bác hoá trang làm một cán bộ mới bị thương, lấy vải băng che tóc, che râu, rồi đến hỏi chuyện chúng. Tên quan năm thầy thuốc tỏ vẻ hối hận và nói: “Thôi. Thôi! Tôi chán ngấy chiến tranh lắm rồi! Chính phủ Pháp đã tuyên truyền láo toét! Chúng nói Việt Minh chỉ là một nhóm phiến loạn, không có quần chúng ủng hộ… Bây giờ tôi thấy rõ rồi. Nếu được tha về, tôi sẽ nói hết sự thật cho nhân dân Pháp biết…”.
Tên quan năm Lơ–pa–dơ kéo quân từ Lạng Sơn lên hòng cứu thoát quân địch từ Cao Bằng chạy xuống. Nhưng đến nửa đường thì đoàn quân của y bị đánh tan và y bị tóm cổ. Anh chàng này, nói phô, kín đáo. Nhìn ra những đội quân của ta, hàng nghìn người kìn kịt gánh lương thực và đạn dược, liên tiếp nhau trên đường như những con rồng dài uốn khúc, y nói với một giọng buồn bã: “Tôi nhận đó là lực lượng đã làm cho các ông thắng lợi”. Bác nói: “Ông nói đúng. Đó chính là lực lượng đã làm cho các ông thất bại”.
Tên quan năm Sác–tông, chỉ huy quân Pháp ở Cao Bằng, vừa bỏ tỉnh lỵ kéo cả tiểu đoàn định chạy về xuôi, đến nửa đường cũng bị đánh tan và bắt được cả. Y là một tên phát xít hạng nặng. Vừa gặp Bác nó than phiền ngay: “Chà ông nghĩ mấy hôm liền, râu không được cạo, giầy không được đánh bóng…” Nó nói tiếp: “Nếu còn có Thống chế Pê-tanh cầm quyền ở Pháp, thì chắc không xảy ra cuộc chiến tranh này. Nếu có chiến tranh thì quân đội Pháp cũng không đến nỗi thất bại…”.
Bác không ngắt lời nó, mời nó hút thuốc và ôn tồn khơi cho nó nói. Cuối cùng nó cũng phải nhận rằng chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, thực dân Pháp đã thua, quân đội ta thắng. Rồi nó nói thêm: “Như thái độ của ông, thì tôi có thể nói chuyện. Còn các cán bộ trẻ tuổi của ông muốn thuyết phục tôi, thì thuyết phục sao được…”
Sau khi đã xem xét các vùng Đông Khê và Thất Khê, Bác lên thăm thị xã Cao Bằng mới được giải phóng, dặn dò cán bộ những công việc cần phải làm, rồi lại trở về Tuyên Quang.
Trong những ngày đi đường, Bác dạy chúng tôi học những đoạn Kim Vân Kiều và Chinh phụ ngâm, hoặc kể chuyện đời xưa, chuyện tiếu lâm. Vừa đi vừa ngâm nga nói cười như vậy làm cho mọi người khuây khoả, đi đường xa nhưng không mệt mỏi. Cũng có khi Bác kể chuyện cho chúng tôi nghe. Sau đây là tóm tắt câu chuyện Bác đã kể:
Câu chuyện bắt đầu
Chuyện này bắt đầu cách đây đã 40 năm về trước. Chúng tôi được nghe kể lại cách đây hơn 10 năm. Tôi nhớ được thế nào xin thuật lại thế ấy.
Năm 1950, ta chuẩn bị đánh quét giặc Pháp ra khỏi đường số 4 và giải phóng biên giới Việt–Trung. Bác định đi thăm mặt trận.
Để Bác đi đỡ mệt, chúng tôi làm một chiếc cáng. Gọi là “cáng” cho vui, chứ sự thật chỉ là một tấm vải thô, hai đầu cột chặt vào một đoạn tre, một người có thể nằm để hai người khiêng. Nhưng Bác bảo: “Thôi dẹp nó đi!”.
Bác cùng chúng tôi đi bộ từ Phủ Chủ tịch ở Tuyên Quang đến mặt trận biên giới, rồi đi ngược đến tỉnh lỵ Cao Bằng, công việc xong lại trở về Tuyên Quang.
Xin thưa rằng, trong câu chuyện này nhiều danh từ chỉ có nghĩa thô sơ thôi. Như “Phủ Chủ tịch” chỉ là một túp nhà sàn, bốn bề phên không vách, làm ở trong rừng, xây dựng một ngày là xong, ở vài tháng rồi lại dời đi nơi khác.
Đối với chúng tôi, cuộc đi này thật vất vả, nhưng cũng thật thú vị.
Đi theo Bác có: một tiểu đội bảo vệ, một thầy thuốc – Bác sĩ Chân, đồng chí Thành với tôi, T. Lan. Muốn đi nhanh Bác cho đội bảo vệ đi trước vài mươi phút, rồi Bác và ba anh em chúng tôi đi sau.
Để tránh máy bay địch, chúng tôi khi thì đi ban đêm, khi thì đi đường rừng. Sáng dậy thật sớm. Đến trưa, hễ gặp một ngọn suối trong, có cây cao bóng mát, có những tảng đá to, thì Bác bảo dừng lại. Giở cơm nắm ra ăn với thịt Việt Minh (một cân thịt vằm với một cân muối và một cân ớt). Ăn xong, mỗi người nằm nghỉ lưng trên một tảng đá, tha hồ mà “vui thú lâm tuyền”. Nghỉ một tiếng đồng hồ rồi lại tiếp tục đi.
Phần thì để giữ bí mật; phần thì không muốn làm phiền đồng bào, mỗi tối, chúng tôi thường đóng quân ở một ngôi đình, ngôi chùa, hoặc một cái lán bỏ hoang. Mấy đống lá cây phủ thêm mấy tấm vải bạt, ở giữa đốt bếp lửa, thế là thành “hành doanh” của đội “phụ tử binh [1] ” chúng tôi.
Tôi còn nhớ một lần đi đêm, trời đã khuya, thì may gặp một cái quán làm bằng vải tấm tranh cột trên bốn cái cọc tre. Ban ngày đồng bào miền núi thường đưa chuối, sắn, mía, khoai, v.v. treo vào đó. Khách qua đường ai muốn ăn thì cứ ăn, ăn hết bao nhiêu, khách tự tính giá phải chăng và tự bỏ tiền vào một cái ống nứa để sẵn ở đó. Tối đến, chủ quán ra thu dọn số hàng còn lại và lấy tiền về, không bao giờ thâm vào vốn. Trước quán có một cái “ghe dài” làm bằng một đoạn cây to và cong queo, gác trên hai chữ X bằng nứa để cho khách ngồi. Bác đặt ba lô xuống, ghé lưng vào ghế, hai chân, hai tay giữ lấy ghế cho khỏi ngã… Một lát sau Bác đã ngủ ngon!
Có đêm, đang đi giữa đường thì nghe máy bay địch ném bom phía trước và phía sau, như chúng muốn chặn đường lính. Nhưng kinh nghiệm cho biết rằng chúng chỉ ném lung tung để phá đường giao thông và doạ các đội vận tải của ta.
Hôm nào trời nắng ráo, thì vừa đi vừa “ngoạn thuỷ du sơn” cũng thích. Nhưng hôm nào trời mưa to thì cũng khổ thật. Các toán vắt “lợi dụng thời cơ” mà tấn công chúng tôi; thêm vào đó là đường trơn, gió rét. Tình cảnh ấy khiến tôi nhớ lại câu đối mà cha tôi thường đọc:
“Đi đường đất thịt trơn như mỡ
Ngồi gốc cây đa rét tận xương”.
Có những đoạn đường đất đỏ, bùn lút mắt cá, đi một bước trượt hai bước. Bác ra lệnh rút dép cao su ra, xắn quần quá đầu gối, tay thì chống gậy mà đi. Trong mấy anh em chúng tôi, bác sĩ Chân đi kém nhất, mà lại có nhiệm vụ phải đi theo kịp Bác. Nhiều khi đồng chí ấy muốn nghỉ chân, nhưng không dám nói. Một buổi sáng, mưa như đê trên trời bị vỡ, sau khi đi được vài tiếng đồng hồ, thì thấy mấy cái nhà nhấp nhô dưới rừng cây cổ thụ. Nỗi lòng không nín được nữa, bác sĩ ta bèn thốt lên một tiếng, chỉ một tiếng mà thôi “Nhà!”.
Bác cười và bảo: “Đúng rồi. Đó là lán của các anh em vận tải đấy…” Chúng tôi hiểu ý Bác, nhìn nhau cười thầm.
Đến đường số 4, đồng chí Tổng tư lệnh đưa một chiếc xe gíp ra đón. Chúng tôi đã mừng và khẽ bảo nhau: “Bây giờ khỏi cuốc bộ rồi!”. Không ngờ Bác bảo đồng chí cán bộ “đưa xe về cho bộ đội dùng chở tiếp tế. Bác đi bộ quen rồi, không cần đi xe”.
Trên đường đi, Bác thường ghé thăm một cách bất thình lình đồng bào các bản làng và các đơn vị bộ đội. Anh em chiến sĩ và cán bộ thấy Bác đến một cách đột ngột, lúc đầu thì ngơ ngác rồi thì mừng quýnh lên, reo hò nhảy nhót, quây quần lấy Bác, có khi quên cả trật tự. Sau khi xem tận nơi bếp nấu, chỗ ở, công tác vệ sinh, Bác thân mật hỏi han thăm sắc khỏe mọi người, dặn dò, phê bình, khuyến khích mấy lời như cha nói với đàn con, rồi lại tiếp tục đi.
Chúng tôi được biết rằng sau những cuộc đến thăm “du kích” của Bác, kết quả là về tinh thần thì bộ đội thêm ngăn nắp và càng chú ý công tác vệ sinh.
Trong chiến dịch này, bộ đội ta tỏ ra rất anh dũng, điều đó ai cũng biết. Đây tôi chỉ muốn nói thêm rằng nhân dân ta cũng anh dũng vô cùng. Đồng bào các dân tộc đi dân công không quản dãi nắng dầm mưa, không quản trèo đèo lội suối, không quản máy bay địch uy hiếp suốt ngày, họ luôn luôn vui vẻ, làm tròn nhiệm vụ.
Một hôm, trời hửng sáng, Bác ghé thăm một xóm ở gần đường. Ngoài đồng ruộng thấy mấy trăm chị em dân công, Kinh có, Tày có, Nùng có, Mán có… Người thì vừa nhóm bếp nấu cơm, vừa nói chuyện vui vẻ. Người thì chụm năm chụm ba, đang ngồi dựa lưng vào nhau mà ngủ. Bác hỏi mấy chị đang nhóm lửa: “Các cô cả đêm ngồi ngủ ngoài trời như vậy cả sao?”
Các chị trả lời: “Vâng ạ, nhà đồng bào chật, chỉ đủ chỗ để chứa lương thực của bộ đội khỏi ướt. Các cháu ngủ ngoài đồng thế này càng vui…”.
Bác ôn tồn khen ngợi chị em, rồi bảo chúng tôi: “Bộ đội ta dũng cảm như vậy, nhân dân ta dũng cảm như vậy, ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.
Lời nói của Bác đã thành thật. Trận ấy ta thắng to, tiêu diệt được nhiều địch, giải phóng được biên giới, bắt được ba tên quan năm. Ta tạm giữ ba tên quan năm này trong những hang núi, Bác hoá trang làm một cán bộ mới bị thương, lấy vải băng che tóc, che râu, rồi đến hỏi chuyện chúng. Tên quan năm thầy thuốc tỏ vẻ hối hận và nói: “Thôi. Thôi! Tôi chán ngấy chiến tranh lắm rồi! Chính phủ Pháp đã tuyên truyền láo toét! Chúng nói Việt Minh chỉ là một nhóm phiến loạn, không có quần chúng ủng hộ… Bây giờ tôi thấy rõ rồi. Nếu được tha về, tôi sẽ nói hết sự thật cho nhân dân Pháp biết…”.
Tên quan năm Lơ–pa–dơ kéo quân từ Lạng Sơn lên hòng cứu thoát quân địch từ Cao Bằng chạy xuống. Nhưng đến nửa đường thì đoàn quân của y bị đánh tan và y bị tóm cổ. Anh chàng này, nói phô, kín đáo. Nhìn ra những đội quân của ta, hàng nghìn người kìn kịt gánh lương thực và đạn dược, liên tiếp nhau trên đường như những con rồng dài uốn khúc, y nói với một giọng buồn bã: “Tôi nhận đó là lực lượng đã làm cho các ông thắng lợi”. Bác nói: “Ông nói đúng. Đó chính là lực lượng đã làm cho các ông thất bại”.
Tên quan năm Sác–tông, chỉ huy quân Pháp ở Cao Bằng, vừa bỏ tỉnh lỵ kéo cả tiểu đoàn định chạy về xuôi, đến nửa đường cũng bị đánh tan và bắt được cả. Y là một tên phát xít hạng nặng. Vừa gặp Bác nó than phiền ngay: “Chà ông nghĩ mấy hôm liền, râu không được cạo, giầy không được đánh bóng…” Nó nói tiếp: “Nếu còn có Thống chế Pê-tanh cầm quyền ở Pháp, thì chắc không xảy ra cuộc chiến tranh này. Nếu có chiến tranh thì quân đội Pháp cũng không đến nỗi thất bại…”.
Bác không ngắt lời nó, mời nó hút thuốc và ôn tồn khơi cho nó nói. Cuối cùng nó cũng phải nhận rằng chiến tranh xâm lược là phi nghĩa, thực dân Pháp đã thua, quân đội ta thắng. Rồi nó nói thêm: “Như thái độ của ông, thì tôi có thể nói chuyện. Còn các cán bộ trẻ tuổi của ông muốn thuyết phục tôi, thì thuyết phục sao được…”
Sau khi đã xem xét các vùng Đông Khê và Thất Khê, Bác lên thăm thị xã Cao Bằng mới được giải phóng, dặn dò cán bộ những công việc cần phải làm, rồi lại trở về Tuyên Quang.
Trong những ngày đi đường, Bác dạy chúng tôi học những đoạn Kim Vân Kiều và Chinh phụ ngâm, hoặc kể chuyện đời xưa, chuyện tiếu lâm. Vừa đi vừa ngâm nga nói cười như vậy làm cho mọi người khuây khoả, đi đường xa nhưng không mệt mỏi. Cũng có khi Bác kể chuyện cho chúng tôi nghe. Sau đây là tóm tắt câu chuyện Bác đã kể:
Câu chuyện bắt đầu
Hồi đó Bác trọ nhà luật sư Phan Văn Trường ở Pa-ri. Buổi sáng thì đi
làm nghề tô ảnh phóng đại để lấy tiến ăn. Buổi chiều thì hoạt động cách
mạng. Chính phủ Pháp cho hai tên mật thám đêm ngày theo dõi Bác.
Chính phủ Pháp lúc đó do Poanh–ca–rê cầm đầu. Y là một người cực kỳ phản động. Chính y đã chủ trương đánh cách mạng Nga. Khi quân sự đã thất bại, y chủ trương tẩy chay kinh tế Nga. Trong một cuộc tổng tuyển cử hạ nghị viện Pháp y đã cho dán khắp cả nước bức vẽ tuyên truyền chống cộng, dưới nhan đề là “Bônsêvích hai hàm răng ngậm dao”. Trong bức vẽ phía sau là những ngôi nhà đang cháy ngùn ngụt! Phía trước là một người “bônsêvích” mặt mũi dữ tợn, miệng ngậm một cái dao đẫm máu, tay xách cái đầu của một người đàn bà… Vài năm sau, chính Poanh–ca–rê đã chủ trương chiếm đóng khu hầm mỏ Rua của nước Đức.
Đảng Cộng sản Pháp đập lại Poanh–ca–rê một vố cũng khá nặng. Số là Poanh–ca–rê trong khi đến thăm một nghĩa địa có hàng nghìn mộ lính Pháp, thì Poanh–ca–rê nhăn răng cười. Đảng Cộng sản Pháp lấy được bức ảnh đó, cho in ra hàng triệu tấm, dưới nhan đề “Poincaré qui rít” (nghĩa là Poanh–ca–rê nó cười) và bán khắp nước Pháp. Bức ảnh đó đã gây nên một phong trào sôi nổi chống Poanh–ca–rê.
Một buổi trưa đi làm về, một bà già giữ nhà đưa cho Bác một bức thư. Quái! Xưa nay Bác vẫn chưa hề nhận thư gửi đến địa điểm này. Vì đề phòng mật thám, thư từ anh em cho tin tức hoặc bàn công việc đều gửi đến các nhà bạn quen của Bác. Mở thư xem thì ra của quan thượng thư thuộc địa mời Bác đến gặp. Cách vài hôm sau, Bác đi gặp y.
Trong phòng khách của Bộ Thuộc địa, một bầy người Pháp “tai to mặt lớn” đang nhô nhố chờ đến phiên mình được “quan thượng” gọi vào. Nhưng Bác không phải chờ, vừa đến thì liền có ông già mang xiềng bằng bạc (người truyền đạt ở các cơ quan cao cấp) mời vào ngay.
Một gian phòng rộng rãi và lộng lẫy, trưng bày đầy những đồ xưa vật quý mang từ các thuộc địa về. Quan thượng thư, đầu sói như quả bưởi, một mắt mang kính trắng, “uy phong lầm lẫm” ngồi chễm chệ bên một cái bàn rất rộng và chất đầy giấy tờ. Thấy Bác vào, ông ta đứng dậy bắt tay và mời ngồi một cách lễ độ giả dối.
Hai người ngồi đối mặt nhau.
Một người thì đại biểu của chế độ đế quốc thực dân Pháp đang áp bức bóc lột Việt Nam.
Một người là tượng trưng của nhân dân Việt Nam đang bị Pháp đô hộ một cách tàn nhẫn.
Y thì nắm trong tay cả quyền binh kinh tế, chính trị, quân sự, cảnh sát, toà án, trại giam… ở các thuộc địa Pháp.
Bác là một trong 50 triệu người thuộc địa đang bị bọn thực dân Pháp bắt làm nô lệ.
Y có quyền bắt giải Bác về Việt Nam, gắn cho tội tuyên truyền cộng sản, rồi đưa lên máy chém. (Triều đình Việt Nam đã vâng lệnh Pháp mà xử án Bác vắng mặt).
Bác thì chỉ dựa vào lực lượng chính nghĩa và cảm tình của giai cấp công nhân Pháp, nhất là công nhân Pa–ri.
Hai giai cấp, hai chế độ ngồi đối mặt nhau. Thế nhưng Bác cảm thấy ông ta sợ Bác, vì sợ cách mạng và đoán biết rằng ông ta cũng cảm thấy Bác không sợ ông ta, vì cách mạng không sợ cái chế độ do ông ta đại biểu.
Thượng thư thuộc địa mắt thì nhìn Bác chằm chằm, tay thì vẽ trên bàn, miệng thì nói như phun ra lửa. Y nói đại ý như sau:
“Hiện nay, có những kẻ ngông cuồng hoạt động ở Pháp. Họ liên lạc với bọn “bônsêvích” ở Nga. Từ Nga họ liên lạc với Quảng Đông. Vừa từ Quảng Đông họ liên lạc với Việt Nam. Chính phủ Pháp biết hết những dây liên lạc đó! Họ âm mưu phá rối trật tự trị an ở Đông Dương và chống lại nhà nước bảo hộ. Nước Mẹ Đại Pháp rất khoan hồng, nhưng sẽ không tha thứ những kẻ gây rối loạn… Nước Mẹ Đại Pháp đủ sức để bẻ gãy họ, như thế này…”
Nói đến đó, y vẻ mặt hầm hầm, hai tay nắm lại và làm như đang bẻ gãy những vật gì rất cứng rắn – những người cách mạng Việt Nam…
Bác cứ giữ thái độ ung dung, mỉm cười, để mặc y nói. Cái mỉm cười trước những lời đe doạ làm cho thượng thư hỏi: “Ngài nói xong rồi chứ?”.
Là một nhà chính trị cáo già, ông ta đổi giọng và nói một cách ôn tồn:
“Tôi rất thích những thanh niên có chí khí như ông. Có chí khí là tốt, nhưng còn phải ‘thức thời’ mới ngoan. Ô này! Khi nào ông có cần gì tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ ông. Từ nãy, chúng ta đã quen biết nhau, ông không nên khách sáo…”
Bác nói: “Cảm ơn ngài! Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập… Kính ngài ở lại, tôi xin phép về.”
Trên đường về, ngồi trong xe điện dưới hầm (Mê–tờ-rô), Bác cười trong bụng: “Con cáo già thuộc địa đã đoán trúng ý định của mình!”.
Xa chạy cao bay
Cách mạng Tháng Mười vĩ đại có một sức lôi cuốn kỳ diệu vô cùng. Từ khi nghe tin cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công, Bác liền có ý định đi Nga mặc dù lúc đó chưa hiểu hết ý nghĩa cực kỳ to lớn của cuộc cách mạng ấy.
Hồi đó, đi Nga là một việc rất khó khăn và nguy hiểm. Sau khi Hồng quân đã đánh lui bộ đội của 14 nước đế quốc và dẹp xong bọn phản động trong nước, thì Nga lại bị các nước đế quốc bao vây chặt chẽ. Có những người như nhà thơ Pháp là đồng chí Ray–mông Lơ–pho–vơ–rơ cùng mấy anh em công nhân đã mạo hiểm bí mật đi Nga, thì bị bọn phản động quốc tế bắt và thủ tiêu…
Nguy hiểm thì không sợ. Nhưng làm thế nào để giải quyết các khó khăn. Trước hết, làm thế nào để vượt được đoạn đường từ Pa–ri đến biên giới cho khỏi bị mật thám Pháp bắt lại? Làm thế nào để xuyên qua nước Đức và nước Ba Lan.
Ngày thường gần gũi anh em công nhân, Bác biết họ rất khảng khái. Vài thí dụ:
Trong một cuộc mít tinh ở Pa–ri, nhằm quyên góp giúp Nga đang bị đói kém và bệnh hoạn, người diễn thuyết là bà Sơ–vơ–rin, đồng chí Ca–sanh và đồng chí V. Cu–tuya–ri–ê. Khi nghe nói đến lạc quyên, thì trăm người như một, trong túi có bao nhiêu trút ra quyên hết, không ai đến xem mình quyên ít hay là nhiều. Đó là một biểu hiện đồng tình vô sản quốc tế rất cao quý.
Một đồng chí thợ già tên là N. làm ở nhà máy điện thường cùng Bác đi dự các cuộc mít tinh. Một hôm, khi cùng nhau từ cuộc hội họp di về, đồng chí N. thủ thỉ nói với Bác: “Chú mày! Mình suốt đời đi lao động, có dành dụm được chút ít tiền. Mình không vợ không con, bao giờ mình ‘nhắm mắt’ mình để số tiến đó giúp chú làm cách mạng…”
Nay muốn đi Nga, thì chỉ có một cách là nhờ anh em công nhân giúp. Ý định như vậy rồi, Bác tìm làm quen với anh em công nhân xe lửa. Sau nhiều ngày tìm kiếm, thăm dò, Bác đến gặp đồng chí X, làm ở đầu máy xe lửa đi Pa–ri – Bá Linh. Nghe nói Bác muốn đi Nga, đồng chí X vui vẻ nhận giúp ngay. Đồng chí X nói: “Được, chúng tôi sẽ giấu đồng chí ở một chỗ trên xe, bọn mật thám cũng chẳng tìm ra được! Nhưng xe chúng tôi chỉ đi lên Bá Linh thôi…”. Nheo mắt lại nghĩ ngợi một lát rồi đồng chí X nói tiếp: “Không sao! Tôi sẽ bàn với anh em xe lửa Đức giúp cho đồng chí…”
Thế là bước đầu đã thành công. Nhưng khó khăn vẫn còn không ít. Làm thế nào để bỏ rơi bọn mật thám ngày đêm theo mình như bóng theo hình? Anh em công nhân Đức có thể giúp, nhưng công nhân Ba Lan sẽ sẵn sàng giúp mình chăng? Và ai sẽ phụ trách tờ báo Paria [2] ?. Các đồng chí Á – Phi người thì giúp bài, kẻ thì giúp tiền làm báo, nhưng cần có gia đình bận bịu như mình để phụ trách mọi việc: như đi góp tiền, đi giục bài, bí mật gửi báo đến các thuộc địa, bán báo để tuyên truyền ngay ở Pa-ri… Thật là “ngổn ngang trăm mối bên lòng!”.
Quanh quẩn mấy tháng, kế hoạch chưa xong, thì một hôm được Trung ương Đảng Cộng sản Pháp gọi đến và bảo: “Đồng chí sẽ được đi dự đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản với danh nghĩa là đại biểu dân tộc thuộc địa”.
Tin mừng đó làm cho Bác sung sướng ngất trời!
Bọn mật thám nắm vững “quy luật” hoạt động của Bác: Sáng đi làm công. Chiều đến thư viện. Tối dự mít tinh. Khuya về nhà ngủ…
Bác cũng nắm vững quy luật “hoạt động” của chúng: Chúng chỉ theo Bác từ nhà trọ đến chỗ làm việc, đến chỗ xem sách, đến nơi hội họp. Sau đó tin chắc rằng Bác chẳng đi đâu mất, chúng về nhà chúng để vui thú gia đình.
Hôm đó, hai tay đút túi, Bác ung dung lên xe buýt đi tham gia cuộc mít tinh ở ngoại ô Pa–ri. Độ nửa giờ sau, Bác lặng lẽ đi quành về ga xe lửa. Một đồng chí tin cẩn đã chờ sẵn ở đó, trao cho Bác một vé xe lửa hạng nhất (vì hạng nhất chỉ có những khách sang trọng, ít bị tình nghi), và một cái va ly con. Bác cố trấn tĩnh, nhưng đến khi xe lửa qua khỏi biên giới Pháp – Đức, trống ngực mới hết phập phồng.
Chắc chắn là bọn mật thám phụ trách gác Bác sẽ được quan thượng thư thuộc địa “thưởng” cho một mẻ nên thân. Mà chính quan thượng thư cũng tức mình đến “ung thư phát bối”.
Khi đi qua địa phận Đức bị quân Pháp chiếm đóng, thì thấy lại những cảnh tượng thực dân. Đối với người Đức, bọn quân phiệt Pháp ở đây cũng vênh váo lên mặt, làm mưa làm gió, y như bọn Pháp ở nước ta… Có mấy người thương binh Pháp lên nhầm toa xe hạng nhất, liền bị một tên quan sáu Pháp khua ba–toong đuổi xuống xe…
Tuy sau chiến tranh đã sáu năm, ở Bá Linh vẫn đói kém dữ (có lẽ ở các nơi khác cũng vậy). Người nào cũng có vẻ xanh xao, vàng vọt! Nạn lạm phát giấy bạc thật là kinh khủng, sớm một giá khác, chiều một giá khác. Đưa giấy bạc mua một tờ báo thì số giấy bạc chắp nhau lại, rộng hơn tờ báo. Cả gia tài bác chỉ vẻn vẹn hơn 1.000 quan Phơ–răng, vậy mà tính ra tiền Đức, Bác đã trở thành người giàu bạc triệu!
Tổ quốc cách mạng
Bác đến Nga vào mùa đông. Mọi vật đều bị tuyết phủ trắng xoá như một thế giới bằng bạc. Có ngày rét đến 42 độ dưới 0.
Đại hội Quốc tế Cộng sản hoãn chưa khai, vì Lê–nin còn ốm nặng.
Hôm 21-1-1924, một cơn gió thảm mưa sầu đã chấn động toàn thể nhân dân Nga, cũng như nhân dân lao động và dân tộc bị áp bức cả thế giới: Lê–nin, người thầy, người bạn, người đồng chí kính yêu của chúng ta mất rồi!
Cuối tháng 8–1918, trong lúc đến nói chuyện ở một cuộc mít tinh của công nhân nhà máy tại thành phố Pe–tec–bua (nay là Lê–nin–gờ-rát) Lê–nin bị một tên phản động bắn bị thương nặng. Từ đó về sau, Lê–nin thường bị yếu, nhưng vẫn cố gắng làm việc đến hơi thở cuối cùng.
Nghe tin buồn đó, nhiều người oà lên khoác. Bác cũng khóc. Kể sao cho xiết tình thương tiếc không bờ bến của những người lao động đối với người thầy cách mạng vĩ đại ấy. Biến thương xót thành hành động! Lê–nin mất, nhưng ngọn cờ chủ nghĩa Lê–nin có Đảng Bônsêvích anh hùng nắm vững lá cờ và có hàng triệu người cộng sản khắp thế giới giương cao. Để tỏ tình đoàn kết chặt chẽ và nhiệt liệt ủng hộ Đảng của Lê–nin, hơn 24 vạn công nhân Nga lúc đó đã xin vào Đảng.
Bốn năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất và năm năm nổi loạn, ngoại xâm đã phá hoại nền kinh tế Nga một cách cực kỳ nặng nề. Như so với năm 1913 (tức là năm trước chiến tranh), thì năm 1920:
Công nghiệp nặng nói chung bảy phần chỉ còn một:
Nghề đúc sắt chỉ còn 3% (116.000 tấn);
Than chỉ bằng 1/3;
Dầu lửa chỉ bằng 2/5;
Nghề dệt vải chỉ còn 5%, phần mỗi người không đầy một thước.
Cuối năm 1924, đầu năm 1925, tuy kinh tế đã bước đầu khôi phục, nhưng mức sản xuất vẫn còn kém. So với năm 1913 thì:
Tổng sản lượng công nghiệp mới đạt ba phần tư,
Sắt mới đạt một phần ba,
Gang mới đạt một phần hai,
Giao thông vận tại mới đạt bốn phần năm.
Trong nước vẫn còn hơn mười vạn người thất nghiệp.
Từ năm 1928 bắt đầu kế hoạch năm năm lần thứ nhất, rồi bắt đầu hợp tác hoá nông nghiệp. Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản và tinh thần hăng hái thi đua của nhân dân trong khoảng mươi năm, kinh tế Liên Xô đang tiến lên vùn vụt thì năm 1940, phát xít Đức lại gây ra cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Giữa năm 1941 chúng tiến công Liên Xô. Trong gần năm năm, chúng đã tàn phá của Liên Xô;
1.710 thành thị,
32.000 xí nghiệp
70.000 nông thôn…
Nhắc lại những khó khăn trong thời kỳ trước, để so sánh với những thành tích ngày nay, càng thấy rõ sự cố gắng và sự thắng lợi của Liên Xô vô cùng vĩ đại.
Ngày Bác đến Mốt–cu lần đầu tiên, điều kiện đời sống ở Liên Xô cũng đang rất khó khăn. Những thứ cần dùng hàng ngày như: bánh mì, bơ, thịt, đường, vải, v.v. đều bị hạn chế. Một thí dụ: Người Liên Xô quen uống nước chè với đường, nhưng lúc đó đường rất khan hiếm. Năm thì mười hoạ mỗi gia đình mới được mua chút ít. Người ta phải dùng Xa–kha–rin (một chất hoá học hơi ngòn ngọt) thay thế cho đường. Nhân dân phải nhịn những thứ của ngon vật quý để đưa ra nước ngoài đổi lấy máy móc cho công việc xây dựng. Nhà ở cũng thiếu thốn… Tuy vậy không ai than phiền oán trách; trái lại mọi người đều cố gắng để vượt qua khó khăn để ra sức xây dựng.
Có thể nói: Hồi đó mức sống của người lao động Liên Xô và của người lao động Đức cũng kham khổ như nhau. Nhưng có những điều tuyệt đối khác nhau, giữa nhân dân hai nước:
Chính phủ Pháp lúc đó do Poanh–ca–rê cầm đầu. Y là một người cực kỳ phản động. Chính y đã chủ trương đánh cách mạng Nga. Khi quân sự đã thất bại, y chủ trương tẩy chay kinh tế Nga. Trong một cuộc tổng tuyển cử hạ nghị viện Pháp y đã cho dán khắp cả nước bức vẽ tuyên truyền chống cộng, dưới nhan đề là “Bônsêvích hai hàm răng ngậm dao”. Trong bức vẽ phía sau là những ngôi nhà đang cháy ngùn ngụt! Phía trước là một người “bônsêvích” mặt mũi dữ tợn, miệng ngậm một cái dao đẫm máu, tay xách cái đầu của một người đàn bà… Vài năm sau, chính Poanh–ca–rê đã chủ trương chiếm đóng khu hầm mỏ Rua của nước Đức.
Đảng Cộng sản Pháp đập lại Poanh–ca–rê một vố cũng khá nặng. Số là Poanh–ca–rê trong khi đến thăm một nghĩa địa có hàng nghìn mộ lính Pháp, thì Poanh–ca–rê nhăn răng cười. Đảng Cộng sản Pháp lấy được bức ảnh đó, cho in ra hàng triệu tấm, dưới nhan đề “Poincaré qui rít” (nghĩa là Poanh–ca–rê nó cười) và bán khắp nước Pháp. Bức ảnh đó đã gây nên một phong trào sôi nổi chống Poanh–ca–rê.
Một buổi trưa đi làm về, một bà già giữ nhà đưa cho Bác một bức thư. Quái! Xưa nay Bác vẫn chưa hề nhận thư gửi đến địa điểm này. Vì đề phòng mật thám, thư từ anh em cho tin tức hoặc bàn công việc đều gửi đến các nhà bạn quen của Bác. Mở thư xem thì ra của quan thượng thư thuộc địa mời Bác đến gặp. Cách vài hôm sau, Bác đi gặp y.
Trong phòng khách của Bộ Thuộc địa, một bầy người Pháp “tai to mặt lớn” đang nhô nhố chờ đến phiên mình được “quan thượng” gọi vào. Nhưng Bác không phải chờ, vừa đến thì liền có ông già mang xiềng bằng bạc (người truyền đạt ở các cơ quan cao cấp) mời vào ngay.
Một gian phòng rộng rãi và lộng lẫy, trưng bày đầy những đồ xưa vật quý mang từ các thuộc địa về. Quan thượng thư, đầu sói như quả bưởi, một mắt mang kính trắng, “uy phong lầm lẫm” ngồi chễm chệ bên một cái bàn rất rộng và chất đầy giấy tờ. Thấy Bác vào, ông ta đứng dậy bắt tay và mời ngồi một cách lễ độ giả dối.
Hai người ngồi đối mặt nhau.
Một người thì đại biểu của chế độ đế quốc thực dân Pháp đang áp bức bóc lột Việt Nam.
Một người là tượng trưng của nhân dân Việt Nam đang bị Pháp đô hộ một cách tàn nhẫn.
Y thì nắm trong tay cả quyền binh kinh tế, chính trị, quân sự, cảnh sát, toà án, trại giam… ở các thuộc địa Pháp.
Bác là một trong 50 triệu người thuộc địa đang bị bọn thực dân Pháp bắt làm nô lệ.
Y có quyền bắt giải Bác về Việt Nam, gắn cho tội tuyên truyền cộng sản, rồi đưa lên máy chém. (Triều đình Việt Nam đã vâng lệnh Pháp mà xử án Bác vắng mặt).
Bác thì chỉ dựa vào lực lượng chính nghĩa và cảm tình của giai cấp công nhân Pháp, nhất là công nhân Pa–ri.
Hai giai cấp, hai chế độ ngồi đối mặt nhau. Thế nhưng Bác cảm thấy ông ta sợ Bác, vì sợ cách mạng và đoán biết rằng ông ta cũng cảm thấy Bác không sợ ông ta, vì cách mạng không sợ cái chế độ do ông ta đại biểu.
Thượng thư thuộc địa mắt thì nhìn Bác chằm chằm, tay thì vẽ trên bàn, miệng thì nói như phun ra lửa. Y nói đại ý như sau:
“Hiện nay, có những kẻ ngông cuồng hoạt động ở Pháp. Họ liên lạc với bọn “bônsêvích” ở Nga. Từ Nga họ liên lạc với Quảng Đông. Vừa từ Quảng Đông họ liên lạc với Việt Nam. Chính phủ Pháp biết hết những dây liên lạc đó! Họ âm mưu phá rối trật tự trị an ở Đông Dương và chống lại nhà nước bảo hộ. Nước Mẹ Đại Pháp rất khoan hồng, nhưng sẽ không tha thứ những kẻ gây rối loạn… Nước Mẹ Đại Pháp đủ sức để bẻ gãy họ, như thế này…”
Nói đến đó, y vẻ mặt hầm hầm, hai tay nắm lại và làm như đang bẻ gãy những vật gì rất cứng rắn – những người cách mạng Việt Nam…
Bác cứ giữ thái độ ung dung, mỉm cười, để mặc y nói. Cái mỉm cười trước những lời đe doạ làm cho thượng thư hỏi: “Ngài nói xong rồi chứ?”.
Là một nhà chính trị cáo già, ông ta đổi giọng và nói một cách ôn tồn:
“Tôi rất thích những thanh niên có chí khí như ông. Có chí khí là tốt, nhưng còn phải ‘thức thời’ mới ngoan. Ô này! Khi nào ông có cần gì tôi luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ ông. Từ nãy, chúng ta đã quen biết nhau, ông không nên khách sáo…”
Bác nói: “Cảm ơn ngài! Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập… Kính ngài ở lại, tôi xin phép về.”
Trên đường về, ngồi trong xe điện dưới hầm (Mê–tờ-rô), Bác cười trong bụng: “Con cáo già thuộc địa đã đoán trúng ý định của mình!”.
Xa chạy cao bay
Cách mạng Tháng Mười vĩ đại có một sức lôi cuốn kỳ diệu vô cùng. Từ khi nghe tin cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công, Bác liền có ý định đi Nga mặc dù lúc đó chưa hiểu hết ý nghĩa cực kỳ to lớn của cuộc cách mạng ấy.
Hồi đó, đi Nga là một việc rất khó khăn và nguy hiểm. Sau khi Hồng quân đã đánh lui bộ đội của 14 nước đế quốc và dẹp xong bọn phản động trong nước, thì Nga lại bị các nước đế quốc bao vây chặt chẽ. Có những người như nhà thơ Pháp là đồng chí Ray–mông Lơ–pho–vơ–rơ cùng mấy anh em công nhân đã mạo hiểm bí mật đi Nga, thì bị bọn phản động quốc tế bắt và thủ tiêu…
Nguy hiểm thì không sợ. Nhưng làm thế nào để giải quyết các khó khăn. Trước hết, làm thế nào để vượt được đoạn đường từ Pa–ri đến biên giới cho khỏi bị mật thám Pháp bắt lại? Làm thế nào để xuyên qua nước Đức và nước Ba Lan.
Ngày thường gần gũi anh em công nhân, Bác biết họ rất khảng khái. Vài thí dụ:
Trong một cuộc mít tinh ở Pa–ri, nhằm quyên góp giúp Nga đang bị đói kém và bệnh hoạn, người diễn thuyết là bà Sơ–vơ–rin, đồng chí Ca–sanh và đồng chí V. Cu–tuya–ri–ê. Khi nghe nói đến lạc quyên, thì trăm người như một, trong túi có bao nhiêu trút ra quyên hết, không ai đến xem mình quyên ít hay là nhiều. Đó là một biểu hiện đồng tình vô sản quốc tế rất cao quý.
Một đồng chí thợ già tên là N. làm ở nhà máy điện thường cùng Bác đi dự các cuộc mít tinh. Một hôm, khi cùng nhau từ cuộc hội họp di về, đồng chí N. thủ thỉ nói với Bác: “Chú mày! Mình suốt đời đi lao động, có dành dụm được chút ít tiền. Mình không vợ không con, bao giờ mình ‘nhắm mắt’ mình để số tiến đó giúp chú làm cách mạng…”
Nay muốn đi Nga, thì chỉ có một cách là nhờ anh em công nhân giúp. Ý định như vậy rồi, Bác tìm làm quen với anh em công nhân xe lửa. Sau nhiều ngày tìm kiếm, thăm dò, Bác đến gặp đồng chí X, làm ở đầu máy xe lửa đi Pa–ri – Bá Linh. Nghe nói Bác muốn đi Nga, đồng chí X vui vẻ nhận giúp ngay. Đồng chí X nói: “Được, chúng tôi sẽ giấu đồng chí ở một chỗ trên xe, bọn mật thám cũng chẳng tìm ra được! Nhưng xe chúng tôi chỉ đi lên Bá Linh thôi…”. Nheo mắt lại nghĩ ngợi một lát rồi đồng chí X nói tiếp: “Không sao! Tôi sẽ bàn với anh em xe lửa Đức giúp cho đồng chí…”
Thế là bước đầu đã thành công. Nhưng khó khăn vẫn còn không ít. Làm thế nào để bỏ rơi bọn mật thám ngày đêm theo mình như bóng theo hình? Anh em công nhân Đức có thể giúp, nhưng công nhân Ba Lan sẽ sẵn sàng giúp mình chăng? Và ai sẽ phụ trách tờ báo Paria [2] ?. Các đồng chí Á – Phi người thì giúp bài, kẻ thì giúp tiền làm báo, nhưng cần có gia đình bận bịu như mình để phụ trách mọi việc: như đi góp tiền, đi giục bài, bí mật gửi báo đến các thuộc địa, bán báo để tuyên truyền ngay ở Pa-ri… Thật là “ngổn ngang trăm mối bên lòng!”.
Quanh quẩn mấy tháng, kế hoạch chưa xong, thì một hôm được Trung ương Đảng Cộng sản Pháp gọi đến và bảo: “Đồng chí sẽ được đi dự đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản với danh nghĩa là đại biểu dân tộc thuộc địa”.
Tin mừng đó làm cho Bác sung sướng ngất trời!
Bọn mật thám nắm vững “quy luật” hoạt động của Bác: Sáng đi làm công. Chiều đến thư viện. Tối dự mít tinh. Khuya về nhà ngủ…
Bác cũng nắm vững quy luật “hoạt động” của chúng: Chúng chỉ theo Bác từ nhà trọ đến chỗ làm việc, đến chỗ xem sách, đến nơi hội họp. Sau đó tin chắc rằng Bác chẳng đi đâu mất, chúng về nhà chúng để vui thú gia đình.
Hôm đó, hai tay đút túi, Bác ung dung lên xe buýt đi tham gia cuộc mít tinh ở ngoại ô Pa–ri. Độ nửa giờ sau, Bác lặng lẽ đi quành về ga xe lửa. Một đồng chí tin cẩn đã chờ sẵn ở đó, trao cho Bác một vé xe lửa hạng nhất (vì hạng nhất chỉ có những khách sang trọng, ít bị tình nghi), và một cái va ly con. Bác cố trấn tĩnh, nhưng đến khi xe lửa qua khỏi biên giới Pháp – Đức, trống ngực mới hết phập phồng.
Chắc chắn là bọn mật thám phụ trách gác Bác sẽ được quan thượng thư thuộc địa “thưởng” cho một mẻ nên thân. Mà chính quan thượng thư cũng tức mình đến “ung thư phát bối”.
Khi đi qua địa phận Đức bị quân Pháp chiếm đóng, thì thấy lại những cảnh tượng thực dân. Đối với người Đức, bọn quân phiệt Pháp ở đây cũng vênh váo lên mặt, làm mưa làm gió, y như bọn Pháp ở nước ta… Có mấy người thương binh Pháp lên nhầm toa xe hạng nhất, liền bị một tên quan sáu Pháp khua ba–toong đuổi xuống xe…
Tuy sau chiến tranh đã sáu năm, ở Bá Linh vẫn đói kém dữ (có lẽ ở các nơi khác cũng vậy). Người nào cũng có vẻ xanh xao, vàng vọt! Nạn lạm phát giấy bạc thật là kinh khủng, sớm một giá khác, chiều một giá khác. Đưa giấy bạc mua một tờ báo thì số giấy bạc chắp nhau lại, rộng hơn tờ báo. Cả gia tài bác chỉ vẻn vẹn hơn 1.000 quan Phơ–răng, vậy mà tính ra tiền Đức, Bác đã trở thành người giàu bạc triệu!
Tổ quốc cách mạng
Bác đến Nga vào mùa đông. Mọi vật đều bị tuyết phủ trắng xoá như một thế giới bằng bạc. Có ngày rét đến 42 độ dưới 0.
Đại hội Quốc tế Cộng sản hoãn chưa khai, vì Lê–nin còn ốm nặng.
Hôm 21-1-1924, một cơn gió thảm mưa sầu đã chấn động toàn thể nhân dân Nga, cũng như nhân dân lao động và dân tộc bị áp bức cả thế giới: Lê–nin, người thầy, người bạn, người đồng chí kính yêu của chúng ta mất rồi!
Cuối tháng 8–1918, trong lúc đến nói chuyện ở một cuộc mít tinh của công nhân nhà máy tại thành phố Pe–tec–bua (nay là Lê–nin–gờ-rát) Lê–nin bị một tên phản động bắn bị thương nặng. Từ đó về sau, Lê–nin thường bị yếu, nhưng vẫn cố gắng làm việc đến hơi thở cuối cùng.
Nghe tin buồn đó, nhiều người oà lên khoác. Bác cũng khóc. Kể sao cho xiết tình thương tiếc không bờ bến của những người lao động đối với người thầy cách mạng vĩ đại ấy. Biến thương xót thành hành động! Lê–nin mất, nhưng ngọn cờ chủ nghĩa Lê–nin có Đảng Bônsêvích anh hùng nắm vững lá cờ và có hàng triệu người cộng sản khắp thế giới giương cao. Để tỏ tình đoàn kết chặt chẽ và nhiệt liệt ủng hộ Đảng của Lê–nin, hơn 24 vạn công nhân Nga lúc đó đã xin vào Đảng.
Bốn năm chiến tranh thế giới lần thứ nhất và năm năm nổi loạn, ngoại xâm đã phá hoại nền kinh tế Nga một cách cực kỳ nặng nề. Như so với năm 1913 (tức là năm trước chiến tranh), thì năm 1920:
Công nghiệp nặng nói chung bảy phần chỉ còn một:
Nghề đúc sắt chỉ còn 3% (116.000 tấn);
Than chỉ bằng 1/3;
Dầu lửa chỉ bằng 2/5;
Nghề dệt vải chỉ còn 5%, phần mỗi người không đầy một thước.
Cuối năm 1924, đầu năm 1925, tuy kinh tế đã bước đầu khôi phục, nhưng mức sản xuất vẫn còn kém. So với năm 1913 thì:
Tổng sản lượng công nghiệp mới đạt ba phần tư,
Sắt mới đạt một phần ba,
Gang mới đạt một phần hai,
Giao thông vận tại mới đạt bốn phần năm.
Trong nước vẫn còn hơn mười vạn người thất nghiệp.
Từ năm 1928 bắt đầu kế hoạch năm năm lần thứ nhất, rồi bắt đầu hợp tác hoá nông nghiệp. Nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản và tinh thần hăng hái thi đua của nhân dân trong khoảng mươi năm, kinh tế Liên Xô đang tiến lên vùn vụt thì năm 1940, phát xít Đức lại gây ra cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Giữa năm 1941 chúng tiến công Liên Xô. Trong gần năm năm, chúng đã tàn phá của Liên Xô;
1.710 thành thị,
32.000 xí nghiệp
70.000 nông thôn…
Nhắc lại những khó khăn trong thời kỳ trước, để so sánh với những thành tích ngày nay, càng thấy rõ sự cố gắng và sự thắng lợi của Liên Xô vô cùng vĩ đại.
Ngày Bác đến Mốt–cu lần đầu tiên, điều kiện đời sống ở Liên Xô cũng đang rất khó khăn. Những thứ cần dùng hàng ngày như: bánh mì, bơ, thịt, đường, vải, v.v. đều bị hạn chế. Một thí dụ: Người Liên Xô quen uống nước chè với đường, nhưng lúc đó đường rất khan hiếm. Năm thì mười hoạ mỗi gia đình mới được mua chút ít. Người ta phải dùng Xa–kha–rin (một chất hoá học hơi ngòn ngọt) thay thế cho đường. Nhân dân phải nhịn những thứ của ngon vật quý để đưa ra nước ngoài đổi lấy máy móc cho công việc xây dựng. Nhà ở cũng thiếu thốn… Tuy vậy không ai than phiền oán trách; trái lại mọi người đều cố gắng để vượt qua khó khăn để ra sức xây dựng.
Có thể nói: Hồi đó mức sống của người lao động Liên Xô và của người lao động Đức cũng kham khổ như nhau. Nhưng có những điều tuyệt đối khác nhau, giữa nhân dân hai nước:
- Người Đức phải tự nhận mình là kẻ thua trận trong cuộc chiến
tranh, người Liên Xô thì tự hào mình đã thắng lợi trong cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Người Đức thì buồn rầu. Người Liên Xô thì phấn khởi.
- Nhân dân Đức rất cực khổ, nhưng bên cạnh họ thì bọn thống trị Đức và bọn tư sản nước ngoài sống một cách cực kỳ xa hoa. Nhân dân Liên Xô thì từ trên xuống dưới đều đồng cam cộng khổ, thắt lưng buộc bụng, đoàn kết phấn đấu, để xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó, người Đức sống trong một bầu không khí ảm đạm mịt mù. Người Liên
Xô thì hăng say lao động và trông thấy trước mắt một tương lai hạnh phục
rực rỡ.
Còn bản thân Bác cũng có sự thay đổi lớn. Từ một công nhân nghèo ở Pa–ri sang đến Đức thoắt trở nên một người “triệu phú”. Từ một người có bạc triệu ở Đức sang đến Liên Xô lại trở nên một thành viên chân chính, một người anh em ruột thịt trong đại gia đình vô sản quốc tế. Bác nói: “Từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy trong mình tự do, khoan khoái và sung sướng như lúc bấy giờ. Tuy vậy, chỉ mong đại hội quốc tế sớm họp, để sau đại hội thì được đi hoạt động”. Trong khi chờ đợi, Bác cố gắng học hỏi và xem xét.
Một hôm Bác cùng mấy đồng chí người châu Phi đi thăm một trại nhi đồng có độ 300 em. Mặc dù trong hoàn cảnh thiếu thốn, nhi đồng được đặc biệt săn sóc về mặt vật chất. Về mặt tinh thần, các em cũng rất khôn. Cùng sáng hôm đó có mấy người viết báo Anh và Pháp đến thăm trại. Đối với họ các em giữ đúng lễ độ. Họ hỏi câu gì, các em trả lời câu ấy thế thôi. Các em không thích chuyện trò thân mật với những người “buốc dôi” (tư bản).
Nhưng khi thấy Bác và các đồng chí châu Phi đến, thì các em vui vẻ chạy ùa ra như một đàn chim để hoan nghênh nhiệt liệt các chú, các bác cộng sản.
Một em gái độ sáu bảy tuổi, đẹp và ngoan khẽ hỏi Bác: “Chú ơi chú, mặt mũi bọn đế quốc ra thế nào? Chắc nó xấu lắm nhỉ? Cháu nghe các anh chị nói: Chúng hành hạ cả trẻ con Việt Nam, cháu ghét chúng nó lắm!... Bao giờ về nước, nhờ chú chuyển những cái hôn của các cháu cho các bạn Việt Nam nhé!". Nói xong em ôm choàng hôn Bác và mắt em hơi ướt vì cảm động.
Tháng 6–1924, Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản họp ở Mốt–cu có đại biểu của 49 đảng cộng sản đến dự.
Trong đại hội, vấn đề quan trọng nhất là phân tích tình hình thế giới: Hồi đó, chủ nghĩa tư bản đang đi vào thời kỳ ổn định tương đối và tạm thời. Các đảng xã hội thuộc Quốc tế thứ hai đi đầu hàng giai cấp tư sản. Có đảng cộng sản đã phạm một số sai lầm trong phương pháp hoạt động… Vì vậy, đại hội đặc biệt nhấn mạnh vấn đề Mặt trận thống nhất giữa hàng ngũ công nhân, và yêu cầu các đảng cộng sản theo đúng chủ nghĩa bônsêvích về các mặt tư tưởng, tổ chức và sách lược…
Phát biểu ý kiến, Bác trình bày trước đại hội tình hình chung của các nước đế quốc và các nước thuộc địa, cùng tình hình riêng của Đông Dương; nêu những việc các đảng cộng sản đã làm được và những điều thiếu sót đối với phong trào cách mạng ở các thuộc địa. Kết luận, Bác đề ra năm yêu cầu đối với Đảng Cộng sản Pháp.
Còn bản thân Bác cũng có sự thay đổi lớn. Từ một công nhân nghèo ở Pa–ri sang đến Đức thoắt trở nên một người “triệu phú”. Từ một người có bạc triệu ở Đức sang đến Liên Xô lại trở nên một thành viên chân chính, một người anh em ruột thịt trong đại gia đình vô sản quốc tế. Bác nói: “Từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy trong mình tự do, khoan khoái và sung sướng như lúc bấy giờ. Tuy vậy, chỉ mong đại hội quốc tế sớm họp, để sau đại hội thì được đi hoạt động”. Trong khi chờ đợi, Bác cố gắng học hỏi và xem xét.
Một hôm Bác cùng mấy đồng chí người châu Phi đi thăm một trại nhi đồng có độ 300 em. Mặc dù trong hoàn cảnh thiếu thốn, nhi đồng được đặc biệt săn sóc về mặt vật chất. Về mặt tinh thần, các em cũng rất khôn. Cùng sáng hôm đó có mấy người viết báo Anh và Pháp đến thăm trại. Đối với họ các em giữ đúng lễ độ. Họ hỏi câu gì, các em trả lời câu ấy thế thôi. Các em không thích chuyện trò thân mật với những người “buốc dôi” (tư bản).
Nhưng khi thấy Bác và các đồng chí châu Phi đến, thì các em vui vẻ chạy ùa ra như một đàn chim để hoan nghênh nhiệt liệt các chú, các bác cộng sản.
Một em gái độ sáu bảy tuổi, đẹp và ngoan khẽ hỏi Bác: “Chú ơi chú, mặt mũi bọn đế quốc ra thế nào? Chắc nó xấu lắm nhỉ? Cháu nghe các anh chị nói: Chúng hành hạ cả trẻ con Việt Nam, cháu ghét chúng nó lắm!... Bao giờ về nước, nhờ chú chuyển những cái hôn của các cháu cho các bạn Việt Nam nhé!". Nói xong em ôm choàng hôn Bác và mắt em hơi ướt vì cảm động.
Tháng 6–1924, Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản họp ở Mốt–cu có đại biểu của 49 đảng cộng sản đến dự.
Trong đại hội, vấn đề quan trọng nhất là phân tích tình hình thế giới: Hồi đó, chủ nghĩa tư bản đang đi vào thời kỳ ổn định tương đối và tạm thời. Các đảng xã hội thuộc Quốc tế thứ hai đi đầu hàng giai cấp tư sản. Có đảng cộng sản đã phạm một số sai lầm trong phương pháp hoạt động… Vì vậy, đại hội đặc biệt nhấn mạnh vấn đề Mặt trận thống nhất giữa hàng ngũ công nhân, và yêu cầu các đảng cộng sản theo đúng chủ nghĩa bônsêvích về các mặt tư tưởng, tổ chức và sách lược…
Phát biểu ý kiến, Bác trình bày trước đại hội tình hình chung của các nước đế quốc và các nước thuộc địa, cùng tình hình riêng của Đông Dương; nêu những việc các đảng cộng sản đã làm được và những điều thiếu sót đối với phong trào cách mạng ở các thuộc địa. Kết luận, Bác đề ra năm yêu cầu đối với Đảng Cộng sản Pháp.
- Báo Đảng thường xuyên đăng những bài về vấn đề thuộc địa;
- Tăng cường tuyên truyền và kết nạp vào Đảng những phần tử cốt ở những thuộc địa có chi bộ Đảng;
- Gửi một số đảng viên ở các thuộc địa đến Mốt–cu học;
- Tổng công hội (thống nhất) Pháp kết nạp những công nhân thuộc địa ở Pháp vào hội, để giáo dục họ;
- Đặt nhiệm vụ cho các đảng viên phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề thuộc địa.
Sau đại hội, những vấn đề đó đều được thực hiện dần dần.
Câu chuyện đến đó, thì trời vừa trưa, bụng cũng đói, Bác bảo: “Phía tay phải đường kia có hang đá. Các chú xem thử có đúng không?”. Chúng tôi chạy đến xem, quả nhiên có một cái hang khá rộng, trông ra xung quanh thì “sơn thuỷ hữu tình”. Vào hang tạm nghỉ, chúng tôi hỏi sao mà Bác đoán biết ở đây có hang? Bác nói: “Những ngày hoạt động bí mật ở vùng Pác Bó, thường đi tìm hang làm địa điểm, cho nên trông thấy ở đâu có rặng cây và mỏm đá hơi khang khác thì đoán biết ở đó có hang."
Chúng tôi dọn cơm nắm ra ăn. Vừa ăn được nửa chừng, bỗng nghe tiếng máy bay địch từ phía xuôi lên. Chúng tôi trèo lên núi xem, thấy cả ba chiếc. Chúng lượn quanh mấy vòng, rồi thay phiên nhau thả bom và bắn liên thanh xuống đường cái. Vì chung quanh nhiều rừng núi, tiếng động cơ tiếng bom và tiếng súng dội lên ầm ầm, long trời chuyển đất. Mười phút sau, thả hết bom, bắn hết đạn, chúng lại chuồn về xuôi.
Trận bắn phá ấy có vẻ hung tợn lắm, nhưng không có kết quả gì. Khi nghe máy bay địch đến, đồng bào dân công kéo nhau đi tạt vào rừng, ngồi nghỉ chờ máy bay địch đi rồi, đồng bào lại ra đường, không chút sợ hãi. Có người còn rủa địch: “Bố tiên sư nó! Nếu ngày nào chúng cũng lên, thì càng tốt, chúng sẽ tốn nhiều đạn, nhiều bom, nhiều xăng”…
Chúng tôi đi một đoạn thì gặp một đội thanh niên đang lấp hố bom, sửa lại đường. Bác hỏi: “Các cháu có sợ máy bay?”. Một cô thanh niên vừa cuốc đất vừa nhanh nhảu trả lời: “Thưa không ạ, các cháu quen rồi, cuốc xẻng của chúng cháu đã nhiều lần thắng máy bay của giặc…”
Trước khi Bác tiếp tục kể chuyện, anh Thành đề nghị: “Nếu Bác kể cho nghe những hoạt động bí mật của Bác thì chắc là thú vị lắm”.
Không đồng ý với anh Thành, bác sĩ Chân nói: “Đã là bí mật thì không nên nói công khai. Anh em cách mạng ở các nước khác có thể còn dùng những cách bí mật đó. Nói ra không lợi”.
Bác bảo: “Chú Chân nói đúng. Thôi, để Bác kể những chuyện không bí mật vậy”.
Sau Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản, Bác còn dự các cuộc Đại hội Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Nông dân, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ.
Ở Đại hội Quốc tế Phụ nữ, Bác đã gặp nhiều nữ đồng chí Bônsêvich, trong đó có đồng chí Cơ–rúp–scai–a (vợ Lê-nin). Đồng chí Cờ-rúp–scai–a rất chất phác, hiền lành, khiêm tốn và nói tiếng Pháp rất thành thạo. Đồng chí ân cần hỏi Bác về phong trào phụ nữ Việt Nam và nói cho Bác nghe về một số kinh nghiệm về việc hoạt động phụ nữ. Hồi đó đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục.
Sau các cuộc Đại hội đó, Bác bí mật sang Trung Quốc. Lúc đó, Trung Quốc đang ở trong tình trạng lộn xộn. Ở miền Bắc bọn quân Phiệt Ngô Bội Phu, Đoàn Kỳ Thuỵ, Trương Tác Lâm… do các nước đế quốc giật dây – đang đánh nhau lung tung. Ở miền Nam Quốc dân Đảng của cụ Tôn Trung Sơn và Đảng Cộng sản đang hợp tác chặt chẽ, do đó mà phong trào cách mạng đang lên cao. Chính phủ cách mạng (Quốc dân Đảng) đóng ở Quảng Châu đang chuẩn bị tiến quân về phía Bắc.
Bác về đến Quảng Châu thì may lại gặp các đồng chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Thái Xướng (vợ đồng chí Lý), và nhiều đồng chí khác mà Bác đã quen biết lúc ở Pháp. Đồng chí Mao Trạch Đông hồi đó phụ trách trường huấn luyện nông dân. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ phụ trách phong trào công nhân. Đồng chí Bành Bái phụ trách tổ chức nông dân.
Thiên hạ đều biết rõ hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Đây Bác chỉ tóm tắt kể chuyện đồng chí Bành Bái. Tuy xuất thân từ một nhà địa chủ phong kiến kếch xù, đồng chí Bành là một trong những người lập nên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước đó đồng chí đã vận động và tổ chức nông dân ở vùng Hải Lục Phong. Đầu tiên đồng chí vận động những tá điền của bố mình đòi giảm tô, giảm tức, vì vậy mà bị ông cụ ghét bỏ thậm tệ. May nhờ bà cụ cưng con và cô em gái thương anh, mà đồng chí Bành tiếp tục hoạt động được.
Trong thời kỳ đầu, đồng chí Bành đã gặp nhiều thất bại như: mặc áo Tây đến nhà nông dân, họ tránh không chịu gặp vì họ nghĩ “cậu ấm” đến đòi nợ cho bố. Vì hay nói chữ, nông dân nghe không hiểu. Vì gặp phụ nữ cũng nói chuyện, bị nông dân ghen, v.v… Mỗi lần thất bại, đồng chí đều có tìm ra nguyên nhân và sửa chữa ngay. Nhờ có quyết tâm và chịu khó, chẳng bao lâu đồng chí đã tổ chức được nông hội khắp hai huyện đã dùng súng ống đánh nhau với những địa chủ ngoan cố… Khi Quốc dân Đảng phản bội cách mạng, nông hội Hải Lục Phong vẫn đứng vững và đã che chở được nhiều cán bộ bí mật. Công xã Quảng Châu thất bại, đồng chí Bành vâng lệnh Đảng lên hoạt động bí mật ở Thượng Hải, bị bắt và đã oanh liệt hy sinh.
Ở Quảng Châu, Bác vừa làm phiên dịch cho đồng chí Bô–rô–đin, cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ cách mạng Quốc dân Đảng, vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canton Gazette – báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân Đảng.
Đến Quảng Châu được ít lâu, Bác cùng các đồng chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh… tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, chuẩn bị nền tảng cho việc tổ chức Đảng Cộng sản sau này. Với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước đến Quảng Châu học ở lớp huấn luyện chính trị. Hội ra một tờ báo Thanh niên in bằng giấy sáp, bí mật gửi về trong nước để tuyên truyền.
Thế là lời đoán mò cách đây mấy năm trước của “quan thượng thư thuộc địa Pháp” đã thực hiện: Phong trào cách mạng từ Pa–ri sang Mốt–cu, từ Mốt–cu sang Trung Quốc, từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Được các đồng chí Trung Quốc đồng ý, Bác tổ chức “Á châu bị áp bức dân tộc liên hiệp Hội”, hội này có người Việt Nam, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Triều Tiên, v.v… tham gia khá đông và hoạt động khá mạnh. Cụ Liêu Trọng Khải được bầu làm hội trưởng, Bác làm bí thư.
Trong thời kỳ đó, ở Hương Cảng nổ ra cuộc tổng bãi công. Các nhà máy, các bến tàu, các trường học, các chợ búa đều bãi công, bãi thị, bãi khoá. Nông dân chung quanh Hương Cảng thì bị cấm nghiêm ngặt không để tiếp tế lương thực cho người Anh. Đời sống của thực dân Anh bị tê liệt hẳn. Nhiều người Anh và người nước ngoài khác đã cuốn gói Hương Cảng. Cuộc bãi công gần đến thắng lợi hoàn toàn thì phải chấm dứt, vì bọn Tưởng Giới Thạch phản.
Từ năm 1925 đến đầu năm 1927, phong trào cách mạng chung tiến rất thuận lợi. Ở Trung Quốc thì quân “Bắt phạt” Quảng Đông đánh đâu thắng đó. Họ đã lấy được Thượng Hải, Nam Kinh và đang tiến thẳng lên Hoa Bắc. Phong trào công nhân nông dân, học sinh rầm rộ khắp nơi. Ở Việt Nam, thì nhiều thanh niên được huấn luyện ở Quảng Châu đã trở về nước và hăng hái hoạt động bí mật ở nhà máy, nông thông, ở trường học từ Bắc đến Nam.
Vào khoảng đầu năm 1927, bọn Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, thẳng tay khủng bố. Đảng Cộng sản và các đoàn thể quần chúng đều phải đi vào bí mật. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” cũng vậy. Bác cũng phải bí mật rời khỏi Quảng Châu.
Sau ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, cụ Tôn Trung Sơn thấy rõ rằng cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) chưa phải đã thắng lợi. Tuy Trung Quốc đã xoá bỏ chế độ vua chúa nhưng vua Mãn Thanh vẫn giữ “tiểu trào đình” ở Bắc Kinh, bọn đế quốc vẫn hoành hành, bọn quân phiệt vẫn chia nhau thống trị, công nhân và nông dân vẫn bị áp bức bóc lột như xưa. Cụ bèn chấn chỉnh lại Quốc dân Đảng và định ra ba chính sách lớn là: thân Nga, thân cộng, giúp đỡ công nông. Từ đó, lực lượng cách mạng ở Quảng Đông ngày càng phát triển.
Cuối năm 1924, cụ Tôn Trung Sơn lên Bắc Kinh đàm phán với các nhóm chính trị nhằm tìm cách thống nhất Trung Quốc. Chẳng may cụ ốm và chết trước khi khai mạc hội nghị. Bọn Tưởng Giới Thạch và Uông Tinh Vệ lên nắm quyền lãnh đạo Quốc dân Đảng và đến năm 1927, chúng ra mặt phản cách mạng. Cuộc “Quốc cộng hợp tác” lần thứ nhất tan rã. Nội chiến bắt đầu. Đảng Cộng sản đã tổ chức Hồng quân, lập chính quyền Xô Viết ở những vùng mình chiếm được. Đến năm 1931, Nhật Bản xâm lược Trung Quốc. Bọn Tưởng Giới Thạch muốn thoả hiệp đầu hàng. Đảng Cộng sản kêu gọi chấm dứt nội chiến để toàn dân chống Nhật. Dưới sức ép của nhân dân, Quốc dân Đảng buộc phải đồng ý cuộc “Quốc cộng hợp tác” lần thứ hai, nhưng bọn Tưởng-Uông vẫn có âm mưu “dùng Nhật diệt cộng.
Câu chuyện đến đó, thì trời vừa trưa, bụng cũng đói, Bác bảo: “Phía tay phải đường kia có hang đá. Các chú xem thử có đúng không?”. Chúng tôi chạy đến xem, quả nhiên có một cái hang khá rộng, trông ra xung quanh thì “sơn thuỷ hữu tình”. Vào hang tạm nghỉ, chúng tôi hỏi sao mà Bác đoán biết ở đây có hang? Bác nói: “Những ngày hoạt động bí mật ở vùng Pác Bó, thường đi tìm hang làm địa điểm, cho nên trông thấy ở đâu có rặng cây và mỏm đá hơi khang khác thì đoán biết ở đó có hang."
Chúng tôi dọn cơm nắm ra ăn. Vừa ăn được nửa chừng, bỗng nghe tiếng máy bay địch từ phía xuôi lên. Chúng tôi trèo lên núi xem, thấy cả ba chiếc. Chúng lượn quanh mấy vòng, rồi thay phiên nhau thả bom và bắn liên thanh xuống đường cái. Vì chung quanh nhiều rừng núi, tiếng động cơ tiếng bom và tiếng súng dội lên ầm ầm, long trời chuyển đất. Mười phút sau, thả hết bom, bắn hết đạn, chúng lại chuồn về xuôi.
Trận bắn phá ấy có vẻ hung tợn lắm, nhưng không có kết quả gì. Khi nghe máy bay địch đến, đồng bào dân công kéo nhau đi tạt vào rừng, ngồi nghỉ chờ máy bay địch đi rồi, đồng bào lại ra đường, không chút sợ hãi. Có người còn rủa địch: “Bố tiên sư nó! Nếu ngày nào chúng cũng lên, thì càng tốt, chúng sẽ tốn nhiều đạn, nhiều bom, nhiều xăng”…
Chúng tôi đi một đoạn thì gặp một đội thanh niên đang lấp hố bom, sửa lại đường. Bác hỏi: “Các cháu có sợ máy bay?”. Một cô thanh niên vừa cuốc đất vừa nhanh nhảu trả lời: “Thưa không ạ, các cháu quen rồi, cuốc xẻng của chúng cháu đã nhiều lần thắng máy bay của giặc…”
Trước khi Bác tiếp tục kể chuyện, anh Thành đề nghị: “Nếu Bác kể cho nghe những hoạt động bí mật của Bác thì chắc là thú vị lắm”.
Không đồng ý với anh Thành, bác sĩ Chân nói: “Đã là bí mật thì không nên nói công khai. Anh em cách mạng ở các nước khác có thể còn dùng những cách bí mật đó. Nói ra không lợi”.
Bác bảo: “Chú Chân nói đúng. Thôi, để Bác kể những chuyện không bí mật vậy”.
Sau Đại hội lần thứ năm của Quốc tế Cộng sản, Bác còn dự các cuộc Đại hội Quốc tế Công hội đỏ, Quốc tế Nông dân, Quốc tế Phụ nữ, Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Cứu tế đỏ.
Ở Đại hội Quốc tế Phụ nữ, Bác đã gặp nhiều nữ đồng chí Bônsêvich, trong đó có đồng chí Cơ–rúp–scai–a (vợ Lê-nin). Đồng chí Cờ-rúp–scai–a rất chất phác, hiền lành, khiêm tốn và nói tiếng Pháp rất thành thạo. Đồng chí ân cần hỏi Bác về phong trào phụ nữ Việt Nam và nói cho Bác nghe về một số kinh nghiệm về việc hoạt động phụ nữ. Hồi đó đồng chí làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục.
Sau các cuộc Đại hội đó, Bác bí mật sang Trung Quốc. Lúc đó, Trung Quốc đang ở trong tình trạng lộn xộn. Ở miền Bắc bọn quân Phiệt Ngô Bội Phu, Đoàn Kỳ Thuỵ, Trương Tác Lâm… do các nước đế quốc giật dây – đang đánh nhau lung tung. Ở miền Nam Quốc dân Đảng của cụ Tôn Trung Sơn và Đảng Cộng sản đang hợp tác chặt chẽ, do đó mà phong trào cách mạng đang lên cao. Chính phủ cách mạng (Quốc dân Đảng) đóng ở Quảng Châu đang chuẩn bị tiến quân về phía Bắc.
Bác về đến Quảng Châu thì may lại gặp các đồng chí Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Thái Xướng (vợ đồng chí Lý), và nhiều đồng chí khác mà Bác đã quen biết lúc ở Pháp. Đồng chí Mao Trạch Đông hồi đó phụ trách trường huấn luyện nông dân. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ phụ trách phong trào công nhân. Đồng chí Bành Bái phụ trách tổ chức nông dân.
Thiên hạ đều biết rõ hoạt động cách mạng của các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Đây Bác chỉ tóm tắt kể chuyện đồng chí Bành Bái. Tuy xuất thân từ một nhà địa chủ phong kiến kếch xù, đồng chí Bành là một trong những người lập nên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước đó đồng chí đã vận động và tổ chức nông dân ở vùng Hải Lục Phong. Đầu tiên đồng chí vận động những tá điền của bố mình đòi giảm tô, giảm tức, vì vậy mà bị ông cụ ghét bỏ thậm tệ. May nhờ bà cụ cưng con và cô em gái thương anh, mà đồng chí Bành tiếp tục hoạt động được.
Trong thời kỳ đầu, đồng chí Bành đã gặp nhiều thất bại như: mặc áo Tây đến nhà nông dân, họ tránh không chịu gặp vì họ nghĩ “cậu ấm” đến đòi nợ cho bố. Vì hay nói chữ, nông dân nghe không hiểu. Vì gặp phụ nữ cũng nói chuyện, bị nông dân ghen, v.v… Mỗi lần thất bại, đồng chí đều có tìm ra nguyên nhân và sửa chữa ngay. Nhờ có quyết tâm và chịu khó, chẳng bao lâu đồng chí đã tổ chức được nông hội khắp hai huyện đã dùng súng ống đánh nhau với những địa chủ ngoan cố… Khi Quốc dân Đảng phản bội cách mạng, nông hội Hải Lục Phong vẫn đứng vững và đã che chở được nhiều cán bộ bí mật. Công xã Quảng Châu thất bại, đồng chí Bành vâng lệnh Đảng lên hoạt động bí mật ở Thượng Hải, bị bắt và đã oanh liệt hy sinh.
Ở Quảng Châu, Bác vừa làm phiên dịch cho đồng chí Bô–rô–đin, cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ cách mạng Quốc dân Đảng, vừa phụ trách mục tuyên truyền trong tờ báo Canton Gazette – báo bằng chữ Anh của Trung ương Quốc dân Đảng.
Đến Quảng Châu được ít lâu, Bác cùng các đồng chí Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Tản Anh… tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, chuẩn bị nền tảng cho việc tổ chức Đảng Cộng sản sau này. Với sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc, hội bí mật đưa một số thanh niên trong nước đến Quảng Châu học ở lớp huấn luyện chính trị. Hội ra một tờ báo Thanh niên in bằng giấy sáp, bí mật gửi về trong nước để tuyên truyền.
Thế là lời đoán mò cách đây mấy năm trước của “quan thượng thư thuộc địa Pháp” đã thực hiện: Phong trào cách mạng từ Pa–ri sang Mốt–cu, từ Mốt–cu sang Trung Quốc, từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Được các đồng chí Trung Quốc đồng ý, Bác tổ chức “Á châu bị áp bức dân tộc liên hiệp Hội”, hội này có người Việt Nam, người Trung Quốc, người Ấn Độ, người Triều Tiên, v.v… tham gia khá đông và hoạt động khá mạnh. Cụ Liêu Trọng Khải được bầu làm hội trưởng, Bác làm bí thư.
Trong thời kỳ đó, ở Hương Cảng nổ ra cuộc tổng bãi công. Các nhà máy, các bến tàu, các trường học, các chợ búa đều bãi công, bãi thị, bãi khoá. Nông dân chung quanh Hương Cảng thì bị cấm nghiêm ngặt không để tiếp tế lương thực cho người Anh. Đời sống của thực dân Anh bị tê liệt hẳn. Nhiều người Anh và người nước ngoài khác đã cuốn gói Hương Cảng. Cuộc bãi công gần đến thắng lợi hoàn toàn thì phải chấm dứt, vì bọn Tưởng Giới Thạch phản.
Từ năm 1925 đến đầu năm 1927, phong trào cách mạng chung tiến rất thuận lợi. Ở Trung Quốc thì quân “Bắt phạt” Quảng Đông đánh đâu thắng đó. Họ đã lấy được Thượng Hải, Nam Kinh và đang tiến thẳng lên Hoa Bắc. Phong trào công nhân nông dân, học sinh rầm rộ khắp nơi. Ở Việt Nam, thì nhiều thanh niên được huấn luyện ở Quảng Châu đã trở về nước và hăng hái hoạt động bí mật ở nhà máy, nông thông, ở trường học từ Bắc đến Nam.
Vào khoảng đầu năm 1927, bọn Tưởng Giới Thạch phản bội cách mạng, thẳng tay khủng bố. Đảng Cộng sản và các đoàn thể quần chúng đều phải đi vào bí mật. Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” cũng vậy. Bác cũng phải bí mật rời khỏi Quảng Châu.
Sau ngày Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, cụ Tôn Trung Sơn thấy rõ rằng cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) chưa phải đã thắng lợi. Tuy Trung Quốc đã xoá bỏ chế độ vua chúa nhưng vua Mãn Thanh vẫn giữ “tiểu trào đình” ở Bắc Kinh, bọn đế quốc vẫn hoành hành, bọn quân phiệt vẫn chia nhau thống trị, công nhân và nông dân vẫn bị áp bức bóc lột như xưa. Cụ bèn chấn chỉnh lại Quốc dân Đảng và định ra ba chính sách lớn là: thân Nga, thân cộng, giúp đỡ công nông. Từ đó, lực lượng cách mạng ở Quảng Đông ngày càng phát triển.
Cuối năm 1924, cụ Tôn Trung Sơn lên Bắc Kinh đàm phán với các nhóm chính trị nhằm tìm cách thống nhất Trung Quốc. Chẳng may cụ ốm và chết trước khi khai mạc hội nghị. Bọn Tưởng Giới Thạch và Uông Tinh Vệ lên nắm quyền lãnh đạo Quốc dân Đảng và đến năm 1927, chúng ra mặt phản cách mạng. Cuộc “Quốc cộng hợp tác” lần thứ nhất tan rã. Nội chiến bắt đầu. Đảng Cộng sản đã tổ chức Hồng quân, lập chính quyền Xô Viết ở những vùng mình chiếm được. Đến năm 1931, Nhật Bản xâm lược Trung Quốc. Bọn Tưởng Giới Thạch muốn thoả hiệp đầu hàng. Đảng Cộng sản kêu gọi chấm dứt nội chiến để toàn dân chống Nhật. Dưới sức ép của nhân dân, Quốc dân Đảng buộc phải đồng ý cuộc “Quốc cộng hợp tác” lần thứ hai, nhưng bọn Tưởng-Uông vẫn có âm mưu “dùng Nhật diệt cộng.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Năm 1945 trước thế tiến công “như chẻ tre” của Hồng quân Liên Xô, Nhật Bản thất bại phải đầu hàng và chuồn khỏi Trung Quốc. Đế quốc Mỹ giật dây, Tưởng quay lại chống cộng. Nội chiến lại bùng nổ. Sau năm năm chiến đấu vô cùng gian khó và anh dũng, Đảng Cộng sản đã tiêu diệt năm triệu quân của Tưởng, đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi Trung Quốc, và thành lập nước Trung Hoa Dân chủ Cộng hoà.
[1]Nghĩa là quân đội cha và con.
[2]Le Paria – Báo Người cùng khổ
No comments:
Post a Comment